intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Lord Byron

Chia sẻ: Nhi Nguyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

98
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Byron sinh ở London, trong một gia đình quí tộc đã sa sút. Học ở Harrow School và Đại học Cambridge. Năm 1807 in tập Hours of Idleness (Những giờ giải trí), năm 1809 in trường ca English Bards and Scotch Reviewers (Những nhà thơ Anh và những nhà phê bình Scotland) phê phán những nhà lãng mạn quá khích. Từ năm 1809 là thành viên nghị viện Anh, sau đó bắt đầu 2 năm đi chu du sang các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hy Lạp. Năm 1812 in 2 chương đầu của Childe Harold's Pilgrimage...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Lord Byron

  1. Lord Byron Nhà thơ Công việc Anh Quốc gia Lord George Gordon Noel Byron (22 tháng 1 năm 1788 – 19 tháng 4 năm 1824) là nhà thơ lãng mạn Anh, một trong những nhà thơ lớn của thế giới thế kỷ 19.
  2. Mục lục 1 T iể u s ử  2 Tác phẩm  3 Một vài bài thơ  4 Liên kết ngoài  [ ] Tiểu sử Ada Lovelace, con gái của Byron là một nhà khoa học nổi tiếng thế giới Byron sinh ở London, trong một gia đình quí tộc đã sa sút. Học ở Harrow School và Đại học Cambridge. Năm 1807 in tập Hours of Idleness (Những giờ giải trí), năm 1809 in trường ca English Bards and Scotch Reviewers (Những nhà thơ Anh và những nhà phê bình Scotland) phê phán những nhà lãng mạn quá khích. Từ năm 1809 là thành viên nghị viện Anh, sau đó bắt đầu 2 năm đi chu du sang các nước Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hy Lạp. Năm 1812 in 2 chương đầu của
  3. Childe Harold's Pilgrimage (Chuyến hành hương của Childe Harold) kể lại chuyến đi Nam Âu và Cận Đông. Nhân vật của trường ca là chàng trai trẻ thất vọng trước cuộc sống thiếu lý tưởng và tự do. Năm 1812, phát biểu trước nghị viện, Byron tố cáo tầng lớp thống trị ở Anh và đòi hủy bỏ luật tử hình những người công nhân phá máy. Trong những tác phẩm The Giaour (1813), The Bride of Abydos (1813), The Corsair (1814), Lara (1814), The Siege of Corinth (1816) Byron kêu gọi đấu tranh giành tự do. Năm 1816 ông đi sang Thụy Sĩ, gặp Percy Bysshe Shelley, hai người trở thành bạn của nhau. Những năm 1817-1820 Byron sống ở Venezia, cảm thông với nỗi khổ của người Ý trước ách cai trị của người Áo. Thời kỳ này ông viết một số trường ca và 2 chương tiếp theo của Childe Harold's Pilgrimage. Những năm 1818-1819 ông viết trường ca Don Juan gồm 16 chương và chương 17 viết dở. Năm 1823 ông sang Hy Lạp để tham gia đấu tranh giải phóng Hy Lạp khỏi ách cai trị của Thổ Nhĩ Kỳ nhưng công việc đang dở dang thì ông bị sốt và mất ngày 19 tháng 4 năm 1824 ở Mesolongi. Lòng say mê mãnh liệt, tính trữ tình sâu sắc, sự bạo dạn về ý tưởng và vẻ sống động của những hình tượng khiến Byron trở thành một trong những nhà thơ lớn và nổi tiếng nhất ở châu Âu thế kỷ 19. Tác phẩm của Byron mở ra những khả năng mới của chủ nghĩa lãng mạn như một phương pháp nghệ thuật. Byron đưa vào thơ ca những nhân vật mới, làm giàu hình thức và thể loại thơ ca. Ông có sự ảnh hưởng rất lớn đến thơ ca thế giới thế kỷ 19, sinh ra một trường phái thơ ca ở nhiều quốc gia khác nhau với tên gọi chủ nghĩa Byron. [ ] Tác phẩm
  4. Lord Byron Lord Byron
  5. Anne Isabella Milbanke Augusta Leigh Hours of Idleness (1806)  English Bards and Scotch Reviewers (1809) 
  6. Childe Harold's Pilgrimage (1812 – 1818)  The Giaour (1813)  The Bride of Abydos (1813)  The Corsair (1814)  Lara (1814)  Hebrew Melodies (1815)  The Siege of Corinth (poem) (1816)  Parisina (1816)  The Prisoner Of Chillon (1816)  The Dream (1816)  Prometheus (1816)  Darkness (1816)  Manfred (1817)  The Lament of Tasso (1817)  Beppo (1818)  Mazeppa (1819)  The Prophecy of Dante (1819)  Marino Faliero (1820) 
  7. Sardanapalus (1821)  The Two Foscari (1821)  Cain (1821)  The Vision of Judgement (1821)  Heaven and Earth (1821)  Werner (1822)  The Deformed Transformed (1822)  The Age of Bronze (1823)  The Island (1823)  Don Juan (1819 – 1824)  [ ] Một vài bài thơ Fare Thee Well Vĩnh biệt em Than ôi! họ đã từng là bạn của "Alas! they had been friends in youth: nhau Nhưng ác nhân đầu độc lòng But whispering tongues can chung thủy poison truth; And constancy lives in realms
  8. Dù sự thật vẫn sống ở trên cao above; Nhưng tuổi thanh xuân phí hoài, And life is thorny; and youth is vô nghĩa vain; Và cuồng điên ngự trị ở trong đầu And to be wroth with one we love, Và cuộc đời từ đây chia hai ngả. Doth work like madness in the Không bao giờ họ còn gặp lại brain; nhau But never either found another Để con tim lại mừng vui, hớn hở To free the hollow heart from Biệt ly này có ai muốn gì đâu paining - Như vách đá bị chia làm hai nửa. They stood aloof, the scars remaining. Biển buồn bã giữa con sóng bạc đầ u Like cliffs which had been rent asunder; Không sấm chớp, oi nồng hay băng giá A dreary sea now flows between, Tình đã chết ở trong lòng, tuy thế But neither heat, nor frost, nor thunder, Hai người đã từng một thuở của nhau. Shall wholly do away, I ween, Coleridge. Christabel. The marks of that which once hath been."
  9. Vĩnh biệt em! và nếu là mãi mãi Coleridge, Christabel Thì đến muôn đời vĩnh biệt em Lòng hận thù anh không còn giữ Fare thee well! and if for ever, lạ i Still for ever, fare thee well: Và em nhé, hãy quên. Even though unforgiving, never 'Gainst thee shall my heart rebel. Có lẽ nào trên ngực của anh Nơi mái đầu của em từng cúi Would that breast were bared xuống before thee Nơi đã từng say sưa trong giấc Where thy head so oft hath lain, mộng While that placid sleep came o'er Em còn nhớ chăng giấc mộng của thee mình? Which thou ne'er canst know again: Và với anh, có lẽ nào em nỡ Khi đã nhìn xuyên suốt trái tim Would that breast, by thee anh glanced over, Rồi sau đấy em dễ dàng chối bỏ Every inmost thought could Trái tim anh em nỡ coi thường. show!
  10. Then thou wouldst at last discover Có thể là thiên hạ sẽ khen em Twas not well to spurn it so. Nhưng là điều tai họa, em có biết Rằng khi nhận về lời khen cho Though the world for this mình commend thee - Em mang bất hạnh đến cho người Though it smile upon the blow, khác. Even its praise must offend thee, Ừ thì anh lỗi lầm, anh vẫn biết Founded on another's woe: Anh vẫn mong chuộc lại lỗi lầm Nhưng tại sao bàn tay, em nỡ giết Though my many faults defaced me, Bàn tay từng âu yếm cùng anh? Could no other arm be found, Than the one which once Và dù sao, em đừng tự dối mình embraced me, Ngọn lửa tình đâu đã tàn phai hẳn To inflict a cureless wound? Dù bây giờ đã ly biệt con tim Tình đau đớn trong tim này vẫn Yet, oh yet, thyself deceive not; sống. Love may sink by slow decay,
  11. But by sudden wrench, believe not Tình của em trong tim anh vẫn giữ Hearts can thus be torn away: Đớn đau này rỉ máu trái tim anh Một ý nghĩ vẫn làm anh đau khổ Still thine own its life retaineth, Rằng sẽ không còn gặp nữa Still must mine, though bleeding, beat; chúng mình. And the undying thought which paineth Em có nghe tiếng nức nở của ai Is - that we no more may meet. Như tiếng khóc lạc loài trên xác chết Ta vẫn sống, nhưng mỗi sáng hai These are words of deeper sorrow người Than the wail above the dead; Đều goá bụa trên giường khi tỉnh Both shall live, but every morrow giấc. Wake us from a widowed bed. Và khi em âu yếm cùng con gái And when thou wouldst solace Dạy con mình cất tiếng gọi “Cha gather, ơi!” When our child's first accents
  12. Thì với con của mình, em có nói: flow, Cha của con vẫn sống ở trên đời? Wilt thou teach her to say "Father!" Though his care she must forego? Khi bàn tay đứa con quàng âu yế m Khi hôn môi con em có biết rằng When her little hands shall press thee, Anh vẫn mong và vẫn luôn cầu nguyện When her lip to thine is pressed, Vẫn nghĩ về em như thuở yêu Think of him whose prayer shall bless thee, anh. Think of him thy love had blessed! Nếu em thấy con gái mình rất giống Với kẻ mà xưa em nỡ phụ tình Should her lineaments resemble Nếu bỗng nhiên con tim em rung Those thou never more may'st động see, Nhịp đập chân thành em hãy Then thy heart will softly tremble hướng về anh. With a pulse yet true to me.
  13. Lỗi lầm anh, có thể là em biết All my faults perchance thou knowest, Vẻ điên cuồng em chẳng biết được đâu All my madness none can know; Niềm hy vọng của anh còn tha All my hopes, where'er thou thiết goest, Như bên tai còn vọng mãi u sầu. Wither, yet with thee they go. Và tâm hồn rất kiêu hãnh của anh Every feeling hath been shaken; Trước tình em cúi xuống Pride, which not a world could bow, Hồn anh đuổi theo em Bows to thee - by thee forsaken, Từ giã anh đi về nơi xa vắng. Even my soul forsakes me now: Hết thật rồi, tất cả lời trống rỗng But 'tis done - all words are idle - Càng phí hoài hơn thế những lời Words from me are vainer still; anh Nhưng ý nghĩ không thể nào ngăn But the thoughts we cannot bridle cản Force their way without the will. Ý nghĩ khát khao bay đến với tình.
  14. Fare thee well! thus disunited, Vĩnh biệt em! giờ tình yêu đã hết Torn from every nearer tie. Mất em rồi, tình yêu đã xa xôi Seared in heart, and lone, and blighted, Không bao giờ tim anh còn được chết More than this I scarce can die. Bởi từ đây con tim đã chết rồi. So We'll Go No More A Roving Chẳng còn những đêm xưa So we'll go no more a- roving Thôi đêm này chẳng cùng em So late into the night, sánh bước Though the heart be still as Như những đêm xưa từng bước loving, chung đôi And the moon be still as bright. Dù tình yêu vẫn dồn lên trong ngực For the sword outwears its sheath, Và ánh trăng vẫn sáng ở trên trời. And the soul wears out the breast, And the heart must pause to Như lưỡi dao đã mòn vì bao vỏ breathe, Tâm hồn đau vì đã lắm bồi hồi
  15. Giờ con tim đang rất cần hơi thở And Love itself have rest. Và tình yêu đang muốn được nghỉ ngơi. Though the night was made for loving, Dù đêm nay vẫn dịu hiền như And the day returns too soon, trước Yet we'll go no more a- roving Đêm dễ thương, âu yếm của hai By the light of the moon. người Nhưng anh và em chẳng còn sánh bước Như những đêm xưa dưới ánh trăng soi. Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2