intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Liên kết 4 nhà ở đồng Đằng Sông Cửu long: Thực trạng và những vấn đề đang đặt ra

Chia sẻ: Nguyễn Văn H | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

57
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của bài viết nhằm phân tích, đánh giá tình hình thực hiện liên kết “4 nhà”ở đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian qua. Nghiên cứu cho thấy liên kết này còn khá lỏng lẻo và để lại nhiều hệ lụy, ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển bền vững đối với nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong vùng. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm gia tăng tính liên kết giữa các "nhà" trên cơ sở đặt lợi ích của người nông dân, người trực tiếp sản xuất lên trên hết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Liên kết 4 nhà ở đồng Đằng Sông Cửu long: Thực trạng và những vấn đề đang đặt ra

Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät<br /> <br /> LIÊN KẾT “4 NHÀ” Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG:<br /> THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐANG ĐẶT RA<br /> Hoàng Thị Chỉnh*<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Mục tiêu của bài viết nhằm phân tích, đánh giá tình hình thực hiện liên kết “4 nhà”ở đồng<br /> bằng sông Cửu Long trong thời gian qua. Nghiên cứu cho thấy liên kết này còn khá lỏng lẻo và để<br /> lại nhiều hệ lụy, ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển bền vững đối với nông nghiệp, nông dân<br /> và nông thôn trong vùng. Từ đó , tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm gia tăng tính liên kết giữa<br /> các”nhà” trên cơ sở đặt lợi ích của người nông dân, người trực tiếp sản xuất lên trên hết. Để thực<br /> hiện bài viết này, tác giả sử dụng công cụ thống kê phân tích, thống kê mô tả trên cơ sở số liệu thứ<br /> cấp từ Niên giám thống kê và các nguồn tư liệu khác có liên quan.<br /> Từ khóa: Liên kết “4 nhà”, cánh đồng mẫu lớn, xây dựng nông thôn mới, “tam nông”,<br /> phát triển bền vững.<br /> <br /> “4 LINSKS” IN THE MEKONG RIVER DELTA REAL SITUATION AND<br /> ISSUES ARE ASKING/ PUTTING<br /> ABSTRACT<br /> The purpose of this thesis is to analyse and evaluate the state of performance 4 links in the<br /> Mekong River Delta in recent years. The thesis shows that 4 links is undisciplined and leave many<br /> corollaries, which have bad effect on stable development for agriculture, farmers and rural areas<br /> in the region. Thence, the author proposes some solutions for increasing among 4 links based on<br /> the benefits of farmers who directly produce. To carry out this thesis, the author uses the analysing<br /> statistics and describing statistics methods based on the secondary data from annual publication<br /> statistics and other related sources.<br /> Key words: “4 links”, large sample field, new rural construction, “three agricultural”,<br /> stable development.<br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Mô hình liên kết “4 nhà” được ra đời trong<br /> quá trình thực hiện Quyết định QĐ80/2002/<br /> QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc<br /> khuyến khich tiêu thụ nông sản thông qua<br /> hợp đồng được ban hành từ năm 2002 (6).<br /> <br /> Trải qua 12 năm thực hiện, mô hình này đã<br /> phát huy được những tác động tích cực nhất<br /> định ở Đồng Bằng sông Cửu long nhưng cũng<br /> còn rất nhiều vấn đề bất cập cần được tiếp tục<br /> nghiên cứu để hoàn thiện.<br /> <br /> * GS.TS. Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh<br /> <br /> 12<br /> <br /> Liên kết “4 nhà” . . .<br /> <br /> Bản chất và nội dung hoạt động của mô hình liên kết “4 nhà” được thể hiện trong sơ đồ<br /> dưới đây<br /> Sơ đồ 1: Nội dung liên kết 4 nhà<br /> <br /> <br /> 2. ĐIỂM LẠI CÁC MỐI LIÊN KẾT<br /> 2.1. Liên kết giữa doanh nghiệp với<br /> người nông dân<br /> Xét về nội dung của mối liên kết này bao<br /> gồm các công việc cụ thể như: Doanh nghiệp lo<br /> cung cấp đầu vào là vốn, phân bón, giống, thuốc<br /> trừ sâu… và giải quyết đầu ra, tiêu thụ sản phẩm<br /> cho người nông dân. Còn người nông dân có<br /> nhiệm vụ cung cấp sản phẩm cho doanh nghiệp<br /> thông qua các hợp đồng ký kết. Tuy nhiên, trên<br /> thực tế đã nảy sinh nhiều bất cập: Người nông<br /> dân thì cho rằng chất lượng đầu vào là phân<br /> bón, thuốc trừ sâu, giống má… không đảm bảo<br /> chất lượng như trong hợp đồng đã cam kết, còn<br /> doanh nghiệp thì lại cho rằng sản phẩm đầu ra<br /> <br /> của người nông dân cũng “có vấn đề”, và doanh<br /> nghiệp không sẵn sàng bao tiêu tất cả sản phẩm,<br /> đặc biệt vào lúc thời vụ đang rộ lên khiến người<br /> nông dân luôn ở trong tình trạng bị động “được<br /> mùa mất giá”, mất lòng tin vào doanh nghiệp.<br /> Vẫn còn có hiện tượng doanh nghiệp “ép giá<br /> người nông dân” với mục đích là tối đa hóa lợi<br /> nhuận. Còn về phía người nông dân thì thường<br /> xuyên phá vỡ hợp đồng, chạy theo cái lợi trước<br /> mắt, mặc dù đã nhận tiền đặt cọc của doanh<br /> nghiệp nhưng nếu thấy bên ngoài được giá hơn<br /> thì cũng sẵn sàng bỏ doanh nghiệp hoặc chỉ bán<br /> một phần cho doanh nghiệp mà tập trung bán ra<br /> bên ngoài để thu lợi nhiều hơn!<br /> 13<br /> <br /> Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät<br /> <br /> Nguyên nhân là do trình độ nhận thức của<br /> người nông dân chưa cao về trách nhiệm thực<br /> hiện hợp đồng xuất phát từ lối suy nghĩ của<br /> một nền sản xuất nhỏ, lẻ , hám lợi trước mắt<br /> mà không tinh đến lợi ích lâu dài sau này. Còn<br /> doanh nghiệp thì đặt mục tiêu lợi nhuận lên<br /> trên hết mà không tính đến lợi ích của người<br /> nông dân, không tính đến lợi ich lâu dài, phá<br /> vỡ lòng tin của người nông dân, không thể<br /> thiết lập được mối quan hệ lâu dài, bền vững<br /> Trong khi đó nhà nước là người nắm cơ<br /> chế lại chưa ban hành những quy tắc pháp lý<br /> để giám sát, kiểm tra việc thực hiện các hợp<br /> đồng đã ký kết giữa doanh nghiệp và người<br /> nông dân.<br /> 2.2. Liên kết giữa Nhà nước với người<br /> nông dân<br /> Nhà nước giữ vai trò điều tiết mối quan<br /> hệ trong toàn bộ chuỗi liên kết thông qua các<br /> chính sách kinh tế vĩ mô tạo điều kiện thuận<br /> lợi cho người nông dân yên tâm sản xuất đạt<br /> hiệu quả cao như: nâng cấp, xây dựng mới<br /> cơ sở hạ tầng; quy hoạch các vùng nguyên<br /> liệu, tín dụng nông thôn, chuyển giao công<br /> nghệ, xúc tiến thương mại…Ngoài ra, Nhà<br /> nước còn là người kiểm tra,giám sát, bảo đảm<br /> tính pháp lý của các hợp đồng ký kết giữa các<br /> “nhà” với nhau, nhất là nhà doanh nghiệp và<br /> nhà nông… Về nội dung hoạt động trong mối<br /> liên kết này thì như thế nhưng trên thực tế<br /> Nhà nước cũng chưa thực hiện đầy đủ chức<br /> năng của mình. Cơ sở hạ tầng nông thôn vẫn<br /> <br /> còn rất yếu kém, thiếu điện, thiếu nước sạch<br /> vẫn còn tồn tại ở một số nơi thuộc đồng bằng<br /> sông Cửu Long, nhất là vùng sâu, vùng xa;<br /> Công tác quy hoạch làm chưa tốt, sản xuất<br /> vẫn manh mún. Đồng bằng sông Cửu Long<br /> là nơi đi đầu trong cả nước về sản xuất trái<br /> cây nhưng ở nơi này cho đến nay vẫn chưa có<br /> vùng chuyên canh trồng cây ăn trái quy mô<br /> lớn khép kín từ A tới Z. Hậu quả là sản phẩm<br /> làm ra, chất lượng, mẫu mã không đồng nhất<br /> không thể xuất khẩu được. Đầu tư cho nông<br /> nghiệp còn ít và ngày càng có xu hướng giảm<br /> sút, không tương xứng với sự đóng góp vào<br /> nền kinh tế quốc dân. Trong khi đóng góp của<br /> ngành nông nghiệp vẫn chiếm trên dưới 20%<br /> trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP), nhưng<br /> đầu tư cho ngành này chỉ có trên dưới 5-6%<br /> mà lại còn đang có xu hướng giảm sút qua các<br /> năm (bảng 1). Đầu tư trong nước đã ít, đầu tư<br /> của nước ngoài vào nông nghiệp càng ít hơn.<br /> Năm 2012, FDI vào nông nghiệp chỉ đạt 0,6%<br /> trong tổng đầu tư FDI vào Việt Nam (12).<br /> chưa có những chính sách thu hút vốn đầu<br /> tư trực tiếp nước ngoài vào đồng bằng sông<br /> Cửu Long, mặc dù đây là vùng đi đầu trong<br /> cả nước về xuất khẩu gạo, xuất khẩu thủy<br /> sản…, trong hơn 20 năm qua, đầu tư FDI vào<br /> ĐBSCL thấp hơn hẳn một số vùng trọng điểm<br /> khác (bảng 2). Người nông dân cũng còn gặp<br /> nhiều khó khăn trong việc tiếp cận tín dụng ở<br /> nông thôn, vẫn còn phải đi vay nặng lãi.<br /> <br /> Bảng 1: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển theo ngành và tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP của<br /> Việt Nam giai đoạn 2001-2012 (%)<br /> <br /> Năm<br /> <br /> 2001<br /> <br /> ĐT. vào<br /> Nông<br /> 9,6<br /> nghiệp<br /> ĐT. vào<br /> Công<br /> 42,4<br /> nghiệp<br /> <br /> 2002<br /> <br /> 2003<br /> <br /> 2004<br /> <br /> 2005<br /> <br /> 2006 2007<br /> <br /> 2008 2009<br /> <br /> 2010 2011 2012<br /> <br /> 8,8<br /> <br /> 8,5<br /> <br /> 7,9<br /> <br /> 7,5<br /> <br /> 7,4<br /> <br /> 6,4<br /> <br /> 6,2<br /> <br /> 42,3<br /> <br /> 41,2<br /> <br /> 42,7<br /> <br /> 42,6<br /> <br /> 42,2 43,5<br /> 14<br /> <br /> 6,5<br /> <br /> 6,3<br /> <br /> 41,5 40,6<br /> <br /> 6,0<br /> <br /> 5,2<br /> <br /> 41,3 43,1 43,9<br /> <br /> Liên kết “4 nhà” . . .<br /> <br /> Đầu<br /> tư vào 48,0<br /> Dịch vụ<br /> Tổng<br /> đầu tư 100<br /> Nông<br /> nghiệp / 23,3<br /> GDP<br /> <br /> 48,9<br /> <br /> 50,3<br /> <br /> 49,4<br /> <br /> 49,9<br /> <br /> 50,4 50,0<br /> <br /> 52,1 53,1<br /> <br /> 52,6 50,9 50,9<br /> <br /> 100<br /> <br /> 100,0 100<br /> <br /> 100<br /> <br /> 100<br /> <br /> 100<br /> <br /> 100<br /> <br /> 23,0<br /> <br /> 22,5<br /> <br /> 21,0<br /> <br /> 20,4 20,3<br /> <br /> 21,8<br /> <br /> 100<br /> <br /> 100<br /> <br /> 22,1 20,9<br /> <br /> 100<br /> <br /> 100<br /> <br /> 20,6 22,1 21,7<br /> <br /> Nguồn: Niên giám Thống kê năm 2012, Kinh tế 2013-2014 Việt Nam và Thế giới<br /> Bảng 2: Tỷ trọng FDI trong GDP của các vùng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1995-2012<br /> <br /> Chia ra các vùng<br /> trung<br /> Trung du Bắc<br /> bộ<br /> và<br /> và miền<br /> duyên<br /> núi phía hải miền<br /> Bắc<br /> Trung<br /> <br /> Năm<br /> <br /> Tổng số<br /> cả nước<br /> <br /> Đồng<br /> bằng<br /> sông<br /> Hồng<br /> <br /> Tây<br /> nguyên<br /> <br /> Đông<br /> nam bộ<br /> <br /> Đồng<br /> bằng<br /> sông Cửu<br /> Long<br /> <br /> 19952005<br /> 20062012<br /> 19952012<br /> <br /> 11,11<br /> <br /> 14,59<br /> <br /> 0,04<br /> <br /> 7,89<br /> <br /> 8,00<br /> <br /> 17,51<br /> <br /> 1,52<br /> <br /> 19,96<br /> <br /> 16,36<br /> <br /> 0,01<br /> <br /> 46,03<br /> <br /> 1,75<br /> <br /> 23,54<br /> <br /> 7,07<br /> <br /> 17,70<br /> <br /> 15,93<br /> <br /> 0,02<br /> <br /> 36,16<br /> <br /> 3,10<br /> <br /> 21,98<br /> <br /> 5,56<br /> <br /> Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2013<br /> <br /> Người nông dân cũng còn gặp nhiều khó<br /> khăn trong việc tiếp cận tín dụng ở nông thôn,<br /> vẫn còn phải đi vay nặng lãi. Hiện nay nhu<br /> cầu vốn tín dụng ở ĐBSCL là rất lớn, trong<br /> khi vốn huy động chỉ đat khoảng 77% nhu cầu<br /> vốn đầu tư cho vay (13)…Nhà nước chưa tạo<br /> ra được khung pháp lý trong việc giải quyết<br /> các tranh chấp khi thực hiện hợp đồng giữa<br /> các nhà, Nhà nước cũng chưa có những chính<br /> sách hỗ trợ kịp thời cho những thiêt hại do<br /> các nguyên nhân khách quan đưa lại như thiên<br /> tai địch họa…Còn lãnh đạo địa phương thì có<br /> nơi cũng còn chưa hiểu biết nhiều về liên kết<br /> “4 nhà”, chưa tạo điều kện thuận lợi để các<br /> liên kết này thực hiện được tốt…<br /> 2.3. Liên kết giữa nhà khoa học với<br /> người nông dân<br /> Nhiệm vụ của nhà khoa học trong liên kết<br /> này là giúp người nông dân nâng cao năng<br /> <br /> suất và hiệu quả sản xuất nông nghiệp bằng<br /> cách đưa tiến bộ kỹ thuật và áp dụng những<br /> quy trình tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp<br /> như áp dụng giống mới, ngắn ngày năng suất<br /> cao, quy cách bón phân nhằm tiết kiệm mà<br /> lại đảm bảo an toàn, chống ô nhiễm…Nhưng<br /> trên thực tế vai trò của “nhà” này trong chuỗi<br /> liên kết cũng chưa phát huy được do chưa có<br /> những cơ chế rõ ràng. “Đã có không ít trường<br /> hợp các nhà khoa học đưa tiến bộ kỹ thuật<br /> vào chế biến và sản xuất làm lợi hàng chục tỷ<br /> đồng nhưng họ được hưởng không có là bao”<br /> (8). Bên cạnh đó ở nhiều nơi, các nhà khoa<br /> học, các tổ chức khoa học còn thiếu mạnh<br /> dạn, chưa chủ động tham gia vào các mối liên<br /> kết này càng làm cho vai trò của họ khá mờ<br /> nhạt. Ngược lại, trong quá trình sản xuất, “cái<br /> khó bó cái khôn”, một số người nông dân có<br /> đầu óc đã tự phát minh ra những sản phẩm,<br /> 15<br /> <br /> Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät<br /> <br /> những thiết bị như máy phun thuốc trừ sâu<br /> từ xa không gây độc hại cho người sử dụng,<br /> chế thuốc trừ sâu làm từ thảo dược, hệ thống<br /> tưới cây tiết kiệm nước… có giá thành rất rẻ<br /> nhưng vì thiếu liên kết giữa các nhà khoa học<br /> với người nông dân và nhiều lý do khác mà<br /> những sáng kiến này đã không được các tổ<br /> chức có thẩm quyền công nhận kịp thời để<br /> người nông dân có thể áp dụng đại trà, tiết<br /> kiệm chi phí sản xuất, góp phần làm tăng hiệu<br /> quả sản xuất kinh doanh.<br /> <br /> nhất là các rào cản kỹ thuật ngày càng được<br /> áp dụng phổ biến ở các nước phát triển như:<br /> EU, Mỹ và Nhật Bản vốn là những thị trường<br /> tiêu thụ nhiều sản phẩm nông nghiệp của Việt<br /> Nam, nhất là sản phẩm thủy sản.<br /> + Thiếu liên kết giữa nhà nông với nhà<br /> nước mà người nông dân khó tiếp cận với các<br /> khoản tín dụng ở nông thôn, thiếu vốn để mở<br /> rộng quy mô sản xuất kinh doanh, sẵn sàng<br /> chấp nhận vay nóng với lãi suất cao, càng đẩy<br /> họ vào tình trạng khó khăn, dẫn đến nợ nần<br /> chồng chất và rơi vào vòng luẩn quẩn, nghèo<br /> lại hoàn nghèo! Thiếu vốn cũng là tình trạng<br /> phổ biến đối với cả các doanh nghiệp tham<br /> gia vào hoạt động nông nghiệp, nhất là doanh<br /> nghiệp vừa và nhỏ. Trong khi đó ngân hàng<br /> thì sợ rủi ro cao do đặc điểm của sản xuất<br /> nông nghiệp mà không sẵn sàng cho các hộ<br /> nông dân, các doanh nghiệp vay.<br /> + Thiếu liên kết giữa nhà nông với nhà<br /> doanh nghiệp càng làm cho đời sống của<br /> người nông dân bất ổn vì thu nhập không ổn<br /> định. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp<br /> là rất bấp bênh bởi chịu tác động của môi<br /> trường tự nhiên và tiếp xúc trực tiếp với các<br /> cơ thể sống là cây trồng vật nuôi, bắt buộc<br /> phải tuân thủ theo những quy luật sinh học<br /> nhất định nên thu nhập của người nông dân<br /> rất không ổn định. Khi có tiền thì không sao<br /> nhưng khi không có tiền thì không biết xoay<br /> sở thế nào do không có một khoản thu nhập<br /> ổn định từ các nguồn đầu tư khác.<br /> + Thiếu liên kết giữa nhà nông với nhà<br /> doanh nghiệp mà người nông dân vẫn mãi<br /> mãi làm ăn theo kiểu tư duy cũ, hoàn toàn<br /> tự phát, không có thói quen phải chấp nhận<br /> và tuân thủ nghiêm túc những cam kết trong<br /> hợp đồng đã được ký kết. Từ đó tiếp tục tạo<br /> ra một thế hệ người nông dân lạc hậu, không<br /> theo kịp những đổi thay của nền kinh tế đất<br /> <br /> 3. HẬU QUẢ CỦA TÌNH TRẠNG<br /> LIÊN KẾT THIẾU CHẶT CHẼ<br /> Như vậy, mặc dù chủ trương liên kết “4<br /> nhà” là hoàn toàn đúng đắn nhằm thúc đẩy<br /> nông nghiệp cả nước nói chung và đặc biệt<br /> là đồng bằng sông Cửu Long nói riêng phát<br /> triển một cách hiệu quả và bền vững nhưng<br /> trên thực tế thì chủ trương này chưa được<br /> thực hiện một cách nghiêm túc mà hậu quả<br /> là người nông dân phải gánh chịu thể hiện ở<br /> những mặt sau đây:<br /> + Trước hết là do thiếu liên kết hoặc liên<br /> kết không chặt chẽ giữa nhà nông với nhà<br /> doanh nghiệp khiến người nông dân không<br /> chủ động được đầu vào, đầu ra và luôn ở tình<br /> trạng bất lợi: họ phải mua vật tư giá cao, chất<br /> lượng không đảm bảo ảnh hưởng đến năng<br /> suất, sản lượng cây trồng. Tiêu thụ sản phẩm<br /> khó khăn bị tư thương ép giá, nhất là khi vụ<br /> mùa rộ lên dẫn đến hiện tượng “vừa bán, vừa<br /> cho” cũng phải bán còn hơn là bỏ đi!<br /> + Thiếu liên kết giữa nhà nông với nhà<br /> khoa học dẫn đến người nông dân khó tiếp<br /> cận với quy trình sản xuất tiên tiến, kỹ thuật<br /> canh tác hiện đại, đảm bảo tính sạch, xanh, sản<br /> phẩm làm ra không đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật,<br /> đảm bảo an toàn cho người sử dụng, không đáp<br /> ứng được quy định của các nước để xuất khẩu,<br /> 16<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
6=>0