intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

lịch sử phong trào nông dân và hội nông dân tỉnh Đăk nông, giai đoạn 1930 - 2013

Chia sẻ: Vũ Thái Dũng | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:232

121
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

lịch sử phong trào nông dân và hội nông dân tỉnh Đăk nông, giai đoạn 1930 - 2013 bao gồm những nội dung về đặc điểm, truyền thống phong trào nông dân trên vùng đất Đắk nông trong cách mạng giải phóng dân tộc và kháng chiến chống ngoại xâm, nông dân vùng đất Đắk nông trong quá trình cùng cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và từng bước tiến hành đổi mới và một số nội dung khác.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: lịch sử phong trào nông dân và hội nông dân tỉnh Đăk nông, giai đoạn 1930 - 2013

  1. LỜI NÓI ĐẦU Là một tỉnh có vị trí địa chính trị hết sức quan trọng, là “phên dậu” của Tổ  quốc, qua dòng chảy của lịch sử  dân tộc, nông dân của các đồng bào dân tộc  trên vùng đất Đăk Nông vừa giàu lòng yêu nước, cần cù thông minh sáng tạo  trong lao động sản xuất; không chỉ  có vai trò to lớn trong cách mạng dân tộc  dân chủ mà còn có vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp,  nông   thôn.  Trải qua những thăng trầm, thử thách của lịch sử, nông dân trên vùng đất Đăk   Nông đã viết nên những trang anh hùng ca bất tử  trong các cuộc kháng chiến   chống ngoại xâm. Từ  phong trào yêu nước trước khi có Đảng, như  anh hùng  dân tộc N’TrangLơng, đến những cơ  sở  cách mạng chở  che cho các chiến sĩ  cộng sản vượt ngục Đăk  Mil trong chống Pháp  và hàng ngàn nông dân xây  dựng tuyến hành lang chiến lược nối liền đường dây liên lạc giữa các tỉnh Tây  Nguyên với Miền Đông Nam Bộ…để góp phần quan trọng trong thắng lợi mùa  Xuân năm 1975. Tinh thần bất khuất, kiên cường ấy, được nông dân các đồng  bào dân tộc tiếp nối trong các phong trào xóa đói giảm nghèo, xây dựng quê   hương trong công cuộc đổi mới đất nước. Đó cũng chính là thành quả của quá  trình lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã khơi dậy được phong trào rộng lớn của   nông dân trên vùng đất này, khẳng định trong thực tế ngay từ khi Đảng ra đời,   đã thể  hiện là tổ  chức tiên phong không chỉ  của công nhân mà của toàn thể  nhân dân lao động ­ trong đó đa số là nông dân.   Nguyện vọng của cán bộ, hội viên, nông dân các dân tộc tỉnh Đăk Nông  mong muốn được ghi lại những trang sử  hào hùng của cha ông, khẳng định   công lao, sự đóng góp đồng thời để tôn vinh, tri ân đối  với các thế hệ nông dân  đã phấn đấu, hy sinh để  xây dựng và bảo vệ  vùng đất Đăk Nông có được vị  thế như hiện nay. Đồng thời, góp phần giáo dục truyền thống cần cù sáng tạo,  bất khuất kiên cường của nông dân các đồng bào dân tộc trên vùng đất này, từ  đó động viên, khích lệ  đồng bào các dân tộc, đặc biệt là thế  hệ  trẻ, phát huy  tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực tự cường, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn,   thách thức để xứng đáng với các thế  hệ ông, cha đã bảo vệ  và xây dựng vùng  đất quê hương trung kiên, anh dũng này. 1
  2.   Với tất cả  ý nghĩa  ấy, Tỉnh  ủy Đăk Nông đồng ý chủ  trương và chỉ  đạo  Ban Thường vụ  Hội Nông dân tỉnh Đăk Nông thực hiện công tác nghiên cứu   sưu tầm, biên soạn cuốn "Lịch sử  phong trào Nông dân và Hội nông dân tỉnh   Đăk Nông, giai đoạn 1930 ­ 2013". Bố cục cuốn sách: Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, cuốn sách được   chia làm 8 chương với ba phần lớn : Phần thứ  nhất:  Đặc điểm, truyền thống phong trào nông dân trên vùng   đất Đắk Nông trong cách mạng giải phóng dân tộc và kháng chiến chống ngoại   xâm. Phần thứ hai: Nông dân vùng đất Đắk Nông trong quá trình cùng cả nước   quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và từng bước tiến hành đổi mới (1975­2003) Phần thứ ba: Tỉnh Đắk Nông được thành lập, Hội Nông dân tỉnh ra đời –   quá trình xây dựng và trưởng thành (2004­2014)  Cuốn sách đã phản ánh chân thực về quá trình hình thành và phát triển của  phong trào nông dân từ  khi chưa có Đảng gắn với sự  hình thành và phát triển  của tổ chức Hội Nông dân trên địa bàn tỉnh Đăk Nông qua các thời kỳ, các giai   đoạn cách mạng dưới sự  lãnh đạo của Đảng bộ  tỉnh Quảng Đức và tỉnh Đăk   Lăk (cũ) trước đây và tỉnh mới Đăk Nông ngày nay trong dòng chảy lịch sử của   đất nước.  Đây là tài liệu quý báu, phục vụ  cho công tác nghiên cứu, giáo dục truyền   thống cho thế  hệ  trẻ, trong hệ thống tổ chức Hội và phong trào nông dân các  dân tộc trong tỉnh. Phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết tương trợ giúp đỡ  nhau, xóa đói ­ giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, giữ  vững an ninh quốc   phòng trên dải đất biên cương phía nam của Tổ quốc. Đây cũng là một bước quan trọng trong công tác tổng kết thực tiễn sinh   động của tổ chức Hội và phong trào nông dân trên địa bàn tỉnh Đăk Nông trong  một giai đoạn cách mạng nhất định, góp phần cùng các nhà nghiên cứu, các nhà  hoạch định chính sách phát hiện quy luật của sự  vận động và phát triển trong  nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa bàn tỉnh Đăk Nông nói riêng và Tây  Nguyên nói chung. 2
  3. Mặc dù đã có nhiều cố  gắng trong quá trình biên soạn, nhưng do nghiên  cứu trên địa bàn có nhiều sự thay đổi về địa giới hành chính qua các thời kỳ lịch   sử, đặc biệt khó khăn trong việc khai thác tài liệu lưu trữ  và gặp gỡ  các nhân   chứng lịch sử, do vậy, cuốn sách không tránh khỏi những hạn chế, khiếm   khuyết nhất định. Ban Biên soạn mong muốn nhận được những đóng góp quý  giá của các độc giả, các nhà khoa học và nhân dân các dân tộc trong và ngoài  tỉnh, để tái bản lần sau cuốn sách được hoàn chỉnh hơn.                                                                                   Ban Biên soạn Phần thứ nhất ĐẶC ĐIỂM, TRUYỀN THỐNG PHONG TRÀO NÔNG DÂN TRÊN VÙNG  ĐẤT ĐẮK NÔNG TRONG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ  KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGOẠI XÂM Chương 1 ĐẶC ĐIỂM, TRUYỀN THỐNG VÀ  CON NGƯỜI VÙNG ĐẤT ĐẮK NÔNG 1.1. Quá trình hình thành và phát triển vùng đất, con người Đắk  Nông  Vùng đất  Đắk Nông – quá trình hình thành và phát triển Đến những năm cuối thế kỷ XIX, vùng đất Đắk Nông vẫn là nơi xa xôi,  hẻo lánh, dân cư  thưa thớt, là nơi cư  trú chủ  yếu của đồng bào dân tộc người   thiểu số  bản địa, sống theo cộng đồng, thị  tộc, bộ  lạc, trải trên một địa bàn   rộng lớn. Tuy vậy, ngay từ lúc đó, Đắk Nông đã được xác định là vùng đất giàu   tiềm năng phát triển kinh tế và có vị trí chiến lược về  quân sự  đối với cả khu   3
  4. vực. Do có vị  trí quan trọng về  nhiều mặt, Đắk Nông đã sớm trở  thành mục  tiêu mà thực dân Pháp đặc biệt chú ý. Những người Pháp đầu tiên đặt chân lên   vùng đất Đắk Nông là những tên gián điệp khoác áo giáo sĩ như  Ta be, Phông  ten… hoặc là những tên gián điệp được ngụy trang dưới danh nghĩa nhà nghiên  cứu như  HăngriMét. Trong quá trình thị  sát Đông Dương, các giáo sĩ phương   Tây đã tổ  chức khảo cứu, vẽ  bản đồ  thổ  nhưỡng và dân cư  tại địa phương   nhằm phục vụ  cho việc truyền giáo, chinh phục và khai thác của thực dân  Pháp. Sau khi xâm lược Việt Nam, Pháp nhanh chóng đưa quân đến vùng Tây  Nguyên nói chung và Đắk Nông nói riêng, thiết lập bộ  máy cai trị  của chính   quyền thực dân. Pháp thành lập một số đồn điền ở vùng này để nghiên cứu và  kiểm  soát dân chúng, tập trung ở Đắk Mil, Đắk Song. Sau khi Hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết   (21­7­1954), đế  quốc Mỹ  nhảy vào miền Nam, dựng nên chính quyền tay sai  Ngô Đình Diệm, thực hiện âm mưu thôn tính miền Nam Việt Nam. Xuất phát   từ  vị  trí chiến lược của Đắk Nông, nơi tiếp giáp giữa ba vùng: Tây Nguyên,   Đông Nam Bộ  và Đông Bắc Campuchia, trong những năm đầu của quá trình  xâm lược, Mỹ­Diệm đã tổ chức chiếm đóng, phân tuyến phòng thủ, thực hiện   chính sách đưa dân từ  vùng đồng bằng lên Đắk Nông lập nghiệp, từng bước   xây dựng, củng cố  mọi mặt để  hình thành một đơn vị  hành chính mới, nhằm  thiết lập vành  đai ngăn chặn  ảnh hưởng của phong trào cách mạng  ở  Tây  Nguyên đối với vùng Đông Nam Bộ và Sài Gòn; đồng thời, làm cơ sở khai thác  tiềm năng kinh tế  của Tây Nguyên, phục vụ  âm mưu xâm chiếm lâu dài của   chúng ở miền Nam Việt Nam. Với mưu đồ  đó, ngày 23­1­1959, chính quyền Ngô Đình Diệm ra Sắc  lệnh số 24­NV thành lập tỉnh Quảng Đức1. Theo Sắc lệnh này, tỉnh Quảng Đức  hình thành trên cơ sở cắt một phần tổng Đăk Đam, một phần tổng Đăk Mâm và  toàn bộ tổng Đắk Mil nguyên thuộc quận Đăk Song của tỉnh Đắk Lắk và một   phần tổng Nam Ka nguyên thuộc quận Lắk tỉnh Đắk Lắk từ phía Nam cầu 14   vào đến Đắk Song gọi là quận Đức Lập; cắt tổng Đắk Bút So, tổng Đắk Rtih,  nguyên thuộc quận Đắk Song tỉnh Đắk Lắk và hai xã Bu Prăng, Du Diên Vir  1  Theo quyết định của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, chiếu Sắc lệnh số 4­TTP ngày 29­10­1955 và các  văn kiện kế tiếp ấn định thành phần Chính phủ, chiếu Sắc lệnh số 4­aTTP ngày 23­10­1956 về đổi danh   hiệu các phần, chiếu dụ số 57a ngày 24­10­1956 cải tổ nền hành chính Việt Nam, Ngô Đình Diệm ký Sắc  lệnh số 24­NV ngày 23­01­1959 thành lập tại cao nguyên trung phần 1 tỉnh mới đặt tên là Quảng Đức. 4
  5. nguyên thuộc quận Phước Hòa tỉnh Phước Long thành lập quận Kiến Đức; lấy  tổng Đắk N’Drung, nguyên thuộc quận Đắk Song tỉnh Đắk Lắk và xã Bích Khê  nguyên thuộc quận Di Linh, tỉnh Lâm Đồng gồm cả Kiến Đức thành lập quận  Khiêm Đức. Tỉnh lỵ  Quảng Đức đặt tại thị  xã Gia Nghĩa. Dân số  Quảng Đức  lúc bấy giờ khoảng 37.000 người, phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số, trong   đó chủ yếu là người M’Nông.  Đối với ta, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phạm vi   hành chính của tỉnh Quảng Đức cũng được điều chỉnh cho phù hợp với yêu   cầu, nhiệm vụ chiến lược và điều kiện chiến tranh. Tháng 12 năm 1960, Trung   ương quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức thuộc Liên tỉnh IV, do Liên khu V   chỉ  đạo, dựa trên sự  phân chia địa giới hành chính của chính quyền Ngô Đình  Diệm (lấy mật danh là B4); đồng thời, chỉ định đồng chí Vũ Anh Ba (tức Hồng   Ưng) làm Bí thư Ban Cán sự tỉnh để lãnh đạo phong trào cách mạng. Mặt khác,  do yêu cầu, nhiệm vụ  chiến đấu và xây dựng trong từng thời kỳ  lịch sử, nên   tỉnh Quảng Đức (cũ) có sự  chia tách nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực  tế. Đến giữa năm 1961, khu VI được thành lập, tỉnh Quảng Đức thuộc về  sự  chỉ đạo của khu VI. Đến cuối năm 1961, khi Khu X được thành lập, tỉnh Quảng   Đức lại chuyển từ  khu VI về  trực thuộc Khu X. Thời kỳ này địch mở  những   cuộc càn quét lớn vào vùng căn cứ  để  bắt lính, chúng dồn dân, lập  ấp chiến   lược, thọc sâu vào đánh phá căn cứ và bao vây, phong toả kinh tế của ta. Xuất   phát từ nhiệm vụ, yêu cầu của cách mạng, đầu năm 1962, tỉnh Quảng Đức giải  thể; cắt huyện Khiêm Đức về tỉnh Lâm Đồng, thành lập Ban Cán sự B7; huyện  Đức Lập và Đức Xuyên nhập về  Đắk Lắk; huyện Kiến Đức nhập về  Phước  Long. Tháng 10­1962, cắt huyện Khiêm Đức và xã Đãng Gia của huyện Đức  Trọng thành lập huyện mới, mang mật danh E25, các huyện khác được giữ  nguyên như cũ. Trước điều kiện và tình hình mới của lịch sử, năm 1963, tỉnh Quảng Đức  được tái lập. Huyện E25 giải thể  và trở  lại mang tên Khiêm Đức như  trước.   Thực hiện sự  chỉ  đạo của cấp trên, nhiệm vụ  của ta là giữ  vững căn cứ, phát  triển thực lực cách mạng, chống càn quét, gom dân, lập ấp, đồng thời phá kìm,  đưa dân từ   ấp chiến lược về vùng căn cứ  cách mạng. Lúc này lại có sự  điều   chỉnh, tỉnh Quảng Đức thuộc sự chỉ đạo của khu X. Tháng 10 ­ 1963, ta quyết   5
  6. định giải thể khu X, cũng đồng thời giải thể luôn tỉnh Quảng Đức. Huyện Đức   Lập, Đức Xuyên về  lại tỉnh Đắk Lắk, Khiêm Đức về  Lâm Đồng, Kiến Đức  lúc này là một huyện nhỏ  vẫn tiếp tục  đặt dưới sự  lãnh đạo của Tỉnh uỷ  Phước Long. Đến đầu năm 1965, tỉnh Quảng Đức được tái lập lần thứ  hai,   nhưng đến đầu năm 1966 lại giải thể một lần nữa và chia thành hai đơn vị  là   Tiền phương A và Tiền phương B. Tiền phương A gồm: Huyện Đức Lập và  Đức Xuyên, do đồng chí Trần Phòng (Bảy Biên) làm Bí thư, đồng chí Phùng  Đình  Ấm (Ba Cung) làm Phó Bí thư. Tiền phương B gồm huyện Khiêm Đức,  Kiến Đức và thị xã Gia Nghĩa, do đồng chí Nguyễn Xuân Khanh (Năm Khanh)   làm Bí thư. Đầu tháng 01 ­ 1967, do nhiệm vụ chiến trường đặt ra, hai cơ quan  Tiền phương A và B hợp nhất thành tỉnh Quảng Đức như cũ. Tháng 5 ­ 1971, để  phù hợp với diễn biến phát triển của cách mạng,  Trung  ương quyết định giải thể  tỉnh Quảng Đức lần thứ  tư; giao Khiêm Đức,  Kiến Đức về  Lâm Đồng dưới sự  chỉ  đạo của khu VI; Đức Xuyên, Đức Lập   được chuyển về  Đắk Lắk thuộc khu V chỉ  đạo. Đến tháng 8 ­ 1974, tiếp tục  giao Kiến Đức về  Phước Long; còn Khiêm Đức, Gia Nghĩa vẫn thuộc Lâm   Đồng. Sự  chỉ  đạo theo đơn vị  mới này kéo dài cho đến ngày miền Nam hoàn  toàn giải phóng. Tháng 5­1975, thi hành chủ  trương của Trung  ương, tỉnh Quảng  Đức   được tái thành lập và đến tháng 11­1975, tỉnh Quảng Đức sát nhập vào tỉnh  Đắk Lắk. Từ ngày 01–01­2004, tỉnh Đắk Nông được thành lập theo Nghị quyết số  22/2003/QH11   ngày   26­11­2003   của   Quốc   hội   khóa   XI,   trên   cơ   sở   tách   06  huyện phía Nam của tỉnh Đắk Lắk (cũ), gồm: Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Song, Đắk  Nông, Đắk R’Lấp và Krông Nô, với diện tích tự nhiên là 651.438 hécta, dân số  392.070 người với 31 dân tộc anh em sinh sống. Trung tâm tỉnh lỵ  đặt tại thị  trấn Gia Nghĩa, huyện Đắk Nông (nay là thị  xã Gia Nghĩa). Đến tháng 8­2005,  thành lập huyện mới Đắk GLong (huyện Đắk Nông cũ tách ra thành lập thị xã   Gia Nghĩa và huyện Đắk GLong); tháng 11­2006, thành lập huyện Tuy Đức   (tách ra từ huyện Đắk R’Lấp). Tính đến ngày 31­12­2010, toàn tỉnh có 1 thị xã,   7 huyện, 71 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 5 phường, 5 thị trấn và 61 xã).  Vị trí địa lý, địa hình và tài nguyên 6
  7.  Tỉnh Đắk Nông hiện nay là một trong 5 tỉnh Tây Nguyên, thuộc biên giới  Tây Nam của Tổ quốc, nằm ở phía Tây Nam của vùng Tây Nguyên, đoạn cuối   dăy Trường Sơn; được xác định trong khoảng tọa độ  địa lý: 11045’ đến 12050’  vĩ độ Bắc, 107013’đến 108010’ kinh độ Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh  Đắk Lắk, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam và Tây Nam  giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia. Nằm ở cửa ngõ Tây Nguyên, Đắk Nông có Quốc lộ 14 nối thành phố Hồ  Chí Minh và các tỉnh Miền Đông Nam bộ với các tỉnh Tây nguyên, cách Thành  phố Hồ Chí Minh 250 km về phía Bắc và cách Thành phố Ban Mê Thuột (Đắk   Lăk) 120 km về  phía Tây Nam; có Quốc lộ  28 nối Đắk Nông với Lâm Đồng,   Bình Thuận và các tỉnh Duyên hải miền Trung, cách Thành phố  Đà Lạt (Lâm  Đồng) 120 km và Thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) 160 km về phía Đông. Đắk Nông có 130 km đường biên giới tiếp giáp với tỉnh Mondulkiri, có  02 cửa khẩu Bu Prăng và Dak Per nối thông với Mondulkiri, Kratie, Kandal,  Pnom Penh, Siem Reap, v.v. của nước bạn Campuchia. Vị trí địa lý như trên là điều kiện thuận lợi để Đắk Nông có thể mở rộng  giao lưu với các tỉnh trong khu vực Tây nguyên; vùng kinh tế  trọng điểm phía  Nam; Duyên hải miền Trung và nước bạn Campuchia, là nguồn động lực để  Đắk Nông thúc đẩy phát triển kinh tế ­ xã hội để trở thành trung tâm phát triển   kinh tế năng động của khu vực Tây Nguyên.  Về địa hình, Đắk Nông nằm trọn trên cao nguyên M’Nông, độ cao trung  bình khoảng 600 m đến 700m so với mặt nước biển, có nơi lên đến 1.982m (Tà  Đùng). Nhìn tổng thể, địa hình Đắk Nông như  hai mái của một ngôi nhà mà  đường nóc là dăy núi Nam Nung, chạy dài từ  Đông sang Tây, có độ  cao trung   bình khoảng 800m, có nơi cao đến hơn 1.500m. Địa hình có hướng thấp dần từ  Đông sang Tây. Các huyện Đắk Song, Đắk Mil, Cư  Jut, Krông Nô thuộc lưu  vực sông Krông Nô, sông Srêpốk nên thấp dần từ Nam xuống Bắc. Các huyện  Tuy Đức, Đắk R’lấp, Đăk Glong và thị  xã Gia Nghĩa thuộc thượng nguồn lưu   vực sông Đồng Nai nên thấp dần từ Bắc xuống Nam. Vì   vậy,   Đắk   Nông   có   địa   hình   đa   dạng   và   phong   phú, bị   chia   cắt  mạnh, có sự xen kẽ giữa các núi cao hùng vĩ, hiểm trở với các cao nguyên rộng  7
  8. lớn, dốc thoải, lượn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ  các dải đồng bằng thấp  trũng. Địa hình thung lũng thấp, có độ  dốc từ  0­30 chủ  yếu phân bố  dọc sông  Krông Nô, Sêrêpôk, thuộc các huyện Cư  Jút, Krông Nô. Địa hình cao nguyên   đất đỏ Bazan chủ yếu ở Đắk Mil, Đắk Song, độ cao trung bình 600 ­ 800m, độ  dốc khoảng 5­100. Địa hình chia cắt mạnh và có độ dốc lớn > 150 phân bố chủ  yếu trên địa bàn các huyện Đăk Glong, Đắk R'Lấp.  Với diện tích trên 651.438 hécta đất tự  nhiên, đất đai Đắk Nông khá  phong phú và đa dạng, nhưng chủ yếu gồm 05 nhóm chính: Nhóm đất xám trên  nền đá macma axit và đá cát chiếm khoảng 40%  trong tổng diện tích 651.561  ha và được phân bổ  đều toàn tỉnh. Đất đỏ  Bazan trên nền đá Bazan phong hóa   chiếm khoảng 35% diện tích, có tầng dày bình quân 120 cm, phân bổ chủ  yếu  ở Đắk Mil, Đắk Song. Còn lại là đất đen bồi tụ trên nền đá Bazan, đất Gley và   đất   phù   sa   bồi   tụ   dọc   các   dòng   sông,   suối.   Về   giá   trị   sử   dụng,   đất   nông   nghiệp có diện tích là 306.749 ha, chiếm 47% tổng diện tích tự nhiên; đất lâm   nghiệp   có   rừng diện   tích   là   279.510   ha,   tỉ   lệ   che   phủ   rừng   toàn   tỉnh   là  42,9%;  đất   phi   nông   nghiệp có   diện   tích   42.307   ha. Đất   chưa   sử   dụng còn  21.327 ha, trong đó đất sông suối và núi đá không có cây rừng là 17.994 ha. Với tài nguyên đất đai nêu trên, Đắk Nông rất thuận lợi cho việc phát  triển các loại cây công nghiệp dài ngày như: Cà phê, cao su, chè, tiêu, điều trên  nền đất xám, đất đỏ  Bazan; đồng thời phát triển một diện tích lớn cây hàng   năm như lúa, ngô và các loại cây công nghiệp ngắn ngày khác trên đất đen bồi   tụ, đất Gley và đất phù sa ven sông suối. Rừng tự  nhiên  ở  Đắk Nông nằm trong vùng hội tụ  của hai luồng thực   vật với hai loại hình rừng: Rừng thường xanh phân bố chủ yếu ở các vùng đất  có lượng mưa lớn, độ   ẩm cao, tầng đất sâu như  Krông Nô, Đắk Song, Đắk  Glong, Tuy Đức. Rừng khộp phân bố  chủ  yếu  ở  các vùng đất có lượng mưa   thấp, điều kiện khắc nghiệt, các vùng lập địa xấu như bắc Đắk Mil, Cư Jut. Rừng Đắk Nông có nhiều hệ  động vật và thực vật phong phú và đa   dạng, những khu rừng nguyên sinh có nhiều loại gỗ qúy và cây đặc sản vừa có  giá trị  kinh tế, vừa có giá trị  khoa học. Trong rừng còn nhiều động vật qúy  hiếm như voi, gấu, hổ v.v. được ghi trong sách đỏ của nước ta và sách đỏ  thế  8
  9. giới; có nhiều loại dược liệu qúy là nguồn nguyên liệu dồi dào để  chế  thuốc  chữa bệnh trong y học dân tộc.  Lượng   mưa   trung   bình   hàng năm của   Đắk   Nông  là 2.513   mm,   lượng  mưa cao nhất là 3.000 mm, độ ẩm không khí trung bình 84%. Với địa hình chia  cắt và lượng mưa lớn, nên mật độ  sông suối của Đắk Nông khá dày và có  nhiều ghềnh thác. Phía Bắc và phía Tây có sông Sêrêpốk (ranh giới tự nhiên với   tỉnh Đắk Lắk), sông Prêktê và sông Prêk Clong đổ ra sông Mê Kông; phía Đông  Nam có sông Đa Dâng (thượng nguồn sông Đồng Nai, ranh giới tự  nhiên với   tỉnh Lâm Đồng). Sông suối  ở Đắk Nông không chỉ cung cấp nguồn nước ngọt   phục vụ đời sống của nhân dân mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với  sản xuất nông nghiệp của những người nông dân ở Đắk Nông. Mặt khác, sông  suối trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có tiềm năng thủy điện dồi dào. Hệ thống suối   đầu nguồn của các sông Đồng Nai, Krông Nô, Sêrêpôk có thể  xây dựng nhiều   công trình thủy điện lớn với tổng công suất khoảng 1500 MW như  thuỷ  điện  Buôn Kuôp 280 MW, Đức Xuyên 92 MW, Buôn TuaSrah 85 MW, Đắk Tih 140  MW, Đồng Nai 3­180 MW, Đồng Nai 4 – 340MW, Đồng Nai 6&6A v.v. đang   từng bước được đầu tư xây dựng.  Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 178 mỏ  khoáng sản với 16 loại khoáng   sản chủ  yếu: bauxit, wolfram, antimoal, bazan bọt; bazan cột, bazan khối, cát  xây dựng, đá bazan, đá granit, sét gạch ngói, than bùn, opal, thiếc sa khoáng,   kaolin, nước khoáng thiên nhiên, saphir. Trong đó, bauxite là nguồn khoáng sản  có trữ  lượng lớn, phân bố   ở  thị  xã Gia Nghĩa, các huyện Đắk GLong, Đắk   R'Lấp, Đắk Song, Tuy Đức, trữ lượng dự đoán 5,4 tỉ tấn, trữ lượng thăm dò 2,6  tỉ  tấn, hàm lượng Al2O3 từ  35­40%.  Ngoài ra còn có các tài nguyên khá phong  phú là nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng như đất sét phân bố rải rác  trên địa bàn một số  huyện, có thể  khai thác công nghiệp, sản xuất gạch, ngói   phục vụ nhu cầu xây dựng các công trình kinh tế­xã hội cũng như xây dựng dân  dụng cho khu vực dân cư  trên địa bàn tỉnh. Sét cao lanh làm gốm sứ  cao cấp  phân bố  tập trung  ở  huyện Đắk Glong, thị  xã Gia Nghĩa; puzơlan làm nguyên  liệu cho xi măng, gạch ceramic; đá bazan bọt làm nguyên liệu sản xuất gạch ốp   lát cách âm, cách nhiệt, sợi chịu nhiệt v.v. 9
  10.  Cũng với lợi thế  nằm trên cao nguyên M’Nông mênh mông, là thượng   nguồn của 02 dòng sông lớn là sông Sêrêpôk và sông Đồng Nai, Đắk Nông có  nhiều   thắng   cảnh   thiên   nhiên   tuyệt   đẹp.   Các   thác   nước   đẹp,   hùng   vĩ,   còn  nguyên sơ  nằm giữa rừng già như  thác Trinh Nữ, thác Dray H'Linh, Dray Sáp,   thác Gia Long, thác Dray Nur, thác Diệu Thanh, thác Gấu, thác Chuông, thác  Diệu Thanh, thác Ngầm, thác Lưu Ly, thác Liêng Nung, thác Đắk Glun, thác Ba   tầng, v.v. Những khu rừng nguyên sinh có thể  xây dựng các khu du lịch sinh thái,   giã ngoại, cưỡi ngựa, sắn bắn, cắm trại trong các khu bảo tồn thiên nhiên Nam  Nung (25.000 ha), bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng (28.000 ha). Những hồ  nước   mênh mông có thể  xây dựng các khu du lịch nghỉ  dưỡng, đua thuyền như  Hồ  Tây, EaSnô, Đắk Rông, Đak Đier, ĐãkR’tih, Đồng Nai 3, 4. Các bon làng đồng bào dân M’Nông, Mạ, Ê đê… là những vùng đất  ẩn  chứa nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể quý báu, trong đó nổi bật hơn   cả  là cồng chiêng và các bộ  sử  thi; với những nét sinh hoạt văn hóa truyền  thống như Lễ hội cồng chiêng, uống rượu cần, lễ hội đâm trâu...là những tiềm   năng cho phát triển du lịch văn hóa, dân tộc, nhân văn.  Về dân cư, dân tộc, tôn giáo – tín ngưỡng  Theo Niên giám thống kê tỉnh Đắk Nông năm 2010, tính đến ngày 31­12­ 2010, dân số  toàn tỉnh là 510.570 người, trong đó dân số  đô thị  chiếm 14,9%,  dân số  nông thôn 85,1%. Tỉ  lệ  tăng dân số  tự  nhiên là 1,57%. Mật độ  dân số  trung bình là 78,39 người/km2.  Do địa hình khá phong phú và phức tạp, nên dân cư  phân bố  không đều  trên địa bàn các huyện, nơi đông dân cư chủ  yếu tập trung  ở các trung tâm xã,  thị  trấn huyện lỵ, ven các trục đường quốc lộ, tỉnh lộ; trong khi đó, có những  vùng dân cư thưa thớt như một số xã của huyện Đắk Glong, Tuy Đức. Dân số Đắk Nông là dân số trẻ. Số dân trong độ tuổi còn đi học khoảng   165.000 người, chiếm 32%; trong độ  tuổi lao động có 325.000 người, chiếm   63%; độ tuổi trên 60 chỉ có hơn 20.000 người. Đây cũng là điều kiện thuận lợi  để  Đắk Nông phát huy  ưu thế, tiềm năng của nguồn nhân lực trẻ  trong phát   triển kinh tế ­ xã hội. 10
  11.  Đắk Nông là tỉnh có cộng đồng dân cư  gồm 31 dân tộc cùng sinh sống.  Cộng đồng dân cư Đắk Nông được hình thành từ: Đồng bào các dân tộc tại chỗ  như  M’Nông, Mạ, Ê đê, Khmer…; đồng bào Kinh sinh sống lâu đời trên Tây  Nguyên và đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc mới di cư  vào lập nghiệp   như Tày, Thái, Mường, Nùng, Dao, H’Mông .v.v. Cơ   cấu   dân   tộc   đa   dạng,   chủ   yếu   là   dân   tộc   Kinh,   M'Nông,   Nùng,  H’Mông   v.v.   Dân   tộc   Kinh   chiếm   tỉ   lệ   67,9%,   M'Nông   chiếm   8,2%,   Nùng  chiếm 5,6%, Mông chiếm 4,5%, các dân tộc khác chiếm tỉ  lệ  nhỏ; cá biệt có  những dân tộc chỉ có một người sinh sống ở Đắk Nông như Cơ  Tu, Tà Ôi, Hà   Nhì, Phù Lá, Chứt. Đắk Nông là vùng đất sinh sống từ hàng ngàn đời của đồng bào các dân  tộc tại chỗ, đồng thời cũng là vùng đất quần tụ của cư dân từ nhiều vùng miền  về sinh cơ, lập nghiệp nên đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng cũng vô cùng   phong phú.  Đến nay, Đắk Nông có hơn 170.000 người là tín đồ của hơn 10 tôn giáo   khác nhau, nhưng chủ yếu là Công giáo (hơn 100 ngàn, chiếm gần 20% dân số),  Tin lành (hơn 50 ngàn, chiếm tỷ lệ 10% dân số) và Phật giáo (hơn 20 ngàn, tỷ  lệ 4% dân số). Ngoài ra, đồng bào các dân tộc Đắk Nông còn có rất nhiều tín ngưỡng để  tôn thờ, đặc biệt là đồng bào các dân tộc tại chỗ  thờ  cúng Yàng (Trời), thần  Núi, thần Sông v.v. và rất nhiều lễ  hội như: Lễ  hội Đâm trâu (ăn trâu). Lễ  mừng nhà mới, Lễ mừng mùa, Lễ bỏ mả .v.v. phong phú và đặc sắc. 11
  12.  Tình hình kinh tế, văn hóa­ xã hội Trước khi thực dân đến xâm lược, Đắk Nông là vùng hoang sơ, đồng bào   dân tộc thiểu số ở đây chủ yếu dựa vào nương rẫy, du canh du cư, trong đó săn   bắn hái lượm còn đóng vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo cuộc sống hàng  ngày. Đây là nguồn sống của hầu hết dân cư. Phương thức và trình độ sản xuất  của đồng bào còn rất đơn giản, bằng những công cụ  thô sơ  và lạc hậu. Công  cụ  sản xuất là dùng xà gạt, rìu để  chặt cây, cuốc để  xới đất, gậy chọc lỗ  tra   hạt, dùng vằng và cào để làm cỏ, liềm để cắt lúa và tuốt lúa bằng tay, lấy chân   vò hạt..., măi đến năm 1979 – 1980, mới bắt đầu tiến hành trồng lúa nước.   Nhưng bù lại do vị  trí địa lý và điều kiện tự  nhiên kiến tạo, đất đai màu mỡ,   nên năng suất trong mùa không quá thấp. Nền kinh tế mang tính chất tự  cung,   tự cấp, trao đổi bị hạn chế. Cư  dân trên địa bàn sinh sống chủ  yếu là đồng bào dân tộc M’Nông và  một số đồng bào người S’Tiêng, Mạ. Từ lâu, dân tộc M’Nông được phân chia   theo từng nhóm địa phương và mỗi nhóm mang sắc thái văn hoá riêng: M’Nông  Gar,   M’Nông   Chil,   M’Nông   Biệt,   M’Nông   Preh,   M’Nông   R’lam,   M’Nông  Noong... Bên cạnh đó còn có M’Nông Tibiri  ở  bắc đường 14 thuộc huyện Cư  Jút, đến nay vẫn ở nhà sàn, nếp sống văn hoá gần giống với người Êđê. Ngoài   ra, còn có một số  dân tộc thiểu số  các tỉnh phía bắc chuyển vào làm ăn sinh   sống ở  Đắk Nông. Một số nghề thủ công đã đạt tới trình độ  tinh tế  như nghề  dệt sợi, thêu nhuộm hoa văn trên nền vải, nghề  đan lát đồ  dùng trong gia đình  bằng tre mây, nghề rèn để sửa chữa, cải tiến và sáng chế ra những công cụ lao  động và cả vũ khí. Tuy vậy, tỉnh Đắk Nông cũng giống như  một số  tỉnh Tây Nguyên khác,  cư dân còn thưa thớt và chủ yếu sống bằng nghề nông. Đa số các dân tộc thiểu  số đều sống ở khu vực nông thôn, còn ở khu vực trung tâm thị trấn phần lớn là   người Kinh, làm nghề  buôn bán. Hầu hết là lao động phổ  thông, số  lao động  chuyên môn còn thấp. Đây là trở ngại trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ  thuật vào sản xuất cho người lao động; nền kinh tế  phát triển chậm chạp,  những mối quan hệ truyền thống của các dân tộc còn tồn tại lâu dài, trong đó  quan hệ công xã nông thôn còn biểu hiện khá đậm nét. 12
  13. Tình hình xã hội cũng bắt đầu diễn ra quá trình phân chia giàu nghèo,  phân chia đẳng cấp ở những mức độ khác nhau, nhưng dù có phân cấp đến đâu  thì vẫn chưa đến mức đối kháng giai cấp. Nhìn toàn bộ xã hội, của cải tích luỹ  được ít, phân hoá giàu nghèo không sâu, chênh lệch tài sản giữa người khá giả  so với số đông khó phân biệt. Trong quan hệ gia đình và xã hội vẫn duy trì chế  độ  thị  tộc mẫu hệ, người phụ  nữ  đóng vai trò quyết định trong mọi việc từ  kinh tế  ­ xã hội đến các việc khác. Các gia đình trong buôn, bon đều có mối   quan hệ  thân tộc hoặc thích tộc làm cho quan hệ  cộng đồng đươc duy trì khá   bền vững. Những tập quán được truyền từ đời này sang đời khác trở thành nét   đẹp truyền thống trong đồng bào rất sâu sắc. Họ  sẵn sàng giúp đỡ  nhau trong  sản xuất cũng như  trong hoạn nạn, sẵn sàng kết nghĩa bạn bè anh em với các  dân tộc khác. Các phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số  tại chỗ   ở  Đắk   Nông còn mang nhiều tàn dư của thời kỳ nguyên thuỷ. Họ sống theo từng nhóm  sắc tộc và tập trung trong từng bon, buôn. Tất cả  các nguồn thu trên diện tích  mà bon, buôn ở và sản xuất đều là của tập thể. Nhìn chung sự  phát triển kinh  tế ­ xã hội của người dân tộc thiểu số ở Đắk Nông còn lạc hậu và thấp kém. Đến giữa những năm ba mươi, khi thực dân Pháp bắt đầu ồ ạt nhảy vào  vùng Tây Nguyên để mở đồn điền như Sở Trà, Kanhkina ở Quảng Trực; trồng   cà phê ở đồn điền Đắk Mil, Hàng No rộng 42 ha, toàn bộ công nhân trong đồn  điền là người dân tộc thiểu số tại chỗ vào làm việc theo thời vụ và chỉ ít người  Kinh làm công việc quản lý thay cho chủ Pháp trong suốt thời kỳ thực dân Pháp  cai trị. Sau hiệp định Giơnevơ (20­7­1954) về lập lại hoà bình ở Đông Dương,   đế  quốc Mỹ  vội vă nhảy vào độc chiếm miền Nam Việt Nam. Dưới sự điều   khiển của cố vấn Mỹ, chúng dựng lên chính quyền tay sai và quân đội tay sai,  đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước của nhân dân ta ở miền Nam. Mục đích  của chúng là biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, làm bàn đạp để  tấn   công miền Bắc và cả Đông Dương, Đắk Nông là một trong những vùng bị ách  kìm kẹp dã man đó. Vào những năm 1957 ­ 1958, để khai thác triệt để cả về kinh tế, quân sự,  chính trị  và xã hội, Mỹ  ­ Diệm bắt đầu đưa hàng chục vạn người từ  miền   Trung lên Tây Nguyên lập các dinh  điền, nhằm tách  đồng bào ra khỏi quê  13
  14. hương cách mạng. Trong những năm này, chúng đưa người Kinh, chủ  yếu là  người  ở  các huyện Sơn Tịnh, Tư  Nghĩa, Bình Sơn... thuộc tỉnh Quảng Ngăi   khoảng hơn 150 người, đây là số  người đầu tiên lên làm ăn sinh sống tại Đắk  Nông. Dọc theo suối Đắk Nông cũng chỉ  có một vài hộ  gia đình M’Nông sinh   sống. Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Đắk   Nông đón một nguồn dân cư từ nhiều địa phương lên sinh cơ lập nghiệp. Về  tôn giáo, trước thời kỳ  thực dân Pháp xâm lược, tín ngưỡng nguyên  thuỷ, đa thần còn tồn tại trong cộng đồng người dân tộc bản địa. Các thần linh   có tác động mạnh mẽ  đến đời sống, lao động sản xuất của đồng bào  ở  đây.  Khi thực dân Pháp nhảy vào xâm lược nước ta thì cũng bắt đầu du nhập các tôn  giáo. Chúng cho xây dựng nhà thờ  Thiên chúa giáo  ở  Đắk Mil và  ở  bon Biton   (xã Quảng Khê), do linh mục người Pháp cai quản. Đồng thời xuất hiện đạo  Tin Lành  ở  các bon, ấp... nhằm thu hút đông đảo người dân tham gia học đạo  và theo đạo, phục vụ cho chính sách cai trị của thực dân Pháp. Tuy nhiên, đạo  Tin Lành lúc bấy giờ  chưa phát triển, mãi đến thời kỳ  quân Mỹ  chiếm đóng  Tây Nguyên thì đạo Tin Lành bắt đầu phát triển mạnh. Sau giải phóng miền  Nam, cả  nước thống nhất cùng xây dựng chủ  nghĩa xã hội và thực hiện công  cuộc đổi mới, một số  bon,  ấp, kẻ  xấu lợi dụng chính sách tự  do tín ngưỡng  của Đảng và Nhà nước ta, ra sức tuyên truyền, lôi kéo kích động, dụ  dỗ  đồng  bào dân tộc thiểu số  tại chỗ vào những giáo phái mới với nội dung hoạt động  trái Hiến pháp, pháp luật, chủ  trương, chính sách của ta, gây nên những hậu   quả  và diễn biến hết sức phức tạp trong công tác giữ  gìn an ninh chính trị  và  trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Cũng   như   nhiều   dân   tộc   khác   ở   vùng   Tây   Nguyên,   người   dân   tộc  M’Nông trong quá trình lao động sản xuất, đấu tranh để  tồn tại và phát triển,  đã hình thành một nền văn hoá rất phong phú và giàu bản sắc dân tộc Việt   Nam. Tuy chữ viết xuất hiện muộn, nhưng đồng bào bản địa trên địa bàn Đắk  Nông có một kho tàng văn học dân gian truyền miệng rất phong phú, bao gồm  cả  ca dao, tục ngữ, truyện cổ, truyền thuyết, truyện ngụ  ngôn, trường ca...  Đồng bào M’Nông ở Đắk Nông còn lưu giữ khá nhiều di sản văn hoá quý giá,  bước đầu được khai thác, công bố  trong một số  công trình. Nhiều nghệ  nhân  14
  15. người M’Nông có những đóng góp lớn vào sưu tầm, biên soạn, dịch thuật các   loại văn học dân gian  ở  Đắk Nông và một số  huyện lân cận: Tiêu biểu như  trường ca  Ốt N’rông, ngoài ra còn có hàng vạn câu ca dao, tục ngữ  được lưu  truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong quá trình lịch sử  và cuộc sống lao động hằng ngày của đồng bào  dân tộc M’Nông, họ đã sáng tạo ra được một số loại nhạc cụ độc đáo, tuy còn   rất thô sơ  nhưng phong phú về  số  lượng và chủng loại: Bộ  gõ có đàn chiêng  (cĩng), trống (Ding Gơr), đàn môi (guốc)...Ca hát dân gian rất phong phú và đa  dạng, hình thức truyền miệng được coi là phương tiện chủ  yếu của đồng bào   dùng để  chuyển tải văn hoá từ  vùng này sang vùng khác, từ  đời này sang đời   khác. Có nhiều cách trong việc chuyển tải văn học dân gian bằng nhiều hình  thức kể  chuyện, văn vần, hay hát đối đáp nam ­ nữ. Ngoài ra, trong đồng bào  dân tộc M’Nông còn lưu giữ một số hình thức dân ca như: Ru con (chiêng con),   hát đố (tăm hôr), hát khóc (M’im bôk, M’im khít), hát kể gia phả (Nkok yao)... Người M’Nông cũng có cả  một hệ thống nghi lễ phong phú, tất cả  đều  phục vụ cho đời sống sinh hoạt hằng ngày. Họ không có một ngày lễ nào chính  thức, chỉ đón lễ bằng các ngày hội vui mùa gặt, lễ trừ sâu bọ, lễ  cúng lúa sắp  trổ đòng. Trong nhóm nghi lễ đó có cả nghi lễ gia đình, như lễ làm nhà mới, lễ  cho người sắp đi xa hay ở đâu về... Cộng đồng người M’Nông còn lưu giữ một   kho tàng luật tục dưới hình thức văn vần, truyền miệng. Nội dung của luật tục   hầu hết đề cập đến các mối quan hệ xã hội như: Hôn nhân gia đình, phong tục  tín ngưỡng... Luật tục cũng quy định rõ những việc được làm và những việc  không được làm, nếu một khi vi phạm sẽ  bị  xử  phạt theo luật tục của buôn,  bon. Xã hội truyền thống được vận hành theo một quy luật và cũng từ luật tục   này mà dân tộc M’Nông còn tồn tại dai dẳng các tập tục lạc hậu, ví dụ như lấy  nhau cùng huyết thống, mê tín dị đoan... Trong trang phục hàng ngày, nghệ thuật tạo hình được thể hiện rất sinh  động. Hoa văn trên nền vải của người dân tộc M’Nông chủ  yếu tạo hình theo  một mô típ truyền thống được cách điệu bằng nhiều hình thức khác nhau. Đàn  ông, đàn bà M’Nông đều đóng khố, rộng chừng 20 phân và dài trên 1 thước, đàn   bà  ở  những vùng như  thị  xã Gia Nghĩa, dọc theo quốc lộ  14 họ  còn biết quấn  Yêng, lấy khăn che ngực. Trong những dịp lễ  tết, đàn ông còn mặc thêm một   15
  16. cái áo ngắn không cổ, hở bụng và đàn bà thường quấn yêng màu tím đỏ. Cộng   thêm vào đó là những trang sức đi cùng trang phục rất đa dạng. Họ thường đeo   những vòng đồng, đeo chồng chất  ở cổ tay, cổ chân, càng đeo nhiều bao nhiêu  càng thể  hiện sự  giàu sang đến đó. Đặc biệt người M’Nông còn có tập tục là  đến tuổi trưởng thành họ  cà răng, căng tai cho to để  đeo những miếng ngà voi  hay miếng gỗ quý. Đó là những nét đặc trưng của người đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ,   ngoài những nét riêng mang đậm sắc thái của mình, các dân tộc thiểu số  Đắk   Nông còn mang những nét chung của văn hoá người Việt Nam. Hiện nay, trình độ dân trí các dân tộc ở Đắk Nông được nâng cao và đặc   biệt có sự  giao lưu giữa các nền văn hoá, giữa các vùng với nhau. Trong quá   trình giao tiếp, nhân dân các dân tộc biết sàng lọc, học hỏi những cái hay, cái  đẹp của các nền văn hoá tiên tiến, từ đó các tập tục, nghi lễ phiền toái, lạc hậu   được xoá dần. Đắk Nông không ngừng phát triển, đổi mới nâng cao đời sống,  xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 1.2. Truyền thống lịch sử  nông dân các đồng bào dân tộc trên vùng   đất Đắk Nông  Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời của dân tộc Việt Nam nói chung  và Đắk Nông nói riêng với những chiến tích và dấu  ấn tự  hào đã tạo nên cho   nhân dân những truyền thống quý báu. Truyền thống dân tộc nổi bật của quê  hương Đắk Nông được thể  hiện  ở  hai mặt chủ  yếu: Xây dựng cuộc sống và  bảo vệ quê hương, đất nước.  Truyền thống không phải là một cái gì có sẵn, nảy sinh trong một thời   gian ngắn và trở nên bất biến mà là những chuẩn mực, quy tắc ứng xử xã hội  của một cộng đồng lớn hay nhỏ, được lặp đi lặp lại qua nhiều thế  hệ  sống   trong một không gian ít thay đổi lớn và ăn sâu vào ý thức, tư  tưởng của con   người, được dư luận xã hội gìn giữ và phát huy.   Truyền thống của đồng bào các dân tộc  ở  Đắk Nông cũng vậy, là một   sản phẩm của lịch sử. Nói đến Tây Nguyên là nói ngay đến lịch sử  đấu tranh   của các dân tộc chống các thế lực áp bức, bảo vệ hạnh phúc và cuộc sống của   con người. Trải qua hàng thế kỉ trên mảnh đất miền núi rừng hiểm trở, nơi mà   sự chi phối và tác động của tự nhiên còn rất lớn, ngay từ đầu những người dân  16
  17. nơi đây đã tự sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu với tự nhiên để  sinh tồn  và phát triển.  Trong cuộc sống người dân không chỉ  phải đối mặt với vấn đề  cải tạo  tự nhiên mà chính bản thân các dân tộc trên cao nguyên cũng liên tục phải đứng   dậy đấu tranh chống áp bức, cường quyền. Đây là một quy luật đấu tranh tất  yếu của một xã hội có giai cấp. Trong quá trình đấu tranh nói riêng và trong  cuộc sống lao động sản xuất nói chung, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái  đối với họ cũng trở  thành một nét đẹp đạo lý được lưu truyền và phát huy từ  đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.  Nổi bật nhất trong truyền thống của các dân tộc trên địa bàn Đắk Nông  là truyền thống yêu quê hương, yêu đất nước, chống áp bức bóc lột, chống xâm   lược đô hộ. Mảnh đất trên cao nguyên núi rừng đại ngàn đã hun đúc nên khí   phách kiên cường, tinh thần chiến đấu dũng cảm và đặc biệt đã gây dựng một  truyền thống yêu quê hương, yêu đất nước, yếu tố  vốn là sức mạnh của dân   tộc Việt Nam. Trong lịch sử, các dân tộc Đắk Nông đã nêu cao một truyền   thống đấu tranh kiên quyết chống áp bức, chống xâm lược, chống đô hộ. Phong   trào đấu tranh của Ama Sao (1889 ­ 1895) N’Trang Gưh (1900 ­ 1914) và đặc   biệt là cuộc đấu tranh dưới sự  lãnh đạo của anh hùng dân tộc N’Trang Lơng  kéo dài gần 1/4 thế  kỉ  (1912 ­ 1935) đã cho thấy truyền thống đấu tranh bất   khuất của người dân Đắk Nông. Truyền thống bất khuất đó còn được phát huy   mạnh mẽ  trong cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện của dân tộc  trong 30  năm  chống Pháp và chống Mỹ  (1945 ­ 1975). Sau ngày giải phóng,  trước sự chống phá quyết liệt của các thế  lực thù địch, một lần nữa nhân dân   các dân tộc Đắk Nông lại chứng tỏ  sức mạnh của truyền thống đó trong việc   đập tan, ngăn chặn mọi thế lực xâm lược, thù địch chống phá cách mạng.   Tất   cả  những  truyền thống  quý báu  trên  chúng  ta còn  bắt gặp trong  những truyền thuyết lịch sử, truyện kể dân gian và đặc biệt là những bộ sử thi  của những dân tộc anh em trên địa bàn Tây Nguyên phản ảnh về công cuộc đấu  tranh dựng nước và giữ nước.  Vì vậy, trong công cuộc phát triển kinh tế  ­ xã hội của Đắk Nông ngày  nay, việc bảo tồn, phát huy những giá trị  truyền thống là điều hết sức cần  17
  18. thiết. Đây là yếu tố tiền đề  cho phát triển của Đắk Nông nói riêng và dân tộc   Việt Nam nói chung. Chương 2 NÔNG DÂN TRÊN VÙNG ĐẤT ĐẮK NÔNG THAM GIA CUỘC ĐẤU  TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, TIẾN HÀNH KHỞI NGHĨA GIÀNH  CHÍNH QUYỀN DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG (1930­1945) 2.1. Thực dân Pháp xâm lược, thôn tính, khai thác, bóc lột nhân dân  vùng đất Đắk Nông và phong trào yêu nước chống Pháp của nông dân  Đắk Nông trước khi có Đảng 2.1.1. Thực dân Pháp xâm lược, thôn tính, khai thác, bóc lột nhân dân   vùng đất Đắk Nông Tây Nguyên nói chung và Đắk Nông nói riêng là vùng đất có vị  trí chiến   lược quan trọng về  an ninh quốc phòng, có điều kiện tiềm năng giàu có, đất   rộng người thưa và là cửa ngõ thuận lợi cho việc khai thác tiềm năng phục vụ  phát triển kinh tế ­ xã hội. Chính vì vậy, ngay từ  giữa thế  kỷ XIX, Đắk Nông   đã trở  thành mục tiêu thực dân Pháp chú ý. Đầu tiên thực dân Pháp thăm dò và  nắm bắt tình hình Tây Nguyên thông qua những đoàn truyền giáo, thám hiểm.  Theo   những   tài   liệu   hiện   còn   lưu   giữ   thì   từ   năm   1838,   Giám   mục   Tabe  (Thabert) đã ghi chép các vùng dân tộc Tây Nguyên trên tấm bản đồ  đầu tiên  của mình. Tiếp sau đó, các linh mục như Bu­lơ­vô (năm 1851), Phông ten (năm  1852), A dê ma (năm 1857) theo lưu vực sông Đồng Nai đã liên tiếp thâm nhập  vào các khu vực của đồng bào M'Nông để  thăm dò. Năm 1860, bọn giáo sĩ đã  lập hội thánh Trinh Sư trong vùng đồng bào M'Nông và đồng thời lập hội thành   ở vùng đồng bào S'Tiêng (Brơ Lam). Một số nhà thờ mọc lên tại nơi sinh sống  của đồng bào dân tộc Tây Nguyên, thực chất là những căn cứ quân sự đầu tiên  của thực dân Pháp. Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn phái các đoàn thám hiểm  đến khảo sát địa dư, chủng tộc chuẩn bị  điều kiện cho cuộc viễn chinh của   chúng sau này. Đến cuối thế kỷ XIX, cùng với quá trình thôn tính toàn bộ lãnh thổ Việt  Nam, thực dân Pháp bắt đầu đưa đội quân viễn chinh lên xâm chiếm vùng đất  18
  19. giàu có nhưng hoang sơ này. Năm 1894, khi thực dân Pháp đưa hai toán quân đi  theo thung lũng sông Ba và sông H'Năng lên cao nguyên M'Nông đã gặp sự  kháng cự  mănh liệt của đồng bào. Đến năm 1896, thực dân Pháp tiến cử  Pôn  Đume (Paul Dourme) sang làm toàn quyền Đông Dương. Pôn Đume trở  thành  nhân vật phát động cuộc chinh phạt vùng đất Tây Nguyên và đưa ra một loạt   các chính sách nô dịch và thống trị các dân tộc Đông Dương nói chung và đồng  bào Tây Nguyên nói riêng, cả  về  kinh tế, chính trị, văn hóa và quân sự. Năm   1898, quân Pháp từ  Kratiê (Campuchia) tập trung lực lượng tấn công chiếm  Buôn Đôn, sau đó tiến đánh các vùng Mê Khul, Mê Wan, Buôn Trấp, Buôn Chóa  và lần lượt đưa quân chinh phục người Bih và đánh chiếm cao nguyên M'Nông.  Cũng trong năm 1898, Pôn Đume ra lệnh xóa bỏ  chế  độ  sơn phòng của triều  đình Huế đặt ở Nam­Ngãi­Bình, thay thế vào đó là việc thành lập các đồn, với   nhiệm vụ  nắm toàn quyền chỉ  huy khu vực cả  về  quân sự, chính trị  và hành  chính. Bộ  máy sơn phòng cũ của triều đình Huế  bị  b ãi bỏ  phần lớn, bộ  phận  nhỏ còn lại trở thành thuộc hạ của bọn quan lại đồn Pháp. Năm 1898, được coi  là năm mở đầu nền thống trị của Pháp ở Tây Nguyên. Đến những năm đầu thế kỷ XX, hàng loạt đồn bốt tiếp tục mọc lên bao  vây lấy miền sơn nguyên Nam Đông Dương. Chính từ  các đồn trên vòng vây  này, Đume và bọn tay chân đã tung các phái bộ khoa học, quân sự­chính trị của  chúng để điều tra, do thám, lấn chiếm dần miền sơn nguyên theo kiểu vết dầu  loang. Âm mưu của thực dân Pháp là tách miền sơn nguyên này thành một xứ,  ở  đó chúng sẽ  thực hiện trực trị  và độc quyền bóc lột các dân tộc. Tuy nhiên,   trên thực tế, khi thực dân Pháp về  cơ  bản đánh chiếm được Đắk Lắk và bắt  đầu áp đặt bộ  máy cai trị, thì vùng cao nguyên M'Nông rộng lớn  ở  phía Nam   vẫn   là   vùng   quân   Pháp   chưa   kiểm   soát   được   và   chúng   gọi   đây   là   Resgion  Insoumis (vùng không khuất phục). Năm 1907, dưới thời Bernard (Bê Nanh)  làm công sứ, chúng  ước lượng chỉ  "quy thuận" được 300 làng từ  Bu ôn Ma  Thuột đến M'Drak, còn khoảng 200­250 làng  ở  phía Bắc Buôn Hồ, phía nam  sông Sêrêpôk chúng không thể "quy thuận" được2.  Nếu như  năm 1898 được coi là năm mở  đầu nền thống trị  của Pháp  ở  Tây Nguyên, thì đến năm 1908, thực dân Pháp chính thức đưa quân vào đánh  chiếm  cao nguyên Nam  Tây Nguyên  (cao nguyên  M'Nông)  và tại  Đắk Lắk   Theo Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Đắk Nông (1945­2007), Đắk Nông, 6­2009, tr. 18. 2 19
  20. chúng xây dựng Nhà đày Buôn Ma Thuột. Cho đến những năm 1909­1911, thực  dân Pháp mới bình định được một số vùng cư trú của đồng bào M'Nông và thiết   lập quận Đắk Song (một trong năm quận của tỉnh Đắk Lắk).  Cũng như   ở  Tây Nguyên, sau khi áp đặt được ách thống trị   ở  vùng cao  nguyên M'Nông, thực dân Pháp bắt tay vào thực thi chính sách cai trị. Về kinh tế, một khó khăn của Pháp khi áp đặt chế độ cai trị đối với lĩnh   vực kinh tế ở Tây Nguyên là chúng không có nguồn nhân lực cần thiết để phục  vụ  cho việc khai thác đồn điền, xây dựng đường sá, đồn bốt trong điều kiện  miền sơn nguyên đất rộng, người thưa. Để  giải quyết khó khăn, toàn quyền  Đume đã thực hiện một cuộc cải cách chế độ thuế  thân và chế  độ  xâu có sẵn.  Chúng   tiến   hành   hủy   bỏ   chế   độ   thu   thuế   và   hiện   vật   của   triều   đình   nhà   Nguyễn, thay vào đó là chế  độ  thu thuế  bằng tiền, với nhiều thứ  thuế  vô lý  như  thuế  trâu, thuế  voi, thuế  đàn ông, thuế  đàn bà; bắt dân đi phu làm đường   14, khai hoang lập đồn điền, làm sở  trà không công cho bọn chủ  Pháp. Xâu  trước đây quy định bằng 10 ngày công ích, Đume cho tăng thêm một số  ngày   dành cho tư  ích. Thực tế  lịch sử  chứng minh rằng, chính sách xâu thuế  thâm  độc của Đume vẫn không đáp ứng được nhu cầu to lớn của thực dân Pháp về  nhân lực, tuy vậy những chính sách ấy đã trở thành một trong những xiềng xích   cột  chân  người   dân  miền  núi   Đắk  Nông  vào  các   đồn   điền,  công  trình  làm   đường sá và đồn bốt của bọn thực dân, dẫn đến cảnh nghèo đói, lạc hậu, bệnh   tật và dân số  ngày càng giảm. Sau khi tiến hành xâm chiếm Tây Nguyên, số  đồn điền trên địa bàn tăng lên nhanh chóng. Từ  một vài đồn điền đầu thế  kỷ  XX đã tăng lên hàng trăm đồn điền vào những năm 30. Riêng năm 1926, có 27  đơn xin lập đồn điền, với diện tích chiếm đoạt lên tới 17 vạn hécta trên địa bàn   Đắk Lắk, nơi có đất đai màu mỡ ở Nam Tây Nguyên...    Về  quân sự, âm mưu của Đume là thành lập những lực lượng vũ trang   người bản địa miền núi, dùng làm công cụ đàn áp phong trào cách mạng và làm  bia đỡ  đạn cho chúng khi chiến tranh xảy ra. Theo lệnh của Đume, thực dân   Pháp đã tiến hành thành lập một đội lính khố xanh ­ bảo an (viết tắt là GM) với  1.500 tên, được bố  trí  ở  các đồn; đồng thời tuyển mộ  cho quân đội thuộc địa   20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2