intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lịch sử ngành dầu khí Việt Nam

Chia sẻ: Me Tran | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:78

157
lượt xem
28
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Quy hoạch khí tổng thể (Gas Master Plan) đến năm 2010 Việt Nam bắt đầu khai thác khí từ năm 1981 (mỏ khí Tiền Hải C - Thái Bình) và khai thác dầu cùng với khí đồng hành từ năm 1986 (mỏ Bạch Hổ ở thềm lục địa phía Nam). Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào năm 1987

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lịch sử ngành dầu khí Việt Nam

  1. TRIỂN KHAI CÁC ĐỀ ÁN KHÍ VÀ LỌC HÓA DẦU
  2. chöông 8 TRIỂN KHAI CÁC ĐỀ ÁN KHÍ VÀ LỌC HÓA DẦU I. HOẠT ĐỘNG THU GOM, VẬN CHUYỂN, XỬ LÝ VÀ PHÂN PHỐI KHÍ 1. Quy hoạch khí tổng thể (Gas Master Plan) đến năm 2010 Việt Nam bắt đầu khai thác khí từ năm 1981 (mỏ khí Tiền Hải C - Thái Bình) và khai thác dầu cùng với khí đồng hành từ năm 1986 (mỏ Bạch Hổ ở thềm lục địa phía Nam). Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành vào năm 1987, công tác tìm kiếm, thăm dò dầu khí được triển khai mạnh mẽ, nhất là trên thềm lục địa. Nhiều công ty đã phát hiện khí như Total ở vịnh Bắc Bộ, Shell ở biển miền Trung, ONGC và BP ở bể trầm tích Nam Côn Sơn… Tiềm năng về khí trở nên rõ nét và việc khai thác tài nguyên khí một cách hiệu quả phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước đã đặt ra cho ngành Dầu khí Việt Nam những nhiệm vụ mới mẻ. Việc khai thác và sử dụng khí đòi hỏi cách tiếp cận tổng thể từ nguồn cung cấp, hạ tầng kỹ thuật để vận chuyển đến thị trường tiêu thụ khí (Gas chain). Do đó, Quy hoạch khí tổng thể đã được xây dựng với sự cộng tác chặt chẽ của nhiều cơ quan Việt Nam (Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Petrovietnam; Bộ Công nghiệp; Bộ Tài chính; Văn phòng Chính phủ; Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường; Bộ Xây dựng; Ban Vật giá Chính phủ; Văn phòng Trung ương Đảng; Viện Năng lượng…), 3 công ty Anh là BP, British Gas, Moth Ewbank Prece và một công ty Mỹ là Mobil bằng nguồn tài trợ ODA của Chính phủ Vương quốc Anh và 200.000 USD của Mobil. Bản Quy hoạch tổng thể đã đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về phát triển công nghiệp khí Việt Nam cho giai đoạn 15 năm với nội dung chính như sau: Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 403
  3. Phần thứ ba: TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM... - Tiềm năng về khí của Việt Nam lớn hơn tiềm năng về dầu; các mỏ khí được phân bổ trong cả nước, song tập trung chủ yếu ở các bể trầm tích Nam Côn Sơn và Sông Hồng. - Công nghiệp khí Việt Nam nên phát triển theo vùng với thứ tự ưu tiên miền Nam, miền Trung và miền Bắc. - Nên xem xét khả năng xuất khẩu khí để có vốn phát triển công nghiệp khí trong nước. - Ngoài ra, bản Quy hoạch còn đề xuất các chính sách hỗ trợ sự phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam nhằm khai thác tối đa những lợi ích từ các nguồn khí thiên nhiên. Đây là bản Quy hoạch tổng thể về phát triển khí thiên nhiên đầu tiên ở Việt Nam, được soạn thảo khá công phu, tập hợp được nhiều số liệu điều tra từ các nguồn khác nhau trong nước, cũng như một số quan điểm, chính sách của các cơ quan quản lý nhà nước. Nhiều cuộc họp trao đổi, thảo luận dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Xuân Giá cũng như Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Đức Lương đã được tổ chức trong hơn 2 năm (1994-1996). Riêng đối với Petrovietnam, lần đầu tiên việc đánh giá tài nguyên dầu khí toàn thềm lục địa Việt Nam được triển khai một cách khá bài bản và cập nhật được đầy đủ tài liệu vào lúc đó (tài nguyên khí có thể thu hồi là 1.300 tỷ m3, có thể khai thác 15 tỷ m3/năm vào năm 2010). Về mặt kinh tế, theo bản Quy hoạch này, giá khí cung cấp cho thị trường từ 2 đến 3,5 USD cho 1 triệu BTU (theo giá năm 1996). 2. Đầu tư xây dựng các công trình thu gom, vận chuyển và chế biến khí mỏ Bạch Hổ Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro đã bắt đầu khai thác mỏ dầu Bạch Hổ từ ngày 26-6-1986. Tại các giàn khai thác, cho đến năm 1995, khí đồng hành được tách ra khỏi dầu thô với hệ số khí/dầu bình quân là 150 m3/tấn và được đốt bỏ do chưa có điều kiện thu gom và vận chuyển vào bờ để sử dụng. Tính đến ngày 31-7-1990, Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro đã khai thác được 3,95 triệu tấn dầu thô và đốt bỏ 739 triệu m3 khí đồng hành. Riêng trong tháng 7-1990, lượng khí đốt bỏ là trên 13,7 triệu m3 kèm theo 722 tấn condensat. Ngoài mỏ Bạch Hổ, trong khu vực bể Cửu Long đã phát hiện mỏ Rồng và nhiều cấu tạo có triển vọng chứa dầu khí lớn… Nếu không có biện pháp sớm thu gom và sử dụng khí đồng hành, thì cùng với sự gia tăng khai thác dầu, lượng khí đồng hành phải đốt Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 404
  4. Chương 8: TRIỂN KHAI CÁC ĐỀ ÁN KHÍ VÀ... bỏ sẽ ngày càng lớn, gây lãng phí tài nguyên và làm ô nhiễm môi trường. Do đó ý tưởng thu gom, vận chuyển khí đồng hành vào bờ và sử dụng cho nền kinh tế quốc dân đã hình thành. Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 7-7-1988 của Bộ Chính trị nhấn mạnh: Nhanh chóng lập phương án trước năm 1995 sử dụng khí đồng hành mỏ Bạch Hổ và các mỏ khác để sản xuất phân đạm, phát điện và phục vụ đời sống nhân dân. 2.1. Về sử dụng khí đồng hành mỏ Bạch Hổ Tại kỳ họp XI Hội đồng Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro ngày 21-10-1989, Phía Việt Nam chính thức đề nghị được sử dụng khí đồng hành từ các mỏ của Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro mà không phải trả tiền. Ngày 3-1-1990, Trưởng đoàn Phía Liên Xô B.A. Nikitin thông báo, Chính phủ Liên Xô đồng ý giao cho Chính phủ Việt Nam thu gom và sử dụng khí đồng hành mỏ Bạch Hổ không phải trả tiền cho Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro trừ phần khí sử dụng tại mỏ. Ngày 12-12-1990, sau một thời gian dài đàm phán, hai Phía Việt Nam và Liên Xô đã ký Nghị định thư liên Chính phủ Việt - Xô, quy định: “từ ngày 1-1-1991, khí đồng hành lấy lên trong quá trình khai thác dầu ngoài việc sử dụng cho các nhu cầu công nghệ khai thác sẽ được giao cho Bên Việt Nam tại mỏ không phải trả tiền”1. Sự kiện này đã tạo cơ sở để triển khai các bước tiếp theo về sử dụng khí đồng hành mỏ Bạch Hổ. Ngày 16-7-1991, hai Chính phủ Việt Nam và Liên Xô đã ký Hiệp định sửa đổi về tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại thềm lục địa phía Nam Việt Nam, trong đó chính thức khẳng định khí đồng hành được lấy lên trong quá trình khai thác dầu mà Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro không sử dụng cho nhu cầu công nghệ được chuyển giao cho Phía Việt Nam tại mỏ không phải trả tiền. Trong trường hợp phát hiện các mỏ khí hoặc condensat, việc đánh thuế sử dụng và phân chia sản phẩm khai thác được sẽ là đối tượng của một thỏa thuận riêng của hai Bên. 2.2. Công ty Khí đốt Việt Nam (VietGas) và Dự án khí Bạch Hổ Để triển khai thực hiện việc thu gom, vận chuyển, xử lý và phân phối khí, ngày 20-9-1990 Bộ Công nghiệp nặng đã ra quyết định thành lập Công ty Khí đốt thuộc Tổng công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam. Giám đốc đầu tiên của Công ty Khí đốt Việt Nam là ông Nguyễn Quang Hạp, nguyên Vụ trưởng Vụ Kinh tế - Kế hoạch 1. Nghị định thư về một số vấn đề liên quan đến hoạt động của Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro trong năm 1991 do Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng Trần Lum, được ủy quyền của Bên Việt Nam và Thứ trưởng thứ nhất Bộ Công nghiệp dầu Liên Xô B.A. Nikitin, được ủy quyền của Bên Liên Xô đã ký ngày 12-12-1990. Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 405
  5. Phần thứ ba: TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM... Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam. Năm 1998, trên cơ sở Công ty VietGas, Công ty Chế biến và Kinh doanh các sản phẩm khí - PVGC (sau trở thành Tổng công ty Khí Việt Nam - PV Gas) đã được thành lập. Ngay sau khi thành lập, Công ty Khí đốt Việt Nam đã tích cực thực hiện các nhiệm vụ được Tổng công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam giao về lập và phối hợp triển khai các dự án khí. Ban đầu do chưa có năng lực và kinh nghiệm thực tế, Tổng công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam được Hội đồng Bộ trưởng cho phép mời các công ty nước ngoài tham gia liên doanh lập Dự án phát triển và sử dụng khí thiên nhiên ở Việt Nam. Đã có 18 công ty nước ngoài hưởng ứng tham gia dự án (Pháp: Gaz de France, SODEP…; Anh: BP Exploration, British Gas…; Nhật Bản: C’ITOH, Nissho Iwai…; Đức: Liquid Gas International liên doanh với Manessman; Ấn Độ: PEC; Bỉ: Tractebel; Niu Dilân: Gas Development Resource; Thái Lan: PTT; Malaixia: Petronas; Đài Loan: CPIC; Hồng Kông: Search International Ltd; Mỹ: do cấm vận nên Công ty CIREN đứng tên thay cho 10 công ty Mỹ). Trong năm 1991 và 1992, một số công ty dầu khí Nhật Bản, Pháp, Canađa, Thái Lan đã gửi Luận chứng khả thi đề án khí đến Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. “Qua 2 vòng phân tích so sánh lựa chọn và sau khi được Hội đồng Bộ trưởng phê duyệt, Tổng công ty Dầu mỏ và Khí đốt Việt Nam đã chọn Tổ hợp Liquigas/SNC (Canađa) làm đối tác liên doanh, và ngày 18-4-1992 hai Bên đã ký “Thoả thuận chung” và thảo luận các văn bản để thành lập Liên doanh nhà máy khí hoá lỏng”1. Ngày 17-6-1994, được sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã ký Thỏa thuận khung (Heads of Agreement) về đề án sử dụng khí đồng hành giữa Petrovietnam với Tổ hợp Công ty British Gas PLC (Anh), Mitsui & Co., Ltd. (Nhật Bản) và TransCanada Pipelines Ltd. (Canađa). Sau đó, trong quá trình đàm phán Hợp đồng thành lập liên doanh do các điều kiện mà các đối tác nước ngoài đưa ra không được Phía Việt Nam chấp thuận, các công ty nói trên đã không thể đi đến giai đoạn triển khai thực hiện dự án. Tuy nhiên, quá trình trao đổi, đàm phán với các công ty nước ngoài đã giúp các chuyên gia Việt Nam từng bước nâng cao trình độ; triển khai các hoạt động hợp tác với các tổ chức nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp khí, như với Viện Cố vấn Nhật Bản (JCI) lập bản nghiên cứu tiền khả thi đồng bộ từ thu gom, vận chuyển, hoá lỏng và chế biến phân đạm (chi phí do Chính phủ Nhật Bản tài trợ)… 1. Công văn số 1964/KT-KH ngày 9-11-1992 của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam gửi Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Đỗ Mười về việc Báo cáo về đề án khí và đề án lọc dầu. Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 406
  6. Chương 8: TRIỂN KHAI CÁC ĐỀ ÁN KHÍ VÀ... Lễ ký Thỏa thuận khung (Heads of Agreement) đề án sử dụng khí đồng hành mỏ Bạch Hổ giữa Petrovietnam với British Gas PLC, Mitsui & Co., Ltd. và TransCanada Pipelines Ltd., tại Nhà hát lớn Hà Nội (ngày 17-6-1994) 2.3. Về Luận chứng kinh tế - kỹ thuật “Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức” Sau khi tìm hiểu các đề án của trên 30 công ty nước ngoài, Công ty Khí đốt Việt Nam đã phối hợp với Viện Nghiên cứu khoa học và Thiết kế dầu khí biển (NIPI) thuộc Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro và Viện Thiết kế Bộ Thương mại tiến hành lập Luận chứng kinh tế - kỹ thuật cho Hệ thống thu gom và vận chuyển khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ đến các hộ tiêu thụ trên đất liền. Chủ nhiệm dự án là ông I.S. Oseredko, Chánh kỹ sư Viện NIPI. Bản Luận chứng đã được Công ty Khí đốt Việt Nam hoàn thành và trình Tổng công ty Dầu khí Việt Nam tại Công văn số 423/KĐ ngày 15-8-1991. Ngày 18-10-1991, Bộ Công nghiệp nặng đã tổ chức hội nghị xem xét Luận chứng kinh tế - kỹ thuật “Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức” do Thứ trưởng thứ nhất Lê Văn Dỹ và Thứ trưởng Lê Đình Quy chủ trì. Tham dự có đại diện của Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Năng lượng, Bộ Thương mại, Tổng công Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 407
  7. Phần thứ ba: TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM... ty Dầu khí Việt Nam… Căn cứ đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng1 và Báo cáo kết quả thẩm tra của Hội đồng Thẩm định Nhà nước2, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã phê duyệt Luận chứng kinh tế - kỹ thuật “Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức”3, với nội dung chính như sau: Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức, bao gồm: - Công trình thu gom khí tại mỏ Bạch Hổ. - Trạm nén khí đầu mối tại mỏ Bạch Hổ. - Đường ống dẫn khí Bạch Hổ - Thủ Đức. - Trạm thu hồi condensat. - Các công trình phụ trợ. - Địa điểm xây dựng Hệ thống nói trên bao gồm: khu vực mỏ Bạch Hổ, tuyến ống dẫn khí từ mỏ Bạch Hổ đến mũi Kỳ Vân (điểm tiếp bờ) dài 127 km, tuyến ống dẫn khí Kỳ Vân - Bà Rịa - Thủ Đức dài 99 km. - Công suất thiết kế của Hệ thống thu gom và vận chuyển là 1 tỷ m3/năm (có dự phòng mở rộng lên 1,5 tỷ m3/năm). - Các hộ tiêu thụ chính: các nhà máy điện tuốcbin khí trên tuyến Bà Rịa - Phú Mỹ - Thủ Đức, nhà máy phân đạm, nhà máy tách khí hóa lỏng để xuất khẩu. - Tổng vốn đầu tư tạm tính 162 triệu USD, trong đó ngoại tệ: 136 USD; tiền Việt Nam: 268 tỷ đồng (quy đổi 26,8 triệu USD). Trước mắt Bộ Tài chính ứng cho Tổng công ty Dầu khí 2 triệu USD để thuê thiết kế, đặt hàng thiết bị, thuê chuyên gia cố vấn và kiểm tra chất lượng ống hiện có của Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro. Thiết kế và thi công: - Thiết kế gồm 2 giai đoạn: thiết kế kỹ thuật và thiết kế thi công. - Thi công: Bộ Công nghiệp nặng thống nhất với Bộ Xây dựng trên cơ sở đề nghị của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam lựa chọn đơn vị thi công thích hợp. Thời hạn xây dựng công trình là 2 năm kể từ năm 1992. 1. Công văn số 2717/CNNg-XDCB ngày 5-9-1991 của Bộ Công nghiệp nặng. 2. Công văn số 1312/UBXDCB ngày 10-12-1991. 3. Quyết định số 07/CT ngày 7-1-1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 408
  8. Chương 8: TRIỂN KHAI CÁC ĐỀ ÁN KHÍ VÀ... - Tổ chức thực hiện: Cơ quan chủ đầu tư là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam chịu trách nhiệm đầu tư xây dựng để đưa công trình vào hoạt động đúng thời hạn, bảo đảm chất lượng cao, tận dụng tối đa vật tư, thiết bị và năng lực xây dựng trong nước. Để nâng cao hiệu quả công trình, Bộ Công nghiệp nặng chỉ đạo Tổng công ty Dầu khí Việt Nam phối hợp với các bộ, ngành, các cơ quan hữu quan triển khai ngay việc lập Luận chứng kinh tế - kỹ thuật của các công trình khác sử dụng khí của công trình này (Nhà máy khí hóa lỏng, thu gom và đưa khí từ các mỏ Rồng, Đại Hùng vào hệ thống xây dựng, Nhà máy phân đạm sử dụng nguyên liệu khí, Nhà máy nhiệt điện sử dụng nhiên liệu khí). Đây là công trình trọng điểm của Nhà nước, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương liên quan có trách nhiệm giúp đỡ Tổng công ty Dầu khí Việt Nam hoàn thành tốt công trình này. Bản Luận chứng kinh tế - kỹ thuật ban đầu này là sơ bộ và chưa đầy đủ (mới chỉ đề cập đến việc thu hồi chất lỏng condensat, chưa nói tới việc tách khí hoá lỏng LPG). Sau này, trong quá trình thực hiện, bản Luận chứng kinh tế - kỹ thuật đã được bổ sung hoàn chỉnh nhiều lần. Mặc dù vậy, có thể thấy rằng đây là tài liệu hết sức quan trọng, là cơ sở để Chính phủ Việt Nam ra quyết định đầu tư Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức, là căn cứ để Tổng công ty Dầu khí Việt Nam triển khai thực hiện dự án, tạo tiền đề cho việc phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam. 2.4. Về Thiết kế tổng thể “Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức” Sau khi Luận chứng kinh tế - kỹ thuật được duyệt, bước triển khai tiếp theo quy định của Nhà nước Việt Nam là lập thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán toàn bộ công trình. Do đây là dự án khí đầu tiên, chưa có tiền lệ ở Việt Nam, các tổ chức thiết kế trong nước chưa có kinh nghiệm nên một công ty thiết kế của Canađa là SNC- Lavalin đã được mời đàm phán về việc lập thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán. Ngày 24-6-1992, Hợp đồng lập Thiết kế tổng thể công trình thu gom và vận chuyển khí đồng hành Bạch Hổ - Thủ Đức đã được ký kết giữa Tổng công ty Dầu khí Việt Nam do Giám đốc Công ty Khí đốt Việt Nam Nguyễn Quang Hạp làm đại diện, theo ủy quyền của Tổng Giám đốc Hồ Sĩ Thoảng và Công ty SNC-Lavalin của Canađa do ông L.V. Bruneider làm đại diện. Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 409
  9. Phần thứ ba: TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM... Phạm vi công việc thiết kế tổng thể: - Thu thập các số liệu cơ sở; - Khảo sát và nghiên cứu thiết kế tuyến ống cho toàn bộ Dự án. Thiết kế tổng thể: - Đường ống; - Máy nén ngoài biển; - Nhà máy LPG; - Kho chứa và thiết bị bơm chuyển sản phẩm. Mục đích thiết kế tổng thể: - Tối ưu hóa thiết kế các hệ thống; - Triển khai đầy đủ công tác thiết kế để có thể xác định chi phí cho thực hiện Dự án và xác định phương pháp thực hiện Dự án. - Triển khai đầy đủ công tác thiết kế để có thể làm cơ sở đấu thầu EPC xây dựng Dự án. Giá trị Hợp đồng là 3.016.000 USD. Trong số tiền này có 542.003 USD trả cho Công ty Khí đốt Việt Nam về các công việc như thiết kế giàn chân đế ngoài biển, khảo sát biển và chọn tuyến, khảo sát địa chất công trình… do Phó Giám đốc Công ty Phạm Văn Kho, các chuyên viên Nguyễn Hùng, Nguyễn Đức Hoà, Nguyễn Thị Vân, Đoàn Thiện Tích, Trần Văn Thục, Lê Công Giáo… thực hiện. Theo Thiết kế tổng thể của SNC-Lavalin, Dự án sử dụng khí Bạch Hổ gồm các hạng mục công trình sau: - Giàn nén khí ngoài biển với 5 tổ nén khí, tổng công suất 8,1 tỷ m3 khí/năm, tổng dự toán 140 triệu USD; - Hệ thống đường ống với tổng chiều dài 195 km, trong đó có 115 km từ Bạch Hổ đến Dinh Cố và 84 km từ Dinh Cố về Thủ Đức; - Nhà máy xử lý khí tại Dinh Cố với tổng dự toán 80 triệu USD; - Hệ thống cảng xuất khí hóa lỏng và condensat tại Thị Vải, tổng dự toán 46 triệu USD. Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 410
  10. Chương 8: TRIỂN KHAI CÁC ĐỀ ÁN KHÍ VÀ... Phải nói rằng, đây là lần đầu tiên khái niệm “Thiết kế tổng thể” (FEED – Front- End Engineering and Design) được sử dụng ở Việt Nam. Ông Nguyễn Hiệp và Trưởng phòng Xây dựng cơ bản của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam Vũ Đình Chiến đã gặp Bộ trưởng - Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước Đỗ Quốc Sam để trình bày sự khác nhau và giống nhau giữa “Thiết kế tổng thể” và “Thiết kế kỹ thuật” của Liên Xô và Việt Nam cũng như chi phí thiết kế được tính theo tỷ lệ phần trăm của chi phí xây lắp và thiết bị toàn bộ công trình thay vì tính theo đơn giá thiết kế cho một đơn vị công suất như Quy định Đầu tư Xây dựng cơ bản hiện hành. Về tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng cho FEED, do nhà thiết kế SNC-Lavalin (Canađa) và đối tác liên doanh không thể áp dụng tiêu chuẩn GOST-Liên Xô nên Phía Việt Nam đã đề xuất áp dụng tiêu chuẩn của hãng Shell-Hà Lan (hiện đang dùng ở Bắc Mỹ và châu Âu) và yêu cầu SNC-Lavalin cung cấp hầu như tất cả các tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan đến công trình với trị giá khoảng 10.000 USD để cung cấp cho Bộ Xây dựng làm căn cứ thẩm định và phê duyệt. Một chi tiết nhỏ cho thấy sự khác biệt rất lớn giữa hai hệ thống tiêu chuẩn Liên Xô và phương Tây: hành lang đường ống dẫn khí. Theo tiêu chuẩn Liên Xô, chiều rộng mỗi bên hành lang an toàn là 150 m; theo tiêu chuẩn Mỹ không có khái niệm hành lang an toàn (safety corridor), vì an toàn phải được tính ngay trên vật liệu và công nghệ chế tạo ống, hàn ống… Đây cũng là cơ hội đầu tiên để Hội đồng Thẩm kế Nhà nước tiếp xúc với một cách làm việc mới… Như vậy, có thể nói rằng, lĩnh vực xây dựng dầu khí và ngành Xây dựng Việt Nam bắt đầu hội nhập với thế giới từ công trình này. Để tư vấn cho Tổng công ty Dầu khí Việt Nam và Hội đồng Thẩm kế Nhà nước tiến hành thẩm tra thiết kế tổng thể, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã ký hợp đồng với Công ty Sofre Gaz (Pháp). “Trong thời gian từ ngày 12-7-1993 đến ngày 30-7-1993, Hội đồng Thẩm kế Nhà nước đã họp, nghe ông L.V. Bruneider - đại diện Công ty SNC-Lavalin trình bày báo cáo về nội dung Thiết kế tổng thể. Quả thật là có nhiều vấn đề mới và “lạ” đối với ta lúc bấy giờ! Ta đặt các câu hỏi có vẻ như kiểm tra, “quay” đối tác, nhưng thực chất là để tìm hiểu, để “học”. Cũng phải đánh giá cao ông Bruneider rất kiên trì, nhẫn nại “giải trình”; có lúc ông ta phải trần tình “đây là vấn đề bí mật (know-how) của mỗi công ty, các ngài đã hỏi, tôi xin nói…”. Ngày 2-8-1993, ông Bruneider tiếp tục làm việc với ông Hiệp và ông Chiến. Ngày 3-8-1993, Hội đồng Thẩm kế Nhà nước ra thông báo bằng Văn bản số 73/HĐTK-TT, kết luận việc xem xét “Dự thảo báo cáo Thiết kế tổng thể công trình thu gom và vận chuyển Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 411
  11. Phần thứ ba: TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM... khí Bạch Hổ - Thủ Đức”. Hai tháng rưỡi, sau khi sửa chữa và bổ sung từ ngày 18- 10-1993 đến ngày 27-10-1993, ông Bruneider trình bày Báo cáo cuối cùng của Thiết kế tổng thể công trình “Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức” trước Hội đồng Thẩm kế Nhà nước do Thứ trưởng Bộ Xây dựng - Chủ tịch Hội đồng Nguyễn Mạnh Kiểm chủ trì”. Sau khi có Tờ trình của Chủ tịch Hội đồng Thẩm kế Nhà nước1, Thiết kế tổng thể “Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quyết định số 05/TTg ngày 4-1-1994. Những nội dung chính yếu của Thiết kế tổng thể gồm: Chủ đầu tư công trình là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam; Tổng vốn đầu tư là 456,200 triệu USD (kể cả cho công trình sớm đưa khí vào bờ, fast track, và phần chung cho gaslift của Xí nghiệp Liên doanh dầu khí Việt - Xô); Nguồn vốn, giai đoạn I - Công trình fast track đầu tư bằng vốn vay của các tổ chức trong nước và ngoài nước, giai đoạn II - Toàn bộ tổng thể hệ thống sẽ gọi vốn đầu tư nước ngoài theo hình thức liên doanh đầu tư, hoặc trả vốn bằng sản phẩm dầu khí. Trong quá trình triển khai Thiết kế tổng thể, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã tiến hành song song việc đàm phán tìm đối tác hợp tác đầu tư thực hiện toàn bộ Dự án, vì đây là Dự án lớn về vốn, phức tạp về công nghệ, lần đầu tiên thực hiện ở Việt Nam. Ông Nguyễn Hiệp, nguyên Phó Tổng Giám đốc Petrovietnam, kể lại: “Ngày 5-5-1994, tại Văn phòng Chính phủ, các Phó Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải và Trần Đức Lương đã chủ trì cuộc họp; tham dự cuộc họp có các ông Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Lê Xuân Trinh, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Xuân Giá, Thứ trưởng Bộ Năng lượng Nguyễn Ngọc Phan, Thứ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Sinh Hùng… Sau khi Tổng Giám đốc Hồ Sĩ Thoảng trình bày Đề án thu gom, vận chuyển và xử lý khí đồng hành mỏ Bạch Hổ, Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Đức Lương nêu rõ thêm một số vấn đề cần thảo luận. Nhiều ý kiến đã được đưa ra bàn thảo. Cuối cùng, Phó Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải kết luận: - Chủ trương về xây dựng đường ống dẫn khí từ Bạch Hổ đi Bà Rịa, Thủ Đức: chung vốn để làm. - Giàn nén khí: làm chung với Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro, để tiết kiệm được vốn của Nhà nước và chia sẻ trách nhiệm quản lý. - Phải làm sớm Nhà máy khí hoá lỏng. 1. Tờ trình số 1449/HĐTKNN ngày 9-11-1993 của Chủ tịch Hội đồng Thẩm kế Nhà nước. Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 412
  12. Chương 8: TRIỂN KHAI CÁC ĐỀ ÁN KHÍ VÀ... - Phải làm đồng bộ đưa khí vào bờ và hoá lỏng khí. - Giá bán khí cho điện tăng từng bước, nhưng bán cho Nhà máy đạm thì phải khác. - Toàn bộ vốn đầu tư cho Đề án là 500 triệu USD, ta tự làm thì không nổi. Do đó quyết định phải liên doanh. - Trong hợp đồng phải chặt chẽ để khỏi bị ép. Ta có thể thay thế Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc để nâng cao trình độ anh em. - Phải đấu thầu, chọn thầu chặt chẽ. - Tổng công ty Dầu khí phải chạy vốn. - Ngân hàng phải thu xếp vốn. - Bộ Tài chính phải giúp Petrovietnam để tính phần góp vốn bằng đất đai, chi phí tại Việt Nam… Nhiều tổ hợp các công ty nước ngoài đã tham gia đàm phán, trong đó nổi bật nhất là tổ hợp hai công ty British Gas của Anh và TransCanada Pipeline của Canađa, và kể cả các công ty BP, Enron (Mỹ). Do là Dự án đầu tiên, chưa có tiền lệ, việc đàm phán diễn ra gay go, phức tạp và có khả năng kéo dài. Trong nội bộ lãnh đạo Petrovietnam cũng chia thành hai nhóm quan điểm: liên doanh và tự làm, không liên doanh. Nhóm liên doanh dựa trên lập luận: vốn lớn, công nghệ và quản lý phức tạp, ta chưa có kinh nghiệm, kể cả việc bao tiêu sản phẩm (chủ yếu là xuất khẩu LPG, vì lúc đó thị trường tiêu thụ LPG rất nhỏ, chỉ vài nghìn tấn/ năm). Nhóm tự làm, không liên doanh, cho rằng “miếng ngon nhất” trong Đề án khí (là các công trình trên bờ như Nhà máy khí hoá lỏng và đường ống, kho cảng) lại đem liên doanh là để cho “người ngoài xơi”! Trong bối cảnh đó, ý tưởng chia dự án ra thực hiện từng phần đã xuất hiện mặc dù gây rất nhiều tranh cãi. Để sớm đưa khí vào bờ và được sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã quyết định thực hiện dự án “Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức” theo giai đoạn và đưa vào sử dụng từng phần, mặc dù đây là một hệ thống. Căn cứ vào nguyên tắc thực hiện đó, Dự án đã được chia thành các dự án thành phần sau đây: - Đường ống Bạch Hổ - Bà Rịa hay công trình sớm đưa khí vào bờ (fast track); - Đường ống Bà Rịa - Phú Mỹ hay công trình 2-3 triệu m3 khí/ngày đêm; - Đường ống Phú Mỹ - Thủ Đức (sau đổi thành đường ống Phú Mỹ - Thành phố Hồ Chí Minh); - Giàn nén khí trung tâm mỏ Bạch Hổ; Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 413
  13. Phần thứ ba: TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM... - Nhà máy xử lý khí Dinh Cố; - Kho cảng Thị Vải. Có thể nói rằng việc đàm phán lựa chọn đối tác cho toàn bộ dự án không thành công, nhưng cũng mang lại cho Tổng công ty Dầu khí Việt Nam những lợi ích thiết thực. Trong quá trình đàm phán, để giảm thiểu rủi ro và bảo vệ lợi ích của mình, các đối tác đã yêu cầu tổ chức thực hiện dự án theo thông lệ quốc tế, bao gồm từ cách thức thu xếp vốn, lựa chọn nhà thầu thông qua đấu thầu quốc tế, thuê tư vấn chuyên nghiệp quản lý dự án, đến thuê giám định độc lập cấp chứng chỉ phù hợp. Đó là điều mới lạ, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã sớm nhận ra lợi ích, nhanh chóng tiếp thu và vận dụng linh hoạt vào việc thực hiện dự án. 2.5. Về công trình sớm đưa khí vào bờ (fast track) Công trình sớm đưa khí vào bờ dựa trên nguyên lý sử dụng áp suất vỉa đưa 1 triệu m3 khí/ngày vào bờ, khi chưa có giàn nén khí ngoài mỏ, để cung cấp cho nhà máy điện tuốcbin khí Bà Rịa. Công trình bao gồm hệ thống thu gom và tách condensat ngoài biển, đường ống Bạch Hổ - Bà Rịa, trạm xử lý khí Dinh Cố và trạm phân phối khí Bà Rịa. Thiết kế tổng thể và dự toán tạm tính của công trình sớm đưa khí vào bờ đã được Hội đồng Thẩm tra thiết kế Nhà nước thẩm định và Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quyết định số 209/TTg ngày 5-5-1993, với giá trị 116,6 triệu USD và 10,2 tỷ đồng. Ban Quản lý công trình “Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức” là đại diện Chủ đầu tư được thành lập theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ1. Ông Bùi Hải Ninh, nguyên Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Dầu khí Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ cử làm Trưởng ban Quản lý Công trình khí. Song song với quá trình thẩm định, xét duyệt Thiết kế tổng thể công trình “Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức”, kể cả Thiết kế tổng thể công trình sớm đưa khí vào bờ (fast track), Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã khẩn trương tiến hành chọn nhà thầu tư vấn quản lý hợp đồng thiết kế - mua sắm - xây dựng (EPCM) vì ý thức rằng đây là công trình lần đầu tiên được xây dựng ở Việt Nam với dạng hợp đồng cũng lần đầu tiên thực hiện tại Việt Nam. 1. Quyết định số 35/TTg ngày 6-2-1993 của Thủ tướng Chính phủ do Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Đức Lương ký thay, về việc thành lập Ban Quản lý công trình “Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức”. Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 414
  14. Chương 8: TRIỂN KHAI CÁC ĐỀ ÁN KHÍ VÀ... Ngày 30-7-1993, Phó Tổng Giám đốc Tổng công ty Dầu khí Nguyễn Hiệp cùng Trưởng ban Quản lý công trình khí Bùi Hải Ninh, Trưởng phòng Xây dựng cơ bản Tổng công ty Dầu khí Việt Nam Vũ Đình Chiến cùng với Vụ trưởng Vụ Chính sách xây dựng Phan Đình Đại của Bộ Xây dựng và các chuyên viên họp bàn thống nhất cách triển khai chọn thầu tư vấn quản lý đề án. Ngày 3-8-1993, ông Hiệp trực tiếp làm việc với Bộ trưởng - Trưởng ban Chỉ đạo Ngô Xuân Lộc, có ông Chiến tham gia. Bộ trưởng Ngô Xuân Lộc yêu cầu chọn nhanh tư vấn quản lý trong số 3 công ty British Gas, Sofre Gaz và John Brown. Từ ngày 14-8- 1993 đến ngày 23-8-1993, Ban chọn thầu khẩn trương làm việc chọn nhà thầu tư vấn quản lý hợp đồng thiết kế - mua sắm - xây dựng (EPCM). Ngày 18-8-1993, Ban Chỉ đạo công trình khí nhà nước báo cáo Chính phủ đã chọn Công ty John Brown đạt các yêu cầu đề ra với giá chi phí thấp nhất. Ngay sau khi chọn được nhà thầu tư vấn quản lý công trình, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã triển khai ngay việc chọn thầu công trình sớm đưa khí vào bờ theo dạng Hợp đồng thiết kế - mua sắm - xây dựng (EPCC - Engineering- Procurement-Construction Contract). Ngày 1-9-1993 họp Ban chọn thầu, tham dự có Vụ trưởng Vụ Chính sách Bộ Xây dựng Phan Đình Đại và các ông Chính, Sâm, Chiến, Hiển, Trường, Chương. Ngày 29-9-1993 họp các nhà thầu Nisso Iwai, Mc Demott, Saipem, Bouygues Offshore, Hyundai Heavy Industries, có ông Finnay của Công ty tư vấn John Brown tham dự. Ngày 23-10-1993 họp Ban chọn thầu. Ngày 3-11-1993, hội ý Tổ đàm phán. Ngày 11-11-1993, họp lại Ban chọn thầu để đánh giá tình hình và chỉ đạo Tổ đàm phán. Ngày 2-12-1993, Bộ trưởng Bộ Xây dựng - Trưởng ban Quản lý công trình khí nhà nước làm việc tại Chi nhánh Công ty Petechim tại Vũng Tàu, Giám đốc Công ty Petechim Trần Hữu Lạc báo cáo đã chuẩn bị sẵn sàng để ký hợp đồng EPC. Ngày 15-12-1993, Ban Chỉ đạo công trình khí nhà nước họp tại Công ty Petechim ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ trưởng - Trưởng ban Ngô Xuân Lộc chỉ đạo khẩn trương đàm phán. Cuối cùng đã chọn được Công ty Hyundai Heavy Industries (Hàn Quốc) đảm nhiệm xây dựng công trình sớm đưa khí vào bờ. Ngày 20-12-1993, tại Hà Nội, Công ty Petechim đã ký Hợp đồng EPC với Công ty Hyundai Heavy Industries có trị giá 54.950.000 USD. Công trình sớm đưa khí vào bờ đã được tổ chức thực hiện theo đúng thông lệ quốc tế với việc sử dụng Công ty John Brown (Vương quốc Anh) làm tư vấn, Công ty Lloyd’s Register (Anh) làm giám định độc lập và Huyndai Heavy Industries (Hàn Quốc) làm nhà thầu EPC thông qua đấu thấu quốc tế. Xí nghiệp liên hiệp Xây lắp dầu khí (Việt Nam) được Hyundai chọn là nhà thầu phụ. Việc quản lý thực hiện Dự án được tổ chức phù hợp với các quy định của Việt Nam, cụ thể: Chính phủ thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước (Trưởng ban là Bộ trưởng Bộ Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 415
  15. Phần thứ ba: TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM... Xây dựng Ngô Xuân Lộc, Phó Trưởng ban là Tổng Giám đốc Petrovietnam Hồ Sĩ Thoảng, Uỷ viên Thường trực là Phó Tổng Giám đốc Petrovietnam Nguyễn Hiệp) để thực hiện một số chức năng chủ quản đầu tư, Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước (Chủ tịch Hội đồng là Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Mạnh Kiểm) để nghiệm thu công trình, Ban Quản lý Dự án khí thay mặt Chủ đầu tư là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam trực tiếp quản lý Dự án, hợp đồng EPC được ký qua đầu mối ngoại thương là Công ty Petechim. Chi phí công trình sớm đưa khí vào bờ bao gồm hợp đồng EPC ký với Công ty Hyundai và các hợp đồng ký với Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro vào khoảng 94 triệu USD. Ngày 9-4-1994, Lễ động thổ khởi công công trình fast track được thực hiện tại Long Hải, nơi tiếp giáp đường ống giữa biển và bờ dưới sự chứng kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Đức Lương cùng đại diện các bộ, ngành trung ương và địa phương. Sau hơn một năm xây dựng, ngày 17-4-1995 khí đồng hành thu gom từ mỏ Bạch Hổ đã vận chuyển vào bờ, đưa đến trạm phân phối khí Bà Rịa, sẵn sàng cung cấp khí cho Nhà máy điện Bà Rịa. Nhà máy điện Bà Rịa phát ra dòng điện bằng khí đầu tiên hòa vào lưới điện quốc gia vào lúc 14:00 giờ ngày 26-4-1995. Đuốc đốt khí tại Trạm tiếp nhận đầu vào Dinh Cố Lễ đón nhận dòng khí (ngày 17-4-1995) đầu tiên vào bờ được tổ Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 416
  16. Chương 8: TRIỂN KHAI CÁC ĐỀ ÁN KHÍ VÀ... chức chiều ngày 1-5-1995 tại Bà Rịa. Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt đã cắt băng chào mừng dòng khí đầu tiên vào bờ; tham dự còn có Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam Nguyễn Văn Tư, cùng nhiều đại diện của các bộ, ngành trung ương, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và các tỉnh, thành phố lân cận. Lễ đón nhận dòng khí đầu tiên vào bờ tại Trạm phân khối khí Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (ngày 1-5-1995) Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước công trình khí đã nghiệm thu công trình sớm đưa khí vào bờ vào ngày 30-12-1995. Năng lực của công trình theo thiết kế được duyệt: công suất 330 triệu m3 khí/năm, áp suất đầu vào 34 bar và nhiệt độ là 600C; áp suất đầu ra là 22 bar và nhiệt độ là 220C. Tuyến ống dưới biển, từ mỏ Bạch Hổ đến bờ biển Long Hải, dài 106,5 km, dày 11,9 mm và 14,3 mm, toàn tuyến được chôn sâu 0,9 - 3 m. Điểm tiếp bờ là Long Hải (thay vì là Mũi Kỳ Vân theo Luận chứng kinh tế - kỹ thuật “Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức” được duyệt ban đầu như đã trình bày ở trên). Tuyến ống Long Hải - Bà Rịa dài 16,722 km dày 9,5 mm. Trong quá trình lắp đặt đường ống ở ngoài biển Dự án sớm đưa khí vào bờ đã xảy ra sự cố đường ống bị gãy do bị va đập vào một vật nào đó (khoảng cuối Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 417
  17. Phần thứ ba: TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM... Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt và lãnh đạo Tổng công ty Dầu khí Việt Nam tại Trạm phân phối khí Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tháng 10-1994). Phía nhà thầu Hyundai cho là tàu cẩu của Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro gây ra, kiện đòi bồi thường. Phía Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro cũng đưa ra những chứng lý để bác bỏ chuyện đó và cho là chính Hyundai gây ra. Tranh cãi khá căng thẳng và mất nhiều thời gian (ngày 18-11-1994 họp Ban Quản lý Công trình khí Nhà nước, ngày 23-11-1994 Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Đức Lương chủ trì họp chỉ đạo xử lý; Cơ quan An ninh lúc đó là của Bộ Nội vụ cũng đã tham gia điều tra). Cuối cùng, vào khoảng tháng 1-1995, Nhà thầu Hyundai phải bỏ tiền để sửa chữa đến giữa tháng 2-1995 thì xong, không ảnh hưởng nhiều tới tiến độ đề án. Nhưng phải đến tháng 4-1996 Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro và Hyundai mới đi đến hoà giải, công ty bảo hiểm mà Hyundai mua bảo hiểm phải trả tiền sửa chữa. Trong quá trình triển khai Đề án, lần đầu tiên Phía Việt Nam tiếp cận với việc nhà thầu đòi trả tiền “phát sinh” (Variation Orders - VO) tới 21 triệu USD (gần bằng 1/4 tổng chi phí Đề án!). Phía ta kiên trì đàm phán (phải có đầy đủ lý lẽ và chứng cứ) ròng rã gần 3 năm trời (sau khi công trình đã được nghiệm thu và vận hành), nhà thầu phải chấp nhận ta chỉ thanh toán khoảng 5 triệu USD. Đề án sớm đưa khí vào bờ là đề án đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam dưới dạng Hợp đồng thiết kế - mua sắm - xây dựng (EPCC). Một phần vốn của Đề án Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 418
  18. Chương 8: TRIỂN KHAI CÁC ĐỀ ÁN KHÍ VÀ... do nhà thầu thu xếp (được gọi là tín dụng cho người mua - buyer credit). Nhà thầu Hyundai đã được Ngân hàng Xuất nhập khẩu (EXIMBANK) Hàn Quốc tài trợ. Đó là nguồn vốn chính để Phía Việt Nam có thể triển khai được Đề án vào năm 1993 - giai đoạn rất khó khăn của nền kinh tế Việt Nam. Có thể nói rằng, đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam được thực hiện theo thông lệ quốc tế: Sơ đồ quản lý dự án có sự tham gia của tư vấn và giám định nước ngoài đã giúp chủ đầu tư kiểm soát các khâu trong quá trình thực hiện, bảo đảm sự thống nhất về kỹ thuật và chất lượng các giải pháp thiết kế, để sau khi hoàn thành thì công trình có chứng chỉ quốc tế, dễ dàng thu xếp bảo hiểm với chi phí hợp lý; việc lựa chọn tư vấn, giám định và nhà thầu EPC được thực hiện thông qua đấu thầu quốc tế, trên cơ sở vận dụng các quy định về mua sắm hàng hóa của Ngân hàng Thế giới và hợp đồng EPC của Hiệp hội Tư vấn Quốc tế (FIDIC), trong khi Việt Nam chưa có quy định về đấu thầu và hình thức hợp đồng EPC. Các chuyên gia của Bộ Xây dựng (Vụ Chính sách xây dựng, Cục Giám định chất lượng) và các chuyên gia của Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước đã tham gia và giám sát việc thực hiện dự án từ đầu; những kinh nghiệm thực tế từ Dự án này đã góp phần to lớn vào việc hình thành phương thức quản lý các dự án tiếp theo của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam nói riêng, cũng như việc xây dựng các Quy chế, Quy định và Luật về xây dựng và đấu thầu của Việt Nam nói chung. Mặc dầu cái gì cũng mới mẻ khi thực thi đề án này, song Bộ trưởng Bộ Xây dựng, Trưởng ban Chỉ đạo Nhà nước công trình khí Ngô Xuân Lộc đã nhận xét: “Đây là công trình đạt tiêu chuẩn quốc tế, lần đầu tiên có bảo hành quốc tế, đúng tiến độ, không vượt dự toán và được quyết toán sớm”. 2.6. Về công trình 2-3 triệu m3 khí/ngày đêm Từ tháng 5-1995, sau khi công trình sớm đưa khí vào bờ hoàn thành, bảo đảm cung cấp 1 triệu m3 khí/ngày đêm cho Nhà máy điện Bà Rịa, nhu cầu cấp khí cho sản xuất điện tiếp tục gia tăng. Thủ tướng Chính phủ giao cho Tổng công ty Dầu khí Việt Nam tổ chức thực hiện dự án cung cấp 2 triệu m3 khí/ngày đêm vào đầu năm 1997 cho Nhà máy điện Phú Mỹ 2.1. Công trình 2-3 triệu m3 khí/ngày đêm bao gồm: việc lắp đặt hệ thống thu gom khí và giàn nén khí nhỏ ở ngoài khơi, bộ phận trộn khí (jet compressor) trên giàn ống đứng; xây dựng đường ống trên bờ Bà Rịa - Phú Mỹ; và trạm phân phối khí Phú Mỹ. Để bảo đảm công trình đạt chất lượng quốc tế, hoàn thành với tiến độ nhanh, kịp cung cấp 2 triệu m3 khí/ngày đêm cho các nhà máy điện Bà Rịa, Phú Mỹ vào Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 419
  19. Phần thứ ba: TỔNG CÔNG TY DẦU KHÍ VIỆT NAM... đầu năm 1997, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã được Chính phủ cho áp dụng một số cơ chế đặc biệt về mặt chỉ đạo, điều hành và tài chính. Về nhà thầu xây dựng công trình, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam được chỉ định: Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro là nhà thầu xây dựng hệ thống thu gom, xử lý, nén khí bổ sung nhằm bảo đảm lưu lượng của hệ thống lên 2 triệu m3 khí/ngày đêm; Công ty Thiết kế và Xây dựng dầu khí cùng với đơn vị xây dựng của Bộ Xây dựng là nhà thầu lắp đặt đường ống khí Bà Rịa - Phú Mỹ và trạm phân phối khí tại Phú Mỹ; Ban Quản lý Công trình Khí được đổi tên thành Ban Quản lý Dự án “Hệ thống thu gom và vận chuyển khí Bạch Hổ - Thủ Đức”. Ông Trần Văn Thục được bổ nhiệm là Trưởng ban để tiếp tục việc lãnh đạo thực hiện Dự án. Mặc dù đã có ít nhiều kinh nghiệm khi triển khai Đề án sớm đưa khí vào bờ, nhưng khi tự lực thực hiện Dự án 2-3 triệu m3 khí/ngày đêm, các đơn vị cũng gặp rất nhiều khó khăn từ khâu thiết kế, gọi thầu cung cấp thiết bị, vật tư, thi công… Việc đấu thầu thiết kế giàn nén khí nhỏ cũng diễn ra rất quyết liệt giữa các công ty chào thầu. Khi xây dựng Trạm xử lý và phân phối khí ở Phú Mỹ, do thiết bị lọc (Filter) và đốt nóng (Heater) đặt mua tại nước ngoài về chậm, trong khi Nhà máy điện Phú Mỹ 2.1 sắp cần khí để chạy thử. Tình thế cấp bách đòi hỏi phải làm by-pass. Sau khi khẩn trương tìm kiếm, đã thuê được Filter và Heater cũ của Công ty Technic Offshore tại Xingapo, chuyển gấp về Phú Mỹ và lắp vào đoạn ống phụ đó. Thế là sẵn sàng cung cấp khí cho Nhà máy điện Phú Mỹ 2.1! Đây cũng là lần đầu tiên thuật ngữ “by-pass” được dùng trong xây dựng dầu khí Việt Nam. Sau đó, các thiết bị này cũng được đặt mua luôn. Khi thiết bị đặt mua đã về và được lắp, các Filter và Heater cũ được tháo ra, sau này lại được lắp by-pass ở hệ thống khí - điện Cà Mau và hệ thống khí - điện Nhơn Trạch. Ông Nguyễn Hiệp, nguyên Phó Tổng Giám đốc Petrovietnam và là người được phân công đặc trách về khí kể lại hai câu chuyện vui. Chuyện thứ nhất, vào những ngày sắp đưa khí về để Nhà máy điện Phú Mỹ chạy thử, tình hình tranh cãi giữa Petrovietnam và EVN về những nguyên nhân từ hai phía có thể gây chậm trễ xảy ra rất căng thẳng ở cấp điều hành trực tiếp (đến nỗi Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Chủ tịch Hội đồng Quản trị của cả hai Tổng công ty phải vào tận nơi để thảo luận tìm giải pháp tháo gỡ những khó khăn, trở ngại cụ thể). Trong quá trình tranh cãi, phía EVN có cán bộ nói rằng, trong đường ống có cả “găng tay và giầy ủng” (!). Thật ra, sau khi lắp đặt xong, đường ống đã được thử thuỷ lực, thổi khí, phóng pig (thoi trượt)… thì làm sao còn có các thứ găng tay, giày ủng trong ống! Thứ trưởng Bộ Xây dựng kiêm Chủ tịch Hội đồng Nghiệm thu Nhà nước đã phải đến tận nơi kiểm tra. Phải chăng đó là “cách kéo dài thời gian” do phía nhà máy Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 420
  20. Chương 8: TRIỂN KHAI CÁC ĐỀ ÁN KHÍ VÀ... điện chưa chuẩn bị kịp việc chạy thử? Chuyện thứ hai thì vui thật. Để khẳng định khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ đã đến Phú Mỹ, thì phải đốt khí cháy ở tháp đuốc đặt tại Phú Mỹ. Nhà thiết kế đã lắp đặt hệ thống đánh lửa ở miệng đuốc. Khí đã có ở đuốc nhưng lửa thì không! Ông Nguyễn Trọng Nhưng, Giám đốc Công ty Thiết kế và Xây lắp dầu khí đã ra lệnh cho một xe cần cẩu, cẩu một thanh mà ở đầu có tẩm dầu đốt cháy, điều khiển ngọn lửa châm vào miệng đuốc như thể châm bếp dầu! Mọi người đều hồi hộp, rất lo vì cần cẩu có thể va vào đuốc! May thay, lửa đã bùng cháy ở miệng đuốc. Mọi người thở phào. Lúc đó một chuyên gia tư vấn của hãng John Brown nói với tôi rằng: “bây giờ tôi mới hiểu tại sao Việt Nam các ông thắng Mỹ!”. Cuối tháng 3-1997 dự án cung cấp 2 triệu m3 khí/ngày đêm hoàn thành và khí đã được cung cấp cho Nhà máy điện Phú Mỹ 2.1. Mặc dù việc tự lực triển khai công trình còn có những bước đi chập chững, nhưng các công trình này đều thực hiện với tổng chi phí đều ít hơn tổng dự toán được duyệt như công trình 2 triệu m3 khí/ngày đêm (tổng chi phí 252.540.643.377 đồng so với tổng dự toán: 258.729.004.109 đồng); công trình 3 triệu m3 khí/ngày đêm (tổng chi phí 49.784.451.361 đồng so với tổng dự toán 58.832.742.301 đồng)1. Và điều quan trọng nhất là đã cung cấp khí đồng hành từ mỏ Bạch Hổ đầy đủ và kịp thời cho các nhà máy điện Bà Rịa và Phú Mỹ 2.1 với tổng công suất gần 900 MW. 2.7. Về giàn nén khí trung tâm, mỏ Bạch Hổ Giải pháp dùng áp suất vỉa và sử dụng giàn nén nhỏ đưa khí vào bờ là các giải pháp tạm thời với sản lượng khí cung cấp có hạn. Giải pháp chính theo thiết kế tổng thể là xây dựng giàn nén khí trung tâm tại mỏ Bạch Hổ, vừa nén khí để vận chuyển vào bờ, vừa nén khí cho khai thác dầu theo phương pháp gaslift. Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã giao cho Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro trực tiếp quản lý thực hiện Dự án và vận hành (sau này) trên cơ sở thiết kế tổng thể của SNC-Lavalin. Giàn nén khí trung tâm có 5 tổ máy nén khí với tổng công suất 8,1 tỷ m3 khí/năm, tổng dự toán công trình là 152 triệu USD. Công trình được thực hiện theo hình thức đấu thầu EPC quốc tế; trúng thầu EPC là Tổ hợp nhà thầu Bouygues Offshore (Pháp) và Samsung Heavy Industries (Hàn Quốc), Nhà thầu tư vấn Fluor Daniel (Mỹ) và nhà giám định Lloyd’s Register (Anh). Sau 2 năm xây dựng, tháng 8-1997 công trình giàn nén khí trung tâm tại mỏ Bạch Hổ đã chính thức đi vào hoạt động góp phần đưa hệ thống khí Bạch Hổ đạt công suất thiết kế 4,2 triệu m3 khí/ngày đêm. 1. Các quyết định số 7060/QĐ-DKVN và 7062/QĐ-DKVN ngày 22-11-2007 của Hội đồng Quản trị Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Lòch söû ngaønh Daàu khí Vieät Nam 421
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2