lịch sử phong trào nông dân và hội nông dân tỉnh Đăk nông, giai đoạn 1930 - 2013
lượt xem 10
download
lịch sử phong trào nông dân và hội nông dân tỉnh Đăk nông, giai đoạn 1930 - 2013 bao gồm những nội dung về đặc điểm, truyền thống phong trào nông dân trên vùng đất Đắk nông trong cách mạng giải phóng dân tộc và kháng chiến chống ngoại xâm, nông dân vùng đất Đắk nông trong quá trình cùng cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và từng bước tiến hành đổi mới và một số nội dung khác.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: lịch sử phong trào nông dân và hội nông dân tỉnh Đăk nông, giai đoạn 1930 - 2013
- LỜI NÓI ĐẦU Là một tỉnh có vị trí địa chính trị hết sức quan trọng, là “phên dậu” của Tổ quốc, qua dòng chảy của lịch sử dân tộc, nông dân của các đồng bào dân tộc trên vùng đất Đăk Nông vừa giàu lòng yêu nước, cần cù thông minh sáng tạo trong lao động sản xuất; không chỉ có vai trò to lớn trong cách mạng dân tộc dân chủ mà còn có vai trò quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Trải qua những thăng trầm, thử thách của lịch sử, nông dân trên vùng đất Đăk Nông đã viết nên những trang anh hùng ca bất tử trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Từ phong trào yêu nước trước khi có Đảng, như anh hùng dân tộc N’TrangLơng, đến những cơ sở cách mạng chở che cho các chiến sĩ cộng sản vượt ngục Đăk Mil trong chống Pháp và hàng ngàn nông dân xây dựng tuyến hành lang chiến lược nối liền đường dây liên lạc giữa các tỉnh Tây Nguyên với Miền Đông Nam Bộ…để góp phần quan trọng trong thắng lợi mùa Xuân năm 1975. Tinh thần bất khuất, kiên cường ấy, được nông dân các đồng bào dân tộc tiếp nối trong các phong trào xóa đói giảm nghèo, xây dựng quê hương trong công cuộc đổi mới đất nước. Đó cũng chính là thành quả của quá trình lãnh đạo đúng đắn của Đảng đã khơi dậy được phong trào rộng lớn của nông dân trên vùng đất này, khẳng định trong thực tế ngay từ khi Đảng ra đời, đã thể hiện là tổ chức tiên phong không chỉ của công nhân mà của toàn thể nhân dân lao động trong đó đa số là nông dân. Nguyện vọng của cán bộ, hội viên, nông dân các dân tộc tỉnh Đăk Nông mong muốn được ghi lại những trang sử hào hùng của cha ông, khẳng định công lao, sự đóng góp đồng thời để tôn vinh, tri ân đối với các thế hệ nông dân đã phấn đấu, hy sinh để xây dựng và bảo vệ vùng đất Đăk Nông có được vị thế như hiện nay. Đồng thời, góp phần giáo dục truyền thống cần cù sáng tạo, bất khuất kiên cường của nông dân các đồng bào dân tộc trên vùng đất này, từ đó động viên, khích lệ đồng bào các dân tộc, đặc biệt là thế hệ trẻ, phát huy tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực tự cường, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, thách thức để xứng đáng với các thế hệ ông, cha đã bảo vệ và xây dựng vùng đất quê hương trung kiên, anh dũng này. 1
- Với tất cả ý nghĩa ấy, Tỉnh ủy Đăk Nông đồng ý chủ trương và chỉ đạo Ban Thường vụ Hội Nông dân tỉnh Đăk Nông thực hiện công tác nghiên cứu sưu tầm, biên soạn cuốn "Lịch sử phong trào Nông dân và Hội nông dân tỉnh Đăk Nông, giai đoạn 1930 2013". Bố cục cuốn sách: Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, cuốn sách được chia làm 8 chương với ba phần lớn : Phần thứ nhất: Đặc điểm, truyền thống phong trào nông dân trên vùng đất Đắk Nông trong cách mạng giải phóng dân tộc và kháng chiến chống ngoại xâm. Phần thứ hai: Nông dân vùng đất Đắk Nông trong quá trình cùng cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và từng bước tiến hành đổi mới (19752003) Phần thứ ba: Tỉnh Đắk Nông được thành lập, Hội Nông dân tỉnh ra đời – quá trình xây dựng và trưởng thành (20042014) Cuốn sách đã phản ánh chân thực về quá trình hình thành và phát triển của phong trào nông dân từ khi chưa có Đảng gắn với sự hình thành và phát triển của tổ chức Hội Nông dân trên địa bàn tỉnh Đăk Nông qua các thời kỳ, các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Quảng Đức và tỉnh Đăk Lăk (cũ) trước đây và tỉnh mới Đăk Nông ngày nay trong dòng chảy lịch sử của đất nước. Đây là tài liệu quý báu, phục vụ cho công tác nghiên cứu, giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ, trong hệ thống tổ chức Hội và phong trào nông dân các dân tộc trong tỉnh. Phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết tương trợ giúp đỡ nhau, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, giữ vững an ninh quốc phòng trên dải đất biên cương phía nam của Tổ quốc. Đây cũng là một bước quan trọng trong công tác tổng kết thực tiễn sinh động của tổ chức Hội và phong trào nông dân trên địa bàn tỉnh Đăk Nông trong một giai đoạn cách mạng nhất định, góp phần cùng các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách phát hiện quy luật của sự vận động và phát triển trong nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên địa bàn tỉnh Đăk Nông nói riêng và Tây Nguyên nói chung. 2
- Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn, nhưng do nghiên cứu trên địa bàn có nhiều sự thay đổi về địa giới hành chính qua các thời kỳ lịch sử, đặc biệt khó khăn trong việc khai thác tài liệu lưu trữ và gặp gỡ các nhân chứng lịch sử, do vậy, cuốn sách không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết nhất định. Ban Biên soạn mong muốn nhận được những đóng góp quý giá của các độc giả, các nhà khoa học và nhân dân các dân tộc trong và ngoài tỉnh, để tái bản lần sau cuốn sách được hoàn chỉnh hơn. Ban Biên soạn Phần thứ nhất ĐẶC ĐIỂM, TRUYỀN THỐNG PHONG TRÀO NÔNG DÂN TRÊN VÙNG ĐẤT ĐẮK NÔNG TRONG CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG NGOẠI XÂM Chương 1 ĐẶC ĐIỂM, TRUYỀN THỐNG VÀ CON NGƯỜI VÙNG ĐẤT ĐẮK NÔNG 1.1. Quá trình hình thành và phát triển vùng đất, con người Đắk Nông Vùng đất Đắk Nông – quá trình hình thành và phát triển Đến những năm cuối thế kỷ XIX, vùng đất Đắk Nông vẫn là nơi xa xôi, hẻo lánh, dân cư thưa thớt, là nơi cư trú chủ yếu của đồng bào dân tộc người thiểu số bản địa, sống theo cộng đồng, thị tộc, bộ lạc, trải trên một địa bàn rộng lớn. Tuy vậy, ngay từ lúc đó, Đắk Nông đã được xác định là vùng đất giàu tiềm năng phát triển kinh tế và có vị trí chiến lược về quân sự đối với cả khu 3
- vực. Do có vị trí quan trọng về nhiều mặt, Đắk Nông đã sớm trở thành mục tiêu mà thực dân Pháp đặc biệt chú ý. Những người Pháp đầu tiên đặt chân lên vùng đất Đắk Nông là những tên gián điệp khoác áo giáo sĩ như Ta be, Phông ten… hoặc là những tên gián điệp được ngụy trang dưới danh nghĩa nhà nghiên cứu như HăngriMét. Trong quá trình thị sát Đông Dương, các giáo sĩ phương Tây đã tổ chức khảo cứu, vẽ bản đồ thổ nhưỡng và dân cư tại địa phương nhằm phục vụ cho việc truyền giáo, chinh phục và khai thác của thực dân Pháp. Sau khi xâm lược Việt Nam, Pháp nhanh chóng đưa quân đến vùng Tây Nguyên nói chung và Đắk Nông nói riêng, thiết lập bộ máy cai trị của chính quyền thực dân. Pháp thành lập một số đồn điền ở vùng này để nghiên cứu và kiểm soát dân chúng, tập trung ở Đắk Mil, Đắk Song. Sau khi Hiệp định Giơnevơ lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết (2171954), đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam, dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, thực hiện âm mưu thôn tính miền Nam Việt Nam. Xuất phát từ vị trí chiến lược của Đắk Nông, nơi tiếp giáp giữa ba vùng: Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và Đông Bắc Campuchia, trong những năm đầu của quá trình xâm lược, MỹDiệm đã tổ chức chiếm đóng, phân tuyến phòng thủ, thực hiện chính sách đưa dân từ vùng đồng bằng lên Đắk Nông lập nghiệp, từng bước xây dựng, củng cố mọi mặt để hình thành một đơn vị hành chính mới, nhằm thiết lập vành đai ngăn chặn ảnh hưởng của phong trào cách mạng ở Tây Nguyên đối với vùng Đông Nam Bộ và Sài Gòn; đồng thời, làm cơ sở khai thác tiềm năng kinh tế của Tây Nguyên, phục vụ âm mưu xâm chiếm lâu dài của chúng ở miền Nam Việt Nam. Với mưu đồ đó, ngày 2311959, chính quyền Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh số 24NV thành lập tỉnh Quảng Đức1. Theo Sắc lệnh này, tỉnh Quảng Đức hình thành trên cơ sở cắt một phần tổng Đăk Đam, một phần tổng Đăk Mâm và toàn bộ tổng Đắk Mil nguyên thuộc quận Đăk Song của tỉnh Đắk Lắk và một phần tổng Nam Ka nguyên thuộc quận Lắk tỉnh Đắk Lắk từ phía Nam cầu 14 vào đến Đắk Song gọi là quận Đức Lập; cắt tổng Đắk Bút So, tổng Đắk Rtih, nguyên thuộc quận Đắk Song tỉnh Đắk Lắk và hai xã Bu Prăng, Du Diên Vir 1 Theo quyết định của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, chiếu Sắc lệnh số 4TTP ngày 29101955 và các văn kiện kế tiếp ấn định thành phần Chính phủ, chiếu Sắc lệnh số 4aTTP ngày 23101956 về đổi danh hiệu các phần, chiếu dụ số 57a ngày 24101956 cải tổ nền hành chính Việt Nam, Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh số 24NV ngày 23011959 thành lập tại cao nguyên trung phần 1 tỉnh mới đặt tên là Quảng Đức. 4
- nguyên thuộc quận Phước Hòa tỉnh Phước Long thành lập quận Kiến Đức; lấy tổng Đắk N’Drung, nguyên thuộc quận Đắk Song tỉnh Đắk Lắk và xã Bích Khê nguyên thuộc quận Di Linh, tỉnh Lâm Đồng gồm cả Kiến Đức thành lập quận Khiêm Đức. Tỉnh lỵ Quảng Đức đặt tại thị xã Gia Nghĩa. Dân số Quảng Đức lúc bấy giờ khoảng 37.000 người, phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó chủ yếu là người M’Nông. Đối với ta, trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, phạm vi hành chính của tỉnh Quảng Đức cũng được điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ chiến lược và điều kiện chiến tranh. Tháng 12 năm 1960, Trung ương quyết định thành lập tỉnh Quảng Đức thuộc Liên tỉnh IV, do Liên khu V chỉ đạo, dựa trên sự phân chia địa giới hành chính của chính quyền Ngô Đình Diệm (lấy mật danh là B4); đồng thời, chỉ định đồng chí Vũ Anh Ba (tức Hồng Ưng) làm Bí thư Ban Cán sự tỉnh để lãnh đạo phong trào cách mạng. Mặt khác, do yêu cầu, nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng trong từng thời kỳ lịch sử, nên tỉnh Quảng Đức (cũ) có sự chia tách nhiều lần cho phù hợp với tình hình thực tế. Đến giữa năm 1961, khu VI được thành lập, tỉnh Quảng Đức thuộc về sự chỉ đạo của khu VI. Đến cuối năm 1961, khi Khu X được thành lập, tỉnh Quảng Đức lại chuyển từ khu VI về trực thuộc Khu X. Thời kỳ này địch mở những cuộc càn quét lớn vào vùng căn cứ để bắt lính, chúng dồn dân, lập ấp chiến lược, thọc sâu vào đánh phá căn cứ và bao vây, phong toả kinh tế của ta. Xuất phát từ nhiệm vụ, yêu cầu của cách mạng, đầu năm 1962, tỉnh Quảng Đức giải thể; cắt huyện Khiêm Đức về tỉnh Lâm Đồng, thành lập Ban Cán sự B7; huyện Đức Lập và Đức Xuyên nhập về Đắk Lắk; huyện Kiến Đức nhập về Phước Long. Tháng 101962, cắt huyện Khiêm Đức và xã Đãng Gia của huyện Đức Trọng thành lập huyện mới, mang mật danh E25, các huyện khác được giữ nguyên như cũ. Trước điều kiện và tình hình mới của lịch sử, năm 1963, tỉnh Quảng Đức được tái lập. Huyện E25 giải thể và trở lại mang tên Khiêm Đức như trước. Thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên, nhiệm vụ của ta là giữ vững căn cứ, phát triển thực lực cách mạng, chống càn quét, gom dân, lập ấp, đồng thời phá kìm, đưa dân từ ấp chiến lược về vùng căn cứ cách mạng. Lúc này lại có sự điều chỉnh, tỉnh Quảng Đức thuộc sự chỉ đạo của khu X. Tháng 10 1963, ta quyết 5
- định giải thể khu X, cũng đồng thời giải thể luôn tỉnh Quảng Đức. Huyện Đức Lập, Đức Xuyên về lại tỉnh Đắk Lắk, Khiêm Đức về Lâm Đồng, Kiến Đức lúc này là một huyện nhỏ vẫn tiếp tục đặt dưới sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Phước Long. Đến đầu năm 1965, tỉnh Quảng Đức được tái lập lần thứ hai, nhưng đến đầu năm 1966 lại giải thể một lần nữa và chia thành hai đơn vị là Tiền phương A và Tiền phương B. Tiền phương A gồm: Huyện Đức Lập và Đức Xuyên, do đồng chí Trần Phòng (Bảy Biên) làm Bí thư, đồng chí Phùng Đình Ấm (Ba Cung) làm Phó Bí thư. Tiền phương B gồm huyện Khiêm Đức, Kiến Đức và thị xã Gia Nghĩa, do đồng chí Nguyễn Xuân Khanh (Năm Khanh) làm Bí thư. Đầu tháng 01 1967, do nhiệm vụ chiến trường đặt ra, hai cơ quan Tiền phương A và B hợp nhất thành tỉnh Quảng Đức như cũ. Tháng 5 1971, để phù hợp với diễn biến phát triển của cách mạng, Trung ương quyết định giải thể tỉnh Quảng Đức lần thứ tư; giao Khiêm Đức, Kiến Đức về Lâm Đồng dưới sự chỉ đạo của khu VI; Đức Xuyên, Đức Lập được chuyển về Đắk Lắk thuộc khu V chỉ đạo. Đến tháng 8 1974, tiếp tục giao Kiến Đức về Phước Long; còn Khiêm Đức, Gia Nghĩa vẫn thuộc Lâm Đồng. Sự chỉ đạo theo đơn vị mới này kéo dài cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Tháng 51975, thi hành chủ trương của Trung ương, tỉnh Quảng Đức được tái thành lập và đến tháng 111975, tỉnh Quảng Đức sát nhập vào tỉnh Đắk Lắk. Từ ngày 01–012004, tỉnh Đắk Nông được thành lập theo Nghị quyết số 22/2003/QH11 ngày 26112003 của Quốc hội khóa XI, trên cơ sở tách 06 huyện phía Nam của tỉnh Đắk Lắk (cũ), gồm: Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Song, Đắk Nông, Đắk R’Lấp và Krông Nô, với diện tích tự nhiên là 651.438 hécta, dân số 392.070 người với 31 dân tộc anh em sinh sống. Trung tâm tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Gia Nghĩa, huyện Đắk Nông (nay là thị xã Gia Nghĩa). Đến tháng 82005, thành lập huyện mới Đắk GLong (huyện Đắk Nông cũ tách ra thành lập thị xã Gia Nghĩa và huyện Đắk GLong); tháng 112006, thành lập huyện Tuy Đức (tách ra từ huyện Đắk R’Lấp). Tính đến ngày 31122010, toàn tỉnh có 1 thị xã, 7 huyện, 71 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 5 phường, 5 thị trấn và 61 xã). Vị trí địa lý, địa hình và tài nguyên 6
- Tỉnh Đắk Nông hiện nay là một trong 5 tỉnh Tây Nguyên, thuộc biên giới Tây Nam của Tổ quốc, nằm ở phía Tây Nam của vùng Tây Nguyên, đoạn cuối dăy Trường Sơn; được xác định trong khoảng tọa độ địa lý: 11045’ đến 12050’ vĩ độ Bắc, 107013’đến 108010’ kinh độ Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Đắk Lắk, phía Đông và Đông Nam giáp tỉnh Lâm Đồng, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Bình Phước, phía Tây giáp Vương quốc Campuchia. Nằm ở cửa ngõ Tây Nguyên, Đắk Nông có Quốc lộ 14 nối thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền Đông Nam bộ với các tỉnh Tây nguyên, cách Thành phố Hồ Chí Minh 250 km về phía Bắc và cách Thành phố Ban Mê Thuột (Đắk Lăk) 120 km về phía Tây Nam; có Quốc lộ 28 nối Đắk Nông với Lâm Đồng, Bình Thuận và các tỉnh Duyên hải miền Trung, cách Thành phố Đà Lạt (Lâm Đồng) 120 km và Thành phố Phan Thiết (Bình Thuận) 160 km về phía Đông. Đắk Nông có 130 km đường biên giới tiếp giáp với tỉnh Mondulkiri, có 02 cửa khẩu Bu Prăng và Dak Per nối thông với Mondulkiri, Kratie, Kandal, Pnom Penh, Siem Reap, v.v. của nước bạn Campuchia. Vị trí địa lý như trên là điều kiện thuận lợi để Đắk Nông có thể mở rộng giao lưu với các tỉnh trong khu vực Tây nguyên; vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; Duyên hải miền Trung và nước bạn Campuchia, là nguồn động lực để Đắk Nông thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội để trở thành trung tâm phát triển kinh tế năng động của khu vực Tây Nguyên. Về địa hình, Đắk Nông nằm trọn trên cao nguyên M’Nông, độ cao trung bình khoảng 600 m đến 700m so với mặt nước biển, có nơi lên đến 1.982m (Tà Đùng). Nhìn tổng thể, địa hình Đắk Nông như hai mái của một ngôi nhà mà đường nóc là dăy núi Nam Nung, chạy dài từ Đông sang Tây, có độ cao trung bình khoảng 800m, có nơi cao đến hơn 1.500m. Địa hình có hướng thấp dần từ Đông sang Tây. Các huyện Đắk Song, Đắk Mil, Cư Jut, Krông Nô thuộc lưu vực sông Krông Nô, sông Srêpốk nên thấp dần từ Nam xuống Bắc. Các huyện Tuy Đức, Đắk R’lấp, Đăk Glong và thị xã Gia Nghĩa thuộc thượng nguồn lưu vực sông Đồng Nai nên thấp dần từ Bắc xuống Nam. Vì vậy, Đắk Nông có địa hình đa dạng và phong phú, bị chia cắt mạnh, có sự xen kẽ giữa các núi cao hùng vĩ, hiểm trở với các cao nguyên rộng 7
- lớn, dốc thoải, lượn sóng, khá bằng phẳng xen kẽ các dải đồng bằng thấp trũng. Địa hình thung lũng thấp, có độ dốc từ 030 chủ yếu phân bố dọc sông Krông Nô, Sêrêpôk, thuộc các huyện Cư Jút, Krông Nô. Địa hình cao nguyên đất đỏ Bazan chủ yếu ở Đắk Mil, Đắk Song, độ cao trung bình 600 800m, độ dốc khoảng 5100. Địa hình chia cắt mạnh và có độ dốc lớn > 150 phân bố chủ yếu trên địa bàn các huyện Đăk Glong, Đắk R'Lấp. Với diện tích trên 651.438 hécta đất tự nhiên, đất đai Đắk Nông khá phong phú và đa dạng, nhưng chủ yếu gồm 05 nhóm chính: Nhóm đất xám trên nền đá macma axit và đá cát chiếm khoảng 40% trong tổng diện tích 651.561 ha và được phân bổ đều toàn tỉnh. Đất đỏ Bazan trên nền đá Bazan phong hóa chiếm khoảng 35% diện tích, có tầng dày bình quân 120 cm, phân bổ chủ yếu ở Đắk Mil, Đắk Song. Còn lại là đất đen bồi tụ trên nền đá Bazan, đất Gley và đất phù sa bồi tụ dọc các dòng sông, suối. Về giá trị sử dụng, đất nông nghiệp có diện tích là 306.749 ha, chiếm 47% tổng diện tích tự nhiên; đất lâm nghiệp có rừng diện tích là 279.510 ha, tỉ lệ che phủ rừng toàn tỉnh là 42,9%; đất phi nông nghiệp có diện tích 42.307 ha. Đất chưa sử dụng còn 21.327 ha, trong đó đất sông suối và núi đá không có cây rừng là 17.994 ha. Với tài nguyên đất đai nêu trên, Đắk Nông rất thuận lợi cho việc phát triển các loại cây công nghiệp dài ngày như: Cà phê, cao su, chè, tiêu, điều trên nền đất xám, đất đỏ Bazan; đồng thời phát triển một diện tích lớn cây hàng năm như lúa, ngô và các loại cây công nghiệp ngắn ngày khác trên đất đen bồi tụ, đất Gley và đất phù sa ven sông suối. Rừng tự nhiên ở Đắk Nông nằm trong vùng hội tụ của hai luồng thực vật với hai loại hình rừng: Rừng thường xanh phân bố chủ yếu ở các vùng đất có lượng mưa lớn, độ ẩm cao, tầng đất sâu như Krông Nô, Đắk Song, Đắk Glong, Tuy Đức. Rừng khộp phân bố chủ yếu ở các vùng đất có lượng mưa thấp, điều kiện khắc nghiệt, các vùng lập địa xấu như bắc Đắk Mil, Cư Jut. Rừng Đắk Nông có nhiều hệ động vật và thực vật phong phú và đa dạng, những khu rừng nguyên sinh có nhiều loại gỗ qúy và cây đặc sản vừa có giá trị kinh tế, vừa có giá trị khoa học. Trong rừng còn nhiều động vật qúy hiếm như voi, gấu, hổ v.v. được ghi trong sách đỏ của nước ta và sách đỏ thế 8
- giới; có nhiều loại dược liệu qúy là nguồn nguyên liệu dồi dào để chế thuốc chữa bệnh trong y học dân tộc. Lượng mưa trung bình hàng năm của Đắk Nông là 2.513 mm, lượng mưa cao nhất là 3.000 mm, độ ẩm không khí trung bình 84%. Với địa hình chia cắt và lượng mưa lớn, nên mật độ sông suối của Đắk Nông khá dày và có nhiều ghềnh thác. Phía Bắc và phía Tây có sông Sêrêpốk (ranh giới tự nhiên với tỉnh Đắk Lắk), sông Prêktê và sông Prêk Clong đổ ra sông Mê Kông; phía Đông Nam có sông Đa Dâng (thượng nguồn sông Đồng Nai, ranh giới tự nhiên với tỉnh Lâm Đồng). Sông suối ở Đắk Nông không chỉ cung cấp nguồn nước ngọt phục vụ đời sống của nhân dân mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sản xuất nông nghiệp của những người nông dân ở Đắk Nông. Mặt khác, sông suối trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có tiềm năng thủy điện dồi dào. Hệ thống suối đầu nguồn của các sông Đồng Nai, Krông Nô, Sêrêpôk có thể xây dựng nhiều công trình thủy điện lớn với tổng công suất khoảng 1500 MW như thuỷ điện Buôn Kuôp 280 MW, Đức Xuyên 92 MW, Buôn TuaSrah 85 MW, Đắk Tih 140 MW, Đồng Nai 3180 MW, Đồng Nai 4 – 340MW, Đồng Nai 6&6A v.v. đang từng bước được đầu tư xây dựng. Trên địa bàn tỉnh Đắk Nông có 178 mỏ khoáng sản với 16 loại khoáng sản chủ yếu: bauxit, wolfram, antimoal, bazan bọt; bazan cột, bazan khối, cát xây dựng, đá bazan, đá granit, sét gạch ngói, than bùn, opal, thiếc sa khoáng, kaolin, nước khoáng thiên nhiên, saphir. Trong đó, bauxite là nguồn khoáng sản có trữ lượng lớn, phân bố ở thị xã Gia Nghĩa, các huyện Đắk GLong, Đắk R'Lấp, Đắk Song, Tuy Đức, trữ lượng dự đoán 5,4 tỉ tấn, trữ lượng thăm dò 2,6 tỉ tấn, hàm lượng Al2O3 từ 3540%. Ngoài ra còn có các tài nguyên khá phong phú là nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng như đất sét phân bố rải rác trên địa bàn một số huyện, có thể khai thác công nghiệp, sản xuất gạch, ngói phục vụ nhu cầu xây dựng các công trình kinh tếxã hội cũng như xây dựng dân dụng cho khu vực dân cư trên địa bàn tỉnh. Sét cao lanh làm gốm sứ cao cấp phân bố tập trung ở huyện Đắk Glong, thị xã Gia Nghĩa; puzơlan làm nguyên liệu cho xi măng, gạch ceramic; đá bazan bọt làm nguyên liệu sản xuất gạch ốp lát cách âm, cách nhiệt, sợi chịu nhiệt v.v. 9
- Cũng với lợi thế nằm trên cao nguyên M’Nông mênh mông, là thượng nguồn của 02 dòng sông lớn là sông Sêrêpôk và sông Đồng Nai, Đắk Nông có nhiều thắng cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp. Các thác nước đẹp, hùng vĩ, còn nguyên sơ nằm giữa rừng già như thác Trinh Nữ, thác Dray H'Linh, Dray Sáp, thác Gia Long, thác Dray Nur, thác Diệu Thanh, thác Gấu, thác Chuông, thác Diệu Thanh, thác Ngầm, thác Lưu Ly, thác Liêng Nung, thác Đắk Glun, thác Ba tầng, v.v. Những khu rừng nguyên sinh có thể xây dựng các khu du lịch sinh thái, giã ngoại, cưỡi ngựa, sắn bắn, cắm trại trong các khu bảo tồn thiên nhiên Nam Nung (25.000 ha), bảo tồn thiên nhiên Tà Đùng (28.000 ha). Những hồ nước mênh mông có thể xây dựng các khu du lịch nghỉ dưỡng, đua thuyền như Hồ Tây, EaSnô, Đắk Rông, Đak Đier, ĐãkR’tih, Đồng Nai 3, 4. Các bon làng đồng bào dân M’Nông, Mạ, Ê đê… là những vùng đất ẩn chứa nhiều di sản văn hoá vật thể và phi vật thể quý báu, trong đó nổi bật hơn cả là cồng chiêng và các bộ sử thi; với những nét sinh hoạt văn hóa truyền thống như Lễ hội cồng chiêng, uống rượu cần, lễ hội đâm trâu...là những tiềm năng cho phát triển du lịch văn hóa, dân tộc, nhân văn. Về dân cư, dân tộc, tôn giáo – tín ngưỡng Theo Niên giám thống kê tỉnh Đắk Nông năm 2010, tính đến ngày 3112 2010, dân số toàn tỉnh là 510.570 người, trong đó dân số đô thị chiếm 14,9%, dân số nông thôn 85,1%. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,57%. Mật độ dân số trung bình là 78,39 người/km2. Do địa hình khá phong phú và phức tạp, nên dân cư phân bố không đều trên địa bàn các huyện, nơi đông dân cư chủ yếu tập trung ở các trung tâm xã, thị trấn huyện lỵ, ven các trục đường quốc lộ, tỉnh lộ; trong khi đó, có những vùng dân cư thưa thớt như một số xã của huyện Đắk Glong, Tuy Đức. Dân số Đắk Nông là dân số trẻ. Số dân trong độ tuổi còn đi học khoảng 165.000 người, chiếm 32%; trong độ tuổi lao động có 325.000 người, chiếm 63%; độ tuổi trên 60 chỉ có hơn 20.000 người. Đây cũng là điều kiện thuận lợi để Đắk Nông phát huy ưu thế, tiềm năng của nguồn nhân lực trẻ trong phát triển kinh tế xã hội. 10
- Đắk Nông là tỉnh có cộng đồng dân cư gồm 31 dân tộc cùng sinh sống. Cộng đồng dân cư Đắk Nông được hình thành từ: Đồng bào các dân tộc tại chỗ như M’Nông, Mạ, Ê đê, Khmer…; đồng bào Kinh sinh sống lâu đời trên Tây Nguyên và đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc mới di cư vào lập nghiệp như Tày, Thái, Mường, Nùng, Dao, H’Mông .v.v. Cơ cấu dân tộc đa dạng, chủ yếu là dân tộc Kinh, M'Nông, Nùng, H’Mông v.v. Dân tộc Kinh chiếm tỉ lệ 67,9%, M'Nông chiếm 8,2%, Nùng chiếm 5,6%, Mông chiếm 4,5%, các dân tộc khác chiếm tỉ lệ nhỏ; cá biệt có những dân tộc chỉ có một người sinh sống ở Đắk Nông như Cơ Tu, Tà Ôi, Hà Nhì, Phù Lá, Chứt. Đắk Nông là vùng đất sinh sống từ hàng ngàn đời của đồng bào các dân tộc tại chỗ, đồng thời cũng là vùng đất quần tụ của cư dân từ nhiều vùng miền về sinh cơ, lập nghiệp nên đời sống tâm linh, tôn giáo, tín ngưỡng cũng vô cùng phong phú. Đến nay, Đắk Nông có hơn 170.000 người là tín đồ của hơn 10 tôn giáo khác nhau, nhưng chủ yếu là Công giáo (hơn 100 ngàn, chiếm gần 20% dân số), Tin lành (hơn 50 ngàn, chiếm tỷ lệ 10% dân số) và Phật giáo (hơn 20 ngàn, tỷ lệ 4% dân số). Ngoài ra, đồng bào các dân tộc Đắk Nông còn có rất nhiều tín ngưỡng để tôn thờ, đặc biệt là đồng bào các dân tộc tại chỗ thờ cúng Yàng (Trời), thần Núi, thần Sông v.v. và rất nhiều lễ hội như: Lễ hội Đâm trâu (ăn trâu). Lễ mừng nhà mới, Lễ mừng mùa, Lễ bỏ mả .v.v. phong phú và đặc sắc. 11
- Tình hình kinh tế, văn hóa xã hội Trước khi thực dân đến xâm lược, Đắk Nông là vùng hoang sơ, đồng bào dân tộc thiểu số ở đây chủ yếu dựa vào nương rẫy, du canh du cư, trong đó săn bắn hái lượm còn đóng vai trò không nhỏ trong việc đảm bảo cuộc sống hàng ngày. Đây là nguồn sống của hầu hết dân cư. Phương thức và trình độ sản xuất của đồng bào còn rất đơn giản, bằng những công cụ thô sơ và lạc hậu. Công cụ sản xuất là dùng xà gạt, rìu để chặt cây, cuốc để xới đất, gậy chọc lỗ tra hạt, dùng vằng và cào để làm cỏ, liềm để cắt lúa và tuốt lúa bằng tay, lấy chân vò hạt..., măi đến năm 1979 – 1980, mới bắt đầu tiến hành trồng lúa nước. Nhưng bù lại do vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên kiến tạo, đất đai màu mỡ, nên năng suất trong mùa không quá thấp. Nền kinh tế mang tính chất tự cung, tự cấp, trao đổi bị hạn chế. Cư dân trên địa bàn sinh sống chủ yếu là đồng bào dân tộc M’Nông và một số đồng bào người S’Tiêng, Mạ. Từ lâu, dân tộc M’Nông được phân chia theo từng nhóm địa phương và mỗi nhóm mang sắc thái văn hoá riêng: M’Nông Gar, M’Nông Chil, M’Nông Biệt, M’Nông Preh, M’Nông R’lam, M’Nông Noong... Bên cạnh đó còn có M’Nông Tibiri ở bắc đường 14 thuộc huyện Cư Jút, đến nay vẫn ở nhà sàn, nếp sống văn hoá gần giống với người Êđê. Ngoài ra, còn có một số dân tộc thiểu số các tỉnh phía bắc chuyển vào làm ăn sinh sống ở Đắk Nông. Một số nghề thủ công đã đạt tới trình độ tinh tế như nghề dệt sợi, thêu nhuộm hoa văn trên nền vải, nghề đan lát đồ dùng trong gia đình bằng tre mây, nghề rèn để sửa chữa, cải tiến và sáng chế ra những công cụ lao động và cả vũ khí. Tuy vậy, tỉnh Đắk Nông cũng giống như một số tỉnh Tây Nguyên khác, cư dân còn thưa thớt và chủ yếu sống bằng nghề nông. Đa số các dân tộc thiểu số đều sống ở khu vực nông thôn, còn ở khu vực trung tâm thị trấn phần lớn là người Kinh, làm nghề buôn bán. Hầu hết là lao động phổ thông, số lao động chuyên môn còn thấp. Đây là trở ngại trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất cho người lao động; nền kinh tế phát triển chậm chạp, những mối quan hệ truyền thống của các dân tộc còn tồn tại lâu dài, trong đó quan hệ công xã nông thôn còn biểu hiện khá đậm nét. 12
- Tình hình xã hội cũng bắt đầu diễn ra quá trình phân chia giàu nghèo, phân chia đẳng cấp ở những mức độ khác nhau, nhưng dù có phân cấp đến đâu thì vẫn chưa đến mức đối kháng giai cấp. Nhìn toàn bộ xã hội, của cải tích luỹ được ít, phân hoá giàu nghèo không sâu, chênh lệch tài sản giữa người khá giả so với số đông khó phân biệt. Trong quan hệ gia đình và xã hội vẫn duy trì chế độ thị tộc mẫu hệ, người phụ nữ đóng vai trò quyết định trong mọi việc từ kinh tế xã hội đến các việc khác. Các gia đình trong buôn, bon đều có mối quan hệ thân tộc hoặc thích tộc làm cho quan hệ cộng đồng đươc duy trì khá bền vững. Những tập quán được truyền từ đời này sang đời khác trở thành nét đẹp truyền thống trong đồng bào rất sâu sắc. Họ sẵn sàng giúp đỡ nhau trong sản xuất cũng như trong hoạn nạn, sẵn sàng kết nghĩa bạn bè anh em với các dân tộc khác. Các phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ ở Đắk Nông còn mang nhiều tàn dư của thời kỳ nguyên thuỷ. Họ sống theo từng nhóm sắc tộc và tập trung trong từng bon, buôn. Tất cả các nguồn thu trên diện tích mà bon, buôn ở và sản xuất đều là của tập thể. Nhìn chung sự phát triển kinh tế xã hội của người dân tộc thiểu số ở Đắk Nông còn lạc hậu và thấp kém. Đến giữa những năm ba mươi, khi thực dân Pháp bắt đầu ồ ạt nhảy vào vùng Tây Nguyên để mở đồn điền như Sở Trà, Kanhkina ở Quảng Trực; trồng cà phê ở đồn điền Đắk Mil, Hàng No rộng 42 ha, toàn bộ công nhân trong đồn điền là người dân tộc thiểu số tại chỗ vào làm việc theo thời vụ và chỉ ít người Kinh làm công việc quản lý thay cho chủ Pháp trong suốt thời kỳ thực dân Pháp cai trị. Sau hiệp định Giơnevơ (2071954) về lập lại hoà bình ở Đông Dương, đế quốc Mỹ vội vă nhảy vào độc chiếm miền Nam Việt Nam. Dưới sự điều khiển của cố vấn Mỹ, chúng dựng lên chính quyền tay sai và quân đội tay sai, đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước của nhân dân ta ở miền Nam. Mục đích của chúng là biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, làm bàn đạp để tấn công miền Bắc và cả Đông Dương, Đắk Nông là một trong những vùng bị ách kìm kẹp dã man đó. Vào những năm 1957 1958, để khai thác triệt để cả về kinh tế, quân sự, chính trị và xã hội, Mỹ Diệm bắt đầu đưa hàng chục vạn người từ miền Trung lên Tây Nguyên lập các dinh điền, nhằm tách đồng bào ra khỏi quê 13
- hương cách mạng. Trong những năm này, chúng đưa người Kinh, chủ yếu là người ở các huyện Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Bình Sơn... thuộc tỉnh Quảng Ngăi khoảng hơn 150 người, đây là số người đầu tiên lên làm ăn sinh sống tại Đắk Nông. Dọc theo suối Đắk Nông cũng chỉ có một vài hộ gia đình M’Nông sinh sống. Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Đắk Nông đón một nguồn dân cư từ nhiều địa phương lên sinh cơ lập nghiệp. Về tôn giáo, trước thời kỳ thực dân Pháp xâm lược, tín ngưỡng nguyên thuỷ, đa thần còn tồn tại trong cộng đồng người dân tộc bản địa. Các thần linh có tác động mạnh mẽ đến đời sống, lao động sản xuất của đồng bào ở đây. Khi thực dân Pháp nhảy vào xâm lược nước ta thì cũng bắt đầu du nhập các tôn giáo. Chúng cho xây dựng nhà thờ Thiên chúa giáo ở Đắk Mil và ở bon Biton (xã Quảng Khê), do linh mục người Pháp cai quản. Đồng thời xuất hiện đạo Tin Lành ở các bon, ấp... nhằm thu hút đông đảo người dân tham gia học đạo và theo đạo, phục vụ cho chính sách cai trị của thực dân Pháp. Tuy nhiên, đạo Tin Lành lúc bấy giờ chưa phát triển, mãi đến thời kỳ quân Mỹ chiếm đóng Tây Nguyên thì đạo Tin Lành bắt đầu phát triển mạnh. Sau giải phóng miền Nam, cả nước thống nhất cùng xây dựng chủ nghĩa xã hội và thực hiện công cuộc đổi mới, một số bon, ấp, kẻ xấu lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng của Đảng và Nhà nước ta, ra sức tuyên truyền, lôi kéo kích động, dụ dỗ đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ vào những giáo phái mới với nội dung hoạt động trái Hiến pháp, pháp luật, chủ trương, chính sách của ta, gây nên những hậu quả và diễn biến hết sức phức tạp trong công tác giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Cũng như nhiều dân tộc khác ở vùng Tây Nguyên, người dân tộc M’Nông trong quá trình lao động sản xuất, đấu tranh để tồn tại và phát triển, đã hình thành một nền văn hoá rất phong phú và giàu bản sắc dân tộc Việt Nam. Tuy chữ viết xuất hiện muộn, nhưng đồng bào bản địa trên địa bàn Đắk Nông có một kho tàng văn học dân gian truyền miệng rất phong phú, bao gồm cả ca dao, tục ngữ, truyện cổ, truyền thuyết, truyện ngụ ngôn, trường ca... Đồng bào M’Nông ở Đắk Nông còn lưu giữ khá nhiều di sản văn hoá quý giá, bước đầu được khai thác, công bố trong một số công trình. Nhiều nghệ nhân 14
- người M’Nông có những đóng góp lớn vào sưu tầm, biên soạn, dịch thuật các loại văn học dân gian ở Đắk Nông và một số huyện lân cận: Tiêu biểu như trường ca Ốt N’rông, ngoài ra còn có hàng vạn câu ca dao, tục ngữ được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong quá trình lịch sử và cuộc sống lao động hằng ngày của đồng bào dân tộc M’Nông, họ đã sáng tạo ra được một số loại nhạc cụ độc đáo, tuy còn rất thô sơ nhưng phong phú về số lượng và chủng loại: Bộ gõ có đàn chiêng (cĩng), trống (Ding Gơr), đàn môi (guốc)...Ca hát dân gian rất phong phú và đa dạng, hình thức truyền miệng được coi là phương tiện chủ yếu của đồng bào dùng để chuyển tải văn hoá từ vùng này sang vùng khác, từ đời này sang đời khác. Có nhiều cách trong việc chuyển tải văn học dân gian bằng nhiều hình thức kể chuyện, văn vần, hay hát đối đáp nam nữ. Ngoài ra, trong đồng bào dân tộc M’Nông còn lưu giữ một số hình thức dân ca như: Ru con (chiêng con), hát đố (tăm hôr), hát khóc (M’im bôk, M’im khít), hát kể gia phả (Nkok yao)... Người M’Nông cũng có cả một hệ thống nghi lễ phong phú, tất cả đều phục vụ cho đời sống sinh hoạt hằng ngày. Họ không có một ngày lễ nào chính thức, chỉ đón lễ bằng các ngày hội vui mùa gặt, lễ trừ sâu bọ, lễ cúng lúa sắp trổ đòng. Trong nhóm nghi lễ đó có cả nghi lễ gia đình, như lễ làm nhà mới, lễ cho người sắp đi xa hay ở đâu về... Cộng đồng người M’Nông còn lưu giữ một kho tàng luật tục dưới hình thức văn vần, truyền miệng. Nội dung của luật tục hầu hết đề cập đến các mối quan hệ xã hội như: Hôn nhân gia đình, phong tục tín ngưỡng... Luật tục cũng quy định rõ những việc được làm và những việc không được làm, nếu một khi vi phạm sẽ bị xử phạt theo luật tục của buôn, bon. Xã hội truyền thống được vận hành theo một quy luật và cũng từ luật tục này mà dân tộc M’Nông còn tồn tại dai dẳng các tập tục lạc hậu, ví dụ như lấy nhau cùng huyết thống, mê tín dị đoan... Trong trang phục hàng ngày, nghệ thuật tạo hình được thể hiện rất sinh động. Hoa văn trên nền vải của người dân tộc M’Nông chủ yếu tạo hình theo một mô típ truyền thống được cách điệu bằng nhiều hình thức khác nhau. Đàn ông, đàn bà M’Nông đều đóng khố, rộng chừng 20 phân và dài trên 1 thước, đàn bà ở những vùng như thị xã Gia Nghĩa, dọc theo quốc lộ 14 họ còn biết quấn Yêng, lấy khăn che ngực. Trong những dịp lễ tết, đàn ông còn mặc thêm một 15
- cái áo ngắn không cổ, hở bụng và đàn bà thường quấn yêng màu tím đỏ. Cộng thêm vào đó là những trang sức đi cùng trang phục rất đa dạng. Họ thường đeo những vòng đồng, đeo chồng chất ở cổ tay, cổ chân, càng đeo nhiều bao nhiêu càng thể hiện sự giàu sang đến đó. Đặc biệt người M’Nông còn có tập tục là đến tuổi trưởng thành họ cà răng, căng tai cho to để đeo những miếng ngà voi hay miếng gỗ quý. Đó là những nét đặc trưng của người đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ, ngoài những nét riêng mang đậm sắc thái của mình, các dân tộc thiểu số Đắk Nông còn mang những nét chung của văn hoá người Việt Nam. Hiện nay, trình độ dân trí các dân tộc ở Đắk Nông được nâng cao và đặc biệt có sự giao lưu giữa các nền văn hoá, giữa các vùng với nhau. Trong quá trình giao tiếp, nhân dân các dân tộc biết sàng lọc, học hỏi những cái hay, cái đẹp của các nền văn hoá tiên tiến, từ đó các tập tục, nghi lễ phiền toái, lạc hậu được xoá dần. Đắk Nông không ngừng phát triển, đổi mới nâng cao đời sống, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. 1.2. Truyền thống lịch sử nông dân các đồng bào dân tộc trên vùng đất Đắk Nông Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời của dân tộc Việt Nam nói chung và Đắk Nông nói riêng với những chiến tích và dấu ấn tự hào đã tạo nên cho nhân dân những truyền thống quý báu. Truyền thống dân tộc nổi bật của quê hương Đắk Nông được thể hiện ở hai mặt chủ yếu: Xây dựng cuộc sống và bảo vệ quê hương, đất nước. Truyền thống không phải là một cái gì có sẵn, nảy sinh trong một thời gian ngắn và trở nên bất biến mà là những chuẩn mực, quy tắc ứng xử xã hội của một cộng đồng lớn hay nhỏ, được lặp đi lặp lại qua nhiều thế hệ sống trong một không gian ít thay đổi lớn và ăn sâu vào ý thức, tư tưởng của con người, được dư luận xã hội gìn giữ và phát huy. Truyền thống của đồng bào các dân tộc ở Đắk Nông cũng vậy, là một sản phẩm của lịch sử. Nói đến Tây Nguyên là nói ngay đến lịch sử đấu tranh của các dân tộc chống các thế lực áp bức, bảo vệ hạnh phúc và cuộc sống của con người. Trải qua hàng thế kỉ trên mảnh đất miền núi rừng hiểm trở, nơi mà sự chi phối và tác động của tự nhiên còn rất lớn, ngay từ đầu những người dân 16
- nơi đây đã tự sát cánh bên nhau trong cuộc chiến đấu với tự nhiên để sinh tồn và phát triển. Trong cuộc sống người dân không chỉ phải đối mặt với vấn đề cải tạo tự nhiên mà chính bản thân các dân tộc trên cao nguyên cũng liên tục phải đứng dậy đấu tranh chống áp bức, cường quyền. Đây là một quy luật đấu tranh tất yếu của một xã hội có giai cấp. Trong quá trình đấu tranh nói riêng và trong cuộc sống lao động sản xuất nói chung, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái đối với họ cũng trở thành một nét đẹp đạo lý được lưu truyền và phát huy từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nổi bật nhất trong truyền thống của các dân tộc trên địa bàn Đắk Nông là truyền thống yêu quê hương, yêu đất nước, chống áp bức bóc lột, chống xâm lược đô hộ. Mảnh đất trên cao nguyên núi rừng đại ngàn đã hun đúc nên khí phách kiên cường, tinh thần chiến đấu dũng cảm và đặc biệt đã gây dựng một truyền thống yêu quê hương, yêu đất nước, yếu tố vốn là sức mạnh của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử, các dân tộc Đắk Nông đã nêu cao một truyền thống đấu tranh kiên quyết chống áp bức, chống xâm lược, chống đô hộ. Phong trào đấu tranh của Ama Sao (1889 1895) N’Trang Gưh (1900 1914) và đặc biệt là cuộc đấu tranh dưới sự lãnh đạo của anh hùng dân tộc N’Trang Lơng kéo dài gần 1/4 thế kỉ (1912 1935) đã cho thấy truyền thống đấu tranh bất khuất của người dân Đắk Nông. Truyền thống bất khuất đó còn được phát huy mạnh mẽ trong cuộc kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện của dân tộc trong 30 năm chống Pháp và chống Mỹ (1945 1975). Sau ngày giải phóng, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, một lần nữa nhân dân các dân tộc Đắk Nông lại chứng tỏ sức mạnh của truyền thống đó trong việc đập tan, ngăn chặn mọi thế lực xâm lược, thù địch chống phá cách mạng. Tất cả những truyền thống quý báu trên chúng ta còn bắt gặp trong những truyền thuyết lịch sử, truyện kể dân gian và đặc biệt là những bộ sử thi của những dân tộc anh em trên địa bàn Tây Nguyên phản ảnh về công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Vì vậy, trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội của Đắk Nông ngày nay, việc bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống là điều hết sức cần 17
- thiết. Đây là yếu tố tiền đề cho phát triển của Đắk Nông nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Chương 2 NÔNG DÂN TRÊN VÙNG ĐẤT ĐẮK NÔNG THAM GIA CUỘC ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC, TIẾN HÀNH KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG (19301945) 2.1. Thực dân Pháp xâm lược, thôn tính, khai thác, bóc lột nhân dân vùng đất Đắk Nông và phong trào yêu nước chống Pháp của nông dân Đắk Nông trước khi có Đảng 2.1.1. Thực dân Pháp xâm lược, thôn tính, khai thác, bóc lột nhân dân vùng đất Đắk Nông Tây Nguyên nói chung và Đắk Nông nói riêng là vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng về an ninh quốc phòng, có điều kiện tiềm năng giàu có, đất rộng người thưa và là cửa ngõ thuận lợi cho việc khai thác tiềm năng phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Chính vì vậy, ngay từ giữa thế kỷ XIX, Đắk Nông đã trở thành mục tiêu thực dân Pháp chú ý. Đầu tiên thực dân Pháp thăm dò và nắm bắt tình hình Tây Nguyên thông qua những đoàn truyền giáo, thám hiểm. Theo những tài liệu hiện còn lưu giữ thì từ năm 1838, Giám mục Tabe (Thabert) đã ghi chép các vùng dân tộc Tây Nguyên trên tấm bản đồ đầu tiên của mình. Tiếp sau đó, các linh mục như Bulơvô (năm 1851), Phông ten (năm 1852), A dê ma (năm 1857) theo lưu vực sông Đồng Nai đã liên tiếp thâm nhập vào các khu vực của đồng bào M'Nông để thăm dò. Năm 1860, bọn giáo sĩ đã lập hội thánh Trinh Sư trong vùng đồng bào M'Nông và đồng thời lập hội thành ở vùng đồng bào S'Tiêng (Brơ Lam). Một số nhà thờ mọc lên tại nơi sinh sống của đồng bào dân tộc Tây Nguyên, thực chất là những căn cứ quân sự đầu tiên của thực dân Pháp. Bên cạnh đó, thực dân Pháp còn phái các đoàn thám hiểm đến khảo sát địa dư, chủng tộc chuẩn bị điều kiện cho cuộc viễn chinh của chúng sau này. Đến cuối thế kỷ XIX, cùng với quá trình thôn tính toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, thực dân Pháp bắt đầu đưa đội quân viễn chinh lên xâm chiếm vùng đất 18
- giàu có nhưng hoang sơ này. Năm 1894, khi thực dân Pháp đưa hai toán quân đi theo thung lũng sông Ba và sông H'Năng lên cao nguyên M'Nông đã gặp sự kháng cự mănh liệt của đồng bào. Đến năm 1896, thực dân Pháp tiến cử Pôn Đume (Paul Dourme) sang làm toàn quyền Đông Dương. Pôn Đume trở thành nhân vật phát động cuộc chinh phạt vùng đất Tây Nguyên và đưa ra một loạt các chính sách nô dịch và thống trị các dân tộc Đông Dương nói chung và đồng bào Tây Nguyên nói riêng, cả về kinh tế, chính trị, văn hóa và quân sự. Năm 1898, quân Pháp từ Kratiê (Campuchia) tập trung lực lượng tấn công chiếm Buôn Đôn, sau đó tiến đánh các vùng Mê Khul, Mê Wan, Buôn Trấp, Buôn Chóa và lần lượt đưa quân chinh phục người Bih và đánh chiếm cao nguyên M'Nông. Cũng trong năm 1898, Pôn Đume ra lệnh xóa bỏ chế độ sơn phòng của triều đình Huế đặt ở NamNgãiBình, thay thế vào đó là việc thành lập các đồn, với nhiệm vụ nắm toàn quyền chỉ huy khu vực cả về quân sự, chính trị và hành chính. Bộ máy sơn phòng cũ của triều đình Huế bị b ãi bỏ phần lớn, bộ phận nhỏ còn lại trở thành thuộc hạ của bọn quan lại đồn Pháp. Năm 1898, được coi là năm mở đầu nền thống trị của Pháp ở Tây Nguyên. Đến những năm đầu thế kỷ XX, hàng loạt đồn bốt tiếp tục mọc lên bao vây lấy miền sơn nguyên Nam Đông Dương. Chính từ các đồn trên vòng vây này, Đume và bọn tay chân đã tung các phái bộ khoa học, quân sựchính trị của chúng để điều tra, do thám, lấn chiếm dần miền sơn nguyên theo kiểu vết dầu loang. Âm mưu của thực dân Pháp là tách miền sơn nguyên này thành một xứ, ở đó chúng sẽ thực hiện trực trị và độc quyền bóc lột các dân tộc. Tuy nhiên, trên thực tế, khi thực dân Pháp về cơ bản đánh chiếm được Đắk Lắk và bắt đầu áp đặt bộ máy cai trị, thì vùng cao nguyên M'Nông rộng lớn ở phía Nam vẫn là vùng quân Pháp chưa kiểm soát được và chúng gọi đây là Resgion Insoumis (vùng không khuất phục). Năm 1907, dưới thời Bernard (Bê Nanh) làm công sứ, chúng ước lượng chỉ "quy thuận" được 300 làng từ Bu ôn Ma Thuột đến M'Drak, còn khoảng 200250 làng ở phía Bắc Buôn Hồ, phía nam sông Sêrêpôk chúng không thể "quy thuận" được2. Nếu như năm 1898 được coi là năm mở đầu nền thống trị của Pháp ở Tây Nguyên, thì đến năm 1908, thực dân Pháp chính thức đưa quân vào đánh chiếm cao nguyên Nam Tây Nguyên (cao nguyên M'Nông) và tại Đắk Lắk Theo Lịch sử lực lượng vũ trang nhân dân tỉnh Đắk Nông (19452007), Đắk Nông, 62009, tr. 18. 2 19
- chúng xây dựng Nhà đày Buôn Ma Thuột. Cho đến những năm 19091911, thực dân Pháp mới bình định được một số vùng cư trú của đồng bào M'Nông và thiết lập quận Đắk Song (một trong năm quận của tỉnh Đắk Lắk). Cũng như ở Tây Nguyên, sau khi áp đặt được ách thống trị ở vùng cao nguyên M'Nông, thực dân Pháp bắt tay vào thực thi chính sách cai trị. Về kinh tế, một khó khăn của Pháp khi áp đặt chế độ cai trị đối với lĩnh vực kinh tế ở Tây Nguyên là chúng không có nguồn nhân lực cần thiết để phục vụ cho việc khai thác đồn điền, xây dựng đường sá, đồn bốt trong điều kiện miền sơn nguyên đất rộng, người thưa. Để giải quyết khó khăn, toàn quyền Đume đã thực hiện một cuộc cải cách chế độ thuế thân và chế độ xâu có sẵn. Chúng tiến hành hủy bỏ chế độ thu thuế và hiện vật của triều đình nhà Nguyễn, thay vào đó là chế độ thu thuế bằng tiền, với nhiều thứ thuế vô lý như thuế trâu, thuế voi, thuế đàn ông, thuế đàn bà; bắt dân đi phu làm đường 14, khai hoang lập đồn điền, làm sở trà không công cho bọn chủ Pháp. Xâu trước đây quy định bằng 10 ngày công ích, Đume cho tăng thêm một số ngày dành cho tư ích. Thực tế lịch sử chứng minh rằng, chính sách xâu thuế thâm độc của Đume vẫn không đáp ứng được nhu cầu to lớn của thực dân Pháp về nhân lực, tuy vậy những chính sách ấy đã trở thành một trong những xiềng xích cột chân người dân miền núi Đắk Nông vào các đồn điền, công trình làm đường sá và đồn bốt của bọn thực dân, dẫn đến cảnh nghèo đói, lạc hậu, bệnh tật và dân số ngày càng giảm. Sau khi tiến hành xâm chiếm Tây Nguyên, số đồn điền trên địa bàn tăng lên nhanh chóng. Từ một vài đồn điền đầu thế kỷ XX đã tăng lên hàng trăm đồn điền vào những năm 30. Riêng năm 1926, có 27 đơn xin lập đồn điền, với diện tích chiếm đoạt lên tới 17 vạn hécta trên địa bàn Đắk Lắk, nơi có đất đai màu mỡ ở Nam Tây Nguyên... Về quân sự, âm mưu của Đume là thành lập những lực lượng vũ trang người bản địa miền núi, dùng làm công cụ đàn áp phong trào cách mạng và làm bia đỡ đạn cho chúng khi chiến tranh xảy ra. Theo lệnh của Đume, thực dân Pháp đã tiến hành thành lập một đội lính khố xanh bảo an (viết tắt là GM) với 1.500 tên, được bố trí ở các đồn; đồng thời tuyển mộ cho quân đội thuộc địa 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phong trào Tây Sơn
16 p | 603 | 56
-
Giáo trình Phong trào nông dân thế kỷ XVIII và phong trào Tây Sơn: Phần 2
38 p | 184 | 44
-
Giáo trình Phong trào nông dân thế kỷ XVIII và phong trào Tây Sơn: Phần 1
25 p | 117 | 30
-
Phong trào chống phá Bình Định nông thôn ở Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ: Phần 1
58 p | 112 | 25
-
Phong trào chống phá Bình Định nông thôn ở Nam Bộ trong kháng chiến chống Mỹ: Phần 2
54 p | 117 | 18
-
Bài thuyết trình: Phong trào Thái Bình Thiên Quốc
106 p | 249 | 15
-
Phong trào đấu tranh tự vệ của nông dân Yên Thế
13 p | 72 | 9
-
Các sự kiện tác động đến phong trào nông dân cuối thế kỷ XIV trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Quốc sử quán triều Nguyễn)
6 p | 130 | 7
-
Lịch sử Việt Nam: Một số chuyên đề (Tập 2) - Phần 2
190 p | 30 | 6
-
Nghiên cứu lịch sử các thời kỳ Việt Nam (Tập 4): Phần 2
353 p | 25 | 5
-
Tìm hiểu lịch sử đất Hậu Giang và đất An Giang: Phần 2
229 p | 12 | 4
-
Một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII
11 p | 185 | 4
-
Ebook Lịch sử Đảng bộ xã Văn Phú (1945-2020): Phần 2 (Tập 1)
156 p | 10 | 3
-
Lịch sử nông dân Ninh Thuận - những chặng đường đấu tranh và xây dựng (1930 - 2000): Phần 1
88 p | 8 | 3
-
Ebook Lịch sử phong trào nông dân và hội nông dân Việt Nam tỉnh Quảng Nam (1930-2005): Phần 1
181 p | 6 | 2
-
Ebook Lịch sử phong trào nông dân và hội nông dân Việt Nam tỉnh Quảng Nam (1930-2005): Phần 2
226 p | 6 | 2
-
Ebook Nông dân Quảng Ngãi và những chặn đường lịch sử (1930-1990): Phần 1
91 p | 5 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn