intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lịch sử Khai hoang Vùng Bạc Liêu, Cà Mau xa xôi và phức tạp 4

Chia sẻ: Cao Tt | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

93
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Làm xong con lộ Bạc Liêu, Cà Mau là kiểm soát thêm dân, thâu thêm thuế, lúa gạo đưa về tỉnh lỵ nhanh hơn. Và ở hai bên bờ lộ, đất hoang sẽ có người tới khẩn, nhà nước tha hồ bán đấu giá. Lộ xe làm từng khúc, ngang tổng nào thì dân tổng ấy làm xâu, kinh đào cũng vậy. Thoạt tiên khi có lịnh thì một số đông người đi làm lấy lệ để rồi phản đối ra mặt.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lịch sử Khai hoang Vùng Bạc Liêu, Cà Mau xa xôi và phức tạp 4

  1. Lịch sử Khai hoang Vùng Bạc Liêu, Cà Mau xa xôi và phức tạp 4 Làm xong con lộ Bạc Liêu, Cà Mau là kiểm soát thêm dân, thâu thêm thuế, lúa gạo đưa về tỉnh lỵ nhanh hơn. Và ở hai bên bờ lộ, đất hoang sẽ có người tới khẩn, nhà nước tha hồ bán đấu giá. Lộ xe làm từng khúc, ngang tổng nào thì dân tổng ấy làm xâu, kinh đào cũng vậy. Thoạt tiên khi có lịnh thì một số đông người đi làm lấy lệ để rồi phản đối ra mặt. Nhà nước bắt buộc mỗi người đắp lộ 14 mét bề dài, bề cao 5 tấc và mỗi người đốt đất 7 thước khối, hầm chín. ở làng Vĩnh Mỹ, hương chức làng bắt mỗi người dân xâu đắp đến 28 thước lộ và cung cấp 7 thước khối đất. Làng Hòa Bình và làng Vĩnh Mỹ trở thành trung tâm tranh đấu. Ngày 15/4/1902, dân làng Vĩnh Mỹ làm đơn trình bày là họ chỉ đồng ý làm trọn 2 ngày công sưu
  2. theo luật định mà thôi. Còn việc đốt hầm để trãi đường thì “chúng tôi không biết làm chi mà đốt đủ để trả cho nhà nước, nay chúng tôi đành ở tù” ; 58 người ký tên dưới lá đơn. Hương chức làng đánh trống ở công sở gọi dân tập họp đi làm xâu, 32 người đến và ra mặt chống đối. Hương chức làng hăm he. Họ đưa yêu sách : sẵn sàng làm xâu cho nhà nước 5 ngày, nhưng việc đốt đất thì không. Ngày 15, tại làng Hòa Bình thì không ai chịu đi cả. Viên phó tổng đánh trống thì 39 người tới công sở bảo rằng họ c ương quyết không chịu làm xâu. Một số khác không thèm tựu lại công sở, hỏi thì họ trả lời rằng sợ bị trả thù, vì bọn chống đối hăm he đốt nhà rồi giết những ai đi làm. Viên phó tổng yêu cầu chủ tỉnh phạt bọn chống đối mỗi đứa 8 ngày tù và 10 đồng tiền vạ. Ông Hội đồng quản hạt (thuộc đơn vị Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu) là Hồ Bảo Toàn trình bày với Thống đốc Nam kỳ : — Theo luật định, mỗi người dân chỉ phải làm 2 ngày công sưu nhỏ (phần địa hạt) mà thôi. Nhiều người đã chuộc công sưu, chịu đóng 2 ngày là 5 cắc cọng vào tiền thuế thân rồi. Nay bắt họ đi làm xâu thì nhà nước phải trả lại 5 cắc ấy cho họ.
  3. — Việc đắp lộ và hầm đất vượt quá khả năng của người dân vì tốn nhiều công để đào đất, đốt đất, đập đất cho nhỏ, chở đến lộ rồi trải ra với mớ tro đ ã hầm (tro than củi). Tóm lại, chủ tỉnh Bạc Liêu đã “quá sốt sắng”. Hội đồng quản hạt can thiệp chỉ vì dân 2 làng nói trên gồm 150 người đứng đơn kêu nài gởi thẳng đến Thống đốc Nam kỳ, một việc làm táo bạo lúc bấy giờ vì họ dám trực tiếp chống viên chủ tỉnh Pháp là Chabrier. Dân đưa ra lý lẽ : — Làm xâu chỉ có 2 ngày theo luật mà nay nhà nước lại bắt hầm đất đắp lộ, làm 2 tháng chưa chắc rồi. Hơn nữa, muốn đốt cho xong 7 thước khối đất, dân phải xuất tiền túi ra mà mua củi. — Năm ngoái (1901), nhà nước đã bắt làm xâu mỗi người 2 tháng (mà theo luật định thì chỉ có 2 ngày) để đào kinh Bạc Liêu, Cà Mau mà chẳng thấy nhà nước trả thêm đồng bạc nào. — Làng Hòa Bình là nơi thiếu củi để hầm đất, hầm xong phải chở 10 cây số mới tới lộ xe. — Cai tổng và hương chức làng đòi hối lộ, ai lo lót 15 đồng thì khỏi làm xâu, người nghèo phải đi làm vì không tiền lo.
  4. Ngày 18/4/1902, dân trong 3 làng kéo nhau đ ến trước cửa tòa Bố. Họ bị viên phó tổng và bọn lính mã tà đàn áp, đánh đuổi. Dân làng gởi liên tiếp 3 lá đơn đến Thống đốc Nam kỳ để tố cáo : “Vả chăng quan Chánh bố là quan trong địa hạt mà hiệp với tổng mà khắc khổ dân tình lắm”, dưới đơn có 83 người ký. Rốt cuộc, chủ tỉnh là Chabrier bị Thống đốc rầy rà vì việc làm xâu đã vượt mức luật định và xa thực tế, từ rày về sau “phải tránh những việc tương tự”. Việc đắp đường cứ tiếp tục. Chủ tỉnh nh ượng bộ, hạ mức 7 thước khối đất hầm còn 2 thước khối và khoe khoang rằng mỗi ngày đã huy động từ 10.000 đến 12.000 dân xâu đắp lộ ; theo ông ta thì việc làm xâu quá luật định cũng đã từng xảy ra ở tỉnh Sóc Trăng. Và ở Bạc Liêu chỉ có hai làng là phàn nàn mà thôi. Chưa xong việc đắp lộ, nhà nước lại thúc đẩy việc đào kinh Bạc Liêu, Cà Mau : dân làm xâu được nhà nước phát cho rượu đế, vì là “thức uống hợp vệ sinh”. Việc làm xâu đã từng là tai nạn lớn cho dân ở Cà Mau từ khi người Pháp mới đến : năm 1877, phủ Hòa bắt dân 3 tổng ở Cà Mau (Long Thủy, Quảng Long, Quảng Xuyên) đào kinh Bạch Ngưu nối qua phía nam Rạch Giá, đánh đập dân ; năm 1881, tự ý cho dân mướn thủy lợi trong kinh này nhân dịp bắt dân xâu lần thứ nhì.
  5. Năm 1895, mùa màng thất bát quá mức tưởng tượng : Bạc Liêu và Sóc Trăng chỉ còn 1/10 hoa màu, mưa quá nhiều rồi gặp đại hạn. Vì mức thâu hoạch chỉ còn 1/10 nên Hội đồng quản hạt đề nghị với Thống đốc Nam kỳ miễn thuế điền ở Bạc Liêu năm 1896 cho 46.000 mẫu ruộng, huê lợi sút kém chỉ còn đủ nuôi sống dân trong tỉnh là 46.498 người. Trong số này, có 11.484 dân bộ được bớt thuế thân để tiếp tục làm xâu đào kinh Bạc Liêu, Cà Mau. Năm ấy đào được 46 cây số (con kinh dự định đào dài 72 cây số). Cuối năm 1895, cai tổng Thạnh H ưng báo động, làm đơn xin miễn thuế với Thống đốc Nam kỳ : “Bây giờ dân không biết đi đâu hết vì nội tổng tôi không có lúa, nó đi kiếm ăn đỡ đói”. Đất ruộng nói chung thì tập trung về phía Đông giáp qua Sóc Trăng, nơi đã có người làm chủ từ lâu. Dân mới đến lập nghiệp chỉ còn vùng đất gần biển hoặc đất quá thấp phía mũi Cà Mau. Năm 1902, vài người khẩn đất lại phá sản, trả lại cho nhà nước vì đất không huê lợi, không sao đóng thuế đ ược. Người nọ khẩn 160 mẫu ở Tân Hưng, thiếu thuế rồi bị bỏ tù, hương chức làng dán yết thị, rao bán đất ấy để bù tiền thuế nhưng chẳng ai thèm mua. Làng Tân Thuận phía Cà Mau khai với quan trên : “đất đồng không có, làm đất ráng (tức là sình lầy có ráng mọc) theo mé sông, nước mặn tràn vô làm hư lúa,
  6. nước không tràn khi nào mưa muộn”. ở Tân Duyệt, trừ số đất cao ráo có người khẩn từ xưa thì “dân nó làm ruộng đất rẫy là đất dừa nước, chà là và ráng ở gần biển”, đa số đất ở gần biển vùng mũi Cà Mau đều là “nê địa ủng tắt”. Theo giá trị thường, một mẫu đất tốt ở Mỹ Tho, Gò Công trị giá từ 200 đồng đến 300 đồng trong khi đất gọi là đốt ở vùng Cà Mau trị giá không hơn 100 đồng. Nhờ quy chế mỗi người được khẩn 10 mẫu (gọi là đất công nghiệp) nên dân tứ xứ luôn cả những người đã thất bại ở Rạch Giá trong đợt khai thác đầu tiên đều rủ nhau đến Cà Mau. Nói chung thì đất hoang ở tỉnh Bạc Liêu quá thấp, có chân nước mặn, ba bốn năm đầu khó thâu huê lợi. Mức trưởng thành của Bạc Liêu, Cà Mau khi chuyển mình góp phần lớn vào vựa lúa miền Nam, có thể đánh dấu vào khoảng 1914, khi nhà nước cho nghiên cứu đào kinh Quan Lộ, nối liền Phụng Hiệp xuống Cà Mau (gọi Quan Lộ vì kinh này khởi đầu từ rạch Quan Lộ). Nhờ đó mà trong tương lai gần, lúa gạo vùng Bạc Liêu, Cà Mau được chở về Sài Gòn theo đường thủy, ngang qua Rạch Giá, Cần Thơ rồi Trà Ôn, Vĩnh Long (Mân Thít)... Năm 1927, người Pháp chỉ làm chủ ở Bạc Liêu chừng 30.000 mẫu. Bạc Liêu tiến sau các tỉnh khác, nhưng theo tốc độ nhanh.
  7. Năm 1893, bán ra 316.000 tạ gạo. Năm 1921, bán ra 2.733.330 tạ. Năm 1927, diện tích canh tác lúa gạo của Bạc Liêu đứng hạng nhì ở Nam kỳ, chỉ sau Rạch Giá. Nhưng Bạc Liêu còn thêm nguồn lợi than đước, ruộng muối, nhứt là rừng tràm và hải sản. Đến năm 1927, đất ruộng đã chiếm 34 % diện tích của toàn tỉnh Bạc Liêu và chiếm 49 % diện tích của toàn tỉnh Rạch Giá. Trong thực tế, với trình độ kỹ thuật và cơ cấu xã hội kinh tế thời ấy, khó mà khai thác nhiều hơn. ở Bạc Liêu vào năm 1927, nhiều làng rộng 20.000 mẫu tây, to hơn một tỉnh bực trung ở Nam kỳ. Đứng đầu là làng Khánh An rộng đến 140.000 mẫu tây. Tuy nhiên, ta không nên có ảo tưởng là dễ tạo nên ruộng lúa phì nhiêu : đây là rừng tràm nê địa, dân khẩn hoang đến ở tuy gan lì nhưng rốt cuộc phải ra đi vì chỉ thâu được huê lợi duy nhất là đốn củi lậu thuế, bán từn g xuồng nhỏ mà đổi gạo ăn ngày qua ngày. Một vài giồng đất cao thì đã có chủ từ thời Gia Long tẩu quốc rồi.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2