intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Loại bỏ chất kháng sinh kích thích phát triển từ thức ăn gia cầm

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:35

163
lượt xem
40
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Những nghiên cứu về những con gà không nhiễm bệnh và những hợp chất kháng khuẩn đã chỉ ra ý nghĩa quan trọng của mối quan hệ tương tác giữa các chất dinh dưỡng và hệ vi sinh vật ở trong ruột. Mối quan hệ tương tác này bỗng chốc đã vọt lên nổi bật bởi quyết định của hiệp hội Châu Âu quyết định loại bỏ một vài tác nhân kháng khuẩn sử dụng trong thức ăn gia súc. Hậu quả của quyết định này là đã nới lỏng một vài sự kiềm chế mức độ phát triển...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Loại bỏ chất kháng sinh kích thích phát triển từ thức ăn gia cầm

  1. Loại bỏ chất kháng sinh kích thích phát triển từ thức ăn gia cầm Những nghiên cứu về những con gà không nhiễm bệnh và những hợp chất kháng khuẩn đã chỉ ra ý nghĩa quan trọng của mối quan hệ tương tác giữa các chất dinh dưỡng và hệ vi sinh vật ở trong ruột. Mối quan hệ tương tác này bỗng chốc đã vọt lên nổi bật bởi quyết định của hiệp hội Châu Âu quyết định loại bỏ một vài tác nhân kháng khuẩn sử dụng trong thức ăn gia súc. Hậu quả của quyết định này là đã nới lỏng một vài sự kiềm chế mức độ phát triển của vi khuẩn ở trong ruột, mức độ này sẽ tăng khi sử dụng những thành phần thức ăn chậm tiêu hoá, vì thức ăn chưa được tiêu hoá là tiềm năng cho sự lên men vi khuẩn. Việc sử dụng những thành phần thức ăn tiêu hóa kém dẫn đến những mối nguy hại không chỉ làm cho kết quả thực hiện luôn thấp mà còn tăng thêm những nguy hiểm gây ra bởi sự tăng quá nhanh của vi khuẩn dẫn tới những bệnh tật sau này (bệnh rối loạn ruột). Do vậy những thay đổi trong chất dinh dưỡng của những thành phần thức ăn cũng tăng lên tương ứng, và bất cứ phương pháp nào giảm những thay đổi như
  2. vậy có lẽ là rất có ích. Vì vậy việc sử dụng các enzyme_chất được biết là giảm những biến đổi trong kết quả của gia cầm được cho ăn những loại thức ăn với thành phần cơ bản là hạt mạch, mì, ngô, sẽ cần được xem xét quan tâm, đặc biệt là liều dùng của các enzyme. Trong thời gian trước việc sử dụng những chất kháng sinh đã làm giảm quan tâm tới việc sử dụng enzyme cũng như liều lượng của chúng. Kiềm chế vi khuẩn hình cầu cũng là mối quan tâm lớn bởi vì nó liên quan tới bệnh hoại tử ruột. Ngăn chặn vi khuẩn hình cầu và hạn chế thiệt hại do nó gây ra là một công việc quan trọng tột bậc. Vì vậy việc sử dụng coccidiostats để kiềm chế trực tiếp và (betaine) cùng các chất bổ sung khác để tăng khả năng tiêu hóa đang là những mối quan tâm lớn. Cuối cùng nó được hy vọng rằng kiểm soát được thức ăn sẽ dẫn đến kiểm soát vi khuẩn, cung cấp nhiều sản phẩm phù hợp hơn đáp ứng sự thiếu hụt những chất kháng sinh ở thức ăn. I/ Giới thiệu. Vào cuối tháng 6/1999 phần lớn những chất kháng sinh được sử dụng trong khẩu phần ăn của động vật dạ dày đơn đã được loại bỏ ở Châu Âu. Những chất này được sử dụng nhiều năm trong ngành công nghiệp chăn nuôi và đã chứng tỏ hiệu quả của nó trong việc nâng cao tình trạng sức khoẻ, sự đồng đều của gia súc và hiệu quả sản xuất. Hậu quả của việc loại bỏ này
  3. thì nhiều. Mặc dù công thức chế biến thức ăn được cho là tương đối chính xác hiện nay, nó thực sự mỉa mai rằng việc loại bỏ của tất cả nhóm thành phần những chất kháng sinh kích thích phát triển c hính nó sẽ làm tăng sự phức tạp của tiến trình đi tới loại bỏ hoàn toàn chất kháng sinh. Bài báo này sẽ bình luận ngăn gọn những thông tin miêu tả lợi ích của chất kích thích phát triển và vì vậy sẽ làm nổi bật những sự thay đổi, cái mà những nhà điều chế thức ăn và những nhà quản lý gia cầm phải được yêu cầu làm giảm sự thay đổi đó để không làm xáo trộn sự thịnh vượng của gia súc và kết quả sản xuất. Với phần chiến lược này chúng tôi đề xuất rằng: những enzyme và betaine sẽ giúp làm giảm những hậu quả như đã trông đợi xẩy ra. II/ Chất kháng sinh kích thích phát triển: Lợi ích của chúng là gì? Chất kháng sinh kích thích phát triển rõ ràng đã cải tiến tốt hơn kết quả và tình trạng sức khoẻ của gia súc. Việc loại bỏ chúng ra khỏi thức ăn do vậy sẽ là một thách đố khó khăn để khắc phục hậu quả, đặc biệt nếu sản phẩm gia súc của Châu Âu thì vẫn còn tiếp tục cạnh tranh với những sản phẩm của các nước còn lại trên thế giới, nơi mà những chất kích thích phát triển vẫn được sử dụng. Tuy nhiên, trong bài báo này chúng tôi không có ý tranh luận về giá trị hơn - kém trong quyết định của EU về việc loại bỏ những sản phẩm này từ thức ăn gia súc. Đối với những tranh luận và thông
  4. tin liên quan đến tính 2 mặt của quyết định, các bạn đọc nên tham khảo những bài bình luận của Anadon (1998), Barton (1998), Bvwater (1998a), Mudd (1998), Piva và Rossi (1998), Stobberigh (1998), Taljanski-Zygmunt và cộng sự (1998) và Bezoen và cộng sự (1999). Một chuỗi những bài bình luận tổng hợp của Thomke và Elwinger (1998a, b) đi vào chi tiết trên những cơ chế hoạt động của những chất kháng sinh kích thích phát triển và kết quả của những phản ứng gia súc đã quan sát được hơn là được thảo luận ở đây. Tóm lại rất rõ ràng rằng chất kháng sinh kích thích phát triển làm thay đổi hệ vi sinh vật ở ruột. Hầu hết những cơ thể nhiễu bệnh thì bị kéo theo với tình trạng sức khoẻ kém hơn và kết quả kém hơn của gia súc. Tuy nhiên phản ứng tới những sản phẩm như vậy thì có thể thay đổi và có thể thay đổi tới một mức độ lớn, là phụ thuộc vào môi trường nuôi gia súc và phụ thuộc vào thức ăn cấp cho chúng. Nó thì rất quan trọng rằng, trước khi thảo luận về chiến lược hạn chế tới mức tối thiểu những tổn thất gây ra từ việc loại bỏ chất kháng sinh khỏi thức ăn chúng ta sẽ nghiên cứu và đạt được việc hiểu biết về mối quan hệ tương tác giữa các chất dinh dưỡng và hệ vi sinh vật.
  5. III/ Môi trường: Một nơi rộng lớn của phản ứng tới chất kháng sinh kích thích phát triển. Những chất kháng sinh kích thích phát triển tác động không có lợi vào kết luận của những gia súc không nhiễm bệnh (Bywater, 1998a), một khía cạnh chỉ rõ rằng hiệu quả của chúng là hoạt động chống vi khuẩn hơn là gây ra bởi quan hệ tương tác ảnh hưởng tới hoạt động sinh lý của gia súc. Sự có mặt của thực khuẩn trong ruột được biết là làm giảm hiệu quả của gia súc qua những cơ chế sau đây: * Cạnh tranh với vật chủ để thu hút chất dinh dưỡng ở trong ruột. * Trong một số trường hợp làm chậm một phản ứng miễn dịch gây ra sự kém ăn ở gia súc và phân giải đoạn cơ bắp để cung cấp cho phản ứng này. * Hạ thấp hiệu quả tiêu hoá bằng việc làm phân rã enzyme tiêu hoá và giảm phạm vi bề mặt hấp thụ. * Gây ra bệnh tật, đặc biệt bệnh hoại tử ruột. * Tăng kích thước của bộ phận ruột qua việc sản xuất những hợp chất hoá học gây kích thích (như plymines và axit béo dễ bay hơi) kết quả cuối
  6. cùng là một sự gia tăng yêu cầu về năng lượng để giữ gìn ruột, do đó để lại ít năng lượng cho những quá trình hữu ích. ảnh hưởng tiêu cực của vi sinh vật vào kết quả của gia cầm được chỉ rõ trong công việc của Muramatsu và cộng sự (1994) và chỉ ra trong sơ đồ 1. Những con gia cầm không mắc bệnh ở lô thí nghiệm được cho ăn những thức ăn tương tự lô đối chứng đã phát triển nhanh hơn và dường như đã thu hút ít năng lượng hơn từ thức ăn so với lô đối chứng. Sự khác nhau trong việc thu hút năng lượng là kết quả của vi sinh vật trong ruột đã sử dụng một lượng năng lượng lớn trong thức ăn, do vậy số năng lượng này sẽ không được cung cấp cho gia cầm. Những số liệu này chỉ ra rằng trong thí nghiệm này, phí tổn năng lượng do vi sinh vật sử dụng ít nhất là 10% tổng số năng lượng trao đổi (AME). Dường như càng cho ăn những thức ăn có thể dễ lên men, thì hoạt động của vi khuẩn càng lớn. Số liệu này đã làm bùng lên những cuộc tranh luận chống lại sự vững chắc và ý nghĩa của khái niệm giá trị AME và những kết quả phân tích đã thực hiện để tìm ra nó, vì những kết quả này phụ thuộc vào lượng vi khuẩn đi vào và những yếu tố khác. Sự thiếu một môi trường phản kháng của vi khuẩn sẽ giới hạn hoàn toàn phản ứng của chất kích thích phát triển. Sự phản kháng này được tạo ra
  7. từ những hoàn cảnh khác, những thực khuẩn tiềm năng sống trong những nơi gia súc sống như (chuồng trại, lán, chỗ quây gia súc...) Môi trường đặc biệt quan trọng trong trường hợp này bởi vì ruột của những con gà con thì vô trùng khi mới sinh ra. Vi khuẩn đầu tiên đi vào bộ phận ruột đã không gặp trở ngại nào ở trong ruột và những chất dinh dưỡng và vì vậy: nếu chúng thích hợp với môi trường trong ruột chúng phát triển nhanh chóng. Khi ngày càng nhiều vi khuẩn đi vào trong ruột, sự cạnh tranh giữa những loài vi khuẩn tăng lên và chỉ loài nào phù hợp nhất sẽ tồn tại. Vi khuẩn, loài có lẽ trở nên thích hợp và thống trị thành công trong một ngày, có lẽ không thể thống trị như vậy trong vài ngày sau, bởi vì môi trường trong ruột ngày càng trở nên thù địch giữa những loài vi khuẩn mới nhập vào vì lý do chỗ ở, sự có mặt của các độc tố, và sự có mặt của những chất dinh dưỡng. Bởi vì lẽ đó cho nên sự phát triển của những loài cư ngụ trong ruột không chỉ phụ thuộc vào những loài thống trị ngay từ lúc bắt đầu trong môi trường của chuồng trại, lán nuôi, chỗ quây đặc biệt tại nơi ấp trứng mà còn phụ thuộc vào những loài vi khuẩn đã ở trong bản thân gia cầm. Những nhận thức như vậy là hết sức cần thiết để giải thích chính xác những kết quả thu đ ược từ những thực nghiệm về chuồng trại, ví dụ: những sức ép của vi khuẩn trên gia súc ở những thực nghiệm này là không tiêu biểu - không đặc trưng cho sức ép của vi khuẩn trên gia súc trong những điều kiện thương mại thông thường. Bởi
  8. vì bản chất của những thách thức của vi khuẩn sẽ thay đổi từ thực nghiệm này tới thực nghiệm khác, và bởi vì phạm vi ảnh hưởng của chất kháng sinh kích thích phát triển thay đổi từ sản phẩm này tới sản phẩm khác, theo sơ đồ 2 thì rõ ràng là kết quả của những thực nghiệm là không đồng nhất. Sự trùng hợp phạm vi ảnh hưởng của những chất kháng sinh khác nhau là một vấn đề của mức độ liều lượng hiệu quả, trong khi đó yếu tố thông thường bị bỏ qua trong những thực nghiệm (ở đó người ta chỉ sử dụng duy nhất một liều lượng). Ví dụ, khi gà được nuôi dưỡng những điều kiện thích hợp cho sự phát triển, vi khuẩn bị tiêu diệt bởi thuốc kháng sinh, do vậy kết quả của nó sẽ cao hơn kết quả của gà không được nuôi trong những điều kiện tương tự như vậy. Việc xác định chính xác những loài vi khuẩn gây hại này vẫn chưa được chỉ ra đầy đủ, gần như không đáng kể bởi vì một phần nhỏ của những loài vi khuẩn sống ở trong ruột được nhận ra. Kết quả là thường có những lời giải thích không rõ ràng về phần tại sao một sản phẩm cá biệt lại có kết qủa cao hơn sản phẩm khác. Do vậy để đánh giá chính xác những lợi ích của những chất kháng sinh kích thích phát triển chúng ta xem xét trên một số lượng lớn những nghiên cứu về môi trường gắn liền với thực tế sản xuất thương mại. Điều này là rất cần thiết nếu chúng ta muốn ước tính giá trị trung bình chính xác của những chất kháng sinh kích thích sự phát triển.
  9. Rosen (1995) và Thomke cùng với Elwinger (1998a) đã ước tính lợi ích trung bình của những sản phẩm đó trong FCR là khoảng 3%, với một phạm vi dao động từ 0-5%. IV/ Yếu tố chính ảnh hưởng lên những phản ứng của việc sử dụng chất kháng sinh kích thích phát triển. Từ những vấn đề trên thì rõ ràng rằng đối với một loài riêng biệt để trở lên phù hợp nó không chỉ cần có mặt ở nơi cần đến mà còn phải tìm ra chất dinh dưỡng và nơi ở thích hợp. Chất dinh dưỡng ở trong ruột chủ yếu đến từ thức ăn được cung cấp cho gia cầm. Những nghiên cứu đầu tiên đã chỉ rõ: thức ăn có ảnh hưởng tới vi sinh vật và từ đây nó phản ứng tới những chất kháng sinh kích thích phát triển. Những khẩu phần trên nền cơ bản là hạt mạch đen tạo ra lượng ký sinh trong ruột hồi lớn hơn rất nhiều lượng vi sinh vật ký sinh tạo ra bởi những khẩu phần dựa cơ bản vào hạt ngô. Vì vậy những khẩu phần cơ bản là hạt mạch đen được xem là phản ứng mạnh đặc biệt tới tất cả các loại chất kháng sinh (Elwinger và Teglof, 1991; Hofshagh và Kaldhusdal, 1992; Vranjes và Wenk, 1997). Những nhà dinh dưỡng thường bỏ qua sự thật rằng thức ăn một nguồn dinh dưỡng đối với vi sinh vật nhiều như nó đối với gia súc. Đặc biệt gia cầm có một tiến trình tiêu hoá thức ăn mau lẹ. Bởi vì nồng độ pH rất thấp ở
  10. trong mề, thức ăn đi vào tá tràng đã giảm đáng kể lượng vi khuẩn. Sự bố trí của men tiêu hoá, áp suất oxy cao và sự có mặt với nồng độ cao của những chất đề kháng như muối mật (bile salts) ở tá tràng đã hạn chế thêm sự tăng trưởng của vi khuẩn ở khu vực này của ruột. Hơn nữa dọc theo ruột non môi trường đã thay đổi và trở lên thích hợp hơn cho sự phát triển của vi khuẩn bởi vì áp suất oxy thấp hơn và nồng độ men tiêu hoá và muối mật thấp hơn (một phần do tài hấp thụ, một phần do việc giảm dính kết chống vi khuẩn của muối mật). Khi tiêu hoá ở tình trạng tốt nhất, mức độ tiêu hoá và hấp thụ chất dinh dưỡng cũng tốt nhất, vì vậy tỷ lệ chất dinh dưỡng bị hấp thu bởi vi khuẩn sở tại trong ruột non là rất thấp (sơ đồ) số thực khuẩn ở trong ruột hồi được giữ ở mức độ tối thiểu nhờ sự hạn chế lượng dinh dưỡng có thể hấp thụ. Mật độ vi khuẩn ở trong manh tràng được nuôi dưỡng duy nhất bởi những chất xơ có thể lên men, chất này có thể thấm vào màng lọc của manh tràng, nghĩa là những vật cản sinh lý tại điểm giao nhau của ruột hồi - manh tràng - ruột kết ngăn chặn sự lọt vào của những hạt lớn đi vào manh tràng. Tuy nhiên, vì bất cứ lý do nào khi sự tiêu hoá bị tổn thương, lượng bột và đạm đi vào phần ruột dưới và hạn chế sự dày đặc mật độ vi sinh vật và sau đó làm giảm xuống mức độ nào đó. Hơn nữa có sự thay đổi trong loại chất nền cơ bản của thức ăn, cùng với việc cân đối đạm và chất bột nhiều hơn loại chất xơ có thể lên men, không chỉ để thay đổi mật độ vi khuẩn mà
  11. còn thay đổi sự thống trị của những loài vi khuẩn (Wager và Thamas, 1987; Vahjen và cộng sự, 1998). Những thức ăn có độ nhớt cao hoặc thức ăn có bột, đạm có khả năng khó tiêu hoá khó có thể gây ra những phản ứng như vậy (Vahjen và cộng sự, 1998). Những gia cầm sẽ phản ứng tới những thách đố đó qua vài cơ chế bao gồm: tăng tỷ lệ những sản phẩm của enzyme giúp cho dễ tiêu hoá (Angkana- porn và cộng sự, 1994) và tăng trọng lượng tuyến tuỵ (Brenes và cộng sự, 1993), kích cỡ của ruột tăng (Brenes và cộng sự, 1993) để đưa vào những chất không hấp thụ. Tiến trình này gây ra một phần bởi sự chấp nhận sản phẩm của vi khuẩn giống như Polyamines, được biết là kích thích sự phát triển của chất nhầy và thay thế tế bào. (Seidel và cộng sự, 1985; Deloyer và cộng sự, 1996; Noack và cộng sự, 1996). Do vậy gia cầm cố gắng b ù đắp việc giảm tỉ lệ hấp thụ dinh dưỡng bằng việc gia tăng khả năng tiêu hoá của chính nó. Một cách châm biếm, làm như vậy những villi enterocytes của ruột lớn lên và di chuyển lên villus nhanh chóng hơn. Những tế bào ruột như vậy thì non nớt hơn và vì vậy ít có thể hấp thụ chất dinh dưỡng hiệu quả, do vậy có một phạm vi và nồng độ bị giới hạn của những enzyme giúp cho tiêu hoá và hấp thụ dễ dàng. Ngoài ra những chất đạm trên bề mặt trong những tế bào non nớt thay đổi đáng kể hơn những tế
  12. bào trưởng thành. Vì vậy một môi trường mới hoàn toàn xuất hiện cho những vi khuẩn ở trong ruột và một sự thay đổi nhanh chóng trong sự sắp xếp của các loài vi khuẩn xẩy ra, thường dẫn đến sự rối loạn trong ruột. V ì vậy một sự thay đổi đơn giản trong thức ăn có thể dẫn đến kết quả khôn lường. Những chất kháng sinh kích thích phát triển hạn chế cơ bản những thiệt hại của sự dao động khẩu phần ăn bởi mục tiêu trực tiếp của nó là tiêu diệt những vi khuẩn được đề cập tới. Vì vậy những phản ứng có hại tới khẩu phần ăn được giữ ở mức độ tối thiểu. Việc loại bỏ những sản phẩm này ra khỏi thị trường chắc chắn sẽ làm tăng sự biến đổi trong kết quả gây ra rối loạn khả năng tiêu hoá thức ăn, một yếu tố quan trọng tạo ra sự phát triển quá nhanh của vi khuẩn. Một khi những chất kháng sinh kích thích phát triển bị loại ra thì enzyme và betaine được xem là những chất thích hợp và hiệu quả nhất trong việc làm giảm sự thay đổi trong khả năng tiêu hoá thức ăn giữa những loại thức ăn. Sơ đồ 3: Hình ảnh biểu đồ quá trình tiêu hoá trong điều kiện lý tưởng, nơi loại bỏ những chất dinh dưỡng đã gới hạn số lượng thực phẩm. V/ Sau khi loại bỏ chất kháng sinh kích thích phát triển: những sản phẩm khác nào sẽ giúp giảm những hậu quả có thể.
  13. Có nhiều cách gây ảnh hưởng tới số lượng vi khuẩn ở trong ruột một khi những chất kháng sinh kích thích phát triển được loại ra. Phương pháp rõ ràng nhất là sử dụng những liều thuốc trị liệu của chất kháng sinh. Có một thực tế mỉa mai và chắc sẽ xẩy ra là sự xuất hiện của những tác nhân gây bệnh có hại cho con người. Nhiều phương pháp không sử dụng chất kháng sinh được đề cập dưới đây. Tuy vậy không một phương pháp nào sẽ bù đắp đầy đủ cho việc loại bỏ chúng. D ù sao cũng phải nhấn mạnh rằng tất cả những chiến lược đã thảo luận trong bài báo này là những phương pháp duy nhất sẽ giúp bù đắp một phần nào đó, mà không thể thay thế được những chất kháng sinh kích thích phát triển và tất cả sẽ làm việc theo cơ chế gián tiếp hơn là cơ chế trực tiếp. Những cơ chế hoạt động của những c hiến lược này được xếp thành 3 loại (Bảng 2). Danh sách này không có nghĩa là toàn diện, đầy đủ mà còn nhiều sản phẩm khác được xác định là giá trị trong những thức ăn không có chất kháng sinh kích thích phát triển. Người đọc hãy tham khảo bài của Thomke và Elwinger (1998c) để hiểu sâu hơn. Một sự trình bày tổng quát những cơ chế và giá trị của chúng được đưa vào bảng 2.
  14. Bảng 1: Những cách sử lý hiện tại trong sử dụng hoặc xem xét đối với việc sử dụng những thức ăn của gà thương phương phẩm loại không có chất kháng sinh kích thích phát triển. Phân loại Ví d ụ 1. Giới hạn chất * Enymes Dinh dưỡng dùng * Những thành phần thức ăn chất lượng cao cho vi khuẩn trong ruột * Bao gồm tất cả những hạt ngũ cốc * Quy trình chế biến thức ăn 2. Những phương * Enymes pháp làm tăng sự có thể * Betaine
  15. xất hiện của những *Bao gồm tất cả những hạt ngũ cốc loại vi khuẩn có lợi * Những thành phần thức ăn chất lượng cao qua những tác nhân gây như: các lectin đã giới hạn để kích thích sự bắt giữ bệnh tác nhân gây bệnh Probiotics (chính xác hơn, những chất phụ gia của thực khuẩn) * Đường có thể lên men * Làm sạch trùng thức ăn (nhiệt độ, axit) * Hạ thấp hàm lượng N của khẩu phần ăn. 3. Tăng khả năng * Vacxin miễn dịch của gia súc * Chất bổ (axit béo, vitamin...)
  16. tránh Những bệnh gây ra * Những lectin trong thức ăn cho các bộ phận cơ thể Bảng 2: Những chiến lược để giảm tối thiểu hậu quả của việc loại bỏ chất kháng sinh kích thích phát triển và những giả thiết đằng sau cách thức hoạt động. Chiến lược Giả thiết sau cách thức hoạt động Những Chất lượng của nguyên liệu sử dụng làm thức ăn 1. thành phần dinh càng cao, thì khả năng tiêu hoá của thức ăn càng lớn hơn dưỡng chất lượng và do vậy sẽ có ít chất dinh dưỡng trở thành nguồn cung cấp cho sự phát triển của vi khuẩn. Nguyên liệu có chất cao lượng cao hơn sẽ chứa một số lượng nhỏ của những yếu tố kháng dinh dưỡng giống như tác nhân Trypsin và lectins, chúng làm giảm khả năng tiêu hoá thức ăn và gây tổn hại
  17. mô tế bào của ruột. Các tổn hại gây ra một sự tăng nhanh trong thay đổi tế bào cùng với những hậu quả đã miêu tả ở phần trên. Tổng thể tất cả những hạt ngũ cốc đ ược biết là kích 2. Bao gồm tất cả hạt thích sự phát triển của mề (Russell và Godwin, 1997) và vì ngũ cốc vậy tất cả những thức ăn có khuynh hướng được nghiền thành những hạt có kích cỡ nhỏ hơn (Svihus và cộng sự, 1997). Điều này dẫn đến việc tiêu hoá hiệu quả hơn. Việc bổ xung tất cả hạt mỳ cũng dẫn tới thay đổi kiểu lên men trong manh tràng tạo ra nồng độ cao hơn của axit propionic và giảm mật độ vi khuẩn gây ra ngộ độc thức ăn loại Salmonella. 3. chế biến Nhiệt độ cao và hoặc quá trình ép sản phẩm như (tạo viên - ép mỏng - kéo sợi...) có thể có những thay đổi quan trọng về tỉ lệ tiêu hoá thức ăn, hoặc là tích cực hoặc là tiêu cực. Những lợi ích đến từ việc phá vỡ màng tế bào, dẫn tới phơi bày lượng thức ăn vào trong các enzyme là dễ tiêu hoá đi theo với sự phá huỷ các cấu trúc của tinh bột và
  18. đạm. ảnh hưởng tiêu cực gồm việc tăng độ nhớt ở những loại thức ăn chứa loại hạt xác định và sự hình thành những hỗn hợp chống đạm và tinh bột, điều này cần được giảm tối thiểu bằng việc kiểm soát chặt chẽ điều kiện chế biến và sử dụng enzyme để giảm độ nhớt. Những Lượng vi khuẩn trong cuộc sống ban đầu của gia 4. chất phụ gia của cầm là vi khuẩn có lợi, chúng ảnh hưởng lên môi trường vi sinh vật của ruột và ủng hộ sự thiết lập của những vi khuẩn có lợi hơn là những loài gây hại. Điều này làm giảm sự có thể xảy ra của sự thiết lập những tác nhân gây hại. Đưa đến những kết quả có lợi của sức khoẻ và kết quả của gia cầm. Sự phân loại của sản phẩm đã sử dụng của các loài càng thay đổi nhiều, sự sống sót và sinh sản trong ruột càng lớn, cơ hội thành công càng tốt hơn. Hoặc ở nhiệt độ cao hoặc sử dụng những axit để 5. Vô trùng thức ăn đảm bảo rằng đàn gia cầm không nhận những vi khuẩn độc hại ở trong thức ăn, đích ngắm đầu tiên là các cơ quan
  19. lây nhiễm Những Sự cung cấp những chất dinh dưỡng kích thích sự 6. loại đường có thể phát triển của những vi khuẩn có lợi dẫn đến sự thuận lợi trong cạnh tranh của chúng qua những tác nhân gây bệnh lên men hoặc những loài có hại đến tỷ lệ phát triển và vì vậy tạo ra những lợi ích trong sức khoẻ và kết quả thực hiện. Chúng được sử dụng tốt nhất là kết hợp với 1 chất phụ gia của vi sinh vật thích hợp. 7. Hạ thấp Nhiều ảnh hưởng có hại xảy ra trong ruột dưới bị hàm lượng N của gây ra bởi những bộ phận thối rửa, bộ phận tận dụng đạm thức ăn không được tiêu hoá. Vì vậy, nó thì có lợi để sử dụng những thức ăn có hàm lượng đạm thấp hơn thì ngang bằng với axit amin để cung cấp cho nhu cầu dinh dưỡng của gia cầm ở trong thức ăn với một lượng đạm dư thừa ít như có thể. Kích thích sự tự bảo vệ của gia cầm đối với những 8. Vacxin cơ quan mục tiêu để giới hạn khả năng của chúng ảnh
  20. hưởng tới kết quả, sức khoẻ hoặc khả năng truyền bệnh lây nhiễm cho con người. Chất Một vài chất dinh dưỡng được chỉ ra là chất làm 9. dinh dưỡng axit tăng hệ thống miễn dịch và giảm những thay đổi (Korver và Klasing, 1997; Klasing, 1998) giới hạn những chỗ dễ béo xưng viêm, đi theo với một phản ứng miễn nhiễm có thể là có lợi cho mức độ phát triển miễn là nó không cản trở tới khả năng của gia cầm chống lại bệnh tật. Axit linolcic là một hợp chất có ích như thế Một số thành phần của thức ăn đã giới hạn và một 10. Feed số làm tăng sự mất chất lỏng liên quan tới bệnh đường lectins ruột, những bệnh này có thể dẫn đến những hậu quả liên quan tới kết quả và sức khoẻ vật nuôi. VI/ Chúng có thể giảm bớt những vấn đề rắc rối liên quan tới việc loại bỏ chất kháng sinh kích thích phát triển như thế nào? Nó thì rõ ràng rằng cả 2 yếu tố môi trường và thức ăn sẽ phản ứng tới chất kháng sinh kích thích phát triển. Vì vậy việc loại bỏ chất kháng sinh
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0