intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lịch sử Nam tiến của Việt Nam

Chia sẻ: Lê Tuyến | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:9

83
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mời các bạn cùng tham khảo nội dung tài liệu "Lịch sử Nam tiến của Việt Nam" dưới đây để nắm bắt được những nội dung về nguyên nhân Nam tiến, qúa trình Nam tiến, biện pháp Nam tiến, bản chất và hệ quả Nam tiến. Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lịch sử Nam tiến của Việt Nam

  1. LỊCH  SỬ  “NAM TIẾN” CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM 1. Nguyên nhân “Nam tiến” Việt Nam ngày nay là sự  kế  thừa của nhà nước Văn Lang thời các Vua  Hùng. Nhưng trải mấy nghìn năm lịch sử cương vực nước ta đã nhiều lần thay  đổi. Việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam được tiến hành chủ yếu về phía Nam   bởi hai nguyên nhân chính là dùng triết lý sức mạnh và do yếu tố địa chính học. Với mục đích chính trị – kinh tế, khi tiến hành quá trình mở mang lãnh thổ  và tăng cường sức mạnh của mình, Việt Nam đã không thể tiến lên phía Bắc vì  có Trung Quốc mạnh hơn mình. Vô hình trung, Việt Nam không còn cách nào   khác là phải chống lại quá trình mở mang lãnh thổ về phía Nam của Trung Quốc  và kết quả là Việt Nam đã phải trải qua một quá trình lịch sử đấu tranh lâu dài. Mặt khác, Việt Nam cũng đã mấy lần thử  tiến về  phía Tây là nước Lào  với mục đích và nguyên nhân như đã nêu trên nhưng giữa hai nước có dãy núi dài  hiểm trở nên không được như mong muốn. Kết quả là Việt Nam và Lào tiếp tục   duy trì mối quan hệ hữu nghị truyền thống bất chấp quy luật lịch sử “ giữa các   nước láng giềng không có quan hệ tốt”. Vì khó tiến lên phía Tây Bắc nên Việt Nam tiến về  phía Nam là một kết   quả  tất yếu.  Ở  đây, so với các nước  ở  phía Nam, Việt Nam chiếm  ưu thế  về  sức mạnh, so với phía Tây Bắc thì không tồn tại trở ngại nào, sau khi chiếm lĩnh  có thể  khai thác mở  rộng bằng lực lượng lao động phong phú tại chỗ. Không   những thế, về mặt địa lý, phía Nam nối liền với đường biển rất thuận tiện nên  dễ  tiến hơn đường bộ. Việc chinh phục được Chămpa hiếu chiến là đỉnh cao   của vị thế và sự phát triển của Việt Nam. 2. Qúa trình Nam tiến a. Đối với Chiêm Thành ­ Thời Lý Việc mở rộng lãnh thổ  về  phía Nam được bắt đầu từ  thời kỳ  Việt Nam   có vương triều độc lập. Nhưng vì thời gian tồn tại của Ngô, Đinh, Tiền Lê ngắn   1
  2. và chưa được vững vàng, thiếu chuẩn bị nên lãnh thổ không có thay đổi gì kể cả  phía Nam. Trong 3 triều đại kể trên thì triều đại Tiền Lê đã viễn chinh đến thủ  đô của Chiêm Thành nhưng không thể  mở  rộng được lãnh thổ. Nhưng kể  từ  đấy, Chiêm Thành đã trở thành nước triều cống của Việt Nam. Trong lịch sử  Việt Nam, việc mở  rộng lãnh thổ  về  phía Nam được bắt  đầu   dưới   triều   đại   Lý.  Năm   1069, Lý   Thánh   Tông nam   chinh   đánh Chiêm  Thành và bắt được vua Chiêm là Chế  Củ (Jaya Rudravarman), đem về Thăng  Long. Để  được tha vua Chiêm đã cắt vùng đất phía bắc Chiêm Thành gồm ba  châu Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý cho Đại Việt. Những châu ấy nay ở địa hạt các  huyện Quảng Ninh, Quảng Trạch, Bố  Trạch, Tuyên Hóa, Lệ  Thuỷ tỉnh Quảng  Bình và huyện Bến Hải tỉnh Quảng Trị.   ­ Thời Trần Năm 1306 vua Chế  Mân của Chiêm Thành cắt đất hai châu Ô và Rí cho  vua Trần Anh Tông để  làm sính lễ  cưới công chúa Huyền Trân của Đại Việt,  vùng đất mà ngày nay là nam Quảng Trị và Thừa Thiên­Huế. Biên giới phía nam  của Đại Việt lúc này tiến đến đèo Hải Vân. ­ Thời Hồ Việc mở  rộng lãnh thổ  về  phía Nam cũng được tiếp tục với triều Hồ.   Năm 1402, nhà Hồ  xâm chiếm Chiêm Thành và nhận được Chiêm Động chia   thành hai châu Thăng và Hóa; đồng thời nhận được Cổ Lũy chia thành 2 châu Tư  và Nghĩa. Châu Thăng và Hóa ngày nay thuộc huyện Duy Sơn, Quế  Sơn, Tam  Kỳ, Thăng Bình của tỉnh Quảng Nam, Châu Tư và Nghĩa nay thuộc huyện Đức  Phổ, Mộ Đức, Tư Nghĩa, Sơn Tịnh, Bình Sơn của tỉnh Quảng Ngãi. Điều này có  nghĩa là lãnh thổ phía Nam Việt Nam được mở rộng đến Quảng Nam và Quảng   Ngãi. Nhưng khi nhà Minh cai trị thì khu vực này bị Chiêm Thành chiếm lại.  ­ Thời Lê Sơ Năm   1471   vua Lê   Thánh   Tông đưa   20   vạn   quân tiến   đánh vào   kinh  đô Vijaya (Bình Định) của Chiêm Thành, kinh đô Vijaya bị  thất thủ. Lê Thánh   Tông  đã  sáp   nhập  vùng   đất  bắc  Chiêm   Thành  vào   Đại  Việt  (ngày  nay  là  3  2
  3. tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Phần đất còn lại của Chiêm Thành  vua Lê Thánh Tông đã chia làm 3 vương quốc và giao cho tướng, hoàng thân còn  lại của Chiêm Thành trấn giữ  và có nghĩa vụ  triều cống Đại Việt. Đến năm   1471 lãnh thổ phía nam của Đại Việt tiến đến đèo Cù Mông (ranh giới giữa Bình  Định và Phú Yên ngày nay). Ngoài ra, trong thời kỳ hưng thịnh triều đại hậu Lê cũng đã mở rộng lãnh  thổ về phía Tây. Khác với cách xâm lược và hợp nhất như khi mở rộng lãnh thổ  ở phía Nam, ở đây có tính chất lệ thuộc và hợp nhất nhiều hơn. Vào năm 1353,  Angcowat độc lập,  ở vương quốc Lan Xang của Lào có bộ lạc Bồn Man ở khu   vực trung tâm Quảng Bình thuộc Sơn La – vùng tiếp giáp với biên giới Việt  Nam. Năm 1447, theo đề nghị quy phục của Bồn Man, Việt Nam đã tiếp thu điều  này và đổi thành châu Quy Hợp nhập vào phủ Lâm An.  Việc mở  rộng lãnh thổ  có tính cách hợp nhất vĩnh viễn đã đẩy mạnh sự  phát triển của Việt Nam thông qua sự  di trú của người Việt và chính sách phái  quan lại người Việt làm quản lý và tiến hành Việt Nam hóa người bản địa. Với   sự  lệ  thuộc của Bồn Man, lãnh thổ  của Lào được sát nhập vào lãnh thổ  Việt   Nam và tuy chính sách phát triển thông qua sự di trú của người dân như   ở  phía   Nam cho dù không được thực hiện nhưng Việt Nam phái người quản lý tới địa  phương để trực tiếp quản lý đã cho thấy tính chất chiếm lĩnh vĩnh viễn ở  đây.  Để  dàn xếp sự  chống đối của Bồn Man, từ năm 1460 Lê Thánh Tông đã nhiều  lần gửi quân đội đến trấn áp. b. Đối với Campuchia Để  thoát khỏi sự  uy hiếp của chúa Trịnh  ở  Đàng Ngoài và nhu cầu đất  đai, chúa Nguyễn đi xuống phía Nam thúc đẩy chính sách một cách năng động   như  chính sách đối ngoại thông thương, chính sách mở  rộng lãnh thổ  để  xây  dựng sức mạnh nhằm khôi phục quyền lực đã mất.  ­ Năm 1611, chúa Nguyễn Hoàng tiến chiếm vùng đất của Chiêm Thành  mà ngày nay là Phú Yên. 3
  4. ­ Năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên được vua Chân Lạp chấp thuận  nhượng vùng đất Mô Xoài, lập 2 thương điểm để  tiến hành thu thuế,  tạo điều kiện thuận lợi cho cư dân Việt phát triển. ­ Năm   1653,   chúa Nguyễn   Phúc   Tần tiến   chiếm   vùng Khánh   Hòa của  Chiêm Thành. Lấy sông Phan Rang làm ranh giới. Vùng phía Đông sông  đến địa đầu Phú Yên đặt dinh Thái Khang. Phần phía Tây sông vẫn  thuộc về Chăm Pa. ­ Năm 1693, thời chúa Nguyễn Phúc Chu, tướng Nguyễn Hữu Cảnh tiến  chiếm và chính thức sáp nhập phần còn lại của vương quốc Chiêm  Thành lập trấn Thuận Thành; là Bình Thuận, Ninh Thuận ngày nay, tuy  nhiên chính quyền Đàng Trong vẫn dành cho người Chăm chế độ tự trị  ở đây cho đến năm 1832. Sau khi chiếm Chiêm Thành vào năm 1693, chúa Nguyễn đã thi hành một  số chính sách để giảm thiểu gánh nặng và những mối lo lắng đó.  Thứ  nhất, hợp nhất hoàn toàn đất chiếm lĩnh Thuận Thành vào lãnh thổ  của mình, đặt theo hình thức trấn hơn là đơn vị hành chính. Cho dù đã đặt lãnh,   phủ, huyện, tổng, tư  là đơn vị  hành chính địa phương đối với khu vực đồng  bằng của chúa Nguyễn lúc đó nhưng chúa Nguyễn đã không áp đặt mà đặt   Thuận Thành là trấn. Đây cũng là hình thức cai trị  dân tộc thiểu số  trong quá   khứ. Do đó, ngoài việc dùng phương pháp cực đoan là đàn áp phản loạn, vào  tháng 8 năm 1693, chúa Nguyễn đã đổi trấn Thuận Thành thành phủ Bình Thuận  rồi tháng năm năm sau lại đổi thành trấn Thuận Thành.  Thứ hai, như đã viết ở trên, chúa Nguyễn đã thi hành chính sách đồng hóa  hay lấy người Chiêm Thành cai trị người Chiêm Thành. Với phương pháp cụ thể  hơn đối với điều này chúa Nguyễn đã dùng Kế  Ba Tư  làm tả  đô đốc của phủ  Thuận Thành và tiếp tục cai trị nơi này, đã nộp cống ông ta bởi phiên vương của  trấn Thuận Thành và thu thập quân dân nộp cống hằng năm, và đã trả lại những   vật lấy được trong cuộc chiến như ấn, gươm, yên, ngựa và những người bị bắt   trước đây. Lúc này chúa Nguyễn đã chỉ định những danh sách nộp cống cho Việt  Nam. 4
  5. Vào năm 1697, Việt Nam đổi trấn Thuận Thành thành Bình Thuận và sát  nhập vào một đơn vị hành chính của Việt Nam đồng thời hợp nhất lãnh thổ còn   lại của Chiêm Thành từ  Phan Rang đến Phan Rí đổi thành 2 huyện An Phuc và  Hoa Da rồi sát nhập vào Bình Thuận nên dấu tích của Chiêm Thành hoàn toàn đã  bị xóa bỏ trên bản đồ. . Tham vọng mở rộng lãnh thổ  của Chúa Nguyễn không dừng lại ở  Chiêm  Thành. Điều đó có thể  nhìn thấy được vào năm 1621, chúa Nguyễn đã có quan   hệ hôn thú với đời thứ 2 Chey Chettha của Campuchia. Lúc đó, chúa Nguyễn đã   yêu cầu vua Campuchia cho người Việt Nam di trú tự  nhiên, di trú Thủy Chân  Lạp với những hình thức miễn thuế, thương mại, phát triển. Kết quả là việc di  trú đến Campuchia của người Việt Nam được bắt đầu từ tỉnh Đồng Nai và Mỗi   Xoài thuộc Bà Rịa, Vũng Tàu bây giờ. Lúc đó Campuchia lệ  thuộc vào vương quốc Ayuthaya của Thái Lan đã  mượn sức mạnh của Việt Nam để thoát khỏi sự cai trị của Thái, Việt Nam đã có  được cơ hội tiến vào Campuchia một cách hợp pháp và đồng thời trên cơ sở đó,  đã có được cơ hội tuyệt vời để có thể cản trở sự tiến vào Campuchia của Thái  và xâm chiếm lãnh thổ Campuchia.  Sau đó, dưới chính sách ngoại giao cận Việt   viễn Thái của Campuchia, năm 1658, lần đầu tiên Việt Nam có cơ hội gửi quân   đội theo yêu cầu của Campuchia để  giải quyết phân tranh vương vị và kết quả  là nhận được sự cư trú hợp pháp ở Mỗi Xoài, Đồng Nai và nộp cống, thần phục  từ Campuchia.  Vào năm 1674, Việt Nam đã gửi quân đội đến Campuchia lần thứ  hai để  giải quyết tranh chấp vương vị và có thể bước một bước sâu hơn vào việc hợp   nhất lãnh thổ  Campuchia bằng cách đặt ra chế  độ  chính vương và phó vương.   Lúc này, phó vương sống ở Sài Gòn. Trên cơ sở này, vào tháng 1 năm 1679 Việt  Nam đã đem 50 chiến thuyền với hơn 3 nghìn quân, lợi dụng những người quản   lý của nước Minh Trung Quốc đầu hàng như  Dương Ngan Địch, Hoàng Tiến,  Trần Thượng Xuyên, Trần An Bình … tiến hành thực hiện việc phát triển Mỹ  Tho và Biên Hòa. Những khu vực này là kết quả  chiến thắng trong cuộc phân   tranh vũ lực với Thái trên lãnh thổ Campuchia của Việt Nam, vì một phần thuộc  5
  6. khu vực mà Nạc Ông Nộn được bổ nhiệm cai trị, nên Việt Nam có thể định cư  ở đó.  Những người có thế  lực khai phá đất, xây dựng thành Đông Phố  và biến  nơi đây thành nơi thương mại quốc tế  đông đúc với những chiếc thuyền của   nhà Thanh – phương Tây – Nhật – Java. Thời điểm này, có thể nói ngoài người  Việt Nam ra, người Trung Quốc cũng phát triển Thủy Chân Lạp. Vào năm 1680,  việc phát triển Thủy Chân Lạp dựa vào Mạc Cửu người Quảng Đông Trung  Quốc. Ông ta được bổ  nhiệm làm quản lý của Campuchia và đã phát triển Phú  Quốc, Cần Bọt, Gia Khê, Luỗng Cây, Hương Úc, Cà Mau. Ở đây, vào năm 1810  đã đổi thành trấn Hà Tiên rồi năm 1831 đổi thành tỉnh Hà Tiên. Năm 1688, với cuộc phản loạn của Hoàng Tiến đã trở  thành cơ  hội cho  Việt Nam thực hiện hợp nhất lãnh thổ  Campuchia. Hoàng Tiến gây ra phản   loạn, quốc vương của Campuchia Nặc Ông Thu đã từ  chối thần phục và nộp   cống cho Việt Nam và dương ngọn cờ phản loạn. Việt Nam đã gửi quân vào Sài  Gòn để bình định việc này nhưng không thành công. Tuy nhiên, trong trong một   thời gian dài nắm giữ, Việt Nam thực sự đã có ảnh hưởng ở khu vực này. Tiếp   đó, năm 1691, người có thực quyền  ở  đây là phó vương Nặc Ông Nộn tử  vong   đã tạo ra một khoảng trống quyền lực đã xúc tiến quá trình hợp nhất của Việt  Nam ở khu vực này. Trên cơ sở đó, từ năm 1698, bắt đầu hợp nhất khu vực Gia   Định khai thác được dựa vào người Trung Quốc và người bản xứ trước đây.  Cùng với việc mở  rộng lãnh thổ  trên đất liền, chính quyền Đàng Trong   lần   lượt   đưa   người   ra   khai   thác   và   kiểm   soát   các   hòn đảo lớn   và quần  đảo trên biển   Đông và vịnh   Thái   Lan.Quần   đảo   Hoàng   Sa được   khai   thác   và  kiểm   soát   từ   đầu thế   kỷ   17, Côn   Đảo từ   năm   1704, Phú   Quốc từ   năm   1708  và quần đảo Trường Sa từ năm 1711. ­ Năm 1816, vua Gia Long chính thức cho cắm cờ, xác lập chủ  quyền,   giao   đội Hoàng   Sa và   đội Bắc   Hải thay   mặt   quản   lý   hai   quần  đảo Hoàng   Sa và Trường   Sa.   Trước   đó   khoảng   200   năm   các chúa  Nguyễn cũng đã lập đội Hoàng Sa hằng năm đi ra các đảo tìm kiếm  sản vật. 6
  7. ­ Năm  1830, vua Minh  Mạng sáp  nhập vùng Tây Nguyên vào lãnh thổ  Việt Nam, tuy nhiên các bộ  tộc người Thượng vẫn được quyền tự  trị  của mình cho tới năm 1898 khi người Pháp trực tiếp tổ  chức cai trị   ở  đây. 3. Biện pháp Nam tiến Như vậy, cuộc Nam tiến của Đại Việt là quá trình đánh trả, ngăn chặn rồi   lấn lướt những chính quyền hiếu chiến  ở  biên Nam. Đồng thời cũng được thi  hành ôn hòa qua kế  hoạch dinh điền, mở  mang khai phá đất đai bị  bỏ  hoang  ở  biên trấn, sống hòa lẫn cùng dân bản địa, vừa canh chừng giặc, vừa sản xuất   lương thực theo đường lối “ngụ  binh  ư  nông” mà Đại Việt đã khôn ngoan áp  dụng từ khi thu hồi được độc lập. Công bằng mà xét thì công cuộc này được mở  màn từ  thời Tiền Lê  ở  thế  kỷ  X, quyết liệt trong thời Lý, tương đối hòa bình   trong thời Trần, vừa đánh, vừa lấn vừa đàm  ở  thời Hồ, thời Hậu Lê đối với   Chiêm Thành. Tới thời các chúa Nguyễn, Đại Việt đã biết lợi dụng cuộc nội  tranh trong vương thất các nước Chiêm Thành, Chân Lạp mà thực hiện vừa bảo  hộ, vừa lấn, vừa dần chiếm rồi dứt điểm xác lập chủ  quyền cả  về  đất đai và  dân cư.  Việc mở  rộng lãnh thổ  về  phía nam của Việt Nam cũng được tiếp tục   dưới triều đại cuối cùng trong lịch sử Việt Nam là triều đại nhà Nguyễn. Như  đã đề  cập  ở  trên, Việt Nam đã hợp nhất một phần lãnh thổ  của Lào tiếp giáp   với khu vực từ Quảng Bình tới Lạng Sơn, đã gửi quân đi 6 phủ và bổ nhiệm làm  tộc trưởng  ở  đây theo hình thức cai trị  gián tiếp. Khi xem xét đến nhiều điều  kiện như  chính trị  – kinh tế  – địa chính học, Việt Nam tiếp tục thúc đẩy hợp   nhất Cao Miên để  dành lợi cho quốc gia, và kết quả  là năm 1835, Chân Lạp –  quốc hiệu của Cao Miên đã đổi thành Chân Tây Thành và lập 2 huyện, 32 phủ.  Nhưng cuộc xung đột dành quyền cai trị Campuchia giữa Việt Nam và Thái kéo  dài, cộng với việc phản đối sự cai trị của Việt Nam trên toàn Campuchia và các  cuộc phản loạn trong nước nên đã đẩy Việt Nam vào thế bất lợi. Cho nên, năm   1847, Việt Nam đã ký hiệp định với Thái và rút quân. Do đó, cho đến khi Việt  Nam và Campuchia đều trở  thành thuộc địa của Pháp thì Campuchia chỉ  duy trì  mối quan hệ nộp cống cho Việt Nam.  7
  8. 4. Bản chất và hệ quả Việc mở  rộng lãnh thổ  của Việt Nam cho thấy một quy luật điển hình  trong lịch sử nhân loại là cá lớn nuốt cá bé. Việt Nam đã không ngừng đấu tranh  trong trường kỳ lịch sử để  sinh tồn bên cạnh một Trung Quốc mạnh hơn mình  nhưng ngược lại cũng tiến hành chinh phục Chiêm Thành và Campuchia yếu  hơn.  Việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế của  Việt Nam, đặc biệt là trong việc sản xuất ngũ cốc. Ngoài khí hậu nhiệt đới gió  mùa có lượng mưa và lượng nắng nhiều thì vùng này còn có tài nguyên phong   phú và đất đai màu mỡ và rộng lớn. Ở  đây cũng không thể  bỏ  qua sự  đóng góp của người dân di trú Trung   Quốc. Trong khi không đủ  nhân lực phát triển thì việc tham gia của người dân   Trung Quốc đã giảm bớt đi gánh nặng cho người dân Việt Nam, thúc đẩy sự  phát triển thương mại của phía Nam và đã tăng cường tính đặc trưng đa văn hóa   – đa dân tộc của Việt Nam. Liên quan đến việc tăng cường tính đặc trưng đa văn hóa – đa dân tộc của  Việt Nam không thể loại trừ vai trò của Campuchia. Việc hợp nhất Thủy Chân  Lạp tức 6 tỉnh phía Nam dành được ngoài mảnh đất màu mỡ và rộng lớn còn có   được dân tộc Khơme đông nhất trong 54 dân tộc đã biến Việt Nam từ một nước  có văn hóa Phật giáo Đại thừa sang một nước văn hóa Phật giáo Tiểu thừa. Đồng thời, việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam cũng là một trường hợp  điển hình minh chứng cho quy luật lịch sử “giữa các nước láng giềng không có  quan hệ tốt ”. Nếu như quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc mới   được tái lập vào năm 1991 thì quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Campuchia   cũng không được mặn mà khi 20 vạn quân Việt Nam rút lui khỏi Campuchia  dưới áp lực của chủ nghĩa tư bản đứng đầu là Mỹ vào năm 1989. Quan hệ giữa   Việt Nam và Thái cũng  đối lập sâu sắc trong việc gây  ảnh hưởng trên đất  Campuchia. Xét trên quan điểm địa chính học, quan hệ giữa Việt Nam và Lào có   thể là một dị biệt nhưng xét cho cùng thì có thể cũng không khác với những mối   quan hệ nước láng giềng đã nêu trên 8
  9. Một mặt, việc mở rộng lãnh thổ  ở  thời kỳ sau phân chia Nam Bắc được   thực hiện thông qua việc hợp nhất hoàn toàn Chiêm Thành và sự  mở  rộng về  phía Campuchia đã kéo theo sự căng thẳng sâu sắc trong quan hệ giữa Việt Nam   và Campuchia và dĩ nhiên  ảnh hưởng tới cả  quan hệ  Campuchia và Thái Lan.  Kết quả  là ngày nay, đối ngoại giữa 3 nước, đặc biệt Việt Nam – Campuchia  hay Thái Lan – Campuchia vẫn còn chịu ảnh hưởng không nhỏ 9
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2