ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
====================
Nguyễn Quang Hà
CÁC NGUỒN SỬ LIỆU VỀ QUY MÔ VÀ CẤU TRÚC
HOÀNG THÀNH THĂNG LONG THỜI LÝ- TRẦN - LÊ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội: 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ====================
Nguyễn Quang Hà CÁC NGUỒN SỬ LIỆU VỀ QUY MÔ VÀ CẤU TRÚC HOÀNG THÀNH THĂNG LONG THỜI LÝ- TRẦN - LÊ Chuyên ngành: Lịch sử Sử học và Sử liệu học Mã số: 60.22.03.16 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS. TS Nguyễn Quang Ngọc
2. TS. Nguyễn Văn Sơn Hà Nội: 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của GS. TS Nguyễn Quang Ngọc và TS Nguyễn Văn Sơn, các số liệu,
kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa
từng được bảo vệ ở bất cứ học vị nào. Tôi cũng xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho
việc thực hiện Luận án đã được cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận án đều rõ
ràng về nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 10/12/2018
Tác giả luận án
1
Nguyễn Quang Hà
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trịnh thực hiện Luận án, tôi đã được GS.TS. NGND Nguyễn
Quang Ngọc và TS Nguyễn Văn Sơn hỗ trợ và tạo điều kiện cho công tác nghiên
cứu tại Khu di sản Hoàng Thành Thăng Long - Hà Nội cũng như những chỉ dẫn
quý báu.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô, các nhà khoa học: PGS.TS
Hoàng Hồng, PGS.TS Trần Kim Đỉnh, PGS.TS Phan Phương Thảo và nhiều thầy,
cô thuộc Khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học
Quốc gia Hà Nội - nơi tôi được vinh dự làm nghiên cứu sinh.
Tôi xin được tri ân đến các thầy PGS.TS Tống Trung Tín, PGS. TS Bùi Văn
Liêm (Viện Khảo cổ học), PGS.TS Trần Thị Vinh, PGS.TS Nguyễn Đức Nhuệ,
PGS.TS Nguyễn Thị Phương Chi (Viện Sử học), thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam; PGS. TS Vũ Văn Quân, TS Đỗ Thuỳ Lan, TS Đinh Thị Thuỳ Hiên
(Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học xã hội và Nhân Văn, ĐHQGHN); PGS. TS Đào
Tố Uyên (Đại học Sư Phạm Hà Nội) và nhiều thầy, cô khác đã đóng góp cho tôi
nhiều ý kiến quý báu. Để hoàn thành luận án này, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc đến lãnh đạo Trung tâm bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội - đơn vị nơi tôi
được gắn bó suốt hơn mười năm qua đã tạo điều kiện cho tôi công tác nghiên cứu
và học tập.
Đặc biệt, từ đáy lòng, tôi xin được cảm ơn đến Bố, Mẹ, anh, em ruột cùng
vợ, con - những người thân yêu nhất trong gia đình luôn động viên tinh thần to lớn
cho tôi trong cuộc sống và công tác, học tập.
Hà Nội, ngày 10/9/2019
2
Nguyễn Quang Hà
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
ANCN An Nam chí nguyên
Cương mục chính biên tiết yếu CMCB
ĐHKHXHVN- Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - ĐHQGHN ĐHQGHN
ĐNTLCB Đại Nam thực lục chính biên
Đại Việt sử kí tiền biên ĐVSKTB
Đại Việt sử kí toàn thư ĐVSKTT
Hồng Đức bản đồ HĐBĐ
HTTL- HN Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội
Khâm định Việt sử thông giám cương mục KĐVSTGCM
Lịch triều hiến chương loại chí LTHCLC
LTTK Lịch triều tạp kỷ
NPHMVKCH Những phát hiện mới về khảo cổ học
Nhà xuất bản Nxb
Nghiên cứu lịch sử NCLS
Khảo cổ học KCH
Viện viễn Đông Bắc Cổ (Ecole Francaise d Extreme - Orient) FEFO
Tạp chí Tc
Thế kỷ Tk
Tiến sĩ TS
Thạc sĩ Ths.
VHLKHXHVN Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
VNCHN Viện nghiên cứu Hán Nôm
3
Việt sử chính biên VSCB
4
Việt sử lược VSL
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... 1
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ 2
CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN ........................................................... 3
MỤC LỤC .................................................................................................................. 5
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 9
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 9
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ................................................................... 10
2.1. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 10
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 10
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. .................................................................... 10
3.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................. 10
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 10
4. Nguồn tài liệu .................................................................................................... 12
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 13
6. Đóng góp của luận án ........................................................................................ 14
7. Bố cục của luận án ............................................................................................. 15
Chƣơng 1 .................................................................................................................. 17
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ........................................................ 17
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 17
1.1.1. Các nghiên cứu trước năm 2002 ............................................................. 18
1.1.2. Các nghiên cứu từ năm 2002 đến nay ..................................................... 20
1.2. Khát quát kết quả của các công trình nghiên cứu và những vấn đề luận án tập
trung nghiên cứu .................................................................................................... 35
1.2.1. Kết quả của các công trình nghiên cứu trước ........................................ 35
1.2.2. Những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu .................................... 37
Tiểu kết .................................................................................................................. 37
5
Chƣơng 2 .................................................................................................................. 40
PHÂN LOẠI CÁC NGUỒN SỬ LIỆU VỀ QUY MÔ VÀ CẤU TRÚC HOÀNG
THÀNH THĂNG LONG THỜI LÝ - TRẦN - LÊ .............................................. 40
2.1. Một số thuật ngữ, khái niệm ........................................................................... 40
2.1.1. Khái niệm sử liệu ..................................................................................... 40
2.1.2. La Thành , thành Đại La , Kinh phủ , Đô hộ phủ
, Cựu kinh .............................................................................................. 46
2.1. 3. Đại Nội .......................................................................................... 47
2.1.4. Thăng Long thành (Long thành) ................................................. 48
2.1.5. Long trì ........................................................................................... 49
2.1.6. Long thành và Phượng Thành ............................................. 51
2.1.7. Cấm đình: ....................................................................................... 53
2.1.8. Cấm Thành , Cấm Nội , Cung Cấm ............................... 54
2.2. Nguồn sử liệu chữ viết .................................................................................... 56
2.2.2. Nguồn sử liệu từ các nguồn thư tịch cổ khác
2.2.1. Nguồn sử liệu tử sử cũ ................................................................................. 63
2.2.3 Nguồn sử liệu văn bia ................................................................................... 70
2.2.4. Sử liệu địa chí .............................................................................................. 79
2.3. Nguồn sử liệu bản đồ ...................................................................................... 82
2.3.1. Bản đồ thời Lê.......................................................................................... 82
2.3.2. Bản đồ thời Nguyễn ................................................................................. 84
2.4. Sử liệu vật thực ............................................................................................... 88
2.5. Nguồn sử liệu dân gian ................................................................................. 103
Tiểu kết ................................................................................................................ 109
6
Chƣơng 3 ................................................................................................................ 112
QUY MÔ VÀ CẤU TRÚC CỦA HOÀNG THÀNH THĂNG LONG THỜI LÝ
- TRẦN - LÊ QUA CÁC NGUỒN SỬ LIỆU ...................................................... 112
3.1. Vài nét về thành Đại La thuộc thời Đường .................................................. 112
3.2. Quy mô, cấu trúc Hoàng thành Thăng Long thời Lý .................................. 113
3.2.1. Quy hoạch Kinh thành Thăng Long buổi đầu mới dời đô (1010) ........ 114
3.2.2. Quy hoạch Hoàng thành Thăng Long vào thế kỷ XI, XII ...................... 117
3.2.3. Quy hoạch “Tân cung” năm 1203 - 1216 ............................................ 121
3.2.4. Chức năng của các điện thời Lý, “Điện” gắn với các nghi lễ, lễ hội tôn
giáo .................................................................................................................. 122
3.2.5. Thảo điện triều Lý ................................................................................. 127
3.2.6. Chế độ Đông Cung Thái Tử và Đông Cung Thái Tử thời Lý ............... 129
3.2.7. Chức năng của các công trình trong Cấm thành Thăng Long .............. 130
3.2.8. Thiên tai và nguyên nhân của sự bị phá hủy các công trình kiến trúc
trong Hoàng thành Thăng Long ...................................................................... 135
3.2.9. Số lượng, loại hình các công trình khác trong Cấm thành và Hoàng
thành Thăng Long ............................................................................................ 137
3.2.10. Sân Long Trì và việc thiết kế không gian ........................................... 145
3.2.11. Các công trình phục vụ tín ngưỡng, tôn giáo và văn hóa tinh thần ... 148
3.2.12. Không gian sinh thái và cảnh quan thời Lý ........................................ 150
3.3. Quy mô, cấu trúc Hoàng thành Thăng Long thời Trần (1225 - 1400) ................ 158
3.3.1. Quy mô Hoàng thành Thăng Long thời Trần qua các lần trùng tu, xây
dựng ................................................................................................................. 158
3.3.2. Đông Cung Thái Tử thời Trần ............................................................... 161
3.3.3. Điện thời Trần ...................................................................................... 164
3.3.4. “Cung” thời Trần .................................................................................. 166
3.3.5. Các “Cửa” thời Trần ............................................................................ 170
3.3.6. Không gian sinh thái: Ao, hồ, cầu, vườn trong Cấm Thành thời Trần 171
3.4. Quy mô và cấu trúc của Hoàng Thành Thăng Long thời Lê ........................ 172
7
3.4.1. Khu vực chính điện của Hoàng thành Thăng Long .............................. 173
3.4.2. Khu vực trong Cấm thành ...................................................................... 175
3.4.3. Các điện thời Lê ..................................................................................... 177
3.4.4. Các “cung” thời Lê ............................................................................... 181
3.4.5. “Cửa” trong Hoàng thành Thăng Long thời Lê ................................... 183
3.4.6. Các công trình kiến trúc, xây dựng trước sự tàn phá của chiến tranh và
thiên tai ............................................................................................................ 184
4.7.7. Khu vực phía Tây Hoàng thành ............................................................. 186
Tiểu kết ................................................................................................................ 189
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 194
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ .................. 198
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .............................................................................. 198
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 199
PHẦN PHỤ LỤC ................................................................................................... 237
Phụ lục I: Hệ thống bảng thống kê số liệu các công trình thời Lý - Trần - Lê ... 241
Phụ lục II: Sơ đồ về quy mô, cấu trúc thời Lý - Trần - Lê .................................. 284
Phụ lục III: Sử liệu thư tịch Hán nôm cổ ............................................................. 298
Phụ lục 4: Sử liệu ảnh .......................................................................................... 307
Phụ lục V: Sử liệu ảnh di tích, di vật Khảo cổ học ............................................. 312
Phụ lục VI: Sử liệu thư tịch cổ ghi về điển chế trong HTTL .............................. 316
Phụ lục VII: Văn bia đề cập đến Tứ trấn, Kinh thành và Hoàng thành Thăng Long
8
thời Lý - Trần - Lê ............................................................................................... 322
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoàng Thành Thăng Long (HTTL) có giá trị nổi bật toàn cầu bởi chính nơi
đây là sự hiện diện của sự hài hòa các phong cách kiến trúc châu Á, các kỹ thuật
xây dựng, quy hoạch đô thị, của sự kết nối, giao lưu văn hóa của nhiều nước trong
khu vực Đông Nam Á, của sự giao lưu giữa phương Đông và phương Tây. Trải qua
hơn 1.300 năm lịch sử, kinh đô Thăng Long giữ vai trò gần như liên tục của một
trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa kể từ thời thuộc Đường với tên gọi Đại La -
thuộc An Nam đô hộ phủ cho đến suốt thời Lý - Trần - Lê kể cả thời thuộc Pháp và
thời đại Hồ Chí Minh. HTTL từ nhiều thập kỷ nay đã được giới nghiên cứu quan
tâm, lý giải dưới nhiều giác độ khác nhau: như nghiên cứu về quy mô, giới hạn, vật
liệu kiến trúc, về các di tích thời thuộc Pháp, về mỹ thuật Lý, Trần, Lê…
Tuy nhiên với mỗi một vấn đề nghiên cứu, các tác giả chưa có điều kiện
quan tâm, nghiên cứu và đánh giá toàn diện về nguồn sử liệu, đặc biệt là tiến hành
nghiên cứu một cách toàn diện, liên ngành qua các nguồn sử liệu như: Nguồn sử
liệu khảo cổ, nguồn sử liệu thư tịch Hán Nôm cổ, nguồn tư liệu bản đồ cổ, nguồn tư
liệu thực địa gắn liền với các di tích hiện còn trên mặt đất. Nghiên cứu về HTTL tuy
đã có nhiều đề tài đề cập, nhưng tiến hành tìm hiểu một cách quy mô, trên nhiều
giác độ thì ít có công trình nào nghiên cứu toàn diện. Như vậy, HTTL cần được
nghiên cứu nhiều hơn, công phu hơn nhằm làm sáng tỏ nhiều vấn đề khoa học và
phát huy giá trị của di sản. Đề tài của chúng tôi sẽ cố gắng khắc phục những vấn đề
mà những người đi trước chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu, phê phán, phân tích,
đánh giá nguồn sử liệu về HTTL một cách đầy đủ, chính xác. Đặc biệt, chúng tôi
đặt các nguồn sử liệu bên cạnh nhau để tiến hành đối chiếu, so sánh, trực tiếp khai
thác những tư liệu gốc là tư liệu thư tịch cổ, bản đồ cổ, bi ký và đặc biệt là đối chiếu
với nguồn sử liệu vật thực thu thập được trong quá trình khai quật khảo cổ để đi đến
những nhận xét khoa học, khách quan về những vấn đề sử liệu liên quan đến Hoàng
9
thành Thăng Long - Hà Nội (HTTL - HN).
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ các nguồn sử liệu về quy mô,
cấu trúc của HTTL; xác định độ tin cậy độ tin cậy của các thông tin trong các nguồn
sử liệu và vai trò của chúng đối với việc nghiên cứu, nhận thức về quy mô, cấu trúc
HTTL qua các triều đại Lý - Trần - Lê đồng thời nêu một số kiến nghị và giải pháp
nhằm phát huy giá trị sử dụng nguồn sử liệu.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
- Khảo sát toàn bộ các nguồn sử liệu về quy mô, cấu trúc của HTTL được
sản sinh trong các triều đại Lý - Trần - Lê và các thời kỳ sau có liên quan.
- Phân loại các nguồn sử liệu về quy mô, cấu trúc của HTTL. Phân tích các
đặc điểm bên ngoài của sử liệu, chỉ rõ: niên đại, địa điểm hình thành, tác giả và vật
mang tin, qua đó xác định về tính xác thực của nguồn sử liệu.
- Khái quát các thông tin lịch sử về quy mô, cấu trúc HTTL thời Lý, Trần, Lê
trong các nguồn sử liệu.
- Nhận xét, đánh giá các nguồn sử liệu về quy mô, cấu trúc của HTTL, từ đó
đưa ra các kiến nghị và giải pháp để phát huy giá trị nguồn sử liệu.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các nguồn sử liệu về quy mô, cấu trúc của HTTL
thời Lý - Trần - Lê gồm:Tư liệu thư tịch cổ, bản đồ cổ, tư liệu Khảo cổ học, các tư
liệu điền dã dân gian, thực địa. Các sử liệu được sản sinh trong thời kỳ Lý - Trần -
Lê là đối tượng nghiên cứu chính. Ngoài ra, một số sử liệu ra đời ở giai đoạn sau
nhưng quan tọng trong việc nghiên cứu quy mô, cấu trúc HTTL thời Lý - Trần - Lê
thì cũng được luận án tiếp cận
3.2. Phạm vi nghiên cứu
10
Giới hạn thời gian nghiên cứu
Luận án tiếp cận chủ yếu đến các nguồn sử liệu sản sinh trogn thời gian tồn
tại của các triều đại Lý- Trần- Lê (Thế kỷ XI - XVIII). Ngoài ra, trong một số
trường hợp để làm rõ nội dung nghiên cứu, luận án sẽ mở rộng nghiên cứu của một
số sử liệu xuất hiện đến thời kỳ Cận đại Việt Nam.
Giới hạn không gian nghiên cứu
Không gian nghiên cứu chính của luận án là khu vực HTTL, nơi phát lộ
nhiều sử liệu quan trọng góp phần quyết định nhận diện cấu trúc Hoàng thành
Thăng Long thời kỳ Lý- Trần- Lê.
Ngoài ra, một số sử liệu phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp quy mô, cấu trúc
Hoàng thành Thăng Long nằm rải rác trong các địa điểm khác nhau trên đất nước
Việt Nam được đề cập đến.
Giới hạn nội dung nghiên cứu
Đề tài “Các nguồn sử liệu về quy mô cấu trúc của Hoàng thành Thăng Long”
thời Lý - Trần - Lê bao gồm các nguồn sử liệu: Nguồn sử liệu chữ viết (bao gồm sử
liệu thư tịch, sử liệu bi kí (kim thạch học); sử liệu bản đồ, sử liệu dân gian và nguồn
sử liệu vật thực. Trong nguồn sử liệu vật thực cũng bao gồm rất nhiều loại khác
nhau như: nghiên cứu về nguồn sử liệu chữ viết (bao gồm sử liệu sử cũ, nguồn sử
liệu thác bản, văn khắc);
Trong nghiên cứu về nguồn sử liệu chữ viết, chúng tôi chú trọng đến nguồn
thư tịch cổ, nguồn sử liệu văn bia cũng là một trong những nguồn sử liệu chữ viết
tin cậy để so sánh, đối chiếu và bổ sung cho nguồn sử liệu chữ viết trong thư tịch cổ
còn thiếu sót hoặc chưa có điều kiện đề cập.
Nghiên cứu nguồn sử liệu vật thực: di tích, di vật (vật liệu kiến trúc, đồ sinh
hoạt như đồ ngự dụng (mang tính chất hoàng cung), và vật dụng dân gian, nghiên
cứu di cốt người, di cốt động vật, nghiên cứu cổ sinh vật, môi trường, nghiên cứu
nguồn sử liệu bản đồ và các nguồn sử liệu dân gian ...
Tất nhiên, thao tác phân chia nguồn sử liệu chữ viết và nguồn sử liệu vật
thực chỉ có ý nghĩa tương đối. Có những sử liệu vừa là chữ viết vừa là vật thực như
11
những bài văn được khắc trên bia đá hay những thông tin về tên của các cung điện
được ghi trên đồ gốm sứ thời Lý, thời Lê sơ hay tên của các phiên đội thời Lê được
ghi trên gạch vồ thời Lê Trung hưng đều là nguồn sử liệu chữ viết đồng thời cũng là
sử liệu vật thực.
4. Nguồn tài liệu
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi tập trung vào hai nguồn sử liệu chính là:
nguồn sử liệu chữ viết và nguồn sử liệu vật thực.
Về nguồn sử liệu chữ viết, chúng tôi tập trung vào các tác phẩm cổ sử do các
nhà sử học thời Trần và thời Lê biên soạn như: Việt sử lược (khuyết danh đời Trần),
Đại Việt sử kí toàn thư (của Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê), Đại Việt sử kí tiền
biên và các tác phẩm khác của các nhà sử học thời Lê và thời Nguyễn như: Lê Quý
Đôn, Phan Huy Chú...
Trong nguồn sử liệu chữ viết nguồn sử liệu văn bia cũng được coi là một
trong những nguồn sử liệu quan trọng trong nghiên cứu về quy mô và cấu trúc về
HTTL. Nguồn sử liệu này tuy không trực tiếp đề cập đến quy mô, cấu trúc của
HTTL nhưng đã gián tiếp đề cập đến 2 phương diện: Phương diện thứ nhất là xác
định vị trí của Hoàng thành (trong tương quan với các di tích xung quanh) và tên
của một số cung điện trong Cấm thành Thăng Long từng là nơi diễn ra các cuộc thi
Điện thí, Đình thí thời Lê (ghi trên bia Đề danh tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử
Giám Hà Nội).
Nguồn tài liệu nghiên cứu về HTTL là những vật thực rất đa dạng, phong
phú: hiện vật gạch, ngói, đất nung, gốm sứ, gỗ, di cốt người, xương động vật, các tài
liệu về địa chất, môi trường... được tác giả sử dụng từ kết quả khai quật KCH từ
HTTL. Đây là những tài liệu không thể thiếu được để nghiên cứu về HTTL một
cách toàn diện. Các nguồn sử liệu này có vai trò dùng để so sánh và kiểm chứng lẫn
nhau, bổ sung cho nhau.
Bên cạnh nguồn sử liệu chữ viết và nguồn sử liệu vật thực, nguồn sử liệu bản
đồ và nguồn sử liệu dân gian cũng góp phần quan trọng trong việc nghiên cứu về
quy mô và cấu trúc của HTTL. Nếu như các nguồn sử liệu chữ viết miêu tả về quy
12
mô, cấu trúc HTTL một cách trừu tượng, khó hiểu thì sử liệu bản đồ lại hiện hữu
với những hình khối, đường nét cụ thể. Người đọc có thể căn cứ vào đó để dễ dàng
hình dung được quy mô, cấu trúc. Hoặc nguồn sử liệu vật thực nhiều khi không kèm
theo những thông tin cụ thể nên khó có thể đưa đến một cách hiểu duy nhất. Tuy
nhiên, với mỗi một nguồn sử liệu lại có những ưu điểm và nhược điểm khác nhau,
không một nguồn sử liệu nào có thể thay thế cho nguồn sử liệu nào, chúng đều có
vai trò nhất định và bổ sung cho nhau. Người nghiên cứu rất cần khai thác tối đa các
thế mạnh của các nguồn sử liệu này để so sánh, đối chiếu nhằm đưa lại kết quả
nghiên cứu một cách khách quan và khoa học.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Tác giả tiến hành phương pháp nghiên cứu sử liệu học, nghiên cứu tổng hợp,
kết hợp nhiều phương pháp khác nhau như: Phương pháp phân tích, đối chiếu,
phương pháp nghiên cứu văn bản học, phương pháp thống kê, định lượng, phương
pháp nghiên cứu liên ngành, liên văn bản và phương pháp nghiên cứu khu vực học
…
Phương pháp sử liệu học chữ viết được tác giả quan tâm đặc biệt. Trong
nguồn sử liệu chữ viết, tác giả luận án chú trọng đến nguồn sử liệu thư tịch cổ, đây
là nguồn sử liệu quan trọng để nghiên cứu về quy mô, cấu trúc của HTTL thời Lý -
Trần- Lê. Bên cạnh đó, nguồn sử liệu vật thực (có chữ viết) như các thác bản văn
bia và các chữ viết trên các vật thực như gạch, ngói, sành, sứ, gỗ... cũng là những sử
liệu quan trọng. Do đó, phương pháp khảo cứu, đối chiếu, giám định văn bản không
thể thiếu được. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi phải đặt hiện vật trong bối
cảnh không gian và thời gian cụ thể, trong đó chú ý đến những đặc điểm hình thức
như: các thông tin về niên đại, tác giả, địa điểm lưu giữ và nội dung phản ánh của
nguồn sử liệu (chương 1 và chương 2) từ đó xác định về quy mô, cấu trúc của
HTTL qua các thời kỳ lịch sử Lý - Trần - Lê (Chương 3).
Phương pháp nghiên cứu văn bản cũng là một phương pháp quan trọng
không thể thiếu trong luận án như so sánh tư liệu văn bia với tư liệu trong sử cũ; so
sánh giữa các tài liệu sử cũ với nhau và thậm chí so sánh giữa nguyên bản với bản
13
dịch tiếng Việt để thấy được sự tương đồng hay độ chênh giữa nguyên bản chữ Hán
với bản dịch tiếng Việt. Phương pháp so sánh giữa các nguồn sử liệu với nhau cũng
được áp dụng như: nghiên cứu bản đồ với sử liệu thư tịch, nghiên cứu sử liệu thư
tịch với nghiên cứu so sánh sử liệu vật thực...
Phương pháp thống kê cũng là một phương pháp tối ưu để nghiên cứu những
tài liệu số đông như: Tên các cung, điện, lầu, gác, vườn, ao, cửa... của HTTL. Đặc
biệt những công trình này thường xuyên được trùng tu, xây dựng với số lượng lên
đến hàng trăm công trình, trải dài suốt mấy thế kỷ, lại ghi chép rất tản mát, rời rạc
trong các bộ chính sử nên rất khó theo dõi. Vì thế, việc thống kê thành các biểu
bảng như: Tên gọi, năm xây dựng, trùng tu, xuất xứ nguồn, sự kiện, bối cảnh, nguồn
trích dẫn... không thể thiếu được. Qua bảng thống kê, có thể nắm bắt được quá trình,
diễn biến của việc xây dựng trùng tu các công trình trong HTTL.
Những phương pháp trên đều phải tuân thủ theo phương pháp thực chứng
(Positivisme), tiệm cận chân lý khách quan. Tất cả các phương pháp này được xây
dựng trên cơ sở lý thuyết chung của phương pháp duy vật biện chứng và phương
pháp duy vật lịch sử, tức là đặt đối tượng trong một bối cảnh cụ thể, trong một sự
vận động và phát triển cụ thể của Lịch sử Việt Nam, của HTTL trong suốt chiều dài
lịch sử từ thời Lý - Trần - Lê.
6. Đóng góp của luận án
Luận án có những đóng góp sau đây:
+ Góp phần nhận diện một cách hệ thống, toàn diện các nguồn sử liệu hóa về
quy mô, cấu trúc của HTTL một cách tương đối đầy đủ trên nhiều giác độ: Sử liệu
chữ viết, sử liệu vật thực, bản đồ, địa chất, văn hóa dân gian (Folklore)…
+ Phân loại, chỉ rõ giá trị của từng nguồn sử liệu trong nghiên cứu về quy
mô, cấu trúc của HTTL thời Lý - Trần - Lê
+ Phân tích các nguồn sử liệu gốc, xác định độ tin cậy của các nguồn, đánh
giá vai trò của chúng trong việc nghiên cứu quy mô, cấu trúc của HTTL dưới thời
đại Lý - Trần - Lê;
+ Luận án cung cấp những thông tin đa chiều từ nhiều nguồn cho việc nghiên
14
cứu, đánh giá về HTTL nói chung và việc nghiên cứu về quy mô và cấu trúc của
HTTL nói riêng. Các tư liệu của luận án góp phần trực tiếp cho việc nghiên cứu,
tìm hiểu, thuyết minh trong di tích HTTL cũng như việc quảng bá di sản .
+ Từ việc nghiên cứu, đánh giá các nguồn sử liệu, đưa ra nhận xét về những
nguồn sử liệu liên quan đến quy mô, cấu trúc của HTTL thời Lý - Trần - Lê. Từ
những nghiên cứu về sử liệu HTTL, luận án góp phần nhận diện về quy mô, cấu
trúc của HTTL thời Lý - Trần- Lê.
7. Bố cục của luận án
Luận án ngoài phần Mở đầu và Kết luận gồm có 3 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
Chương này, tác giả tập trung phân tích những quan điểm chính nhận thức về
Hoàng Thành, Cấm Thành Thăng Long qua các giai đoạn lịch sử của các nhà khoa
học trong nước cũng như ngoài nước. Tác giả chia làm 2 chặng đường nghiên cứu -
nhận thức về Hoàng Thành Thăng Long thông qua thời điểm phát lộ Hoàng Thành
Thăng Long năm 2002 của giới Khảo cổ học đồng thời cũng trình bày về các hướng
nghiên cứu Hoàng Thành Thăng Long của một số nhà sử học, khảo cổ
học…Chương này cũng đã trình bày về các phương pháp nghiên cứu, phạm vi
nghiên cứu một cách rành mạch, rõ ràng được thể hiện trong luận án.
Chương 2: Phân loại các nguồn sử liệu về quy mô và cấu trúc Hoàng Thành
Thăng Long thời Lý - Trần - Lê;
Trong chương này, luận án sẽ đi vào việc phân tích khái niệm sử liệu, cách
phân chia các nguồn sử liệu cụ thể đối với các nguồn sử liệu ở HTTL: Sử liệu vật
thực, sử liệu chữ viết, sử liệu dân gian. Do HTTL là di tích đặc biệt, từng là trung
tâm quyền lực, kinh tế, chính trị của nhiều triều đại nên tại đây đã tập trung các
nguồn sử liệu chữ viết trong đó có nguồn sử liệu trong chính sử, thư tịch cổ Hán
Nôm, bản đồ; nguồn sử liệu vật thực được phân chia thành nhiều chủng loại: nguồn
sử liệu vật thực có chữ viết, nguồn sử liệu vật thực không có chữ viết, vật thực có
văn tự, vật thực có hoa văn, biểu tượng; hiện vật lại được phân chia theo chất liệu:
gỗ, di cốt người, xương động vật, địa chất, môi trường, cảnh quan và cuối cùng là
15
nguồn sử liệu dân gian với truyền thuyết, thơ văn, câu đối...
Chương 3: Quy mô và cấu trúc Hoàng Thành Thăng Long thời Lý - Trần -
Lê qua các nguồn sử liệu.
Trong chương này, luận án tập trung trình bày về quá trình xây dựng, trùng
tu của Hoàng thành và Cấm Thành Thăng Long từ thời Lý qua thời Trần và đến thời
Lê. Phần này đã tập hợp, phân tích về số lượng, sự phân bố vị trí, công năng sử
dụng của hầu hết các công trình trong Cấm Thành và Hoàng Thành như: Các Cung,
điện, lầu, gác, cổng, cửa, vườn, ao, hồ... Các công trình tâm linh như: Đền, đài,
chùa, quán Đạo. Việc nghiên cứu về quy mô, cấu trúc cũng không thể không trình
bày về việc xây dựng khu vực “Tân cung” gắn liền với nhiều biến cố lịch sử. Bên
cạnh đó, luận án cũng phân tích, chứng minh về sự hiện diện của các cung “Quan
Triều”, cung “Thánh Từ”, “Đông Cung Thái Tử”... mang đặc trưng độc đáo thời
Trần. Điểm nổi bật và ấn tượng là các công trình trong Hoàng Thành và Cấm thành
phần lớn đều gắn với môi trường thiên nhiên, ao, hồ, vườn tược rất hài hòa mang
phong cách kinh thành phương Đông cổ truyền.
Thời Lê với nhiều điện lớn được xây dựng trong khoảng từ thời Lê Nhân
Tông đến thời Lê Thánh Tông. Tác giả cũng đã trình bày về sự tàn phá của một
số cung điện vào thời Lê Trung hưng và khu vực phía Tây của Hoàng Thành
Thăng Long. Qua việc nghiên cứu các nguồn sử liệu Hoàng Thành Thăng Long
thời Lý - Trần - Lê cho thấy, HTTL trải qua nhiều biến cố với biết bao thăng
thầm và có sự đổi thay nhiều về quy mô, cấu trúc với những đặc điểm riêng của
16
mỗi thời kỳ lịch sử.
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ lâu, HTTL đã được giới nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Việc nghiên cứu
về HTTL đã được đặt ra từ rất sớm. Ngay từ những thập kỷ 60 - 70 của Tk XX,
nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài đã đặt vấn đề về vị trí, quy mô, giới
hạn của HTTL, nghiên cứu về vị trí của núi Nùng, núi Sưa ở đâu… đã được nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm lý giải. Cuối thập kỷ 90 của Tk XX, các nhà khảo cổ học
đã tiến hành khai quật với quy mô nhỏ ở các vị trí Đoan Môn, Hậu Lâu bước đầu
tìm thấy di tích kiến trúc cổ thời Lý - Trần - Lê. Di tích khai quật với diện tích nhỏ
này hiện nay vẫn được bảo tồn để trưng bày ngoài trời phục vụ khách tham quan và
các nhà nghiên cứu. Kể từ cuối thập kỷ 90 của Tk XX, di tích Thành cổ bắt đầu
được giới khoa học và dư luận quan tâm. Nhưng phải đến khi thực sự phát lộ khu di
tích 18 Hoàng Diệu (2002), thì vấn đề nghiên cứu về HTTL mới trở thành một đề
tài thu hút sự quan tâm của đông đảo các nhà sử học nói riêng và các nhà văn hóa
học, khoa học xã hội nói chung.
Cho đến nay, số lượng các công trình khoa học nghiên cứu về HTTL lên đến
hàng trăm bài, liên quan đến nhiều lĩnh vực nghiên cứu như: Khảo cổ học, Hán
Nôm học, Sử học, Văn hóa học, Môi trường học, Sử liệu học, Kiến trúc, Điêu khắc
…Tuy nhiên, những lĩnh vực nghiên cứu trên hầu hết được tiến hành theo phương
pháp của một chuyên ngành chuyên biệt nhất định mà chưa có những nghiên cứu về
sử liệu học về quy mô cấu trúc HTTL.
HTTL nằm trong một vùng đất cổ của vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng
có lịch sử định cư, khai phá của con người cách đây mấy ngàn năm. Tại khu vực
Đàn Xã Tắc, gần HTTL đã từng phát hiện dấu tích cư trú của cư dân văn hóa Phùng
Nguyên. Theo GS Phan Huy Lê: “Khu di tích nằm trong địa bàn trung tâm lịch sử
và văn hóa thủ đô Hà Nội. Trong khu vực này, khảo cổ học đã phát hiện dấu tích cư
trú sớm nhất của con người qua di tích văn hóa Phùng Nguyên tại lớp dưới của di
17
tích đàn Xã Tắc (Đống Đa, Hà Nội) có niên địa khoảng giữa thiên niên kỳ II BC,
trên một gò đất cao” [111 ; 11]. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, khu vực Hà Nội là
nơi tụ cư, sinh sống của nhiều tầng lớp cư dân. Thăng Long - Hà Nội cũng là cái nôi
của nền văn minh Sông Hồng. TRong giai đoạn 1000 năm Bắc thuộc, Thăng Long-
Hà Nội trở thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của nhà nước độc lập thời Lý
Nam Đế với thành Vạn Xuân, rồi phủ thành Tống Bình, An Nam Đô Hộ Phủ thời
Đường (Tk VII - IX) và trực tiếp là thành Đại La của Cao Biền. Chiếu dời đô của
Lý Thái Tổ đã viết: Hống chi thành Đại La ở vào vị trí trung tâm của trời đất, đúng
vị trí Nam, Bắc, Đông, Tây, tiện thế rồng cuộn hổ ngồi…
Quá trình sử dụng các nguồn sử liệu để nghiên cứu về quy mô kiến trúc
HTTL có thể chia làm 2 giai đoạn: Giai đoạn trước khi phát lộ lớn về khu khai quật
18 Hoàng Diệu (trước 2002) và giai đoạn 2 sau khi phát hiện khu vực 18 Hoàng
Diệu (từ 2002 đến nay).
- Các nghiên cứu từ đầu cho đến trước 2002.
- Các nghiên cứu từ năm 2002 đến nay.
1.1.1. Các nghiên cứu trước năm 2002
Các nghiên cứu về quy mô, cấu trúc của HTTL có thể kể đến những nghiên
cứu tương đối sớm thuộc về các học giả người Pháp. Như chúng ta đã biết, thành
Hà Nội bị phá hủy để xây dựng các khu phố xung quanh như đường Hoàng Diệu
(Khi đó là đường VictoHuygo), đường Phan Đình Phùng (khi đó là đường Casno),
để rồi các dấu tích của thành Hà Nội vĩnh viễn không còn nữa ngoài một vài điểm
di tích như Cột cờ (phía Nam) và dấu tích thành Cửa Bắc đường Phan Đình Phùng
(phía Bắc). Trong thời gian nửa đầu Tk XX có các nghiên cứu của Barbonneau, L.
Bezacier trong cuốn sách nổi tiếng Le Art Vietnamien - Nghệ thuật Việt Nam, xuất
bản năm 1955, tác giả đã so sánh những di vật tìm thấy trong Nội thành Hà Nội và
khu vực Quần Ngựa với những hiện vật thời Lý được tìm thấy tại một số địa điểm ở
tỉnh Bắc Ninh. Song, tác giả có một nhầm lẫn về mặt thuật ngữ và niên đại, các sản
phẩm thời Lý - Trần tìm thấy ở khu vực thành Hà Nội nhưng L. Bezacier đã gọi
bằng thuật ngữ chung là “Nghệ thuật Đại La” (Tk IX - XI). Riêng về vị trí cung
18
điện của triều Lý và triều Trần, các ý kiến của Parmentier và Mercier cho rằng các
cung điện thời Lê được làm chồng lên trên các di tích cung điện thời Lý, Trần. Còn
khu vực phía Tây HTTL là khu vực Quần Ngựa có thể là các cung (Hí cung) (Palais
de Plaisance) của Hoàng đế.
Tiếp sau các nhà nghiên cứu người Pháp, GS Trần Quốc Vượng trogn bài
viết: “Địa lý lịch sử miền Hà Nội (trước thế kỷ XI) [216] đăng trên tạp chí NCLS đã
nghiên cứu một loạt các thành Long Biên, Tống Bình, Đại La của Cao Biền. Riêng
về quy mô thành Đại La, GS Trần Quốc Vượng cho rằng: “Chu vi của thành khoảng
6 km2, vậy nó chiếm một diện tích vào khoảng trên dưới 2 km², trung tâm đại để có
thể là miền Quần Ngựa, mặt Tây giáp sông Tô Lịch, mặt Bắc giáp sông Hồng, phía
Đông có thể tới gần vườn Bách Thảo ngày nay, phía Nam có thể tới đường Đội Cấn
ngày nay [216; 47- 57]. Như vậy, vào thời điểm năm 1959, GS Trần Quốc Vượng
cho rằng trung tâm của thành Đại La có thể là khu vực Quần Ngựa chứ không phải
là khu vực HTTL hiện nay. Về vị trí của trung tâm thành Lũy thời thuộc Đường, GS
Trần Quốc Vượng viết: “Trong tình hình hiện nay, chưa có thể xác định một cách
chắc chắn các thành lũy nói trên của đời thuộc Đường”. Cuối bài viết, GS Trần
Quốc Vượng cho rằng: Để việc giao thông cho thuận tiện, đặc biệt sau khi sông Tô
Lịch bị cạn… “Cuối cùng đến đời Lê người ta đã phải dời thành về phía Đông thành
Đại La (Thăng Long) cũ, tức là thành ngày nay, góc Đông Bắc của thành cắt với
con đê cũ của Hà Nội. Như vậy, để cho Kinh thành ở ngay cạnh sông, giao thông
cho dễ dàng” [216; 47- 57 ].
Trong những năm đầu thập kỷ 60 của Tk XX, nhiều nhà nghiên cứu như:
Biệt Lam Trần Huy Bá, Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán… đã để tâm nghiên cứu
về vị trí Thành Hà Nội và các di tích núi Cung, núi Nùng, Núi Sưa… tạo cho không
khí học thuật khá sôi nổi.
Các cuộc khai quật khảo cổ học tại các địa điểm khác thuộc khu vực
ngoài HTTL (hiện nay) đã được các nhà khảo cổ học tiến hành ở nhiều nơi như ở
Tây Nam núi Cung (1970- 1971); Đồng Gạch - Đồng Giếng (1972); khu vực
Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh (1973), thám sát khu vực chùa Chân Giáo (1978),
19
khai quật chữa cháy ở khu vực Ngọc Khánh … Đặc biệt là khai quật thăm dò với
diện tích nhỏ khu vực Đoan Môn, Hậu Lâu, Bắc Môn đã tìm thấy nhiều hiện vật
quý thời Lý - Trần - Lê với chân tảng, đồ gốm sứ, đường đi lát gạch hoa chanh
gây sự quan tâm cho các nhà nghiên cứu... Tuy nhiên, về quy mô, cấu trúc HTTL
chưa được nghiên cứu nhiều.
1.1.2. Các nghiên cứu từ năm 2002 đến nay
Ngay từ khi phát lộ khu di tích HTTL, các cơ quan chức năng đã tổ chức
nhiều cuộc Tọa đàm, Hội thảo tập trung đông đảo các nhà Khoa học của cả nước
đầu tư công sức, trí tuệ nghiên cứu. Các cuộc hội thảo do Viện Khoa học xã hội
Việt Nam, Bộ Văn hóa Thông tin và Bộ Xây dựng tổ chức. Đặc biệt là Hội nghị
Khoa học Toàn quốc do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức ngày 19 -
20/8/2004, Hội thảo Tư vấn Quốc tế do Viện Khoa học Xã hội Việt Nam phối
hợp với Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Văn phòng UNESCO tại Hà
Nội tổ chức ngày 10 - 11/8/2004 và Hội nghị ngày 18/2/2006 do Bộ Văn hóa
Thông tin tổ chức…
Tuy phát hiện từ 2002 nhưng để có được nhận định khoa học thì phải đợi
thêm một thời gian sau khi đã phát lộ khai quật được một không gian rộng, đồng
thời cần phải có thời gian chỉnh lý, nghiên cứu tư liệu. Vì vậy, phải đến khoảng năm
2007 trở đi những nghiên cứu bước đầu về quy mô, cấu trúc HTTL mới được công
bố, đánh giá, nhận định. Thậm chí, những nghiên cứu công bố mới chỉ là những tiếp
cận ban đầu, đúng như lời mở của Tòa soạn Tc KCH đặt lời dẫn cho bài viết:
“Bước đầu nghiên cứu trang trí trên ngói ở Hoàng thành Thăng Long qua tư liệu hố
D4- D5- D6 (khu D) ở 18 Hoàng Diệu- Hà Nội”: “Nghiên cứu chỉnh lý khu di tích
HTTL tại 18 Hoàng Diệu do viện Khảo cổ học chủ trì là một công trình tiến hành
lâu dài trong nhiều năm tới (...). Đây chỉ là một diện tích nhỏ đối với một khối tư
liệu khổng lồ mà cuộc khai quật đạt được. Cho nên, kết quả này chắc chắn sẽ thay
đổi khi toàn bộ công tác chỉnh lý được hoàn tất [101; 88]. Trong kết luận, các tác
giả viết: “Kết quả khai quật ở các hố D4, D5, D6 đã tìm thấy ngói và các bộ phận
trang trí trên ngói số lượng nhiều, loại hình khá phong phú (...). Trang trí trên ngói ở
20
ba hố D4 - D5 - D6 góp phần tìm hiểu kiến trúc Thăng Long, mỹ thuật Thăng Long
và góp phần định vị vị trí của địa điểm khảo cổ học 18 Hoàng Diệu trong quy hoạch
tổng thể của Kinh Thành Thăng Long xưa” [101; 107].
Nghiên cứu trực tiếp nhận định về quy mô, cấu trúc HTTL trong suốt các
triều đại, Lý - Trần - Lê sơ - Mạc và Lê Trung Hưng. GS. Phan Huy Lê trong bài: “
Càng nghiên cứu, càng nhận thức sâu sắc hơn giá trị khu di tích Hoàng thành Thăng
Long tại 18 Hoàng Diệu” đăng trên tạp chí Khảo cổ học, cho rằng quy mô La Thành
và HTTL suốt các thời kỳ từ Lý đến Trần và Lê có sự thay đổi nhưng về Cấm thành
hầu như không có sự thay đổi: “Khu di tích ngay từ khi mới phát hiện được xác
định nằm trong HTTL thì dần dần được xác định cụ thể hơn là nằm trong Cấm
thành tức trung tâm của Hoàng thành, Kinh thành Thăng Long gồm ba vòng thành:
Đại La, Hoàng thành (tên dùng từ thời Lê sơ) và Cấm thành. Thành Đại La và
Hoàng Thành có những thay đổi từ thời Lý, Trần sang Lê sơ, từ thời Lê sơ sang thời
Mạc và Lê Trung hưng nhưng vị trí và quy mô của Cấm thành thì hầu như không
thay đổi, chỉ có các cung điện thì trải qua nhiều lần xây dựng, tu sửa, phá dỡ, hủy
hoại… Cấm thành là nơi tập trung những cung điện tiêu biểu nhất của các vương
triều, những sản phẩm cao cấp nhất của nền kinh tế, văn hóa của đất nước qua các
thời kỳ lịch sử” [106; 56]. Qua nghiên cứu nguồn sử liệu khảo cổ (di tích và di vật),
thông qua các nghiên cứu về số đo của kiến trúc và mặt bằng kiến trúc, các nhà
nghiên cứu Nhật Bản và Việt Nam cho biết, quy mô của các cung, điện thời Lý,
Trần trong Cấm thành khá bề thế: “Kết quả nghiên cứu các di tích kiến trúc tại hiện
trường cho phép các chuyên gia Nhật Bản và Việt Nam đưa ra những nhận xét kiến
trúc và lập bản vẽ mặt bằng một số kiến trúc thời Lý, Trần với những số liệu đo đạc
cụ thể. Thông tin này càng cho thấy quy mô khá to lớn của các cung điện trong Cấm
thành xưa” [106; 56]. Khi nghiên cứu về quy mô, cấu trúc HTTL, PGS. TS. Tống
Trung Tín, PGS. TS Bùi Minh Trí cho rằng: Hai khó khăn trong nghiên cứu quy
mô, cấu trúc HTTL về mặt sử liệu, đặc biệt là về mặt sử liệu bản đồ cổ và nghiên
cứu trên mặt bằng di tích do các di tích bị cắt phá hoặc khai quật còn nhỏ lẻ nên khó
21
có thể có được nhận định chính xác: “Thứ nhất, hiện nay không có một nguồn tư
liệu lịch sử và bản vẽ cổ nào mô tả về hình dáng, quy mô, kích thước của các công
trình kiến trúc trong HTTL và Cấm thành Thăng Long xưa.
Thứ hai, các dấu tích kiến trúc còn lại chủ yếu là phần nền móng, lại rất
phức tạp bởi có rất nhiều loại hình kiến trúc của nhiều thời kỳ nằm chồng xếp
hoặc cắt phá lên nhau. Mặt khác, quy mô mặt bằng của các kiến trúc thường rất
lớn nhưng phạm vi khai quật còn nhỏ, nên nhiều dấu tích chưa xuất lộ hết, vì thế
chưa thể đưa ra được nhận thức chung về mặt bằng của các di tích kiến trúc đang
xuất lộ” [177; 59].
Các nhà Khảo cổ học cũng đã quan tâm nhiều đến nguồn sử liệu trong sử cũ
để nghiên cứu, đối sánh nhưng đã chỉ ra những miêu tả trong sử cũ với những kiến
trúc thật tìm được qua kết quả Khảo cổ rất khó hình dung vì trong sử cũ đề cập đến
các lầu, gác, cung, điện miêu tả tráng lệ đó không thể tìm thấy nhiều trong các di
tích Khảo cổ học mà chỉ có thể tìm thấy qua một bộ phận nào đó như nền móng
kiến trúc. Tuy nhiên, chỉ cần qua nguồn sử liệu vật thật là nền móng kiến trúc cũng
có thể hình dung được phần nào về quy mô kiến trúc HTTL. Các tác giả viết: “…
Nhưng nếu nghiên cứu kỹ hệ thống nền móng đó ta có thể hiểu được mặt bằng của
từng loại đơn nguyên kiến trúc cũng như diện mạo tổng thể chung của các kiến trúc
trong khu vực. Lý do đơn giản là các kiến trúc cung điện trong HTTL và Cấm thành
Thăng Long xưa, cũng như di tích kinh đô của nhiều nước châu Á như Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc trong cùng bối cảnh, thường là khu nhà bằng gỗ chịu lực và
thành phần chịu lực chủ yếu là các cột nhà. Vì vậy, các chân cột thường được chú ý
kê đỡ và gia cố với hai thành phần chính là chân tảng và móng trụ” [177; 59].
Nghiên cứu về quy mô kiến trúc của HTTL cũng như của các công trình kiến
trúc, các nhà KCH không thể bỏ qua những nguồn sử liệu vật thực có giá trị đưa lại
thông tin sát thực được tìm thấy trong các hố khai quật như kỹ thuật gia cố, hệ
thống cột trụ và hệ thống khung gỗ. Đặc biệt những kiến trúc này được xây dựng
trên một môi trường đồng bằng châu thổ có nhiều hồ ao dày đặc và khí hậu nóng,
ẩm, lụt, bão thường xuyên xảy ra nhiều thì việc gia cố lại rất quan trọng: “Tại nhiều
22
khu vực trong khu di tích HTTL đã tìm thấy nhiều cột gỗ đang còn nguyên ở vị trí
ban đầu. Ví dự như ở khu B16 đã tìm thấy hệ thống cột gỗ thời Tiền Thăng Long
nằm dưới lớp kiến trúc Lý - Trần. Tại khu B11 - B13, nhiều cột gỗ thời Lê cũng
được tìm thấy. Đáng chú ý là ở khu B3 và A16 tìm thấy các hàng cột gỗ nằm ở độ
sâu 3,5m - 4,0m (so với lớp đất mặt) đang đứng nguyên trên chân tảng đá. Các cột
gỗ này có thể thuộc niên đại Trần” [177; 59].
Tại khu A, B, C, D các nhà KCH đã phát hiện được hàng chục dấu tích kiến
trúc gỗ có quy mô lớn thời Lý - Trần - Lê với mặt bằng 5 đơn nguyên kiến trúc. Căn
cứ vào các trụ móng sỏi có kích thước lớn 1,3m x 1,3 m xuất lộ ở các hố A11, được
xếp thành 11 hàng, mỗi hàng có 4 móng trụ, chạy theo chiều Bắc - Nam. Chiều rộng
của công trình này là 17,65m, khoảng cách giữa các cột là 3,0 m, khoảng cách giữa
các cột Cái trong lòng nhà là 6,0 m, chiều rộng của các bước gian cũng rất lớn từ
5,8 - 6,0 m. Theo các nhà KCH, công trình này có 11 gian (9 gian và 2 chái), độ dài
khoảng 70 m, rộng gần 18 m (diện tích khoảng 1.200m2), mặt hướng về phía Đông.
Hai bên phía Đông và phía Tây của dãy nhà có hai đường thoát nước lớn được xây
bằng gạch. Nghiên cứu về mối quan hệ giữa các công trình dinh thự với hệ thống
thoát nước và các nguồn thông tin về sử liệu khác mới có thể góp phần phục dựng
được phần nào diện mạo quy mô và cấu trúc HTTL. Cũng trong khu A - B, các nhà
nghiên cứu đã tìm thấy mặt bằng kiến trúc lớn nhiều gian ở khu A (A20 + 5), khu B
với một số kiến trúc nhỏ và một số kiến trúc lớn thậm chí rất lớn mà các nhà nghiên
cứu gọi là: Kiến trúc “nhà dài” 13 gian ở giữa khu B; Mặt bằng kiến trúc 5 gian ở
khu D (D4 + 5) và có cả kiến trúc lục giác... Tại khu (A1 + 11) cũng phát hiện thấy
di tích lục giác. Các nhà Khảo cổ học cũng đã gắn kết, liên hệ giữa các nguồn sử
liệu khảo cổ với nguồn sử liệu sử cũ đồng thời nghiên cứu độ kiên cố của di tích
kiến trúc và đã đưa ra giả thuyết: Có thể đây là lầu được dùng để Thưởng Trà
hay còn gọi là “điện Hô Trà” trong chính sử. “Căn cứ vào sự kiên cố của
móng trụ, các nhà KCH Nhật Bản suy đoán rằng, kiến trúc lầu lục giác này có thể
được làm nhiều tầng mái và có hình dáng rất đẹp. Những kiến trúc lầu này có niên
23
đại vào khoảng thời Lý, cùng thời với kiến trúc nhiều gian A1 + 11, được xây dựng
nhằm phục vụ cho nhu cầu thưởng ngoạn trong Hoàng cung khi đó. Trong VSL
cũng ghi chép về loại hình kiến trúc này gọi là Trà Đình (nhà/lầu để thưởng
trà) [177; 59]. Qua kết quả khai quật KCH các năm 2005, 2006 ở khu A,B,C,D,
PGS. TS Tống Trung Tín và PGS. TS Bùi Minh Trí cho rằng: Tại vị trí này thuộc
khu vực Cấm Thành Thăng Long, ở đây tồn tại một số cung điện thuộc khu vực
“Tân cung” xây dựng cuối thời Lý (1203).
Tác giả bài viết: “Về một số dấu tích kiến trúc trong Cấm thành Thăng Long
thời Lý - Trần qua kết quả nghiên cứu khảo cổ học năm 2005 - 2006” tại khu vực
khảo cổ khu A, B, C, D cho rằng: với nguồn sử liệu vật thật đặc biệt là hệ thống
chân tảng, gia cố trụ móng cho biết nơi đây chủ yếu là các kiến trúc có niên đại thời
Lý - Trần, các di tích thời Lê và Nguyễn còn lại ít hơn và bị phá hủy khi nhà
Nguyễn xây dựng thành Hà Nội. Các kiến trúc có trụ móng lớn chứng tỏ công trình
quy mô lớn, kiên cố và khu vực 18 Hoàng Diệu có một hệ thống các cung điện
thuộc Cấm Thành Thăng Long [177; 70 - 71].
Nghiên cứu nguồn sử liệu vật thật ở HTTL không thể không đề cập đến
vật liệu gạch xây dựng. Điều độc đáo là, có một số loại gạch có khắc chữ Hán.
Gạch thời Lý - Trần thường có thông điệp niên hiệu vua hay tên của một bộ phận
giúp việc của triều đình hoặc có một số tên địa danh như: Vĩnh Ninh trường
, Thu Vật huyện, Thu Vật hương , ... Tuy nhiên, vật thực có khắc
chữ mang tên địa danh không nhiều như đã phát hiện được trong thành nhà Hồ
(Thanh Hóa). Ở HTTL cũng như ở Thành nhà Hồ (Thanh Hóa) đều phát hiện
được hiện vật gạch khắc chữ “Vĩnh Ninh trường” , đối chiếu với nguồn sử
liệu thư tịch cho biết, cuối thời Trần (1397), Hồ Quý Ly cho dời đô từ Ly Cung
vào thành mới và làm lễ khánh thành ngày 15 tháng 3 năm 1398) (Xem
ĐVSKTT). PGS. TS Đặng Hồng Sơn cho rằng: “Việc nghiên cứu vật liệu xây
dựng thành nhà Hồ vừa có giá trị nghiên cứu nghệ thuật và lịch sử thời Hồ Quý
24
Ly vừa có thể hiểu được một phần nào vật liệu xây dựng thời Trần ở Thăng
Long” [154; 53]. Như thế, việc nghiên cứu các nguồn không chỉ dừng lại ở công
tác so sánh giữa các nguồn sử liệu vật thật và thư tịch mà cần phải nghiên cứu so
sánh trên phạm vi rộng ở các di tích khác nhau có xuất hiện vật thật có cùng một
loại hình hoặc cùng chứa đựng một nội dung thông tin.
Là một chuyên gia nghiên cứu về các kiến trúc cổ, GS Kazuto Inoue lại chú
ý đến việc thiết lập hệ tọa độ và nghiên cứu thước đo được dùng để thiết kế Hoàng
Thành Thăng Long trước khi đi vào việc nghiên cứu cụ thể. Về việc thiết lập hệ lưới
tọa độ chung cho cả khu vực HTTL, GS Kazuto Inoue đã chọn điểm Điện Kính
Thiên làm vật chuẩn và khi nghiên cứu tìm thước đo cho HTTL, GS. Kazuto Inoue
đã liên hệ, gắn kết giữa thực địa với nguồn sử liệu thư tịch Trung Hoa ghi về thước
đo thời Tống: “Hơn nữa, về thước đo chuẩn xây dựng (chiều dài của đơn vị kích
thước thực tế) có nhiều tính khả năng, nhưng vì trong các thư tịch cổ có nhắc đến
một đơn vị là “thước” và qua thời kỳ suy đoán thước của Trung Quốc (nhà Tống)
mà thời kỳ đầu tiên đưa vào sử dụng (ở Việt Nam) là nhà Lý, thường có kích thước
là 30,0 cm nên trước tiên, chúng tôi sẽ lấy chiều dài này làm chuẩn và thử kiểm tra
theo chiều dài này [82; 45] .
Để nghiên cứu quy mô công trình và các bước gian, các nhà KCH đã dựa vào
hiện trạng các hàng chân cột được phát hiện trong quá trình khai quật rồi quy đổi số
đo được ghi trong thư tịch cổ để tính ra đơn vị “thước” cổ; GS Kazuto Inoue viết:
“Chỉ có thể lấy vị trí của chân tảng hiện còn làm điểm mốc và từ đó xác định
khoảng cách tương đối giữa các trụ móng sỏi gia cố khác bằng phương pháp đổi
kích thước giữa các cột đó ra thước với tỷ lệ 1 thước = 29,9 cm và làm trong số”
[82;49]. Cũng nhờ có sự quy đổi thước cổ được ghi chép trong thư tịch, sau đó so
sánh và ứng đổi với mặt bằng khai quật, tác giả tính toán được chiều Đông - Tây
của thiết kế cung điện thời Lý của dãy kiến trúc lục giác là 209,4m tương ứng với
khoảng 700 thước “ (…) Nếu chúng ta sử dụng phương vị đã nêu ở trên để tính
khoảng cách giữa kiến trúc SB 04 - 8 và SB 008 - 2, tức là khoảng cách từ Đông
sang Tây theo thiết kế cung điện thời Lý của dãy kiến trúc lục giác ở hai phía Đông
25
- Tây thì có được con số 209,4m, bằng đúng khoảng cách tính trên trục tọa độ
HTTL (số tính chính xác là 209,38 m). Nếu lấy một thước chuẩn khi xây dựng ban
đầu là 29,9cm thì sẽ được 700,3 thước, tức là chúng ta đã được thiết kế, tính toán
bằng thước một cách chuẩn mực với khoảng cách Đông - Tây là 700 thước”
[82;49]. Từ những thông tin trên, GS Kazuto Inoue cũng đã cho rằng, có một hệ
thống cung điện nằm theo hướng Đông - Tây.
Về quy mô kiến trúc ở khu A và B, tính đến năm 2010, chỉ tính các kiến trúc
thời Lý, có đến 20 đơn vị kiến trúc (bao gồm 11 kiến trúc chân tảng xếp thành hình
lục giác có nhiều tầng), 2 con đường và 2 bức tường. Theo nhận định, đánh giá của
GS Kazuto Inoue thì đây là một kiến trúc được xây dựng theo một quy hoạch khá
nghiêm ngặt: “…Nhưng trên thực tế phải hiểu rằng toàn bộ bước gian khu di tích
này đã khai quật như những đường rãnh nước men theo kiến trúc và con đường, hay
những bước gian có (mặt ?) lát gạch giữa các tòa nhà đều là vết tích nào đó. Những
vết tích kiến trúc này như chúng tôi đã nhắc đến được xây dựng theo một quy hoạch
khá nghiêm ngặt” [82; 49]. Từ việc phân tích, nghiên cứu khu A - B, GS Kazuto
Inoue đã phán đoán kiến trúc phía Nam khu A - B (kí hiệu SB020): “Phía sau kiến
trúc này, ở phía Bắc có hành lang SC020 và có thể phỏng đoán hành lang này được
bố trí để bao quanh kiến trúc SB022 và ở phía Tây lại bẻ ngoặt về phía sau. Quy mô
của toàn bộ khu nam chưa rõ ràng, nhưng có thể nghĩ rằng, kiến trúc SB022 là có
chức năng quan trọng như kiến trúc trung tâm khu vực này, và nằm ở mép phía
Bắc” [82; 62].
Bằng việc quy đổi đơn vị số đo với thực địa của khu SB004 với nền móng
tháp lục giác, GS Kazuto Inoue cho rằng: hiện trạng của những trụ móng sỏi dùng
để đặt chân tảng lên trên, khả năng đó là những ngôi tháp nhiều tầng nhỏ, mặt bằng
hình lục giác (lầu nhiều tầng). Và từ những hiện vật tháp (mô hình) nhiều tầng được
khắc trên những viên gạch tìm thấy trong HTTL, theo tác giả có thể phục nguyên
như hình lục giác với 9 tầng.
Về những hiện vật chân tảng gắn với kiến trúc lục giác ở khu vực SB001
theo hướng Bắc - Nam của khu A, nhà khảo cổ học cho rằng, có thể nó liên quan
26
đến kiến trúc Phật giáo: “Nếu đặt một tiền đề giả sử những kiến trúc với chân tảng
xếp thành hình lục giác có nhiều tầng đó ít nhiều mang sắc thái của đạo Phật thì có
thể phán đoán kiến trúc SB001 là nơi tiến hành các nghi lễ tôn giáo. Hơn nữa, cùng
với điều đó, nếu chúng ta cho rằng lối đi SF026 chạy xuyên qua tòa nhà là lối đi với
chức năng hơn những lối đi bình thường, mà là lối đi mang tính nghi lễ thì việc
đánh giá quần thể các kiến trúc SF026, SB001, SB004 - 1- 11 có những chức năng
liên quan trực tiếp phong kiến (Vương triều hay quyền lực của hoàng tộc) không
phải là mâu thuẫn. Đặc biệt, việc phần giữa con đường SF026 theo hướng Đông -
Tây này được làm cao hơn hẳn là yếu tố quan trọng để xem xét cách thức sử dụng
con đường này của người xưa. Và chúng ta cũng có thể thấy rằng, con đường đặc
biệt này là con đường dành riêng cho bậc Thiên Tử (hay hoàng đế) gọi là Trì - Đạo (
) hay Liễn - Lộ ( ) trong các hệ thống đô thành khu vực Đông Á thời tiền
cận đại” [82; 62]. Từ đặc trưng của các dấu vết kiến trúc trong khu vực các di tích
thời Lý tìm thấy trong khu vực D4, D5, D6, GS Inoue cho rằng, những công trình
này khó có thể được xây dựng trên một bản thiết kế và phương vị của các công trình
sau được thiết kế khác với những công trình trước đó: “Nếu so sánh với tọa độ của
(C) thì sẽ thấy độ chênh lệch góc là 0độ 36 phút 47 giây, tức là cứ 100m thì chênh
1,07m. Đây là con số có thể nói khá lớn. Tức là, qua đó, chúng ta khó có thể cho
rằng chúng được xây dựng theo cùng một bản thiết kế. Hơn nữa, cũng có thể phán
đoán rằng, có khả năng phương vị đó đã được lựa chọn sao cho khác với phương vị
trong thiết kế của quần thể các cung điện vương triều trước đó” [82; 69]. Những
nhận định trên của GS Kazuto Inoue đưa ra sau khi nghiên cứu, khai thác từ một
thông tin duy nhất từ nguồn sử liệu KCH, vì thế, GS Kazuto Inoue cho rằng, nếu chỉ
có duy nhất từ nguồn sử liệu khảo cổ thì thông tin rất hạn chế, cần phải có sự tích tụ
của các nguồn sử liệu khác: “… Như vậy, ở đây chúng ta có thể chỉ ra khả năng ở di
tích HTTL phương vị của các kiến trúc khác nhau tùy thuộc vào thời kỳ mà chúng
được xây dựng. Tuy nhiên, những dấu vết kiến trúc mà chúng ta có thể lấy làm đối
tượng phân tích rất hạn chế, nên đòi hỏi phải nghiên cứu sâu hơn nữa nhờ vào sự
27
tích tụ thông tin trong các cuộc khai quật từ nay về sau” [82; 69].
Tuy không trực tiếp nghiên cứu về quy mô, cấu trúc HTTL, nhưng qua việc
nghiên cứu về vật liệu kiến trúc cũng có thể biết được quy mô của công trình. Quy
mô của dấu vết kiến trúc có sự liên hệ mật thiết giữa các bộ phận mái che, tường
chịu lực hoặc cột trụ và móng trụ. Đây cũng được coi là một trong những nguồn
sử liệu vật thật trong nghiên cứu lịch sử. “Một trong những di tích kiến trúc tiêu
biểu ở HTTL là hệ thống các trụ móng cột, các trụ móng này được gia cố chống
sụt lún cho kiến trúc, quy mô của các trụ móng phần nào phản ảnh quy mô của
kiến trúc. Từ việc nghiên cứu các vật liệu kiến trúc cũng góp phần lý giải về các
móng trụ này. Chúng tôi cho rằng, móng trụ phải được gia cố chắc chắn xuất
phát từ yêu cầu trọng lượng bên trên của kiến trúc, tức là móng trụ là một giải
pháp kỹ thuật nhằm tăng cường độ cứng của nền đất phía dưới giúp nó gánh
được khối kiến trúc ở bên trên mà trọng lượng chính của kiến trúc cung điện ở
Thăng Long là trọng lượng của bộ mái” [3;78]. Để chứng minh trọng lượng đồ
sộ của một bộ mái, các nhà khảo cổ học đã dùng phương pháp toán học tính
trọng lượng của một viên ngói lợp còn nguyên vẹn phát hiện ngay trên dấu tích
của công trình rồi (x) với m² cần phải lợp sau đó tiếp tục (x) với số m² được che
phủ của công trình. (Tất nhiên, các nhà nghiên cứu đã đưa ra giả thiết về độ dốc
của mái) từ đó tính được trọng lượng mái của công trình lên đến hàng trăm tấn.
Đây là trường hợp tiêu biểu ở hố khai quật ở khu A, có 1 tầng được các nhà
nghiên cứu khảo cổ học tính như sau: “Giả sử kiến trúc A1 có 1 tầng và được lợp
bằng loại ngói cánh sen có kích thước (40 x 25 x 2,5) cm, trọng lượng trung bình
mỗi viên là 6 kg. Kiến trúc A1 có kích thước mặt bằng là 60,3m x 12m, về lý
thuyết mái có thể đua ra khỏi mặt bằng không quá 1,2 m (ở đây, chúng tôi tính
1,2m) tức là chiều rộng của khu vực có mái che phủ là 14,4m; độ dốc mái không
quá 450 (chúng tôi tạm tính là 300), như vậy, chiều cao từ giọt ngói đến đỉnh mái
(c) là 4,14 m; chiều rộng của 1 mái là cạnh huyền của tam giác (a) là 8,314. Với
các thông số như trên, chúng ta có diện tích mỗi mái là 501,334 m²; Tổng diện
tích 2 mái là 1002.668 m². Nếu lợp ngói cánh sen cỡ (40 x 25 x 2,5) cm với cách
28
thức lợp viên trên lệch viên dưới 25 cm thì 1m² hết 16 viên, trọng lượng trung
bình mỗi viên là 6 kg. Như vậy 1m² có trọng lượng khoảng 96 kg. Với tổng diện
tích 2 mái là 1002,668 m² thì tổng trọng lượng mái của kiến trúc A1 (chưa kể các
trang trí gắn kèm) là: 102,668 m² x 96 kg = 96.192 kg (96, 192 tấn) [3; 78 - 79].
Với cách tính trên đã có thể phác họa, giúp hình dung được phần nào về sự
đồ sộ của một công trình kiến trúc trong Hoàng Cung Thăng Long. Tuy nhiên, đây
là một giả thiết về một kiến trúc công trình đơn giản chỉ có 1 tầng, 2 mái, chưa tính
đến công trình được thiết kế theo kiểu từ 2 tầng trở lên với kiểu chồng diêm 4 mái
vẫn thường thấy ở các công trình kiến trúc cổ. Ngoài ra cũng cần phải tính đến phần
các vật liệu dùng làm giá đỡ như: rui, mè, xà, đấu trụ… thuộc kết cấu phần trên.
Như thế, có thể hình dung trọng lượng của một cung điện ở hố khai quật khu A với
diện tích khoảng 1000 m² thì rất đồ sộ.
Nếu như nhiều nghiên cứu đi sâu về các lĩnh vực như địa tầng kiến trúc, quy
mô của một công trình kiến trúc hay từ quy mô của hố khai quật của một nền công
trình cung điện với những hiện vật khảo cổ có thể hình dung được quy mô công
trình thì GS. TS Nguyễn Quang Ngọc đã trực tiếp nghiên cứu về không gian “Long
Trì - Đan Trì trong cấu trúc khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Đông Kinh”
[140; 87]. Nội dung bài viết đã đi sâu nghiên cứu về chức năng của Long Trì - Đan
Trì trong sử cũ (chính sử) đồng thời gắn kết không gian này với không gian của
Điện Kính Thiên tới khu vực Đoan Môn. Từ đó, tác giả khẳng định: Nghi lễ quan
trọng của triều đình ở sân Long Trì - Đan Trì đồng thời khẳng định di tích điện Càn
Nguyên (thời Lý), điện Thiên An (thời Trần) và di tích điện Kính Thiên (thời Lê)
cùng với không gian sân Long Trì - Đan Trì, sân Đoan Môn từ thời Lý - Trần - Lê
là không hề thay đổi, vẫn ở một vị trí.
Nghiên cứu quy mô, cấu trúc của HTTL, bằng việc căn cứ vào các nguồn sử
liệu chữ viết như Đại Việt sử kí toàn thư (ĐVSKTT), Quốc triều hình luật, GS.
Nguyễn Quang Ngọc so sánh quy mô, cấu trúc Hoàng thành thời Lý - Trần với thời
Lê, đặc biệt là đến thời Lê Thánh Tông có sự tu sửa bề thế, chia làm nhiều khu
nhưng tính đến trước thời Lê Thánh Tông, tòa Hoàng thành hầu như không có sự
29
thay đổi. Hay nói cách khác, phải đến thời Lê Thánh Tông trở đi, quy mô Hoàng
thành mới thay đổi, được mở rộng hơn: “Quy mô và cấu trúc thành Đông Kinh các
đời vua Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông và Lê Nhân Tông hầu như không có sự thay đổi
so với Thành Thăng Long thời Lý, Trần. Đến Lê Thánh Tông tòa thành giữa được
chính thức gọi là Hoàng thành với các quy định bảo vệ chặt chẽ và được thể chế hóa
trong Quốc triều hình luật. Lê Thánh Tông đồng thời cho xây dựng lại tòa thành bề
thế hơn, mở rộng ra bao lấy toàn bộ khu vực Tổng Nội mà dấu tích đến nay vẫn còn
có thể hình dung được tương đối cụ thể. Tòa thành bên trong cũng được xây dựng
lại trên quy mô tòa Cấm thành Thăng Long xưa, nhưng có nhiều lớp, nhiều cửa, tạo
thành nhiều ô ngăn cách hơn, gọi là Cung thành, với quy chế bảo vệ hết sức nghiêm
ngặt” [140; 91].
Trong nghiên cứu về không gian Long Trì - Đan Trì và điện Kính Thiên của
GS. TS Nguyễn Quang Ngọc đề cập đến những hạng mục công trình quan trọng
trong khu vực Cấm Thành Thăng Long thuộc không gian điện Kính Thiên bao gồm:
Cổng Chu Tước, Đoan Môn, đường “Ngự đạo” chạy thẳng vào khu vực chính điện
Kính Thiên, Điện Thị Triều, Đông Tràng An, Tây Tràng An…Cổng Chu Tước,
cùng với điện Càn Nguyên (thời Lý), Thiên An (thời Trần) và Kính Thiên (thời Lê)
được so sánh với Đại Cực Điện và cổng Chu Tước của Nhật Bản, nhưng theo tác
giả, sự khác biệt của các công trình này ở trong Cấm thành Thăng Long không hề
thay đổi vị trí còn ở Nhật Bản nó chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn rồi bị chuyển
dời sang vị trí bên cạnh: “Cổng chính Nam của Nara cũng là cổng Chu Tước”.
Về cấu trúc bên trong khu vực sân Đoan Môn, trước điện Kính Thiên trước
thời Lê Thánh Tông chỉ có hai dãy hành lang dài thì đến giờ có thêm điện Thị Triều
để cho các quần thần vào chầu. vv…
GS. Phan Huy Lê trong bài viết: Càng Nghiên cứu càng nhận thức sâu sắc
hơn giá trị khu di tích Hoàng Thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu) nhận xét: “…
nhận thức chung tương đối đồng thuận về giá trị của Khu di tích Hoàng thành
Thăng Long 18 Hoàng Diệu có thể tóm lược như sau: Khu di tích ngay khi mới phát
hiện được xác định nằm trong HTTL thì dần dần được xác định cụ thể hơn là nằm
30
trong Cấm thành tức Trung tâm của Hoàng thành. Kinh thành Thăng Long gồm ba
vòng thành: Đại La, Hoàng thành (tên dùng từ thời Lê sơ) và Cấm thành. Thành Đại
La và Hoàng thành có những thay đổi từ thời Lý, Trần sang Lê sơ, từ thời Lê sơ
sang Mạc và Lê Trung hưng, nhưng vị trí và quy mô của Cấm thành thì hầu như
không thay đổi, chỉ có các cung điện thì trải qua nhiều lần xây dựng, tu sửa, phá dỡ,
hủy hoại... Cấm thành là nơi tập trung những cung điện tiêu biểu nhất của các
vương triều, những sản phẩm cao cấp nhất của nền kinh tế, văn hóa của đất nước
qua các thời kỳ lịch sử (106; 54 - 55).
Nghiên cứu trực tiếp các di tích trong HTTL phải kể đến LATS của Phạm
Văn Triệu, Bảo vệ tại Trường ĐHKHXHNV, ĐHQGHN: “Di tích kiến trúc thời Lý
tại Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội”. Luận án đã nghiên cứu hàng loạt các di tích
thời Lý phát hiện trong Hoàng thành Thăng Long kể từ khi phát lộ năm 2002 cho
đến 2015 trên các khu vực khai quật 62 - 64 Trần Phú, khu vực khảo cổ học 18
Hoàng Diệu và khu vực không gian điện Kính Thiên - Đoan Môn (1998 - 2015).
Trong luận án Phạm Văn Triệu mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu thuần túy các di
tích đã được khai quật ở khu vực 18 Hoàng Diệu và 62 - 64 Trần Phú, chưa tập hợp
một số di tích thời Lý ở khu vực nhà Quốc Hội đồng thời cũng chưa tập hợp hết các
di tích đã phát hiện trong khu vực số 9 Hoàng Diệu (giai đoạn 2011 - 2017). Qua
nghiên cứu các di tích khảo cổ học thời Lý, tác giả đã cho người đọc hình dung
được mật độ di tích thời Lý dày đặc với quy mô đồ sộ gồm 54 di tích, kiến trúc
phức tạp. Tuy nhiên, việc xác định vị trí công năng, tên gọi của nhiều di tích thời Lý
trong khu vực Hoàng thành Thăng Long vẫn là một vấn đề cần phải được nghiên
cứu tiếp tục trong tương lai…
Vấn đề đặt ra là di tích thời Lý - Trần có được xây dựng trên chính nền cũ
của di tích thời Đại La - Trị sở của An Nam Đô Hộ Phủ thời thuộc Đường hay
không và nếu có thì di tích thời Lý - Trần được xây dựng lên di tích thời Đại La với
vị trí và quy mô có trùng lên nhau không (?). Đây là một vấn đề được nhiều nhà
nghiên cứu hết sức quan tâm. Nhưng có lẽ, trong tất cả các nguồn sử liệu chứng
minh về sự tồn tại của tòa Thành Đại La thì nguồn sử liệu vật thực có ý nghĩa quan
31
trọng bậc nhất. Kết quả chứng minh qua vật thực như: nền móng kiến trúc, cột âm
bằng gỗ có niên đại thời Đại La và nhiều hiện vật gạch, ngói nung có khắc chữ đặc
trưng thời Đại La. Tại khu B, khu D khai quật khảo cổ học Hoàng Thành Thăng
Long đã tìm thấy các viên gạch có chữ như Giang Tây quân , Giang Tây
chuyên , những mảnh bình gốm Islam vùng Tây Á, những di vật gốm men
xanh thời Đường, những viên gạch màu xám tro xuất hiện trong những chiếc giếng
thời Lý - Trần (tái sử dụng lại). Các di tích thời Đại La nằm dưới tầng văn hóa thời
Lý - Trần nên nhiều khi rất khó nghiêm cứu. Theo PGS. TS Bùi Minh Trí, trong
toàn bộ 4 khu A, B, C, D: Do phát hiện kiến trúc Đại La còn quá đơn lẻ của từng bộ
phận kiến trúc lại nằm ở tầng dưới của văn hóa thời Lý nên rất khó khăn trong việc
nhận diện về quy mô, cấu trúc. Hơn nữa, những di tích kiến trúc thời Lý rất quan
trọng cần phải được bảo tồn nên khó có điều kiện đào sâu xuống dưới được. Vì vậy,
cơ hội để tìm kiếm các di tích thời Đại La khó thực hiện được. Đây cũng là lý do vì
sao trong toàn bộ 4 khu khai quật A, B, C. D, chưa có nơi nào tìm được trọn vẹn
mặt bằng một đơn nguyên kiến trúc thời Đại La, ngoại trừ một số đoạn nền nhà hay
một số móng trụ cột gỗ là những bộ phận của công trình kiến trúc đã nêu ở trên. Về
mặt kiến trúc, tác giả đã đi đến nhận định: “Phát hiện về kỹ thuật có tính chất quan
trọng hơn, đó là thời kỳ này các công trình kiến trúc chủ yếu được xây dựng bằng
cách chôn cột xuống lòng đất, tạo ra sự vững chắc cho công trình. Để phân biệt với
kỹ thuật xây dựng cột đặt trên nền nhà (cột dương), chúng tôi tự đưa ra khái niệm
gọi là “cột âm”.
Sau khi khai quật khu vực xây dựng nhà Quốc hội (Tháng 3 năm 2008 - đến
tháng 7 năm 2009), các nhà khai quật khảo cổ học đã phát hiện được một quần thể
kiến trúc gồm 17 công trình kiến trúc thời Đại La cung cấp những tư liệu hoàn toàn
chính xác để khẳng định điều nhận xét trên, nghĩa là phần lớn các công trình kiến
trức thời Đại La được xây dựng bằng “cột âm”, tức là chôn cột xuống lòng đất. Kỹ
thuật làm móng trụ của thời kỳ này chủ yếu là dùng ngói vỡ và gỗ để kê chân cột.
Kỹ thuật dùng sỏi để gia cố móng cũng đã bắt đầu xuất hiện nhưng chủ yếu là loại
32
sỏi nhỏ pha cát và dùng để lót đáy móng chứ không đầm nén như kỹ thuật gia cố trụ
sỏi thời Lý. Từ những kết quả nghiên cứu về di tích thời Đại La và thực tiễn quá
trình khai quật di tích Đại La trong khu vực khu B, D và khu vực nhà Quốc Hội, tác
giả đi đến 2 nhận xét:
+ Việc tìm thấy các di tích kiến trúc thời Đại La nằm dưới tầng văn hóa thời
Lý đã góp phần xác định rõ, vị trí của tòa thành Đại La không có ở nơi nào khác mà
chính ở ngay trong khu trung tâm của Cấm Thành - Hoàng Thành. Nói cách khác
Cấm Thành Thăng Long được xây dựng đúng vị trí của tòa thành Đại La cũ, trên cơ
tầng của lị sở An Nam Đô Hộ Phủ.
+ Sự sầm uất, trù phú và địa thế thuận lợi của vùng đất An Nam Đô Hộ Phủ
khi đó là lý do quan trọng thôi thúc vua Lý Công Uẩn chọn làm nơi định đô, biến
vùng đất đồn trú của người Hoa trở thành trung tâm chính trị, văn hóa lớn của nước
Đại Việt, mở ra kỷ nguyên mới cho nền Văn minh Đại Việt, đặt nền móng cho sự
phát triển của kinh đô Thăng Long dưới các triều đại tiếp theo.
Tập sách chuyên khảo và cập nhật những thành tựu nghiên cứu của toàn bộ
giới khoa học lịch sử, khảo cổ trong những năm gần đây và được coi là một bước
tiến vượt bậc trong nghiên cứu, nhận thức về quy mô, cấu trúc HTTL phải kể đến
công trình Không gian khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long tư liệu và nhận thức
do GS Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên). Tập sách đã tập hợp 16 bài nghiên cứu của
15 tác giả chia làm 4 chủ đề nghiên cứu chính:
+ Chủ đề nghiên cứu về vị trí Cấm thành của HTTL có các bài viết: Cấm
thành Thăng Long qua các thời kỳ lịch sử (GS Phan Huy Lê); Góp phần nhận diện
không gian khu trung tâm Cấm thành Thăng Long (GS Nguyễn Quang Ngọc); Cung
Thánh Từ, chế độ Thượng Hoàng và khu cung cấm của Thăng Long thời Trần (GS.
Momoki Shiro); Những trục chính tâm của đô thị Thăng Long - Hà Nội (GS. TS
Yumio Sakurai); Hoàng thành Thăng Long triều Lê Thánh Tông (1460- 1497) của
TS Đỗ Thùy Lan;
+ Nghiên cứu tư liệu Khảo cổ học: Tổng quan về Khảo cổ học Thăng Long
từ cuối thế kỷ XIX đến nay của PGS. TS Tống Trung Tín; Kiến trúc thời Lý ở khu A-
33
B khu di tích Hoàng thành Thăng Long: Những thành tựu sau 10 năm nghiên cứu
của PGS. TS. Bùi Minh Trí; Những nét chính trong đợt khai quật Trung tâm Hoàng
thành Thăng Long 2011- 2013 của TS Hà Văn Cẩn;
+ Nghiên cứu tư liệu thư tịch và bản đồ: Khảo sát Hồng Đức bản đồ của GS.
Ueno Kunikazu; Thành Thăng Long đầu thế kỷ XX của Ths Tống Văn Lợi; Dấu
tích Hoàng thành thăng Long và thành Hà Nội qua khảo sát địa bạn hai huyện Thọ
Xương, Vĩnh thuận (Ths Vũ Đường Luân);
+ Nghiên cứu so sánh: Ảnh hưởng mô hình Lạc Dương và Khai Phong đến
quy hoạch Hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần (TS Phạm Lê Huy);
Nghiên cứu di tích văn hóa có: Di tích tâm linh đặc biệt thời Lý phát hiện tại
Lô E - Khu di sản Hoàng thành Thăng Long GS. TS Bùi Văn Liêm). Bên cạnh đó,
có bài viết về sự biến đổi của Hoàng thành Thăng Long thời Nguyễn và Pháp thuộc
của TS Olivier Tassier: “Từ lúc chiếm thành Hà Nội (1873) cho đến khi phá bỏ
thành 1897: Phá hủy và biến đổi không gian đô thị”…
Ngoài các sách chuyên khảo, các bài báo khoa học ít nhiều đề cập trực tiếp
hoặc gián tiếp đến các nguồn sử liệu về quy mô, cấu trúc của HTTL như đã đề cập
đến ở trên còn có một số luân án tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ đề cập đến quy mô, cấu
trúc của Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội như một số công trình sau:
Sau khi phát lộ khu vực khảo cổ học HTTL - HN, nhiều luận văn Ths đã
quan tâm nghiên cứu. Chẳng hạn: Ngô Thị Lan (2006), Trang trí trên ngói ở Hoàng
Thành Thăng Long qua tư liệu hố D4 - D5 - D6 (Khu D) ở 18. Hoàng Diệu - Hà
Nội (ĐHKHXH và NV, ĐHQGHN); Bùi Văn Hiếu (2011), Móng kiến trúc thời Lý -
Trần - Hồ qua tư liệu khảo cổ học, Luận văn Ths. Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà
Nội; Phạm Văn Triệu (2011), Di tích kiến trúc Hoàng thành Thăng Long hố D4-
D5- D6 (18 Hoàng Diệu, Hà Nội), Luận văn Ths. Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà
Nội; Vũ Đường Luân (Khoa Lịch sử, ĐHKHXH và NV, ĐHQGHN): Nghiên cứu
về Kinh Thành Thăng Long thời Lý - Trần; Tống Văn Lợi (Viện Việt Nam học và
Khoa học Phát triển, ĐHQGHN): Nghiên cứu về hệ thống bản đồ Thăng Long từ
thế kỷ XV đến thế kỷ thứ XIX; Chu Thị Hiền (HVKHXH, VHLKHXHVN): “Di tích
34
kiến trúc Cột Cờ, Bắc Môn, Đoan Môn và nền điện Kính Thiên tại Khu di sản trung
tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội (2017); Đỗ Đức Tuệ (ĐHKHXH và NV,
ĐHQGHN): Dấu tích kiến trúc thời Lê ở khu vực chính điện Kính Thiên thời Lê
(Qua các đợt khai quật 2011- 2013), (2017).…
Có thể nói rằng, khi nghiên cứu về HTTL, các luận văn Ths chủ yếu nghiên
cứu từ một vài di tích cụ thể được khai quật trong thời gian qua hoặc nghiên cứu về
lĩnh vực bản đồ ở một giai đoạn lịch sử nhất định chứ chưa phải là về mô mô, cấu
trúc của HTTL trong lịch sử nói chung và nghiên cứu về các nguồn sử liệu về quy
mô, cấu trúc của HTTL thời Lý - Trần - Lê nói riêng.
1.2. Khát quát kết quả của các công trình nghiên cứu và những vấn đề
luận án tập trung nghiên cứu
1.2.1. Kết quả của các công trình nghiên cứu trước
Có thể thấy rằng sử liệu về HTTL rất đồ sộ và thành tựu nghiên cứu của giới
nghiên cứu Lịch sử nói riêng và Khoa học xã hội nói chung về HTTL cũng rất lớn
được thể hiện dưới nhiều hình thức như: Luận án tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ, các sách
chuyên khảo, sách tham khảo, các công trình nghiên cứu trên các tạp chí chuyên
ngành, kỷ yếu hội thảo quốc gia, quốc tế; Các tập san khoa học … Lĩnh vực nghiên
cứu cũng khá đa dạng như: Nghiên cứu di tích, nghiên cứu di vật, văn hóa vật thể,
phi vật thể, vật liệu kiến trúc, nghiên cứu sử liệu bản đồ, thư tịch, văn bia… trên các
lĩnh vực: Khảo cổ, lịch sử, Hán Nôm, địa chất, môi trường… được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm, lý giải. Có thể nói một cách chính xác, những công trình
nghiên cứu đó được đề cập đến ở trên thực chất là lịch sử vấn đề nghiên cứu HTTL
chứ chưa phải hoàn toàn là lịch sử nghiên cứu về Các nguồn sử liệu về quy mô, cấu
trúc HTTL thời Lý - Trần - Lê. Có thể khẳng định rằng, cho đến hiện nay dường
như rất ít công trình sử học nghiên cứu về các nguồn sử liệu về quy mô, cấu trúc
của HTTL thời Lý - Trần - Lê. Mặc dù các nhà nghiên cứu từ trước đến nay không
đặt vấn đề nghiên cứu các nguồn sử liệu về quy mô và cấu trúc của HTTL qua các
thời kỳ Lý - Trần - Lê nhưng trên thực tế đã có nhiều nhà nghiên cứu đặt các giả
thuyết và tiến hành nghiên cứu, nhận định về vị trí và quy mô của Hoàng thành và
35
Cấm thành Thăng Long. Chung quy lại có thể chia giai đoạn nghiên cứu thành hai
chặng đường: Chặng đường đầu là các nghiên cứu của các học giả Pháp (đầu Tk
XX đến khoảng trước năm 2002); Giai đoạn thứ hai từ năm 2002 đến nay. Giai
đoạn thứ nhất được bắt đầu bằng những nghiên cứu do các học giả Pháp thực hiện
(chủ yếu trên cơ sở thu lượm, sưu tầm các hiện vật phát hiện lẻ tẻ ở khu vực Quần
Ngựa) nên các học giả Pháp đã cho rằng, phải chăng khu vực Quần Ngựa là khu di
tích HTTL xưa. Tiếp sau những học giả người Pháp nghiên cứu về HTTL là các học
giả là người Việt Nam như Trần Huy Bá (1959), Trần Huy Liệu (1960), Trần Quốc
Vượng, Vũ Tuấn Sán (1975), Phạm Hân … hầu hết các ý kiến đều cho rằng HTTL
nằm ở phía Tây thành Hà Nội (tức phía tây của HTTL) ngày nay. Trong các nghiên
cứu của các học giả Việt Nam đáng chú ý là các quan điểm được trình bày sau năm
1954 tiêu biểu như ý kiến của GS Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán cho rằng Long
thành, Phượng thành hay Long Phượng thành thực chất là Hoàng thành. HTTL
được bao quanh bởi 4 cổng chính: Tường Phù (phía Đông), cửa Đại Hưng (phía
Nam), cửa Quảng Phúc (phía Tây), cửa Diệu Đức (phía Bắc) và điện Kính Thiên
được xây dựng trên núi Nùng, núi Nùng này thuộc Cấm thành Thăng Long. Vị trí
điện Kính Thiên không thay đổi qua các thời kỳ lịch sử. Theo chúng tôi cũng như
nhiều nhà nghiên cứu khác đều thống nhất cho rằng Long thành/ Phượng thành/
Long Phượng thành chính là Hoàng thành chứ không phải Cấm thành. ..
Sau năm 2002, những nhận thức về HTTL đã có những bước đột phá bởi
thành quả của những phát hiện mới về khảo cổ học trong lòng đất. Các nhà nghiên
cứu đã có những nhận thức đầy đủ về quy mô, cấu trúc, về trục chính tâm, về “Tân
cung” cuối triều đại nhà Lý, về cảnh quan môi trường với hệ thống cơ sở hạ tầng,
trục tâm linh, về tôn giáo, tín ngưỡng… qua việc nghiên cứu các nguồn sử liệu thư
tịch với các nguồn sử liệu khác…
Vì thế, trong chương Tổng quan này, khi trình bày về lịch sử vấn đề
nghiên cứu, tác giả chỉ có thể bước đầ hệ thống được quá trình nghiên cứu về
HTTL trên các lĩnh vực nghiên cứu cụ thể và tạm thời chia thành các lĩnh vực để
dễ theo dõi, hệ thống. Tuy nhiên, ở một chừng mực nào đó, việc phân chia thành
36
những lĩnh vực nhỏ như trên chỉ có ý nghĩa tương đối vì có những vấn đề đặc thù
lại bao gồm nhiều lĩnh vực mang tính chất liên ngành, xuyên ngành, có nhiều bài
viết, công trình nghiên cứu, nhiều tác giả đã sử dụng kỹ thuật và phương pháp
nghiên cứu tổng hợp. Tác giả cũng bước đầu khảo sát các thuật ngữ liên quan
đến đối tượng nghiên cứu như: La Thành, Hoàng Thành, Cấm Thành, Phượng
Thành, Long Phượng Thành … là những thuật ngữ thường xuất hiện trong các
nguồn sử liệu từ thời Lý đến thời Lê. Từ những nghiên cứu mang tính tổng quan,
tác giả sẽ triển khai giải quyết các vấn đề nghiên cứu đánh giá cụ thể, chi tiết về
nguồn sử liệu HTTL ở các chương tiếp theo.
1.2.2. Những vấn đề luận án cần tập trung nghiên cứu
Có thể nói rằng, các nhà nghiên cứu từ lâu đã quan tâm tìm hiểu về quy mô,
cấu trúc HTTL thời Lý - Trần - Lê qua các nguồn sử liệu của sử cũ hoặc qua bản đồ
hay qua dấu tích khảo cổ học … Tuy nhiên, việc tập trung tìm hiểu, phân tích các
nguồn sử liệu để đi đến những nhận định về vai trò, chức năng của các công trình
quan trọng trong khu vực HTTL chỉ được tiến hành một cách chi tiết, cụ thể kể từ
khi phát lộ HTTL (2002) cho đến nay. Chính vì thế, Luận án tập trung vào việc kết
hợp sưu tầm, phân tích từ nhiều nguồn, so sánh, đối chiếu giữa các nguồn sử liệu về
quy mô, cấu trúc HTTL thời Lý - Trần - Lê. Tác giả luận án sẽ tiếp tục đi sâu
nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ hơn về quy mô và cấu trúc HTTL trong lịch sử vương
triều Lý - Trần - Lê.
Tiểu kết
Nghiên cứu về Hoàng Thành Thăng Long nói chung và nghiên cứu về quy mô
và cấu trúc của Cấm Thành và Hoàng Thành Thăng Long nói riêng cho đến nay đã
được gần một thế kỷ nếu tính từ các học giả người Pháp. Trước đây, khi nghiên cứu
về quy mô và cấu trúc của HTTL, các nhà nghiên cứu tuy đã cố gắng kết hợp giữa
các nguồn sử liệu với nhau nhằm tìm hiểu về vị trí, cấu trúc, quy mô về HTTL nhưng
kết quả còn hạn chế vì thiếu nguồn sử liệu. Chính vì thế, việc tìm hiểu vị trí trung
tâm của Hoàng Thành và Cấm Thành Thăng Long ở đâu cũng không tránh khỏi sự
võ đoán. Nhiều nhà nghiên cứu Pháp và Việt Nam đoán định Hoàng Thành ở vị trí
37
khu vực Quần Ngựa, có người lại đoán định nó ở khu vực phía Tây của thành Hà
Nội thời Nguyễn… hoặc có người chỉ chú ý dùng sử liệu bản đồ hoặc quan tâm
nhiều đến các di tích tâm linh hiện tồn trên mặt đất để từ đó suy ra vị trí của HTTL…
Công việc nghiên cứu này chỉ được thuận lợi hơn tính từ khi phát lộ khu vực khai
quật khảo cổ 18 Hoàng Diệu (năm 2002) cho tới nay. Tuy nhiên, không phải vì thế
mà việc xác định trục chính tâm - trung tâm quyền lực của mỗi một thời kỳ cụ thể
của mỗi triều đại đã trở lên dễ dàng. Trên thực tế, nhiều công trình, tên gọi được đề
cập trên các nguồn sử liệu chữ nhưng để tìm hiểu về chức năng và vị trí của chúng
trên thực địa như thế nào vẫn là điều hết sức khó khăn, nan giải. Vì thế, nên việc
tổng hợp các kết quả nghiên cứu, các phương pháp nghiên cứu của các nhà nghiên
cứu đi trước là một việc làm hết sức cần thiết. Tác giả luận án nhận thức được rằng,
việc nghiên cứu về quy mô, cấu trúc của HTTL cần phải có sự kết hợp triệt để của
nhiều nguồn sử liệu bên cạnh các nguồn sử liệu như thư tịch, bản đồ, tư liệu dân
gian… còn có thêm nguồn sử liệu từ vật thực. Việc định hướng nghiên cứu về quy
mô và cấu trúc của HTTL từ đây như được “định hướng đúng” bởi những “chỉ dẫn”
của nhiều nguồn sử liệu mới trong đó có sử liệu khảo cổ. Chính vì thế, công việc
nghiên cứu, so sánh các loại sử liệu với nhau như: nghiên cứu so sánh sử liệu vật
thực với vật thực, sử liệu vật thực với sử liệu chữ viết, giữa sử liệu chữ viết với
nhau… và tất cả phải đặt trong một phương pháp liên ngành mới có thể từng bước lý
giải được một số vấn đề về quy mô, cấu trúc của HTTL trong lịch sử.
Từ năm 2002 cho đến nay, thời gian đối với công việc nghiên cứu chưa phải
là dài, hơn nữa nhiều vấn đề khoa học cũng cần phải tiếp tục nghiên cứu, thêm vào
đó là nhiều địa điểm trong khu vực HTTL chưa tiến hành khai quật, do đó các vấn đề
về quy mô, cấu trúc của HTTL vẫn còn cần phải được tiếp tục nghiên cứu trong
tương lai. Tuy nhiên, với những thành quả nghiên cứu của giới khoa học xã hội nói
chung và giới nghiên cứu khảo cổ, sử học nói riêng trong suốt gần hai thập kỷ qua
việc nghiên cứu về HTTL đã đạt được nhiều kết quả vượt bậc so với thời gian trước
đó.
Trong luận án, tác giả đã sử dụng các phương pháp chuyên ngành và phương
38
pháp nghiên cứu liên ngành, nhiều nguồn sử liệu chữ viết và nguồn sử liệu vật thực
đã được tác giả tập hợp, giám định, nghiên cứu, so sánh và đánh giá. Để có điều kiện
nghiên cứu về quy mô, cấu trúc của HTTL được chuyên sâu nên tác giả đã tự giới
hạn tập trung nghiên cứu giai đoạn Lý - Trần - Lê (chủ yếu dừng lại ở thời kỳ Lê Sơ
- Tk XV). Như vậy, luận án có điều kiện đi sâu vào việc nghiên cứu cụ thể của từng
giai đoạn và từng hạng mục các công trình, dõi theo được quá trình hình thành và
phát triển của những công trình này trong Hoàng thành và Cấm Thành Thăng Long.
Kế thừa các thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, kết hợp với những kết
quả của việc khai quật khảo cổ, các tư liệu bi kí, thư tịch cổ mới sưu tầm, nghiên cứu
gần đây, tác giả Luận án tiếp tục nghiên cứu, tập hợp, phân loại, đánh giá các nguồn
sử liệu liên quan đến quy mô và cấu trúc HTTL để từ đó góp phần nhận diện về quy
39
mô, cấu trúc của HTTL trong lịch sử qua các triều đại Lý - Trần - Lê.
Chƣơng 2
PHÂN LOẠI CÁC NGUỒN SỬ LIỆU VỀ QUY MÔ VÀ CẤU TRÚC HOÀNG
THÀNH THĂNG LONG THỜI LÝ - TRẦN - LÊ
2.1. Một số thuật ngữ, khái niệm
2.1.1. Khái niệm sử liệu
Sử liệu là những tư liệu có chứa đựng thông tin lịch sử. Khái niệm sử liệu
được các nhà sử học phương Tây nghiên cứu và đề xuất vào cuối thế kỷ XIX. Tuy
nhiên, cho đến nay đã có nhiều nhà nghiên cứu xây dựng khái niệm với mức độ
rộng và hẹp khác nhau. Sau đây là một số khái niệm:
Trước hết là khái niệm của trường phái thực chứng của hai nhà sử học người Pháp là Charles - Victor - Langlois (1863- 1929)1 và Charles Seignobos (1854- 1942)2 cho rằng: “Lịch sử được viết bằng tư liệu” (history written by documents).
Theo nhà sử học J. Topolski (1920 - 1998) đã nêu ý kiến về quan niệm sử liệu học
của Ch. Langlois và Ch. Seignobos, cho rằng: “Sử liệu là những dấu vết do tư tưởng và hành động của con người từ quá khứ để lại”3. Định nghĩa này nhấn mạnh đến
dấu vết tư tưởng và hành động (vật chất) của con người được coi là sản phẩm của
con người để lại, nó là chất liệu để trên cơ sở đó, nhà sử học làm “chất liệu” để viết
sử. Nhà sử học Ba Lan Handelsman định nghĩa: “Sử liệu là những dấu vết đời sống của con người được duy trì và giữ lại4. Tuy nhiên, ở định nghĩa của nhà sử học
người Ba Lan Handelsman chỉ nói chung chung về những “dấu vết” của con người
được “duy trì” và “lưu giữ” trong cuộc sống mà sau này nhà sử học căn cứ vào đó
để viết sử. Như thế, định nghĩa của Handelsman có nội hàm rộng nhưng lại chung
1 Charle s- Victor - Langlois (1863 - 1929), chuyên gia về lịch sử Cổ trung đại, ông bảo vệ luận án TS năm 1887, từng là GS của các trường Đại học Douai, Đại học Sorbonne, Giám đốc trung tâm Lưu trữ Pháp; Các tác phẩm của ông thuộc chủ đề Lịch sử cổ Trung đại và nền văn minh hiện đại đến thế kỷ XVII. 2 Charles Seignobos (1854 - 1942) từng là GS Đại học Dijon, bảo vệ Luận án TS năm 1881, sau là GS của Đại học Sorborn. Ông chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa Lịch sử của Leopold Non Ranke. Theo Charles Seignobos Lịch sử cần được rút ra khỏi bất kỳ sự suy đoán triết học nào và hướng đến tính tính khách quan tuyệt đối. 3 J. Topolski, Phương pháp luận sử học, H. 1967, bản dịch tiếng Việt, chương Tri thức nguồn. 4 Theo J. Topolski, Phương pháp luận sử học, Hà Nội. 1967, bản dịch tiếng Việt, chương Tri thức nguồn.
40
chung hơn là định nghĩa của hai nhà sử học Ch. Langlois và Ch,Seignobos. Cả hai
nhà sử học người Pháp Ch. Langlois và Ch. Seignobos cũng như nhà sử học Ba Lan
Handelsman đều nhấn mạnh đến yếu tố “dấu vết quá khứ” tức là những bằng chứng,
chứng tích lịch sử nhưng lại có một số điểm khác nhau đó là: Ch. Langlois và Ch.
Seignobos nhấn mạnh đến những gì thuộc về tinh thần và hành động do quá khứ để
lại còn Handelsman lại lưu ý đến những dấu vết của con người được duy trì và lưu
giữ lại. Trên thực tế, trải qua nhiều biến cố lịch sử và qua thời gian, nhiều vấn đề
lịch sử đã bị che lấp, nhiều tư liệu được coi là “bằng chứng”, “dấu vết” bị xóa nhòa
đi không dễ gì có thể tìm thấy và nhà sử học cũng không dễ gì có thể tìm được bằng
chứng xác thực.
+ Định nghĩa sử liệu của Từ điển Bách khoa mở Trung Quốc: “Nguồn gốc,
giá trị và sự vận dụng phương pháp khoa học nghiên cứu sử liệu, là khoa học bổ trợ
của nghiên cứu lịch sử. Nhiệm vụ chủ yếu của sử liệu học chủ nghĩa Mac - Lênin là:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã chỉ ra, từ việc sưu tầm sử liệu, kiểm tra, khảo đính và
biên soạn, đưa ra sự khác nhau về sử liệu, đưa ra những ghi chép chính xác và
những ghi chép khác biệt, xác định được niên đại tuyệt đối và niên đại tương đối.
Nó tuy được nhìn nhận như một sự chỉnh lý và giám định của tư liệu. Nhưng ngoài
ra, nó là một dạng của khoa học lịch sử, nó có đầy đủ, vẹn nguyên của tính giai cấp.
Nó là một ngành khoa học có quan hệ mật thiết với khảo cổ học, văn tự học và khảo cứu học”[318]5.
Định nghĩa của Từ điển Bách khoa mở Trung Quốc đã
đề cập đến đặc tính quan trọng của sử liệu học trong việc giám định tư liệu trong
nghiên cứu đồng thời nó còn có tính liên ngành, quan hệ mật thiết với các ngành
khảo cổ, văn tự học, nó có vai trò trong việc giám định các thông tin nhưng cũng
5 “
”.
41
phải công nhận sử liệu học cũng có tính giai cấp.
Ở Trung Quốc, sách nghiên cứu về Sử liệu học và Lịch sử sử học phát triển
nhiều với thành tựu lớn. Một trong những cuốn sách tiêu biểu về Sử liệu học là tác
phẩm Trung Quốc cổ đại sử sử liệu học của tác giả Trần Cao
Hoa , do Thiên Tân cổ tịch xuất bản xã , 2006, gồm 9
chương trình bày lịch sử sử học trong khoảng thời gian suốt từ thời Cổ đại đến giai
đoạn Cận đại (từ thời Thương, Ân đến đời Thanh) [369]. Kết cấu của quyển sách
nghiên cứu về sử liệu học được trình bày sử liệu theo diễn trình lịch sử lấy nguồn tư
liệu khảo cổ học và thư tịch làm hạt nhân cơ bản. Ở Trung Quốc xuất hiện ít những
công trình nghiên cứu về sử liệu học khi nghiên cứu về một giai đoạn lịch sử dài
xuyên suốt các triều đại trung đại như công trình của Trần Cao Hoa, bên cạnh đó lại
xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu sử liệu về một giai đoạn hay một triều đại
trong lịch sử Trung Quốc như: “Sử liệu học đời Thanh” của Phùng Nhĩ
Khang 冯尔 [370]. Hoặc đối với nhiều ngành khoa học chuyên biệt đã xây dựng
cho lịch sử ngành nguồn sử liệu học riêng như: Triết học có công trình của Trương
Đại Niên (1982): Trung Quốc triết học sử liệu học 张 , của
Chu Khiêm Chi 谦 [374]. Về sử liệu học văn học cổ Trung Quốc
có công trình của Từ Hữu Phú [232] Về sử liệu học của lĩnh vực
Thư học (sự ra đời của thư tịch) có công trình của Trần Chí Bình 陈 với Thư
học sử liệu học 书 [366]…
Trường phái sử học phương Tây phát triển mạnh mẽ tiêu biểu nhất là trường
phái Thực chứng Tk XIX. Ở Trung Quốc trong thời gian này, trường phái khảo
chứng học đời Thanh cũng phát triển và tạo ra được một trào lưu tư tưởng nhưng
chủ yếu chỉ dừng lại trên những khảo chứng về thư tịch, sách vở. Nừa đầu thế kỷ
XX, sử học Việt Nam cũng đã xuất hiện một số công trình sử học tiêu biểu mang
phong cách của trường phái Thực chứng như: một số công trình nghiên cứu của các
học giả Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Xuân Hãn…. Về khái niệm
42
“Thực chứng”, GS. Đào Duy Anh định nghĩa như sau: “Chứng luận: Phái triết học
chủ trương rằng phải lấy sự thực là kinh nghiệm để làm cơ sở cho sự nghiên cứu, họ
bài xích lý luận suông mà tôn trọng thực nghiệm và quan sát. Cũng gọi là thực
nghiệm luận (positivisme). Thực chứng triết học tức là thực chứng luận”[1; 458].
Ở Việt Nam, ngành sử liệu học dường như còn rất non trẻ và cũng rất ít công
trình nghiên cứu về lĩnh vực này, do đó cũng có rất ít những định nghĩa về sử liệu
học. Học giả Nguyễn Văn Tố (1889 - 1947), từng làm việc tại Viện Viễn Đông Bác
Cổ, chuyên gia nghiên cứu về văn học Việt Nam cổ trung đại từng quan niệm: “Sử
liệu là những di tích dùng để chép các việc đã qua trong một nước hay của một
người, như lời chỉ thị, tờ biên bản, giấy truyền đơn, bài nhật báo, bức công văn cùng
những sách chính sử của nhà nước hay lời kỹ thuật của người riêng, cho đến cả câu
ca dao, truyện truyền kỳ hoặc tờ tranh, bức ảnh…”[201; 1]. Khái niệm về sử liệu
của học giả Nguyễn Văn Tố tuy rất cụ thể nhưng thiếu tính khái quát. Nguyễn Văn
Tố đã liệt kê ra nhiều loại hình như giấy tờ, bút tích, các biên bản, truyền đơn, cho
đến các tác phẩm văn học (ca dao, truyện ký), các hiện vật tranh, ảnh… tất cả
những loại hình sử liệu trên mà Nguyễn Văn Tố đã nêu bao gồm các nguồn sử liệu
viết, sử liệu truyền miệng và sử liệu lưu trữ… tuy nhiên, trong tác phẩm của
Nguyễn Văn Tố lại không đề cập đến những nguồn sử liệu khác như: khảo cổ và di
tích, di vật, vật thực. ..
Trong các khái niệm sử liệu, người ta thường nhắc đến các khái niệm “Sử
liệu tiềm năng” và “Sử liệu hiệu quả”. Sử liệu tiềm năng bao gồm nguồn sử liệu đã
biết (trong hiện tại) và nguồn sử liệu sẽ biết (trong tương lai). Nguồn sử liệu hiệu
quả là những nguồn sử liệu đã biết trong hiện tại và nó được sử dụng vào mục đích
nghiên cứu. Vậy, căn cứ vào định nghĩa của Ch. Langlois và Ch. Seignobos được
coi là định nghĩa về sử liệu tiềm năng, còn Handelsman và quan niệm về sử liệu của
Nguyễn Văn Tố được coi là những định nghĩa về sử liệu hiệu quả. Những định
nghĩa của các nhà sử học trên được coi là định nghĩa một vế vì nó chỉ đề cập đến
khái niệm thế nào là sử liệu hoặc chỉ liệt kê sử liệu gồm những gì chứ không đề cập
43
đến công dụng, giá trị của nó.
Định nghĩa hai vế: là định nghĩa không chỉ nêu khái niệm mà còn nêu lên tác
dụng, hiệu quả, giá trị của nguồn sử liệu có giá trị đóng góp gì phục vụ nhận thức
quá khứ, xã hội. Nhà sử học Đức E. Bernheim (1850 - 1942) trong tác phẩm
Phương pháp luận sử học đã viết: Sử liệu là những kết quả hành động của con
người, những kết quả này hoặc từ một ý đồ có trước, hoặc từ bản thân sự tồn tại của
nó, đặc biệt có ích cho nhân thức (lịch sử) và kiểm tra sự kiện lịch sử.
Tuy nhiên, định nghĩa “một vế” và định nghĩa “hai vế” đều được coi là
những định nghĩa chưa đầy đủ bởi nó chưa đề cập đến yếu tố tự nhiên, môi trường
con người sinh sống. Yếu tố địa lý, môi trường do con người sinh sống là một trong
những yếu tố quan trọng, cùng với con người làm nên lịch sử và đặc điểm văn hóa
tộc người. Mọi yếu tố tự nhiên gắn với con người đều có thể trở thành nguồn sử
liệu. Về vấn đề sử liệu học địa lý học nhân văn, đã được các nhà nghiên cứu lịch sử
người Pháp cuối Tk XIX đầu Tk XX đặc biệt quan tâm. Theo Smidt, sử liệu không
chỉ giới hạn ở những “sản phẩm”, “kết quả” hay “dấu tích” mà còn bao gồm cả
những yếu tố tự nhiên, môi trường... vì thế, nội hàm khái niệm của sử liệu đã được
mở rộng biên độ và có mối quan hệ hữu cơ với nhiều ngành không chỉ với khoa học
xã hội và nhân văn mà còn có quan hệ với các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật,
sinh học, động thực vật học...
Trên cơ sở tổng hợp, phân tích những khái niệm, định nghĩa về sử liệu, PGS.
TS Phạm Xuân Hằng, TS Đinh Thị Thùy Hiên trong Giáo trình Đại cương Sử liệu
học và các nguồn sử liệu chữ viết lịch sử Việt Nam đã nhất trí cao với định nghĩa
của C. O. Smidt về sử liệu: “Sử liệu là tất cả những gì mà từ đó khai thác được
thông tin về quá khứ”[61; 32]. Theo các tác giả, tất cả những gì thuộc về tự nhiên
(hay thuộc về con người) mà ở đó có thể khai thác được những thông tin về quá khứ
thì chúng đều được coi là sử liệu. Từ đó, tác giả cho rằng, sử liệu là “Tất cả những
gì thuộc về tự nhiên và xã hội con người mà từ đó có thể khai thác được những
thông tin về lịch sử hoạt động của con người”[61; 32].
Sử liệu luôn luôn tồn tại khách quan và độc lập với con người, nó được sinh
44
ra, để lại qua quá trình lao động với con người và hiện thực cuộc sống, nó phản ánh
chân thực đời sống của con người, cộng đồng, xã hội. Tuy nhiên, để thuận tiện cho
việc nhận thức, các nhà nghiên cứu quy ước chia chức năng sử liệu làm hai dạng:
+ Dạng thức thứ nhất: Những gì thuộc về quá khứ chưa được sử dụng để
nhận thức lịch sử (gọi là T1- (Tiền sử liệu). Chức năng đầu tiên T1 là phục vụ hoạt
động đời sống của con người, đáp ứng đòi hỏi của cuộc sống con người và cộng
đồng. Những “dấu tích” của những hoạt động ấy qua thời gian ít nhiều đều để lại
đến hiện nay như: nhà cửa, lăng mộ, đồ dùng sinh hoạt, thơ văn ... vấn đề là khả
năng khai thác và phát hiện của con người. Tiền sử liệu còn được coi là bản thể
luận, phục vụ hiện thực, một “mảnh”, một “bộ phận” của thực tại quá khứ được lưu
lại một cách khách quan hoặc do sự chủ định của con người có ý thức lưu giữ lại
cho đời sau.
+ Dạng thức thứ hai: Được nhà nghiên cứu sử dụng để khai thác thông tin,
thông tin có giá trị lịch sử (được gọi là T2). Những “mảnh ghép” thông tin của sử
liệu ấy cần được nhà sử học nghiên cứu, soi sáng dưới một thái độ nhãn quan khoa
học, khách quan, trung thực đồng thời cũng đòi hỏi nhà sử học phải có một phông
kiến thức đủ lớn để đặt các “mảnh” sự kiện hoặc hiện vật khách quan ấy trong một
bối cảnh chung của thực tại khách quan đã từng tồn tại trong quá khứ. Như thế, T2
được coi là những giả thuyết (giả định) của nhà nghiên cứu nhưng là những “giả
định” có cơ sở. Nhà sử học càng tìm được nhiều những “mảnh ghép” được coi là
những chứng cứ khoa học để chứng minh cho một nhận thức nào đó như chứng cứ
về chữ viết, chứng cứ về vật thực, chứng cứ về hồi ức hay truyền thuyết dân gian…
tất cả đều có xu hướng thống nhất với nhau, không mâu thuẫn, không triệt tiêu nhau
thì độ tin cậy càng cao. Hay nói cách khác, những thông tin lịch sử được nhà sử học
tìm tòi, khám phá, phát hiện càng nhiều và đều có xu hướng làm rõ một vấn đề gì
đó của sự thật lịch sử đã từng diễn ra trong quá khứ thì càng có sức thuyết phục và
chính xác. Như thế, “độ tụ” của “sử liệu” càng nhiều thì chứng cứ sử học càng có
45
sức thuyết phục và khách quan.
2.1.2. La Thành , thành Đại La , Kinh phủ , Đô hộ phủ
, Cựu kinh
Trong quá trình nghiên cứu các nguồn sử liệu thư tịch, văn bia cổ, chúng tôi
thường gặp các địa danh chỉ khu vực cụ thể của Thành Thăng Long xưa. Có những
địa danh có thể dễ hình dung nhưng ngược lại có nhiều thuật ngữ địa danh khó phân
biệt. Vì thế, muốn hiểu được các địa danh này cần phải đặt trong một bối cảnh cụ
thể. Trước hết là thuật ngữ chỉ vòng thành ngoài cùng - thành Đại La đã được đề
cập đến nhiều lần trong chính sử. Ở đây, khi nghiên cứu về quy mô và Cấu trúc
thường gặp các danh từ như: La Thành, Thành Đại La, Kinh Phủ.
+ La Thành là chỉ vị trí thành bao vòng ngoài. Tên gọi này được nhắc
đến từ thời thuộc Đường khi đó khi đó thuộc An Nam Đô Hộ Phủ: “Đinh Mùi
(767), Đường Đại Lịch năm thứ 2. Bá Nghi lại đắp La Thành để phòng bị. (Xét thấy
Bá Nghi từng làm tướng ở Kinh Nam, nhiều lần bị giặc làm cho cùng quẫn, nhà
Đường phải cho Lý Phục đến giúp đỡ, nay ở An Nam lại phải có Chính Bình cứu
viện mới dẹp yên được nạn quân Đồ Bà, thế là tài lược kém đấy [152; 120].
Sau này, khi Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La
thì La Thành vẫn được sử dụng với vai trò là một trong ba vòng thành, đây
là vòng thành phía ngoài cùng bảo vệ Hoàng Thành và trong cùng là Cấm
Thành . Nếu như tên gọi La Thành là chỉ vòng thành ngoài cùng của kinh
thành Thăng Long thì danh từ thành Đại La là chỉ toàn thể kinh đô (sau này
đổi tên thành Thăng Long). Tên gọi Thành Đại La xuất hiện nhiều lần trong chính
sử, trong các văn bản hành chính thời Lý. Chẳng hạn như bài Chiếu dời đô (Thiên
đô chiếu) đã viết: Huống chi thành Đại La ở vào trung tâm của trời đất (…) [145;
120]. Mùa thu tháng 7, rời đô ra Thăng Long. Vua từ thành Hoa Lư sắm sửa xe
46
rồng đi ra thành Đại La đóng đô, thuyền tạm đỗ dươi chân thành, có rồng vàng
hiện ra ở thuyền vua, vì thế đổi tên thành là Thăng Long (nghĩa là rồng bay) [152;
194].
Mặc dù đã đổi tên thành Thành Thăng Long nhưng theo thói quen các sử
thần đôi khi vẫn gọi là Thành Thăng Long theo tên gọi cũ là Thành Đại La
. Năm 1154, khi viết về sự kiện hoàng đế ra phía Nam Thành Thăng Long xem
đắp Đàn Nam Giao, chính sử vẫn dùng tên gọi là thành Đại La: “Giáp Tuất (1154),
tháng 9, vua ngự ra cửa Nam Thành Đại La xem đắp Đàn Viên Khâu” (Đàn tế trời
vào tiết Đông chí hàng năm - Tg) [245; 320].
Có khi Thành Đại La (Thăng Long) còn được gọi là “Kinh Phủ” với
nghĩa là tên gọi từ thời thuộc Đường, trung tâm của An Nam Đô Hộ Phủ
: “Canh Tuất (1010) Mùa thu tháng 7, vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh Phủ
ở thành Đại La, tạm đỗ thuyền ở dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự,
nhân đó đổi tên thành gọi là Thành Thăng Long”[145; 241]. Tên gọi Đô Hộ Phủ
còn được đề cập đến trong ĐVSKTT vào năm 1126: “Bính Ngọ (1126). Màu xuân,
tháng giêng, mở Hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội giam ở Đô
Hộ Phủ [145; 294] và năm 1107 trong tác phẩm Việt sử lược: “tháng chạp xây Đô
Hộ Phủ” [215 ;111]. Đến cuối triều Lý, kinh đô Thăng Long còn có một tên gọi
khác nữa là “Cựu Kinh”. Bởi vì, cuối triều Lý, Trần Tự Khánh đã nuôi chí phản lại triều đình nhà Lý, quyết thành lập một kinh đô riêng ở bến Đại Thông6 thành lập
nên một “Tân Kinh” - kinh đô mới theo quy mô giống như ở “Cựu Kinh” - Thăng
Long. VSL chép: “Năm Kỷ Mão, hiệu Kiến Gia năm thứ 9 (1219), Mùa hạ, tháng 6,
(…) Ngày Ất Sửu, vua ngự ra bến Triều Đông ở Cựu kinh xem chư quân đánh Nộn,
không thắng” [214; 196].
6 Theo chúng tôi, bến Đại Thông - Kinh xưa của Trần Tự Khánh nay thuộc khoảng vào vị trí huyện Thanh Trì và quận Hoàng Mai (ngày nay). Bởi ở đây, xã Quỳnh Đô hiện vẫn còn chùa Đại Thông cổ với những cây cổ thụ vài trăm năm tuổi.
47
2.1. 3. Đại Nội
Khái niệm “Đại Nội” được sử dụng nhiều trong các nguồn sử liệu chính
sử và nguồn sử liệu Phật giáo, trong suốt triều đại nhà Lý và cả triều đại nhà Trần
sau này. Đại Nội là chỉ khu vực vòng trong cùng của khu vực Cấm thành. Đây là
khu dành riêng cho vua của khu vực thiết triều, nghỉ ngơi ngoài ra còn là nơi ở của
những người trong tông thất, Hoàng hậu, Cung nữ. Khái niệm từ “Đại Nội” được đề
cập vào các năm 1045, 1048, 1055, 1063, 1074, 1203. Đại Nội bố trí những hạng
mục công trình gì ?. Qua các thông tin cho thấy, Đại Nội diễn ra rất nhiều các sự
kiện quan trọng. Chúng ta có những sử liệu chắc chắn để hình dung được những
sinh hoạt ở trong Đại Nội - Cấm Thành Thăng Long thời Lý: Nơi đó có dựng bia
vào các năm 1045, 1048 [214; 85]; Nội dung của văn bia ấy ghi về sự kiện gì, rất
tiếc ngày nay không còn giữ được. Có lẽ nó đã bị nhà Trần phá bỏ sau khi triều
Trần thay thế nhà Lý hoặc đã bị giặc Minh phá hủy đầu Tk XV (?). Trong Đại Nội,
ngoài các cung của Vua, Hoàng hậu, Thái tử còn có một số cung khác. Vị trí của
những cung ấy đã được miêu tả như sau: Cung Động Tiên ở phía Đông Đại Nội
[214; 93]. Trong Đại Nội còn có một số chùa như chùa Chân Giáo, Chùa Thánh
Thọ (Cẩm Y Long Hưng Thánh Thọ)… Sách Thiền uyển tập anh còn cho
biết thêm, dưới triều Lý thiền sư Chân Không và một số vị cao tăng còn được vua
Lý Nhân Tông vời vào Đại Nội để nghe giảng kinh và trao đổi Phật pháp: “Thiền sư
Chân Không (1046 - 1100), Sư họ Vương, tên Hải Thiềm. Vua Lý Nhân Tông nghe
tiếng sư, xuống chiếu mời sư vào Đại Nội để giảng kinh Pháp Hoa, thính giả tìm
đến tấp nập”[186; 292 - 293] (Xem Bảng thống kê trong Phụ lục I).
Qua các nguồn sử liệu được ghi chép trong VSL, ĐVSKTT, ĐVSKTT cho
thấy, những địa danh ghi về “Đại Nội” phản ánh nhiều hơn trong bộ sử VSL thời
Trần và ĐVSKTT thời Lê sách ĐVSKTB được biên soạn vào triều đại Tây Sơn ít đề
cập đến các sự kiện xảy ra trong Đại Nội.
48
2.1.4. Thăng Long Thành (Long Thành)
Trong tất cả các tên gọi như: Đô Hộ Phủ , Phủ Đô Hộ , An
Nam Đô Hộ Phủ , Kinh Phủ , Cựu Kinh , Long Thành ,
Đại La … thì tên gọi Thăng Long (Tên đầy đủ là Kinh Thành Thăng
Long) là tên gọi phổ biến và được nhiều người biết nhất. Tên gọi “Kinh thành
Thăng Long” đã nhắc nhớ đến một kỷ niệm đẹp, một hình ảnh đẹp của công cuộc
đại canh tân đất nước, chuyển dời kinh đô từ Hoa Lư ra Đại La: “Canh Tuất (1010)
Mùa thu tháng 7, vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh Phủ ở thành Đại La, tạm đỗ
thuyền ở dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi
là Thành Thăng Long [145; 241]. Tên gọi này còn được dùng nhiều lần trong chính
sử: “Giáp Dần (1014), Đắp thành đất ở bốn mặt Kinh Thành Thăng Long [145;
244]; Giáp Tý, Thuận Thiên năm thứ 15 (1024), sửa chữa Kinh Thành Thăng Long
[145; 247]. Tên gọi Kinh Thành Thăng Long được duy trì cho đến hết thời Lê
Trung hưng (Tk XVIII), chỉ đến khi Nguyễn Huệ chuyển kinh đô về Phú Xuân -
Huế, đặc biệt sau này khi vua Gia Long lên ngôi vua đã chính thức lấy Huế làm
Kinh đô của cả nước thì Thăng Long lại trở thành “Cố đô”, Gia Long đã đổi tên
Thăng Long (với nghĩa rồng bay) trở thành tên gọi Thăng Long (với
nghĩa hưng thịnh), rồi điện Kính Thiên trở thành hành cung Long Thiên
mỗi khi có dịp hoàng đế tuần du Bắc Thành.
2.1.5. Long Trì
Tên gọi “Long Trì” đề cập đến nhiều lần trong các sử liệu, chủ yếu
trong ĐVSKTT. Lần đầu tiên, địa danh “Long Trì” được đề cập vào năm 1010 -
năm định đô và kiến thiết vương triều, nơi thiết triều của vua Lý tại Thăng Long.
Sân Long Trì được đề cập đến cùng với tên gọi của các điện Cao Minh (1010),
49
Tuyên Đức , Diên Phúc (1029), Thiên An (1127). Về tên gọi, sử liệu
cho biết, nếu các điện có thềm rồng thì gọi là “Long Trì” : “Canh Tuất (1010).
Tháng 7, mùa thu (...) Lại xây dựng các cung điện trong Kinh Thành Thăng Long,
phía trước dựng điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả dựng điện Tập
Hiền , bên hữu dựng điện Giảng Võ . Lại mở cửa Phi Long
thông với cung Nghênh Xuân , cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn
, hướng chính Nam dựng điện Cao Minh , đều có thềm rồng (giai viết
Long Trì : đều gọi là Long Trì); sách Cương mục sửa lại là “Giai hữu
Long Trì ” (đều có thềm rồng) (CMCB 2, 10a), trong thềm rồng có hành
lang dẫn ra xung quanh bốn phía. Sau điện Càn Nguyên dựng hai điện Long
An , Long Thụy làm nơi nghỉ của vua [145; 241]. Năm 2029 là năm
có sự sửa chữa, điều chỉnh quy mô của HTTL, trước thềm điện vẫn gọi là “Long
trì”: (…) Bèn sai Hữu ty mở rộng quy mô, nhắm lại phương hướng mà làm lại, đổi
tên là điện Thiên An . Bên tả dựng điện Tuyên Đức , bên hữu dựng
điện Diên Phúc , thềm trước điện goi là Long Trì (thềm rồng). Phía
Đông thềm rồng đặt điện Văn Minh , phía Tây đặt điện Quảng Vũ ,
hai bên tả hữu thềm rồng đặt lầu chuông đối nhau để dân chúng ai có việc kiện tụng
oan uổng thì đánh chuông lên. Bốn xung quanh thềm rồng đều có hành lang để tụ
họp các quan và sáu quân túc vệ. Phía trước làm điện Phụng Thiên , trên điện
dựng lầu Chính Dương làm nơi trông coi tính toán giờ khắc, phía sau làm
50
điện Trường Xuân , trên điện dựng gác Long Đồ làm nơi nghỉ ngơi,
du ngoạn. Bên ngoài đắp một lần thành bao quanh gọi là Long Thành ”[145;
254].
Qua cách giải thích rất rõ của ĐVSKTT cho biết tên gọi “Long Thành”
vào thời điểm sau năm 1029 là cách gọi khác của từ “Đại Nội” - “Cấm Thành
Thăng Long” . Hay nói cách khác, “Long Trì” là một bộ phận
được sự bao bọc của “Long Thành” - Đại Nội - Cấm Thành Thăng Long
thời Lý. Trên sân Long Trì (Thềm rồng), năm 1052, dựng bày chuông để
“người dân ai có điều gì oan ức không kêu lên được thì đánh chuông để tâu lên vua
nghe”[145; 239]. Sân Long Trì - nơi diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của triều đình
như Lễ xuất quân, lễ hội đèn Quảng Chiếu, Lễ ban thưởng … Bên cạnh sân Long
Trì còn có cửa nách để đi thông ra ngoài hoặc ngoài vào (trong điều kiện đường
chính bị đóng lại): “Đinh Mùi (1127). Hoàng Thái Tử lên ngôi trước linh cữu (…)
Lại sai cấm quân cầm binh khí đứng ở dưới điện Thiên An , rồi ra lệnh mở cửa
nách bên hữu, gọi các quan vào Long Trì [145;296] ; Hay ĐVSKTT viết: “Mậu
Thân [1128], tháng 2, ngày Canh Ngọ, vua ngự điện Thiên An xem quốc nhân hội
thề ở Long Trì” [145; 300]… Như thế, Long Trì là một vị trí không gian quan trọng
trước điện chính của nhà vua. Trước sân này thường bố trí đôi rồng chầu trước điện.
Trên sân có bài trí lầu chuông, gác trống để những ai có oan khuất thì đến kêu oạn
buộc vua phải trực tiếp ra xử kiện. Dưới triều Lý và các triều đại phong kiến trở về
sau, sân Long Trì đã diễn ra nhiều sự kiện lịch sử có ý nghĩa trọng đại của vương
triều như Lễ xuất quân, Báo tiệp (Báo thắng trận, thưởng công cho binh sĩ), Hội thề
đầu năm, hội Đèn Quảng Chiếu và nhiều lễ hội khác (Xem Bảng thống kê, bảng 3,
Phụ lục I).
51
2.1.6. Long Thành và Phượng Thành
Danh từ “Long Thành” được đề cập vào năm 1028 với mô tả khá rõ. Ở
đây, bao gồm các điện: Thiên An , Tuyên Đức , Diên Phúc , Văn
Minh , Quảng Vũ , Phụng Tiên , Thần Vũ , Trường Xuân .
Ngoài ra có lầu chuông, có lầu Chính Dương (để xem giờ khắc), Gác Long
Đồ . Bao quanh bên ngoài gọi là Long Thành . Vậy Long Thành ở đây
cũng chính là Cấm thành Thăng Long . Trong khi đó, cũng sách ĐVSKTT,
năm 1028 có đoạn viết về loạn Tam Vương có đề cập đến cả Cấm thành và
Long thành : “Ba Vương là Đông Chinh [Lực], Dực Thánh và Vũ Đức nghe tin
đều đem quân của phủ mình vào phục sẵn trong Cấm Thành. Đông Chinh Vương
phục ở trong Long Thành” [145; 248]. Như thế, có thể thấy trong đoạn văn trên,
Cấm Thành và Long Thành là hai khái niệm khác nhau, không phải là một. Nhưng
trở lại vấn đề, nếu vậy thì Cấm Thành Thăng Long ở thời điểm năm 1028 có bao
gồm những hạng mục công trình điện, gác, sân Long Trì, gác chuông, lầu Chính
Dương không hay nó bao gồm các công trình khác (?). Theo chúng tôi, có lẽ Cấm
Thành và Long Thành thời Lý chỉ là một mà thôi.
Một thuật ngữ địa danh khác cũng thường được nhắc đến trong chính sử:
“Phượng Thành” . Phượng Thành đề cập đến vào năm 1049 với sự kiện đào
ngòi ở bên ngoài Phượng Thành: “Mùa thu, tháng 8, đào ngòi ngự ở phía ngoài
Phượng Thành, lại đào ao Kim Minh Vạn Tuế . Khi mới đào, trong Ao có
tiếng kêu xoang xoảng, đào lên, được một khối vàng nặng 50 lạng, cho nên đặt tên
đó. Lại đắp núi đá có ba ngọn ở trên ao, xây cầu Vũ Phượng [215; 87], Sự
kiện đào ngòi năm 1074: “Mùa thu, tháng 8, đào ngòi ngự ở phía ngoài Phượng
52
Thành [215;277] . Như vậy, việc đào ngòi ở bên ngoài Phượng Thành nhằm
mục đích bảo vệ cho khu vực Phượng Thành theo môtip thành truyền thống phương
Đông - thành đi liền với trì/ hào/ ngòi để bảo vệ, vừa tạo cho cảnh quan được hài
hòa, điều tiết không khí được thoáng mát. Tên gọi “Phượng Thành” còn được đề
cập đến trong nhiều tác phẩm văn học đời sau. Chẳng hạn đến thời Lê, trong bài thi
Đình nổi tiếng, Trạng nguyên Nguyễn Giản Thanh đã có bài phú mang tên “Phụng
Thành xuân sắc phú” vào năm Đoan Khánh 1508. Theo tác giả luận
án, Phượng Thành tức là Hoàng Thành Thăng Long.
2.1.7. Cấm Đình:
Cấm Đình là một khu vực quan trọng bậc nhất. Theo ý nghĩa trực tiếp
của chữ “Cấm Đình” - có ý nghĩa là sân cấm (của nhà vua) nhưng ở đây, nó
không chỉ với một nghĩa là “Cái (sân Cấm) của nhà vua” mà nó còn có nghĩa là chỗ
thiết triều, mở rộng ý nghĩa của từ này, đây còn có ý chỉ nơi sinh hoạt của nhà vua
và hoàng tộc. Đây là nơi thâm nghiêm nhất và được canh phòng cẩn mật nhất.
Nhiều việc quốc gia đại sự của triều đình được nhà vua, hoàng tộc và các vị quan
đại thần bàn bạc, quyết định. Cấm Đình được đề cập đến vào các năm 1074, 1111,
1148, 1150, 1224. Vào đầu triều Lý, dường như không có các thông tin về việc giữ
gìn an ninh ở Cấm Đình [215; 106 - 112]. Người dân có thể tự ý vào trong sân Long
Trì, trước điện của nhà vua để đánh trống, đánh chuông kêu oan đòi hỏi nhà vua
hoặc Hữu Ty ra xử. Nhưng từ giữa thời Lý trở đi, tình hình triều chính có sự phức
tạp, anh ninh không được yên ổn, vì thế, mới có những luật cấm không ai được tự ý
ra vào nơi Cấm Đình. Bộ Hình luật của nhà Lý hiện nay không còn nên không biết
rõ được những luật cấm ở trong Cấm Đình nhưng qua các đoạn chính sử, có thể
thấy, sự lên án của những vị quan đã phạm lỗi vào Cấm Đình là một tội rất nặng:
“Canh Ngọ (1150) (...) Anh Vũ mật tâu với vua rằng; “Trước kia bọ Vũ Đái tự tiện
đem Cấm quân xông vào Cấm Đình, tội ấy không gì to bằng, nếu không sớm trừng
trị, sợ một ngày kia sinh biến, không thể lường được” [145; 319]. Nhà sử học Lê
53
Văn Hưu đã lên án Đỗ Anh Vũ: “Đỗ Anh Vũ ra vào Cấm Đình, tư thông với Mẫu
Hậu, không tội gì to bằng” [145; 319]. Sách VSL cũng ghi tội đem quân vào Cấm
Đình cũng là một trọng tội: “Mậu Thìn, hiệu Đại Định năm thứ 9 (1148). Đỗ Anh
Vũ nói với vua: Trước đây, bọn Đái tự tiện đem binh vào Cấm Đình, tội chúng
không gì to bằng, xin trừ đi [215; 143].
Cuối triều Lý, quyền bính nằm hết vào tay của Trần Thủ Độ. Trần Thủ Độ
nắm giữ quân đội bảo vệ trong Cấm Đình: “Giáp Thân (1224) (...) Bệnh của vua
ngày càng tăng mà không có con trai nối nghiệp lớn, các công chúa đều được chia
các lộ làm ấp thang mộc, ủy nhiệm cho một mình chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh
các quân Điện Tiền Hộ Vệ ở Cấm Đình [145; 338].
Cấm Đình là trung tâm và là nơi cần phải được bảo vệ nghiêm ngặt vì nơi
đây là chỗ làm việc và nơi sinh hoạt của vua và tôn thất. Chính vì thế, dưới triều Lý
đã trở thành một chốn thâm nghiêm. Theo chúng tôi, đây có thể là tên gọi khác của
Cấm Thành và Cấm Nội (xem bảng 5, phụ lục I).
2.1.8. Cấm Thành , Cấm Nội , Cung Cấm
Cũng như Cấm Đình , Cấm Thành , Cấm Nội và Cung Cấm
là chỉ nơi tối tôn nghiêm. Tuy nhiên, với các vấn đề được quy định đối với
Cấm Đình cũng còn nhiều chỗ chưa rõ. Vậy muốn rõ hơn về chức năng, cấu trúc,
quy mô, chúng tôi tạm bóc tách từng địa danh gắn với chức năng để tìm hiểu từng
đối tượng. Sau đó mới có cách nhìn khái quát. Vậy trong “Cấm Thành” có đơn vị
bảo vệ ra sao, được bố trí như thế nào. ĐVSKTB cho biết: Đơn vị bảo vệ Cấm
Thành chia làm hai bên tả hữu để bảo vệ: “Tháng 11 năm (1024): Đặt 10 Điện Tiền
Cấm Quân: Một là Quảng Thánh , hai là Quảng Vũ , ba là Ngự Long
7, năm là Trừng Hải; Mỗi vệ đều chia làm tả, hữu trực ở
, bốn là Bổng Nhật
nhà xung quanh để bảo vệ trong Cấm Thành; gọi tóm tắt là 10 vệ” [152; 210]. Số
7 Chữ
có 2 âm đọc: Bổng Nhật và Phủng Nhật.
54
quân bảo vệ Cấm Thành lên đến 10 vệ có lẽ đây cũng là một lực lượng đông đảo và
mang tính chuyên nghiệp. Cấm Thành thời Lý không bao gồm những công trình gì (?). Trong chính sử không ghi rõ nhưng qua mô tả của VSL qua sự kiện năm 11378 và năm 12149 cho biết Cấm Thành không bao gồm Đình Trà và Cung Thái Thanh -
Cung dành cho Đạo sĩ và cung nữ Chiêm Thành.
Cung Cấm cũng có những quy định chặt chẽ, không ai được tự ý tụ họp ở
trong cung: “Mậu Thìn, hiệu Đại Định thứ 9 (1148). Năm đó, cấm bọn quan thị
canh cửa không được tự tiện vào Cung, các quan ở triều không được đi lại trong nhà
các vương hầu, những người nào phạm vào địa phận của Đô Phụng Vệ bị phạt 80
trượng, ai đi vào trong hành lang bị tội chết [215;146]. Sách ĐVSKTT chép về luật lệ trong Cung cấm với nội dung cụ thể và chi tiết hơn VSL10. Qua sách Toàn thư
cũng cho biết cuối triều Trần, những người gia thuộc của các quan cũng không được
ở trong cung cấm kể cả con cháu của Trần Thủ Độ - người có ảnh hưởng và chi
phối trên nhiều phương diện cuối triều Lý, đầu Trần. Chỉ đến khi, trước cuộc đảo
chính lên ngôi của Trần Cảnh, để an toàn cho những người thân trong gia đình, Thủ
Độ mới cho người thân vào trong cung cấm để được an toàn [145; 339].
Có thể nói, Cấm Thành, (Cấm Nội/Cấm Đình/ Cung Cấm) thời Lý đều là chỉ
vị trí khu vực trong cùng nơi vua, hoàng tộc làm việc và nghỉ ngơi, nơi này được
bảo vệ rất cẩn mật đặc biệt là từ nửa cuối Tk XII trở đi, đã được chính sử ghi lại khá
đầy đủ. Nếu như đầu thời Lý, vương triều mới kiến lập, tình hình chưa phức tạp
nhiều, đặc biệt về cuối triều Lý, tình hình chiến tranh giữa các phe phái ngày càng
bộ lộ rõ, mâu thuẫn lên cao, vì thế, vấn đề bảo vệ nhà vua, hoàng tộc và các quan
8 Năm Đinh Tỵ, hiệu Thiên Chương Bảo Tự năm thứ 5 (1137). Ban đêm rồng vàng từ cung Thái Thanh bay
vào trong Cấm Nội (VSL,2005, tr. 142).
9 Năm Giáp Tuất, hiệu Kiến Gia năm thứ 4 (1214), lúc bấy giờ vua ở Đình Trà, nghe tin các quân đều thất bại, rất sợ hãi, sai xe giá vào Cấm Thành rước Thái Hậu cùng lên thuyền định đi Lạng Châu. Khi đi qua Đại Thất (tức Thái Thất) ở Thiên Đức… (VSL, 2005, tr. 187). 10 ĐVSKTT, 1993: “Canh Ngọ (1150)... Xuống chiếu cấm bọn hoạn quan không được tự tiện vào trong cung, ai phạm thì bị tội chết. Nếu canh giữ không cẩn thận để người khác vào cung cũng bị tội như thế. Cấm các quan trong triều không được đi lại nhà các Vương Hầu, ở trong cung cấm không được hội họp nhau năm, ba người bàn luận chê bai, ai phạm thì trị tội. Kẻ nào phạm việc qua lại bên ngoài phía đầu hành lang chứa khí giới của Đô Phụng Quốc Vệ bị xử 80 trượng, tội đồ; Nếu vào trong hành lang ấy thì xử tử. Lính Phụng Quốc Vệ ở trong hành lang ấy có chiếu chỉ mới được cầm vũ khí giới, không có chiếu chỉ mà tự tiện mang khí giới đi quá ra ngoài phía đầu [hành lang] thì xử tử (ĐVSKTT, (1993), Bản kỷ, quyển IV, kỷ nhà Lý, tờ 9b, bd, tập I, tr. 319).
55
đại thần là một nhiệm vua quan trọng được đặt ra cấp thiết. Đó cũng là lý do tại sao
vào cuối triều Lý, những quy định về nội quy cung cấm được đề ra chặt chẽ và cụ
thể.
2.2. Nguồn sử liệu chữ viết
2.2.1. Nguồn sử liệu từ sử cũ
Mỗi một dân tộc, đất nước, mỗi vương triều hay thể chế chính trị đều có lịch
sử riêng của chính mình. Các đặc điểm về văn hóa, chính trị, kinh tế, phong tục tập
quán… có ảnh hưởng và tác động không nhỏ đến nội dung phản ánh được thể hiện
trong tác phẩm sử học của đất nước ấy, của thể chế ấy. Hay nói cách khác, tác phẩm
sử học phản ánh được đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần và tư tưởng của thời đại.
Những phản ánh đó được thể hiện qua những đánh giá, suy nghĩ khách quan của các
nhà sử học đương thời. Tuy nhiên, do hạn chế về tư tưởng thời đại nên sử học
phong kiến thường rơi vào việc phản ánh những hoạt động của triều đình, của vua,
quan, hoàng tộc mà ít khi phản ánh đời sống thực của đông đảo quần chúng nhân
dân. Hoặc cũng có khi, do phương pháp viết sử truyền thống thường theo thể loại
biên niên dễ dẫn đến việc liệt kê các sự kiện diễn ra trong lịch sử nhiều khi khó
tránh khỏi sự khô khan, rời rạc, thiếu tính khái quát và khi đó khó có thể biết được
tư tưởng, thái độ của nhà sử học. Tuy nhiên, đó là hai mặt của một vấn đề, nếu như
thể loại “sử bình” có điều kiện thể hiện tư tưởng, tình cảm của nhà sử học nhưng lại
dễ dẫn đến việc thể hiện tư tưởng chủ quan của người viết sử. Ngược lại, thể loại
biên niên được viết theo lối biên niên, khô khan rất ít khi thể hiện tình cảm, thái độ
của người viết sử nhưng lại cung cấp cho người đọc nhiều thông tin khách quan.
Bộ lịch sử Việt Nam hoàn chỉnh sớm nhất còn đến hiện nay là bộ Việt Sử
lược (VSL). Tác phẩm được hoàn thành vào cuối thời Trần (khoảng 1377) [215; 6].
Vào thời Lý, theo các tư liệu lịch sử để lại cho biết, trước đó đã có tác phẩm Việt chí
của Đỗ Thiện và Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu (1230 - 1322), Việt Nam thế chí
của Hồ Tông Thốc (? - ?). Tác phẩm Việt Nam thế chí có thể cũng được biên soạn
cùng thời với VSL. Nhưng rất tiếc, ngoài tác phẩm VSL, những tác phẩm trên cho
đến nay đều đã bị thất lạc, chỉ còn tên gọi. Duy việc tìm hiểu tác giả của bộ sách
56
VSL là ai thì cho đến nay chưa có kết quả cuối cùng. Chỉ biết rằng, tác phẩm này
viết về lịch sử Việt Nam từ khởi đầu đến hết triều Lý, với nhiều đặc trưng của Hán
văn Việt Nam với việc kiêng húy thời Trần như chữ “Nguyệt ( ) viết bớt nét; chữ
“Thiên” ( ) viết bớt nét thành chữ “Đại” ( ); chữ Lý ( ) viết thành chữ Nguyễn
( ) ... Như thế, có thể thấy, hơn bất cứ bộ sử nào hiện được biết đến ở Việt Nam,
đây là bộ sử sớm nhất hiện còn.
Nhìn bao quát về nguồn sử liệu ghi về các cung và điện cho thấy, nhìn chung
các tư liệu chính sử như VSL, ĐVSKTT, ĐVSKTB đều có sự thống nhất về các
nguồn sử liệu: Năm ghi, sự kiện, tên điện…Tuy nhiên, có một số chi tiết còn có sự
khác nhau ít nhiều. Chẳng hạn, năm 1020, các tài liệu chính sử đều ghi: Khởi dựng
3 điện, coi chầu ở điện phía trước, 2 điện phía sau nghe chính sự (sách Cương mục
ghi điện phía Tây là điện Giảng Võ). Hay tên gọi của điện Thiên An được sử dụng
trong thời gian dài suốt gần hai thế kỷ, ít nhất từ các năm 1032, trải qua các năm
1056, 1057, 1104, 1128, 1164, 1195, 1222, 1225. Riêng năm 1214 cả ba tài liệu lịch
sử trên đều ghi là điện Đại An. Theo chúng tôi, có khả năng tên điện Thiên An (
) đã bị viết bớt nét thành Đại An ( ) do vào thời Trần đã kiêng húy chữ Thiên
11 Chứng cứ mà PGS Ngô Đức Thọ nêu ra: Cứ liệu 1: Niên hiệu Thiên Thuận (của nhà Lý) được đổi chép là Đại Thuận: Lý Thần Tông có 2 niên hiệu là Thiên Thuận (1228-1132) và Thiên Chương Bảo tự (1133-1138): - Cứ liệu 2: Huyền tích về con chó trắng xuất hiện ở châu Cổ Pháp, Toàn thư ghi tên chùa là chùa Ứng Thiên Tâm (BK1-1a), TUTA kiêng chữ Thiên đổi là Thái, ghi là chùa Ứng Thái Tâm (TUTA,52a) - Cứ liệu 3: Tên cô công chúa con vua Lý Thánh Tông đứng bên cạnh khi vua cha xử kiện, Toàn thư ghi là
Động Thiên công chúa
(BK3), ĐVSL vì kiêng húy chữ Thiên đổi ghi là Động Tiên công chúa
(VSL, Q.2-12a ).
- Cứ liệu 4: Cuối thời Trần có một tên gia nô phạm tội, trốn qua Ai Lao, sau nghe tin quân Minh tìm con cháu họ Trần, y đổi tên là Trần Thiên Bình rồi tìm quân Minh để đầu thú (…) Tuy y chỉ là mạo danh hoàng gia,
nhưng mạo phạm chữ “Thiên
” nên sử liệu thời Trần Hồ thay chữ bằng chữ cận âm là Thiêm
(Trần
Thiêm Bình
).
Do các cứ liệu đã dẫn trên, chúng ta có thể xác định chữ Thiên chỉ dành riêng cho nhà vua và những gì thuộc về vua, dân thường phải kiêng tránh. Một số văn bản thời Trần - Hồ đã thực hiện việc kiêng tránh đó bằng cách đổi dùng chữ (từ) khác (như đổi Thiên thành Đại, thành Thái hoặc đổi Thiên thành Tiên, Thiêm
57
( )11 [188; 872 - 882]. Nhưng điện này là điện dành cho nhà vua nên điện Thiên
An (từ chỉ tôn quý) nên dành cho vua là phù hợp. Có lẽ, đây là viết nhầm do
vô tình. Tên điện Thiên An còn được dùng đến hết triều Lý và triều Trần.
Ngoài ra, tên gọi của một số điện có gần nhau về tự hình Hán tự dẫn đến có
sự nhầm lẫn về tên gọi cũng đã từng đặt ra đối với các nhà nghiên cứu như “điện
Càn Nguyên” ( ) và “điện Triều Nguyên” ( ) . Đây là hai điện hay một
điện ?. Ngoài ra việc định danh tên gọi để tránh lầm lẫn khái niệm cũng là một việc
làm không thể thiếu trong nghiên cứu sử liệu HTTL đặc biệt là những công trình có
tên gọi, khái niệm gần giống nhau như khi nào dùng từ “lầu” ( ), khi nào dùng
“gác” ( ).
Trong tác phẩm VSL đề cập đến nhiều sự kiện lịch sử của vương triều Lý
trong việc xây dựng kiến thiết quốc gia nói chung và việc xây dựng, tu sửa kinh
thành, cung, điện, lầu, gác, ao, vườn, các đàn tế tâm linh... nói riêng. Các sự kiện
trong bộ sử này đã được nhiều nhà sử học đời sau căn cứ vào đây để biên soạn các
bộ chính sử khác.
Ra đời sau bộ VSL (Khuyết danh) đời Trần, ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên và các
sử thần nhà Lê là bộ sự có kế thừa nhiều thành tựu của các bộ sử học trước đó. Tác
phẩm ĐVSKTT đã kế thừa được các bộ sử trước đó như: Sử kí của Đỗ Thiện,
Việt chí của Trần Chu Phổ (biên soạn vào khoảng 1127 và 1233) và trực tiếp
là Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu (biên soạn năm 1272). Đến năm 1377 -
1378, các tác phẩm của Đỗ Thiện và Trần Chu Phổ đã được đổi tên là ĐVSL và bổ
sung thêm bản kỷ triều đại của các vua Trần [145; 17]. Đã có nhiều nhà nghiên cứu
nghiên cứu, đánh giá về giá trị của bộ ĐVSKTT trên nhiều giác độ khoa học [23].
và Thiên
Trong phần mở đầu bộ ĐVSKTT, GS Phan Huy Lê đã khảo cứu công phu trên nhiều
58
khía cạnh tác giả, tác phẩm, văn bản [145; 11- 77]. Nhiều nhà khoa học đã đánh giá (Ngô Đức Thọ, v.v… )(Ngô Đức Thọ (2011): Bổ sung nghiên cứu chữ húy đời Trần Trinh Thông báo Hán Nôm học, tr. 872- 882).
cao công trình tập thể chủ yếu do nhà sử học Ngô Sĩ Liên (Tk XV) và được các nhà
sử học như Phạm Công Trứ (bổ sung thêm năm 1665), Lê Hy (bổ sung năm 1697)
và khắc in ngay năm này. Bộ ĐVSKTT đã bao quát được lịch sử Việt Nam từ khởi
thủy cho đến cuối Tk XVII. Tác phẩm ĐVSKTT được biên soạn theo thể biên niên,
đã cung cấp nhiều nguồn sử liệu phong phú đặc biệt từ triều đại nhà Trần trở về sau.
Bộ quốc sử này, đã cung cấp nhiều nguồn sử liệu khách quan, tin cậy trên
nhiều lĩnh vực về kinh tế, xã hội, văn hóa, tôn giáo đương thời. Tác phẩm cũng
cung cấp nhiều tư liệu phong phú cho những hiểu biết về Hoàng Thành Thăng Long
thời Lý, đặc biệt là thời Trần và thời Lê (bao gồm Lê Sơ và Lê Trung hưng). Tác
giả luận án đã thống kê được hàng trăm cung, điện, lầu, gác, cầu, kho, cổng… qua
các lần xây dựng, trùng tu, sửa chữa, hoặc xây mới trong Hoàng Thành và Cấm
Thành Thăng Long qua các triều đại Lý - Trần - Lê. Sử liệu trong ĐVSKTT sẽ là
nguồn tư liệu quý giá cho những nghiên cứu, so sánh với các nguồn sử liệu khác
như bản đồ, văn bia, và so sánh với các tư liệu khảo cổ … Nội dung bộ sử ĐVSKTT
đã được các bộ sử sau như: Đại Việt sử kí tiền biên, Đại Việt sử kí tục biên, và nhiều
công trình nghiên cứu khác dựa vào đó sao chép, dẫn dụng.
+ Đại Việt sử kí tiền biên (ĐVSKTB) của Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) được coi
là một bộ sử có giá trị có sự kế thừa bộ ĐVSKTT. Tác phẩm ĐVSKTB đã bao quát
lịch sử Việt Nam từ khởi thủy đến đầu triều Lê Sơ (1427). Tác phẩm được khắc in
năm Canh Thân (1800). ĐVSKTB được viết theo thể biên niên và cuối mỗi triều đại
hay mỗi sự kiện lịch sử đều có tập hợp những lời bình của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ
Liên, Phan Phu Tiên, và của tác giả (Ngô Thì Sĩ). Qua đây, có thể biết được tình
cảm, thái độ, tư tưởng của nhà sử học thông qua các lời bình. Đặc biệt, các sự kiện
được viết trong ĐVSKTB đã cung cấp nhiều sự kiện của vương triều, của những
sinh hoạt trong hoàng cung Thăng Long thời Lý - Trần. Tuy nhiên, rất nhiều sự
kiện, chi tiết trong bộ sử này được sao chép từ bộ sách ĐVSKTT. Việc sao chép văn
bản từ một tác phẩm, tác giả uy tín không phải là trường hợp đặc biệt đối với riêng
tác phẩm ĐVSKTB mà nó trở thành một đặc điểm chung của các tác phẩm sử học
59
Việt Nam thời trung đại. Tuy nhiên, sự sao chép đó không tuân thủ theo một quy tắc
chặt chẽ, có xuất, có nhập nên việc so sánh văn bản và áp dụng phương pháp thống
kê, đối chiếu sự kiện sẽ là một phương pháp tối ưu để có thể bổ sung giữa các
nguồn sử liệu với nhau hoặc đính chính những lầm lẫn về mặt văn bản.
+ Ngoài các bộ chính sử thời Lý - Trần - Lê được biên soạn bao quát giai
đoạn lịch sử từ thời Trần, Lê sơ, Lê Trung hưng như: VSL, ĐVSKTT, ĐVSKTB, còn
có các công trình sử học khác như Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao Lãng,
Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú có thể bổ sung
thêm nhiều vấn đề của lịch sử Việt Nam thời Lê - Trịnh trong đó có lịch sử, quy mô,
kiến trúc, các sự kiện lịch sử liên quan đến HTTL thời Lê mà các bộ sử trước không
viết tới.
- Lịch triều tạp kỷ (LTTK) là một tác phẩm sử học do một cá nhân
đảm nhiệm. Tác giả là Ngô Cao Lãng sống vào giai đoạn cuối Lê đầu triều Nguyễn.
Hiện nay, tác phẩn có 6 bản chép tay được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm,
thư viện Viện Sử học. LTTK ghi chép trong khoảng thời gian từ khoảng năm 1672
đến hết thời Lê Chiêu Thống (có kèm theo phần phụ lục thời Tây Sơn) được chia
làm 6 quyển. Về thể thức, phương pháp viết sử được viết theo dạng biên niên, đề
cập đến nhiều vấn đề của lịch sử Việt Nam giai đoạn cuối thời Lê Trung hưng trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục …Có thể nói, đây là một bộ sử
cung cấp nhiều nguồn sử liệu quan trọng và về lịch sử Việt Nam Tk XVII, XVIII
mà các bộ sử Đại Việt sử kí tục biên không đề cập đến. Đặc biệt có
nhiều chi tiết nói về những sự kiện vua Lê Chiêu Thống cho người đốt phá các
công trình kiến trúc trong phủ Chúa Trịnh và việc tổ chức những kỳ thi tuyển chọn
nhân tài bậc cao trong HTTL thời Lê [102; 12;13] .
+ Việt sử thông giám cương mục [147] là một trong những bộ
sử lớn nhất triều Nguyễn do Quốc Sử quán biên soạn đứng đầu là Tổng tài Phan
Thanh Giản phụ trách, đồng thời là bộ sử lớn thứ 2 trong lịch sử Việt Nam sau
60
ĐVSKTT. KĐVSTGCM được Quốc sử quán triều Nguyễn hoàn thành năm 1859 và
được kiểm định, duyệt định, hiệu đính vào các năm 1871, 1872, 1876, 1878, chính
thức cho khắc in năm 1884 gồm 53 quyển (trong đó có 3 quyển nhà Lý, 5 quyển
nhà Trần và 37 quyển về nhà Lê). KĐVSTGCM phần viết về các triều đại nhà Lý,
nhà Trần tuy còn có hạn chế bị đánh giá là sơ sài nhưng đã tiếp thu nhiều đoạn sử
trong ĐVSKTT. Đặc biệt sau mỗi phần có “cương”, có “mục” lại có cả phần ghi
“Lời phê”, “Lời cẩn án” và “Lời chua”. Ở các phần này đã thể hiện rõ quan niệm,
tinh thần phê phán sử liệu của người viết sử. Hoặc trong tập KĐVSTGCM, Chính
biên, Q 23 ghi về một số hạng mục các công trình kiến trúc thời Lê như: đắp thêm
Kinh Thành Thăng Long, làm cung Trường Lạc, Đãi Lậu viện...
Mục đắp thêm Thành Thăng Long: “Tháng 11, sửa đắp Kinh Thành thêm
rộng ra. Nhà vua răn sợ việc loạn đời Diên Ninh, bắt sĩ tốt sửa đắp Kinh Thành dài
rộng 8 dặm, đắp 8 tháng mới hoàn thành, bèn dựng điện Thạch Thất, lập vườn
Thượng Lâm để nuôi bách thú [147; 45]. Hoặc ghi về cung Trường Lạc nơi ở của
Quý Phi Nguyễn Thị Hoàng Thái Hậu như sau: “Hoàng Thái Hậu, người làng Gia
Miêu ngoại trang, huyện Tống Sơn, là con gái Thái úy Trịnh quốc công Nguyễn
Đức Trung. Năm Quang Thuận thứ nhất (1460) được tuyển vào chầu trong cung,
phong là Sùng Nghi, ở cung Vĩnh Ninh; tháng 8 năm Quang Thuận thứ 2 (1461)
sinh nhà vua, năm Hồng Đức thứ nhất (1470) sách lập làm Quý Phi. Đến nay tôn
làm Hoàng Thái Hậu, ở cung Trường Lạc” [147; 54]. Hoặc sự kiện làm Đại Lậu
viện trước của Đại Hưng - cửa chính vào HTTL cũng được miêu tả như sau: “Tháng
5, mùa hạ, sửa viện Đãi Lậu. Trước kia, Thái tổ dựng viện Đãi Lậu ở ngoài cửa
Tây; Thánh Tông dựng thêm hai dãy nhà ở ngoài cửa Đại Hưng, đến nay nhà vua
ra đặc lệnh cho quân Ngũ Phủ dựng hai dãy nhà ở ngoài cửa Đại Hưng làm viện
Đãi Lậu, mỗi dãy ba gian, để làm chỗ cho các quan làm chỗ chờ đợi giờ khắc trước
lúc sắp tiến vào triều đường” [147; l55].
Về sự kiện này, sách VSTGCM đã lấy hoàn toàn sự kiện của năm Đinh Tỵ
(1497), Bản kỷ thực lục, quyển 13, tờ 85a trong ĐVSKTT nhưng có thêm bớt vài từ.
Chẳng hạn bớt mấy từ: “Thái Tông, Nhân Tông đều nhân theo đó” hoặc
61
KĐVSTGCM đã thêm mấy từ mà trong sách ĐVSKTT không có nhằm giải thích cho
rõ thêm công năng, tác dụng của Đãi Lậu viện: “để làm chỗ cho các quan làm chỗ
chờ đợi giờ khắc trước lúc sắp tiến vào triều đường [145; 526]. Từ những dẫn
chứng trên đã chỉ ra, khi viết về HTTL, các soạn giả bộ sách KĐVSTGCM, đã lấy
hầu như căn bản các chi tiết trong ĐVSKTT nhưng có giản lược hoặc thêm bớt một
số từ. Chính vì thế, việc sử dụng và đối chiếu giữa các văn bản là một việc làm
quan trọng, các văn bản có giá trị bổ sung cho nhau, văn bản ra đời tuy muộn nhưng
cũng có giá trị tham khảo.
+ Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) là công trình
khá đồ sộ do nhà sử học Phan Huy Chú đảm nhiệm, biên soạn hoàn thành vào đầu
triều Nguyễn. Bộ sách được chia làm 10 quyển: Q1: Dư địa chí; Q2 Nhân Vật chí;
Q3: Quan chức chí; Q4: Lễ nghi chí; Q5: Khoa mục chí; Q6: Quốc dụng chí; Q7:
Hình luật chí; Q8: Binh chế chí; Q9: Văn tịch chí; Q10: Bang giao chí. Tác phẩm
đã tập hợp nhiều tư liệu quý, đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Riêng thông tin
về HTTL cũng được phản ánh tuy không nhiều, có phần rải rác trong nhiều mục của
bộ sách. Chẳng hạn như phần Nhân vật chí có ghi mục Chiêu Thống đế năm 1787
sau sự kiện đánh nhau với Tây Sơn: (...) Tướng Tây Sơn lui tránh, vua lấy lại nước,
về Thành Thăng Long” [18; 175]. Hoặc phần Bang giao chí, phần Nghi lễ tiếp đãi
(sứ thần) trong đó có chép lại việc sứ thần nhà Nguyên tên là Sài Thung (Sài
Xuân ) vào Thành Thăng Long qua các cửa nào, các điện, gác nào và được
triều đình đón tiếp ra sao ... Hoặc cũng trong LTHCLC ghi sự kiện niên hiệu Cảnh
Thống thứ 3 (1500), hoàng đế tiếp sứ giả Từ Ngọc nhà Minh đến HTTL, sứ giả đến
các điện Kính Thiên , Cần Chánh như sau: “... Vua đến điện Quỳnh
Vân tiếp kiến. Vua về cung trước, Từ Ngọc đến điện Cần Chánh làm lễ tế
Thánh Tông. Tế xong, vua cùng Từ Ngọc làm lễ tương kiến, rồi sai các quan đưa
(sứ giả) đến sứ quán. Ngày 27, bọn Lương Chừ đến điện Kính Thiên làm lễ
62
khai độc chiếu thư. Lễ xong, vua đến điện Cần Chánh làm lễ tương kiến. Ngày 29
Lương Chừ bị bệnh, vua đến sứ quán hỏi thăm. Ngày hôm ấy thết yến bọn Lương
Chừ ở điện Cần Chánh, tặng vàng bạc và tơ lụa, mỗi người mỗi khác. Họ đều cố từ
không nhận” [18;185].
Đoạn trên miêu tả về việc đón tiếp sứ giả nhà Minh ở các điện Cần Chánh,
Kính Thiên. Tuy nhiên, xét về mặt văn bản có sự khác nhau ít nhiều. Sách ĐVSKTT
ghi tên của sứ giả là “Lương Trừ” ( ), trong khi đó sách LTHCLC dịch là
“Lương Chừ”, địa danh trạm “Lữ/Lã Khôi” (ĐVSKTT) thì trong LTHCLC là
“Lữ/Lã Côi” . Hoặc có sự sai lệch về niên đại, năm tiếp sứ giả Trung Hoa tên là
Lường Trừ , Vương Chẩn , Từ Ngọc (TQ) theo ĐVSKTT là tháng 9
năm Kỷ Mùi, Cảnh Thống thứ 2 (1499) trong khi đó sách LTHCLC lại ghi tháng 12
năm Cảnh Thống 3 (1500). Sách LTHCLC đã ghi vắn tắt sự kiện tiếp đãi sứ giả tại
HTTL mà không chép nội dung chiếu thư trong khi đó sách ĐVSKTT lại chép đầy
đủ [145; 21 - 22]. Tuy nhiên, cả các sách trên đều cho biết công năng của các điện
đương thời như điện Cần Chánh là nơi thờ Lê Thánh Tông đồng thời nơi tiếp sứ
khách, ban yến tiệc còn điện Kính Thiên dành cho nghi lễ ngoại giao đọc chiếu thư.
Tuy rằng, các phần này chỉ là tiếp thu ở các công trình khác như ĐVSKTT,
nhưng qua đó một lần nữa góp phần khẳng định các nguồn sử liệu trong ĐVSKTT
được coi là bản gần với sự kiện phản ánh đương thời nhất và các bản sau chép trong
sách LTHCLC cũng là tư liệu chính xác, tin cậy.
2.2.2. Nguồn thƣ tịch cổ khác
Nguồn sử liệu thư tịch cổ về Thăng Long Hà Nội là các trước tác của các thi
nhân, sĩ phu đương thời ca ngợi cảnh sắc Thăng Long Hà Nội. Phạm vi nội dung đề
cập đến nhiều danh lam thắng cảnh, trên một địa bàn rộng nhưng chúng tôi đặc biệt
chú ý đến các điểm di tích liên quan đến HTTL như: Ngũ Môn (tiếng chuông
63
trên gác Đoan Môn), Ngũ Môn cẩn nhật (xem mặt trời ở gác Đoan Môn),
chùa Một Cột , đình Khán Sơn … là những địa điểm có ảnh hưởng
trực tiếp đến cảnh quan của HTTL.
Thiền uyển tập anh TUTA là một tác phẩm văn học Phật giáo đời
Trần có giá trị trên nhiều mặt về sử học, văn học, Phật học, lịch sử tư tưởng Việt
Nam. Tác giả của tập sách này cho đến nay là ai vẫn chưa có kết luận xác đáng.
Theo GS Lê Mạnh Thát, TUTA được hoàn thành vào năm 1337 [186; 72]. Trong tác
phẩm TUTA tuy không trực tiếp đề cập đến những công trình kiến trúc, công trình
xây dựng trong HTTL nhưng có đề cập đến nhiều nhà sư trụ trì nhiều ngôi chùa
trong Cấm Thành Thăng Long như sư Biện Tài, Tăng Thống ở chùa Vạn Tuế, sư
Tịnh Giới ở chùa Báo Thiên, sư Thường Chiếu làm quan Lệnh Đô ở cung Quảng
Từ, sư Chân Không được vua Lý Nhân Tông mời vào Đại Nội giảng Kinh [186;
190, 230, 278, 292, 478]... Nguồn sử liệu trên tuy không trực tiếp thông tin về
Hoàng Thành Thăng Long nhưng cũng gián tiếp phản ánh về số lượng các chùa
trong Đại nội của HTTL .
Trong một số tác phẩm của các nhân vật trí thức thời Trần cũng từng phản
ánh về hình ảnh cảnh quan, các công trình trong HTTL như thơ của Thiền sư thi sĩ
Huyền Quang, thơ của quan Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán… Bài thơ Cửu nguyệt
đối cúc canh ngự chế thi vận (Bài thơ ngắm cúc tháng chín,
họa lại thơ của Hoàng đế của Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán có câu:
Vụ tẩy yên hoa mãn Cấm Thành
Hoàng hoa thời tiết hảo thu thành
(Sương mù tan, khói và hoa đầy cả trong Cấm Thành
Mùa hoa cúc trong tiết thu đẹp) [128; 150]
Qua đó, cho biết trong Cấm Thành Thăng Long thời Trần trồng đầy hoa cúc
64
rất đẹp và nên thơ.
Hay bài thơ Diên Hựu tự của Thi sĩ - Thiền sư Huyền Quang miêu tả
về cảnh chùa Diên Hựu cùng hai ngọn tháp trắng ở phía Tây của Cấm thành Thăng
Long:
“Xi Vẫn” đảo miên phương kính lãnh
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn
(Bóng “Xi Vẫn” nằm ngủ ngược dưới mặt hồ như tấm gương soi lạnh giá
Hai ngọn tháp đứng song song như ngón tay ngọc trong rét buốt).
Câu thơ không chỉ đề cập đến hai ngọn tháp (Song tháp) mà còn có cả mặt
hồ in bóng ngọn tháp lung linh. Hồ ở đây hẳn phải là hồ Linh Chiểu đã được đề cập
đến trong văn bia chùa Sùng Thiện Diên Linh (núi Long Đọi - Hà Nam) Tk XII và
hiện vật trang trí trên nóc mái trong bài thơ là những con “Xi Vẫn”, “Xi Vỹ” hoặc
những hình tượng Uyên ương khá quen thuộc trong các kiến trúc cổ mà các nhà
khảo cổ đã phát hiện được nhiều trong các công trình khai quật thời Lý - Trần.
Sau thời Lý - Trần, nhiều tác phẩm thư tịch có đề cập đến các công trình
trong HTTL và Cấm Thành Thăng Long, tiêu biểu hơn cả là tác phẩm Vân đài loại
ngữ. Vân đài loại ngữ (VĐLN) của Bảng nhãn Lê Quý Đôn (1726 - 1784)
là một công trình trước thuật đồ sộ do một cá nhân đảm nhiệm. Tập sách gồm 4
quyển, chia làm 9 mục, mỗi mục lại có nhiều điều đề cập đến nhiều lĩnh vực khác
nhau như: Ngôn ngữ, văn học, sản vật, địa dư, ... Tác giả đã tập hợp nhiều sử liệu
của đời trước và đương thời để biên soạn. Đây là công trình có giá trị và được nhiều
nhà nghiên cứu đương thời và hậu thế đánh giá cao. Phần liên quan đến HTTL tuy
không nhiều nhưng qua phần Phẩm vật (300 điều) có ghi về chùa Diên Hựu ở phía
Tây của Thành Thăng Long. Lê Quý Đôn đương thời cũng đã truy tìm về nguồn sử
liệu có trước thời ông bảy tám trăm năm qua tấm bia Long Đọi sơn Sùng Thiện Diên
65
Linh tháp bi Bia tháp Sùng Thiện Diên Linh trên núi Long
Đọi: “Ở nước ta, phía Tây Đô thành, có chùa Diên Hựu, năm Long Phù thứ Nhất,
đời Lý (1101) trùng tu lại, cũng chỉ có một cột. Xem bài văn bia tháp Sùng Thiện
Diên Linh ở Đội Sơn (núi Đọi - Hà Nam), có mấy câu này: “Hướng
Tây cấm chi danh viên, xưởng Diên Hựu chi pháp tự...
” [34; 129 - 131]. Đoạn trích trên bia Sùng Thiện đã nói về vị trí của chùa bên
cạnh HTTL và các tục tắm tượng, kiến trúc Liên Hoa đài và Hội đèn Quảng Chiếu
rất độc đáo ở Thăng Long thời Lý. Ngoài ra, trong phần Phẩm vật , tác giả
cũng cung cấp tư liệu về tên gọi thế nào là thềm, thế nào là hành lang cũng như quy
chế quy định chế độ nhà cửa của các quan triều Minh (Trung Quốc) [34; 129 -
131]...
+ Sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn là một công trình nổi
tiếng được nhiều học giả đời sau sử dụng. Tên gọi của quyển sách cho biết phương
pháp biên soạn của tác giả là: Ghi chép những điều mắt thấy, tai nghe. Sách có 12
phần tương đương với 12 quyển gồm: Châm cảnh, Thể lệ thượng, Thể lệ hạ, Thiên
chương, Tài phẩm, Phong vực thượng, Phong vực hạ, Thiền dật, Linh tích, Phương
thuật, Tùng đàm. Cuốn sách đề cập đến nhiều lĩnh vực nên những sự kiện ghi chép
về HTTL không nhiều và có phần tản mát. Đôi khi có vài chi tiết nhỏ đề cập đến
trong phần lễ nghi, Thể lệ đương thời như: Lễ mừng thọ ở điện Cần Chánh, điện
Vạn Thọ (Thể lệ thượng); Khi vào cung điện thì phải trút giày ra (Thể lệ về phong
tục) [35; 79 - 80 ]. Hay trong chương Thiền dật, Lê Quý Đôn cũng cho biết việc an
trí xá lợi Phật Hoàng Trần Nhân Tông ở trong HTTL: “Lúc Nhân Tông tịch ở am
Ngọa Vân, nhà sư phụng xá lỵ vào yên trí ở Đại Nội. (Việc này có chép rõ trong
Quốc sử) [35; 468].
Trong phần Thể lệ về lễ nghi ghi trong sách Kiến văn tiểu lục (KVTL) ghi về
điện Kính Thiên và chức năng, công năng thời Lê Sơ và Lê Trung hưng như sau:
“Điện Kính Thiên, triều trước dùng làm nơi vua thị triều, từ đời Trung hưng trở về
66
sau, ở đây đặt bài vị thờ trời đất, nên Thị Triều ở cửa điện Kính Thiên, mỗi năm gặp
ngày đầu năm hoặc có việc cầu đảo, hoàng đế ngự ở Nội điện để hành lễ (Hoàng đế
chỉ vua Lê). Sau khi Trung hưng, Hoàng đế lên ngôi, làm lễ kính tế trời đất, đặt
hương án riêng ở phía Đông Đan Trì điện Kính Thiên, Hoàng đế đội mũ xung thiên,
mặc áo màu huyền, hành lễ trước hương án, trăm quan bồi bái như nghi lễ Tế Giao [
35; 59 - 60].
- Sách Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ - Nguyễn Án
(biên soạn) gồm 2 phần: Quyển Thượng và Quyển Hạ ghi về những nhân vật và lịch
sử, di tích của Việt Nam từ thời cổ cho đến đương thời. Về những sự kiện liên quan
đến HTTL tuy không nhiều, không trực tiếp đề cập đến HTTL, tuy vậy vẫn có một
số chi tiết liên quan đến khu vực này như: Cái miếu cổ ở cửa Đông Hoa ,
có học trò là Khởi Trương - học sinh Trường Giám đã tham gia cuốc đất đắp thành
[65; 137- 138]... hoặc mục Tháp Báo Thiên ở Kinh đô Thăng Long có ghi:
Năm Giáp Dần (1794), đắp đất lấy những gạch đá nền tháp để tu bổ Thành Thăng
Long [65; 202- 203]. Qua sách Tang thương ngẫu lục đã cho biết một phần gạch
xây Thành Thăng Long được lấy từ tháp Báo Thiên.
Thăng Long tam thập vịnh có 4 bản viết, chữ Hán, 2 bản
Microfilm. A.1804: 30 tr., 28 x 17.; A.1617: 28 tr., 29 x 16.; A.2548: 20 tr., khổ
sách 20 x 14; 2501: 16 tr, khổ sách 24 x 14; Bản Microfilm: MF.3258 (A.1804),
MF.1522 [236; kí hiệu A.1617].
Trong Thăng Long tam thập vịnh có 30 bài thơ miêu tả phong cảnh Thăng
Long - Hà Nội xưa như: Xem vua qua cửa Ngọ Môn (Ngũ Môn cẩn nhật ),
Cảnh chiều chùa Một Cột (nhất trụ thê hà ), Tiếng trống chuyển canh trên
chòi gác (Lâu cổ chuyển canh )… Trong những cảnh đẹp nổi tiếng trên
của Thăng Long, thông tin trực tiếp đề cập đến Tiếng trống chuyển canh trên chòi
67
gác (Lâu cổ chuyển canh) và bài Xem mặt trời ở gác Đoan Môn (Đoan Môn cẩn
nhật ) phản ánh về không gian ở Hoàng Thành và Cấm Thành Thăng
Long (236]...
Dựa vào các nguồn sử liệu có thể khẳng định vào thời Lê, trên lầu Đoan Môn
trong Hoàng Thành Thăng Long có bài trí chuông và trống dùng để báo giờ trong
trong Hoàng Thành và Kinh Thành. Tiếng chuông vang xa tận bến Thanh Trì còn
nghe rõ. Ngoài ra, năm 2015, tác giả cùng đoàn khảo sát, nghiên cứu lịch sử đến
chùa Sùng Nghiêm , thôn Duy Tinh , xã Do Trường
(nay là xã
Văn Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa) đã phát hiện quả chuông tại chùa, niên
đại Gia Long (1802 - 1819) ghi bà Hoàng Thị Châu từng cung tiến quả
chuông treo ở Đoan Môn, Hoàng Thành Thăng Long12. Như thế, có thể kiểm chứng
nguồn sử liệu ghi về những chi tiết bài trí trống, chuông ở trong Đoan Môn tại
Hoàng Thành Thăng Long cuối Lê đầu Nguyễn là khá chính xác và tin cậy.
Thăng Long Thành hoài cổ thập tứ thủ do Vũ Như Phan
sáng tác, TS. Nguyễn Văn Lý hiệu Đông Tác điểm duyệt.
Trong sách có 1 bản viết, 18 trang khổ sách 26 x 15 cm, [237; Kí hiệu A.1666].
Tập thơ gồm 14 bài thơ vịnh phong cảnh Thành Thăng Long (Hà Nội): sông
Tô, chùa Quảng Bá, Hồ Tây, Hồ Hoàn Kiếm, Đền Ngọc Sơn, Miếu Hai Bà Trưng,
Gò Đống Đa v.v. Nội dung đề cập đến nhiều danh lam thắng cảnh trên đất Thăng
Long nhưng không có bài nào trực tiếp mô tả về các công trình và không gian trong
Hoàng Thành và Cấm Thành Thăng Long thời Lê.
Thăng Long thập cửu vịnh , tác phẩm có 1 bản viết, có 18 tr, khổ
sách 26 x 15; kí hiệu A.1604.
Tập sách gồm 19 bài thơ vịnh cảnh Thăng Long (Hà Nội) trong đó có một số
bài về cảnh đẹp xung quanh Hoàng Thành Thăng Long như: Phong cảnh Tây Hồ,
68
tiếng sáo Cầu Đông, ông say ở Mai Dịch, ngựa uống nước sông Tô Lịch ... Tập sách 12 Đoàn khảo sát do GS. TS Nguyễn Quang Ngọc phụ trách vào tháng 3 năm 2016
Thăng Long thập cửu vịnh có 6 bài thơ sau đây không trùng với các tập thơ về
Thăng Long (Hà Nội) khác: Du Tây Hồ (chơi Hồ Tây), Xuân mộ hữu hoài
(tâm sự cuối xuân); Thu phong (gió thu); Thu hoài (nhớ thu);
Thu chước thính vũ (mùa thu, vừa uống rượu vừa nghe mưa); Dạ khởi
thư hoài (đêm dậy viết nỗi lòng). Tập thơ tuy không đề cập trực tiếp đến
cảnh quan trong không gian HTTL có đề cập đến một số cảnh quan liền kề với
Hoàng Thành như phong cảnh Tây Hồ (phía Tây Bắc của thành) và tiếng sáo Cầu
Đông (thuộc khu vực phía Đông của Hoàng Thành (nay vẫn còn di tích chùa Cầu
Đông, thuộc phố Hàng Đường, quận Hoàn Kiếm).
Long Thành cảnh trí ca , có 1 bản viết, gồm 86 trang, khổ sách
29,5 x 20, trên chữ Nôm, dưới chữ Quốc ngữ, kí hiệu ( AB.2).
Đây là một tập hợp các bài ca tả phong cảnh Thành Thăng Long (Hà Nội),
gồm các phố, lâu đài, dinh thự, công sở, danh thắng, cảnh buôn bán, sinh hoạt… của
Kinh thành Thăng Long.
Khán sơn đình thi văn tập do Vũ Duy Kì đề tựa năm
Tự Đức 18 (1865), do Ninh Khê Hữu Trúc Hiên in năm 1865. 1 bản in,
gồm 36tr, khổ sách 28x17, có 1 bài tựa; kí hiệu VHV.2824.
Các bài kí, thư, thơ đề vịnh, tả cảnh và ca ngợi đình Khán Sơn của một số
Tiến sĩ triều Nguyễn như: Hoàng Giáp, Án sát sứ Hoàng Thu , Lê Hữu Thanh
, Đặng Tá Cẩn , Phạm Trọng Du , Nguyễn Lữ , Đặng
Lương Hiên v.v...
Tập thơ văn này không đề cập trực tiếp đến HTTL nhưng đây cũng là một
69
tập sử liệu quan trọng xác định đình Khán Sơn . Tại vị trí này, thời Lê
thường là nơi Hoàng đế đến dự những buổi thi đấu, duyệt binh ở khu vực Giảng Võ
và đây cũng là trường rèn luyện võ nghệ. Cũng qua tư liệu này, người đọc biết thêm
về một núi Khán để phân biệt với núi Nùng trong Cấm thành Thăng Long
xưa.
Hà Thành linh tích cổ lục Nha Học chính Hà Nội khảo cứu.
Có 1 bản viết, gồm 154 tr. Khổ sách 32 x 21, có 1 mục lục., [230; kí hiệu A. 497].
Bản Microfilm: MF. 218; Paris. EFEO. MF. I/1/147. Sự tích 20 danh thắng của Hà
Nội như Văn Miếu , đền Ngọc Sơn , đền Bạch Mã , đền Trấn
Vũ , chùa Lý Quốc Sư , chùa Bà Đá, chùa Vũ Thạnh ...
Mỗi di tích đều ghi rõ năm xây dựng, năm trùng tu, sự tích người được thờ phụng,
thể lệ cúng tế hàng năm. Có một số bài văn bia, bài kí, ghi lịch sử, sự nghiệp, tán
dương công đức của người được thờ phụng như các bài kí về việc trùng tu đền Văn
Xương, quán Huyền Thiên, văn bia ghi về việc thờ điện và Văn chỉ thôn Tả Quán…
Nguồn sử liệu trong Hà Thành linh tích cổ lục đã cho biết rõ một số di tích liền kề
bên HTTL như Văn Miếu (phía Nam), Trần Vũ, Huyền Thiên (phía Bắc) như một
“dấu mốc” bất di bất dịch trong tương quan với không gian phía ngoài của Hoàng
Thành Thăng Long trong suốt chiều dài lịch sử: Lý - Trần - Lê - Nguyễn.
2.2.3. Nguồn sử liệu văn bia
Trên địa bàn khu vực phố cổ (các quận Ba Đình, Hoàn Kiếm, một phần quận
Đống Đa, Hà Nội) còn lưu giữ được nhiều văn bia cổ có giá trị liên quan đến Thăng
Long Hà Nội. Hiện nay Trung tâm bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội đã sưu tầm
được nhiều thác bản văn bia cổ có niên đại từ Tk XV đến thế đầu Tk XX. Tuy nhiên,
số văn bia đề cập trực tiếp đến HTTL không nhiều, thậm chí rất hiếm văn bia phản
ánh về hình ảnh HTTL trong lịch sử. Số văn bia có phản ánh về HTTL chủ yếu là
cụm văn bia Tứ Trấn (Các đền Bạch Mã, Kim Liên, Voi Phục, Trấn Vũ) và một số
văn bia của các di tích thuộc khu phố cổ gần với khu vực HTTL. Các văn bia trên,
70
mục đích chủ yếu là ghi công đức người xây dựng di tích, ca ngợi cảnh đẹp. Chẳng
hạn có một số văn bia xác nhận di tích này ở đâu thuộc phía Đông, Tây, Nam hay
Bắc của HTTL… Tuy nhiên, những từ ngữ chỉ phương hướng chỉ có ý nghĩa trong
việc xác định phương vị, vị trí mà không thể xác định được quy mô của HTTL.
Những văn bia cùng những di tích trên sẽ góp phần nhất định trong việc hình dung
các di tích, và cảnh quan xung quanh HTTL (chủ yếu là cảnh quan các di tích xung
quanh HTTL thời Lê). Ngoài ra, có thể kể đến một tấm bia ở chùa Đọi Sơn ( huyện
Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) có đề cập đến một vài công trình trong Cấm thành Thăng
Long thời Lý với những lễ hội độc đáo và những văn bia Đề danh tiến sĩ trong khu
vực Văn Miếu - Quốc Tử Giám, có đề cập đến nhiều tên gọi của các điện thời Lê
trong Cấm Thành Thăng Long.
Trong số hàng trăm văn bia mà chúng tôi đã tập hợp, sưu tầm, nghiên cứu
cũng như những văn bia này đã được Viện Viễn Đông bác Cổ, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, Ban quản lý di tích Danh thắng Hà Nội sưu tầm. Ngoài những tấm bia ở
Văn Miếu - Hà Nội, chúng tôi đã chọn lọc và đặc biệt quan tâm đến 12 văn bia cổ
có niên đại từ thế kỷ XVII đến Tk XIX (trong đó có 3 bia niên đại Tk XVII, 2 bia
niên đại Tk XVIII, và 7 bia niên đại Tk XIX).
Những vị tiến sĩ soạn văn bia có thông tin về Thành Thăng Long:
+ Phan Huy Ích (1750 - 1822), hiệu Dụ Am Sài Sơn di lão, chức Đại
phu, soạn bia Phúc Kiến hội quán hưng sáng lục (Hội quán Phúc
Kiến), [271; Kh 277].
+ Đặng Đình Tướng , chức: Tả đô đốc, soạn bia Hàm Long tự bi kí
; [264; Kh 262], [265; Kh 263].
+ Nguyễn Tiến Triều , đỗ khoa Bính Thìn (1676) (xã Nam Nguyễn,
huyện Phúc Lộc) soạn và Hồ Sĩ Dương (nhuận sắc) tấm bia Nam Giao điện
71
thạch bi , niên đại 1679 [243].
+ Hà Tông Mục , đỗ khoa thi năm Mậu Thân (1688) soạn bia “Hồng
Phúc tự bi kí (chùa Hòe Nhai), soạn năm Chính Hòa 19 (1698) [270].
+ Hà Tông Quyền , người Thanh Oai (Hà Nội), đỗ Khoa Nhâm Ngọ
(1822), làm quan chức Thượng Thư bộ Lại, soạn bia Cải kiến Linh Sơn cổ tự bi kí
, niên đại Minh Mệnh thứ 9 (1828), chức Lễ bộ Hữu thị lang,
tước Phương Trạch Hầu.
+ Lê Huy Vĩnh , giữ chức Học chính Thanh Hóa, soạn Trùng tu Trấn
Vũ Quán bi kí (niên đại 1857); [259; Kh: 228].
- Những người biên soạn giữ các chức vụ quan trọng:
+ Đặng Văn Hòa : chức Án sát Hà Nội (soạn) và Tôn Thất Bật
(Tổng đốc Hà Ninh nhuận sắc), soạn tấm bia Trùng tu Nhất Trụ tự chí
, niên đại 1864, [275].
+ Hoàng Cao Khải : chức Phụ Chính Đại Thần, Kinh Lược Xứ Bắc
Kỳ, soạn tấm bia Chân Vũ Quán Thánh bi , niên đại 1893, [260].
Tấm bia Phục Ba tướng quân từ bi kí (đền Bạch Mã), (Kh:
192 VNCHN), do Phan Đình Giang (viết chữ), không ghi tên người soạn.
Trong số 12 tấm bia trên có 6 bia có người soạn đạt học vị tiến sĩ, 3 người
là quan chức đứng đầu tỉnh; 1 bia có đề người viết nhưng không rõ người soạn; 3
bia không ghi rõ người soạn cũng không ghi tên người viết; 4 biển đá đề tên các
cổng “Chính Đoan Môn” ; “Chính Bắc Môn” (hiện nay đang tồn tại
gắn với di tích Đoan Môn và di tích Cửa Bắc); Các biển khắc trên tấm đá lớn, đề
72
chữ: “Chính Đông Môn” , “Chính Tây Môn” (hiện trưng bày tại
khuôn viên Bảo tàng Lịch sử Việt Nam). Những bia này không ghi niên đại tên
người khắc và viết chữ.
Có thể nói, về hình thức văn bản: những người biên soạn văn bia đã nêu ở
trên hầu hết đều là người có uy tín trong xã hội, nhiều người có học vị Tiến sĩ, là
những trí thức nổi tiếng của triều Lê và triều Nguyễn, phần lớn đều có đầy đủ
những thông tin như: Tác giả, năm biên soạn, chức tước người soạn, người viết,
người nhuận sắc… do đó, đây là nguồn sử liệu tương đối trung thực, tin cậy.
Về nội dung văn bản: được chia làm 3 nhóm chính: Nhóm 1: văn bia phản
ánh về vị trí, giáp giới Đông, Tây, Nam, Bắc của HTTL; Nhóm 2: Văn bia đề cập
trực tiếp đến tên gọi của các công trình trong Cấm Thành Thăng Long thời Lê;
Nhóm 3: Nội văn bản phản ánh về thời điểm lịch sử ra đời của di tích;
Nhóm 1: Văn bia phản ánh về vị trí, giáp giới Đông, Tây, Nam, Bắc của
Hoàng Thành Thăng Long
Về các di tích thuộc khu vực phía Đông HTTL có 4 bia đề cập:
+ Tấm bia “Trùng tu Đông Môn tự chi bi” , [272; Kh: 317],
niên đại Gia Long 15 (1816), Bia chùa Đông Môn (phố Hàng Đường) ghi: Thăng
Long thành Đông Môn ngoại cổ hữu Phật tự trần khí thế giới trung biệt hữu từ bi
tịnh thú (…) (tự khởi vu hà niên thế đại vửu viễn (…) Lê Dương Hòa ngũ niên
trùng tu bi kí (...)
(...) (chùa xây từ thời nào đã lâu rồi (…). Năm
Dương Hòa thứ 5 thời Lê trùng tu )… Mặt sau ghi: Thiết duy, Đông Môn tự, danh
lam cổ tích thắng cảnh chân đề Nhị Vĩnh triều tiền uông dương nhiễu ba vạn phái,
Long Thành phục hậu tán ngật tranh điệp hổ trùng sơn thử thị quốc gia chi ngọc
chân sinh dân chi mệnh mạch dã. , ,
, (Thiết nghĩ:
73
Chùa Đông Môn thực là danh lam cổ tích, sông Nhị (sông Hồng) chầu phía trước
mênh mông vạn nhánh, Long Thành lô nhô phía sau, đây thực sự là của quý của
quốc gia, là mệnh mạch của cuộc sống dân sinh), [274].
+ Văn bia Hàm Long tự bi kí ; [242; Kh: 162 - 163] ghi: Phía
Đông của Thành Thăng Long, nước Đại Việt có một ngôi chùa tên là chùa Hàm
Long, là đất phúc thần tiên, công tạo hóa dựng bày, sông Nhị, Tô Lịch ôm ấp phía
bên trái, điện Nam Giao, tháp Báo Thiên đứng ở bên phải).
- Phía Đông Nam của HTTL có cửa Chu Tước (đây là một cửa quan
trọng có ý nghĩa về mặt phong thủy trong quan niệm cổ truyền phương Đông: Tả
Thanh Long , hữu Bạch Hổ , Nam chu Tước , Bắc Huyền Vũ
. Bên cạnh cửa Chu Tước còn có chùa Linh Sơn. Tk XVIII, chùa được xây
dựng nhưng đến đầu triều Gia Long thì chuyển về phía Bắc (thuộc thôn Yên Ninh,
nay thuộc phố Yên Ninh Hạ) gần phố Cửa Bắc. Nội dung văn bia có đoạn: “Năm
Cảnh Hưng thứ 2 (1741) (Sĩ Anh đạo sĩ nước Đại Thanh) về nước xây dựng chùa
Linh Sơn ở thành Thăng Long. Chùa ấy bây giờ ở bên phải của cổng Chu Tước, có
rất nhiều bậc vương công, sĩ phu đến tham thiền. Năm Gia Long thứ 3 (1804) Giám
đốc Cục Bảo truyền Lê Duy Đạt cho di rời chùa ra bên ngoài thành Thăng Long, đặt
tại thôn Ninh Hạ, huyện Vĩnh Thuận”[281]. Chùa Yên Ninh (nay vẫn còn thuộc khu
vực gần phố Cửa Bắc, phường Quan Thánh, Ba Đình, Hà Nội).
Nhóm 2: Văn bia đề cập trực tiếp đến tên gọi của các công trình trong Cấm
Thành Thăng Long thời Lê:
Bài văn bia Đại Việt quốc Lý gia Đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi
(chùa Long Đọi, Duy Tiên, Hà Nam) do Binh bộ
thượng thư Nguyễn Công Bật (soạn) niên đại 1121 được coi là tấm bia có niên đại
cổ nhất ở Việt Nam phản ánh về lễ hội đèn Quảng Chiếu và những công trình trong
Cấm Thành Thăng Long. Bài văn bia có đoạn: “Quảng vận thần công; hoằng suy
74
thánh đoán, tinh tu thắng sự; cần chí lương duyên. Kiến Quảng Chiếu chi đăng đài,
hướng Đoan Môn chi đình thượng (…) Tinh sùng hoàng giác, đốc mộ thắng nhân.
Hướng Tây Cấm chi danh viên, Quảng Diên Hựu chi quang tự.
[…]
(Rộng vận thần công, cả suy thánh đoán. Sửa sang thắng sự, chăm tới lương
duyên. Dựng đài cao Quảng Chiếu, hướng sân trước Đoan Môn […] Tôn sùng đạo
Phật, hâm mộ thắng nhân, mở chùa Diên Hựu, ở tại Vườn Tây) [127; 390 - 391]…
Nếu như văn bia thời Lý ở chùa Đọi Sơn (Hà Nam) phản ánh về những hoạt
động Phật giáo thì văn bia thời Lê tại Văn Miếu (Hà Nội) lại phản ánh về những
hoạt động Nho học, việc học hành và thi cử trong đó có đề cập đến những tên Điện
và các công trình khác trong HTTL. Điều đặc biệt là, những tấm bia trong Văn
Miếu - Quốc Tử Giám hầu như được biên soạn chỉ sau thời gian diễn ra kỳ thi Đình
chút ít. Hay nói cách khác, về thời điểm biên soạn những tấm bia đề danh tiến sĩ
được coi là cùng một thời kỳ với kỳ thi Điện Thí trong HTTL. Chính vì thế, nội
dung đề cập đến những địa điểm được chọn để tổ chức kỳ thi Điện/Đình thí diễn ra
trong HHTL được coi là những thông tin chính xác, trung thực, khách quan. Qua
nghiên cứu 82 văn bia đề danh tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, chúng tôi thấy
tên của các điện Hội Anh [287], điện Tập Hiền , [288], điện Kính
Thiên được thể hiện trên 12 bia13. [297] Ngũ Long Môn trong Phủ
Chúa Trịnh là những nơi từng diễn ra kỳ thi Điện.
Tấm bia có niên đại sớm nhất tại Văn Miếu được khắc năm 1484 ghi về kỳ
thi điện (1442) tổ chức tại điện Hội Anh trong HTTL: “Thánh Thượng ra ngự ở điện
Hội Anh, đích thân ra đề thi văn sách (nhị nguyệt, sơ nhị nhật Thượng Ngự Hội
13 Đó là các bia phần tài liệu tham khảo: [289], [290], [291], [292], [295], [296], [297], [199], [310], [315], [319], 321].
75
Anh điện” ( ).
Trong tất cả các điện dược đề cập đến trong sử liệu văn bia như trên đã đề
cập, điện Kính Thiên được đề cập đích danh nhiều lần vào các năm: 1463,
1466. 1475. 1478, 1487, 1496, 1502, 1511, 1529, 1604, 1640. Ngoài ra, trên các
văn bia còn lại hầu như chỉ ghi chung chung như: Hoàng Thượng ngự hiên điện
với số lượng 9 lần đề cập14, Hoàng thượng ngự cửa điện ,
Đại Đình thí , điện thí … Tuy không nói rõ Hoàng Thượng ngự điện
nào, hiên điện, cửa điện nào… nhưng có thể suy đoán đó là điện Kính Thiên (?). Vì
điện Kính Thiên thời Lê có một vai trò đặc biệt, là điện dùng trong Lễ Đại triều
cũng như nhiều nghi lễ quan trọng quốc gia khác.
Qua Văn bia Đề danh Tiến sĩ tại Văn Miếu - Hà Nội còn cho biết: Không chỉ
tổ chức thi Điện Thí tại Điện Kính Thiên hay tại sân Long Trì, vào năm 1779, thời
Lê Trung hưng, tại Phủ Chúa Trịnh tại Thành Thăng Long còn tổ chức một kỳ thi
Điện ở Ngũ Long Môn . Bia Đề danh tiến sĩ Khoa Kỷ hợi niên hiệu Cảnh
Hưng thứ 40 (1779) ghi: “Mùa đông năm ấy, đặc biệt mở khoa thi Hội cho các cống
sĩ trong nước tại Lầu Ngũ Long” [365]. Ngũ Long Môn là tên gọi chỉ một công
trình trong phủ Chúa Trịnh. Đây là một cứ liệu hiếm hoi và quý báu để ngày nay
biết được được một địa điểm khác ngoài Hoàng thành Thăng Long thời Lê từng tổ
chức thi Đình/ Điện thí.
Ngoài các công trình cung điện, sân điện, Đoan Môn (Ngũ Long Môn) được
dùng làm nơi tổ chức Thi Điện thì các khu vực vườn Thượng uyển trong Hoàng
cung là nơi thiết đãi yến tiệc những vị đỗ đại khoa. Hầu như ở tất cả các bia đều đề
cập đến vườn Thượng uyển với các tên gọi khác nhau như Vườn Quỳnh (Quỳnh
Lâm) được đề cập gần 10 lần [287], [301], [312], [313], [333], [341],; Yến Quỳnh:
[334]; Yến Quỳnh hoa bạc [323], [331], [332], [334], [336], [338], [340], [343],
14 Thể hiện trên các bia trong tài liệu tham khảo số: [289], [293], [294], [297], [298], 301], [308], [317], [319].
76
[347], [349]… ngoài ra trên văn bia Văn Miếu - Quốc Tử Giám còn dùng các tên
gọi khác như: Vườn Thượng Lâm , Lâm viên , Ngự uyển , Thượng
uyển , Ngự viên … Qua đây, có thể so sánh nguồn sử liệu được ghi chép
trong thư tịch, nguồn sử liệu văn bia với nguồn sử liệu về địa chất, môi trường
ngoài thực địa.
Điện Tập Hiền được đề cập đến trong khoa thi năm Thái Hòa thứ 6 (1448):
Mùa thu, ngày 23 tháng 8, Hoàng Thượng ngự Tập Hiền điện, đích thân ra đề văn
sách (Thu bát nguyệt, nhị thập tam nhật, Hoàng Thượng ngự Tập Hiền điện giáng
thanh vấn” .
Nội dung bài văn bia Chùa Đọi đầu thế kỷ XII đã đề cập đến các công trình
như: Đoan Môn, chùa Diên Hựu, Vườn Tây (Tây Cấm), Hồ Linh Chiểu. Ngày nay,
không ai còn biết Đoan Môn và chùa Diên Hựu thời Lý như thế nào. Nhưng tư liệu
văn bia thời Lý cho đến văn bia thời Lê đều đề cập đến công trình Đoan Môn trong
Cấm Thành Thăng Long.
Trong các sử liệu về văn bia, sử liệu thác bản văn bia được coi là tin cậy bậc
nhất còn các sử liệu chép tay được lưu giữ trong Thư viện Viện Nghiên cứu Hán
Nôm cũng được coi là tài liệu tham khảo bởi việc truyền bản trong quá trình chép
tay không tránh khỏi tình trạng tam sao thất bản. Ngoài ra, đọc tài liệu văn bản chép
tay chỉ có thể biết nội dung văn bia mà không thể biết được tình trạng văn bản, đặc
trưng hoa văn và nhiều yếu tố khác. Nhiều tấm bia liên quan đến những di tích nổi
tiếng của Hà Nội nói chung và những di tích bên cạnh HTTL hoặc gián tiếp đề cập
đến HTTL đã được tập hợp trong tập sách Hà Nội thành bi kí , gồm 1
bản viết, có 46 tr, khổ sách 29. 4 x 17, viết bằng chữ Hán, gồm 12 bài văn bia và
bài kí về một số di tích ở Thành Hà Nội:
1. Bài văn bia (do Hồ Sĩ Dương soạn năm Lê Vĩnh Trị 4 (1679) và bài minh
(do Lê Tung soạn năm Hồng Thuận 2 (1511) nói về việc sửa sang lại đàn Tế Giao.
77
2. Bài kí (do Đặng Lương Hiên soạn) về việc sửa sang lại đền Văn Xương.
3. Bài kí (do Lê Khắc Cần, tự Khắc Phủ soạn) về việc xây dựng lại quán
Huyền Thiên: quán Huyền Thiên xây dựng vào niên hiệu Thiệu Bình, sửa lại vào
niên hiệu Vĩnh Tộ thời Lê, và năm Đinh Mão niên hiệu Tự Đức (1867).
4. Bài bia kí (do Lê Đình Diên soạn) ca ngợi tên gọi, địa thế của Văn chỉ
thôn Tả Khánh.
5. Bài kí đền Hai Bà Trưng (do Dương Huy Thanh soạn) ca ngợi công tích
chống giặc ngoại xâm của Hai Bà Trưng.
6. Bài kí kể lại nguyên do của việc xây dựng đền Cao Sơn.
7. Bài bia kí (do Nguyễn Quí Đức soạn năm Vĩnh Thịnh 10 (1714) ca ngợi vị
trí, hình thế, cảnh đẹp và sự linh ứng của chùa Hàm Long.
8. Bài bia kí về việc trùng tu đền Huyền Chân (thuộc địa phận thôn Hà
Thanh, Đông Thọ): đền sáng lập năm Lê Cảnh Trị (1663 - 1671), trùng tu năm Tự
Đức 19 (1866).
9. Bài bia kí do Trần Quang Luyện soạn năm Tự Đức Giáp Tí (1864) về việc
xây dựng lại đền Linh Sơn: đền xây dựng vào năm Lê Cảnh Hưng, đến năm Gia
Long Giáp Tí (1804), Lê Duy Đạt cho dời đến thôn Yên Ninh Hạ.
10. Bia chùa Quán Sứ: chùa xây dựng lại thuộc thôn Yên Tập, có điện sau,
trước và hành lang hai bên, là một trong bốn chùa quán ở Thăng Long.
11. Bài bia kí chùa Một Cột, do Đặng Văn Hòa và Nguyễn Đăng Giai viết
năm Thiệu Trị Đinh Mùi (1847) ghi lại sự việc xây dựng lại chùa.
12. Bài bia kí ở quán Hội Việt Đông, soạn năm Gia Long Quý Hợi, ghi lại
cảnh đẹp và vị trí của quán này.
Trên đây là 12 bài kí của những tấm bia viết về Thăng Long - Hà Nội gắn
liền với các di tích quan trọng như: Đàn Tế Nam giao, đền Văn Xương (đền Ngọc
Sơn), quán Huyền Thiên, đền Hai Bà Trưng, chùa Hàm Long, chùa Quán Sứ, chùa
Một Cột, Chùa Linh Sơn, quán Việt Đông. Trong những di tích trên đáng chú ý là di
tích chùa Linh Sơn, chùa này vốn ở bên cạnh cổng Chu Tước (phía Nam của Hoàng
78
Thành) được chuyển về phố Yên Ninh vào cuối Lê đầu Nguyễn.
Những tấm bia đề cập gián tiếp đến HTTL đã đề cập đến ở trên, trải qua biết
bao thăng trầm lịch sử. hiện nay hầu hết vẫn còn hiện hữu nguyên vẹn tại các di tích.
Tuy nhiên hy hữu có tác phẩm văn bia thuộc di tích quan trọng của Tứ Trấn
Thăng Long lại chép lại hoàn toàn nội dung của một văn bia ở một địa phương khác,
trong đó có đề cập đến những năm đầu Tk XVI với việc đưa vua Lê Tương Dực lên
ngôi với nhiều biến động của HTTL và cũng đã đề cập đến cung Trường Lạc
. Đây là một tấm bia vào loại đẹp nhất Hà Nội nhưng quan trọng hơn nội dung đề
cập đến cung Trường Lạc trong HTTL và việc đưa Lê Tương Dực lên ngôi. Bia có
chiều cao 2,20m, rộng 1,4m, dày 0,22m, hoa văn rồng chầu mặt nguyệt, khắc đẹp,
rõ nét và khắc lại vào năm Cảnh Hưng thứ 33 (1772). Nhưng khi so sánh với bia tại
chân núi Tử Trầm (Chương Mỹ, Hà Nội) thì chúng tôi thấy cùng một nội dung do
sao chép từ một tấm bia gốc có niên đại 1510 do nhà sử học Lê Tung soạn. Như vậy
so với bia ở đình Kim Liên thì bia ở chân núi Tử Trầm là bia gốc từ thời Lê sơ.
Điều quan trọng là cả hai bia (bản gốc và bản sao) đều ghi thống nhất chi tiết “cung
Trường Lạc” trong Cấm thành Thăng Long thời đó là một cung quan trọng. Tên địa
danh này cũng rất trùng hợp với những ghi chép trên vật thực như những đồ gốm sứ
được phát hiện trong HTTL với dòng chữ “Trường Lạc khố” , “Trường Lạc
cung” [40; 50 - 61].
2.2.4. Sử liệu địa chí
Sử liệu địa chí cổ về Thăng Long - Hà Nội cũng là một nguồn sử liệu quan
trọng để nghiên cứu về HTTL thời Lý - Trần - Lê. Niên đại của những tư liệu này
chủ yếu được biên soạn vào cuối Lê đầu Nguyễn, nhưng cùng với các nguồn sử
liệu quốc sử và văn bia, nó góp phần vào việc làm rõ những di tích liên quan đến
HTTL đặc biệt là các di tích liên quan đến hoạt động cung đình như: Đàn Nam
Giao, Đàn Xã Tắc, các di tích ở phía Tây thành Thăng Long như chùa Nhất Trụ
79
(Một Cột), Đền Đồng Cổ, núi Khán Sơn…
Thăng Long cổ tích khảo , có 1 bản viết, gồm 43 trang, khổ sách
15.5 x 27, có chữ Nôm, kí hiệu: A.1820.
Tác phẩm này có 30 bài khảo về các danh thắng của Thăng Long (Hà Nội)
xưa. Trong sách Thăng Long cổ tích khảo có nói đến một số di tích quan trọng bên
cạnh Hoàng Thành Thăng Long như chùa Một Cột ở phía Tây của Cấm thành, đền
Huyền Thiên ở phía Bắc của Hoàng Thành, núi Nùng được coi là địa điểm được xây
dựng điện Càn Nguyên thời Lý, Thiên An thời Trần rồi Kính Thiên thời Lê và núi
Thái Hòa (được coi là địa điểm của phường Thái Hòa) - quê hương của Lý Thường
Kiệt đã nhường sang bên kia sông để cho triều đình kiến thiết kinh đô. Trong tư liệu
này, không đề cập đến các cung và điện nào nữa.
Thăng Long cổ tích khảo tịnh hội đồ do Mai Phong
Đặng Xuân Khanh biên tập năm 1956, tại EFEO, Hà Nội, còn 1 bản viết,
gồm 87 trang, khổ sách 14 x 21.5, kèm theo 1 bản đồ, kí hiệu VHv. 2471.
Nội dung: Khảo về các di tích xưa của Thăng Long (Hà Nội): thành trì, cửa ô,
phủ thành, phủ huyện, chợ búa, bến sông, đê điều, núi non, sông hồ, đền miếu, chùa
quán và nhân vật. Tập sách gồm 36 bài thơ vịnh cảnh Thăng Long [235].
Thăng Long cổ tích khảo, kí hiệu: A.1820.
Tư liệu này đã cho biết một số di tích thành trì Hà Nội cùng với một số cửa ô,
một vài ngọn núi của Thăng Long [234] …
Nhìn chung, sử liệu bản đồ cung cấp nhiều thông tin cho các nhà sử học khi
nghiên cứu di tích. Số tư liệu này hiện nay được lưu trữ chủ yếu tại Viện Nghiên
cứu Hán Nôm. Rất tiếc cuốn sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi không đề cập đến
HTTL. Phải đến thời Nguyễn, sách vở về địa lý mới được biên soạn nhiều: như Bắc
Thành địa dư chí lục ; Hà Nội địa dư , [227]; Hà Nội sơn
80
xuyên phong vực [229] …
Bắc thành địa dư chí lục do Tổng trấn Bắc Thành Lê Chất
(soạn). Nguyễn Đông Khê (Nguyễn Văn Lí ) biên tập và đề tựa
năm Thiệu Trị năm thứ 5 (1845). Hiện còn 4 bản viết lưu tại VNCHN. Nội
dung ghi về: Địa lí thành Thăng Long và 11 trấn thuộc Bắc Thành đời Gia Long.
Quyển I ghi về Thành Thăng Long, còn lại các quyển khác ghi về địa lý của các
Trấn khác. Phần ghi chép về Bắc Thành (Thành Thăng Long xưa) còn nhiều công
trình mang dấu ấn của thời cuối Lê đầu Nguyễn, bởi giai đoạn này Hà Nội chưa bị
xáo trộn và phá hủy bởi công cuộc xâm lược và cải tạo của Thực dân Pháp như giai
đoạn cuối Tk XIX.
Hà Nội địa dư: ; do Cấn Đình Dương Bá Cung , biên
soạn năm Tự Đức 4 (1851). Tác phẩn gồm 2 bản viết, kí hiệu [227, Kh: A.
1154], gồm 106 tr, Tập sách đề cập đến: Địa lý Hà Nội (cũ), gồm thành phố và các
phủ, huyện trong tỉnh: hình thế, phong tục, danh thắng, di tích, thành trì, núi sông,
đền chùa, quán, miếu... Thơ văn ca ngợi Chu Văn An, Phan Thị Thuấn; văn bia và
thơ đề ở quán Trấn Vũ… Qua tác phẩm Hà Nội địa dư của Dương Bá Cung giúp
hình dung về những di tích cổ trên khu vực khu phố cổ và xung quanh Hoàng thành
Thăng Long - Hà Nội.
Hà Nội sơn xuyên phong vực , tác phẩm còn 1 bản viết, gồm
124 tr. Nội dung tập sách ghi về địa lý Hà Nội cũ (bao gồm thành phố Hà Nội và
hai tỉnh Hà Đông, Hà Nam cũ): giới hạn, tên gọi các phủ huyện qua các triều đại,
hình thế, núi sông, đầm hồ, khí hậu, thành trì, các phủ lị, huyện lị, đền chùa, quán
miếu, cổ tích, thổ sản [219] ... Một số văn bia và thơ ca. Tác phẩm Hà Nội sơn
xuyên phong vực cũng như tập Hà Nội địa dư cung cấp về tên gọi, danh thắng di
tích trên địa bàn Hà Nội xưa đặc biệt là khu vực nội thành Hà Nội (nay). Nhưng rất
tiếc, tác phẩm không đề cập đến những công trình nào của Hoàng Thành Thăng
81
Long.
Tựu chung lại, đặc điểm của loại sách địa lý cổ thường nặng về những miêu
tả đường đi, cảnh quan, địa lý, di tích mà ít có những chỉ dẫn bằng hình ảnh minh
họa. Chính vì thế, với nguồn thông tin từ tư liệu địa chí khá trừu tượng, kém tính
trực quan, khó hình dung và tiếp cận.
2.3. Nguồn sử liệu bản đồ
Nếu như nguồn sử liệu thư tịch, hay tư liệu văn bia cổ chỉ miêu tả bằng lời
nhiều khi khá trừu tượng về những sự kiện xây dựng, trùng tu các công trình trong
HTTL thì nguồn sử liệu bản đồ lại có một giá trị khác, độc đáo, trực quan, dễ hiểu,
dễ hình dung mà các nguồn sử liệu khác không có được. Tuy nhiên, tư liệu bản đồ
cổ với phương pháp vẽ thường ước lệ, phóng bút không có tỷ lệ nhất định nên nhiều
khi chỉ mang tính chất tượng trưng, tương đối. Việt Nam có truyền thống đo vẽ bản
đồ từ khá sớm, ít nhất là vào thời Lý Anh Tông (1138 - 1175), nhưng việc đo vẽ bản
đồ thời Lý đều xuất phát từ mục đích quân sự, phục vụ phòng vệ đất nước. Hiện
nay, do nhiều lý do khác nhau mà không còn lưu giữ được tấm bản đồ nào có niên
đại thời Lý, thời Trần. Tấm bản đồ được coi là cổ nhất hiện nay là Hồng Đức bản
đồ HĐBĐ (được vẽ lần đầu tiên vào năm 1490 nhưng chỉ còn bản sao sớm nhất vào
đầu Tk XVII). HĐBĐ là tập sách phác họa các công trình trong Kinh Thành và
Hoàng Thành Thăng Long thời Lê.
2.3.1. Bản đồ thời Lê
Hiện nay, tại Viện nghiên cứu Hán Nôm có lưu giữ một số bản đồ cổ niên
đại thời Lê và thời Nguyễn. Tập bản đồ cổ có niên đại sớm nhất là tập Hồng Đức
bản đồ vẽ năm Hồng Đức 21 (1490), tập sách gồm 3 bản viết, có mục
lục kí hiệu VHt.41, gồm 52 tr, khổ sách 34 x 22; kí hiệu A.2499: 174 tr, khổ sách 30,
5 x 19, 5, [231, Kh A.1603].
Nội dung tập Hồng Đức bản đồ, gồm 1 bản đồ toàn quốc, 1 bản đồ Trung Đô
(Thăng Long) và 13 bản đồ thuộc 13 Thừa tuyên (Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam,
Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn,
82
An Bang, Thuận Hóa, Quảng Nam), trong đó có ghi rõ 49 châu, 181 huyện, 53 phủ,
các núi, sông, thành trì, đường sông, đường bộ, đường biển.
Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư (trong bản kí
hiệu A. 2499 từ trang 59 đến trang 158 và trong bản A.1603 từ trang 63 đến trang
186, do Đỗ Bá , hiệu Đạo Phủ (soạn) và viết lời dẫn: bản đồ đường bộ,
đường sông, đường biển từ Thăng Long đi nhiều nơi trong nước và sang các nước
khác trong khu vực. Bên cạnh đó, tập bản đồ này có ghi thêm về trấn doanh Mục
Mã mới vẽ năm Cảnh Thịnh (1792 - 1802). Xem thêm Toản tập Thiên Nam tứ chí
Lộ đồ thư kí hiệu: A. 1174. Bản kí hiệu VHt. 41 do một gia đình ở Tiên Điền, huyện
Nghi Xuân tặng Cử nhân Lê Thước (năm 1960), sau đó học giả Lê Thước tặng lại
Thư viện Khoa học trung ương năm 1965 (nay chuyển về Thư viện VNCHN). Bản
đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư, (ghi trong VHt. 41 và trong A. 2499) không phải vẽ
vào niên hiệu Hồng Đức (1470 - 1497) vì "Trung Đô" thời Hồng Đức không
thể có địa danh Vương Phủ [242; tờ 5a]; chữ húy "Yên Bang" viết thành
"Yên Quảng" (vì kiêng húy Lê Duy Bang , [242; tờ 23a]. "Tân Bình"
viết thành "Tiên Bình" (Kiêng húy Lê Duy Tân , tờ 23b). Ngoài việc
khảo cứu về chữ húy trên HĐBĐ đã cho biết tập bản đồ này được biên tập thêm vào
thời Lê Trung hưng và theo lệ kiêng húy của thời Lê Trung hưng. Căn cứ vào lệ
kiêng húy thì chắc chắn bản đồ này được vẽ từ thời Lê Trung hưng trở về sau.
Ngoài ra, ở khu vực chung quanh hồ Hoàn Kiếm còn xuất hiện thêm địa danh
Vương Phủ của Chúa Trịnh. Cuối tập HĐBĐ còn ghi thêm người biên tập là Kiếm
Hồ Ngư Ẩn - tên hiệu của tác giả Nguyễn Án sống vào cuối thời Tây Sơn...
Như thế, có thể thấy rằng, tập HĐBĐ đã trải qua một quá trình biên tập khá
phức tạp với nhiều người biên tập bổ sung qua các thời kỳ. Bản vẽ lần đầu tiên vào
thời Hồng Đức với khu vực HTTL, sau đó đến một thời điểm khác, người đời sau
lại bổ sung thêm một số công trình xuất hiện đương thời cho “cập nhật”. Hay nói
83
cách khác, trên nền giấy cũ của một bản đồ cũ, người đời sau đã kịp thời bổ sung
những yếu tố mới, chi tiết mới, công trình mới vào bản đồ cũ mà không hề nghĩ đến
tính lịch sử nguyên gốc của giá trị “văn bản”. Bởi thế cho nên, ngày nay bên cạnh
những công trình thời Lê sơ thuộc khu vực Cấm Thành Thăng Long như: Đoan
Môn, điện Kính Thiên, điện Thị Triều, điện Chí Kính, điện Vạn Thọ, Đông Tràng
An, Tây Tràng An... lại xuất hiện thêm nhiều hình vẽ các công trình thuộc Vương
phủ (phủ Chúa Trịnh) thời Lê Trung hưng. Về thể chế Vương phủ xuất hiện bên
cạnh vua Lê theo kiểu “Lưỡng đầu chế” chỉ có thể từ Tk XVII trở đi.
Có thể nói rằng, tập Hồng Đức bản đồ vẽ về Hoàng Thành và Cấm Thành
Thăng Long trong phần bản đồ Trung Đô đã cho người đọc nhiều thông
tin bổ ích, giá trị mà không có một tư liệu nào có thể thay thế được. Tuy nhiên, bản
đồ này có một hạn chế là chỉ vẽ mang tính chất tượng trưng vài cung điện tiêu biểu
trong Cấm Thành Thăng Long (trong khi đó, trên thực tế các nguồn sử liệu chữ viết,
chúng tôi khảo sát vào thời Lê có ít nhất khoảng 30 cung điện trong Cấm Thành
Thăng Long (Xem Phụ lục, Bảng 25, 26). Một hạn chế lớn nữa của tập HĐBĐ là
thiếu tính kỹ thuật, vẽ mang tính tượng trưng, không có tỷ lệ. Đây cũng là một khó
khăn cho các nhà nghiên cứu tiếp cận sử liệu bản đồ để nghiên cứu về quy mô và
cấu trúc của HTTL.
2.3.2. Bản đồ thời Nguyễn
Vào thời Nguyễn, xuất hiện khá nhiều bản đồ Hà Nội như: Đại Nam bản đồ
; Nam Việt bản đồ 186 trang; khổ sách 29, 5 x 17, 5; kí hiệu
VHt.1. Theo nhiều nhà nghiên cứu, tập Nam Việt bản đồ do Vũ Như Đạt vẽ lại năm
1962 theo bản chính. Nhưng hầu hết các tác giả đều không chỉ ra việc vẽ lại theo
bản chính là bản nào. Hiện nay, VNCHN còn lưu giữ các bản có kí hiệu: MF. 958
(A.2499); MF. 999 (VHt- 41); Ngoài ra ở Pháp còn lưu trữ được các bản Microfilm:
Paris. EFEO. MF. II/4/510 (A. 1603); Paris. EFEO. MF. II/2/312 (A. 2499).
Tập bản đồ Hà Nội được nhiều người biết đến nhiều nhất thuộc niên đại Tự
Đức thứ 25 (1873) và Đồng Khánh (1884)[ Phụ lục II, Bản đồ 4]. Các bản đồ này
84
đều được vẽ màu lại được sự trợ giúp của kỹ thuật đo vẽ với tỷ lệ tương đối chính
xác. Chính vì thế, bản đồ Hà Nội thời Nguyễn đã khắc phục được tính ước lệ tương
đối của bản đồ thời Lê. Phần vẽ về khu vực HTTL chiếm vị trí khá khiêm tốn (theo
tỷ lệ) trong bối cảnh với các khu vực khác của địa bàn huyện Thọ Xương và huyện
Vĩnh Thuân (Hà Nội). Do đó, muốn nghiên cứu kỹ các hạng mục công trình này
trong Cấm thành Thăng Long thì cần phải phóng to kích thước mới có thể nhìn rõ.
Quan sát kỹ phần vẽ về khu vực HTTL cho thấy, các di tích có yếu tố gốc thời Lê
như Đoan Môn, điện Kính Thiên vẫn được thể hiện ở vị trí trong khu vực Cấm
Thành Thăng Long (xưa) nhưng đến thời điểm đó đã thêm một số công trình khác
bổ sung thêm như Cột Cờ Hà Nội và một số di tích khác. Điều đó khẳng định, vị ví
HTTL trên bản đồ thời Nguyễn khá chính xác, chân thực, đồng thời chứng minh
suốt các triều đại từ Lê sơ, qua Lê Trung hưng đến thời Nguyễn, vị trí của HTTL
hầu như không hề có sự thay đổi lớn. Trên trục chính tâm Bắc Nam có Cột Cờ,
Đoan Môn, điện Long Thiên (trước vốn là điện Kính Thiên), Hậu Lâu và Cửa Bắc.
Ở hai bên tả hữu phía Đông và phía Tây được bố trí hai dãy: Phía Đông (Bắt đầu
tính từ phía Nam đến vị trí song song với Cột Cờ) gồm các công trình như: Xưởng
voi (nơi nhốt voi), Tuần Phủ đường , Đề Đốc đường , Án Sát
đường , và phía sau cùng là núi đất (thổ sơn). Như vậy, đây là khu vực
hành chính của đầu não chính quyền tỉnh Hà Nội. Đối xứng với những công trình
dinh thự trên qua trục chính tâm của Cấm Thành thời Nguyễn. Hay nói khác, đối
xứng qua khu vực trung tâm số 9 Hoàng Diệu là khu vực dãy công trình phía Tây
(tính từ điểm đầu phía Nam song song với Cột Cờ lần lượt là các công trình: Đàn
Sơn Xuyên , Võ Miếu , Tịch điền , tỉnh khố , Xã Tắc Đàn
, Bố Chánh đường . (cũng ở vị trí sau Bố Chánh đường về phía
Tây là núi Khán Sơn ). Như thế, có thể ước lượng với vị trí hiện nay (lấy các vị
trí của các vật thực hiện còn để so sánh) thì thấy Đàn Sơn Xuyên nay ở
85
khoảng đường Tôn Thất Đàm gần trụ sở Bộ ngoại Giao hoặc gần với Đại sứ Quán
Trung Quốc (46 Hoàng Diệu), Võ Miếu (khoảng khu vực 28 - 30 Hoàng Diệu),
Tịch điền (song song với khu vực Đoan Môn (Khoảng khu vực Tượng
Đài Bắc Sơn), tỉnh khố (Kho của tỉnh có thể chứa lương thực và đạn dược -
khoảng vị trí khu vực sân Quảng Trường lùi về phía Bắc), Đàn Xã Tắc
(gióng sang khoảng nằm ở khu vực giữa khu vực điện Kính Thiên và Hậu
Lâu ) như thế thì đàn này nằm ở khoảng khu vực Phủ Chủ Tịch). Cuối cùng là
Bố Chánh Đường , phía sau Bố Chánh Đường về phía Tây là núi Khán Sơn.
Căn cứ vào bản vẽ này, núi Khán vẫn thuộc khu vực thành Thời Nguyễn. Bố Chánh
Đường có thể là khu vực vườn hoa Mai Xuân Thưởng (Nơi tiếp giáp đầu đường
Quán Thánh, Thụy Khuê và đầu đường Hoàng Hoa Thám).
Có thể thấy rằng, cách bài trí các công trình dọc theo phía Đông và phía Tây
hai bên khu vực thuộc HTTL thời nay ở vào thời điểm triều Nguyễn thì cơ bản phía
Đông là nơi làm việc của các cơ quan công quyền của tỉnh Hà Nội còn khu vực phía
Tây dành cho tâm linh. Nhưng ở đây cần chú ý hai công trình tâm linh quan trọng là
đàn Sơn Xuyên (đàn tế núi, sông) ở khu vực song song với Kỳ Đài (Cột Cờ) và đàn
Xã Tắc ở khu vực khoảng giữa và song song với Điện Kính Thiên và Hậu Lâu
(Khoảng khu vực 18 Hoàng Diệu). Bản đồ niên hiệu Đồng Khánh này cũng cho biết,
khác với thời Lê, việc tế Xã Tắc không còn tổ chức ở khu vực Xã Đàn (khu vực Ô
Chợ Dừa) nữa mà đã chuyển vào phía trong khu vực thành Hà Nội. Việc tế thần Núi,
thần Sông cũng được tổ chức ở trong thành Hà Nội.
Bao trọn khu vực trục trung tâm HTTL và hai bên phía Đông và phía Tây
của hai dãy gồm các cơ quan, trụ sở làm việc và khu vực tâm linh triều Nguyễn là
một tòa thành hình ngôi sao xây theo kiểu vauban có 5 cửa chính: Phía Đông có
Đông môn; Phía Tây có Tây môn; Phía Nam có 2 cửa (Đông Nam môn và Tây Nam
86
môn); phía Bắc có Bắc Môn. Ngoài sử liệu bản đồ liên quan đến các công mà hình
vẽ bản đồ phản ánh, hiện nay cửa phía Bắc vẫn còn chữ “Chính Bắc Môn” .
Khu vực phía Tây tuy không còn cổng như Cửa Bắc nhưng di vật đào được năm
1973 (khởi công công trình Lăng Chủ Tịch Hồ Chí Minh) phát hiện tấm biển đề
bằng một tấm đá lớn ghi chữ Hán “Tây Môn ” (nay trưng bày tại Bảo tàng Lịch
sử Việt Nam. Khu vực phía Nam nay còn địa danh phố Cửa Nam có đường Trần
Phú chạy qua. Đó cũng là quy mô của thành Hà Nội thời Nguyễn được phản ánh
qua bản đồ Đồng Khánh (1886). Chắc chắn công việc chuẩn bị và tiến hành đo vẽ
bản đồ của các tỉnh, huyện trong cả nước phải được chuẩn bị trong thời gian dài
trước đó và đến năm 1886 mới hoàn thành. Bản đồ Đồng Khánh ra đời có ý nghĩa
lớn đối với việc tìm hiểu về bản đồ hành chính trong cả nước của thời Nguyễn.
Riêng đối với HTTL, bản đồ này còn cung cấp những thông tin tương đối xác thực
về quy mô của thành Hà Nội để từ đó có thể hình dung được tòa thành Thăng Long
thời Lê và trước đó nữa. Điều đặc biệt là chỉ sau khi Đồng Khánh bản đồ ra đời
trong một thời gian ngắn, tòa Thành Hà Nội bị phá đi, khu vực vùng lõi của khu vực
trục chính tâm từ Cột Cờ đến khu vực Cửa Bắc cũng thay đổi nhiều. Trên khuc vực
không gian điện Long Thiên, người Pháp đã cho xây thêm tòa nhà ở vị trí đó gọi là
tòa Pháo Binh (sau này gọi là Nhà Con Rồng, năm 1886), rồi xây tiếp hai nhà dải vũ
hai bên phía Đông và phía Tây điện Long Thiên (tức điện Kính Thiên) vào năm
1888 (sau này gọi là khu vực nhà N31, N33). Tiếp tục gần một thập kỷ sau, các ngôi
nhà phục vụ cho mục đích quân sự cũng được xây dựng trước sân Đan Trì như hai
ngôi nhà vuông N19, N24 và nhà Cục Tác Chiến bề thế cũng được xây dựng trong
không gian điện Kính Thiên.
Các công trình dấu vết cuối cùng của triều Lê Trung hưng như hai dải vũ
chạy song song bên hành cung phía Đông và phía Tây đoạn từ khu vực gần Cửa
Đông, Cửa Tây chạy thẳng ra Đoan Môn được xây dựng dùng để cho các quan vào
chầu trú chân khi tránh mưa hoặc điện Thị Triều ở dưới sân - trước điện Kính Thiên
cũng là nơi thường được dùng để vua thiết triều đã từng được miêu tả trong một số
87
nguồn tư liệu thư tịch cuối thời Lê thì đã không được phản ánh trong Đồng Khánh
địa dư chí thời Nguyễn. Khảo cổ tại khu vực dọc theo dải phía Đông và phía Tây
sân Đoan Môn, trên địa tầng văn hóa thời Lê Trung hưng cũng đã phát hiện được
nhiều dấu vết nền móng kiến trúc, kiến trúc cột cùng các bước gian (khoảng 3m)
đều nhau chạy theo hướng Bắc - Nam vị trí của hai nhà dải vũ trên sân Đan Trì
trong Cấm Thành Thăng Long. Cho đến nay, chưa có một chuyên khảo riêng về
thời gian xây dựng và hạ giải những công trình này. Có thể nói, hình ảnh của nhiều
công trình thời Lê Trung hưng đã vắng bóng trên bản đồ HTTL thời Nguyễn.
Tựu chung lại, nguồn sử liệu bản đồ cổ thời Lê và thời Nguyễn trở thành một
nguồn sử liệu quan trọng không chỉ giúp cho người đọc hiểu được quy mô và cấu
trúc của HTTL thời kỳ đó mà còn có thể cung cấp cho người đọc hình dung được
phần nào về quy mô, cấu trúc của HTTL của thời kỳ gần với nó. Đây là bản vẽ có
biểu thị được hiện thực cảnh quan, sông, ngòi, hồ, ao, cổng, các công trình dinh thự,
nhà cửa với sự mô tả chân thực, trực quan. Tuy nhiên, rất nhiều bản đồ, đặc biệt là
bản đồ thời Lê có một hạn chế rất lớn đó là bản vẽ mang tính tượng trưng, ước lệ,
mang tính đại diện, không thể hiện hết được tên gọi và danh mục, số lượng các công
trình hiện có trên thực tế. Mặt khác, vễ kỹ thuật đo vẽ trên bản đồ không có đầy đủ
các quy ước về kí hiệu thể hiện màu sắc, đường nét thể hiện và đặc biệt là không có
tỷ lệ xích. Chính vì thế, ngày nay rất khó cho việc hình dung về quy mô, kích thước
thực cũng như khoảng cách của các công trình được thể hiện trên bản đồ cổ.
2.4. Sử liệu vật thực
Trong các năm từ 2002 đến nay, khu vực HTTL đã tiến hành khai quật với
quy mô lớn, với nhiều phát hiện mới mẻ, độc đáo. Chúng tôi có thể phân chia di tích
theo niên đại: Di tích thời Đại La, di tích thời Lý, di tích thời Trần, di tích thời Lê
… phát hiện trong khu vực HTTL đồng thời cũng có thể trình bày tuần tự theo thời
gian, quá trình khai quật và phát hiện.
Các di tích thời Lý - Trần - Lê được kiến thiết trực tiếp ngay trên nền của các
di tích thời Đại La. Tuy nhiên, các di tích thời Đại La do phát hiện còn quá đơn lẻ
của từng bộ phận kiến trúc lại nằm ở tầng dưới của văn hóa thời Lý - Trần và Lê.
88
Mặt khác, những di tích kiến trúc sau thời Đại La lại rất quan trọng cần phải được
bảo tồn nên khó có điều kiện đào sâu xuống dưới được. Vì vậy, cơ hội để tìm kiếm
các di tích thời Đại La khó thực hiện được. Đây cũng là lý do vì sao trong toàn bộ 4
khu khai quật A, B, C, D, chưa có nơi nào tìm được trọn vẹn mặt bằng một đơn
nguyên kiến trúc thời Đại La, ngoại trừ một số đoạn nền nhà hay một số móng trụ
cột gỗ là những bộ phận của công trình kiến trúc đã nêu ở trên. Về mặt kiến trúc, tác
giả đã đi đến nhận định: “Phát hiện về kỹ thuật có tính chất quan trọng hơn, đó là
thời kỳ này các công trình kiến trúc chủ yếu được xây dựng bằng cách chôn cột
xuống lòng đất, tạo ra sự vững chắc cho công trình. Để phân biệt với kỹ thuật xây
dựng cột đặt trên nền nhà (cột dương), nhiều nhà nghiên cứu đưa ra khái niệm gọi là
“cột âm”. “Cột âm” như là một đặc trưng của kỹ thuật thời Đại La.
Sau khi khai quật khu vực xây dựng nhà Quốc Hội (Tháng 3/2008 - đến
tháng 7/2009), các nhà khảo cổ học đã phát hiện được một quần thể kiến trúc gồm
17 công trình kiến trúc thời Đại La, cung cấp những tư liệu hoàn toàn chính xác để
khẳng định điều nhận xét trên, nghĩa là phần lớn các công trình kiến trức thời Đại
La được xây dựng bằng “cột âm”, chôn cột xuống lòng đất. Từ những kết quả
nghiên cứu về di tích thời Đại La và thực tiễn quá trình khai quật di tích Đại La
trong khu vực khu B, D và khu vực nhà Quốc Hội, đã cho thấy:
+ Chính trung tâm của thành Đại La thời Lý từng là trị sở của An Nam Đô
Hộ phủ thuộc thời Đường. Nói cách khác Cấm Thành Thăng Long được xây dựng
đúng vị trí của tòa thành Đại La cũ, trên cơ tầng của lị sở An Nam Đô Hộ phủ.
+ Sự sầm uất, trù phú và địa thế thuận lợi của vùng đất An Nam Đô Hộ phủ
khi đó là lý do quan trọng thôi thúc vua Lý Công Uẩn chọn làm nơi định đô, biến
vùng đất đồn trú của người Hoa trở thành trung tâm chính trị, văn hóa lớn của nước
Đại Việt, mở ra kỷ nguyên mới cho nền văn minh Đại Việt, đặt nền móng cho sự
phát triển của kinh đô Thăng Long dưới các triều đại tiếp theo. PGS.TS Tống Trung
Tín trong bài viết: Dấu ấn Vương triều Lý sau 1000 năm từ phát hiện của Khảo cổ
học tại khu di tích Hoàng thành Thăng Long đã giới thiệu về 4 vấn đề: của Hoàng
Thành Thăng Long sau khi nghiên cứu các di tích khảo cổ học tại đây:
89
+ Về quy hoạch mặt bằng không gian kiến trúc
+ Về loại hình và quy mô
+ Về kỹ thuật xây dựng nền móng
+ Về nghệ thuật trang trí mái
Về mặt bằng không gian kiến trúc, tác giả cho biết năm 2006 - 2007, kết hợp
với các nhà nghiên cứu Nhật Bản áp dụng lưới tọa độ cho biết: “Kết quả nghiên cứu
gần đây cho thấy rằng, toàn bộ hệ thống mặt bằng di tích kiến trúc thời Lý ở đây
đều được thiết kế xây dựng rất quy chuẩn, khoa học thể hiện rõ sự thống nhất cao về
phương vị, cụ thể là mặt nền móng của các công trình luôn nằm song song hoặc
trùng khớp với phương vị của lưới tọa độ Hoàng Thành Thăng Long, Bắc lệch
Đông khoảng 4 độ hoặc 5 . Điều cần lưu ý rằng, mặt nền móng của công trình
kiến trúc thời Lý phát lộ tại khu di tích rất phong phú, đa dạng, phân bố theo chiều
dọc (Bắc - Nam) hoặc chiều ngang (Đông - Tây) và gồm các loại mặt bằng: Hình
chữ nhật, hình vuông, hình lục giác hay bát giác được thiết kế xây dựng trong một
phạm vi rộng lớn, có quy mô lớn và mang tính kiên cố. PGS. TS Tống Trung Tín
cho biết, qua kết quả khai quật khu vực nhà Quốc Hội cho thấy, các công trình kiến
trúc thời Lý trong Cấm Thành và Hoàng Thành Thăng Long từng được qui hoạch
rất bài bản trước khi xây dựng. Đây có thể được xem là một trong những thành tựu
quan trọng trong kiến trúc cung đình thời Lý đồng thời cũng là sự thể hiện tư duy
khoa học và việc chuẩn bị trong công tác quy hoạch Hoàng Thành của vương triều
Lý.
+ Phân tích về loại hình và quy mô, cấu trúc phát hiện ở Hoàng Thành Thăng
Long gồm có các loại: Loại hình kiến trúc hình chữ nhật; Loại hình kiến trúc hình
lục giác và loại kiến trúc hình Bát giác;
Trong loại hình kiến trúc hình chữ nhật, tác giả đã chỉ ra trong đó có nhiều
quy mô khác nhau: Kiến trúc hành lang có 3 hàng cột; kiến trúc nhà dài có 3 hàng
cột; kiến trúc nhà dài có 2 hàng cột; kiến trúc nhà dài có 4 hàng cột; kiến trúc nhà
dài có 6 hàng cột; kiến trúc lớn có 7 hàng cột; Các loại hình kiến trúc cổng, có 2
90
loại hàng cột và loại có 4 hàng cột. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra một trường hợp đó
là kiến trúc đặc biệt có 4 cột kép, móng trụ lớn hình chữ nhật. Chính vì thế, việc xác
định những loại kiểu kiến trúc gần vuông này thuộc kiến trúc lầu gác hay kiến trúc
cổng (?). Bên cạnh những cột móng trụ, các nhà khảo cổ còn phát hiện được nhiều
kiến trúc đường nước với một hệ thống dày đặc. Sự phân bố các đường nước bên
các dấu tích công trình kiến trúc, phản ánh trình độ kỹ thuật xây dựng, cách xử lý
môi trường và chức năng của những công trình đó có sự liên quan đến đời sống sinh
hoạt hàng ngày.
+ Loại hình kiến trúc lục giác và loại hình kiến trúc bát giác; Trong mô hình
kiến trúc phát hiện ở HTTL, đó là kiến trúc Lục giác và Bát giác, loại hình này xuất
hiện đã phản ánh trình độ xây dựng, sự phát triển phong phú, đa dạng về loại hình
cũng như trình độ xây dựng thời Lý. Đây là loại hình kiến trúc rất độc đáo của các
Kinh thành Châu Á và phản ánh tính chất rất đặc biệt quan trọng của khu di tích.
Vị trí kiến trúc bát giác thuộc phía Tây Nam (khu C), có quy mô lớn, đường
kính nền rộng 21,4 m, có 8 móng trụ kép đôi (tức 16 móng trụ).
Kết quả khai quật khảo cổ học từ 2002 đến 2018.
Trong các năm từ 2002 đến khoảng những năm trước 2010, khu vực tiến
hành khai quật khảo cổ học với quy mô lớn được tập trung mở rộng tại 18 Hoàng
Diệu và 62 - 64 Trần Phú với tổng diện tích hơn 20.000 m², chia ra làm nhiều khu
vực: Khu A, B, C, D, E. Tại các khu vực di tích, xuất hiện nhiều di tích khảo cổ với
nhiều loại hình công trình như: giếng nước, công trình dinh thự, nhà ở, sân, vườn,
cống thoát nước, dấu tích lòng hồ, dấu tích dòng sông cổ và hàng triệu hiện vật với
rất nhiều chất liệu như: Gốm, sứ, gỗ, đất nung, các loại di cốt người và xương các
loại động vật. Về đồ dùng sinh hoạt phục vụ đời sống cũng đã xuất hiện nhiều hiện
vật như: Các vật dụng sinh hoạt: Bát, đĩa, điếu bát...; Các loại vũ khí như: Kiếm,
súng thần công, đạn đá... hiện vật kiến trúc mang đậm phong cách cung đình như:
Đầu rồng, đầu uyên ương bằng đất nung, chim phượng, các loại ngói thanh lưu ly,
hoàng lưu ly... Những dấu tích kiến trúc, hiện vật, di chỉ khảo cổ đã chứng minh sự
91
phát triển liên tục qua nhiều thời kỳ của Kinh đô Thăng Long suốt hơn 1000 năm
tuổi. Có thể nói, phát lộ khu di tích Hoàng Thành Thăng Long là một sự kiện lớn
của ngành khoa học xã hội nói chung và ngành sử học, khảo cổ học nói riêng.
Năm 2010, Hoàng Thành Thăng Long - Hà Nội được tổ chức Văn hóa, Giáo
dục Liên hiệp quốc (UNESCO) vinh danh là Di sản Văn hóa thế giới. Theo khuyến
nghị của ICOMOS, HTTL vẫn phải tiếp tục tiến hành công tác khảo cổ học nhằm
làm sáng tỏ một số vấn đề về lịch sử, văn hóa. Do đó, từ năm 2011 đến năm 2013,
Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long Hà Nội phối hợp với viện Khảo cổ học tiếp
tục tổ chức các cuộc khai quật khu vực số 9 Hoàng Diệu. Khu vực khai quật khảo
cổ trong những năm này, chủ yếu trong khu vực từ trước Đoan Môn cho đến xung
quang khu vực điện Kính Thiên nhằm phục vụ đề án: Nghiên cứu hoàn trả không
gian điện Kính Thiên. Tại khu vực này đã phát lộ nền móng các công trình, dinh thự
có quy mô lớn, có hệ thống đường nước lớn, có không gian sân, vườn, tiểu cảnh,
bồn hoa… được bài trí không gian của Cấm Thành Thăng Long. Điều khẳng định
chắc chắn rằng, trong không gian của các công trình kiến trúc thời Lý - Trần - Lê
sơ, Lê Trung hưng thì trước đó, vào thời Đại La chính tại nơi đây là trung tâm Đô
Hộ phủ thuộc Đường. Dưới tầng văn hóa sâu trước thời Lý - Trần là tầng văn hóa
Đại La với nhiều hiện vật khảo cổ học chứng minh.
Trong các năm tiếp theo, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 Trung tâm bảo tồn di
sản Thăng Long - Hà Nội phối hợp với Viện Khảo cổ học đã tiến hành khai quật
khu vực từ phía Bắc sân Đoan Môn cho đến không gian sân Long Trì và khai quật
thám sát khu vực nền điện Kính Thiên, Thềm Rồng và khu vực phía Tây và phía
Đông giáp giới tường bao của khu vực Hoàng Thành Thăng Long - hiện nay cho
thấy đây là khu vực khảo cổ có tầng văn hóa khá phức tạp, nhiều chỗ đã bị đào sới
do xây dựng các công trình ở giai đoạn sau ăn vào nền các di tích trước đó vì thế rất
khó hình dung. Kết quả khai quật khu vực dọc theo hai bên hành lang phía Đông và
phía Tây tường bao phía Bắc Đoan Môn các năm 2014, 2015 cho thấy, bên cạnh các
đường nước lớn chạy theo chiều Đông - Tây với nhiều dấu tích nền móng của các
công trình kiến trúc thời Lý - Trần - Lê chồng xếp lên nhau. Đặc biệt, với các dấu
92
tích móng cột được phân bố đều nhau chạy dọc theo chiều Bắc Nam và chiều Đông
- Tây cho phép đoán định vào thời Lê Trung hưng tại vị trí này là kiến trúc hành
lang dải vũ chạy song song đối xứng nhau qua sân lớn Long Trì phía trước Đoan
Môn. Đây chính là không gian quan trọng bậc nhất của khu vực điện Kính Thiên
thời Lê. Những tư liệu vật thực miêu tả về hai dãy hành lang chạy song song với
nhau đăng đối qua Đoan Môn cũng rất phù hợp so sới những ghi chép về quy hoạch
khu vực trước điện Long Thiên thời Nguyễn: xây hai nhà lang dải vũ chạy song
song với nhau. Kết quả khai quật năm năm 2015, 2016 đã cung cấp nhiều tư liệu
khảo cổ cho thấy, rất nhiều khả năng di tích Đoan Môn hiện nay được xây dựng từ
thời Lê Trung hưng (Tk XVII - XVIII) thay vì nhận thức trước đây cho rằng di tích
Đoan Môn được xây dựng từ thời Lê (Tk XV). Nếu nhận định về di tích khảo cổ
này đúng thì nó cũng minh chứng Thăng Long thời Lê - Trịnh không phải hoàn toàn
là giai đoạn suy thoái mà ngược lại có giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Trong các năm
tiếp theo, kế hoạch khai quật khu vực không gian chính điện Kính Thiên vẫn tiếp
tục được Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội quan tâm nghiên cứu
nhằm làm sáng tỏ hơn về không gian quyền lực của Cấm Thành Thăng Long trong
lịch sử nói chung và không gian Chính điện Kính Thiên thời Lê nói riêng.
Nếu phân chia theo loại hình di tích thì trong HTTL cũng xuất hiện khá
phong phú các loại hình di tích: Di tích cư trú (Bao gồm các cung điện, dinh thự,
nhà ở, bếp, giếng nước sinh hoạt, …); Di tích công trường, sản xuất (xuất hiện một
số lò gốm); Di tích thủy lợi, môi trường (ao, hồ, đầm lầy, sông, ngòi, thảm thực vật,
động vật…); di tích mộ táng (Phát hiện được nhiều ngôi mộ táng theo nghi thức và
rất nhiều mộ táng không theo nghi thức)… tất cả những loại hình trên đều là những
nguồn sử liệu cung cấp cho nhà sử học những thông tin hữu ích.
Nguồn sử liệu di vật phát hiện trong HTTL rất phong phú, có thể chia theo
chất liệu: Hiện vật đá, gạch, ngói, sành, gốm, gỗ… hay cũng có thể chia theo chức
năng sử dụng như: Đồ dùng sinh hoạt (lại có thể chia ra đồ ngự dụng và đồ bình
dân) và vật liệu xây dựng… Về vật liệu xây dựng HTTL có thể tạm chia làm 3
dạng: Vật liệu có chữ viết; Vật liệu không có chữ viết không có hoa văn; Vật liệu
93
không có chữ viết có hoa văn trang trí…
Nguồn sử liệu vật thực có chữ viết
Hiện vật khảo cổ có chữ viết, có giá trị thông tin chính xác, giúp cho các nhà
nghiên cứu xác định niên đại, chủ nhân của hiện vật hay công năng, tác dụng, nguồn
gốc xuất xứ… của hiện vật được thuận lợi hơn. Đây chính là thông điệp của tiền
nhân để lại cho thế hệ sau. Nhiều khi chỉ cần một chữ trên hiện vật khiến vấn đề trở
lên sáng tỏ. Qua lịch sử các cuộc khai quật khảo cổ, các nhà nghiên cứu đã phát
hiện được nhiều hiện vật có chữ viết. Chữ viết trên gốm sứ gọi là minh văn ,
chữ viết trên chuông đồng gọi là minh chung , chữ viết trên đá gọi là bi văn
, bi kí … những dạng chữ viết được khắc trên các loại chất liệu như: đá,
đồng, gỗ, gốm,…đều được giới nghiên cứu Việt Nam gọi chung là văn khắc ,
còn GS Hà Văn Tấn gọi chung là “Minh văn”. Tại di tích HTTL trong quá trình
khai quật chưa phát hiện được văn bia, minh chuông hay những tác phẩm, văn bản
văn khắc có quy mô lớn, phần lớn chỉ phát hiện được những di vật kiến trúc có chữ
trên các chất liệu: Gạch, ngói, gỗ…
+ Thời Lý có các hiện vật có chữ như: Lý gia đệ tam đế Long thụy Thái bình
tứ niên tạo: (năm thứ 4 niên hiệu Long Thụy Thái
Bình, đời vua thứ 3 (tức Lý Thánh Tông) nhà Lý (1056); Lý gia đệ tam đế Chương
Thánh Gia Khánh thất niên tạo: (Năm thứ 7, niên
hiệu Chương Thánh Gia Khánh (1065); Lý gia đệ tứ đế Long Phù Nguyên Hóa ngũ
niên tạo: (Năm thứ 5 niên hiệu Long Phù Nguyên
Hóa đời vua thứ tư nhà Lý (Lý Nhân Tông - (1105). Hoặc trên hiện vật gạch có
khắc chìm dòng chữ Hán Hoàng môn thự giận giám tạo . Trước đây,
qua nguồn sử liệu chữ viết (trong sử cũ) nhiều lần đề cập đến chức Hoàng Môn
quan (Một chức quan giúp việc trong Hoàng cung - Người được chọn làm công việc
94
trong Hoàng Môn thự ngoài tài năng còn phải tịnh thân (tự yếm) như Lý Thường
Kiệt là một thí dụ tiêu biểu. Qua nguồn sử liệu vật thật một lần nữa khẳng định
trong HTTL thời Lý từng tồn tại một cơ quan Hoàng Môn Thự để giúp việc cho nhà
vua. Cũng tương tự như trường hợp có sự trùng hợp giữa nguồn sử liệu chữ viết và
nguồn sử liệu vật thực như hiện vật gạch mang tên “Hoàng Môn Thự Dận Giám
tạo”. Tại HTTL cũng đã phát hiện được hiện vật gốm sứ ghi chữ Động Nhân cung (
). Mảnh gốm khắc chữ “Động Nhân cung” là một phát hiện thú vị và có ý
nghĩa lớn. Trong các tác phẩm chính sử như VSL, ĐVSKTT đều ghi chép về cung
Động Nhân từng là nơi ở của Hoàng Thái hậu Ỷ Lan (? - 1117) mẹ vua Lý Nhân
Tông (1066 - 1128) đem lại nhiều hứng thú cho các nhà khảo cổ học. Từ các phát
hiện này có thể nghĩ rằng, vị trí nơi phát hiện của hiện vật gốm có khắc chữ “Động
Nhân cung” rất có thể là nơi đã từng tồn tại một Động Nhân cung thời Lý (?).
Những vật thật có chữ trên đã cho một thông tin niên đại chính xác. Tuy nhiên,
không phải mọi thông tin trên các vật thực phát hiện trong HTTL đều có thể giải mã
được dễ dàng. Nhiều hiện vật cho đến nay vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu, giải
mã. Chẳng hạn như các chữ đơn lẻ như chữ Nhân ( ), nhất ( ), tam ( ), cửu (
), tá ( ), luật ( ), dương ( )… có ý nghĩa ra sao và phải giải thích như thế
nào mới là chính xác (?) …
+ Hiện vật khắc chữ trên vật liệu kiến trúc thời Trần:
Hưng Long thập nhị niên: ; Hưng Long thập tam niên:
. Niên hiệu Hưng Long là niên hiệu duy nhất của vua Trần Anh Tông (1276 -
1320), làm vua trong khoảng thời gian (1293 - 1314). Vậy Hưng Long 12 (tức năm
1304) và Hưng Long 13 (tức 1305). Ngoài ra, tại HTTL còn phát hiện được một
viên gạch có khắc chữ: Hưng Hóa thiền tự . Rất có thể chùa “Hưng Hóa
thiền tự” đã từng được xây dựng ở trong Cấm Thành Thăng Long thời Trần. Các địa
95
danh khác được ghi trên gạch như: Đại Thông Độ ; Đại Thông Độ Ông
; Tuyên Quang Giang Vị Long châu ; Tuyên Quang Giang Long
huyện ; Tuyên Quang trấn ; Vĩnh Ninh trường ; Vĩnh
Khang viên ; Lưu Gia Tạo Pháp , Thu Vật huyện, Thu Vật châu
, … xuất hiện rất nhiều và rất có thể đây là tên của những địa phương
đã tham gia đóng góp tiền để mua gạch. Hoặc viên ngói nóc to bản kích thước 20
cm x 35 cm có viết chữ bằng mực (màu đen) với chữ Thiên Trường lộ vệ úy
… đã khiến người đời nay nghĩ rằng, trước khi lợp ngói, viên gạch đó vô tình
hay hữu ý đã được người thợ viết chữ lên trước khi lợp. Vào thời Lý, chia đất nước
làm 12 “lộ”, trong đó có “lộ” Thiên Trường. Đơn vị “lộ” lần đầu tiên xuất hiện
trong lịch sử là năm Kiến Gia năm thứ 2 (1222). ĐVSKTT ghi: “Mùa xuân, tháng 2,
chia nước làm 24 lộ” [145; 337]. Vậy “Thiên Trường lộ, Vệ úy” là một chức quan
được ra đời vào cuối triều Lý, đầu triều Trần. Nhưng niên đại chính xác là năm nào
thì chưa thể khẳng định. Như thế, niên đại được ghi trên viên ngói lợp này không
thể xuất hiện sớm hơn năm 1222. Vậy thông tin trên viên ngói mang phong cách
thời Trần có ghi tên đơn vị hành chính đương thời cũng phù hợp với những thông
tin về đơn vị hành chính của Đại Việt được phản ánh trong sử cũ.
+ Vật thực liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng:
Tại Hoàng Thành Thăng Long xuất hiện khá nhiều vật thật liên quan đến lĩnh
vực tôn giáo, tín ngưỡng, được thể hiện trên nhiều chất liệu như: Gốm sứ,
gỗ…Chẳng hạn như chữ viết trên đáy một chiếc bát thời Trần được tráng men nâu
với tám chữ Hán được phân bố đều đặn trên một đường tròn đồng tâm và đã được
đoán định có thể đây là một chiếc bát có khả năng được sử dụng trong tôn giáo và
có thể là của Đạo giáo (?). Hay dưới đáy của nhiều hiện vật (đĩa, bát) gốm sứ thời
Lê có in chữ “Kính” ( ). Từ thông tin này có thể đoán định những hiện vật trên
96
được dùng trong tín ngưỡng thờ cúng (?).
Ngoài các hiện vật bằng gốm sứ còn có cả những vật thực khắc chữ. Chẳng
hạn như tại hố khai quật G18, khu vực Vườn Hồng còn phát hiện hiện vật gỗ khắc 4
chữ Hán “Sắc mệnh chi bảo” mà cho đến nay còn có nhiều ý kiến khác
nhau. Hiện vật này được phát lộ năm 2012, hình vuông, kích thước 10,5 cm, dày 0,5
cm, bị tách làm 2 mảnh khi phát lộ. Có ý kiến cho rằng, đây là hiện vật ấn có từ thời
Trần Thái Tông (1258), dùng để đóng vào Sắc lệnh thưởng quân khi thắng trận, ấn
này được sử dụng trong quân đội, sau cuộc kháng chiến chống quân Nguyên -
Mông lần thứ Nhất mà sách ĐVSKTT đã ghi về việc “định công, phong tước” [145;
29]. Có ý kiến khác lại cho rằng, đây là ấn được đóng vào một loại sắc phong như
đã thấy ở các đền miếu. Lại có ý kiến cho rằng, hiện vật này không thể có từ niên
đại thời Trần mặc dù phát hiện trong tầng văn hóa khảo cổ thời Trần, nó là hiện vật
thời Lê không thể xuất hiện trước năm 1434 (Năm triều đình nhà Lê ban hành 6 loại
ấn dùng trong hành chính và tôn giáo trong đó có ấn “Sắc mệnh chi bảo”. Mặt khác,
có nhà nghiên cứu đề nghị cần phải so sánh trong tương quan với điển chế Trung
Hoa thì loại ấn “Sắc mệnh chi bảo” ở HTTL không thể xuất hiện trước năm Chu
Nguyên Chương ban hành 17 loại bảo tỷ trong đó có Sắc Mệnh chi bảo (1368) và
trên thực tế, Minh Thành Tổ chính thức cho đúc loại ấn này năm 1402. Do đó có ý
kiến cho rằng, cần phải nghiên cứu hiện vật gỗ có khắc chữ này trên nhiều giác độ
như: về niên đại, công năng, định danh, chất liệu gỗ và cũng cần phải áp dụng thành
tựu khoa học tự nhiên giám định niên đại C14…
+ Sử liệu vật thực liên quan đến các phiên đội, quân đội: Trong rất nhiều các
hiện vật có chữ viết được phát hiện trong HTTL, các nhà khảo cổ đã phát hiện được
một số vật thực có chữ viết mang tên của một số phiên đội được ghi trên gạch vồ
thời Lê. Nhiều hiện vật có đặc điểm được khắc theo khuôn có sẵn như các chữ:
Hùng Hổ quân , Tráng Phong quân , Phủng/Bổng Thánh quân
.
Có thể nói rằng, hiện vật, vật liệu xây dựng (chủ yếu là gạch, ngói) khắc chữ
97
được phát hiện trong khu vực HTTL đã đem lại nhiều thông tin giá trị. Từ những
thông tin này, kết hợp với tầng văn hóa phát hiện sẽ là những nguồn sử liệu kiểm
chứng lẫn nhau, hỗ trợ nhau giúp cho các nhà nghiên cứu xác định niên đại và
nghiên cứu được thuận lợi hơn. Trong những hiện vật phát hiện ở HTTL có một số
đặc điểm là: nhiều hiện vật gạch thời Lý có khắc niên hiệu, niên đại tuyệt đối, tên
các cung điện… Thời Trần, (và đầu triều Hồ) nhiều hiện vật vật liệu xây dựng lại
thường mang tên của một số địa phương như xã, phường, trại,… tham gia đóng góp
xây dựng Kinh Thành. Đồng thời, trong các hiện vật là vật liệu xây dựng lại xuất
hiện nhiều tên gọi của các đơn vị quân đội tham gia xây dựng hoặc đóng góp vật
liệu xây dựng.
Ngoài vật thực có chữ viết được thể hiện bằng chữ Hán Nôm trên nhiều loại
hình chất liệu như gạch, ngói, gốm sứ, gỗ… còn có chữ viết cổ Chămpa viết trên
gạch nung. Đây là sử liệu quý và độc đáo góp phần làm phong phú nguồn sử liệu
chữ viết phát hiện tại HTTL. Tuy nhiên, về nội dung chữ viết Chămpa phát hiện ở
HTTL còn quá ít và dung lượng ngắn, mặt khác về lĩnh vực nghiên cứu chữ
Chămpa cổ còn thiếu chuyên gia nên chưa thể hiểu một cách tường tận về nội dung
của hiện vật chứa đựng thông tin này.
Vật liệu xây dựng như: gốm sứ, gạch, ngói, cột chân tảng… không có chữ
viết, không có hoa văn
Những hiện vật vật liệu xây dựng không có chữ viết, không có hoa văn, gồm:
một số chân tảng, và một số gạch xây dựng, chủ yếu là gạch xây tường. Căn cứ vào
một số đặc điểm này, các nhà nghiên cứu có thể dựa một phần nào đó để xác định
công năng của chúng.
Hiện vật không có chữ viết, có hoa văn trang trí các biểu tượng
Ngoài ra còn có nhiều hiện vật không có chữ viết nhưng có hoa văn trang trí
được phát hiện ở HTTL với chủng loại rất phong phú như: Loại gạch trang trí, ngói
trang trí có hình nhũ đinh, trang trí hình quả trám, gạch trang trí hoa văn hoa cúc
dây, trang trí lá đề hay trang trí cánh sen, gạch trang trí hình rồng, phượng… Từ
những đặc điểm phản ánh trên hiện vật, các nhà nghiên cứu căn cứ vào phong cách
98
đặc biệt là các linh vật đặc trưng như rồng, phượng … để có thể đoán định niên đại.
Do đó, đối với các nhà nghiên cứu, đây cũng là nguồn sử liệu quan trọng. Chẳng
hạn như các hiện vật gạch và các hiện vật gốm sứ có trang trí hình rồng, phượng
mang đặc trưng của từng thời đại. Rồng thời Lý khác rồng thời Trần, rồng thời Trần
khác rồng thời Lê, thời Mạc, thời Nguyễn… Uyên ương thời Đinh - Tiền Lê phát
hiện ở HTTL giống hình vịt (duck) giống như đã từng phát hiện được ở Hoa Lư
nhưng đến thời Lý - Trần số lượng uyên ương xuất hiện nhiều với vẻ đẹp cách điệu,
kiều diễm, khác xa với tượng vịt và giống như hình chim Phượng. Đây cũng là một
bằng chứng cho thấy đặc điểm của kiến trúc cổ Đại Việt ở HTTL khác với kiến trúc
cổ của Trung Hoa. Nếu như ở Trung Hoa, đồ án thú chạy ( ) và biểu tượng Xi
Vẫn ( ), Xi Vĩ ( ) xuất hiện nhiều thì ở Hoàng cung Thăng Long thời Lý -
Trần - Lê, đồ án Uyên ương chiếm vị trí trang trọng được trang trí ở trên nóc các
cung điện.
Màu sắc và kỹ thuật làm nên hiện vật cũng là một trong những yếu tố quan
trọng, là nguồn tư liệu để các nhà nghiên cứu đánh giá. Bản thân hiện vật đã phản
ảnh được nguồn gốc xuất xứ, trình độ tạo tác, đối tượng sở hữu đồng thời phản ánh
trình độ khoa học - kỹ thuật và thẩm mỹ của thời đại. Hiện vật phát hiện ở HTTL có
sự phân cấp rõ rệt trên các sản phẩm đặc biệt là hiện vật sinh hoạt và các công trình
xây dựng. Trên các hiện vật sinh hoạt hiện trưng bày tại HTTL cho thấy, đồ ngự
dụng dùng cho vua và Hoàng gia với chất lượng đặc biệt, thể hiện sự tôn quý.
Chẳng hạn như các hiện vật có hình rồng, phượng trên các bát, đĩa phát hiện trong
HTTL. Có những bát thấu quang (Tk XV), với hình ảnh rồng khắc nổi đặc trưng
rồng thời Lê thể hiện trình độ sản xuất và kỹ thuật nung rất đặc biệt. Bên cạnh đó,
còn xuất hiện những đồ dùng sinh hoạt bình dân. Có thể, đây là những thứ dùng cho
các gia đình quan lại hoặc cung nữ, người hầu sinh sống trong khu vực Hoàng cung.
Những hiện vật ngói lợp cũng là những bằng chứng về sự hiện diện của
những cung điện sang trọng, lộng lẫy trong chốn Hoàng cung Thăng Long thời Lý -
Trần - Lê. Đó là những hiện vật ngói lợp như Hoàng lưu ly, Thanh lưu ly. Hiện nay,
99
chưa xác định được dinh thự của vua thực sự dùng loại ngói màu gì. Nhưng theo Lê
Quý Đôn trong Vân đài loại ngữ cho biết: “Trung Quốc không cấm dùng ngói ống;
nhưng cung, điện thì dùng màu vàng, chùa, miếu thì dùng màu xanh, nhà quan, dân,
dùng màu đỏ” [34; 131]. Ở HTTL, các thông tin về mầu sắc ngói lợp gắn với vị trí
xuất hiện các loại ngói lợp đó còn chưa được nghiên cứu kỹ và cũng rất phức tạp.
Bởi lẽ, cùng trong một vị trí hố khai quật nhiều khi lại xuất hiện nhiều loại ngói lợp
với các loại màu sắc khác nhau…
Hiện vật gỗ
Bên cạnh hiện vật gỗ có khắc chữ được gọi là ấn gỗ “Sắc mệnh chi bảo”
như trên đã đề cập, tại HTTL còn xuất hiện khá nhiều những hiện vật khác
như hiện vật cánh cửa trang trí đồ án hình tròn chữ thọ, Rồng cuộn tròn vào trong
(vẫn thường quen gọi là ổ rồng). Đồ án này có niên đại thời Trần và xác định công
năng, định danh là cánh cửa của một công trình (có thể là cánh cửa của một cung
hay là cánh của một ngôi điện nào đó). Ngoài ra, ở HTTL hiện nay đang lưu giữ
được hàng nghìn đơn vị gỗ được bảo quản trong các bể bêtông chứa đầy nước để
tránh sự co ngót và những tác động của môi trường tự nhiên. Trong những hiện vật
gỗ này, có những hiện vật có kích thước dài 3 - 4 m, nhưng cũng có hiện vật chỉ
khoàng 20 - 30 cm, có hiện vật còn nguyên dáng nhưng có hiện vật bị cháy dở có
thể do những cơn hỏa hoạn hoặc chiến tranh giữa quân giặc Mông - Nguyên hay
quân Chămpa với tông thất nhà Trần tại chính vị trí HTTL hay đó là kết quả của
cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến Lê - Mạc gây ra (?). Việc không còn
nguyên dáng, không còn nguyên hình của các vật thực này đã gây khó khăn cho các
nhà nghiên cứu về kiến trúc trong khi quá trình định danh cũng như việc tìm hiểu
phong cách kiến trúc. Từ việc các đấu củng hầu như rất hiếm hoi xuất hiện tại các di
tích cung, điện ở HTTL đã khiến cho nhiều nhà nghiên cứu đặt câu hỏi: Kiến trúc
Hoàng cung ở Thăng Long có dùng “đấu củng” hay chủ yếu dùng phong cách “kẻ -
bẩy” là chính (?). Về phong cách trang trí mái cũng như phương pháp gia công nền
- móng - trụ đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm lý giải. Nguồn sử liệu về
100
những chứng cứ đó cũng tương đối nhiều. Tuy nhiên, nguồn tư liệu để giúp hình
dung về bộ “thân” của các công trình trong HTTL vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý
giải được trong hiện tại.
Về chất lượng của những vật liệu gỗ được sử dụng trong các công trình tại
HTTL cũng được nhiều nhà nghiên cứu về tự nhiên, môi trường và lâm nghiệp quan
tâm. Bằng các kỹ thuật nghiên cứu về độ co của gỗ, thớ gỗ và phương pháp kiểm tra
bằng C14 …, các nhà nghiên cứu cho biết: gỗ sử dụng trong HTTL thời Lý - Trần -
Lê có nhiều loại gỗ quý thuộc nhóm A như: gỗ Đinh, gỗ Lim Xanh, gỗ Sến, gỗ
Táu… Đây là những loại gỗ quý, hiếm, chắc, khỏe, có khả năng chịu lực lớn, độ
bền cao trước sự xâm hại của khí hậu, độ ẩm và thường được dùng cho việc xây
dựng các công trình có trọng lượng và quy mô lớn.
Hiện vật di cốt người và xương của các động vật
Trong số các vật thực tìm được trong HTTL thì các di tích xương người và
xương động thực vật có ý nghĩa đặc biệt.
Về xương cốt người: Trong khu vực khai quật tại HTTL, các nhà khảo cổ
học đã tìm thấy khoảng 400 - 500 bộ xương cốt người. Những bộ xương cốt người
này có niên đại từ thời Đường (Tk IX - X) cho đến cuối Tk XIX đầu Tk XX. Hầu
hết những bộ xương này đều phát hiện một cách ngẫu nhiên và hầu hết không phải
là mộ táng có nghi thức. Đó là điều khá đặc biệt. Nó đã phản ảnh, HTTL trong
nhiều thời kỳ từng là nơi xảy ra những sự kiện bất an và chiến trận (?). Đặc biệt
nhiều di cốt người được phát hiện ở bên phía Tây của HTTL (nay thuộc khu vực 18
Hoàng Diệu) nhiều hơn là khu vực phía Đông (khu vực số 9 Hoàng Diệu). Về hình
thức táng cũng rất đa dang như: táng đơn, táng đôi, táng tập thể. Qua số lượng và sự
phân bố dày đặc mộ táng cho phép suy đoán: phải chăng khu vực phía Tây của
HTTL một thời bị bỏ hoang hóa, nhiều người dân đã đem di hài người chết đến
chôn cất (?). Điều này có điểm trùng với thông tin được ghi trên sử liệu văn bia Kí
kỵ bi tại chùa Nhất Trụ (chùa Một Cột) [287; Kh 0348, VNCHN] ghi về
việc gia đình vợ chồng ông Lê Văn Khoa ở thôn Đông Thành, tổng Mỹ Thuận,
huyện Thọ Xương, vốn có mộ của cha mẹ nuôi táng tại khu vườn phía Tây chùa
101
Diên Hựu.
Về di cốt động vật cũng đã tìm thấy tại khu vực HTTL với số lượng nhiều
chủng loại như: Động vật nhuyễn thể như: ốc, hàu, ngao; xương gia súc, gia cầm có
các loại như: xương gà, vịt, chó, lợn, dê, bò, hưu, nai, ngựa. Điều đó cho thấy
xương của những gia súc, gia cầm được phát hiện trong HTTL là những thứ đã từng
được dùng làm thực phẩm trong Hoàng cung. Tuy nhiên, cho đến hiện nay, ở HTTL
chưa tìm thấy mối liên hệ của những hiện vật này với di tích tro bếp, hoặc khu vực
công trình nhà ăn được coi là bếp đun hoặc nhà ăn như đã từng tìm thấy di cốt động
vật trên nền sở Thượng điện ở Cố đô Huế thời các vua Nguyễn.
Vật thực qua nghiên cứu địa chất, địa mạo, môi trường, cảnh quan
Khi nghiên cứu về các nguồn sử liệu HTTL, không chỉ có sự tham gia của
các nhà khoa học xã hội và nhân văn mà có sự tham gia của nhiều ngành khoa học
tự nhiên trong đó có sự tham gia của ngành địa chất, địa mạo và môi trường, cảnh
quan. Cùng với các nhà khảo cổ học sinh thái, các nhà nghiên cứu địa chất, môi
trường đã nghiên cứu chất đất, đặc điểm môi trường sinh thái của khu vực HTTL và
đã chỉ ra trong khu vực HTTL có nhiều ao, hồ liên thông với hệ thống sông vừa để
thoát nước cho HTTL vừa tạo cho cảnh quan môi trường hài hòa và đẹp đẽ. Trong
các hố khai quật, các nhà địa chất, địa mạo đã chỉ ra nhiều địa điểm có nhiều bùn
đen, nhiều nơi là sình lầy từng là ao, hồ và trong lớp bùn đen đó còn xuất hiện
nguyên hình những chiếc lá sen in dấu trong bùn, điều đó chứng tỏ trong ao, hồ xưa
có trồng sen. Ngoài ra, trong khu vực HTTL, các nhà nghiên cứu địa chất còn tìm ra
nhiều dấu vết của các loài động vật nhuyễn thể cùng các loại thực vật sống ở môi
trường nước như dưới đáy của hố khai quật, có khi xuất hiện một lớp vỏ sò là trầm
tích của ao, hồ ... Ở một phương diện khác, để củng cố cho những nhận định về
những nghiên cứu trên giác độ địa chất, địa mạo, tại khu vực được cho là dấu tích
của ao, hồ, sông trong khu vực HTTL, các nhà khảo cổ còn phát hiện được cả một
con thuyền bằng gỗ còn nguyên vẹn bị chìm trong lớp bùn ở độ sâu trong lòng đất
102
khoảng 2m thuộc khu vực 18 Hoàng Diệu...
2.5. Nguồn sử liệu dân gian
Nguồn sử liệu dân gian là những tư liệu sưu tầm trong dân gian, chung quanh
khu vực Hoàng Thành Thăng Long có giá trị chứng minh về đời sống văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần của Cung đình Thăng Long nói chung và chứng minh về
quy mô, cấu trúc HTTL nói riêng đều được coi là những tư liệu có giá trị của nguồn
sử liệu này. Đó là những câu ca dao, tục ngữ ca ngợi về địa thế, cảnh quan môi
trường Thăng Long. Hoặc qua tác phẩm thư tịch ghi chép về những câu chuyện
truyền thuyết, cổ tích, giai thoại về HTTL. Những sử liệu này tuy là tác phẩm có
chữ viết, là văn tự được định bản về sau nhưng chúng tôi vẫn có thể xếp vào nguồn
sử liệu dân gian như tác phẩm Tây Hồ chí đã cho biết không gian tâm linh
khu vực Hồ Tây - bên Thành Thăng Long là nơi có rất nhiều đền thờ các vị thần là
nhân thần mà hầu hết là các vị Hoàng tử, công chúa, quan đại thần có công với
HTTL. Những sử liệu góp phần tìm hiểu dấu xưa của Kinh Thành không thể thiếu
được nguồn tư liệu địa bạ cổ của hai huyện Vĩnh Thuận và Thọ Xương [108] ghi về
những làng xóm này có mốc giới bên cạnh thành Đại La, giáp giới với các đền,
miếu, đình, quán. Những tư liệu của các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo được lưu giữ lâu
đời từng tồn tại song hành bên sát HTTL đã trở thành “những mốc tương đối bền
vững” tồn tại bên cạnh sự thay đổi liên tục của đời sống thế tục. Ở đây, còn nhiều
câu đối, hoành phi ca ngợi địa thế Thăng Long cũng như ca ngợi phương hướng của
di tích nằm sau núi Nùng linh thiêng như di tích Quán Bắc Đế (Hàng Khoai - Quận
Hoàn Kiếm, HN). Quán này có tấm bia cổ niên hiệu Thiệu Bình (1434 - 1439).
Trước đây, (từ khoảng 2010 về trước), Quán Bắc Đế, còn có một số câu đối ca ngợi
cảnh đẹp trong đó có nội dung đề cập địa thế của Quán nhìn về Núi Nùng của
HTTL. Tuy nhiên, gần đây, do tu sửa lại đến nay hệ thống câu đối khắc trực tiếp
vào tường của di tích cũng đã bị thay đổi, thay vào đó những câu đối có nội dung
khác. Chính vì thế, gần đây chúng tôi đi khảo sát, tìm lại câu đối xưa thì không còn.
Những tư liệu còn lại sau nhiều lần trùng tu, xây dựng có lẽ là những câu đối, hoành
phi được khắc trên những biển gỗ, hoành phi, câu đối gỗ. Nhưng nhìn chung, nội
103
dung của những câu đối này chỉ đề cập đến nội dung Phật giáo hoặc Đạo giáo chung
chung mà đề cập đến vị thế của di tích với cảnh quan chung quanh. Có lẽ, di tích
còn nhiều tư liệu câu đối, hoành phi phản ánh về địa thế, vị trí của di tích đối với
HTTL là Quán Trấn Vũ (Phường Quán Thánh, Ba Đình). Hầu hết các câu đối,
hoành phi, biển đề câu đối, bài thơ đều được khắc lên gỗ hoặc sơn son thiếp vàng.
Về niên đại của những tư liệu này hầu hết được sáng tác vào cuối Tk XIX, đầu Tk
XX. HTTL giai đoạn này không còn vị trí Kinh đô nữa nhưng vẫn được gợi nhớ với
những tên gọi sang trọng giàu tính văn chương như: Phượng Thành, Đông Kinh, Đế
đô … trong các tác phẩm của các văn nhân, các nhà khoa bảng như: Cao Xuân Dục,
Trương Đăng Đàn, Nguyễn Tư Giản, Dương Khuê…
Chẳng hạn câu đối ở trụ biểu trước sân Đền Quan Thánh:
- Đăng môn diệu vọng, long thắng chung linh, trì địa lâu đài cận ấp Tây Hồ
nguyệt;
- Lịch đại xứng truyền, Đế đô Tứ trấn, kình thiên hoa biểu giao đối Vũ
Đương sơn.
Nghĩa là:
- (Lên cổng này, ngắm nhìn ra xa, đất long thắng chung đúc (khí thiêng), lâu
đài gần ấp cùng với trăng ở Hồ Tây.
- Trải qua các đời, được truyền tụng ở đất Đế đô, là một trong Tứ trấn, là cột
chống trời, nhìn xa là núi nhìn ra xứ Vũ/Võ Đương).
Đền Trấn Vũ là một trong Tứ Trấn nhưng lại ở vị trí gần với HTTL. Trước
mặt Đền nhìn ra khu vực xứ Vũ/Võ Đương (tức là núi Khán Sơn) - phía trước chếch
phía Tây Nam của Đền Quán Thánh.
Hay một câu đối trong Đền:
- Cổ Thăng Long tam thập cảnh chi nhất, linh tích cửu lưu cơ, truyền kinh
104
tang hải biến thiên biệt thành tĩnh địa.
Hoàng Thành thái ức vạn niên sơ ngũ, cưu công trùng sáng tạo, tòng thử
phong vân củng hộ vĩnh trấn danh đô.
(Nghĩa là: Di tích này vốn là một trong ba mươi cảnh đẹp chốn Thăng Long
xưa, được lưu truyền, trải qua bao biến đổi, trở thành chốn thanh tĩnh.
Câu đối trên đã nói đến Đền Quan Thánh là một trong ba mươi cảnh đẹp nỏi
tiếng chốn Thăng Long, so sánh, kiểm tra và đối chiếu trogn thư tịch cổ Thăng
Long tam thập vịnh [247] và “Thăng Long cảnh trí ca” [243] cũng đa xác nhận điều
đó.
Hoàng Thành là chốn tốt đẹp muôn vạn năm, từ đầu trải qua năm lần sửa
chữa, trùng tu sáng tạo, cho đến nay trở lên rộng mở mãi mãi là Kinh đô nổi tiếng.
Ngoài ra, tại Quán Trấn Vũ còn nhiều biển gỗ đề thơ của các quan chức, nhà
khoa bảng ca ngợi về Phượng Thành - Đông Kinh. Đây là bài của Phó bảng Phan
Văn Tâm:
Tam bách niên dư cổ tượng tồn
Lâu đài cao yểm Phượng Thành viên
Đông Kinh phong vật Tây Hồ thắng
Nam Quốc thần linh Bắc trấn tôn
Thanh dạ đẩu ngưu tàng kiếm khí
Hồng trần xa mã bức Hoa Lâm
Giang sơn bình viễn khai tân họa
105
Đệ nhất trùng thiên bất nhị môn
Dịch nghĩa:
Hơn ba trăm năm bức tượng cổ vẫn còn
Lâu đài trấn yểm cao ở Phượng Thành
Thắng cảnh Tây Hồ ở đất Đông Kinh văn vật
Quán Trấn Vũ, trấn ở phía Bắc nước Nam
Đêm thanh vắng, sau Ngưu, sao Đẩu ẩn tàng khí thiêng
Bụi hồng xe ngựa cách vùng đất Hoa Lâm
Giang sơn rộng lớn mở ra bức họa đồ mới
Đây là đệ nhất sung thiên không có nơi nào khác.
(Phần lạc khản ghi: Mùa
thu năm Quý Tỵ niên hiệu Thành Thái (1893), Canh Thìn khoa, Phó bảng, Quang
Lộc Tự thiếu Khanh Phan Văn Tâm (kính cẩn đề).
Bức biển đề khảm trai của Thám Hoa, Đốc học Hà Nội Vũ Phạm Hàm cũng
đã ca ngợi địa thế của Đền Trấn Vũ trấn phía Bắc của Thành Thăng Long bằng một
bài thơ thất ngôn bát cú:
Huyền Quán chênh vênh ỷ viễn phong
Dư linh trường vị trấn Thăng Long
Nhất tân đống vũ như kim nhật
Tứ ứng giang sơn nhiễu kỷ trùng
Tinh Đẩu hàn quang tam xích kiếm
106
Thương tang trần mộng ngũ canh chung
Bích ba hồng ngẫu đình thuyền ngoại
Phảng phất tiên phong độ Nhị - Nùng
Dịch nghĩa:
Quán Huyền Thiên chênh vênh dựa vào ngọn núi ở xa
Linh thiêng có thừa, trấn Thăng Long
Đền thờ mới mẻ như ngày hôm nay
Là một trong Tứ Trấn vây quanh mấy vòng
Sao Đẩu sáng lạnh như tấm kiếm dài ba thước
Trải qua bao biến đổi, mộng trần ai, tiếng chuông đã điểm năm canh
Dòng nước biếc, ngó sen hồng, dừng thuyền ở ngoài
Phảng phất như cảnh tiên, gió đưa qua dòng sông Nhị, núi Nùng
(Lạc khoản đề: Tứ Nhâm Thìn khoa đệ Nhất Giáp, Thám Hoa Cập đệ,
Quang Lộc tự Thiếu khanh, Lãnh Hà Nội Đốc học Vũ Phạm Hàm (bái đề).
Tú Tài Hoàng Mạnh Chí đã cảm khái về sự đổi thay của Đền Trấn Vũ bên
cạnh Hoàng Thành Thăng Long ngàn năm vẫn như cũ: “”Thiên niên thành quách do
y cựu”(Ngàn năm thành quách vẫn như xưa”. Đó là cách nói theo nghĩa văn
107
chương, trong sáng tác văn học. Trên thực tế lịch sử, đến triều Nguyễn HTTL đã hết
vai trò lịch sử, nhường vị trí đế đô cho Kinh thành Huế. Chúng tôi hiện chưa biết rõ
về tác giả bài thơ có biển đề này sáng tác bài thơ vào thời gian nào nhưng thông qua
học vị Tú tài thì có thể khẳng định, tác giả sống vào triều Nguyễn.
Thập lý ba quang kiếm khí hàn
Thanh cao di tượng tủng vân đoan
Thiên niên thành quách do y cựu
Thử địa lâu đài dĩ cải quan
Viễn cận chung thanh trầm lục phố
Tham sai thụ ảnh lạc hồng lan
Đê kim môn ngoại tà dương lộ
Vô số hành nhân lập mã khan
(Cổ Hoan Mai Khê Tú tài Hoàng Mạnh Chí (bái đề).
( )
Dịch nghĩa:
Mười dặm sóng bạc, khí thiêng lạnh giá
Ở chốn thanh cao còn để lại bức tượng cao đến tận mây
108
Ngàn năm thành quách còn như cũ
Chỗ này có lâu đài đã đổi thay
Xa gần nghe tiếng chuông như chìm xuống dưới bến sâu
Bóng cây in bóng cùng với bóng của lan can
Đến nay ngoài cửa có con đường bóng hoàng hôn chiều tà
Rất nhiều người bộ hành đứng nhìn con ngựa đá
Người quê xứ Hoan Châu (xưa) có tên hiệu là Mai Khê, Tú tài Hoàng Mạnh
Chí (kính cẩn đề).
Ngoài ra, trong di tích Đền Quán Thánh còn nhiều bài thơ, câu đối, biển đề
được sơn son thiếp vàng của các tác giả như: Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc An Xuân
Nam Cổ Hoan Long Cương Cao Xuân Dục, Binh bộ Thượng thư Tham tri Lương
Tử Thú; Thự Thượng thư sung Bắc kỳ Kinh lược, Nha Tham tá Dương Khuê; Lãnh
Ninh Bình Tuần Phủ Trần Đông, Án Sát Trần Quang Thùy, Phó Lãnh binh Đoàn
Trực, Giảng Đốc học Nguyễn Văn Nhượng)…
Nhìn chung, các tư liệu được sưu tầm tại di tích Đền Quán Thánh đã nói
được vị thế của Đền trong Tứ Trấn đặc biệt là một di tích quan trọng liền kề phía
Bắc của Thành Thăng Long. Qua các tư liệu này cho thấy nhiều tâm trạng, cảm xúc
của các tác giả đối với sự đổi thay của HTTL trong đó có tâm trạng trầm buồn về
thời quá vãng một đi không trở lại. Mặc dù, ở thời điểm này, Kinh đô Thăng Long
thưở trước nay đã là tỉnh Hà Nội. Tuy nhiên, trong tâm thức của các văn nhân, sĩ
phu, địa danh Phượng Thành, Đông Kinh, Thăng Long … vẫn là một niềm kiêu
hãnh để từ đó có tác dụng dấy lên lòng yêu nước trước sự xâm lăng của Thực dân
Pháp xâm lược. Như thế, tên gọi Thăng Long, Thành Thăng Long, Phượng
Thành… ở đây có ý nghĩa văn học hơn là tên gọi với ý nghĩa lịch sử.
Tiểu kết
Nghiên cứu về các nguồn sử liệu HTTL không thể tách rời giữa các nguồn sử
liệu. Hay nói cách khác, các nguồn sử liệu chữ viết, sử liệu bản đồ, sử liệu vật thực,
sử liệu dân gian… có vai trò kiểm chứng, đối chiếu lẫn nhau. Không thể tuyệt đối
hóa một nguồn sử liệu nào, phải luôn luôn đề cao, tôn trọng các nguồn sử liệu đó là
109
một nguyên tắc đối với nhà nghiên cứu sử học. Có như vậy mới tránh được những
nhận định, đánh giá sai lầm. Thao tác sàng lọc sử liệu và tập hợp các nguồn sử liệu
cũng là một thao tác không thể thiếu được trong nghiên cứu liên ngành, trước hết là
các ngành có mối liên hệ gần gũi với nhau như: Sử học và khảo cổ học; sử học và
văn học, ngôn ngữ học; Khảo cổ học và mỹ thuật học; Khảo cổ học với địa chất -
môi trường; Mối liên hệ giữa khảo cổ học và Mỹ thuật,… Đứng trước các nguồn sử
liệu chữ viết, các nhà nghiên cứu cần có sự nghiên cứu cẩn trọng về văn bản học. …
Việc nghiên cứu tên gọi các “cung” và “điện” trong HTTL là rất cần thiết.
Ngay từ khi rời đô từ Hoa Lư ra Đại La (sau đổi tên là Thăng Long), vương triều Lý
đã cho xây dựng nhiều ngôi điện nguy nga, bề thế. Trước khi đi tìm hiểu về những
đặc điểm, tính chất của một số điện, chúng ta cần tìm hiểu qua về những ghi chép
về các điện thời Lý qua góc nhìn văn bản học.
Các nguồn sử liệu HTTL hiện nay rất phong phú, đa dạng gồm sử liệu thư
tịch, sử liệu chữ viết, sử liệu vật thực (văn bia, vật liệu xây dựng, đồ gốm, sứ, đất
nung có minh văn, các hiện vật về lĩnh vực kiến trúc tôn giáo, tín ngưỡng, sử liệu
bản đồ, sử liệu dân gian…), với một khối lượng đồ sộ với hàng triệu hiện vật. Khó
có một di tích nào ở Việt Nam lại có một nguồn sử liệu phong phú và đa dạng như
thế. Những nguồn sử liệu trên sẽ góp phần cung cấp cho các nhà nghiên cứu những
tư liệu nhằm góp phần nhận diện, phác họa lại diện mạo của HTTL qua các triều đại
lịch sử huy hoàng mà nó từng tồn tại.
Tuy nhiên, đối với mỗi loại sử liệu, dù là sử liệu chữ viết hay sử liệu vật thực
thì chúng đều có thể bộc lộ những ưu điểm và hạn chế nhất định. Với sử liệu chữ
viết được thông tin một cách đầy đủ, tỷ mỉ nhưng lại là sản phẩm của tư duy được
sản sinh ra qua quá trình lao động bằng trí óc của con người nên nó không tránh
khỏi những ý kiến chủ quan, nhiều khi không thể tránh khỏi những thiên kiến bảo
thủ. Đó là chưa kể đến lập trường tư tưởng hay ý thức hệ của tác giả làm ra nó.
Ngược lại, những sản phẩm bằng vật thực được đưa ra nghiên cứu về quy mô, cấu
trúc của HTTL như bản đồ cổ, những hiện vật thực, hiện hữu bằng hình khối, trọng
lượng cụ thể như những viên gạch, ngói, gỗ, đất nung có hoa văn, đường nét, trang
110
trí, thậm chí có minh văn, chữ viết kèm theo niên đại, tên công trình… nhưng nhìn
chung, những hiện vật này phần nhiều không còn nguyên vẹn, nó thường là những
mảnh vỡ rời nhau. Hay đối với những tấm bản đồ cổ, nó tuy nó được thể hiện bằng
hình khối cụ thể với vị trí xác định tên từng công trình nhưng nhìn chung những tấm
bản đồ này không thể hiện hết tất cả các công trình mà trên thực tế nó vốn có. Mặt
khác, những tấm bản đồ này lại được thể hiện bằng lối tư duy ước lệ, không có tỷ lệ
xích nên nhiều khi khó xác định được khoảng cách, cự ly và quy mô…
Tuy nhiên, khắc phục những điểm yếu, phát huy những điểm mạnh của các
nguồn sử liệu, đặt các nguồn sử liệu cạnh nhau, nguồn sử liệu này bổ sung cho
nguồn sử liệu kia, các sử liệu kiểm chứng lẫn, so sánh, đối với với nhau để từ đó có
thể hình dung được diện mạo, quy mô, cấu trúc của Hoàng thành Thăng Long thời
111
Lý - Trần - Lê một cách khách quan, khoa học.
Chƣơng 3
QUY MÔ VÀ CẤU TRÚC CỦA HOÀNG THÀNH THĂNG LONG THỜI LÝ
- TRẦN - LÊ QUA CÁC NGUỒN SỬ LIỆU
3.1. Vài nét về thành Đại La thuộc thời Đƣờng
Thế kỷ thứ VIII, thành Đại La được chọn làm trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hóa của An Nam Đô Hộ Phủ thời thuộc Đường. Trong giai đoạn đóng đô tại
Đại La, dưới sự điều hành của các quan lại phong kiến phương Bắc, thành Đại La
được tu sửa, quy hoạch, sửa chữa nhiều lần vào các năm:
+ Đinh Mùi [767. Đường Đại Lịch năm thứ 2, Bá Nghi cho đắp lại La Thành
( ). Xét thấy Bá Nghi từng làm tướng ở Kinh Nam , nhiều lần bị
giặc làm cho cùng quẫn, nhà Đường phải cho Lý Phúc đến giúp đỡ, nay ở An
Nam lại phải có Chính Bình cứu viện mới dẹp yên được nạn quân Đồ Bà
, thế là tài lược kém đấy [152;120 ] .
+ Năm Mậu Thân [768] Đường Đại Lịch năm thứ 3, nhà Đường lại đổi Trấn
Nam làm An Nam Đô Hộ Phủ15
Năm 791 Triệu Xương cho xây đắp La Thành kiên cố hơn trước (791)16
Trải qua mấy thế kỷ từng là An Nam Đô Hộ Phủ, thành Đại La là nơi tập
trung dân cư đông đúc. Cao Biền (Tk VIII) là người tổ chức xây dựng thành
Đại La cũng như Thứ sử Đào Hoàng (Tk IV), tổ chức xây dựng thành Luy
Lâu, nhiều năm sinh sống tại đây, với phương thức cai trị khoan dung, độ lượng và
ít nhiều thấm nhuần phong tục Việt nên đã được người dân yêu mến. Có lẽ chính vì
thế, tác giả Đại Việt sử kí tiền biên nhận xét: “Quá trình xây đắp thành Đại La, tổ
15 ĐVSKTT: 16 ĐVSKTT ghi:
112
chức cuộc sống của người dân vùng An Nam Đô Hộ Phủ đã được Cao Biền ở đất
Giao Nam ta, đánh tan quân Nam Chiếu, cứu vớt nhân dân một thời xây đắp La
Thành làm vững đô ấp mãi mãi, công ấy thực là lớn lắm” [152 - 133]. Thành Đại La
được sách ĐVSKTT miêu tả quy mô như sau:
Cao Biền giữ phủ xưng vương cho đắp La Thành vòng quanh 1982 trượng 5
thước, thân thành cao 2 trượng 6 thước, chân thành rộng 2 trượng 5 thước, bốn mặt
thành đắp các nữ tường nhô lên bốn mặt thành cao 5 thước, chân rộng 2 trượng cùng làm nhà cửa hơn 40 vạn nhà17. Vào thời Lý - Trần - Lê thành Đại La được đắp thêm, tu sửa nhiều lần18.
+ Tại các di tích khảo cổ trên Kinh đô Thăng Long - Hà Nội, qua quá trình
khai quật, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được nhiều di vật, di tích thời Đại La
như: Khảo cổ tại các địa điểm đê La Thành, dốc Văn Cao, khu vực 62 - 64 Trần
Phú, Khu vực 18 Hoàng Diệu và Khu vực số 9 Hoàng Diệu, phát hiện nhiều di vật,
hiện vật có niên đại thời Đại La - Tiền Thăng Long như loại hình gạch chữ nhật có
chữ Giang Tây quân , gạch vuông khắc hình Cá sấu bơi trên sóng nước,
giếng gạch màu xám thời Đại La hoặc nhiều giếng nước thời Lý - Trần có sử dụng
lại gạch thời Đại La, một số đoạn tường gạch xây thời Đại La phát hiện ở phía Tây
Bắc cổng Đoan Môn và nhiều nơi khác nằm rải rác ở độ sâu 2 - 3m trong lòng đất
hiện nay trong khu vực khai quật khảo cổ học là những minh chứng xác thực về sự
tồn tại của mấy thế kỷ Tiền Thăng Long của chính quyền An Nam Đô Hộ Phủ thuộc
Đường.
3.2. Quy mô, cấu trúc Hoàng thành Thăng Long thời Lý
Cơ cấu Kinh thành còn phải đề cập đến hệ thống phường và chợ. Chính sử
ghi nhà Trần, theo triều trước (Triều Lý) có đến 61 phường. Sách Thiền uyển tập
17
, (ĐVSKTT, BK, Q, tờ).
18 Vua Lý Nhân Tông đã tu sửa lại thành Đại La năm Mậu Ngọ (1078)
; Tháng 2 nhuận
năm Đinh Dậu (1477), Lê Thánh Tông cho đắp thêm thành Đại La
(VSTGCM).
113
anh (TUTA) cũng đã đề cập đến các Quán của Đạo giáo hoặc một số
ngôi chùa ở trong HTTL do một số nhà sư trụ trì. Qua các tư liệu cho biết, không có
một tài liệu nào thời Lý và thời Trần viết rõ 61 phường ấy là những phường gì. Qua
nguồn sử liệu đương thời (VSL, ĐVSKTT, TUTA), tác giả chỉ có thể thống kê được
tên gọi của 7 phường. Ngoài ra, qua các nguồn sử liệu, cũng có thể hiểu được đời
sống văn hóa tinh thần của người dân Thăng Long. HTTL thời Lý tiến hành xây
dựng rất nhiều công trình diễn ra trong nhiều năm, nhiều đợt xây dựng nhưng đợt
xây dựng nhiều nhất và cơ bản nhất là các năm 1010, 1058, 1098, 1203;
3.2.1. Quy hoạch Kinh thành Thăng Long buổi đầu mới dời đô (1010)
Sách VSL ghi: “Trong Kinh thành Thăng Long xây điện Triều Nguyên, bên
trái mở cửa Phi Long, bên phải mở cửa Đan Phượng, chính Bắc mở Cao Điện.
Thềm gọi là Long Trì, trong hai bên Long Trì có hành lang chạy chung quanh. Phía
sau điện Càn Nguyên, dựng hai điện Long An, Long Thụy, bên trái xây điện Nhật
Quang, bên phải xây điện Nguyệt Minh, đằng sau có cung Thúy Hoa. Bốn phía
thành mở bốn cửa; phía Đông gọi là Tường Phù, phía Tây gọi là Quảng Phúc, phía
Nam gọi là cửa Đại Hưng, phía Bắc gọi Diệu Đức. Ở trong thành lại xây chùa Hưng
Thiên, lầu Ngũ Phượng Tinh Lâu, ở phía Nam thành xây chùa Thắng Nghiêm
[215;75 ].
Sách ĐVSKTT chép: “Xây dựng các cung điện trong HTTL, phía trước dựng
điện Càn Nguyên làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên Hữu dựng điện
Giảng Võ, lại mở cửa Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, mở cửa Đan Phượng
thông với cửa Uy Viễn, hướng chính nam dựng điện Cao Minh, đều có Thềm Rồng
(Long Trì), trong Thềm Rồng có hành lang dẫn ra xung quanh bốn phía. Sau điện
Càn Nguyên dựng hai điện Long An và Long Thụy làm nơi vua nghỉ. Bên tả xây
19
[
114
điện Nhật Quang, bên hữu xây điện Nguyệt Minh, phía sau dựng hai cung Thúy Hoa và Long Thụy làm chỗ ở cho cung nữ”19.
Khâm Định Việt sử thông giám cương mục (KĐVSTGCM)
cũng chép theo sách VSL và ĐVSKTT như sau: “Khởi công xây dựng cung điện:
Phía trước là điện Kiền Nguyên, dùng làm chỗ coi chầu, hai bên tả hữu làm điện
Tập Hiền và Giảng Võ đều có thềm rồng. Lại mở cửa: cửa Phi Long thông với cung
Nghinh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn. Đằng sau điện Kiền
Nguyên có điện Long An và Long Thụy, làm chỗ nhà vua nghỉ ngơi. Hai cung Thúy Hoa và Long Thụy cho các phi tần ở20.
TS Phạm Lê Huy cho rằng, việc chép cung “Long Thụy” có lẽ là nhầm,
tên gọi gắn với từ “Long” không gắn với cung nữ mà chỉ có thể gắn với vua:
“Cung Long Thụy này không tồn tại trên thực tế và chỉ là một nhầm lẫn trong quá
trình ghi chép của Toàn thư” [79; 205]. Tuy nhiên, đến tháng 12 năm 1010 cung
Thúy Hoa mới làm xong. Có lẽ, đây cũng là một trong những cung quan trọng của
triều Lý dành cho các cung nữ nên đã được các sử thần quan tâm ghi chép: “Tháng
12 (1010). Các chùa, các hương ấp, chùa quán bị xuống cấp, nay mệnh cho sửa
chữa, mùa đông tháng 12, cung Thúy Hoa làm xong” 21.
GS Momoki Shiro đã tổng hợp các nghiên cứu của PGS Lê Văn Lan (năm
2004) và TS Phạm Lê Huy (2012) để có được bản vẽ thành Thăng Long xây năm
]. Lưu ý, trong đoạn miêu tả trên của sách ĐVSKTT ghi các điện trên đều được xây dựng vào tháng 7, tuy nhiên có một số cung lại hoàn thành vào tháng 12 năm đó. Chẳng hạn như cung
,
].
[
,
,
,
,
,
Thúy Hoa 20 Nguyên nhân đổi tên thành Đại La thành Thăng Long và cấu trúc thành Thăng Long buổi đầu (1010) như sau: “
,
”(KĐVSTGCM, 2007).
.
.(Lý Thái Tổ, Thuận Thiên nguyên niên,
21 Chính bản, KĐ VSTGCM, ).
115
1010 - 1011, trừ các cửa ở bốn phía: Đông (Tường Phù) ,Tây (Quảng Phúc
), Nam (Đại Hưng ), Bắc (Diệu Đức ) thì trong Cấm thành Thăng Long
có đến 20 hạng mục công trình bao gồm các cung, điện, các công trình tín ngưỡng
và các cửa. Nhìn bản sơ đồ này cho thấy, GS Momoki Shiro đã chia làm ba khu
vực: Khu vực thứ nhất là không gian thiết triều; khu vực thứ hai là nơi làm việc và
nghỉ ngơi của hoàng đế; khu vực thứ ba là nơi ở của các cung nữ và một số công
trình tín ngưỡng tôn giáo. Tuy nhiên, trong sơ đồ này đã có một số nhầm lẫn do
chuyển dịch ngôn ngữ. Chẳng hạn như trong chính sử ghi làm chùa Vạn Tuế
trong Cấm Thành thì ở đây GS Momoki Shiro lại viết thành đền Vạn Tuế
(Vạn Tuế temple). Chính sử ghi làm cung Thái Thanh ( ) cho các Đạo sĩ ở
thì ở đây ghi là Điện Thái Thanh “Thái Thanh place” ( ) và tác giả đã thừa
nhận có cung Long Thụy dành cho các cung nữ [124; 33].
Khác với cách thể hiện của GS Momoki Shiro, trong bản vẽ về vị trí các
cung điện trong không gian Cấm thành Thăng Long khoảng năm 1010 - 1011,
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc lại chia làm 2 khu vực: Khu vực thiết triều và nghỉ
ngơi của hoàng đế bao gồm: sân Long Trì và 8 điện: Cao Minh , Càn
Nguyên , Giảng Võ , Tập Hiền , Nguyên Minh ,
Long An , Long Thụy và Nhật Quang và phía sau cùng là
hai cung Thúy Hoa , Long Thụy dành cho cung nữ. Hai cung Thúy
116
Hoa , Long Thụy nằm tách biệt riêng [142; 38].
Cũng như thời kỳ An Nam Đô Hộ phủ, đến thời Lý, vòng ngoài cùng là La Thành. VSTGCM ghi: “Thành này đắp thành đất ở bốn mặt Kinh thành”22. Ở đây,
phải hiểu là thành Đại La. VSTGCM cũng nghi nhất quán với các bộ sử trước đó.
Qua các thông tin về nguồn sử liệu trên cho thấy, điện ở vị trí trung tâm là
điện Triều Nguyên , hay Càn/Kiền Nguyên đều thể hiện là nơi thiết triều
của nhà vua. Các cung điện khác được xây dựng theo trục dọc và vây chung quanh
điện chính [196; 37]. Tuy nhiên khi chú thích các cửa, bản vẽ có vẽ mô hình cửa số
12, 13 ( trên sơ đồ) nhưng không có chú thích là cửa gì [196; 37].
3.2.2. Quy hoạch Hoàng thành Thăng Long vào thế kỷ XI, XII
Quy hoạch năm 1017 - 1020
Về nguyên nhân diễn ra sự thay đổi trong việc bố trí nơi thiết triều của những
năm nay trong cung điện, các tư liệu đã cho biết không phải do nguyên nhân chủ
quan mà là nguyên nhân khách quan: Sét đánh hỏng cung điện nên phải thay đổi:
+ VSL chép: Năm Đinh Tỵ (1017) “Điện Càn Nguyên bị động đất” và đến
năm Canh Thân (1020)… “Xưa điện Càn Nguyên bị động đất, vua phải coi chầu ở Đông điện, nay Đông điện lại bị động đất, vua phải coi chầu ở Tây điện [215; 77]23.
+ ĐVSKTT cũng chép tương tự nhưng thêm chi tiết hơn về việc dựng thêm
điện để chầu và nghe chính sự: “Điện Càn Nguyên bị sét đánh, vua coi chầu ở điện
phía Đông. Năm 1020, điện phía Đông bị sét đánh, vua coi chầu ở điện phía Tây.
Dựng ba điện: điện phía trước để coi chầu, hai điện phía sau để nghe chính sự.
+ KĐVSTGCM chép về sự kiện năm 1017, 1020 tương tự: “Đinh Tỵ (1017),
tháng 3, mùa xuân. Điện Kiền Nguyên bị sét đánh… nhà vua coi chầu ở điện phía
22 Mùa đông, tháng 10, xuống chiếu phát tám trăm lạng bạc trong kho để đúc 2 quả chuông treo ở chùa Thắng Nghiêm và Tinh lâu ngũ phượng, đắp thành đất ở bốn mặt Kinh thành Thăng Long
. (VSTGCM).
23 Liên quan đến vấn đề dịch thuật, của từ chấn
(sét đánh), chứ không phải là “chấn động” (
). Vì thế,
nên bản dịch của VSL đã dịch lầm là động đất.
,
[
,
,
,
].
117
Đông. Năm 1020 sách này chép như sau: “Điện phía Đông bị sét đánh… nhà vua
coi chầu ở điện phía Tây. Lại dựng ba ngôi điện: Điện ở đằng trước dùng làm nơi
coi chầu, hai điện đằng sau dùng để làm việc chính sự”. TS Phạm Văn Triệu cho
rằng “điện coi chầu” và “điện nghe chính sự” này nằm ở vị trí ngang với sân Long
Trì và cũng không cho biết tên của 3 điện này là gì. “Điện Càn Nguyên bị sét đánh
nên đã bị phá bỏ, các cung điện khác còn lại không có ghi chép nên có thể hiểu các
cung điện này vẫn còn tồn tại như thời điểm được xây dựng năm 1010 [196; 38].
Quy hoạch Hoàng thành Thăng Long năm 1028 - 1029, Xây dựng lực lượng
bảo vệ Kinh thành:
“Đặt quân đội để bảo vệ kinh thành: Đặt 10 vệ điện tiền cấm quân; 1 Quảng
Thánh ; 2. Quảng Vũ; 3. Ngự Long; 4. Bổng Nhật; 5. Trừng
Hải: . Mỗi vệ đều chia ra tả hữu dực, đi quanh để bảo vệ bên trong Cấm Thành,
cộng là 10 vệ” [145; 252].
Sau khi thiết lập được đội quân hùng mạnh để bảo vệ Kinh thành, nhà Lý
cho xây dựng lại điện Thiên An trên nền cũ của điện Càn Nguyên; VSL ghi: “Rồng
vàng hiện ở điện Càn Nguyên. Vua nói: Điện đó đã đổ, chỉ còn cái nền, nay rồng lại
hiện ở đó, chắc là đất long thắng!. Bèn cho mở rộng thêm quy mô sửa chữa lại điện
đó, đổi tên là điện Thiên An. Bên trái điện Thiên An xây điện Tuyên Đức, bên phải
xây điện Diên Phúc, phía trước gọi là Long Trì, phía Đông xây điện Văn Minh, phía
Tây xây điện Quảng Vũ. Đối nhau ở hai bên tả hữu Long Trì là Chung lâu (lầu
chuông) để lên nghe việc oan khuất. Đằng trước đặt điện Phụng Thiên, ở trên xây
lầu Chính Dương làm nơi xem giờ, dãy sau xây điện Trường Xuân, ở trên xây Long Các. Bên ngoài đắp thành, gọi là Long Thành”24.
Cũng sự kiện tu sửa Kinh thành năm 1029, ĐVSKTT viết kỹ hơn:
“Kỷ Tỵ [Thiên Thành] năm thứ 2 (1029)... Tháng 6, rồng hiện ở nền điện
,
,
; VSL, 2005, NXb Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ
, [ Đông Tây, tr 75.
118
Càn Nguyên. Vua nói với tả hữu rằng: Trẫm phá điện ấy, san phẳng rồi mà rồng 24
thần còn hiện. Có lẽ đó là đất tốt, đất lớn hưng thịnh, ở chỗ chính giữa trời đất
chăng ?. Bèn sai Hữu ty mở rộng quy mô, nhắm lại phương hướng mà làm lại, đổi
tên là điện Thiên An. Bên tả dựng điện Tuyên Đức, bên hữu dựng điện Diên Phúc,
thềm trước điện goi là Long Trì (thềm rồng). Phía Đông thềm rồng đặt điện Văn
Minh, phía Tây đặt điện Quảng Vũ, hai bên tả hữu thềm rồng đặt lều chuông đối
nhau để dân chúng ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánh chuông lên. Bốn xung
quanh thềm rồng đều có hành lang để tụ họp các quan và sáu quân túc vệ. Phía
trước làm điện Phụng Thiên, trên điện dựng lầu Chính Dương làm nơi trông coi tính
toán giờ khắc, phía sau làm điện Trường Xuân, trên điện dựng gác Long Đồ làm nơi nghỉ ngơi, du ngoạn. Bên ngoài đắp một lần thành bao quanh gọi là Long Thành”25.
Trong bản sơ đồ vị trí các cung điện khoảng năm 1029 - 1030, GS Nguyễn
Quang Ngọc đã thể hiện 12 hạng mục công trình nằm trên một trục dọc bắt đầu từ
cửa Chính Dương , điện Phụng Thiên cho đến công trình cuối cùng
là điện Trường Xuân , gác Long Đồ , trong đó điện Kính Thiên
được coi là trung tâm [144; 249]. Trên bản sơ đồ này không thể hiện rõ không
gian Đại triều , không gian Thường triều và nơi nghỉ ngơi. TS Phạm Lê
Huy trong bản vẽ sơ đồ trục trung tâm Cấm thành Thăng Long thời Lý sau năm
1029 được chia là 2 phần rõ dệt : Phần thứ nhất bắt đầu từ Ngũ Phượng lâu
đến hết điện Thiên Khánh ; phần thứ hai là khu vực điện Trường Xuân
25
[
] ĐVSKTT(1993), Bản kỷ, quyển II, kỷ nhà Lý tờ
20a, bd tập I, tr 254.
119
, gác Long Đồ (khu vực chính tẩm điện), hai khu vực này được tách biệt
nhau bằng tường bao (có thể là dấu tích kiến trúc LY.A.TB014 tại khu khảo cổ học
18 Hoàng Diệu [79; 212] và giữa hai khu vực này không có cầu Phượng Hoàng
. Hay trong nhận thức về vị trí của Đoan Môn - một công trình được
nhiều người quan tâm cũng có sự không giống nhau giữa các nhà nghiên cứu. GS.
TS Nguyễn Quang Ngọc đã thể hiện trong bản vẽ, Đoan Môn chính là cổng
chính của Cấm thành năm 1010 - 1011 [144; 246] trong khi đó TS Phạm Lê
Huy căn cứ vào VSTGCM lại cho rằng Đoan Môn ở vị trí Cửa Đại Hưng
ngoài Hoàng thành chứ không phải trong Cung thành (hay Cấm thành)
Thăng Long [79; 212].
Phạm Văn Triệu nhận xét về kiến trúc xây dựng cung điện của đợt đầu tiên
của Cấm thành Thăng Long (năm 1010), cho rằng: trong các cung này được thiết kế
theo trục dọc và các điện khác ở chung quanh lấy điện Triều Nguyên, Càn Nguyên
hay Kiền Nguyên làm điện trung tâm: “Trong các ghi chép của sử liệu, điện trung
tâm được ghi là Triều Nguyên, Càn Nguyên hay Kiền Nguyên, nhưng đều thể hiện
đây là nơi thiết triều của nhà vua. Và các cung điện khác được xây dựng theo trục
dọc hay xung quanh điện chính này [196; 36 - 45]. Như thế, qua hình vẽ, tác giả đã
không phân chia khu vực Cấm thành theo từng khu vực mà thể hiện chung trong
một không gian lấy điện Kính Thiên làm trung tâm, đặc biệt không có sự ngăn cách
các cung thành một tiểu không gian riêng. Ở đây gồm: 1 điện Cao Minh ; 2
sân Long Trì và hành lang ; 3 điện Càn Nguyên; 4 điện Long An
; 5 điện Long Thụy ; 6 cung Thúy Hoa ; 7 điện Tập Hiền
120
, 8 điện Giảng Võ ; 9 điện Nhật Quang ; 10 điện Nguyệt Minh
; 11 cửa Phi Long . Tuy nhiên, trên hình vẽ có thể hiện kí hiệu cửa số
12 và cửa số 13 nhưng không thấy tác giả định danh [196; 37].
Sự kiện xây dựng, quy hoạch Hoàng thành Thăng Long năm 1058: “Năm
Mậu tuất, hiệu Long Thụy Thái Bình năm thứ 5 (1058); Tháng 6, xây điện Linh
Quang , bên trái dựng điện Kiến Lễ , bên phải dựng điện Sùng Nghi .
Phía trước điện dựng lầu chuông, một cột, sáu cạnh hình hoa sen (độc trụ lục giác
liên hoa chung lâu )” [215; 91].
Sự kiện xây dựng, quy hoạch Kinh thành Thăng Long Năm 1098: “ Tháng 9
xây điện Sùng Uyên ở ao Phượng Liên , bên trái đặt điện Huy Dương
, đình Lai Phượng , bên phải dựng điện Ánh Thiềm , đình Át
Vân , phía trước xây lầu Trường Minh , phía sau bắc cầu Ngoạn
Thiềm Hoa ” [215; 108].
3.2.3. Quy hoạch “Tân cung” năm 1203 - 1216
“Năm Quý Hợi, hiệu Thiên Tư Bảo Hựu năm thứ 2 (1203). Tháng giêng, xây
cung mới tại phía tây Tẩm điện, ở giữa đặt điện Thiên Thụy , bên trái dựng
điện Dương Minh , bên phải dựng điện Thiềm Quang , đằng trước
xây điện Chính Nghi , ở trên xây điện Kính Thiên , thềm gọi là Giao
Lệ , ở giữa mở cửa Vĩnh Nghiêm , bên phải mở cửa Việt Thành
, thềm gọi là Ngân Hồng , đằng sau mở điện Thắng Thọ , ở trên xây gác
Thánh Thọ , bên trái xây gác Nhật Kim , bên phải xây gác Nguyệt
Bảo , xung quanh có dựng hành lang , thềm gọi là Kim Tinh . Bên
121
trái gác Nguyệt Bảo đặt tòa Lượng Thạch , phía Tây gác xây Dục đường
(nhà tắm), phía sau xây gác Phú Quốc , thềm gọi là Phương Tiêu , phía
sau dựng cửa Thấu Viên , ao Dưỡng Ngư 养 (nuôi cá), trên ao xây đình
Ngoạn Ỷ , ba mặt đình có trồng hoa thơm cỏ lạ, nước ao thông với sông,
cách trạm trổ, trang sức khéo léo, công trình thổ mộc đẹp đẽ, xưa chưa từng có vậy”
[ 215; 166].
Trong bản vẽ sơ đồ phỏng đoán “Tân cung” dưới thời Lý Cao Tông,
GS. TS Nguyễn Quang Ngọc đã thể hiện thời điểm này điện Thiên Thụy giữ vai trò
là trung tâm chạy theo chiều Bắc - Nam [144; 251]. Cửa phía Nam vào phải là cửa
Vĩnh Nghiêm rồi đến thềm Lệ Giao , Kính Thiên , rồi đến điện
Chính Nghị , điện Thiên Thụy … rồi cuối cùng mới là gác Phú
Quốc , đình Ngoạn Y rồi ra cửa Thấu Viên rồi mới ra bờ
sông.
3.2.4. Chức năng của các điện thời Lý, “Điện” gắn với các nghi lễ, lễ hội
tôn giáo
Có lẽ nét văn hóa đặc trưng nhất của lễ hội triều Lý là đặc điểm lễ hội gắn
với tôn giáo đặc biệt là Phật giáo. Đó là các Hội Nhân Vương , Hội Thiên
Phật , Hội Đèn Quảng Chiếu , Hội La Hán , Hội Vu Lan Bồn
… Hội Vu Lan báo hiếu được duy trì đến ngày nay là bắt đầu ít nhất từ triều Lý. Sử
chép năm: Mậu Thân [1128] Mùa thu tháng 7, tiết Trung Nguyên, vua ngự điện
Thiên An (...) làm lễ vu lan cầu siêu cho Nhân Tông , không đặt yến tiệc
[145; 301]. Hoặc ngày vua băng hà được coi là ngày quốc kỵ để cả nước tưởng nhớ
đến cũng được tổ chức linh đình trước điện Sùng Uyên: Bính Thìn (1136), tháng 12,
ngày lập xuân, vua ngự điện Sùng Uyên , các quan dâng biểu mừng. Ngày
122
ấy gặp ngày quốc kỵ, cho nên lại đặt lễ này [145; 309]. Nếu như các lễ hội gắn với
những nghi lễ lớn tưởng nhớ hoàng đế đương triều có công xây dựng cơ nghiệp, gắn
với việc thờ các anh hùng dân tộc thì dưới triều Lý trong chính sử đã nhiều lần đề
cập đến những lễ hội mang tính chất tôn giáo như bày Hội La Hán ở điện
Thiên An (1056) [215; 90]. Đặc biệt, dưới triều Lý đã tổ chức ra lễ hội đèn
Quảng Chiếu rất độc đáo. Hội Đèn Quảng Chiếu đã diễn ra ít nhất 10 lần ở
Thăng Long, trong đó có 2 lần được tổ chức ở Long Trì, trước điện Rồng vào các
năm 1121 và 1126 [145; 294], [127; 417] và ba lần được tổ chức ở cửa Đại Hưng
(phía Nam Kinh Thành) vào các năm 1110, 1116, 1195. Còn lại đều không ghi
địa điểm mà chỉ ghi chung chung là “Mở Hội đèn Quảng Chiếu” hay “Đặt ra Hội
Đèn Quảng Chiếu”... Hội Đèn Quảng Chiếu chính thức được bắt đầu mở dưới triều
Lý mà chúng ta ngày nay biết được chắc chắn lần ghi sớn nhất là năm 1012 (sau khi
dời đô được 2 năm) và lần ghi muộn nhất là năm 1195. Như vậy, Hội Đèn Quảng
Chiếu đã được duy trì tổ chức trong HTTL kéo dài gần 2 thế kỷ (cụ thể là 183 năm).
Về thời gian tổ chức Hội Đèn Quảng Chiếu cũng không nhất quán, có chỗ ghi là tổ
chức vào mùa xuân (tháng 2 hoặc tháng 3), có khi lại tổ chức vào tháng 9. ĐVSKTB
ghi: “Bính Ngọ, (Thiên Phù Duệ Vũ 7), mùa xuân, tháng Giêng tha tội nhân ở phủ
(vì bấy giờ đặt ra Hội Đèn Quảng Chiếu nên tha tội [152; 249]. ĐVSKTT ghi lại:
“Bính Ngọ, Thiên phù Duệ Vũ, tháng 9, nước Chiêm Thành sang cống, mở Hội Đèn
Quảng Chiếu ở Long Trì, xuống chiếu cho sứ Chiêm Thành vào xem [145; 294].
Như vậy, năm 1226 là một năm khá đặc biệt, tổ chức 2 lần Hội Đèn Quảng Chiếu
với 2 thời điểm khác nhau. Lần tổ chức vào đầu xuân, tháng giêng là “Tha tội nhân”
và lần tổ chức vào mùa thu là “Cho sứ giả Chiêm Thành vào dự”. Tất nhiên, bên
cạnh đó, các nghi lễ chính như cầu cho quốc thái dân an, thiên hạ thái bình với các
nghi lễ của Phật giáo là không thể thiếu. Tuy nhiên, ngày nay chúng ta cũng không
biết được có phải tất cả các lần mở Hội Đèn Quảng Chiếu này đều tổ chức 7 ngày 7
đêm như đã phản ánh trong tấm bia chùa Đọi, như sách ĐVSKTT, ĐVSKTB [152
196], [127; 420] đã từng phản ánh hay không?. Hay phải chăng, nó đã được linh
động tổ chức dựa trên tình hình thực tế của từng năm khác nhau. Khoảng cách tổ
123
chức lễ hội giữa các lần liền kề nhau như sau:
- Lần thứ nhất cách lần thứ 2 là 98 năm (1012 - 1110)
- Lần thứ 2 cách lần thứ 3 là 6 năm (1110 - 1116)
- Lần thứ 3 cách lần thứ 4 là 4 năm (1116 - 1120)
- Lần thứ 4 đến lần thứ 5 là 1 năm (1120 - 1121)
- Lần thứ 5 đến lần thứ 6 là 2 năm (1121 - 1123)
- Lần thứ 6 đến lần thứ 7 là 3 năm (1123 - 1126)
- Lần thứ 8 đến lần thứ 9 là 9 tháng (tháng Giêng 1126 đến tháng 9. 1126)
- Lần thứ 8 đến lần thứ 9 là 39 năm (1126 - 1165)
- Lần thứ 9 đến lần thứ 10 là 30 năm (1165 - 1195)
Triều Lý đã tổ chức nhiều lễ hội mang tính chất Phật giáo nhưng độc đáo,
đặc sắc nhất và tổ chức thường xuyên, quy mô nhất có lẽ là lễ Hội Đèn Quảng
Chiếu.
+ “Điện” gắn với những sinh hoạt của hoàng đế triều Lý:
Các “Điện” dùng để thiết triều và “Điện” để nghe chính sự là những điện
quan trọng và mang tính chất hành chính, quan phương. Đó là các điện như:
Triều/Càn Nguyên / , Thiên An , Kính Thiên … trong Cấm
thành Thăng Long được coi là những tòa điện có tầm quan trọng bậc nhất. Trong
triều Lý và triều Trần, những tòa điện này, ngoài việc tổ chức các sự việc mang tính
chất đại sự, quốc gia, có khi còn tổ chức các sự việc khác mang tính chất hội hè
thậm chí là những trò chơi giải trí như đá cầu, bắt voi…Tuy nhiên, sau những giờ
thiết triều, hoàng đế thường sinh hoạt ở những điện nào. Các nguồn sử liệu chính sử
rất ít khi đề cập cụ thể đến vấn đề này. Nhưng qua các thông tin gián tiếp cũng có
thể giúp cho người đọc hiểu và suy luận về chức năng của những điện dành cho
hoàng đế trong sinh hoạt và nghỉ ngơi. Đó là những điện nào?. Theo chúng tôi, rất
có thể, những điện được gắn với những thông tin vua “băng hà” chính là những điện
khi sinh thời được vua chọn làm nơi nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng sau khi thiết triều và đã
ở lâu dài ở đây.
Qua khảo sát tên gọi của các điện cho thấy, các điện Long An ,Trường
124
Xuân , Hội Tiên , Vĩnh Quang , Thụy Quang đã được các vị
vua triều Lý (Từ Lý Thái Tổ đến Lý Anh Tông) chọn làm nơi sinh hoạt và nghỉ
ngơi vào những năm cuối đời. Lý Thái Tổ ở điện Long An , Lý Thái Tông ở
điện Trường Xuân , Lý Thánh Tông ở điện Hội Tiên , Lý Anh Tông ở
điện Thụy Quang . Riêng điện Vĩnh Quang là tòa điện được hai vua
Nhân Tông và Thần Tông chọn làm nơi ở và băng hà ở đây. Qua
nguồn sử liệu trong chính sử đã góp phần cung cấp cứ liệu để phân loại định danh
các điện gắn với chức năng sử dụng của chúng.
+ Các đợt xây dựng nhiều “điện” trong Cấm Thành và sự kiện xây dựng
“Tân cung”:
Hoàng thành Thăng Long thời Lý ngay từ buổi đầu dựng lập đã xây dựng
được nhiều cung và điện bề thế, quy mô. Có thể nói, qua các mô tả trong thư tịch cổ
và trong chính sử cho biết, HTTL đã trải qua nhiều lần xây dựng mới và trùng tu
các điện. Theo thống kê của chúng tôi, triều Lý xây dựng hơn 40 điện. Nhưng nổi
bật nhất là xây dựng vào các năm 1028 với gần chục điện như: điện Càn Nguyên,
điện Tuyên Đức, điện Diên Phúc, điện Văn Minh, điện Quảng Vũ, điện Phụng Tiên,
điện Trường Xuân … Sau khi tổ chức xây dựng lớn với quy mô nhiều điện vào năm
1028 thì đến khoảng 30 năm sau, năm 1058, triều Lý lại cho tổ chúc xây dựng bổ
sung thêm một số điện với quy mô lớn. Sự kiện ấy được mô tả như sau: Năm Mậu
Tuất, hiệu Long Thụy Thái Bình năm thứ 5 (1058); Tháng 6, xây điện Linh Quang,
bên trái dựng điện Kiến Lễ, bên phải dựng điện Sùng Nghi. Phía trước điện dựng
lầu chuông, một cột, sáu cạnh hình hoa sen (Độc Trụ Lục Giác Liên Hoa Chung
Lâu) [215; 91]. Như thế, tính hai lần xây dựng vào năm 1028 và 1058, trong Cấm
thành Thăng Long đã có đến hơn chục tòa điện. Đó là chưa kể đến các loại hình
kiến trúc khác. Bên cạnh kiến trúc điện còn có lầu chuông với kiến trúc một cột, sáu
cạnh độc đáo trông giống như một đóa sen rất gần gũi với tinh thần của Phật giáo
đương buổi thịnh thời.
Đến cuối triều Lý, một phần do thời gian phá hủy, do vỡ đê lụt lội, do nội
chiến trong triều … nên nhiều công trình điện bị phá hủy nghiêm trọng. Cuối triều
125
Lý (từ khoảng năm 1203 đến 1214), vương triều Lý lại huy động sức người, sức của
lớn để xây dựng lại khu vực thiết triều cùng khu hành chính ở phía Tây của tẩm
điện cũ gọi là Tân cung (cung mới). Sách VSL ghi: “Năm Quý Hợi, hiệu Thiên
Tư Bảo Hựu năm thứ 2 (1203). Tháng giêng, Xây cung mới tại phía tây Tẩm điện
, ở giữa đặt điện Thiên Thụy , bên trái dựng điện Dương Minh ,
bên phải dựng điện Thiềm Quang , đằng trước xây điện Chính Nghi , ở
trên xây điện Kính Thiên , thềm gọi là Giao Lệ , ở giữa mở cửa Vĩnh
Nghiêm , bên phải mở cửa Việt Thành , thềm gọi là Ngân Hồng ,
đằng sau mở điện Thắng Thọ , ở trên xây gác Thánh Thọ , bên trái
xây gác Nhật Kim , bên phải xây gác Nguyệt Bảo , chung quanh có
dựng hành lang , thềm gọi là Kim Tinh . Bên trái gác Nguyệt Bảo
đặt tòa Lượng thạch , phía tây gác xây Dục đường (nhà tắm), phía sau
xây gác Phú Quốc , thềm gọi là Phương Tiêu , phía sau dựng cửa Thấu
Viên , ao Dưỡng Ngư (nuôi cá), trên ao xây đình Ngoạn Ỷ ,
ba mặt đình có trồng hoa thơm cỏ lạ, nước ao thông với sông, cách trạm trổ, trang
sức khéo léo, công trình thổ mộc đẹp đẽ, xưa chưa từng có vậy” [215; 166 ]. Qua
miêu tả của Việt sử lược - tác phẩm được biên soạn vào thời Trần đã cho biết “Tân
cung” không phải chỉ là một cung điện mà là một quần thể kiến trúc cung đình có
quy mô rất lớn có đầy đủ các cung, điện, lầu, gác, sân thềm, đình, sân, ao, vườn,
thông với sông với kiến trúc độc đáo, đạt trình độ tinh sảo vừa là nơi thiết triều vừa
là nơi thưởng ngoạn của hoàng đế và các vị trong hoàng tộc và các quan đại thần.
Không kể các công trình phụ trợ khác, nếu tính riêng số lượng các điện thì chỉ tính
năm 1214, đã có đến 7 điện được xây tại khu vực “Tân cung” như: Tẩm điện, điện
126
Thụy Thiên, Dương Minh, điện Thiềm Quang, điện Chính Nghị, Kính Thiên, Thắng
Thọ. Như thế, có thể hình dung quy mô xây dựng khu vực hành chính để thiết triều
ở “Tân cung” năm 1203 không kém gì lần xây dựng với quy mô lớn nhất vào các
năm đầu triều Lý (1028), (1058).
3.2.5. Thảo điện triều Lý
Vào cuối triều Lý, kinh tế sa sút, nội chiến thường xuyên xảy ra. Đặc biệt là
cuộc chiến đấu giữa hai thế lực của Đoàn Thượng và Trần Tự Khánh. Sách
ĐVSKTT viết: “Bấy giờ thế nước suy yếu, triều đình không có chính sách hay, đói
kém luôn luôn, nhân dân khốn cùng. Đoàn Thượng thừa thế tự tiện làm oai làm
phúc (…) nhóm họp bè đảng, đắp thành xưng vương, cướp bóc lương dân, triều
đình không thể ngăn được. Vào những năm cuối của triều Lý, cảnh đói khát và giặc
giã hoành hành. Chính sử ghi về tình hình năm Tân Tỵ, hiệu Kiến Gia năm thứ 12
(1222): “Vua thì ở tít trong cung, giặc cướp bừa bãi, nhân dân ở ngoài thành lưu ly
cực khổ lắm” [145; 337]. Có thể nói, dưới sự trị vì của vua Lý Huệ Tông triều đình
suy vi đến cực độ. Vua nhu nhược hèn yếu, nhiều việc lại giao cho Đàm Dĩ Mông -
một kẻ không có học thức, không có mưu lược, quyết đoán lại có sự phá hoại, đốt
phá Kinh thành của nhóm quân Trần Tự Khánh nổi loạn làm cho triều đình đổ nát,
nhiều cung điện bị thiêu hủy. Vua phải đi chạy giặc khắp nơi và nhiều khi phải chạy
khỏi Hoàng thành đi ở nhờ nhà người dân: “Năm Ất Hợi, hiệu Kiến Gia năm thứ 5
(1215), tháng chạp, dựng thảo điện ở nhà Đỗ An [215; 196]. Nhà Đỗ An được ghi ở
gần cầu Tây Dương (Khoảng khu vực Cầu Giấy hiện nay - Tg). Phải đến năm sau,
1216, vua mới chính thức về Cấm thành để coi chầu cho người tạm thời dựng thảo
điện (điện lợp bằng rơm, rạ). Trước đó, Trần Tự Khánh đã lấy ghế mạ vàng (Kim
ỷ), nay mới trả lại. Việt sử lược ghi: “Năm Bính Tý, hiệu Kiến Gia năm thứ 6
(1216). Mùa xuân, tháng Giêng, vua cùng Thái Hậu ngự ở thảo điện (điện lợp lá)
coi triều, Tự Khánh trả lại kim ỷ (ghế thếp vàng) [ 215; 193 ]. Giai đoạn cuối Lý
đầu Trần, không chỉ trong Cấm thành, các cung điện bị đốt phá do chiến tranh giữa
các tập đoàn phong kiến nên cung thất bị đốt phá mà còn xuất hiện thêm một mô
hình cung điện khác ở khu vực Tây Phù Liệt quy mô phỏng theo Đại Nội [215;
127
194].
Khoảng hơn chục năm cuối cùng của vương triều Lý, các điện trong Cấm
thành trở thành tiêu điều, đổ nát và cháy trụi. Kể từ khi Trần Tự Khánh đốt phá
cung điện vào những năm 1214, 1215 trở đi cho đến khi triều Lý kết thúc (1225),
nhiều cung điện nguy nga bị đốt cháy, “Tân cung” chắc cũng không còn lại là bao,
128
tất cả chỉ còn trong dĩ vãng, vàng son một thuở.
3.2.6. Chế độ Đông Cung Thái Tử và Đông Cung Thái Tử thời Lý
Tên gọi “Đông Cung Thái Tử” đã cho chúng ta biết vị trí và chủ
nhân của công trình này. Cung này ở vị trí phía Đông và dành cho Thái Tử. Tư liệu
viết về Đông Cung Thái Tử ở HTTL thời Lý không nhiều. Ngày nay, cũng không
được biết khu vực Đông Cung gồm những cung gì. Cho đến hiện nay, chúng tôi mới
chỉ biết đến tên gọi của cung Long Đức nằm trong hệ thống khu vực Đông
Cung vào những năm đầu triều Lý. Sách ĐVSKTT viết: “Quý Dậu [ Thiên Thành]
năm thứ 6 (1033). Tháng 8 phong Đông cung thái tử [Nhật Tôn] làm Khai Hoàng
Vương ở cung Long Đức” [145; 256 ].
Dưới thời Lý, công việc điều hành quốc gia dưới sự điều khiển của hoàng
đế. Các vị Hoàng Thái Tử, Thái Tử được nuôi dạy chu đáo, tập trung học tập văn
hóa, sách vở kết hợp với học tập các nghi lễ, quy củ của triều đình. Vào đầu triều
Lý, Hoàng Thái Tử được đưa ra ngoài thành ở với dân chúng để thấu hiểu cuộc
sống của người dân hơn. Khi quốc gia, xã tắc hữu sự, vua phải ra trận thì Thái Tử
có khi cũng phải thay vua để điều hành quốc gia (Tất nhiên, bên cạnh Thái tử còn
có sự cố vấn của các quan đại thần, các Ty và của Hoàng Hậu). ĐVSKTT ghi về sự
kiện năm 1033, khi Lý Thái Tông đi đánh châu Định Nguyên làm phản. Tháng 2,
vua thân đi đánh, cho Đông Cung Thái Tử giám quốc” [145; 255]. “Giám quốc” ở
đây có nghĩa là trông coi công việc quốc gia. Nhiều vị trước khi lên làm vua hầu hết
đều là Hoàng Thái Tử hoặc Thái Tử ở Đông Cung. Chẳng hạn khi Lý Thái Tổ được
nhường ngôi thì Phật Mã (có tên khác là Đức Chính - sau này là Lý Thái Tông)
được lập làm Đông Cung Thái Tử năm 1009 (khi đó mới lên 9 tuổi) [145; 253]. Lý
Nhật Tôn (Thái Tôn) - con trưởng của Thái Tông sinh năm 1023 ở cung Long Đức,
năm 1028 khi mới 5 tuổi được sách phong là Đông Cung Thái Tử. Đặc biệt, Lý
Nhân Tông sinh ngày 25 tháng Giêng năm Bính Ngọ (1066), ngày hôm sau được
lập làm Hoàng Thái Tử; Lý Thần Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông đều được lập
làm Hoàng Thái Tử khi mới được 2 tuổi. Riêng trường hợp Lý Huệ Tông được sách
129
lập Hoàng Thái Tử khi đã 14 tuổi [145; 339]. Cuối triều Lý, do Lý Huệ Tông không
có con trai nối dõi bèn lập Công chúa Phật Kim (còn có tên là Thiên Hinh, sau là Lý
Chiêu Hoàng) lên làm Hoàng Thái Tử khi mới 6 tuổi. ĐVSKTT viết: “Huệ Tông
không có con trai nối, lập Hoàng Thái Tử để truyền ngôi” [145; 339].
Như vậy, để trở thành Hoàng đế, (trừ vị vua sáng lập - Lý Thái Tổ), tất cả
các vị vua triều Lý đều phải trải qua quá trình được sách phong làm Thái Tử hoặc
Hoàng Thái Tử để truyền ngôi. Đặc biệt có những người được phong khi mới được
một ngày tuổi, nhiều người được phong khi mới vừa tròn 2 tuổi hay có người dù là
phận nữ nhi (như Lý Phật Kim) trước khi trở thành Nữ vương cũng được sách
phong Hoàng Thái Tử. Có thể thấy, quy chế sách phong Hoàng Thái Tử dưới triều
Lý như một hình thức bắt buộc và những người này được nuôi dạy đặc biệt chu đáo
ở Đông Cung.
3.2.7. Chức năng của các công trình trong Cấm Thành Thăng Long
“Cung” dành cho Hoàng Thái Hậu
Trong tất cả các cung trong Cấm Thành Thăng Long, cung nào có vị trí quan
trọng nhất (?). Cung quan trọng nhất chắc chắn là cung dành cho Hoàng Thượng và
Hoàng Thái Hậu. Cung Quảng Từ được nhắc đến nhiều lần trong chính sử với vai
trò là cung dành riêng cho Hoàng Thái Hậu. Cung này được dựng vào năm Ất Sửu
(1145) [145; 282]. Sách ĐVSKTB cũng ghi tương tự: “rước Hoàng Thái Hậu đến ở
đấy” [145; 282]. Về thời gian xây dựng mất hơn một năm mới hoàn thành với quy
mô lớn và tốn phí rất nhiều. Sách ĐVSKTB ghi: “Bính Dần (1146), Mùa đông tháng
10, khánh thành cung Quảng Từ (Xét ra cung Quảng Từ là ở chỗ của Lê
Thái Hậu, dựng vào mùa thu, năm Ất Sửu (1145) đến nay khánh thành, công xây
dựng hết cả năm, thế là phí tổn nhiều lắm. Lê Hậu đang lập cung riêng để tư thông
với Đỗ Anh Vũ. Anh Tông còn nhỏ không biết, nhà sử ghi lại để biết việc đó” [145;
283]. Tuy nhiên, về năm khởi dựng cung Quảng Từ có nhiều giả thuyết khác nhau.
Học giả Lê Mạnh Thát đã tổng hợp hai quyển chính sử để so sánh: Sách ĐVSKTT
viết Cung (Quảng Từ) khởi công năm 1145 nhưng sách Nghiên cứu Thiền uyển tập
anh và VSL ghi: “Năm Quý Hợi, hiệu Đại Định năm thứ 4 (1143) làm cung Quảng
130
Từ, Thái Hậu ở cung đó [215; 144]. Năm hoàn thành cung Quảng Từ, sách
ĐVSKTT ghi năm Đại Định thứ 9 (1148) mùa đông tháng 10 khánh thành cung
Quảng Từ” [145; 283]. Nếu theo Sách ĐVSKTT và ĐVSKTB thì cung Quảng Từ
làm hết hơn một năm còn theo sách VSL (Năm khởi công là 1143 và sách ĐVSKTT
năm hoàn thành năm 1148. Như thế, cung này phải làm mất hơn 5 năm mới hoàn
thiện. Cung Quảng Từ cũng từng là nơi làm việc của thiền sư nổi tiếng Thường
Chiếu (? - 1203) được sách Thiền uyển tập anh ghi chép: “Thiền sư Thường Chiếu
(? - 1203). Triều Lý Cao Tông, sư làm quan Lệnh Đô Tào ở cung Quảng Từ [186;
479 - 480]. Sự kiện vua đến cung Quảng Từ để xem đua thuyền cũng không thống
nhất giữa các sách: Sách VSL ghi vua đến vào năm Đại Định thứ 10 (1149), “Mùa
thu tháng 8 vua đến chơi cung Quảng Từ xem đua thuyền” [215; 147]. Sách
ĐVSKTT ghi sự kiện này vào năm 1151 [186; 479 - 480 ]. Mốc thời gian xây dựng
và hoàn thành cung Quảng Từ cũng như sự kiện vua đến cung Quảng Từ xem bơi
thuyền có sự khác nhau như trên. Kết quả nghiên cứu, so sánh của chúng tôi giữa
các nguồn tư liệu đã xác nhận ý kiến của tác giả bộ sách “Nghiên cứu Thiền uyển
tập anh” là hoàn toàn chính xác [186; 479 - 480]. Dù chưa xác quyết năm khởi dụng
và năm hoàn thành của cung Quảng Từ nhưng chúng tôi vẫn thiên về tài liệu được
biên soạn sớm nhất là VSL và ĐVSKTT. Vì thế, chúng tôi cho rằng, cung Quảng Từ
được xây dựng kéo dài trong khoảng thời gian hơn 5 năm (1143 - 1148). Vị trí cung
này cũng nằm ở khu vực phía sau của Cấm cung và có lẽ gần với bờ sông Cái/ Sông
Hồng.
Cung - nơi sinh thành Hoàng Thái Tử
Hoàng Thái Tử được sinh ở cung nào là một vấn đề thú vị cần nghiên cứu.
Có lẽ, nơi sinh ra của vị Hoàng tử - Hoàng đế tương lai luôn gắn liền với nơi ở của
các Hoàng Hậu, Hậu Phi. Nhưng không phải vị Hoàng Tử nào đến khi trưởng thành
cũng được chọn làm hoàng đế (kể cả người đó là con vợ đích). Bởi thế, thông tin
chính xác nhất có giá trị xác định vua sinh ra ở cung nào đã được các sử gia chép lại
một cách khái quát trong chính sử (Thường được chép lại trong thời điểm khi vị vua
đó lên ngôi hay băng hà). Chẳng hạn, sách ĐVSKTT ghi : Vua Lý Thánh Tông sinh
131
ngày 25 tháng 2 năm thứ 14 hiệu Thuận Thiên (1023), sinh ở cung Long Đức [145;
247 ]. Không biết tên gọi của cung Thái Tử có phải là cung Long Đức hay không.
Cho đến hiện nay, chưa có tư liệu nào khẳng định. Nhưng có thể nghĩ rằng, tên gọi
cung Thái Tử có lẽ là cung dành riêng cho các Thái Tử nên đã thành tên gọi [215;
95 ]. Vì thế, gọi đây là cách đặt tên theo kiểu từ nguyên học. Không biết cung Thái
Tử được xây dựng năm nào. Chỉ biết năm 1066 cung này được đề cập: “Bính Ngọ,
hiệu Chương Thánh Gia Khánh năm thứ 8 (1066), tháng 3, rồng vàng hiện ở cung
Thái Tử [215; 95 ]. Sự kiện rồng hiện ở cung Thái Tử, dưới cách nhìn tâm linh thì
có lẽ là một điềm lành báo hiệu tin mừng cho sự nghiệp nhà Lý bởi trước đó sử ghi:
“Thái Tử Càn Đức, sinh ngày 25 tháng giêng, ngày hôm sau được làm Hoàng Thái
Tử, cải nguyên, đại xá, phong Ỷ Lan phu nhân làm Thần Phi [ 215; 132 ].
Trong những trường hợp đặc biệt, không chỉ những Thái Tử mới được nuôi ở
trong cung mà những con cháu của bậc tôn thất, trong đó có những bé gái được
hoàng đế yêu quý cũng được nuôi lớn ở trong cung. Đó là trường hợp cô bé Ngọc
Kiều - con gái lớn của Phụng Yết Vương, được vua Lý Thánh Tôn nuôi ở trong
cung [186; 296 - 297]. Ngọc Kiều sau đi tu lấy pháp danh là Diệu Nhân (1042 -
1113) trở thành thiền sư - nữ sĩ - thi nhân hiếm hoi của vương triều Lý.
Như thế, bên cạnh cung Thái Tử - dành cho các Thái tử còn có các cung khác
dành cho những người trong tông thất nhà Lý, những tôn nữ tuổi còn ấu thơ sống
trong Cấm thành Thăng Long.
“Cung” dành cho cung nữ Chiêm Thành
Dưới triều Lý, vấn đề Chiêm Thành đã được đề cập đến nhiều trong chính
sử. Không ít lần, đích thân hoàng đế đã phải cầm quân đi đánh dẹp. Trong những
lần đi chinh phạt, quân đội nhà Lý bắt được nhiều tù binh và cung nữ. Riêng tù binh
bắt ra ở khu vực Thập Tam trại còn các cung nữ cho ở riêng trong một khu vực. Có
thể, triều đình nhà Lý đã tận dụng sự tài hoa, khéo léo của những cung nữ Chiêm
Thành để sử dụng vào việc dệt cửi thêu thùa hoặc khai thác tài năng nghệ thuật, ca
hát, biểu diễn ca múa nhạc phục vụ trong triều đình … Mặc dù các tư liệu thư tịch
không đề cập đến nhiều nhưng qua các nguồn sử liệu vật thực đã chứng minh sự
132
ảnh hưởng khá sâu đậm của nghệ thuật điêu khắc, âm nhạc Champa đối với văn hóa
Đại Việt [145; 227]. Đối với các nghệ sĩ, cung nhân tài hoa của Chiêm Thành, triều
Lý rất trân trọng và làm cung riêng cho họ ở. Sử ghi: “Bính Tuất năm thứ 3 (1046)
(Tống Khánh Lịch năm thứ 6), dựng cung riêng cho phụ nữ Chiêm Thành ở” [215;
86]. Tuy nhiên, với ĐVSKTT và ĐVSKTB không nói rõ cung này tên là gì (?). Riêng
sách VSL lại ghi cụ thể tên cung: cung Ngân Hán [215; 86]. VSL còn nói rõ “Xây
cung Ngân Hán ở vườn Hậu Uyển” [215; 86] (Vườn ở phía sau - TG).
Như vậy, chỉ có ít thông tin ít ỏi nhưng chính xác cũng có thể giúp hình dung
được ít nhiều vị trí của cung Ngân Hán dành cho các cung nữ Chiêm Thành ở vườn
Hậu Uyển, phía sau của khu vực Cấm thành Thăng Long.
“Cung” dành cho các Đạo sĩ và Đạo giáo
Ngoài việc các cung dành riêng cho các cung nữ thì các cung dành riêng cho
các Đạo sĩ cũng đã được xây dựng.Tân Mùi [Thiên Thành] thứ 4 (1031), mùa đông,
tháng 10, ngày mồng một, đạo sĩ là Trịnh Trí Không tâu xin cho các đạo sĩ
được nhận kí lục (thụ ký lục) ở cung Thái Thanh . Vua y cho [145; 255].
Hơn một thế kỷ sau, cung Thái Thanh vẫn được nhắc đến chứng tỏ nó vẫn tồn tại.
Nhưng cung này nằm ở đâu, có phải trong Cấm thành/ (Cấm Nội) hay không cần
phải tiếp tục tìm hiểu. Nhưng theo chúng tôi, cung Thái Thanh dành cho các Đạo sĩ
nằm ở vị trí ngoài Cấm thành (Cấm Nội) thông qua chi tiết miểu tả trong VSL:
“Năm Đinh Tỵ, hiệu Thiên Chương Bảo Tự năm thứ 5 (1137). Ban đêm rồng vàng
từ cung Thái Thanh bay vào trong Cấm Nội” [215; 142]. Ngoài cung Thái Thanh
, cung Cảnh Linh cũng là một cung của Đạo giáo dùng để làm nghi lễ
“Tắm Đạo”: “Năm Bính Tuất, hiệu Chính Long Bảo Ứng năm thứ 4 (1166). Mùa
xuân, tháng 3, vua ngự ra cung Cảnh Linh xem Tắm Đạo. Lễ Tắm Đạo là bắt đầu từ
đó [215; 51].
Có thể, với trí của cung Thái Thanh và cung Cảnh Linh dành cho Đạo sĩ và
Đạo giáo nằm ở ngoài Cấm Nội/ (Cấm thành) trong Hoàng thành Thăng Long.
133
“Cung” dành để thưởng ngoạn
Trong Cấm thành Thăng Long thời Lý không chỉ có những cung dành cho
vua, Hoàng Hậu, Thái Tử - những bậc tôn quý của vương triều mà còn có những
cung dành cho việc phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí, chính sử chỉ ghi mấy từ vắn
tắt: Vua đến cung đó … xem đua thuyền. Xem đua thuyền là một hình thức vui
chơi, thưởng ngoạn lễ hội. Tuy nhiên, từ nguồn sử liệu trên, chúng tôi có thể đưa ra
một nhận xét mang tính chất giả thuyết: cung đó chưa hẳn đã là một cung dành việc
cho việc thưởng ngoạn, vui chơi mang tính chất chuyên dụng mà chỉ vì vị trí của
cung đó nằm gần sông, hoặc cung đó cao có thể đứng xem đua thuyền ở sông Hồng
được thuận tiện. Xuất phát từ tên gọi, ngày nay có thể hình dung được một số cung
xây dựng vào triều Lý dành riêng cho việc thưởng ngoạn. Đó là các cung có tên:
Nghênh Thiềm , Ngoạn Xuân , Thưởng Hoa .“Nghênh Thiềm” có
nghĩa là Ngắm trăng/ Thưởng thức đón trăng lên. (“Thiềm thừ” có nghĩa là
con cóc ngắm trăng, ý chỉ cuộc sống giàu sang, phú quý); “Ngoạn Xuân”: Ngắm
cảnh, thưởng ngoạn mùa xuân; “Thưởng hoa”: Ngắm hoa/Thưởng thức cảnh đẹp,
hoa trái trong vườn… Đặc biệt cung “Nghênh Thiềm” được nhắc đến nhiều lần.
Không biết cung này được xây dựng lần đầu tiên năm nào. Chỉ biết rằng, theo VSL
cung này bị cháy hai lần vào năm 1170 và 1192. Sử liệu sớm nhất đề cập đến cung
này là VSL ghi sự kiện vào năm 1170: “Năm Canh Dần, hiệu Chính Long Bảo Ứng
năm thứ 8 (1170). Tháng quý hạ (tháng 6) cung Nghênh Thiềm phát hỏa”. “Năm
Nhâm Tý, hiệu Thiên Tư Gia Thụy năm thứ 7 (1192), mùa đông tháng chạp, Cung
Ngênh Thiềm bị cháy”.
Còn ĐVSKTT lại ghi: Năm Đinh Tỵ (1197) dựng cung Nghênh Thiềm. Vậy
việc “dựng cung Nghênh Thiềm” vào năm 1197 theo nguồn sử liệu của ĐVSKTT là
trùng tu xây dựng lại (hoặc xây mới hoàn toàn sau 27 năm) sau sự kiện bị cháy năm
1170. Vậy cung này bị cháy vào các năm 1170, 1192 (VSL) hay sự kiện cháy vào
các năm 1170, 1197 (ĐVSKTT) hoặc cháy ba lần vào các năm (1170, 1192, 1197)
(VSL; ĐVSKTT) ?. Theo VSL, cung Nghênh Thiềm được xây năm 1197 [215; 162].
134
Vậy, kết nối các nguồn sử liệu cho thấy, năm 1197 cung này bị cháy và ngay năm
đó cung này lại được trùng tu xây dựng lại. Cung Nghênh Thiềm có lẽ ở trong Cấm
thành còn cung Ngoạn Xuân ở bên cạnh Dâm Đàm - Hồ Tây - phía ngoài HTTL. Sở
dĩ biết được vị trí của nó qua chi tiết ghi năm “Ất Tỵ, hiệu Chương Thánh Gia
Khánh năm thứ 7 (1065): Ngày Quý Mùi, vua ngự ra hành cung Cứu Lan gọi
cung đó là Cảnh Hưng , còn hành cung Giao Đàm (Dâm Đàm) gọi
là cung Ngoạn Xuân [ 215; 94]. Vậy cung Ngoạn Xuân trong VSL chính là
cung Dâm Đàm. Cung Ngoạn Xuân không thể ở trong Cấm thành mà là ở bên
ngoài, bên cạnh hồ Dâm Đàm (Hồ Tây). Ngoài ra còn có nhà/đình Thưởng Hoa
[215; 148] xây dựng năm 1154 nhưng vị trí ở đâu thì chưa rõ (?).
3.2.8. Thiên tai và nguyên nhân của sự bị phá hủy các công trình kiến trúc
trong Hoàng thành Thăng Long
Thủy, hỏa, đạo, tặc (vỡ đê, hỏa hoạn, trộm, cướp) là những mối quan tâm của
người dân thôn quê cũng như ở Kinh thành. Thời Lý, nhà dân chưa có nhà xây gạch
và lợp ngói còn nhà trong Cấm thành, các công trình cung, điện, lầu, gác đều làm
bằng gỗ nên vấn đề hỏa hoạn cũng đã trở thành một mối quan tâm lớn trong Kinh
thành. Qua các tư liệu lịch sử cho thấy, trong Kinh thành và Cấm thành Thăng Long
thường xuyên bị hỏa hoạn. Việc xảy ra hỏa hoạn thường có nhiều nguyên nhân
nhưng tựu chung lại có hai nguyên nhân chính: Nguyên nhân do vô tình bị cháy và
nguyên nhân do chiến tranh giữa các tập đoàn phe phái nội bộ của triều đình và giặc
ngoại xâm. Nhiều khi chính sử chỉ ghi một thông tin ngắn gọn: Cung này bị cháy,
điện này bị cháy mà không nói rõ nguyên nhân… Những loại thông tin dạng này
chúng tôi tạm xếp vào nguyên nhân cháy do vô tình. Còn những dạng thông tin thứ
hai nói rõ do chiến tranh hay do nội chiến mà cháy… thì chúng tôi xếp vào nguyên
nhân do cố ý mà nên.
Nói đến Hoàng thành Thăng Long là nói đến sự chồng xếp của nhiều tầng
văn hóa khảo cổ với nhiều sự kiện lịch sử kế tiếp nhau. Sự biến mất của những
135
cung, điện, lầu, gác của các thời đại Lý, Trần, Lê có nhiều nguyên nhân: Giặc dã,
thiên tai, hỏa hoạn… Một vài cuộc hỏa hoạn mà nguồn sử liệu không cho biết rõ
nguyên nhân như năm 1199 Hậu Cung bị cháy… Chiến tranh giữa triều đình với
các tập đoàn phe phái cùng với giặc ngoại xâm là một trong những nguyên nhân
chính khiến cho nhiều công trình kiến trúc thời Lý không còn tồn tại đến giai đoạn
sau. ĐVSKTT, VSL và nhiều tư liệu đề cập đến những cuộc chiến tranh vào cuối
triều Lý giữa tập đoàn Trần Tự Khánh, Nguyễn Nộn vào các năm đầu thế kỷ XIII
như: Vào các năm 1213, 1214, cung Thánh Nghi bị đốt. Tháng 9 năm 1214, vua
cùng Thái Hậu về Kinh sư, thấy cung thất bị cháy gần hết, bèn đi ra cầu Thái Hòa,
cạnh đền Chúc Thánh (nay thuộc quận Cầu Giấy), sai dựng căn nhà tranh để ở …
Trong thời Lý, cung Phụng Thiên, Thành Thăng Long bị cháy một lần không
đề cập đến nguyên nhân cháy. Đó là năm Bính Dần, hiệu Trị Bình Long Ứng năm
thứ 2 (1206): Tháng 3, cung Phụng Thiên bị cháy [215; 170 ]. Ngoài ra, có hai lần
cung Thánh Nghi và cung Động Nhân bị cháy vào các năm 1214,
1215 - giai đoạn những năm cuối triều Lý, nguyên nhân do Trần Tự Khánh đốt. VSL
ghi rõ: “Năm Giáp Tuất, hiệu Kiến Gia năm thứ 4 (1214), tháng 6, Tự Khánh tiến
đánh Nộn (Nguyễn Nộn - TG) ở cung Thánh Nghi, đốt cung đó” [215; 190 ]; “Năm
Ất Hợi, hiệu Kiến Gia năm thứ 5 (1215). Mùa thu, tháng 7, Tự Khánh đốt cung
Động Nhân. Vua sai rước thần chủ Linh Nhân Thái Hậu (tức Ỷ Lan) về đền Chúc
Thánh ” [215; 193]. Qua đó, cho biết, trước khi bị cháy, cung Động Nhân là
nơi thờ Linh Nhân Thái Hậu Ỷ Lan, có bài vị thờ. Sau khi bị cháy, nhà vua cùng
Hoàng Hậu mới chuyển bài vị của Ỷ Lan về thờ ở chùa Chúc Thánh bên ngoài
Thành Thăng Long (nay thuộc quận Cầu Giấy - Hà Nội).
Tại các di tích, Khu Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu và số 9 Hoàng Diệu còn
phát hiện được nhiều dấu tích hố đất đen có chứa than tro bếp và những trụ cột bằng
gỗ có dấu vết cháy dở. Đây là một trong những bằng chứng để chứng minh, nguồn
sử liệu trong thư tịch phản ánh đúng sự thật về những thời điểm, thời gian, HTTL
136
điêu tàn do hỏa hoạn hay chiến tranh tàn khốc giữa các tập đoàn phong kiến.
3.2.9. Số lượng, loại hình các công trình khác trong Cấm thành và Hoàng
thành Thăng Long
Các công trình khác trong khu vực Cấm thành
Lầu - gác
Gác ( ) là một khái niệm mở để chỉ một công trình có độ cao tương đối, có
kết cấu thường từ hai tầng trở lên. Đứng trên công trình này, người ta có thể quan
sát được ở những vị trí thấp hơn hoặc quan sát được ở những nơi xa hơn. Theo Từ
điển Việt - Anh: Gác: là danh từ (Floor: of a buiding); mục từ: Gác chuông ( Belfry,
bell - tower); mục từ: Gác thượng (Top floor, top storey (of a multi - storeyed building)26 [91; 123]. Như vậy, gác thường được hiểu là một bộ phận ở vị trí phía
trên của công trình. Qua tìm hiểu chúng ta thấy, có gác dành riêng cho Hoàng Thái
hậu như gác Du Thiềm (1065) dành cho Nguyên Phi Ỷ Lan. Năm Ất Tỵ,
hiệu Chương Thánh Gia Khánh năm thứ 7 (1065): Mùa đông, tháng chạp, rồng
vàng hiện ở điện Diệu Linh , lại hiện ở gác Du Thiềm , nơi Nguyên
Phi Ỷ Lan ở (VSL, 95); Như vậy, gác này chắc hẳn cũng không phải là một gác đơn
giản mà ngược lại chắc hẳn nó cũng là một gác tương đối quy mô và có vị trí quan
trọng (?). Vả lại, có những tên gác có lẽ cũng chỉ là một kiến trúc hai tầng khá nhỏ,
tầng trên là một cái lầu, tầng dưới là một chuồng để nhốt hổ như gác Vĩnh Bình
: Năm Đinh Mùi, hiệu Thiên Tư Gia Thụy năm thứ 2 (1187). Vua sai dựng
chuồng hổ ở gác Vĩnh Bình, rồi sai nhà sư (nước Tây Vực - tg) vào trong chuồng
[215; 160]. Có tên gác lại trùng tên với tên phường của thời kỳ đó như gác Thái
27 [186; 618]… nhưng
26 Tuy nhiên, theo chúng tôi, định nghĩa của Lê Khả Kế về “Lầu” và “Gác” cho một công trình kiến trúc phương Đông như “Lầu”, “Gác” có một độ chênh nhất định. Vì thế, khái niệm này là một cách hiểu tương đối. 27 Theo Nghiên cứu Thiền uyển tập anh của Lê Mạnh Thát, Nxb Văn nghệ thành phố HCM, 1994, tr 618: “Quốc sư Thông Biện (1080 - 1151, người họ Nguyễn, tên Nguyên Ức, về sau ngụ ở phường Thái Bạch, Kinh thành Thăng Long”.
137
Bạch trùng tên với tên phường Thái Bạch
không rõ gác này ở vị trí nào trong Kinh thành hay Cấm thành Thăng Long (?):
“Tân Mão, hiệu Chính Long Bảo Ứng năm thứ 9 (1171), xây gác Thái Bạch [215;
152 ]. Có một số gác được đề cập nhân sự kiện rồng vàng xuất hiện như gác Đoan
Minh (1053) [145; 269], gác Thánh Nhật (1204) [ 215; 269 ]. Cũng
như nhiều công trình có độ cao như các cung, điện, lầu, gác, thời đó cũng thường bị
sét đánh như gác Ly Minh bị sét đánh năm 1195 [145; 330]. Qua tên gọi có
thể cho người đọc nghĩ về chủ nhân của nó. Chẳng hạn nói đến các lầu, gác dành
cho phái nữ thường gắn với hình tượng chim phượng. Ở Trung Hoa, tên gọi gắn với
chủ nhân của công trình mà nữ giới là chủ thể có sắc thái rất rõ nét. Dưới triều Lý
có lẽ lầu Phượng Hoàng có thể là để dành riêng cho các Hoàng Phi, Cung
Phi (?). Lầu này được xây dựng cùng với điện Thiên Khánh vào năm (1130). Vị trí
của lầu Phượng Hoàng ở phía sau điện Thiên Khánh [215; 80].
Vào cuối triều Lý, sau khi Trần Tự Khánh đốt phá nhiều cung, điện. Chỗ đốt
đó, nhiều tư liệu lịch sử gọi là “Cựu kinh”. Sau đó lại cho xây dựng khu vực mới
(Tân Cung) ở khu vực phía Tây Tẩm điện dùng để thiết triều vào năm 1203. Khu
vực “Tân Cung” này được xây dựng nhiều gác như: gác Thánh Thọ , Nhật
Kim , Nguyệt Bảo , Phú Quốc … [215; 166].
Đan xem các công trình điện, gác là một số công trình phục vụ sinh hoạt
dùng để nghỉ ngơi hay vệ sinh, tắm giặt. Chẳng hạn như tòa Lượng Thạch
(hòn đá mát) và nhà dục đường . Tuy nhiên, cách hiểu sự bài trí của những
công trình này cũng có sự không giống nhau; GS Phan Huy Lê cho rằng Dục
Đường và tòa Lượng Thạch liền kề sát bên nhau cùng với gác Nguyệt Bảo, điện
Thắng Thọ, gác Nhật Kim thành một hàng ngang [113; 18]. Còn GS.TS Nguyễn
Quang Ngọc lại phỏng đoán Tân cung dưới thời Lý Cao Tông theo sơ đồ hàng
138
trước, hàng sau và gần như đăng đối. Tòa “Lượng Thạch” gần như đối xứng với
“Dục đường” qua gác Nguyệt Bảo và điện Thắng Thọ ở sau gác Nguyệt Bảo [144;
251],[Phụ lục, sơ đồ 5]. Theo GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, cách bài trí sơ đồ Tân
Cung (1203 - 1205) thời Lý Cao Tông thể hiện nhất quán trong các nghiên cứu công
bố trong các năm 12013 [142 ] và năm 1016 [144].
Các điện, gác xây dựng ở khu vực “Tân cung” nguy nga tráng lệ và rất quy
mô. Điều đặc biệt là cấu trúc của các công trình này tuân thủ theo luật đăng đối và
âm dương. Chẳng hạn cặp đối nhau của hai gác (Nhật Kim = Mặt trời =
dương) đăng đối với (Nguyệt Bảo = Mặt trăng = âm); Trong âm có dương,
trong dương có âm như cặp kiến trúc công trình: (Gác Nhật Kim = (Mặt
trời) dương + đi kèm với tòa dục đường (nhà tắm = thủy = âm) đăng đối với (gác
Nguyệt Bảo = (Mặt trăng) = âm + Tòa Lương Thạch (đá) = dương). Các
công trình này được xây dựng đăng đối qua một cái sân rộng gọi là thềm Kim Tinh
… Qua mô tả trong chính sử, có thể nghĩ rằng, kiến trúc trong “Tân cung”
cũng được làm theo ý tưởng của thiết kế âm dương (trong tên gọi và công năng sử
dụng). Để xây công trình này từ khi khởi đầu cho đến khi hoàn thiện phải mất đến
17 năm (1203 - 1220), tốn nhiều công sức và tiền của. VSL viết: “Năm Quý Hợi,
hiệu Thiên Tư Bảo Hựu năm thứ 2 (1203), Vua được đẹp lòng, sai sửa sang điện,
gác mau chóng, trăm họ vì thế càng khốn khổ” [215; 167].
Các “cửa” trong Hoàng Thành, Cấm thành Thăng Long
Hoàng thành Thăng Long thời Lý có nhiều hạng mục công trình kiến trúc, lại
được phân làm nhiều khu vực, mỗi khu vực cũng có nhiều công trình liên quan. Vì
thế, có nhiều cửa để liên thông với nhau. Theo thống kê ban đầu qua ba bộ chính sử
cho thấy: VSL có 24 lần đề cập đến các “cửa”; ĐVSKTT có 7 lần đề cập đến các
“cửa” và sách ĐVSKTB có 4 lần đề cập đến các “cửa”. Tổng cộng lại có đến 35 lần
đề cập đến với gần 20 “cửa” khác nhau như: cửa Quảng Phúc , Cửa Khuyết
139
, Trường Quảng , Tường Phù , Diên Hưng , Thổ Hằng ,
Ngân Hà , Thái Bình , Thượng Thủy Hà , Đại Hưng , Cửa
Nách , Tây Dương , Việt Thành , Nghị Tự , Vĩnh Nghiêm ,
Thấu Viên , Triều Đông … Trong đó, “Cửa Nách” ( - Dịch môn) là
tên gọi chung chứ không phải danh từ tên gọi riêng. Hay tên gọi mang tính chất từ
nguyên học như: “Cửa khuyết” , hay “Cửa Khoét” là tên gọi xuất phát từ
câu chuyện có thật: “Bính Tuất (1226), Thượng Hoàng nhà Lý (Huệ Tông) sau khi
tự tử xong, Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía Nam làm
cửa (bấy giờ gọi là “Cửa Khoét” , đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để
thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang ” [145; 9]. Trong số các “cửa”
được đề cập, cửa Đại Hưng là cửa được nói đến nhiều nhất trong chính sử
(11 lần), với nhiều chi tiết nước tràn vào (năm 1058 [215; 91], 1121 [ 145; 291],
[152; 257]), cháy cửa Đại Hưng (1074)... Có lẽ, ngay sau khi bị cháy, cửa Đại Hưng
liền được sửa chữa ngay năm (1074). Sau sự kiện cháy và sửa chữa trong năm 1074
đến gần một thế kỷ sau (1167), cửa Đại Hưng lại được sửa chữa lần nữa [215; 152].
Cửa Đại Hưng còn là nơi tổ chức nhiều lễ hội nổi tiếng và quan trọng như: “Hội
Thề, Lễ Hội Đèn Quảng Chiếu tổ chức năm 1116” [ 215; 114 ] 1195 [215; 163] và
“Lễ Tàng Cưu ; Mậu Thân” [1128], “tháng 6, xuống chiếu cho đại thần và các
quan chức Đô Hội, thề ở ngoài cửa Đại Hưng” [145; 300]. “Dự định làm lễ đưa táng
Nhân Tông” [145; 300]...
Ngoài lễ hội Đèn Quảng Chiếu còn có lễ “Tàng Cưu” cũng được tổ chức ở
cửa Đại Hưng: “Năm Ất Dậu, hiệu Kiến Gia năm thứ 15 (1225). “Vua ngự ra cửa
Đại Hưng xem đặt lễ Tàng quy cưu, xuống chiếu cho con gái đẹp ở trong nước tới
xem” [215; 199]. Cửa Đại Hưng còn được coi là nơi tập trung quân lính để tổ chức
Hội thề trước khi ra trận: “Ấy Tỵ năm thứ 6 (1125) (…) Lê Bá Ngọc đi đánh châu
140
Quảng Nguyên (…) “Bá Ngọc sắp đi, họp quân thề ở ngoài cửa Đại Hưng, tuyên bố
quân lệnh” [152; 259]. Như thế, vị trí của cửa Đại Hưng chắc hẳn phải có một diện
tích khá rộng để trở thành nơi tập trung quân lính trước khi ra trận (?). Cửa Đại
Hưng cũng là một cửa thành có tính chất bố phòng kiên cố để bảo vệ vòng ngoài
của Cấm thành. Sở dĩ chúng ta biết được như vậy là căn cứ vào dòng sử liệu trong
ĐVSKTT ghi: “Đinh Mùi (1127) (…) Lê Bá Ngọc truyền bảo Vương Hầu và các
quan văn võ ra ngoài cửa Đại Hưng, sai các người giữ thành, đóng cửa canh phòng
cẩn mật, không cho ai ra vào. Lại sai Cấm quân cầm binh khí đứng ở dưới điện Thiên An, rồi ra lệnh mở Cửa Nách28 bên hữu, gọi các quan vào Long Trì” [145;
296]. Ngoài cửa Đại Hưng - cửa chính để vào khu vực Cấm thành Thăng Long còn
có “Cửa Nách” . Đây là cửa để cho các quan văn, võ đi vào khi đi vào cửa
chính có sự bất tiện.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, vị trí của cửa Đại Hưng ở khoảng khu vực
Cửa Nam (hiện nay). Đây là phía Nam (bên ngoài) của Cấm Thành Thăng Long.
Tiếp sau Cửa Đại Hưng về phía Nam là Cửa Trường Quảng . Chỗ này
được chính sử ghi là gần với đàn Xã Tắc . “Năm Mậu Tý, hiệu Thiên Cảm
Thánh Vũ năm thứ 5 (1048). Tháng 3, lập Xã Đàn (nền Xã Tắc) ở Cửa Trường
Quảng để làm nơi bốn mùa cúng tế, cầu được mùa” [215; 197]. Đắp đàn vào mùa
xuân, nhưng lễ tế chính thức ở Cửa Trưởng Quảng vào mùa thu (lễ tế sau ngày lập
thu) gọi là “Thu xã ”. Đến cuối triều Lý vẫn còn duy trì tục lễ đàn Tế Xã
ở Cửa Trường Quảng [215; 197].
Còn một cửa nữa ở phía ngoài cửa thuộc khu vực ngoài của Thành Đại La
(La Thành) về phía Tây Nam còn có Cửa Tây Dương (Nay thuộc khu vực
gần Cầu Giấy). Cửa Tây Dương cũng có người đứng canh giữ: “Mậu Thân, Thiên
28 Từ “Cửa Nách” là dịch từ chữ : “Dịch Môn”
trong HĐBĐ
141
Thuận năm thứ 1 (Tống Kiến Viêm năm thứ 2), (…) Biếm chức quan Đại Liêu Ban
là Lý Sùng Phúc. Sùng Phúc đi qua cửa Thành Tây Dương, người quan tuần hỏi,
hắn không trả lời, cho nên bị biếm chức [152; 263].
Có khá nhiều cửa ở vị trí phía sau của Kinh thành và Cấm thành mà ngày
nay khó xác định vị trí cụ thể, chỉ có thể xác định một cách tương đối. Chẳng hạn
như “Cửa Việt Thành” được ghi trong VSL: “Năm Kỷ Tỵ hiệu Trị Bình
Long Ứng năm thứ 5 (1209), Bọn Bốc nghe tin Bỉnh Di đã chết, bèn sai quân sĩ đột
nhập xứ bệ đá mát, lấy xe cân xa của vua ngự trước thây của Bỉnh Di, lấy chiếu ngự
bọc thây của Phụ, theo cửa Việt Thành mà ra bến Triều Đông ”[215; 174].
Còn ĐVSKTT cũng ghi về chi tiết trên nhưng lại ghi địa danh qua Cửa Đại Thành
, rồi qua Cửa Việt Thành là đến bến Đông Bộ Đầu : “Năm Kỷ
Tỵ (1209). (...) theo cửa Việt Thành ra bến Đông Bộ Đầu rồi trở vào cung Vạn Diên
” [145; 333].
Thời Lý còn có tên một cửa ở phía bên cạnh Cấm thành (có thể ở phía sau)
do xuất phát từ một sự việc có thật: Câu chuyện “Cửa Khoét” xuất phát từ cái
chết của vua Lý Huệ Tông: “Bính Tuất (1226). Thượng hoàng nhà Lý (Huệ Tông)
sau khi tự tử xong, Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía
Nam làm cửa (bấy giờ gọi là “Cửa Khoét” , đưa linh cữu ra phường Yên Hoa
để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang [145; 9]. Tên gọi
“Cửa Khoét” là một tên gọi khác xuất hiện muộn hơn tên gọi “Cửa Khuyết”
- Khuyết Môn). “Cửa Khuyết” đã xuất hiện vào năm 1028 khi Đông Chinh
Vương và Dực Thánh Vương đến để xin chịu tội: “Mậu Thìn (1028), Ngày Kỷ Hợi
[…] Ngày ấy, hai vương Đông Chinh và Dực Thánh đến “Cửa khuyết” xin chịu tội.
Xuống chiếu tha cho, lại cho tước như cũ” [145; 250 ]. Như thế, tên gọi của hai cửa
142
này là khác nhau, mặc dù mặt tự dạng chữ Hán dùng giống nhau nhưng khác nhau
về cách đặt tên: Cửa Khuyết đặt theo kết cấu Hán - Việt và đọc đúng âm ( ),
còn tên gọi “Cửa Khoét” là tên gọi thuần Việt và độc chệch từ “Khuyết” thành
“Khoét”. Vậy, đây là hai “cửa” khác nhau, xuất hiện ở hai giai đoạn lịch sử khác
nhau.
Về kiến trúc của những “cửa” trong Kinh thành thời Lý như thế nào, phần
nhiều đều không rõ. Rất ít thông tin về kiến trúc của những cửa này. Trong sử cũ
chỉ có một vài thông tin hiếm hoi cho biết trên cửa có xây lầu. Chẳng hạn: “Năm
Mậu Tuất, hiệu Long Thụy Thái Bình năm thứ 5 (1058); Tháng 3, mở cửa Tường
Phù, xây lầu ở trên đó” [215; 91].
Ngoài ra, qua các bộ sử còn biết đến hàng chục cửa khác như cửa Quảng
Phúc (1021) [215; 77], cửa Tường Phù (1058) [215; 91], cửa Diên Hưng, cửa Thổ
Hằng (1059) [215; 92], cửa Ngân Hà (1063) [215; 93], cửa Thượng Thủy Hà
(1072), cửa Nghị Tự (1185) [215; 159], cửa Trường Quảng (1210) [215; 185], cửa
Việt Thành (2013) [215; 185]…
Nghiên cứu các “cửa” của Thành Thăng Long là một vấn rất phức tạp đòi hỏi
phải tốn nhiều công sức mới có thể xác định được vị trí, quy mô, công năng và mối
quan hệ với các công trình kiến trúc khác. Rất tiếc, ngày nay không còn lưu giữ
được một tấm bản đồ hay hình vẽ mô phỏng nào về các cửa thời Lý, thời Trần. Vì
thế, đây mới chỉ là việc tập hợp tên của các cửa của Cấm thành và Hoàng thành
Thăng Long thời Lý mà thôi.
Các công trình khác ngoài Cấm Thành
Xây dựng và tu sửa Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Văn Miếu tuy không nằm trong khu vực Hoàng thành Thăng Long nhưng lại
là một công trình đặt biệt quan trọng có nhiều hoạt động gắn liền với triều đình, nhà
vua. Đặc biệt, Văn Miếu nằm phía trước của khu vực Hoàng thành - vị trí này
dường như không thay đổi trong suốt các triều đại lịch sử từ Lý đến Trần, Lê. Vì
thế, nghiên cứu và khảo sát quá trình xây dựng, trùng tu của di tích này cũng có giá
143
trị quan trọng nhất định. Bên cạnh Hoàng thành Thăng Long, ngay từ thời Lý, Văn
Miếu - Quốc Tử Giám đã được xây dựng nhằm tôn vinh Khổng giáo, Nho học và
đào tạo nhân tài của cả nước. Về vị trí, Văn Miếu nằm ở vị trí phía Nam, khoảng
phía đằng trước khu vực “Tân cung” - Nay nhiều nhà nghiên cứu ước đoán thuộc
một phần của khu vực khảo cổ 18 Hoàng Diệu. Văn Miếu - Quốc Tử Giám, qua các
thời kỳ từ Lý - Trần - Lê đã trở thành một trong những trung tâm văn hóa, khoa học
- giáo dục quan trọng bậc nhất của Kinh đô Thăng Long. Dưới thời Lý, tại đây đã
từng tổ chức được một số kỳ thi Minh Kinh Bác Học tương đương với bậc thi Thái
học sinh thời Trần và thi Tiến sĩ thời Lê). Hiện nay, qua các tư liệu trong sử cũ, mới
biết đến 8 kỳ thi được tổ chức dưới thời Lý vào các năm: 1076, 1086, 1152, 1165,
1185, 1193, 1195, 1213 [187]. Nhìn chung, các khoa thi tổ chức không đều đặn,
những người thi đỗ các kỳ thi thời Lý cũng không được biết một cách đầy đủ.
Nhưng có thể nói rằng, triều Lý, quốc gia Đại Việt đã chính thức lấy hình thức thi
cử để tuyển chọn nhân tài ở cấp cao là một bước tiến vượt bậc so với các triều
trước. Về niên đại xây dựng Văn Miếu - Quốc Tử Giám trên Kinh đô Thăng Long
cũng là một vấn đề từng có những nhận định khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các ý
kiến đều thống nhất cho rằng: Văn Miếu được triều đình nhà Lý xây dựng vào năm
1070 và đến năm 1075 là năm triều đình tổ chức kỳ Thi Minh kinh Bác Học đầu
tiên, khoa này lấy Lê Văn Thịnh đỗ đầu (được người đương thời và hậu thế suy tôn
tương đương với danh hiệu Trạng Nguyên). Đến năm 1076, nhà Lý cho mở Quốc
Tử Giám để đào tạo nhân tài cho đất nước. Sau khi cho xây dựng Văn Miếu (Miếu thờ Khổng Tử và các bậc tiên hiền, tiên triết29 và Quốc Tử Giám, triều đình nhà Lý
thường xuyên cho sửa sang, trùng tu công trình. Niên đại sớm nhất đề cập đến việc
xây dựng Văn Miếu là năm 1070 trong ĐVSKTT: “Canh Tuất năm thứ 2 (1070),
(Tống Hy Tông năm thứ 3)... Mùa thu tháng 8, sửa Văn Miếu, đắp tượng Khổng
Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế, Hoàng
Thái Tử đến học ở đấy” [152; 238]. Ở đây, chỉ nói đến việc xây miếu Khổng Tử mà
29 Sau khi Khổng Tử chết, các học trò của ngài tôn xưng tên hiệu là: “Đại Thành Chí Thánh Văn Tuyên Vương Miếu”
nên gọi tắt là “Văn Miếu”
(TG).
144
không nói đến việc mở trường Quốc Tử Giám. Có lẽ, ban đầu Văn Miếu chỉ để thờ
Khổng Tử và các vị tiên hiền là chính, việc học hành ở đây chỉ có tính chất nội bộ
cho con em trong triều như Hoàng Thái Tử nên quy mô còn khá khiêm tốn. Nhưng
ở một đoạn khác lại viết tỏ ra không nhất quán về sử liệu. Cũng ĐVSKTT ghi: năm 1156 mới dựng miếu Khổng Tử: “Bính Tý (1156) Dựng miếu Khổng Tử30 [145;
322 ]. Có lẽ năm này là đợt trùng tu lần đầu tiên sau lần xây dựng (?). Cho đến năm
1171, triều Lý cho tu sửa miếu Văn Tuyên Vương và đền Hậu Thổ
lần thứ hai (?). Về chi tiết này, hai tư liệu VSL [215; 152 ] và ĐVSKTT [145;
324] đều ghi thống nhất nhau. Từ năm 1171 cho đến hết triều Lý (1225) là khoảng
thời gian 45 năm không thấy sử liệu ghi về việc trùng tu hay xây dựng công trình gì
cho Văn Miếu - Quốc Tử Giám, mặc dù trong khoảng thời gian này vẫn tổ chức bốn
kỳ thi chọn tuyển chọn nhân tài cấp cao vào các năm 1185, 1193, 1195, 1213.
3.2.10. Sân Long Trì và việc thiết kế không gian
Sân Long Trì (thời Lý - Trần) và sân Đan Trì (thời Lê), luôn là
một vị trí quan trọng trong Cấm thành Thăng Long. Đây là một không gian thoáng
đãng đồng thời cũng là một vị trí thường xuyên diễn ra các hoạt động quan trọng
của triều đình. Như đã đề cập, qua nhiều tư liệu lịch sử cho biết, sân Long Trì đã
từng diễn ra nhiều hoạt động có tính chất cung đình như: Tổ chức thi Đình, Hội thề
đầu năm, tổ chức các nghi lễ Phật giáo, Lễ hội Đèn Quảng Chiếu trong sân Long Trì
trước Đoan Môn , xem bắt voi (VSL, năm 1147). Riêng Hội Thề đã tổ chức ở
đây nhiều lần vào các năm: 1069, 1119, 1128, 1175, 1214, 1225 [215; 79, 80, 96,
128, 140, 143, 155, 189, 199].
Sân Long Trì vào những ngày có lễ, đặc biệt là những ngày lễ sinh nhật
Hoàng đế (tiết Thiên Thành) được trang hoàng với nhiều nghi lễ, VSL miêu tả như
sau: “Mậu Thìn, hiệu Thuận Thiên năm thứ 19 (1028). Tháng 6, lấy ngày sinh của
30 Nguyên văn: “Kiến Khổng Tử miếu”
.
145
vua làm tiết Thiên thành . Xây Vạn Tuế sơn ở Long Trì, có năm ngọn, ngọn ở
giữa dựng bức tranh trường thọ tiên, hai bên tả hữu đều có hạc trắng, trên núi làm
những hình tiên bay, chim, thú, lưng chừng núi lại có thần long vây quấn, cắm cờ,
treo vàng ngọc, sai bọn phường tuồng (linh nhi) ở trên núi thổi sáo, ca múa làm vui
[215; 79].
Những nghi trượng và nghi lễ trên chỉ được bày đặt trong thời điểm diễn ra
buổi lễ, còn trong điều kiện bình thường, trên sân Long Trì được bày đặt hòm và
chuông để cho những người có oan ức đến dâng đơn lên nhà vua (để đơn vào hòm)
và đánh chuông để đề nghị nhà vua hay Hữu Ty ra xét xử. Việc này đã được thực
hiện ngay từ đầu thời Lý: “Năm Kỷ Tỵ hiệu Thiên Thành năm thứ 2 (1029): Rồng
vàng hiện ở điện Càn Nguyên. Vua nói: Điện đó đã đổ, chỉ còn cái nền, nay rồng lại
hiện ở đó, chắc là đất long thắng!. Bèn cho mở rộng thêm quy mô sửa chữa lại điện
đó, đổi tên là điện Thiên An. Bên trái điện Thiên An xây điện Tuyên Đức
, bên phải xây điện Diên Phúc , phía trước gọi là Long Trì , phía Đông
xây điện Văn Minh , phía Tây xây điện Quảng Vũ . Đối nhau ở hai bên tả
hữu Long Trì là Chung lâu (lầu chuông) để lên nghe việc oan khuất
[215; 80].
Việc đặt hòm, đúc chuông này là theo mô hình của nhà Tống. Sách VSL đã
xác nhận điều này: “Năm Mậu Dần, hiệu Đại Định năm thứ 19 (1158). Mùa hạ,
tháng Giêng, viên Tả Ty Nguyễn Quốc Dĩ đi sứ nhà Tống về tâu rằng: “Thần đến
nước Tống thấy ở giữa sân có cái hòm bằng đồng để thu nạp những tờ sớ của bốn
phương. Thần xin bệ hạ phỏng theo cách đó để thấu rõ được dân tình”. Vua lấy làm
phải, sai làm hòm ở trước đình, xuống lệnh rằng: Ai muốn nói việc gì thì lấy giấy
bỏ vào hòm đó” [215; 149]. Có thể, ban đầu (1028) việc dựng gác chuông để những
ai có oan khuất vào kêu oan là thể hiện tinh thần tự do, dân chủ trong dòng mạch
của tinh thần khoan dung, độ lượng và bình đẳng của Phật giáo. Về việc dựng
chuông trong sân Long Trì cho thấy có 3 sự kiện vào các năm 1028, 1053, 1058 với
146
những mô tả các chi tiết khác nhau; năm 1028 đặt đối nhau ở hai bên tả hữu Long
Trì để nghe việc oan khuất. Vậy thời điểm này đặt 2 quả chuông. Năm 1053 chỉ ghi
đúc chuông ở Long Trì để cho ai oan uổng đến đánh kêu oan… sự kiện tháng 6 năm
1058 miêu tả chi tiết: dựng lầu chuông, một cột, sáu cạnh hình hoa sen (Độc Trụ
Lục Giác Liên Hoa Chung Lâu) ở trên sân Long Trì sau khi đã xây dựng xong các
điện Linh Quang , Sùng Nghi , Kiến Lễ (Xem phụ lục I).
Phải đến năm 1158, sau khi Nguyễn Quốc Dĩ đi sứ nhà Tống về mới hoàn
thiện thêm việc đặt hòm bằng đồng để thu nạp những tờ sớ kêu oan. Đến thời điểm
này, việc bài trí ở sân Long Trì mới thực sự theo kiểu của nhà Tống (Trung Hoa).
TS Phạm Lê Huy cho rằng, việc quy hoạch Hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần
ảnh hưởng của mô hình Lạc Dương và Khai Phong thời Đường - Tống (Trung
Quốc) qua cách đặt tên chính điện, cách bài trí trước sân Long Trì, lầu chuông, cho
đến cơ quan trông coi giờ khắc trong Cung thành [79; 169 - 216 ].
Bên cạnh chiếc hòm đồng dùng để thu nạp đơn thư khiếu kiện, lầu chuông và
lấu trống dùng để đánh mỗi khi có sự oan ức của dân chúng, hay đồng hồ bằng nước
dùng để đo giờ theo phương pháp thời cổ đại được đặt ở trên lầu Chính Dương
(trước Đoan Môn), ở sân Long Trì, có lẽ còn có những tấm bia đá lớn thời Lý trong
Đại Nội ghi lại những dấu ấn quan trọng như việc xây dựng cung điện và các công
trình khác (?). Sử cũ ghi: “Năm Ất Dậu, hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ năm thứ 2
(1045). “Mùa xuân, tháng 3, dựng bia Đại Nội” [215; 85]. Hay: “Năm Canh Tý,
hiệu Trinh Phù năm thứ 5 (1180), vua xuống chiếu cho thi Tam giáo, sửa văn bia
Đại Nội, định thể lệ vào chầu của các Vương hầu” [215; 157]. Rất tiếc, ngày nay
không còn lưu giữ được tấm bia nào thời Lý tại Cấm Thành Thăng Long và trong
các tư liệu chính sử cũng không nói rõ nội dung của những tấm bia này đề cập đến
những nội dung gì.
+ Lễ hội tôn giáo gắn với không gian sân Long Trì trong Cấm thành Thăng
Long
Lễ hội Thăng Long thời Lý, có thể thể chia theo tiêu chí nội dung lễ hội và
chia theo vị trí địa lý diễn ra lễ hội. Với tiêu chí phân chia nội dung tức là phải căn
147
cứ vào nội dung lễ hội, bản chất lễ hội mà nguồn sử liệu phản ảnh. Vậy qua các
nguồn sử liệu cho thấy: Lễ hội mang tính Phật giáo và lễ hội mang tính chất thế tục
(trò chơi dân gian) khá điển hình. Còn việc nghiên cứu lễ hội có thể được phân ra
tiêu chí địa điểm diễn ra lễ hội. Về địa điểm lại có thể phân làm 2 loại: Lễ hội được
tổ chức trong Cấm Thành Thăng Long và lễ hội được tổ chức ở ngoài Cấm thành do
nhân dân tổ chức. Lễ hội Phật giáo là một mảng lớn chiếm vị trí quan trọng và gần
như tuyệt đối trong các lễ hội ở Thăng Long. Các Lễ hội quan trọng liên quan đến
Phật giáo được triều đình tổ chức lớn như: Lễ hội La Hán, Khánh thành bảo tháp,
Hội Nhân Vương, Lễ hội Khánh thành chùa, Khánh thành tượng… Đặc biệt lễ hội
Đèn Quảng Chiếu được tổ chức 10 lần trong Cấm thành Thăng Long với quy mô rất
lớn có sự tham gia của nhà vua và Hoàng tộc với nhiều sư sãi và toàn dân tham dự.
Lễ hội đèn Quảng Chiếu được phản ánh rõ nhất trên tấm bia chùa Đọi (huyện Duy
Tiên, Hà Nam) với sự độc đáo kết hợp giữa nghệ thuật ánh sáng với kỹ thuật làm
đèn, Rối cạn, kết hợp với việc tụng kinh, bày biện nghi trượng, tượng pháp và tụng
các bộ kinh Bát Nhã , Kinh Liên Hoa , Kinh Dược sư … cầu
cho “quốc thái dân an, Thiên hạ thái bình”… Các Lễ hội khác cũng được tổ chức ở
trong Cấm Thành Thăng Long, có lẽ cũng ở vị trí sân Long Trì, cho dân vào xem
như: Lễ Đá cầu, Lễ Rằm tháng bảy (Vu lan bồn) và các lễ hội khác như Lễ hội
mừng sinh nhật vua (Lễ Thiên Thành), Lễ Đăng quang, Lễ Thoái vị….
3.2.11. Các công trình phục vụ tín ngưỡng, tôn giáo và văn hóa tinh thần
Nhà chứa sách, kinh, tạng
Một biểu hiện của đời sống tinh thần, sự phong phú và lớn mạnh của Phật
giáo thời Lý là sự ra đời của hệ thống sách, kinh, tạng của Phật giáo. Thời Lý, nhiều
kinh tạng đã được san khắc trong Cấm Thành Thăng Long, tại những ngôi chùa lớn
trong Cấm Thành và Hoàng Thành nhằm phục vụ nhu cầu phát triển, hoằng dương
Phật pháp và giáo lý nhà Phật. Để có chỗ tàng chứa kinh tạng với khối lượng lớn,
nhà vua còn cho xây dựng nhà chứa kinh với nhiều kho chứa như kho Đại Hưng
, Bí thư các . Thậm chí việc học kinh và thuộc kinh cũng được coi là
148
một tài năng. Chính vì thế, vào năm 1179, triều đình còn tổ chức cho con em trong
triều thi đọc kinh Bát Nhã . Kinh Bát Nhã là một trong những cuốn kinh cơ
bản và quan trọng. Theo quan niệm nhà Phật, kinh này được tuyên đọc nhiều lần sẽ
tiêu trừ được nghiệp chướng và tại họa. Trong các vị trí đã khai quật tại HTTL, các
nhà Khảo cổ học còn phát hiện được một số dấu tích của công trình kiến trúc có
hình bát giác rất đặc biệt. Vấn đề đặt ra là, đây có phải là nhà Bát giác xây dựng để
chứa kinh vào năm 1021 như sách VSL, ĐVSKTT đã đề cập, hay đó là điện Thiên
Khánh (?) thì cho đến nay các giả thuyết còn đang bỏ ngỏ chưa có căn cứ để khẳng
định. Vậy, vấn đề này cần phải tiếp tục nghiên cứu.
Sự phân định chức năng của các khu vực trong Cung cấm
Ngày nay, qua các nguồn sử liệu chính thức của các vương triều, không thấy
ghi miêu tả cụ thể về tầm quan trọng của từng khu vực trong trong Cấm thành
Thăng Long như thế nào nhưng trong sử cũ có thể biết được tầm quan trọng của
từng khu vực qua những thông tin gián tiếp với các mệnh đề: Quy định nếu… thì
phải; Không được…. nếu phạm phải thì…
Những quy định luật lệ trong cung đình Thăng Long nhà Lý phản ánh trình
độ tổ chức, sự phân cấp xã hội, đẳng cấp trên dưới đồng thời cũng thể hiện sắc thái
tư tưởng.
Qua các nguồn sử liệu, chúng tôi có thể bước đầu chia làm ba loại quy định
trong các mối quan hệ của triều đình nhà Lý như: Quy định cấp bậc trên, dưới, quy
định về nhà ở, đồ dùng sinh hoạt và những quy định về văn hóa ăn, mặc:
+ Quy định về cấp bậc trên dưới thể hiện rõ những quy định về đối tượng
những ai được hay không được qua/đến những nơi quan trọng trong cung cấm/Cấm
thành Thăng Long. Chẳng hạn, quy định nêu rõ: Các lính Ngự hỏa , Tùy Long
hỏa không được vào Thềm Ngự (năm 1060); Các lính canh Cấm Thành
không được tự ý vào nhà các quan (năm 1071); Các hoạn quan không được tự ý vào
cung (1150); Các Vương hầu ban đêm không được đi lại trong thành (Năm 1157)…
+ Quy định về nhà ở và đồ dùng sinh hoạt: Vua và các quan đại thần trong
149
triều sử dùng một số đồ dùng riêng. Đồ của vua dùng được gọi là đồ “ngự dụng”.
Vào cuối thế kỷ XI, quy định rõ nhà các quan mới được dùng gạch, ngói còn nhà
dân thường không được dùng. Luật này không biết có từ bao giờ nhưng đến năm
1084, triều đình ban hành cho thiên hạ làm nhà bằng gạch ngói. Nhưng chủ trương
này chỉ được thi hành trong 8 năm, đến năm 1092, lại cấm không được dùng.
Những đồ dùng trong nhà cũng quy định chặt chẽ vào năm 1145 quy định: Thợ
Bách Tác không được dùng những đồ dùng nhà quan…
Từ những quy định về mặt văn hóa như đối với những đối tượng này chỉ
được đến cung điện này, đối với những người kia chỉ được đến khu vực kia, sân
kia… điều đó chứng tỏ sự trưởng thành dần hoàn chỉnh về điển lễ, tổ chức, một mặt
thể hiện sự uy nghiêm ở Cấm thành Thăng Long, qua đó cũng cho biết trong Cấm
thành Thăng Long có nhiều hạng mục các công trình ở đó đều được canh phòng với
các đội bảo vệ khác nhau.
3.2.12. Không gian sinh thái và cảnh quan thời Lý
Ao, hồ
Trong các nguồn tư liệu địa bạ (thời Nguyễn), các nhà nghiên cứu đã thống
kê được hàng trăm ao, hồ trên địa bàn Hà Nội. Rất tiếc, cho đến ngày nay, các sử
sách, tư liệu về ao, hồ thời Lê và các triều đại trước đó không còn lưu giữ được.
Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến những “ao”, “hồ” thời Lý trong Hoàng thành
đặc biệt là trong Cấm thành Thăng Long. Trong chính sử, chúng tôi mới thống kê
bước đầu được 6 “ao”, trong đó có 5 “ao” được đào vào Tk XI và 1 “ao” được đào
vào Tk XII. Về tên gọi, có “ao” mang tính chất từ nguyên học. Chẳng hạn như ao
Kim Minh hoặc tên gọi ao “Kim Minh Vạn Tuế” vừa gợi được nguồn gốc
tên gọi trong quá trình đào ao bắt được cục vàng vừa thể hiện được khát vọng giàu
sang mãi mãi hoặc tên gọi gắn với cung đình. Trên ao, còn có các công trình khác
tạo cho cảnh quan đẹp tươi, trên có xây ba ngọn núi, xây cầu Vũ Phượng. Ao luôn
gắn với vườn tạo thành khu sinh thái hài hòa, như ao Thụy Thanh , ao Ứng
150
Minh ở vườn Thắng Cảnh (đào năm 1051) [215; 87], ao Kim Minh
gắn với hồ Thiên Bát Giác (đào năm 1058) [215; 91], ao Phượng
Liên gắn với điện Sùng Uyên (năm 1098)31 [215; 108]. Ở đây, VSL
đã cho biết các điện, lầu, gác, ao, cầu là một khối liên hoàn với nhau tạo cho cảnh
quan hữu tình, thơ mộng [215; 108]. Việc duy trì ao, vườn kết hợp với các công
trình kiến trúc cung đình được duy trì suốt triều Lý. Thậm chí, khi xây dựng “Tân
Cung” (Năm 1203) ở phía Tây Tẩm điện, các nhà kiến trúc đời Lý cũng vẫn
tuân thủ theo nguyên tắc này: “Ao Dưỡng ngư (nuôi cá), phía trên có đình
Ngoạn Ỷ (đình ngắm mặt hồ), ba mặt có trồng hoa thơm cỏ lạ, nước thông
với sông” [215; 166].
Hệ sinh thái ao gắn với vườn và các công trình khác trong Cấm thành, Hoàng
thành Thăng Long là một đặc trưng không thể thiếu trong kiến trúc vườn cảnh, lâm
viên của kiến trúc Kinh thành Thăng Long nói riêng và kiến trúc cung đình phương
Đông nói chung.
“Cầu” thời Lý trong Cấm thành Thăng Long
Qua bảng thống kê sử liệu ghi về cầu, chúng tôi tạm chia ra vị trí phân bố
của cầu thành 2 loại: Cầu được thiết kế ở trong Cấm Thành Thăng Long và cầu
được thiết kế ở ngoài Hoàng Thành Thăng Long.
+ Cầu được thiết kế ở ngoài Cấm Thành có 2 cầu tiêu biểu: Cầu Thái Hòa
và c ầu Tây Dương .
Trong các cầu nổi tiếng ở Thăng Long thời Lý, cầu Thái Hòa được đề cập
đến nhiều lần vào các năm: 1035 (bắc cầu) [215; 81], [145; 257] sau 138 năm sau
(1173) [215; 152], cầu này được sửa chữa; Năm 1214, cầu Thái Hòa còn được đề
cập đến - nơi địa điểm nhà vua đến để nghỉ tạm khi cung điện bị cháy [215; 191].
31 Sách ĐVSKTT không chép sự kiện này.
151
Cầu Thái Hòa bắc qua sông Tô Lịch, vị trí chính xác cầu Thái Hòa ở đâu vẫn cần
phải nghiên cứu tiếp. Tuy nhiên, tên cầu trùng với tên gọi của phường - quê hương
của Thái Úy Lý Thường Kiệt đương thời. Chỉ biết rằng, trong sử cũ còn ghi: Cầu
32. Vị trí của cầu này ở phía Tây
Thái Hòa ở gần đền Chúc Thánh
của Hoàng thành Thăng Long, có con sông Tô Lịch chảy qua.
Bên cạnh cầu Thái Hòa ở trên Kinh đô Thăng Long, nằm ở vị trí phía Tây
còn có cầu Tây Dương . Năm 1215, khi trở lại Kinh thành, cung điện bị Trần
Tự Khánh đốt hết, vua phải trở về nhà Nội Kí Ban Đỗ An để ở tạm. Chỗ này gần
ngõ Tác Chỉ - bên cạnh nhà Nội Kí Ban cận thần của nhà vua - Đỗ An [215; 193].
Ngõ Tác Chỉ (tên gọi của làng có nghề làm giấy). Về sau này, đến khoảng thời
Nguyễn, tên gọi của ngõ đã được thay bằng tên gọi thuần Việt: Cầu Giấy nhưng là
một tên gọi kèm kết hợp của hai địa danh: cầu (Tây Dương) + ngõ Tác Chỉ (làm
Giấy) thành tên gọi ngắn gọn = Cầu Giấy . Cầu Tây Dương cũng là
một cây cầu lớn thời Lý để nối hai bờ sông có nhánh sông Tô Lịch chảy qua.
+ Cầu ở trong Cấm thành và trong Hoàng thành Thăng Long, bắc qua
sông/hồ nhân tạo nhằm làm cho cảnh quan thêm thơ mộng, trữ tình tiêu biểu là cầu
Lâm Ba , cầu Ngoại Thiềm và cầu Phượng Vũ . Cầu Lâm Ba
qua hồ Ngoạn Thiềm được miêu tả như sau: “Mậu Thân (1248). Mùa hạ tháng 4, làm Cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo qua hồ Ngoạn Thiềm, đến quán Thái Thanh33
cung Cảnh Linh, cực kỳ tráng lệ” [145; 21]. Cầu Ngoạn Thiềm bị Trần Tự Khánh
đốt năm 1213 [215; 85].
Trong bản vẽ “Sơ đồ cung điện xây dựng năm 1029 - 1030”, GS Phan Huy
32 Hiện nay, số nhà 370 đường Thụy Khuê còn chùa Chúc Thánh, vì thế chúng tôi phỏng đoán rằng cầu Thái Hòa ở khu vực Thụy Khuê, nơi đây thời Lý cũng chính là phường Thái Hòa - quê hương của Thái Úy Lý Thường Kiệt. 33 Theo chúng tôi, Quán Thái Thanh ở ngoài Cấm Thành Thăng Long dành cho các Đạo sĩ ở, nhưng cầu Ngoạn Thiềm bắc qua hồ Ngoạn Thiềm nên cầu này có cùng tên gọi với hồ. Cầu này tiếp nối với Quán Thái Thanh ở bên ngoài Cấm Thành. Các Quán của Đạo giáo thường hợp với phương Huyền Vũ (Phía Bắc). Vì thế, chúng tôi cho rằng cầu Ngoạn Thiềm nằm ở phía Tây Bắc của Cấm Thành Thăng Long.
152
Lê ghi chú: “ĐVSKTT chép trước sau điện Thiên Khánh bắc cầu Phượng Hoàng”
nhưng trong bản vẽ đã viết lầm thành lầu Phượng Hoàng [113; 16 ]. Trong
chính sử ghi phía trước và phía sau điện Thiên Khánh đều xây cầu Phượng Hoàng
. Nhưng ở trong bản vẽ này, GS Phan Huy Lê chỉ thể hiện có 1 cầu Phượng
Hoàng ở phía trước điện Thiên Khánh trong khi đó GS.TS Nguyễn Quang Ngọc khi
phác họa về vị trí các cung điện khoảng năm 1029 - 1030 dưới thời Lý Thái Tông
đã thể hiện đầy đủ hai cầu Phượng Hoàng (một cầu nối giữa điện Thiên Khánh với
điện Thiên An; một nối giữa điện Thiên Khánh với điện Trường Xuân [142; 39].
Bên ngoài Phượng Thành lại có một con ngòi bảo vệ. Trong Phượng Thành có đào
ao. Những cây cầu bắc trong Cấm thành Thăng Long như cầu Vũ Phượng, Lâm Ba,
Ngoạn Thiềm (xem bảng Phụ lục II, sơ đồ 3) đã tôn thêm vẻ đẹp tráng lệ cho Cấm
thành Thăng Long hoặc các cây cầu bắc ngoài Hoàng thành như cầu Thái Hòa, cầu
Tây Dương không chỉ là những cây cầu lối hai bờ sông Tô Lịch, là phương tiện đi
lại quan trọng và cần thiết giữa HTTL với khu vực bên ngoài của Kinh thành mà nó
góp phần làm cho cảnh quan khu vực ngoài HTTL thêm sinh động và nên thơ.
Vườn
Qua các nguồn sử liệu trong chính sử, cho đến hiện nay, chúng tôi đã thống
kê được 7 vườn: Hậu Uyển (1046), Quỳnh Lâm (1048), Thắng
Cảnh (1048), Xuân Quang (1048), Thưởng Xuân (1065),
Thượng Lâm (1079) và vườn Bảo Hoa (1131). Trong các nguồn sử
liệu, Việt sử lược có các thông tin về các vườn một cách đầy đủ nhất. Riêng sự kiện
vườn Bảo Hoa được xây dựng năm 1131 thì cả ba tác phẩm VSL, ĐVSKTT,
ĐVSKTB đều ghi chép. Tuy nhiên, thông tin về sự kiện mở vườn Bảo Hoa có sự
không thống nhất: sách ĐVSKTT ghi mở vào tháng 9 [145; 305] nhưng ĐVSKTB lại
ghi vào tháng 7 [152; 271]. Hay trong việc hiểu tên vườn cũng có nhiều cách hiểu
khác nhau: Trong văn bia Đại Việt Quốc, Lý Gia Đệ Tứ Đế, Long Đọi sơn, Sùng
153
Thiện Diên Linh tháp bi do Nguyễn
Công Bật soạn năm 1121 có đề cập đến “Vườn Tây” (nguyên văn: “Hướng
Tây Cấm chi danh viên, quảng Diên Hựu chi quang tự” ,
). GS Phan Huy Lê cho rằng: “nghĩa là hướng về vườn nổi tiếng ở Tây Cấm”
[113; 12]. Còn các dịch giả của bộ sách Thơ văn Lý - Trần thì cho rằng đây là danh
từ “Vườn Tây”: “Tôn sùng đạo Phật; hâm mộ thắng nhân. Mở chùa Diên Hựu; ở tại
Vườn Tây” [127; 405]. Trong phần nghiên cứu về các “cung”, các nguồn sử liệu sử
cũ như: VSL, ĐVSKTT đã chỉ ra, cung Ngân Hán dành cho Cung nhân Chiêm
Thành ở. Nhưng sách ĐVSKTT chỉ ghi chung chung là: Làm cho Cung Nhân ở. Vậy
nên theo sách VSL và ĐVSKTT và tư liệu ở trên cho biết vườn Hậu Uyển có
cung Ngân Hán: “Năm Bính Tuất, hiệu Thiên Cảm Thánh Vũ năm thứ 3 (1046).
Mùa hạ, tháng 5, xây cung Ngân Hán ở vườn Hậu Uyển cho cung nhân Chiêm
Thành ở” [215; 86]. Vậy vườn Hậu Uyển phải ở bên ngoài Cấm Thành , bên
trong Hoàng thành Thăng Long . Ngoài ra, ba vườn Quỳnh Lâm ,
Thắng Cảnh , Xuân Quang (mở năm 1048), vườn Thượng Lâm
(mở năm 1065), không rõ thuộc Cấm thành hay Hoàng thành (?). Riêng vườn
Thưởng Xuân được mở năm nào thì chưa rõ. Chỉ biết rằng VSL ghi năm 1079:
“Rồng vàng từ vườn Thưởng Xuân hiện ở cung đó” [215; 103]. “Cung đó” ở đây là
chỉ cung mang tên cùng với tên vườn: “cung Thưởng Xuân”. Tra cứu tên các cung
thời Lý trong VSL cho biết cung Thưởng Xuân được xây dựng năm 1069. Như thế,
có thể nghĩ rằng, vườn Thưởng Xuân được xây dựng bên cung Thưởng Xuân nên đã
thành tên gọi. Đó là cách đặt tên khá phố biến đối với các trường hợp tên cầu, tên
hồ trùng nhau về tên gọi ví như các tên: Cầu Lâm Ba , hồ Lâm Ba ;
154
cầu Ngoạn Thiềm , hồ Ngoạn Thiềm …
Các công trình liên quan đến Hoàng Cung tiếp giáp với Hoàng Thành
Thăng Long: Đài, đình, đền, trạm, kho
Đền - Đình
Thông thường, các Đền được xây dựng là để thờ Thần. Dưới triều Lý, đền
thờ được xây dựng có đền Nghênh Thu, và đến Hậu Thổ. Đền Nghênh Thu là đền
chỉ để dành cho việc tế vào mùa thu. Qua các nguồn sử liệu cho biết, dưới triều Lý
có lễ đón Xuân Ngưu được tổ chức với lễ Đại triều. Lễ tế mùa thu được tổ
chức ở đền Nghênh Thu là một trong những nghi lễ quan trọng “Xuân tế, thu
thường” trong nghi lễ truyền thống triều Lý. Vào thập kỷ 70 của Tk XI, bên cạnh
xây dựng Văn Miếu, Quốc Tử Giám, nhà Lý đã dần hoàn bị các lễ nghi, triều chính
thể hiện sự trưởng thành về mặt tổ chức nhà nước theo mô hình Nho giáo. Về địa
điểm đền Nghênh Thu ở đâu, đến nay chưa thể khẳng định, cần phải tìm hiểu thêm.
Nếu vị Thành Hoàng của Thăng Long được coi là thần sông Tô Lịch (hay
thần) Long Đỗ, thần Bạch Mã thì việc xây dựng đền Hậu Thổ (thổ địa) cũng cần
được quan tâm. Triều Lý cho tu sửa đền Hậu Thổ cùng với việc lập miếu thờ Văn
Tuyên Vương (Khổng Tử ) vào năm 1171 [215; 152]. Ở đây ghi là
“Tu Văn Tuyên Vương miếu, Hậu Thổ từ” , . Không biết đây là
việc xây dựng đền Hậu Thổ lần đầu hay đây chỉ là lần trùng tu, sửa sang (?). Đền
Hậu Thổ , cùng với Thái Miếu , các đàn Nam Giao , Xã Tắc
... là những công trình tín ngưỡng tâm linh quan trọng không thể thiếu bên cạnh
các công trình sinh hoạt đời thường và các công trình phục vụ đời sống của cung
đình.
Đình Trà : cũng là công trình cần quan tâm liên quan đến hoạt động của
nhà vua. Từ “Đình Trà” chỉ có nghĩa là nhà dựng lên dùng để uống trà, phục vụ hoạt
155
động mang tính chất cung đình của nhà vua [215; 187]. Có khi, công trình này,
trong chính sử còn có tên gọi là Điện Trà hoặc Điện Hô Trà . Về vị trí
của điện đến nay còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có một số nhà nghiên cứu cho
rằng, có thể điện này có kiến trúc hình bát giác hoặc hình lục giác vì trong khu vực
khảo cổ HTTL đã xuất hiện một số kiến trúc như vậy (?). Tuy nhiên, trong sử liệu
thời Trần cho biết, dời điện Linh Quang ở Đông Bộ Đầu là điện Phong
Thủy bên bờ sông Hồng, mỗi khi vua đến thì “hô Trà” nên thành tên
gọi [145;305]. Như thế, về vị trí của kiến trúc Bát Giác phát hiện tại khu vực 18
Hoàng Diệu ở vào vị trí khá xa với bờ sông Hồng nên giả thuyết đây là Điện Hô
Trà hay Đình Trà , Điện Trà là không có cơ sở.
Quảng Văn Đình : Đình dùng để thông báo các tin tức được lập ở
ngoài Cấm Thành, thuộc Hoàng thành Thăng Long cho quảng đại dân chúng biết tin
tức của triều đình: “Nhâm Tý [Thiên Thuận] năm thứ 5 (1132). Tháng 12, vua đón
xuân ở đình Quảng Văn” [145; 305].
Xạ Đình : Nhà dùng để cho quân sĩ tập bắn: Canh Dần (1170) Vua tập
bắn và cưỡi ngựa ở phía Nam La Thành, đặt tên là Xạ Đình, sai các quan võ hàng
ngày luyện tập phép công chiến phá trận [145; 324]. Vậy “Xạ Đình” không chỉ
mang tính chất một địa điểm liên quan đến những hoạt động tiêu khiển của hoàng
đế mà còn là một vị trí dùng để luyện rèn kỹ thuật quân sự của triều đình và quân
lính.
Kho của triều đình : Bên cạnh các điện, cung, lầu, gác được xây dựng
phục vụ các sự kiện mang tính chất hành chính, trong Hoàng Cung Thăng Long
không thể thiếu hạng mục công trình phụ trợ khác. Đó là các kho đựng của nhà vua
và triều đình. Triều đình có vững chắc hay không một phần phụ thuộc vào các kho
dự trữ trong cung như ngân khố: Kho tiền/bạc; kho vải vóc (phục vụ về mặc/ trang
phục, lễ nghi); phục vụ lương thực (kho lương); kho phục vụ cho công việc phòng
156
thủ đất nước và phòng thủ Kinh Thành (kho vũ khí). Dưới triều Lý, trong Hoàng
Cung đều có các kho này. Các kho này được đề cập đến các năm: 1103, 1145,
1154,1214. “Kho Nội Phủ” (tức là kho ở trong Cấm Thành)34. Năm 1145,
kho Tư Thiên được dựng ở sáu nơi [145; 316 ], không rõ những công trình này
được bố trí ở những vị trí nào trong Hoàng Thành hay Cấm Thành Thăng Long (?).
Theo VSL, chúng ta còn biết bản thân hoàng đế cũng có kho riêng, có lẽ đây là kho
chứa nhiều đồ dùng quý của triều đình, nhưng không biết gồm những gì, chỉ biết, nó
đã từng bị bốc cháy vào năm 1154 [215; 148]. Triều đình còn có một kho riêng - đó
là kho vũ khí. Kho này không biết xây dựng từ khi nào nhưng đến cuối triều Lý
35 [215;
(1214), nhà vua còn xuống chiếu bắt kẻ tự tiện lấy vũ khí ở Vũ Khố
191]. Qua tên gọi “kho Nội phủ” cũng có thể giúp cho người đọc hình dung
đến một hệ thống các kho tàng thời Lý ở trong Cấm Thành Thăng Long. Nhưng
những kho này nằm ở đâu, khu vực phía Đông hay phía Tây hoặc đằng sau của khu
vực Cấm Thành?. Về điều này, thật khó phán đoán vì không có các nguồn sử liệu
miêu tả cụ thể. Chính vì thế, các tác giả công trình nghiên cứu Không gian Khu
trung tâm Hoàng thành Thăng Long tư liệu và nhận thức đều bỏ ngỏ chưa thể hiện
các hạng mục công trình này dù chỉ trên ý tưởng và giả thuyết. (Xem phần phụ lục
II).
“Đài” thời Lý: Thống kê qua các tư liệu thư tịch, triều Lý có 7 đài: Động
Linh ( (1109), Chúng Tiên (1120) Tử Tiêu (1123), Thông
Tiêu (1123), Uất La (1124), Hoàn Khâu (1152). Tất cả các
đài này đều được xây dựng trong thế kỷ XI. Xét về mặt tên gọi và năm xây dựng có
sự ghi nhận khác nhau giữa hai tài liệu VSL và ĐVSKTT. VSL ghi năm 1123, mùa
34 Nội phủ khố: tức là kho ở An Nam Đô Hộ phủ - Tên gọi cũ của Thăng Long vẫn được dùng vào thời Lý
(Tg).
35 “Năm Giáp Tuất, hiệu Kiến Gia năm thứ 4 (1214), tháng 8, ngày Quý Mùi, viên Tả phụ Nguyễn Chính Lại tự tiện lấy khí giới ở Vũ Khố. Vua xuống chiếu bắt, Chính Lại sợ, chạy đi Bắc Giang” (VSL, 2005, tr 191).
157
đông, tháng 10 xây đài Thông Tiêu [215; 116] còn sách ĐVSKTT lại ghi là xây đài
Tử Tiêu [145; 292 ]. Điều đặc biệt là: riêng đài Hoàn Khâu được xây dựng vào
tháng 9, còn 6 đài còn lại đều được xây dựng vào mùa đông, các tháng 10, 11, 12.
Hiện nay chưa biết đích xác các đài: Động Linh, Chúng Tiên, Tử Tiêu, Thông Tiêu
và Uất La là những đài dùng để làm gì, trong nghi lễ gì, có phải những đài này của
Đạo giáo hay không (?). Điều chắc chắn biết rằng, đài Hoàn Khâu (đài tròn) dùng
để tế trời, sách VSL viết: “Năm Nhâm Thân hiệu Đại Định năm thứ 13 (1152), tháng 9, xây đài Hoàn Khâu ở Cửa Nam thành để làm nơi tế trời”36. (Phụ lục I: Bảng 29,
Đài thời Lý). Những đài này được thiết kế ở vị trí nào, mục đích dùng để làm gì vẫn
là những vấn đề bỏ ngỏ cần phải được nghiên cứu tiếp.
3.3. Quy mô, cấu trúc Hoàng thành Thăng Long thời Trần (1225 - 1400)
3.3.1. Quy mô Hoàng thành Thăng Long thời Trần qua các lần trùng tu,
xây dựng
Muốn tìm hiểu về quy mô Thành Thăng Long thời Trần, có lẽ cũng cần quan
tâm đến các khu vực chung quanh thành trong một quy mô tổng thể. Tuy nhiên, các
thông tin về HTTL thời Trần qua các nguồn sử liệu không nhiều.
Trước khi tìm hiểu về Quy mô HTTL thời Trần, cần tìm hiểu về quy chế của
thời Trần trong Hoàng thành và Cấm Thành Thăng Long khi đó như thế nào. Trong
những quy định về quy chế, nghi thức cuối thời Lý đầu thời Trần có lẽ quy định
những người trong gia thuộc thân thích không được ở trong Cấm Cung. Đó là một
quy định nghiêm ngặt mà bất cứ một viên quan nào cũng phải thi hành. Có lẽ, duy
nhất một lần trong hoàn cảnh đêm trước của việc lên ngôi của Trần Cảnh trước sự
“đạo diễn” của Trần Thủ Độ, người thân của ông mới được đưa vào trong Cấm
cung để ẩn thân phòng khi việc bại lộ liên quan đến tính mạng: Năm Ất Dậu
(1225),Thủ Độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích
vào trong Cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và các cửa Cung, sai người coi giữ,
36 VSL, 2005, đ d, tr 147. Dịch giả sách VSL chú thích: Sách ĐVSKTT chép là ở Nam thành Đại La (chú thích
VSL, 2005, tr 204). Đàn tế trời và tế đất còn có các thuật ngữ khác: Hoàn khâu
hay còn gọi là Viên khâu
(Tế trời) và đàn Phương khâu
hay Phương viên
(Đàn tế đất); trời tròn, đất vuông (TG).
158
các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo: “Bệ hạ đã có chồng rồi”
[145; 339]. Vào đầu triều Trần, những người tội đồ bị sung làm quân lao dịch, làm
việc dọn cỏ ở Phượng Thành (Hoàng Thành): “Canh Dần (1230), loại bị đồ làm Lao
thành binh thì thích vào cổ 4 chữ, bắt dọn cỏ ở Phượng Thành, thành Thăng Long,
lệ vào Quân Tứ Sương [145;12]. Ở đây, tên gọi “Phượng thành” có lẽ là chỉ
Hoàng thành Thăng Long được quân Tứ Sương ngày đêm bảo vệ. Quân Tứ Sương
được duy trì tên gọi và thực hiện chức năng không chỉ ở triều Trần mà cho đến triều
Lê vẫn dùng. Sở dĩ khẳng định như vậy bởi căn cứ vào vào nhiều tư liệu trong chính
sử và qua tấm bia viết về danh tướng Trần Lựu còn đặt tại số 10 Ngõ Gạch, (Hà
Nội) đã cho biết vào giai đoạn cuối triều Trần và đầu triều Lê, quân Tứ Sương vẫn
là một đội quân quan trọng bảo vệ bốn mặt HTTL [41; 34].
Sau khi ổn định được vương triều đặc biệt là ổn định về chính trị, nhà Trần
tiến hành tổ chức lại quy hoạch Kinh thành trên cơ sở tuân theo quy hoạch của triều
Lý nhưng có mở mang rộng hơn vào năm 1230: “Canh Dần (1230) định các phường
về hai bên tả hữu của Kinh thành, bắt chước đời trước chia làm 61 phường ... lại mở
rộng phía bên ngoài thành Đại La, bốn cửa thành giao cho quân Tứ Sương thay
phiên nhau canh giữ (...) Trong thành dựng cung, điện, lầu, gác và nhà lang vũ ở hai
bên phía Đông, Tây. Bên tả là cung Thánh Từ (nơi Thượng Hoàng ở), bên hữu là
cung Quan Triều (nơi vua ở) [145; 12 ].
Đây là đoạn sử liệu trong chính sử được ghi cụ thể nhất về quy mô của
HTTL thời Trần. Qua mô tả trong sách ĐVSKTT cũng có thể hình dung phần nào về
quy mô, cấu trúc Hoàng thành Thăng Long. Phần Kinh thành bao gồm phần “thành”
và phần “thị” . Phần thành, phía trước là khu vực đường đến, cổng bảo vệ, khu
vực Đoan Môn, khu vực sân Long Trì, điện Kính Thiên, điện Tập Hiền - nơi vua
thiết triều, phía sau với nhiều cung, điện, lầu, gác. Phần cung (nơi vua và Thượng
Hoàng ở) cũng được chia làm hai khu: Khu bên tả (bên trái) - nơi ở của Thượng
Hoàng được gọi là Bắc Cung ; Khu hữu (phải) là cung Quan Triều - nơi
vua ở. Bao bên ngoài làm Cấm thành hay gọi là Thành nội. Thành nội dưới thời
159
Trần được tu sửa vào năm 1243, đây là lần thứ 2, kể từ lần đầu (1230) điều chỉnh lại
về quy mô của Kinh thành và Cấm thành Thăng Long: “Quý Mão (1243). Tháng 2,
đắp Thành Nội, gọi là thành Long Phượng và trùng tu Quốc Tử Giám [145;
19]. Ngoài Cấm thành là Hoàng thành có quân Tứ Sương canh giữ ngày đêm. Ngoài
Hoàng thành còn có một thành lớn hơn bao ngoài đó là La thành. La thành thời
Trần vừa là thành, là đường đồng thời cũng là đê để ngăn nước lụt. Điều này đã
được chính sử ghi cụ thể: “Năm Quý Mão (1243), Mùa thu, tháng 8, nước to, vỡ
thành Đại La [145; 19].
Sau khi ổn định được vương triều đặc biệt là ổn định về chính trị, nhà Trần
tiến hành tổ chức lại quy hoạch Kinh thành nhưng trên cơ sở tuân theo quy hoạch
của triều Lý nhưng có mở mang rộng hơn vào các năm 1230, 1243.
+ Về các “cung” thời Trần
Ở Thăng Long có các cung được xây dựng, trùng tu như: Cung Phụ Thiên
(1225), Lệ Thiên (1236), Thưởng Xuân (1238), Cảnh Linh
(1248), Bắc cung (Thánh Từ ) (1258, 1259), Vạn Thọ (1277), Nhân
Thọ (1290). Riêng “cung Quan Triều” hầu như rất đề cập đến việc trùng tu,
xây dựng (?).
+ Các công trình kiến trúc có sự liên thông với nhau tạo thành một chỉnh thể
liên hoàn, hỗ trợ cho nhau.
Qua mô tả, ngày nay có thể thấy được cung Cảnh Linh có sự liên
thông với các công trình kiến trúc khác như chùa Chân Giáo , Hồ Ngoạn
Thiềm (hồ Ngắm trăng), quán Thái Thanh (dành cho Đạo giáo) với
quy mô bề thế và đẹp đẽ. Sử ghi: “Mậu Thân (1248). Mùa hạ tháng 4, làm cầu Lâm
Ba ở chùa Chân Giáo, qua hồ Ngoạn Thiềm, đến quán Thái Thanh, cung Cảnh Linh,
160
cực kỳ tráng lệ” [145; 21].
3.3.2. Đông Cung Thái Tử thời Trần
Trong chính sử thường nhắc đến các tên gọi: Đông Cung (năm 1274),
Đông Cung Thái Tử (1240, 1305), Đông Cung Hoàng Thái Tử (1276).
Như vậy, những cung này dành cho Thái Tử được ĐVSKTT nhắc đến trong giai
đoạn thịnh trị nhất của vương triều Trần.
Chế độ Thái Thượng Hoàng bắt đầu được đặt từ thời Trần. Thông thường,
sau một thời gian ở ngôi, điều hành quốc gia, nhà vua tự mình lui về làm “Cố vấn”
và đưa Thái Tử lên ngôi để thực hiện công việc điều hành triều đình và đất nước
còn mình lên làm Thượng Hoàng . Đó là trên danh nghĩa, trên thực tế, Thượng
Hoàng vẫn luôn luôn quan tâm đến mọi hoạt động của vương triều. Thượng Hoàng
thường lui xuống ở Bắc Cung hay còn gọi là cung Thánh Từ để nghỉ
ngơi, tĩnh dưỡng, hoàng đế ở Cung Quan Triều để điều hành quốc gia. Sở dĩ gọi tên
gọi theo phương hướng là căn cứ vào quẻ trong Kinh Dịch. Sử thần Ngô Sĩ Liên
bàn: (...) Gia phả họ Trần lại ghi khác thế: “Con đã lớn thì cho nối ngôi chính, còn
cha lui về ở cung Thánh Từ xưng là Thượng Hoàng cùng trông coi chính sự (...). Có
lẽ lấy nghĩa quẻ “Càn” , lui ở phương Tây Bắc và quẻ “Chấn” , tiến ra
phương Đông. Nhưng chưa đến lúc già nua thì không được lười mỏi” [145; 30 ].
Thời Tiên Tần, Trữ quân của các chư hầu như nước Sở cũng đều xưng
là Thái tử. Khi nhà Hán thành lập, con trai các chư hầu vương đều gọi là Vương
Thái Tử .
Tuy nhiên, do như vậy sẽ bị nhầm lẫn với Hoàng Thái tử, người sẽ kế vị
Hoàng đế nhà Hán, nên quy định triều Hán lại sửa danh hiệu cho “Trữ quân” của
161
Chư Hầu Vương thành Vương Thế tử .
Thái tử hay Hoàng Thái tử có vị trí đặc biệt trong Hoàng gia. Khác với các
Hoàng tử, Vương tử mở phủ riêng ngoài Hoàng cung, nơi ở của Thái tử ở phía
Đông của Hoàng cung trong Kinh thành, nên thường được gọi là “Đông cung”
, do là cung của Trữ quân nên cũng có thể gọi là “Trữ cung” .
Ở thuyết ngũ hành, Đông thuộc hệ Mộc, màu Thanh, xét Tứ quý thì
thuộc mùa Xuân, nên Thái tử đôi khi cũng được gọi là “Thanh cung”
hay “Xuân Cung” . Vì thế, chúng tôi cho rằng, rất có thể ngói lợp cho Đông
cung Thái tử thời Lý - Trần - Lê có màu xanh (gọi là thanh lưu ly (?) mà trong khu
vực HTTL phát hiện được khá nhiều. Trong Đông cung cũng có các chức quan hầu
việc tương tự hệ thống quan viên ở triều đình và đã được thu nhỏ lại. Các quan viên
chủ yếu nhận nhiệm vụ về giáo dục Thái Tử, nên thực tế không có quyền hạn đáng
kể, nhưng nếu Thái tử kế vị, những quan viên này sẽ là những người hàng đầu được
bổ nhiệm các vị trí trọng yếu.
Ngoài ra, trong Đông cung cũng có các hoạn quan, nữ quan … theo mô hình
thu nhỏ của Hoàng cung mà bố trí, phục vụ sinh hoạt của Thái tử và gia quyến. Vì
là người sẽ kế vị nên mũ áo, lễ nghi của Thái tử cũng khác biệt với các Hoàng tử
khác, và thường là có chế độ một cách giản lược của vua.
Như vậy, quẻ “Càn” ứng với phương Bắc, với Bắc cung - cung của Thượng
Hoàng lui về phương Bắc, quẻ “Chấn” tiến ra phương Đông - cung của Thái tử.
Trong sử cũ thường nhắc đến các tên gọi: Đông cung (năm 1274), Đông cung Thái
tử (năm 1240, 1305), Đông cung Hoàng Thái tử (1276) … Như vậy, những “Cung”
này dành cho Thái tử được ĐVSKTT đề cập trong giai đoạn thịnh trị nhất của vương
triều Trần. “Đông cung” hay “Đông cung Thái tử” gắn với tuổi thơ của những vị
hoàng đế hay nói cách khác đây là cung riêng dành cho những vị còn “tiềm đế”
(Vua chưa lên ngôi, có khả năng sau này lớn lên lên làm vua). Đặc biệt, có vị mới
sinh ra đã được lập làm Đông cung Thái tử như Hoàng tử Hoảng năm Canh Tý
(1240): “Tháng 9, ngày 25, Hoàng đích trưởng tử là Hoảng sinh, lập làm Đông cung
Thái tử [145; 18]. Hoàng Thái tử được lập ngay sau khi sinh sau này là Trần Thái
162
Tông. Còn cũng có vị sau khi sinh chưa được phong Hoàng Thái tôn mà bởi lúc
này, trên Thượng Hoàng còn có Thái Thượng Hoàng, vì thế gọi là Hoàng Thái tôn
(cháu Thái Thượng Hoàng) đến một thời gian sau mới được tăng lên là Hoàng Thái
tử. Sự kiện này được ghi nhận vào năm Bính Tý (1276): “Mùa thu tháng 9, Hoàng
trưởng tôn Thuyên sinh lâp làm Hoàng Thái tôn, ít lâu sau lập làm Đông Cung
Hoàng Thái tử [145; 40]. Để dạy cho Hoàng Thái tử, Hoàng Thái tôn từ bé được
giáo dục chu đáo nên triều đình đã bố trí những người có kiến thức uyên thâm, lại
có khả năng truyền đạt, đạo đức tốt vào cung dạy cho họ từ những lễ nghi, văn học,
sử học, đạo đức, Nho học và những kiến thức cuộc sống. Sách ĐVSKTT ghi: Giáp
Tuất (1274), tháng 12 (...) Chọn người Nho học có đức hạnh trong thiên hạ vào hầu
Đông cung (Thái tử) [145; 39]. Trong lịch sử triều Trần, người học giỏi, đỗ đạt cao
lại giỏi văn chương cũng đã từng được vua chọn cho vào Đông cung để dạy cho
Thái tử như Đoàn Nhữ Hài là một trường hợp tiểu biểu.
Trong các con trai của vua, thông thường Hoàng Thái tử là con đích (con vợ
cả - Hoàng Hậu) thường được lựa chọn. Tuy nhiên, có khi nhà vua lại chọn những
người tài năng, đức độ có khí độ đế vương nhưng không phải là đích tôn, trưởng tử
lên Hoàng Thái tử. Đó là những ngoại lệ. Khi được chọn, nhà vua còn ban cho vật
báu để ghi nhớ và chủ yếu mang ý nghĩa răn dạy là chính. Đó là trường hợp năm
1305, khi Hoàng Thái Tử Mạnh được chọn, vua ban cho bài Dược thạch châm
- Lời khuyên về tác dụng của hòn đá (nếu biết khai thác tác dụng) cũng có ích
dùng để chữa bệnh (để so sánh với việc dụng người) [145; 89].
Rất tiếc, bài châm ấy ngày nay không còn mà chỉ còn tên gọi nên ngày nay
không thể biết khi đó, hoàng đế đã gửi gắm tâm sự gì đối với Hoàng Thái tử khi còn
163
tiềm đế.
3.3.3. Điện thời Trần
Trong chính sử, dưới triều đại nhà Trần ít đề cập đến các ngôi điện với tư
cách là nơi thiết triều. Sách ĐVSKTT chỉ nhắc đến vài ba ngôi điện tiêu biểu nhất là
điện Tập Hiền và điện Diên Hồng . Nguyên nhân có thể có nhiều,
nhưng có lẽ một trong những nguyên nhân cơ bản là nhiều ngôi điện đã bị đốt vào
cuối triều Lý đặc biệt chủ yếu là những ngôi điện đã bị Trần Tự Khánh đốt vào đầu
Tk XIII. Ngôi điện chứng kiến sự nhường ngôi (thông qua đạo diễn của Thái Sư
Trần Thủ Độ), đó chính là điện Thiên An . Ngôi điện này được làm vào cuối
triều Lý, khi mới làm xong thấy có chim khách đến đã có lời nói bóng gió ám chỉ sự
thay thế của một triều đại mới thay cho triều Lý qua câu chuyện: Chim sáo làm tổ
nhưng để cho chim khách đến đẻ. Đó là dấu hiệu của việc nhà Lý suy vi thay bằng
vương triều Trần. Việc đó diễn ra vào năm Ất Dậu, hiệu Kiến Gia năm thứ 15
(1225). Chính sử ghi: “Ngày mồng 1, tháng chạp năm ấy, (Nhị lang) lên ngôi ở điện
Thiên An, tôn Thuận Trinh Vương Hậu làm Thái Hậu, giáng Chiêu Vương (Chiêu
Hoàng) làm Chiêu Thánh Vương (Hoàng), (sau cải nguyên Kiến Trung) [215; 201].
Như thế, điện Thiên An là một ngôi điện đã chứng kiến sự suy tàn của vương triều
Lý, dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ. Đây cũng là một ngôi điện quan trọng trong
Cấm thành Thăng Long thời Trần.
Điện Thiên An thời Trần được dựng trên nền của điện Kiền/Càn Nguyên
thời Lý: “Tháng 6 dựng điện Thiên An: “Bấy giờ điện Kiền Nguyên đã bỏ,
bỗng có con rồng hiện ở nền điện, nhà vua bảo những người xung quanh rồng hiện
ở nền điện đã bỏ nên nay có rồng hiện, ý chừng đất ấy cũng là nơi quý địa dựng lên cơ nghiệp đế vương chăng?”37.
Ngay sau khi lên ngôi, vương triều Trần với sự điều hành của vua Trần Thái
Tông, triều đình khắc phục nhiều khó khăn để kiến thiết đất nước nói chung và kiến
:
.
164
thiết nhiều công trình kiến trúc trong cung cấm nói riêng. 37
Trong các điện trên, chúng ta có một thông tin sử liệu nói về hình dạng kiến
trúc của điện.“Ban yến cho các quan từ ngũ phẩm trở lên ở điện Bát Giác” [145; 17]
Điện Bát Giác là tên gọi theo kiểu Từ nguyên - chưa rõ tên điện là gì, tên gọi
“điện Bát Giác” có lẽ là tên gọi theo hình dạng kiến trúc. Loại kiến trúc Bát
giác, qua các cứ liệu khảo cổ học đã tìm thấy ở khu vực khai quật 18 Hoàng Diệu
(Ba Đình, Hà Nội) cũng đã xuất hiện từ thời Lý. Bát giác là đặc trưng của biểu
tượng “Bát chính đạo” theo kiểu cánh sen trong biểu tượng nhà Phật. Có thể,
điện Bát Giác ở khu C 18 Hoàng Diệu đã được xây dựng từ triều Lý và sửa chữa
vào thời Trần. Điện Bát Giác trong sử cũ được coi là một ngôi điện quan trọng của
triều Trần. Nơi đây dùng để ban yến cho các quan từ ngũ phẩm trở lên - tức là
những vị quan đại thần và quan chức bậc cao trong triều.
Đến 1258, nhân dân Đại Việt, dưới sự lãnh đạo của tông thất nhà Trần đã
đánh bại được cuộc xâm lăng của quân xâm lược Mông - Nguyên. Cuộc kháng
chiến lần thứ Nhất đã đi đến toàn thắng, cuộc sống của người dân từ trạng thái thời
chiến về với cuộc sống thanh bình, nhà vua cũng trở lại cung điện trong Hoàng cung
Thăng Long để điều hành đất nước. ĐVSKTT ghi: “Mậu Ngọ (1258). Mùa xuân
tháng Giêng, ngày mồng một, vua ngự Chính điện, cho trăm quan vào chầu. Trăm
họ yên nghiệp như cũ” [145; 29]. Từ 1259 đến 1284, (trong khoảng 25 năm), đất
nước vắng bóng giặc nhưng đến năm 1285, Kinh thành Thăng Long lại xuất hiện sứ
giả Nguyên Mông với tư thế ngạo nghễ, thách thức cả triều đình, thậm chí chúng
còn đến thẳng điện Tập Hiền - nơi vua và triều đình đang làm việc.
Trước sức ép của quân xâm lược đang lâm le bờ cõi, thế giặc nguy nan hơn
lúc nào hết, vương triều Trần phải đương đầu với thế giặc mạnh gấp nhiều lần, nguy
cơ chiến tranh không thể tránh khỏi. Trước tình hình đó, vua Trần Thái Tông đã có
sáng kiến quan trọng: Lấy ý kiến của quảng đại quần chúng đặc biệt là xin ý kiến
của các vị bô lão ở khắp nơi trở về Kinh đô, trước điện Diên Hồng để hiến kế giữ
nước. ĐVSKTT viết: “Giáp Thân (1284), tháng 12, Thượng hoàng triệu tập phụ lão
165
trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc” [145; 50]. Sự
đồng lòng, nhất trí cao của Hội nghị Diên Hồng với hàng nghìn bô lão tham gia đã
được nhiều tư liệu ghi chép. Sau khi nghe ý kiến của vua Trần hỏi về quyết tâm
đánh giặc, các bô lão cùng đồng thanh nhất trí hô “Đánh” được lan truyền từ điện
Diên Hồng ra ngoài Kinh đô và cả nước. Điện Diên Hồng từ đó trở thành biểu
tượng của sự đoàn kết, nhất trí, muôn người như một của dân tộc Việt Nam trước sự
nghiệp chống giặc cứu nước đồng thời cũng là biểu tượng của tinh thần tự do, dân
chủ.
3.3.4. “Cung” thời Trần
Cũng như các điện thời Trần, sử sách viết về các “cung” thời Trần cũng
không nhiều. Theo thống kê của chúng tôi (không kể các tên trùng nhau được nhắc
đến nhiều lần) thì cho đến nay, chúng ta chỉ biết đến khoảng hơn mười “cung”.
Triều Trần xây dựng “cung”, “điện” chủ yếu ở Kinh đô Thăng Long, ở quê hương
Nam Định, Thái Bình cũng chỉ xây dựng một hai “cung” phục vụ cho những chuyến
về quê bái yết Thái Miếu38. Ở Thăng Long có các cung: Phụ Thiên (1225),
Lệ Thiên (1236), Thưởng Xuân (1238), Cảnh Linh (1248),
Bắc Cung (Thánh Từ ), (1258, 1259), Vạn Thọ (1277), Nhân Thọ
(1290). Trong những “cung” này, cung Lệ Thiên và cung Thưởng Xuân là
một được thay đổi tên gọi. Cung này đã được xây dựng vào triều Lý và duy trì đến
năm 1236 (triều Trần) mới đổi thành cung Thưởng Xuân với lý do sau: Bính Thân
(1236): Bấy giờ Hiển Hoàng Trần Liễu làm Tri Thánh Từ Cung, nhân nước to, đi
thuyền vào chầu, thấy người phi cũ của triều Lý liền cưỡng dâm ở cung Lệ Thiên.
Đình thần hặc tâu, vì thế mới đổi tên cung ấy làm cung Thưởng Xuân, giáng Hiển
Hoàng làm Hoài Vương [145; 15]. Đặc điểm của cung này thường bị nước lụt vào.
” khác với “cung
Có lẽ ở địa thế thấp hoặc gần hồ ao (?). Trong các năm 1236, 1238 sử đều ghi bị
166
nước vào: “Bính Thân (1236). Mùa hạ, tháng 6, nước to, vỡ tràn vào cung Lệ Thiên 38 Sử chép: Vào năm 1240 cho xây dựng hàng cung ở phủ Thanh Hóa gồm 5 nơi và năm 1243, vua ngự hành cung ở Ứng Phong. Có lẽ “Hành cung ” ở đặc điểm “Hành cung” được xây dựng với tính chất đơn giản hơn dành cho nhà vua khi tuần du, còn “cung” được xây dựng hoàn bị hơn.
[145;15]. Hay năm Mậu Tuất (1238): Mùa thu, tháng 7, nước to, vỡ tràn vào cung
Thưởng Xuân [145; 17]. Không rõ, vì lý do cung này đã từng bị uế tạp do trước đây
Hiển Hoàng Trần Liễu đã cưỡng dâm với một Cung Phi cũ của tiền triều (triều Lý)
hay vì cung thường xuyên bị nước ngập mà sau đó nó đã bị đổi tên thành cung
Thưởng Xuân - tên cung ngầm chỉ chức năng dành cho việc chơi bời, ngắm cảnh
(?).
Cung Lệ Thiên chính xác ở vị trí nào. Ngày nay, khó xác định vị trí cụ thể.
Qua ĐVSKTT chỉ có thể cho biết đây là một cung dành riêng cho Thái Thượng
Hoàng ở. “Bính Tuất (1226) cha của Trần Thủ Độ làm Thái Thượng Hoàng ở cung
Phụ Thiên (phường Hạc Kiều phía bên tả) [145; 9]. Cung này nằm ở
bên tả (Trái) của phường Hạc Kiều. Tên Phường Hạc Kiều cho đến thời Lê cũng đã
bị thay đổi, trong các địa danh từ thời Lê về sau, không còn giữ được phường nào
tên là Hạc Kiều nữa.
Qua các nguồn sử liệu cho biết, cung thất đời Trần, tuy không nhiều nhưng
đã có nhiều cung có vai trò quan trọng. Không rõ các cung khác có kiến trúc liên
hoàn gì với các công trình khác trong khu vực Cấm thành không. Nhưng qua mô tả,
ngày nay có thể thấy được cung Cảnh Linh có sự liên thông với các công trình kiến
trúc khác như chùa Chân Giáo (ngôi chùa Phật giáo), hồ Ngoạn Thiềm (hồ Ngắm
trăng), quán Thái Thanh (dành cho Đạo giáo) với quy mô bề thế và đẹp đẽ. Sử ghi:
“Mậu Thân (1248). Mùa hạ tháng 4, làm cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo
, qua hồ Ngoạn Thiềm, đến quán Thái Thanh cung Cảnh Linh, cực kỳ tráng lệ”
[145; 21]. Như thế, có thể thấy, cung Cảnh Linh nằm gần các công trình tín ngưỡng
tôn giáo. Vậy nó phải là nơi yên tĩnh để đáp ứng cho việc di dưỡng tinh thần và
thưởng ngoạn (?). Cung Cảnh Linh cũng là cung dành riêng cho Thái Thượng
Hoàng ở và nghỉ ngơi.
Các “cung” khác như Bắc Cung , cung Thánh Từ cũng là những
167
cung dành riêng cho Thượng Hoàng ở: “Trong Thành Nội lập cung, điện, lầu, gác;
dãy phía Tây bên tả là cung Thánh Từ do Thượng Hoàng ở, bên hữu có cung Quan
triều cho vua ngự39. Đến năm sau (1259), chính ĐVSKTT đã giải thích rõ: “Kỷ
Mùi (1259). Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 4, Thượng Hoàng Ngự Bắc Cung (tức
cung Thánh Từ), các quan đến chầu mừng” [145; 31] .
Cho đến những thập kỷ cuối của Tk XIII, các cung Vạn Thọ, Nhân Thọ cũng
là những cung dành cho Thượng Hoàng ở. Sở dĩ biết được điều đó là dựa vào
ĐVSKTT ghi về những năm cuối đời Thượng Hoàng Trần Thái Tông (1218 - 1277)
và Thượng Hoàng Trần Thánh Tông (1240 - 1290) băng hà ở hai cung này. Sử ghi:
Đinh Sửu (1277), mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, Thượng Hoàng băng ở cung Vạn
Thọ [145; 40]:
Canh Dần [Trùng Hưng] năm thứ 6 (1290). Tháng 5, ngày 25, Thượng
Hoàng băng ở cung Nhân Thọ [145; 67 ].
Trong các “cung” trên, riêng ba cung: Lệ Thiên , Thưởng Xuân
, Cảnh Linh , chưa biết chắc chắn nó được dùng làm gì, có phải là các
Cung dành riêng cho Thái Thượng Hoàng và Thượng Hoàng nhà Trần hay không.
Điều này cần tiếp tục tìm hiểu.
Như vậy, các cung Phụ Thiên (cha của Trần Thái Tông) ở; Bắc Cung
và Cung Thánh Từ là cung của Thượng Hoàng Trần Thái Tông ở được ghi vào các
năm 1258, 1259; Cung Vạn Thọ và Cung Nhân Thọ cũng đồng thời là Cung của các
vua Trần Thái Tông, và Trần Thánh Tông ở những năm tháng cuối đời và băng hà
tại đây. Tất nhiên, những Cung này cũng đã từng được làm nơi ở, nghỉ ngơi của các
.
39 Thành Nội lập cung điện, lầu, gác, Đông Tây lang phủ Tả Thánh Từ, Thượng Hoàng cư chi dã. Hữu Quan Triều đương trung ngự chi dã. (ĐVSKTT, BK, Q5, Triều Trần Thái Tông, tờ 6).
168
đời Thượng Hoàng sau đó của nhà Trần.
Nếu các Cung trên đều có cùng một công năng dùng để dành riêng cho các
Thái Thượng Hoàng và Thượng Hoàng ở thì có thể những cung này đều ở một khu
169
gần nhau và thiên về phía Bắc của Cấm Thành Thăng Long.
3.3.5. Các “Cửa” thời Trần
Thời Trần, sử liệu trong các sách ĐVSKTT và ĐVSKTB chỉ đề cập đến
khoảng 10 cửa. Đây là con số chắc chắn mà sử liệu chữ viết ghi chép, trên thực tế,
số lượng các cửa có lẽ còn nhiều hơn thế (?). Tuy nhiên, chỉ với khoảng 10 cửa đã
giúp hình dung được quá trình đặt tên và chức năng của các cửa thời Trần. Qua đó,
cũng đủ cho thấy quy chế thời Trần qua việc định lệ các cửa trong Hoàng Cung.
Trong các cửa trên, có cửa được đặt tên mang tính từ nguyên học dân gian
như Cửa Khoét. Chính sử ghi: Bính Tuất (1226). Thượng Hoàng nhà Lý (Huệ
Tông) sau khi tự tử, Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía
Nam làm cửa (bấy giờ gọi là “Cửa Khoét”, đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để
thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang [145; 9]...
Trong ĐVSKTT (năm 1354) còn nhắc đến các tên như cửa Quảng Phúc ở
phía Tây, dựng hành lang ở phía Tây điện.
Hay có những cửa chỉ dành cho sứ giả nước ngoài đi như của Tường Phù,
Cảnh Dương được sách ĐVSKTT nhắc đến năm 1388: “Dẫn sứ phương Bắc qua cửa
Tường Phù ”; và Cửa Cảnh Dương , dẫn sứ phương Bắc đi.
Bên cạnh cửa Cảnh Dương, cửa Long Môn cũng là một cửa quan trọng
của HTTL. Có lẽ, tên gọi Long Môn bên cạnh ý nghĩa (Cổng Rồng - cổng của nhà
vua) còn có ý nghĩa cổng nhắc đến một điển tích cá hóa rồng, cá vượt vũ môn để chỉ
những người đỗ đạt đại khoa (Tiến sĩ). Phải chăng vì ý nghĩa đó mà vào triều Trần,
cổng này được dành cho những người thi đỗ đầu kỳ thi điện được dẫn qua Phượng
Thành để ngắm dạo Kinh kỳ sau khi được nhà vua ban cho ân điển. Chính sử ghi:
“Năm Giáp Thìn (1304). Tháng 3, thi kẻ sĩ trong nước (...). Dẫn 3 người đỗ đầu ra
cửa Long Môn của Phượng Thành đi du ngoạn đường phố ba ngày” [145; 89]…
Mặc dù chỉ với một ít thông tin về các “cửa” trong chính sử thời Trần đã
cung cấp những thông tin sử liệu quan trọng, qua đó, không chỉ giúp hình dung
được vị trí, chức năng của các cửa đó mà còn hình dung được mối quan hệ với các
170
kiến trúc liền với nó và cho chúng ta hiểu thêm về quy chế thời Trần.
3.3.6. Không gian sinh thái: Ao, hồ, cầu, vườn trong Cấm Thành thời
Trần
Không gian sinh thái và cảnh quan thời Trần
Vào thời Trần, các công trình cầu, vườn, kho, trạm, đài, đình, thực ấp ít được
chính sử đề cập. Phải chăng, trong giai đoạn này, những hạng mục công trình trên
vẫn được duy trì, bảo lưu từ giai đoạn nhà Lý hoặc không được triều Trần tu bổ, mở
rộng nên không được ghi chép nhiều. Tuy nhiên, trong chính sử vẫn đề cập đến
những con sông, hồ, ao trong HTTL. Sự hiện diện của những hồ, ao, sông ở HTTL
vừa là mối quan tâm thường trực, tác động trực tiếp đến đời sống vật chất đồng thời
cũng là một yếu tố quan trọng trong đời sống tinh thần của tầng lớp quý tộc vương
triều và đời sống quần chúng nhân dân lao động.
HTTL thực sự là một hệ sinh thái hài hòa giữa vẻ đẹp tự nhiên và vẻ đẹp
nhân tạo. Vẻ đẹp tự nhiên, đó là nó đã kết hợp được núi và sông làm thế rồng cuộn
hổ ngồi theo địa lý học phương Đông cổ truyền… Bên cạnh đó, triều Lý cũng như
triều Trần đã cải tạo và xây mới một số sông, hồ, ao trong HTTL để tạo thành
những nơi có cảnh đẹp hài hòa dùng làm nơi ngắm cảnh phục vụ đời sống tinh thần,
nghỉ ngơi của vua, hoàng tộc và các quan đại thần. Vì thế, các hồ này phần nhiều
gần với các công trình kiến trúc như cầu, lầu, gác. Chẳng hạn như các hồ Ngoạn
Thiềm, Lâm Ba, được ĐVSKTT ghi lại vào năm Mậu Thân (1248), cùng với các
công trình cung điện trong Cấm Thành đã tạo cho phong cảnh thêm nguy nga, tráng
lệ [145; 21]. Ngoài ra, sử liệu còn cho biết tên một số hồ như: Hồ Thủy Tinh (1283)
[145; 49], hồ Thanh Ngư thả cá diếc và các ao trong vườn Ngự Uyển trong Hậu
cung (1263) [152; 348]...
Các hồ, ao trong HTTL chắc hẳn phải nối liên thông với các con sông Tô
Lịch, Kim Ngưu, sông Hồng vừa có ý nghĩa về việc giao thông đường thủy, cấp
thoát nước cho HTTL trong công việc thủy lợi vừa phục vụ sinh hoạt đời sống.
Sông trong nội đô thời Trần chủ yếu là sông Kim Ngưu và Tô Lịch :
Hai con sông cổ này ra đời cùng với sự hình thành của miền đất Thăng Long - Hà
171
Nội gắn với truyền thuyết về thần Tô Lịch - Bạch Mã thời kỳ Cao Biền cai trị trong
khoảng thời gian thành Đại La còn là trung tâm Đô Hộ Phủ thuộc Đường thậm chí
gắn liền với những câu chuyện Mã Viện (thời Đông Hán) [kh 192; VNCHN] Tk II
- III công nguyên. Còn từ lâu, người dân Thăng Long luôn nhớ đến tên gọi rất gần
gũi, thân thuộc của hai con sông:
“Nhị Hà quanh Bắc sang Đông
Kim Ngưu, Tô Lịch là sông bên này”.
Các con sông này vừa có chức năng cung cấp, thoát nước, cho đô thành vừa
là con đường giao thông để chuyên chở hàng hóa nối giữa các vùng ven đô với
Kinh thành Thăng Long. Chính vì thế, sông Tô Lịch thường xuyên phải được nạo
vét, khơi thông dòng chảy để thuyền bè dễ đi lại đồng thời tạo điều kiện thoát nước
cho HTTL trong mùa mưa. ĐVSKTT ghi năm: “Bính Thìn (1256) vét sông Tô Lịch
[145; 27]. Hay năm Giáp Thân (1284). Mùa xuân, tháng Giêng, vét sông Tô Lịch
[145; 50]… nhiều đường thoát nước lớn, có bề ngang rộng tới 2m được tìm thấy
trong khu vực khảo cổ HTTL chắn hẳn sẽ nối với các con sông lớn Tô Lịch và Kim
Ngưu.
3.4. Quy mô và cấu trúc của Hoàng Thành Thăng Long thời Lê
Sử liệu về quy mô cấu trúc HTTL thời Lê được phản ánh khá rõ qua các
nguồn sử liệu trong chính sử, bản đồ Hồng Đức, các sử liệu về văn bia sưu tầm tại
địa bàn Hà Nội cổ... Hay trong điển chế và pháp luật thời Lê, tuy không trực tiếp đề
cập đến quy mô và cấu trúc của HTTL nhưng qua tư liêu đã đề cập đến trách nhiệm
của những vị quan trong triều trong việc được phép vào những vị trí nào trong Cấm
Đình, quy định giờ khắc vào chầu cũng như tập trung ở những địa điểm nào trước
khi vào chầu vua.
Từ trước đến nay nhiều nhà nghiên cứu hầu như chỉ quan tâm đến khu vực
bên trong của HTTL mà ít quan đến đến khu vực phía trước của khu vực này. Vì
thế, việc nghiên cứu tổng thể bao gồm đường dẫn đến khu vực bên trong Hoàng
thành cũng cần phải được quan tâm. Thời Lý - Trần cũng như thời Lê sau này, cửa
“Chu Tước” bao giờ cũng là cửa phía Nam, “Huyền Vũ” ở phía Bắc. Cùng với Chu
172
Tước, cửa Đông Hoa, khu vực cửa Đại Hưng là cửa chính dẫn vào trong khu vực
Hoàng thành. Nơi đây, được miêu tả có dòng nước chảy gọi là “Lưu Bôi” có
con cầu dẫn vào, có ngòi Ngân Câu , Phượng Lâu , Quảng Văn Đình
, Cầu Ngoạn Thiềm . Phía trong cửa Đoan Môn là các “Cung”, “Điện”,
“Lầu”, “Gác” với quy mô rất lớn. Theo thống kê của chúng tôi, thời Lê có hơn 30
Cung và Điện (trong đó có khoảng hơn 20 Điện và hơn 10 Cung) dành làm nơi làm
việc và nghỉ ngơi của hoàng tộc. Qua đây, cũng có thể hình dung được quy mô
tương đối bề thế của HTTL thời Lê như thế nào.
3.4.1. Khu vực chính điện của Hoàng thành Thăng Long
Khu vực phía Đông với cửa Chu Tước
Cửa Chu Tước, Cửa Đại Hưng , Cửa Đoan Môn vẫn là những cửa quan
trọng. Các quan khi vào chầu vua theo hiệu lệnh của trống, khi đến những cửa này
đòi hỏi phải nghiêm trang, không được lộn xộn, chen lấn. Sách ĐVSKTT viết:
“Ngày 3 tháng 8 năm Hồng Đức thứ 16 (1485): Định nghi thức vào chầu các quan.
Nghi thức như sau: Kể từ nay, các ngày phiên chầu, hồi trống thứ nhất, quan hộ vệ
theo thứ tự tiến vào Đan Trì, hồi trống thứ hai, các quan theo thứ tự tiến vào Đan
Trì, không được đường đột tranh đi trước, chen lấn lộn xộn, sau khi trống đã đánh
hồi thứ 3 mà còn ở ngoài cửa Chu Tước và sau khi chuông đã đánh quá 50 tiếng rồi
mà còn ở bên tả, bên hữu cửa Đoan Môn, thì quan coi cửa ngăn lại hết, ty Xá Nhân, vệ Cẩm Y hặc tâu lên để trừng trị40 .
Đến thời Lê Thánh Tông, cửa Chu Tước, phía Nam vẫn là một cửa quan
trọng, các quan trong Lục Bộ, Lại Khoa, Thượng Bảo Tự, Thống Chánh Sứ Ty và
Hộ Vệ thì mới được vào. Sách ĐVSKTT viết: Ngày 13 tháng 7 năm Hồng Đức thứ
16 (1485); “Ra sắc chỉ cho Lễ Bộ yết bảng như sau: (…) Khi các quan vào chầu và
40 ĐVSKTT, Q 13, Năm 1485, ngày 3 tháng 8 ghi nguyên văn như sau:
.
173
khi ở triều đường, Lại Viên các Nha Môn đi theo bản quan đến bên ngoài cửa Đông
Trường An và Nam Hưng thôi, không được như trước đây, vào bừa cả cửa Chu
Tước. Nếu là viên các Nha Môn Lại Bộ, Lục Khoa, Thượng Bảo Tự, Đạc Chi, Thông Chính Sứ Ty và Hộ Vệ thì đều không ngăn cấm41.
Cửa Đại Hưng
Cửa Đại Hưng được đề cập đến từ thời Lý, thời Trần và cả thời Lê. Đây là
một của quan trọng trước khi vào khu vực Hoàng thành Thăng Long. Triều đình
quy định, các quan văn võ khi đi qua cửa Đại Hưng phải xuống ngựa, điều đó chứng
tỏ khu vực này đã trở lên nghiêm trang không được khinh suất. ĐVSKTT Ngày 20
tháng 4 (nhuận) năm Hồng Đức thứ 16 (1485) ghi: “Định lệnh về số tiểu đồng đi
theo hầu trong khi tiến triều. Lệnh quy định: Đại thần và các quan văn, võ từ nay
khi vào chầu, đến ngoài cửa Đại Hưng phải xuống kiệu hoặc ngựa. Nếu là
Công, Hầu, Bá, Phò Mã thì được 2 tiểu đồng hầu, quan nhất phẩm được 1 người.
Khi vào đến cầu Ngoạn Thiềm thì dừng lại. Ai vi phạm thì quan giữ cửa
ngăn lại, tâu hặc để giao xét hỏi42.
Về kiến trúc, ngoài cửa Đại Hưng xây Đãi Lậu Viện (2 dãy 3 gian 2 trái)
dùng để xem giờ khắc để vào chầu. Sách ĐVSKTT viết: “Ngày mồng 3 tháng 5 năm
Hồng Đức thứ 28 (1497): Vua Thánh Tông đã băng hà vào đầu năm này. Xây Đãi
Lậu Viện. Trước đây, Thái Tổ làm Đãi Lậu Viện ở ngoài cửa Tây. Thái Tông, Nhân
Tông đều nhân theo đó. Thánh Tông làm thêm hai dãy nhà ở ngoài cửa Đại Hưng.
41 […]
(ĐVSKTT viết: Ngày 13 tháng 7 năm Hồng
Đức thứ 16 (1485).
42
.
43
.
174
Đến đây, đặc cách ra lệnh cho Ngũ Phủ sai phái ký quân xây dựng Đãi Lậu viện ở ngoài cửa Đại Hưng gồm 2 dãy, 3 gian, 2 chái43.
Năm 1491 xây dựng lầu Quảng Văn ở cửa Đại Hưng trong
Long Thành: “Vua sai thợ làm đình ở ngoài cửa Đại Hưng để làm nơi treo các pháp
lệnh trị dân. Làm xong ban tên là “Quảng Văn Đình” . Đình này ở trong
Long Thành, phía trước Phượng Lâu , có Ngòi Ngân Câu chảy quanh hai
bên tả hữu [145; 510] .
Như thế, có thể thấy, khu vực phía trước Đoan Môn có một không gian khá
rộng và thoáng đãng, có thể hình dung, nơi đây tuy không phải là khu vực được
canh phòng cẩn mật nhưng cũng có lính cảnh vệ đi lại để bảo vệ và giữ gìn an ninh
cảnh quan.
3.4.2. Khu vực trong Cấm Thành
Chuyển đổi một số công trình ra ngoài Cấm Thành và tăng cường phòng thủ
Sách ĐVSKTT, năm Hồng Đức thứ 21 (1490), tháng 11 ghi: “Đắp rộng thêm
Phụng Thành, dựa theo quy mô đời Lý, Trần. Vua cảnh giác việc Nhân Tông bị hại,
nên lấy lính đắp thành đó. Đồng thời phía ngoài cửa Cửu Giáo Giao Trường
, mở rộng đến 8 dặm, sau 8 tháng thì đắp xong. Bèn dựng điện Danh Bảo lại lập
vườn Thượng Lâm , trong đó có hươu và các thứ khác44.
Những năm đầu triều Lê Sơ, nhiều nhân vật có công trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh đều được bố trí phụ trách các vệ bảo vệ Kinh Thành bởi họ là
những võ quan. Mục ghi ngày 13 tháng Giêng đến ngày 7 tháng 2 năm Đinh Mùi,
niên hiệu Tuyên Đức 2 (1427), sách ĐVSKTT viết: “Lệnh cho Thiếu úy Lê Vấn
đóng ở Cửa Đông của thành Đông Quan; Tư không Lê Lễ, Thiếu úy: Lê Sát, Lê Lý,
44
.
175
Lê Lỗi, Lê Chích đóng ở Cửa Nam; Thiếu úy Lê Bị, Thái giám Lê Nguyễn, Chấp lệ
Lê Chửng đem ba Vệ Thiết Đột đóng ở Cửa Tây; Thiếu úy Lê Triện, Lê Văn An đem 14 vệ quân đóng ở Cửa Bắc45.
Nhu cầu kiến thiết thành hào kiên cố được đặt ra cấp thiết sau vụ Lê Nghi
Dân mưu phản vào thành giết vua và Hoàng Thái Hậu năm 1459: “Trước kia
Dương Thị Bí là mẹ Nghi Dân có tội với Thái Tông, nên Nghi Dân không được lập,
mới ngầm chứa mưu gian, nhòm ngó ngôi báu (…), lợi dụng đêm tối, bắc thang trèo
thành, lẻn vào Cung cấm. Thế là vua bị hại. Hôm sau, Hoàng Thái Hậu cũng bị hại
[145; 510].
- Sách ĐVSKTT viết: Ngày mồng 9, Giáp Ngọ, tháng 12 năm Quang Thuận
năm thứ 8 (1467), dời Hình Bộ và Đại Lý Tự ra ngoại thành (
).
Các quy định về việc cho các quan vào các khu vực thiết triều
Việc quy định về định lệ vào chầu theo tín hiệu của hồi trống: ĐVSKTT viết:
“Tháng 10, năm Hồng Đức thứ 3 (1472): “Định triều nghi hộ vệ. Các tướng sĩ hằng
ngày vào chầu, phải đứng sắp hàng bên Đông, bên Tây ngoài cửa Đoan Môn; những
ngày sóc vọng phải đến đợi ở ngoài cửa Văn Minh, Sùng Vũ. Sau 3 hồi trống thì
tiến vào Đan Trì dàn bày nghi trượng, ban thứ chỉnh tề. Người nào dám cố ý vi
phạm, làm mất hàng ngũ, sau 3 hồi trống vẫn chưa chỉnh tề thì các Vệ Cẩm Y và Kim Ngô bắt giữ xin trị tội”46.
Quy định “Từ nay về sau, nếu có Cung Nhân ở các điện và Đại thần, Tổng
Quản, Hành Khiển cùng bọn nữ quan vào chầu, khi đến Cửa Cấm thì người coi cửa
phải chuyển tâu trước, đợi có sắc chỉ mới được vào. Đàn bà không có phẩm tước
đều không được vào. Nội nhân, Nữ quan, nô tỳ ở các điện nếu không có việc gì
45
,
,
,
.
,
46
.
176
không được lui tới điện khác. Nếu người canh cửa không cẩn thận, lấy tình riêng
dung túng cho vào bậy, cùng là người nào mang các thứ đồ sắt từ một cái kim trở
lên vào trong cung cấm mà không chuyển tâu trước thì phải chiếu luật trị tội [145;
320].
Các quan trong cung và bên ngoài cũng không được thông tin những việc
quan trọng trong cung cấm ra ngoài: “Ra lệnh chỉ cấm quan lại ở Nội Mật, Tướng
hiệu, Quân nhân, Sắc dịch ở Quân ngự tiền không được chơi bời đi lại với các quan
văn võ bên ngoài tiết lộ các việc trong cung [145; 364].
+ Đan Trì: Năm 1473, ra quy định về việc giữ vệ sinh trước sân Đan Trì
trong buổi chầu: “Kể từ nay, các quan vào chầu không được nhổ cốt trầu, ném bã
trầu ở cửa và sân Đan Trì [145; 463].
Sân Đan Trì , điện Kính Thiên , cửa Đông Hoa là nơi
thường diễn ra các hoạt động liên quan đến các hoạt động thi Đình triều Lê; “Năm
1481, tháng 5, ngày 21, triệu bọn tiến sĩ Phạm Đôn Lễ vào trong Đan Trì. Vua ngự
điện Kính Thiên. Các quan Hồng Lô truyền lệnh gọi tên. Lại Bộ ban ấn mệnh. Lễ
Bộ bưng bảng vàng, nổi trống nhạc, rước ra ngoài cửa Đông Hoa treo lên. Xong rồi
Ty Mã cứu đem ngựa tốt đưa Trạng Nguyên về nhà” [145; 484].
Trên đây là những quy định về việc các quan vào thiết triều theo hiệu lệnh
khi tiến đến các cửa Văn Minh, Sùng Vũ, sân Đan Trì và điện Kính Thiên cùng các
quy định phân biệt quan hệ trên dưới, các ngày lễ sóc, vọng và trình tự của một buổi
yến lễ mừng các Nho sinh đỗ đạt kỳ thi Đình trước điện Kính Thiên.
3.4.3. Các điện thời Lê
Năm 1491 xây dựng lầu Quảng Văn ở cửa Đại Hưng trong Long Thành:
“Vua sai thợ làm đình ở ngoài cửa Đại Hưng để làm nơi treo các pháp lệnh trị
dân. Làm xong ban tên là “Quảng Văn đình” . Đình này ở trong Long Thành
, phía trước Phượng Lâu , có ngòi Ngân Câu chảy quanh hai bên
177
tả, hữu [145; 510] .
Năm 1504: Trước đây, vua xây các điện Thượng Dương , Giám Trị
, Đồ Trị , Trường Sinh , nơi để nghỉ ngơi, điện để đọc sách và ăn chay.
Lại dựng điện Lưu Bôi ở trong cung (đưa nước vào trước thềm điện, gọi là
đài Lưu Bôi ) [145; 34 ].
Thời Lê có đề cập đến 30 tên của các điện khác nhau gắn với thời điểm cụ
thể như sau: Điện Vạn Thọ (1428), Điện Cần Chánh (đề cập các năm 1434,
1467, 1619. 1643), điện Càn Đức (1434), điện Phụng Tiên (1437),
điện Hội Anh (1437), điện Tường Quang (đề cập các năm 1460,
1513, 1514), điện Kính Thiên (đề cập các năm 1428, 1466, 1469, 1474,
1481, 1488,1490, 1496, 1499, 1509, 1599, 1602, 1616), điện Văn Minh
(1472), Giảng Võ (các năm 1478, 1472, 1481), Điện Kim Loan (1496),
Điện Bảo Quang (1497), Hoàng Cực (1504), điện Thượng Dương
(1504), điện Giám Trị (1504), Đồ Trị (1504), điện Trường
Sinh (1504), điện Lưu Bôi (1504), điện Thiên Quang
(1510, 1514), điện Kim Quang (các năm 1510, 1522), điện Quang Trị
(1513), điện Mục Thanh (1513), điện Phụng Tiên (1513), điện
Thuần Mỹ (1516), điện Quỳnh Văn (1520), điện Thụy Quang
(1522). Ngoài ra còn đề cập đến danh từ chung như: Hậu điện - điện sau
178
(1435), đình điện - sân điện (1441)...
Bên cạnh đó, có thông tin chỉ ghi “chính điện” Mạc Đăng Dung vào
thành Thăng Long ở tại Chính điện (1527), làm lễ chầu mừng (1573), thiết
triều (1586), ngự chính điện (1601)… Tuy rằng trong sử ghi Mạc
Đăng Doanh vào ngự Chính điện vào các năm 1527, 1573, 1586, 1601 không nói rõ
tên điện là gì nhưng có thể nghĩ rằng đó chính là điện Kính Thiên . Điện
Kính Thiên vẫn là một ngôi điện quan trọng - nơi thường diễn ra các hoạt động
quan trọng của triều đình Lê sơ và Lê Trung hưng từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII.
Bên cạnh điện Kính Thiên - chính điện thời Lê, sử liệu còn đề cập đến một số ngôi
47. Tuy nhiên,
điện nữa: Điện Cần Chánh bên cạnh điện Thánh Thọ
trên HĐBĐ đã không thể hiện sự hiện diện của ngôi điện này cùng nhiều
ngôi điện khác như đã đề cập đến ở trên, ít nhất là những ngôi điện được xây dựng
trước năm 1490 - (năm biên soạn HĐBĐ).
Cũng như trong chính sử ghi điện Kính Thiên thời Lê và thời Mạc là một
ngôi điện quan trọng thường diễn ra các cuộc thiết triều đồng thời cũng thường
xuyên được chọn là nơi diễn ra các kỳ thi Điện/ Đình thí do chính nhà vua tổ chức
coi thi và chấm thi. Tác giả luận án đã thống kê trên tổng số 82 văn bia tại Văn miếu
(Hà Nội) từ thời Lê Sơ (1442) đến khoa thi cuối cùng được dựng bia tại Văn Miếu
(1779) với 76 lần trong đó có 1 lần đề cập đến điện Hội Anh [287] thi năm
Đại Bảo thứ 3 (1442); Điện Tập Hiền (thi năm 1448) [288]. Năm ghi
chính xác các kỳ thi được tổ chức ghi chung chung “thi tại điện Kính Thiên”
47 Vua cho làm điện Thánh Thọ, lại cho làm hai điện Kính Thiên, Cần Chánh ở hai bên tả hữu
,
(...). Nếu hành văn như thế thì điện Vạn Thọ lại là một ngôi điện quan trọng còn hai
điện Kính Thiên và điện Cần Chánh được bố trí ở hai bên điện Thánh Thọ (!).
179
là các năm: 1463 (bia Văn Miếu số 3)[289] ; 1466, (bia số 4)[295]; [290]; 1475 (bia
số 5) [290]; 1478 (bia số 6) [291],, 1481 (bia số 7) [292]; 1487 (bia số 8) [296] ;
1502 (bia số 10) [297] ; 1511 (bia số 11)[199]; 1518 (bia số 12 [310] ; 1529 (bia số
13) [315],; 1604 (bia số 24) [319]. ; 1650 (bia số 32) [321]; 1652 (bia số 33)...với
khoảng hơn chục lần được đề cập. Các năm ghi “thi ở hiên điện Kính Thiên”
các khoa thi năm:1463 [289], 1478 [292], 1529 [299], 1640 [319]; Các năm
chỉ ghi chung chung như “Hiên điện” vào các năm: 1518 [298], 1565 [301],
1595 [307], 1631[317]… Riêng năm 1496 ngày 19 tháng 3, vua ngự điện Kính
Thiên ra bài văn sách rồi đến ngày 22 tháng 3, quan Hữu Ty sai người
“trúng cách” vào điện Kim Quang . Điện Kính Thiên cũng được sách
ĐVSKTT ghi về việc tổ chức thi Đình tại đây vào các năm 1466 [145; 409], 1469
[145; 336], 1474 [145; 465], 181 [145; 483]. 1490 [145; 508], 1496 [145; 515],
1499 [145; 16], 1602 [145; 212]. Ngoài ra, còn một số chi tiết khác chỉ ghi là: Điện
thí, Đình Thí… Như thế, thời Lê sơ và Lê Trung hưng, điện Kính Thiên, điện Hội
Anh, điện Kim Quang là những ngôi điện quan trọng, trong đó, nhiều năm điện
Kính Thiên được triều đình chọn làm nơi tổ chức thi Đình/Điện thí, trao cờ biển, mũ
áo cân đai, trao cành hoa bạc, ban cờ lệnh vinh quy … những đặc ân cao nhất, là
vinh dự tột đỉnh vinh quang của kẻ sĩ. Tuy nhiên, trên Hồng Đức bản đồ (1490) chỉ
thấy sự hiện diện của điện Kính Thiên cùng các điện khác như: điện Thị Triều
, điện Vạn Thọ , điện Chí Kính mà không thấy sự thể hiện của các
điện Hội Anh (đã từng đề cập đến tấm bia Khoa thi năm Đại Bảo 1442,
khắc bia năm 1484), [287] và điện Kim Quang (tổ chức vào khoa thi năm
1496, (bia số 9 tại Văn Miếu), [295]…Qua các nguồn sử liệu trong văn bia Văn
Miếu - Quốc Tử Giám cũng như ghi chép trong ĐVSKTT cho biết vào thời Lê Sơ
180
và Lê Trung hưng, số lượng các điện trong Cấm Thành Thăng Long rất lớn và bề
thế chứ không hẳn chỉ vẻn vẹn có khoảng gần chục điện như đã thể hiện trong
HĐBĐ.
3.4.4. Các “cung” thời Lê
Nếu như các điện thời Lê sơ và Lê Trung hưng thường được chính sử đề cập
thì các “cung” thời kỳ này ít được đề cập đến. Có thể nói, hai cung “Cảnh Linh”
và cung Bảo Quang là trường hợp ít ỏi được đề cập đến trong giai
đoạn này. Sử ghi năm 1446: “Xuống chiếu cho các quan văn võ phải trai giới đến
chùa Báo Ân ở cung Cảnh Linh làm lễ cầu mưa” [145; 362] và
năm 1449 lại một lần nữa làm lễ cầu mưa ở cung này: “Tháng 4 bị hạn. Vua thân
đến cung Cảnh Linh làm lễ cầu mưa” [145; 310]. Vậy hiểu “cung Cảnh Linh”
ở đây chính là “cung” dùng để cầu đảo, cung này nằm trong chùa Báo Ân
đồng thời cũng nằm trong Cấm thành Thăng Long.
Còn một cung nữa cũng được đề cập đến trong chính sử - đó là cung Bảo
Quang . Tuy nhiên, xét về mặt văn bản thì có sự không thống nhất trong tên
gọi. Cũng trong mục biên niên năm 1497, BK, QXIII, tờ 59a ghi: “ngày Nhâm Tý
(30), vua băng ở điện Bảo Quang ” trong khi đó cũng năm 1497, BK,
QXIII, tờ 80a ghi: “Vua ở ngôi 38 năm (...), tới giờ Thìn, ngày 30, tháng Giêng, vua
băng ở cung Bảo Quang ”. Theo chúng tôi, ở đây có sự nhầm lẫn giữa
“cung” và “điện”. Ở đây phải là điện - nơi vua từng ngự cho đến khi băng hà. Thời
Lê Sơ và Lê Trung hưng, ngoài cung Cảnh Linh có lẽ còn có nhiều cung
khác dành cho các cung nữ và Hoàng hậu , Hoàng Thái Hậu , Thái
Hoàng Thái Hậu nhưng chính sử không đề cập. Khảo cổ học đã từng phát
181
hiện trong khu vực Cấm Thành còn ghi trên nhiều hiện vật như bát, đĩa ngự dụng
còn ghi ở dưới đề dòng chữ “Trường Lạc cung” hoặc Trường lạc khố
vẫn được cho là cung này của bà Hoàng thái Hậu Nguyễn Thị Hằng - mẹ vua Lê
Thánh Tông. Cung Trường Lạc cũng được đề cập trên tấm bia Cổ tích linh
từ bi kí minh tịnh tự tại đền Kim Liên, quận Đống Đa (Hà
Nội),. Tấm bia này, được chép lại nguyên văn tấm bia cùng tên dưới chân núi Tử
Trầm (Chương Mỹ, Hà Nội) năm 1510 do nhà sử học Lê Tung, Tk XV (soạn) [40;
54 - 64 ]. Thực ra tên gọi Trường Lạc cung không chỉ là danh từ chung
dùng để gọi cho các cung quan trọng dành riêng cho Hoàng Thái Hậu Nguyễn Thị
Hằng mà nó còn dành cho các Hoàng Hậu, Hoàng Thái Hậu nói chung. Danh từ tên
gọi dành riêng cho Hoàng Hậu , Hoàng Thái Hậu mà là Trường Lạc
cung , Trường Lạc khố được dùng khá phổ biến từ thời Hán (Trung
Hoa)48.
Cũng như thời Lý và thời Trần, sang thời Lê Sơ vẫn còn duy trì nhiều “cung”
48 “Cung Trường Lạc ban đầu vốn là di chỉ của cung Hưng Lạc vào thời Chiêu Vương nhà Tần. Hán Cao đế năm thứ 5 (202 TCN), Hán Cao Đế Lưu Bang quyết định định đô ở đó và trên nền di chỉ của cung Hưng Lạc cho tu sửa cung Trường Lạc. Hán Cao đế năm thứ 7 (200 TCN), tháng 2 cung Trường Lạc chính thức được xây dựng, Hán Cao Đế cũng chuyển vào Trường An. Do đó cung Trường Lạc ở phía Đông của cung Vị Ưởng, dành cho Mẫu Hậu ở cung Trường Lạc ở cho đến cuối thời Tây Hán. Đến triều đại mới (thời Đông
đổi làm nhà Thường Lạc (Thường Lạc thất)
lấy cung Trường Lạc
Hán), Vương Mãng . Ban đầu nhà vua ở sau Trường An (tức là cư trú ở trong cung Trường Lạc). Ở được 3 năm (năm 25 CN),
đánh vào Trường An, đốt hủy cung Trường Lạc. Về sau này, cung Trường quân Xích My (Mày đỏ) Lạc không được sách vở ghi chép nữa. Sau khi nước Công Hòa Nhân Dân Trung Hoa được thành lập (1949) thì đến năm 1961, cung Trường Lạc là một bộ phận của di chỉ Trường An trở thành một di tích trọng điểm của Quốc gia. Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, di chỉ Trường An đã tiến hành 6 lần khai quật lớn vào các năm 2002- 2003 khai quật di chỉ kiến trúc số 2; 2003 - 2004 khai quật di chỉ số 4; tháng 10/2004 đến tháng 12/20104 khai quật di chỉ số 5; tháng 11 năm 2005 đến tháng 1/2006 khai quật di chỉ số 6. Diện tích khai quật lên đến hàng vạn mét vuông. Các hiện vật tìm thấy trong quá trình khai quật gồm: Tiền Ngũ Thù, đồ sắt, đồ đồng, đồ gốm, nhiều hóa tệ, tranh lụa đã bị tàn khuyết và nhiều hiện vật quý khác”. (Tham khảo: Lưu
Khánh Trụ, Lý Phồn Phương (2003): Hán Trường An thành, Bắc Kinh, Văn vật xuất bản xã:
,
(2003),
,
,
.
182
để dành cho các cung nữ ở. Chắc chắn trong các cung ( ) còn có nhiều phòng ( ).
Đến năm 1498 (sau khu vua Lê Thánh Tông băng hà được 1 năm) thì mới có lệnh
sa thải cung nữ với số lượng lớn. ĐVSKTT ghi: “Năm 1498, tháng 3, thải vài trăm
cung nữ” [145; 525]. Sau khi sa thải hàng trăm cung nữ xong thì những tòa nhà
trước đây dành cho các cung nữ ở được sử dụng vào công việc gì, nó có được cải
tạo hay phá giỡ hay không, cảnh quan trong “cung” khi đó có thay đổi hay không
thì không có tài liệu nào nói đến.
3.4.5. “Cửa” trong Hoàng Thành Thăng Long thời Lê
Các hạng mục khác ngoài cung, điện trong Cấm Thành Thăng Long còn có
Đông Tràng An, Tây Tràng An, sách Đại Việt địa dư toàn biên, , Q2,
mục Thành Thăng Long của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu viết:
“Bên hữu Đoan Môn là Tây Trường An, bên tả là Đông Trường An” (
). Cũng như thời Lý và thời Trần, trong Hoàng Thành và Cấm
Thành Thăng Long còn có nhiều “cửa”. Các “cửa” này nối giữa các công trình trong
cung cấm tạo một thế liên hoàn với nhau. Tuy nhiên, phần nhiều trong sử liệu chính
sử chỉ ghi chung chung các sự kiện lịch sử rời rạc có liên quan đến các cửa này.
Quan sát trên HĐBĐ hiển thị các cửa: Đông Môn - phía Đông nơi đi vào khu
vực Thái Miếu và Đông Cung ; Khu vực phía Tây có Tây môn
(phía sau điện Chí Kính cũng là điểm cuối cùng của khu vực Cấm Thành
- Cung Thành ).
Nếu đi từ phía Nam tới thì ở vị trí Hoàng Thành đầu tiên chếch về phía Đông
Nam sẽ bắt gặp cửa Đông Hoa (nơi thường yết bảng thông tin các vấn đề
thời sự của triều đình và những người đỗ đạt). ĐVSKTT ghi sự kiện năm 1481:
“Tiến sĩ Phạm Đon Lễ vào sân Đan Trì, vua ngự điện Kính Thiên (…), bộ Lễ bưng
bảng vàng, nổi nhạc trống, rước ra ngoài Cửa Đông Hoa, treo lên” [145; 484]. Năm
183
1490, ĐVSKTT cũng ghi tương tự: “Lễ bộ đem bảng vàng treo ở Cửa Đông Hoa”
[145; 508]; Năm 1493 [145; 512]; 1499 [145; 16]. Trực diện chính hướng Nam gần
cửa Đông Hoa cũng là cửa Đại Hưng (cửa chính của Hoàng thành Thăng
Long), đi thắng vào trong qua một quảng trường (có thể là hồ nước có nước lưu
chảy thường xuyên (nên có tên là Lưu Bôi ) rồi đến cửa Đoan Môn (cổng
Chính Nam của Cấm thành Thăng Long), rồi tiếp nữa là đến sân Đan Trì đến
các điện Thị Triều (nơi các quan vào chầu), điện Kính Thiên (nơi
vua thiết triều), điện Chí Kính (nơi vua làm các nghi lễ của triều đình), điện
Vạn Thọ (nơi vua và Thượng hoàng nghỉ ngơi) ... Giữa các khu vực thiết triều
và khu nghỉ ngơi, tẩm điện chắc hẳn còn có nhiều cửa, có lính canh gác được canh
phòng cẩn mật...
Thống kê trong chính sử có đề cập đến hàng chục cửa vào các năm như: Cửa
Thừa Thiên (1434), cửa An Định , cửa Đông An (1450), cửa
Sùng Vũ (1460); cửa Đông Hoa (đề cập các năm 1463, 1465, 1481,
1490, 1493, 1499); cửa Đoan Môn (1472); Cửa Đông Trường An
(1497); cửa Cảnh Môn (1497); cửa Đại Hưng (1497). Ngoài ra vào
năm 1592 khi vua triều đình nhà Mạc phải chống cự với thế lực quân Trịnh “Trịnh
Tùng đánh vào... Mạc Mậu Hợp bỏ Thăng Long vượt sông Hồng đến Bồ Đề ở quán
Thổ Khối, để lại các đại tướng chia giữ các cửa trong thành [145; 171]. Trong các
cửa trên, nhiều cửa lần đầu được nhắc đến và cũng không xác định được vị trí
nhưng cũng có cửa có tên gọi rất quen thuộc được đề cập đến từ thời Lý - Trần như
các cửa: Đoan Môn .
3.4.6. Các công trình kiến trúc, xây dựng trước sự tàn phá của chiến tranh
184
và thiên tai
Các công trình trước sự xâm lược của quân Minh (1407 - 1427)
Ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi niên hiệu Tuyên Đức thứ 2 (1427), sách
ĐVSKTT (Q10) viết: Quan quân vây Thành gấp, quân Minh nhiều lần đánh đều
thua. Bọn đi kiếm củi chăn ngựa đều bị ta bắt.
Lầu trống trong Phủ thành đến thời Lê vẫn còn duy trì. Nhưng đến thời Minh
thuộc, Trương Phụ lại dựng đặt Ty Bố Chánh ở phía Nam ở thềm phía Đông của Cổ
lâu (Lầu trống). Sách An Nam chí nguyên , Q2, phần Quân vệ ,
“Giao Chỉ Đô Chỉ huy sứ ty” viết như sau: (Ty này) ở phía Bắc
Cổ lâu (lầu trống) thềm Tây (Tây nhai) của Phủ thành, nguyên là Nha
môn Giao Chỉ Bố chánh ty … Đến Vĩnh Lạc năm thứ 13,
tháng 11, quan Tổng binh Anh Quốc công Trương Phụ lại xây Bố Chánh ty ở
phía Nam ở thềm phía Đông của Lầu Trống (cổ lâu), còn bản ty hiện tại đổi làm Đô ty49.
Sách ANCN. Q2, phần Giải xá, mục: “Giao Chỉ đẳng xứ Đề hình Án sát ty”
ghi: Ty này ở phía Bắc lầu Trống thềm Tây (Cổ lâu tây nhai) trong Phủ thành Giao Chỉ50. Trong các bộ sử cũ, cấu trúc của HTTL giai đoạn thuộc Minh hầu như rất ít
đề cập. Sách NACN chỉ đề cập đến vài dòng ngắn ngủi về cách bài trí Lầu Trống (cổ
lâu) bên thềm Tây của Cấm Thành cùng với Đô Chỉ huy sứ ty và Bố Chánh Ty
được bố trí ở bên phía Nam của Cấm thành. Cách bài trí Lầu Trống như thế, có thể
hình dung giống với cách bài trí Lầu Trống thời Lý và thời Trần. Còn các công trình
khác vào thời điểm này được xây dựng và bài trí như thế nào, theo chúng tôi, hiện
nay chưa có nguồn sử liệu chứng minh.
49 ANCN :
.
.
50 ANCN, Q2:
.
185
Các công trình trong cuộc chiến tranh với thế lực quân Trịnh - Mạc
Trong các Tk XVI, XVII, Hoàng thành Thăng Long có thời điểm là nơi giao
tranh giữa các tập đoàn phong kiến Mạc - Trịnh. Cấm thành trở nên tiêu điều, xuống
cấp, vua cùng triều đình nhiều khi phải ra ngoài lánh nạn. Khoảng năm 1522, điện
Thụy Quang có vi trí quan trọng - điện này thường được vua chọn để thiết
triều. Tuy nhiên, chỉ được một thời gian ngắn, Cấm thành bị tấn công, vua phải lánh
nạn ở khu vực xã Nhân Mục và Đại Mỗ (Từ Liêm). ĐVSKTT chép: “Bọn Hưng
Hiền bốn người mang mộc, cầm giáo từ phường Phục Cổ đánh thẳng vào
điện Thụy Quang . Lúc ấy Quang Thiệu Đế đang coi chầu, (vua phải lánh
nạn khoảng 1 tháng), đến 20 tháng 9 vua trở lại Kinh thành, đóng ở phía Tây của
Kinh thành (xã Yên Quyết Thượng, huyện Từ Liêm) làm hành điện để coi chầu,
dựng nhà Thái Miếu ở phía Đông thành” [145; 100].
Năm 1588, nhà Mạc cho quân đắp thêm ba lớp lũy thành Đại La bao lấy La
Thành để bảo vệ Kinh Thành Thăng Long trước sự đánh chiếm của quân Trịnh:
“Mậu Tý, (Quang Hưng) năm thứ 11 (1588). Tháng 2, họ Mạc thấy quan quân mỗi
ngày một mạnh, liền bàn định kế đánh giữ. Hạ lệnh cho quân dân các huyện trong
bốn trấn đắp thêm ba lớp lũy ngoài thành Đại La ở Thăng Long, bắt đầu từ phường
Nhật Chiêu vượt qua Hồ Tây, qua Cầu Dừa , đến Cầu Dền suốt
đến Thanh Trì giáp phía Tây Bắc sông Nhị Hà, cao hơn thành Thăng Long
đến vài trượng, rộng 25 trượng, đào 3 lớp hào, đều trồng tre, dài đến mấy mươi dặm
để bọc lấy phía ngoài thành [145; 164].
4.7.7. Khu vực phía Tây Hoàng Thành
Khu vực núi Khán Sơn
Khu vực núi Khán Sơn thuộc phía Tây được xem là nơi có nhiều di tích cổ.
Bia Tạo thạch thần từ niên hiệu Vĩnh Tộ 3 (1621) tại đền Voi Phục có
186
câu: (Thụy Chương Phượng Thành chi Tây ) - Phường Thụy
Chương ở phía Tây của Phượng Thành. Phường Thụy Chương thời Lê sau đổi
thành phường Thụy Khuê, khu vực này vào thời Lý có nhiều di tích quan trọng như:
Đền Đồng Cổ có Hội Thề Đồng Cổ, gần đó cũng là quê hương của Lý Thường Kiệt.
Còn tên gọi khác là “Khán Sơn” lại bắt nguồn từ vị trí của núi được hoàng đế triều
Lê sử dụng núi này vào việc xem duyệt binh hay xem đấu voi ở khu vực Giảng Võ
nên đã thành tên gọi. Tấm bia niên hiệu Vĩnh Tộ 4 (1622) tại chùa Chúc Thánh (số
7, ngõ 370 đường Thụy Khuê) có đoạn mô tả vị trí của chùa như sau: “Hồ thủy
trừng thanh thiên sắc nhất; Phượng Thành cao trĩ nhật luân đê” ;
(Nước hồ trong xanh cùng với da trời một màu; Thành Phượng
cao ngất tưởng vầng nhật còn thấp).
Cũng ở phía Tây của HTTL còn có chùa Thanh Ninh (chùa Am Cây
Đề, số 2 Lê Trực) - một di tích có từ thời Lê Trung hưng, hiện còn tấm bia Trùng tu
hưng công bi kí , niên đại Gia Long 7 (1808) có đoạn:
…
(Thành Thăng Long là Kinh đô cổ của các triều đại từ xưa đến nay (…)
ngoài hành lang dọc theo cửa Tây của thành có xóm Thanh Ninh, trong xóm có
dòng nước ngọt, đất tốt, chùa Thanh Ninh ở đó. Đầu đời Cảnh Hưng (1740 - 1786),
ông Họ Trịnh người Bắc Giang dựng am ở đây”.
Am Cây Đề này là một bộ phận nhỏ ở phía Tây của Thành Thăng Long và
mới xuất hiện từ đầu thế kỷ XVIII dưới thời Lê Cảnh Hưng. Trước đó, thế kỷ XV
dưới thời Lê Thánh Tông, Trịnh Công Lộ phụ trách Ngũ Quân xây dựng Hoàng
Thành. Sách ĐVSKTT viết: “Năm 1467, tháng 11, triều Lê] sai Đông Quân quyền
Hữu Đô Đốc Trịnh Công Lộ đốc thúc Ngũ Phủ xây Hoàng Thành, vì Hoàng thành
[cho đến trước thời điểm 1467] thấp và đơn sơ. Nhiều tư liệu lịch sử đã viết, năm
1467, trong khu vực Cấm thành (Cung thành) Thăng Long cũng được xây dựng
187
nhiều hạng mục công trình trong đó có xây dựng lan can bằng đá và đôi rồng đá
thềm điện Kính Thiên, sách ĐVSKTT viết: “Ngày 15 tháng 12, dựng lan can bằng
đá ở điện Kính Thiên và xây điện nhỏ ở sân Giảng Võ” [145; 426 ]. Nhưng công
việc kiến thiết cung thành đang tiến hành dang dở thì dừng lại vì có nhiều tờ tâu lên,
nói là mất mùa, giá gạo cao vọt nên hoãn lại [145; 432].
Bia Kim Sơn tự đàn bi kí , niên đại Thành Thái 16 (1904) tại
chùa Kim Sơn (223 Kim Mã) mở đầu như sau: Long thành tây giao, Kim Mã
nguyên cổ chi tùng táng xứ dã, trung hữu thảo am tự vạn linh
(Ngoại ô phía Tây của Long Thành, Kim Mã xưa vốn là
nơi hợp táng, giữa có am cỏ thờ hàng vạn linh hồn).
Như thế, có thể thấy, trải qua thời gian dài với bao biến động lịch sử, đến
thời Lê sơ khu vực phía Tây triều đình dành cho các hoạt động võ nghệ và duyệt
binh. Đến cuối thời Lê trung hưng, nơi đây có thời điểm để hoang vu, cỏ mọc,
người dân có khi đem mồ mả đến chôn, có khi còn dựng tòa miếu lợp gianh để thờ
tạm.
Khu vực Giảng Võ
Đại Việt địa dư toàn biên, mục Thành Thăng Long ( ,
) ghi: Bên tây (cung thành) qua núi Khán Sơn là điện Giảng Võ
.
Sách ANCN, quân vệ (mục Diễn Võ/Vũ xứ) cho biết: “Diễn Võ/Vũ Xứ ở gần
thành Giao Chỉ, phía Tây Nam huyện Đông Quan. Chu vi độ 12 dặm, bên trong có
tượng đài… phía Tây kề sát vào góc Đông Nam phủ thành, phía Tây kề sát vào góc
Tây Nam phủ thành … Lại xây bức tường, mở bốn cửa Đông, Tây, Nam, Bắc, quen
gọi là Ngoại Doanh.
Khu vực Hồ Giảng Võ và kho chứa: ĐVSKTT, tháng 10 năm Hồng Đức thứ
188
12 (1481) ghi:
Đào hồ Hải Trì; Hồ này quanh co có đến 100 dặm. Giữa hồ có điện Thúy
Ngọc, bên hồ xây điện Giảng Võ để tập luyện binh tượng [116; 485].
Khu vực phía Tây Hoàng thành Thăng Long đã được triển khai vào thời Trần
với khu vực luyện tập quân sự đặc biệt là khu vực Giảng Võ đường. Nhưng dường
như đến khu vực này không được thường xuyên tu sửa và quan tâm đặc biệt là thời
gian chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến Lê - Mạc, Trịnh - Mạc. Qua các
nguồn sử liệu đương thời, chúng ta ít biết về việc thiết kế, xây dựng khu vực phía
Đông của Cấm thành Thăng Long. Sau thời Trần, thế kỷ XV dưới thời Lê Sơ và Lê
Trung hưng (Tk XVII, XVIII) lại được tiếp tục sử dụng làm nơi luyện tập võ nghệ
và tổ chức những trận đấu voi hoặc thi đấu quân sự của triều đình. Nhìn rộng ra
hơn ở khu vực tiếp giáp giữ khu vực phía trong phía Tây Hoàng thành với khu vực
phía Tây bên ngoài Hoàng Thành (khoảng chùa Một Cột và chùa Kim Sơn), cuối Tk
XVIII, đầu Tk XIX trở thành hoang phế, thậm chí một bộ phận trở thành nơi chôn
cất mộ phần của người dân Thăng Long.
Tiểu kết
Có thể nói rằng, qua các nguồn sử liệu thư tịch, qua chính sử và phần nào
qua các tư liệu khảo cổ học cho biết, HTTL thời Lý là một khu vực có nhiều công
trình bề thế. Trong Cấm Thành Thăng Long được xây dựng hàng trăm cung, điện,
lầu, gác với nhiều công trình kiến trúc mang chức năng, đặc điểm riêng: Có công
trình phục vụ triều đình, quốc gia như như các điện chính để thiết triều, sân Long
Trì để tổ chức các lễ hội và những sự kiện lớn của vương triều, có sự tham gia của
các quan và dân chúng; có các cung để dành cho vua, Thượng hoàng, hoàng thân
quốc thích, cung nữ ở với nhiều hạng mục công trình liên hoàn giữa sân, vườn, hồ,
ao tạo thành một cảnh quan chỉnh thể, đẹp đẽ dành cho việc thưởng ngoạn và phục
vụ đời sống. Bên cạnh đó, những công trình phục vụ đời sống tinh thần và tín
ngưỡng tâm linh cũng được triều đình xây dựng trong Cấm Thành và Hoàng Thành
như một số chùa, các quán đạo giáo, miếu thờ Khổng Tử, các đàn tế, đài tế … cũng
được xây dựng đầy đủ và hoàn thiện. Để phục vụ cho những sinh hoạt đời sống dân
189
sinh, nhiều cây cầu được bắc qua các con sông Tô Lịch, Kim Ngưu cũng tôn thêm
cho Kinh Thành Thăng Long phong cảnh hữu tình, hệ thống hồ ao được thiết kế
phục vụ việc thoát nước vào mùa mưa và đồng thời tạo cho khí hậu, cảnh quan hài
hòa.
Bên cạnh hệ thống thành quách, cung điện cũng phải kể đến hệ thống
phường, chợ. Thăng Long thời Lý được chia làm hai khu vực chính: Khu vực phía
Đông Kinh Thành và khu vực phía Tây Kinh Thành. Phía Đông gồm các chợ Đông
và phía Tây có chợ Tây (Tây Giai) với nhiều mặt hàng cung cấp phục vụ đời sống
hằng ngày cho đời sống của người dân… Thăng Long đã bị tàn phá nhiều lần qua
các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến, tàn phá bởi giặc ngoại xâm đã
một đi không trở lại nhưng qua các tư liệu sử sách và các nguồn sử liệu khác cho
thấy Thăng Long thời Lý là một kinh đô bề thế, diễm lệ và sang trọng.
Thống kê qua các tài liệu chính sử trong lịch sử 216 năm vương triều Lý đã
xây dựng được hàng trăm cung, điện, lầu, gác.
Các nguồn sử liệu chữ viết đã phản ánh về hệ thống các công trình liên quan
đến các hoạt động mang tính cung đình của nhà Lý như: Các đài, đàn, hành cung
…Tuy nhiên, những hạng mục công trình này không phải là đối tượng nghiên cứu
chính mà chỉ là những nghiên cứu bổ trợ nhằm làm rõ hơn về các hoạt động liên
quan đến những công trình bên trong Hoàng Thành và Cấm Thành. Hay nói cách
khác, qua các sử liệu phản ánh về những công trình bên ngoài Hoàng Thành Thăng
Long nhưng có liên quan nó đã phản ánh đầy đủ về vai trò và không gian quyền lực
của vương triều.
Những sinh hoạt văn hóa tinh thần trong Hoàng Thành và Cấm Thành trong
một chừng mực nhất định cũng được chúng tôi đề cập trong quy mô kiến trúc
đương thời. Đó là những lễ hội mang tính chất cung đình và những lễ hội dân gian
được diễn ra trong Hoàng Thành và Cấm Thành Thăng Long thời Lý. Qua các tư
liệu lịch sử cũng đã cho thấy, sự phát triển về quản lý xã hội, sự phân tầng, phân cấp
và trong xã hội được quy định rõ trong thời Lý như thế nào qua những quy định về
190
lính gác và những quy định về trang phục và đồ dùng, nhà ở… Từ nhiều góc nhìn
riêng rẽ đó, có thể góp phần nhận diện một không gian Hoàng thành và Cấm Thành
Thăng Long với nhiều sắc thái sinh động và cụ thể.
Có thể nói rằng, với tầm nhìn chiến lược, vương triều Lý với quá trình xây
dựng, thiết kế kinh đô Thăng Long quy mô bề thế, với nhiều lần xây dựng trùng tu
hàng trăm công trình: Cung, điện, lầu, gác, cửa với nhiều hạng mục công trình dành
cho hoàng tộc (vua, Thái Thượng Hoàng, Hoàng Thái Hậu, công chúa) cùng với các
tầng lớp quý tộc, cung nữ, Tăng đạo, cung nữ Chiêm Thành... đã tạo cho Hoàng
thành Thăng Long một quy mô bề thế.
Trong Cấm Thành Thăng Long thời Lý bên cạnh các công trình mang tính
chất chức năng cung đình còn có nhiều hạng mục công trình mang tính phục vụ cho
những hoạt động của triều đình như: Các công trình phục vụ đời sống văn hóa tín
ngưỡng: Đàn tế, đền, chùa, Đạo quán... còn có các công trình phụ trợ như: Kho
tàng, hành cung... phục vụ cho các hoạt động của triều đình.
Hoàng Thành Thăng Long thời Lý còn đào nhiều hồ, ao, xây dựng nhiều cây
cầu với các khu vườn thượng uyển vừa phục vụ cho nhu cầu giải trí, thư giãn đồng
thời vừa tạo cho cảnh quan hài hòa, sinh thái mát mẻ, nên thơ. Đây cũng là một đặc
trưng nổi bật của Kinh Thành phương Đông cổ truyền.
Do nằm trong khu vực có nhiều sông hồ, đặc biệt là bên cạnh sông Hồng -
nơi có chế độ nước dâng cao theo mùa đặc biệt là vào mùa mưa nên Thăng Long
thời Lý thường xuyên xảy ra các sự kiện thiên tai. Bên cạnh đó, những sự cố hỏa
họa cũng là một trong những nguyên nhân khiến cho Hoàng thành nó chung và
Kinh thành nói riêng chịu nhiều thiệt hại và phải trải qua nhiều lần xây dựng, trùng
tu.
Quy mô cấu trúc Hoàng Thành Thăng Long thời Trần tuy không được đề cập
nhiều như triều Lý qua các sự kiện xây dựng cung, điện, lầu, gác… nhưng qua việc
phản ánh gián tiếp về những sự kiện hoàng đế, Thái Thượng hoàng, Thượng hoàng
làm việc, ngự hay băng hà ở điện nào đã cho thấy dưới triều Trần, các cung điện
cũng rất quy mô và bề thế. Nhiều công trình đã được xây dựng, kế thừa từ cơ sở vật
191
chất có từ triều Lý nhưng đã được sửa chữa, trùng tu. Đặc biệt, dưới triều Trần, các
khu vực cung Quan Triều, cung Thánh Từ, Đông cung Thái tử có vị trí khá quan
trọng và đó cũng là một đặc điểm nổi bật so với kiến trúc cung đình thời Lý trước
đó và triều Lê sau này. Các cung này như tên gọi của nó cho biết, được bố trí ở phía
Bắc và phía Đông của chính điện Thiên An - Kính Thiên. Vào giai đoạn nửa cuối
thời Trần trở đi, cung thất bị tàn phá nặng nề do giặc Nguyên - Mông và do chiến
tranh giữa các thế lực phong kiến đầu Tk XIII gây nên. Đây là giai đoạn Hoàng
thành Thăng Long bị tàn phá nặng nề nhất kể từ khi Lý Công Uẩn định đô cho đến
thời điểm đó.
Quy mô, cấu trúc Hoàng Thành Thăng Long thời Lê trên cơ bản đã tuân thủ
theo quy mô cấu trúc Hoàng Thành Thăng Long thời Trần nhưng đã được tu sửa
thêm. Trong khoảng thời gian trị vì của vua Lê, các cung, điện, lầu, gác trong
Hoàng cung liên tục được tu sửa và xây dựng. Với số lượng hơn 30 cung và điện đã
cho thấy, Quy mô Hoàng Thành Thăng Long thời Lê (Tk XV) khá bề thế. Tên của
một số cung điện đầu thời Lê vẫn mang tên gọi thời Trần. Chứng tỏ nó vẫn được sử
dụng hoặc có sửa chữa, tu bổ thêm.
Việc xây dựng và củng cố tường thành để bảo vệ Cấm Thành Thăng Long
xuất phát từ chính thực tiễn đặt ra đặc biệt là sau sự kiệt vua Lê Nhân Tông bị sát
hại. Tiếp sau đó, dưới triều vua Lê Thánh Tông, kinh tế, xã hội phát triển, đời sống
vật chất và tinh thần ổn định, văn hóa cung đình được điển chế hóa, quy củ hơn, do
đó Hoàng thành Thăng Long cũng được quy hoạch xây dựng bề thế với tường rào,
khu vực phía trước của khu vực Cấm Thành, các cửa đợi vào chầu được xây các
“trạm” kiên cố để tránh mưa, tránh nắng mỗi khi vào thiết triều. Khu vực cổng
Đoan Môn và khu vực sân Long Trì cũng được thiết kế khá rộng dùng để thiết triều
hay tổ chức các kỳ Đình thí, Điện thí. Qua các nguồn sử liệu đặc biệt là HĐBĐ cho
thấy, Hoàng thành Thăng Long thời Lê Sơ có quy mô rõ nhất. Tuy nhiên, các nguồn
sử liệu chữ viết đề cập đến số lượng các điện rất lớn nhưng trong HĐBĐ chỉ thể
hiện vài cung điện. Điều đó cho thấy, với tư liệu bản đồ như thế, chỉ có ý nghĩa
tượng trương phác họa chứ không phải là toàn bộ Cấm Thành Thăng Long thời Lê
192
trên thực tế.
Các nguồn sử liệu của HTTL thời Lê rất phong phú và đa dạng. So với các
triều đại Lý - Trần, đây là giai đoạn còn giữ lại nhiều nhất các nguồn sử liệu về
HTTL qua các sử liệu chữ viết, bản đồ, sử liệu vật thực, văn bia và tư liệu hiện còn
trong dân gian. Các nguồn sử liệu này hiện vẫn tồn tại, hiện hữu trong các kho lưu
trữ, trong thư viện, tại các di tích… đã minh chứng một HTTL một thời vàng son
rực rỡ với quy mô bề thế. Vai trò và tính chất Hoàng cung của HTTL bị suy giảm
trong các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh; Trịnh Mạc và
nó cũng bị phân chia quyền lực trong xã hội giai đoạn Chúa Trịnh chuyên quyền
(bên cạnh Cung của vua Lê còn có Phủ Chúa) của xã hội Việt Nam với tính chất
“Lưỡng đầu chế” của thế kỷ XVII, XVIII. Hoàng Thành Thăng Long thực sự chấm
193
dứt vai trò của mình khi nhà Nguyễn lên ngôi chọn Huế làm thủ phủ.
KẾT LUẬN
1. Sử liệu Hoàng Thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê có số lượng rất
phong phú và đa dạng. Có thể nói rằng, khó có một di tích nào ở Việt Nam lại có
nguồn sử liệu phong phú như thế. Được hình thành và phát triển trên một vùng đất
lịch sử do các vương triều phong kiến lựa chọn làm làm kinh đô suốt gần 800 năm
tính từ sự kiện Lý Công Uẩn quyết định chuyển đô từ Hoa Lư ra Đại La, rồi trải qua
các triều đại Trần, Lê Sơ, Mạc và Lê Trung hưng. Nếu tính gộp cả thời kỳ Bắc
thuộc (giai đoạn thuộc Đường), Hoàng Thành Thăng Long từng được chọn làm An
Nam Đô Hộ Phủ cho đến hiện nay, HTTL đã có có lịch sử hơn 1.300 năm. Trong
suốt hơn 1000 năm đó, HTTL đã bao lần đổi thay, xây dựng, với biết bao thăng
trầm của nhiều triều đại. Như thế, sản phẩm lịch sử, các giá trị văn hóa, tinh thần mà
con người để lại trên mảnh đất Thăng Long rất lớn với nhiều di sản vô thể và hữu
thể. Nhiều sản phẩm do các thế hệ con người từng sinh sống, lao động trên khu vực
HTTL nói riêng và trên Kinh đô Thăng Long nói chung đã để lại nhiều tư liệu quý
được coi là những nguồn sử liệu vô cùng giá trị cho việc nghiên cứu HTTL của các
triều đại Lý - Trần - Lê.
2. Đặc điểm của các nguồn sử liệu của HTTL rất phong phú và đa dạng,
chung quy lại nó bao gồm bốn nguồn sử liệu chính: Sử liệu chữ viết, sử liệu vật
thực, sử liệu bản đồ và sử liệu sưu tầm trong dân gian. Các nguồn sử liệu này vốn
được hình thành trong mỗi điều kiện lịch sử khác nhau và tồn tại độc lập, khách
quan với nhau. Trong đó, có những thông tin gián tiếp, có những thông tin trực tiếp
về HTTL. Các nguồn sử liệu này đều có những ưu điểm và những hạn chế nhất định
nhưng nếu biết triệt để khai thác và đặt ở vị trí cạnh nhau nhằm so sánh, đối chiếu
lẫn nhau sẽ có nhiều tác dụng trong việc nhận thức thực tại khách quan (ở đây là
trong nhận thức về quy mô và cấu trúc của Hoàng Thành Thăng Long). Đối với việc
nhận thức về quy mô và cấu trúc của HTTL nếu chỉ đọc những mô tả qua sử kí thì
rất dễ dẫn đến những nhận thức mơ hồ, những miêu tả trừu tượng. Ngược lại, nếu
biết kết hợp những miêu tả ấy với những tấm bản đồ cổ thời Lê, thời Nguyễn, thêm
194
vào đó lại được thể nghiệm những sử liệu ấy với những sơ đồ, bản vẽ khảo cổ học,
những địa tầng văn hóa, những lớp di chỉ khảo cổ học. Như thế, những nhận định về
quy mô và cấu trúc của HTTL sẽ được nhận thức một cách đa chiều, các ý kiến
phản biện lẫn nhau, tìm ra sự gặp gỡ hợp lý của nhiều bằng chứng trùng hợp mà
chúng ta có thể gọi bằng khái niệm “độ tụ” của tư liệu. “Độ tụ” của tư liệu càng
nhiều, càng phong thú thì chứng minh ấy càng có sức thuyết phục.
3. Quy mô và cấu trúc của HTTL càng phức tạp bao nhiêu, bề thế bao nhiêu
thì nó phản ánh trình độ xây dựng, trình độ thiết kế của thời đại đồng thời thể hiện
sự trưởng thành về mặt tổ chức nhà nước của vương triều đó. Nơi đây, không chỉ là
nơi sinh hoạt, làm việc của hoàng tộc, của vua, của các vị quan đại thần và bộ phận
phục vụ triều đình mà còn là nơi ban bố các quyết sách quan trọng của quốc gia,
dân tộc. Những tư liệu - sản phẩm vật chất và tinh thần của các triều đại để lại được
phản ánh phần nào qua các di tích, di vật khảo cổ, trong các tư liệu, thư tịch cổ, văn
bia, … Nhiều tư liệu này có sự kế thừa, truyền bản, sao chép lẫn nhau do đó không
tránh khỏi những dị bản hoặc những lầm lẫn về mặt văn bản. Hoặc có nhiều sử liệu
mang đặc điểm, dấu ấn của thời trung đại đặc biệt là những tư liệu Hán Nôm và bản
đồ cổ như: Tên các chức quan, các danh từ riêng, tên các địa danh làng xã hay công
trình xây dựng… Hoặc các bản đồ thời Lê được vẽ hết sức ước lệ, không có tỷ lệ
nhất định, không thể hiện hết đầy đủ tên các cung, điện, lầu, gác nên đã phần nào
hạn chế khả năng khai thác và phản ánh sự thật lịch sử.
4. Hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê có quy mô tương đối bề thế.
HTTL đã trải qua nhiều lần xây dựng lớn vào các năm 1010, 1029 - 1030, 1058,
1203... với quy mô hàng trăm công trình với nhiều hạng mục khác nhau như công
trình phục vụ cho thiết triều, các công trình phục vụ đời sống văn hóa tâm linh, các
công trình khác như kho, đài, trạm, vườn, cầu, ao, cửa... Với mỗi một loại hình công
trình cũng thường được thực hiện các chức năng riêng: Có những điện chỉ để riêng
cho việc coi chầu, điện dành riềng cho việc nghe chính sự, điện để nghỉ ngơi sau khi
khi thiết triều. Các “cung” thời Lý và thời Trần cũng được phân ra nhiều loại riêng
dành cho từng đối tượng. Cung dành cho các Thái Tử, cung dành cho các cung nữ
195
của triều đình, cung dành cho các Đạo sĩ, cung dành cho các cung nữ Chiêm
Thành… Đặc biệt, với tư cách là “Cố vấn” cho hoàng đế đương tại vị, Thái Thượng
Hoàng thời Trần được xây dựng ở một khu vực riêng được gọi là “Bắc Cung” hay
“Cung Thánh Từ”. Cung Thánh Từ là một cụm công trình bao gồm nhiều cung khác
nhau dành cho Thượng Hoàng và Thái Thượng Hoàng. Các cung này được thiết kế
ở khu vực có nhiều vườn cây hoặc ao, hồ gần với các chùa trong Cấm Thành Thăng
Long được các nhà nghiên cứu xác định nằm ở phía Bắc của Cấm Thành Thăng
Long đối xứng với cung Quan Triều thuộc khu vực sau, phía Tây của Cấm thành
Thăng Long. Đặc điểm của các công trình thuộc về phía sau điện Càn Nguyên (thời
Lý), Thiên An (thời Trần), và Kính Thiên (thời Lê) được thiết kế hài hòa với cảnh
quan môi trường với nhiều cầu, ao, vườn tạo cho cảnh đẹp thêm thơ mộng và mang
đặc trưng của các cung điện phương Đông cổ truyền.
5. Nhiều công trình xây dựng trong Hoàng Thành Thăng Long thời Lý,
Trần, Lê có sự kế thừa lẫn nhau trên nhiều phương diện: về mặt sơ đồ thiết kế, về ý
tưởng thiết kế, cách đặt tên gọi, hoặc tận dụng về mặt vật liệu xây dựng. Tuy nhiên,
mỗi sản phẩm thời đại lại có những đặc trưng riêng, mang một phong cách riêng.
Về quy mô và loại hình các cung điện trong Hoàng Thành Thăng Long của các triều
đại Lý - Trần - Lê cũng có sự khác nhau giữa các thời kỳ. Thời Lý - Trần, các
“cung”, “điện” dành cho các đối tượng khác ngoài hoàng tộc nhiều hơn còn đến thời
Lê sơ trở đi, trong Hoàng cung chỉ dành cho hoàng tộc và hoàng đế. Cũng tương tự
như thế, với triều Lý - Trần, một triều đại coi trọng Tam giáo, nên trong khu vực
Cấm thành Thăng Long không chỉ dành riêng những “điện”, “Đông Cung Thái Tử”
để dạy vua khi còn tiềm để, mà còn được bố trí nhiều chùa chiền của Phật giáo và
Quán đạo của Đạo giáo…
6. Hoàng thành Thăng Long thời Lê đã kế thừa và tuân theo quy mô Hoàng
Thành Thăng Long thời Trần nhưng đã được thiết kế thêm bộ phận phía trước của
Hoàng Thành, thiết kế thêm một số cung điện trong Cấm Thành và có tu sửa lại khu
vực phía Tây của Hoàng Thành Thăng Long.
Phía mặt trước, phía Nam của Hoàng Thành, thời Lê được thiết kế thêm một
196
số hạng mục công trình như nhà đợi trước khi vào chầu, lầu xem giờ, dòng sông
nhân tạo phía trước để tạo cho cảnh quan thêm phong thủy hữu tình. Về kiến trúc
thiết kế kiểu này, không thấy đề cập đến trong các nguồn sử liệu thời Lý - Trần.
Thời Lê, đặc biệt là từ cuối thời Lê Nhân Tông trở đi cho đến thời Lê Thánh
Tông, Hoàng Thành Thăng Long được tu sửa quy củ, quy chuẩn hóa để bảo vệ sự
an toàn của hoàng đế và các thân vương trong hoàng tộc. Tại đây, Tk XV, XVI,
XVII, XVIII đã xây dựng được ít nhất khoảng hơn 30 “cung”, “điện” bề thế, quy
mô. Nhiều vị trí cung điện và chức năng của chúng đến nay chưa xác định cụ thể
nhưng qua các nguồn sử liệu khảo cổ, nguồn sử liệu thư tịch, văn bia đã chứng minh
điều đó. Tuy nhiên, về cảnh quan môi trường, hệ thống ao, hồ, cầu, vườn thời Lê ít
được các nguồn sử liệu đề cập.
Phía Tây của HTTL thời Lê (khu vực núi Sưa, Khán Sơn, Võ/Vũ Đương,
Giảng Võ) cũng tiếp tục được sử dụng làm đấu trường hoặc nơi rèn luyện võ nghệ
cho binh lính. Nhưng đến cuối thời Lê Trung hưng một bộ phận đất đai ở vị trí
phía Tây này bị bỏ hoang.
Nếu như về quy mô và cấu trúc của HTTL thời Lý và thời Trần có sự thay
đổi một phần lớn là do giặc Mông - Nguyên, giặc Chiêm Thành tàn phá thì sau đó
đến thế kỷ XV giặc Minh sang xâm lược đã phá hủy một lần nữa. Sang thế kỷ XVI,
XVIII, XVIII, Hoàng Thành Thăng Long lại một lần nữa chịu cảnh tang thương bởi
các tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh; Trịnh - Mạc đốt phá nên hầu hết các công trình
trong Cấm Thành và Hoàng Thành Thăng Long chỉ còn ghi dấu qua các trang sử
liệu viết và trong các sử liệu vật thực bị vùi sâu trong lòng đất, ghi dấu ấn sâu đậm
197
một Hoàng Thành Thăng Long vàng son một thuở./.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Quang Hà (2014), “Sử liệu về các “cung” và “điện” của Hoàng
Thành Thăng Long thời Lý - Trần và tên gọi gắn với biểu tượng rồng”, Tạp chí
Nhân Lực Khoa học xã hội (10), tr. 104 - 111.
2. Nguyễn Quang Hà (2015), “Sử liệu liên quan đến Biểu tượng Rồng (xét
trong không gian các “cung” và “điện” của Hoàng Thành Thăng Long thời Lý -
Trần - Lê”, Tạp chí Hán Nôm, (4), tr. 19 - 30.
3. Nguyễn Quang Hà (2015), “Xác định giới hạn phía Tây và Tây Nam
Hoàng Thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê qua nguồn sử liệu bi ký, minh văn”;
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế: “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản thế giới, nhìn
từ Hoàng thành Thăng Long”, Hà Nội, tr. 397 - 419.
4. Nguyễn Quang Hà (2018), “Về loại hình bát giác trong kiến trúc cung
đình Trung Quốc”, Kỷ yếu tọa đàm khoa học Quốc tế: Chia sẻ kết quả nghiên cứu,
bảo tồn và phát huy giá trị di sản Thế giới Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng
Long - Hà Nội”, Hà Nội, tr. 98 - 116.
5. Nguyễn Quang Hà (2018), “Sử liệu về các công trình kiến trúc và cảnh
quan Kinh Thành Thăng Long thời Lý”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (11), tr. 20 -
33.
6. Nguyễn Quang Hà (2018), “Sử liệu về các “cung”, “Đông cung Thái tử”
và các “cửa” trong Kinh Thành Thăng Long thời Trần”, Tạp chí Nhân lực Khoa học
xã hội (10), tr. 107 - 116.
7. Nguyễn Quang Hà (2018), “Sử liệu về phường và chợ và đôi nét về đời
sống văn hóa Thăng Long thời Trần”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (10), tr. 106 -
198
110.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1. Đào Duy Anh (1996), Hán Việt từ điển, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
1. Phương Anh (2004a): “Thành Cổ Hà Nội sẽ thành khu bảo tàng lớn nhất
của thủ đô”, Văn hiến Việt Nam, (5).
2. Phương Anh (2004b): “Thống nhất phương án bảo tồn di tích Hoàng
Thành Thăng Long: bảo tồn toàn bộ - trưng bày từng phần - giới thiệu đầy đủ”, Văn
hiến Việt Nam, (10).
3. Nguyễn Văn Anh, Bùi Thu Phương (2010), “Vật liệu kiến trúc ở Hoàng
Thành Thăng Long sau 5 năm nghiên cứu”, Tạp chí Khảo cổ học (4), tr. 73 - 79.
4. Trần Việt Anh (2015), “Tổng quan về di sản Hoàng thành Thăng Long sau
5 năm đón nhận bằng Di sản văn hóa Thế giới (2010 - 2015)”; Kỷ yếu Hội thảo
Khoa học quốc tế Bảo tồn, phát huy giá trị di sản Thế giới, nhìn từ Hoàng Thành
Thăng Long”, Hà Nội, ngày 23/11/2015, tr. 163 - 176.
5. Trần Việt Anh (2018), “Báo cáo đề dẫn: “Chia sẻ kết quả nghiên cứu, bảo
tồn và phát huy giá trị di sản thế giới khu Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long - Hà
Nội”, Kỷ yếu tọa đàm khoa học Quốc tế, ngày 6/9/2018, tr. 1- 4.
6. Đỗ Bang (2010), “Thăng Long thời hậu Kinh đô (1789 - 1802)”, Tạp chí
Khảo Cổ học (4), tr. 109 - 115.
7. Đặng Xuân Bảng (1997), Sử học bị khảo, Đỗ Mộng Khương (dịch), Viện
Sử học và NXB Văn hóa Thông tin.
8. Đặng Xuân Bảng (2000), Việt sử cương mục tiết yếu, Viện Nghiên cứu
Hán Nôm, NXB Khoa học xã hội.
9. Bùi Huy Bích (1960), Hoàng Việt thi văn tuyển, NXB Văn hóa, Hà Nội.
10. Trương Quốc Bình (2002): “Bảo vệ và phát huy di tích Thành cổ Hà
Nội”, Tạp chí Khảo cổ học, (4); tr. 12.
11. Hà Văn Cẩn (2004), “Những vết tích kiến trúc đáng lưu ý tại Hố D2 và
D7 trong Hoàng Thành Thăng Long phát hiện Khảo cổ học”, Những phát hiện mới
199
về Khảo cổ học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 79 - 82.
12. Hà Văn Cẩn (2005), “Về các hiện vật liên quan đến lò nung gốm sứ tại
hố khai quật D7 ở 18 Hoàng Diệu (Hà Nội) năm 2003”, Những phát hiện mới về
Khảo cổ học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 501 - 505.
13. Hà Văn Cẩn, Bùi Vinh, Đỗ Đức Tuệ (2012a) “Đĩa gốm có chữ “Đông
Nhân cung” thời Lý tại địa điểm 62- 64 Trần Phú (Ba Đình - Hà Nội)”, Tạp chí
Khảo cổ học, (4), tr. 48 - 49.
14. . Hà Văn Cẩn, Bùi Vinh, Đỗ Đức Tuệ (2012b), “Cấu trúc và niên đại của
lũy thành Thăng Long tại địa điểm Văn Cao - Hoàng Hoa Thám”, Tạp chí Khảo cổ
học, (4), tr. 65 - 74.
15. Hà Văn Cẩn (2016), “Những nét chính trong đợt khai quật trung tâm
Hoàng Thành Thăng Long 2011 - 2013”, Kỷ yếu Báo cáo tổng kết dự án
UNESCO/Quỹ tín thác Nhật Bản “Bảo tồn Khu Di sản Văn hóa Thăng Long - Hà
Nội”, Tokyo, tr. 127 - 157.
16. Trương Hoàng Châu (1980), “Quần Ngựa (Hà Nội) trong hoạt động khảo
cổ học”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1979, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr. 227 - 231.
17. Nguyễn Đình Chiến (2004), Vật liệu kiến trúc thời Lý - Trần tìm được
trong khu vực Hoàng Thành Thăng Long lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Tư
liệu Viện Khảo cổ học.
18. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, NXB Sử học, Hà
Nội.
19. Nguyễn Cao Cường (2017): Quản lý và bảo quản di tích, di vật ở Khu di
sản Hoàng Thành Thăng Long - Hà Nội, Lv. Ths, ĐH Văn hóa Hà Nội.
20. Nguyễn Mạnh Cường, Phạm Như Hồ, Nguyễn Thị Dơn, Vũ Quốc Hiền
(1980), “Điều tra thám sát Quần ngựa (Hà Nội), đợt 1”, Những phát hiện mới về
Khảo cổ học 1979, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 226 - 227.
21. Nguyễn Mạnh Cường, Hà Văn Cẩn, Bùi Minh Trí, Nguyễn Sơn Ka
(1999), Báo cáo điều tra thám sát khu vực Khải Thánh (Văn Miếu), tháng 4 năm
200
1999, Tư liệu Viện Khảo cổ học.
22. Nguyễn Mạnh Cường, Hà Văn Cẩn, Bùi Minh Trí (2000), “Đào thăm dò
khảo cổ học khu vực Văn Miếu (Hà Nội)”, Tạp chí Khảo cổ học (3), tr. 57 - 73.
23. Phan Đại Doãn (cb),1997, Ngô Sĩ Liên và Đại Việt sử kí toàn thư, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
24. Nguyễn Thị Dơn (1985), “Phát hiện khu di tích thời Lê ở hồ Ngọc Khánh
(Hà Nội)”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học, 1984, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, Hà Nội, tr. 187 - 189.
25. Nguyễn Thị Dơn (1998), “Những di tích kiến trúc và di vật thời Lê phát
hiện tại hồ Ngọc Khánh - Hà Nội năm 1983”, Tạp chí Khảo cổ học, (4), tr. 86, 92.
26. Nguyễn Thị Dơn (2000), “Khảo cổ học ở Hà Nội năm 1999”, Những
phát hiện mới về Khảo cổ học, 1999, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr . 18 - 20.
27. Nguyễn Thị Dơn (2001), “Dấu tích Thành Thăng Long thời Lý - Trần -
Lê qua một số lần khai quật khảo cổ học”, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Lý Công Uẩn
và vương triều Lý (Kỷ yếu Hội thảo 990 năm Thăng Long - Hà Nội), NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Kim Dung (2008), “Nghiên cứu so sánh kỹ thuật trụ sỏi
trong kiến trúc Trà Kiệu và Thăng Long”, Hội thảo khoa học Quốc tế: Nhận diện
giá trị khu di tích Hoàng Thành Thăng Long 5 năm nghiên cứu và so sánh (2002 -
2008), Tư liệu Viện Khảo cổ học.
29. Nguyễn Khắc Đạm (1992), “Vị trí, kích thước Thành Thăng Long, Tử
Cấm thành và Đông Cung”, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, (6).
30. Nguyễn Khắc Đạm (1999): Thành lũy, phố phường và con người Hà Nội
trong lịch sử, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
31. Nguyễn Khắc Đạm (2001): “Phương châm bất di bất dịch của các triều
đại phong kiến Việt Nam trong việc xây dựng thành lũy Hà Nội”, Những phát hiện
mới về Khảo cổ học, 2000, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 477 - 479.
32. Trần Bạch Đằng (2006): “Phát hiện Hoàng thành Thăng Long dưới lòng
201
đất - thành tựu số 1 của khoa học lịch sử Việt Nam”, Tạp chí Khảo cổ học, (số 1).
33. Nguyễn Văn Đoàn (2000), “Khai quật di chỉ khảo cổ học Lý - Trần, 11
Lê Hồng Phong - Hà Nội”, Tạp chí Khảo cổ học (3), tr. 74 - 93.
34. Lê Quý Đôn (1962), Vân đài loại ngữ, bản dịch của Trần Văn Giáp, Cao
Xuân Huy hiệu đính, NXBVăn hóa, Viện Văn học, Hà Nội.
35. Lê Quý Đôn (1962), Kiến văn tiểu lục, Nxb Sử học, HN.
36. Trần Kim Đỉnh (1993), “Nguồn sử liệu chữ viết ở Việt Nam nửa đầu thế
kỷ XX”, Tc Khoa học Đại học Tổng Hợp, (3).
37. Võ Nguyên Giáp (2007): “Chuẩn bị kỷ niệm một ngàn năm Thăng Long
cần quan tâm hơn nữa việc bảo tồn và phát huy di sản lịch sử - văn hóa”, Tạp chí
Xưa và Nay, (3), Hà Nội.
38. Trần Văn Giáp (1970), Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Thu viện Quốc gia
xuất bản.
39. Trần Văn Giàu (2006): “Ý nghĩa của việc phát lộ di tích Hoàng thành
Thăng Long (Hà Nội)”, Tạp chí Khảo cổ học (1), tr. 65 - 67.
40. Nguyễn Quang Hà - Nguyễn Quang Ngọc (2005), “Về tấm bia Cổ tích
linh từ bi kí dưới chân núi Tử Trầm (Hà Tây) do nhà sử học Lê Tung (soạn)”, Tạp
chí Hán Nôm, (2), tr. 50 - 61.
41. Nguyễn Quang Hà (2006), “Về những đóng góp của danh tướng Trần
Lựu trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược (Thế kỷ XV)”, Tạp chí
Lịch sử Quân sự, (4), tr. 34 - 37.
42. Nguyễn Quang Hà (2009a), “Kinh thành Thăng Long - Hà Nội thời Lý -
Trần (Qua một số bộ chính sử)”, Thông báo Hán Nôm học 2008, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội, tr. 305 - 315.
43. Nguyễn Quang Hà (2009b), “Về những công trình kiến trúc, lịch sử, văn
hóa thời Lý -Trần trên kinh đô Thăng Long (khảo sát tên gọi, đặc điểm, chức
năng)”, Kỷ ếu Hội thảo UNESCO các trường Đại học và di sản (Tổ chức
UNESCO Việt Nam, UBND thành phố Hà Nội, trường Đại học Kiến trúc đồng tổ
202
chức) Hà Nội, tháng 4/2009.
44. Nguyễn Quang Hà (2010a), “Một số lễ hội Phật giáo thời Lý được tổ
chức trong Hoàng Thành Thăng Long”, Kỷ yếu Hội thảo Phật giáo với 1000 năm
Thăng Long - Hà Nội, Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội - Viện
Nghiên cứu Tôn giáo đồng tổ chức, Hà Nội, tr. 176 - 183.
45. Nguyễn Quang Hà (2010b), “Mấy suy nghĩ tản mạn về thời đại Lý - Trần
và Kinh đô Thăng Long (Dưới giác độ tư liệu, Văn bản học)”, Văn hóa Phật giáo
với 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, (Phân viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam tại
Thành phố Hồ Chí Minh, Hội Nghiên cứu và Giảng dạy Văn học thành phố Hồ Chí
Minh), 2010, tr. 173 - 185.
46. Nguyễn Quang Hà (2010c), “Mấy suy nghĩ về hình tượng Cá sấu khắc
trên viên gạch thời Đại La phát hiện trong Hoàng Thành Thăng Long với tư liệu thư
tịch cổ”, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật, (4), tr 23 - 27.
47. Nguyễn Quang Hà - Trần Hậu Yên Thế (2013): “Uyên ương từ Hoa Lư
đến Kinh Thành Thăng Long - Qua nghiên cứu so sánh”, Thông báo Khoa học, Tập
san Nghiên cứu Hoàng Thành Thăng Long , (2), NXB Văn hóa Thông tin, 56 - 62.
48. Nguyễn Quang Hà (2015a): “Về các cung và điện thời Lý - Trần trên
Kinh đô Thăng Long”, Tạp chí Nhân Lực Khoa học xã hội, (10) tr. 104 - 111.
49. Nguyễn Quang Hà, (2015b), “Xác định giới hạn phía Tây và Tây Nam
Hoàng Thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê qua nguồn sử liệu bi ký, minh văn”, Kỷ
yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế Bảo tồn, phát huy giá trị di sản Thế giới, nhìn từ
Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội, tr. 406 - 419.
50. Nguyễn Quang Hà, (2015c) “Sử liệu liên quan đến biểu tượng rồng (xét
trong không gian cac “cung” và “điện” của Hoàng thành Thăng Long ) thời Lý -
Trần - Lê”; Tạp chí Hán Nôm, (4), tr. 31 - 42.
51. Nguyễn Quang Hà, (2015d): “Xác định giới hạn phía Tây và Tây Nam
Hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê qua nguồn sử liệu bi ký, minh văn”;
Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế: “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản thế giới, nhìn
203
từ Hoàng thành Thăng Long”, Hà Nội, tr. 397 - 419.
52. Nguyễn Quang Hà, (2018a), “Về loại hình bát giác trong kiến trúc cung
đình Trung Quốc”, Kỷ yếu tọa đàm khoa học Quốc tế “Chia sẻ kết quả nghiên cứu,
bảo tồn và phát huy giá trị di sản Thế giới Khu Trung tâm Hoàng Thành Thăng
Long - Hà Nội”, Hà Nội, tr. 98 - 116.
53. Nguyễn Quang Hà (2018b), “Sư liệu về các “cung”, “Đông cung Thái tử”
và các “cửa” trong Kinh Thành Thăng Long thời Trần”, Tạp chí Nhân Lực Khoa
học xã hội, (10), tr. 107 - 116.
54. Nguyễn Quang Hà (2018c), “Sử liệu về phường và chợ và đôi nét về đời
sống văn hóa Thăng Long thời Trần”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, (10), tr. 106 -
110.
55. Nguyễn Quang Hà, (2018d), “Sử liệu về các công trình kiến trúc và cảnh
quan Kinh Thành Thăng Long thời Lý”, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, (11), tr. 20 -
33.
56. Thu Hà (2004), “Hoàng thành Thăng Long - Di sản không chỉ của Việt
Nam”, Tạp chí Văn hiến Việt Nam, (8).
57. Phan Thanh Hải (2012), “Thái Hòa và điện Cần Chánh thời Nguyễn nhìn
từ góc độ bố trí không gian nghi lễ”, Tạp chí Khảo cổ học (4), tr. 75 - 85.
58. Ngô Thị Thanh Hằng (2010), “Làm sống dậy những trang sử vàng của
Kinh thành Thăng Long”, Tạp chí Khảo cổ học , (4) tr. 7 - 8.
59. Phạm Xuân Hằng (1996), “Một số vấn đề xử lý sử liệu học đối với tài
liệu chữ viết”, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử (1).
60. Phạm Xuân Hằng (2012), “Bản chất của sử liệu”, Sử học việt Nam trong
bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, NXB. Thế giới, Hà Nội.
61. Phạm Xuân Hằng - Đinh Thị Thùy Hiên (2017), Đại cương sử liệu học
và các nguồn sử liệu chữ viết lịch sử Việt Nam, NXB ĐHQGHN.
62. Phạm Hân (1990); Tìm lại dấu vết thành Thăng Long, Nxb. Nxb KHXH,
204
Hà Nội.
63. Chu Thị Hiền (2017): Di tích kiến trúc Cột Cờ, Bắc Môn, Đoan Môn và
nền điện Kính Thiên tại Khu di sản Trung Tâm Hoàng Thành Thăng Long, Lv. Ths,
Học viện KHXH).
64. Diệp Đình Hoa (2004): “Nhận thức về chiều sâu lịch sử 1000 năm Thăng
Long qua các tầng lớp văn hóa Khảo cổ học”, Tạp chí Khảo cổ học, (4);
65. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, 2018, Tang thương ngẫu lục, NXB Khxh;
66. Hoàng Hồng (1997), “Vấn đề phương pháp luận sử học trong sử học Việt
Nam hiện đại”,Tc. ĐHQGHN, số 3, tr 17 - 22.
67. Hoàng Hồng (2012), “Nhận thức khách quan trong sử học”, in trong Sử
học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, Nxb Thế giới.
68. Hoàng Thành Thăng Long - Phát hiện khảo cổ học, Hội Khoa học Lịch
sử Việt Nam, Hà Nội.
69. Bùi Văn Hiếu (2005), “Về những móng trụ hố A5. 18 Hoàng Diệu”,
Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2004, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 325 -
327.
70. Bùi Văn Hiếu (2008), “Dấu vết những đường bó nền kiến trúc ở đàn Xã
Tắc (Hà Nội”; Những phát hiện mới về Khảo cổ học, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, tr. 380 - 382.
71. Bùi Văn Hiếu (2011), Móng kiến trúc thời Lý - Trần - Hồ qua tư liệu
khảo cổ học, Lv. Ths Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
72. Bùi Văn Hiếu (2013), “Khái lược về móng cột thời Lý qua tài liệu khảo
cổ học”, Tạp chí Khảo cổ học (1), tr. 81 - 94.
73. Diệp Đình Hoa (2004), “Nhận thức về chiều sâu lịch sử 1000 năm Thăng
Long qua các tầng lớp văn hóa khảo cổ”, Tạp chí Khảo cổ học (4), tr. 36- 38.
74. Diệp Đình Hoa (2006), “Hoàng thành Thăng Long, những nền văn hóa
đá kế tiếp nhau”, Tạp chí Khảo cổ học (1), tr. 35 - 38.
75. Phạm Như Hồ, Nguyễn Mạnh Cường (1978), Điều tra, thám sát Quần
205
Ngựa (Ba Đình - Hà Nội), Tư liệu Viện Khảo cổ học.
76. Phạm Như Hồ, Hà Văn Cẩn, Bùi Minh Trí, Nguyễn Văn Đoàn, Nguyễn
Thị Dơn (2000), Khai quật di chỉ Khảo cổ học Lý - Trần 11 Lê Hồng Phong - Ba
Đình - Hà Nội, Tạp chí Khảo cổ học (3), tr. 74 - 93.
77. Phạm Lê Huy (2012) Nghiên cứu thời Đại La: “Một vài suy nghĩ và đề
xuất”, kỷ yếu Báo cáo tổng kết dự án UNESCO, Quỹ tín thác Nhật Bản “Bảo tồn
Khu Di sản Văn hóa Thăng Long - Hà Nội”, Tokyo, tr. 47 - 54.
78. Phạm Lê Huy (2015), “Ý tưởng thiết kế cung Naniwa tiền kỳ của Nhật
Bản và Kinh đô Thăng Long thời Lý - Nhìn từ kiến trúc treo chuông ở khu vực
trung tâm”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế Bảo tồn, phát huy giá trị di sản Thế
giới, nhìn từ Hoàng thành Thăng Long, HN, tr. 310 - 380.
79. Phạm Lê Huy (2016), “Ảnh hưởng mô hình Lạc Dương và Khai Phong
đến quy hoạch Hoàng Thành Thăng Long thời Lý - Trần”, Kỷ yếu Báo cáo tổng kết
dự án UNESCO/Quỹ tín thác Nhật Bản “Bảo tồn Khu Di sản Văn hóa Thăng Long -
Hà Nội”, Tokyo, tr. 169 - 216.
80. Phạm Lê Huy (2018), “Khảo cứu lại các kiến trúc bát giác thời Lý - Trần
từ góc độ nghiên cứu so sánh”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế: Chia sẻ kết quả
nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản thế giới khu Trung tâm Hoàng Thành
Thăng Long - Hà Nội, tr. 78 - 98.
81. Y. Hyenung (2008), “Sự phát triển của kinh thành Silla (Hàn Quốc) qua
một nghìn năm”, Hội thảo Quốc tế: Nhận diện giá trị khu di tích Hoàng Thành
Thăng Long 5 năm Nghiên cứu và so sánh (2002 - 2008), Tư liệu Viện Khảo cổ
học;
82. Kazuto INOUE (2010), “Di tích cung điện Hoàng Thành Thăng Long:
Phân tích về các vết tích khai quật chủ yếu ở khu A, B, D4, D5 và D6”, Tạp chí
Khảo cổ học (4), tr. 43 - 72.
83. Kazuto INOUE (2013), “Khái quát về hỗ trợ điều tra kiến trúc”, in trong
tập kỷ yếu Báo cáo tổng kết dự án UNESCO/Quỹ tín thác Nhật Bản “Bảo tồn Khu
206
Di sản Văn hóa Thăng Long- Hà Nội”, Tokyo, tr. 55 - 60.
84. Kunikazu UENO (2012), “Nghiên cứu mang tính thử nghiệm về không
gian nghi lễ trong đô thị cổ của Nhật Bản qua đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc và Thái
Miếu của các nước thuộc vùng văn hóa chữ Hán”, Nhật Việt tuyển tập bài viết
nghiên cứu Hoàng Thành Thăng Long, Quỹ Tín thác Nhật Bản, Viện nghiên cứu Di
sản Tokyo, tr. 333 - 354.
85. Kunikazu UENO (2013), “Quần thể kiến trúc Hoàng Thành Thăng Long
nhìn từ kết quả điều tra khai quật khảo cổ học”, Kỷ yếu Báo cáo tổng kết dự án
UNESCO/Quỹ tín thác Nhật Bản “Bảo tồn Khu Di sản Văn hóa Thăng Long - Hà
Nội”, Tokyo, tr. 61- 64.
86. Hán Văn Khẩn (2004), “Núi Trúc: Tư liệu và nhận thức”, Hội thảo Khoa
học Toàn quốc năm 2004 về Hoàng Thành Thăng Long, Tư liệu Viện Khảo cổ học;
87. Nguyễn Thừa Hỷ (2005), “Về phức hợp thành Thăng Long”, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử, (2).
88. Hoàng Văn Khoán, Tống Trung Tín (1996), “Vài nét về vật liệu kiến trúc
thời Lý”, Thông báo khoa học Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, tr. 89 - 92.
89. Hoàng Văn Khoán, Tống Trung Tín, Nguyễn Lâm Anh Tuấn (2000), Văn
hóa Lý - Trần, kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc chùa tháp, NXB Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
90. Vũ Thế Khôi (2002), “Về thành Thăng Long thời Lý - Trần qua nguyên
bản chữ Hán Đại Việt sử ký toàn thư”, Tạp chí Xưa và Nay, số 111.
91. Lê Khả Kế (Cb), 1996, “Từ điển Anh - Việt (English VietNamese
Dictionary)”, (Tái bản lần thứ Nhất), NXB Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 123.
92. Nguyễn Hồng Kiên (2008), “Thám sát - khai quật Khảo cổ học khu di
tích Đàn Xã Tắc Thăng Long (Hà Nội)”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học2007,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 298 - 304.
93. Nguyễn Hồng Kiên, Tống Trung Tín (2004), “Nhận định ban đầu về một
số phế tích kiến trúc, Hoàng Thành Thăng Long”, Những phát hiện mới về Khảo cổ
207
học, tr. 51 - 61.
94. Hoàng Đạo Kính (2002): “Thử xác định những bước đi phù hợp cho
công cuộc bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích Thành cổ Thăng Long - Hà Nội”,
Hà Nội Ngàn năm, số 6;
95. KAZUTO INOUE (2010), “Di tích cung điện Hoàng thành Thăng Long;
phân tích về các vết tích khai quật chủ yếu ở khu A, B, D4, D5 và D6”, Tạp chí
Khảo cổ học, ( 4), tr. 43 - 72.
96. Ngô Thị Lan, Tống Trung Tín (2007), “Bước đầu nghiên cứu trang trí
trên ngói ở Hoàng Thành Thăng Long qua tư liệu hố D4 - D5 - D6 (khu D) ở 18
Hoàng Diệu - Hà Nội”, Tạp chí Khảo cổ học, (6), tr.107.
97. Đỗ Thị Thùy Lan (2016), “Hoàng Thành Thăng Long triều Lê Thánh
Tông (1460 - 1497)”, Không gian khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long tư liệu
và nhận thức, NXB Hà Nội tr. 295 - 314.
98. Lê Văn Lan (2004), “Vị trí quy mô và vấn đề “Trục chính tâm” của các
công trình kiến trúc cung đình trong Hoàng Thành Thăng Long thời Lý qua tài liệu
văn bản”, Tạp chí Khảo cổ học (4), tr. 39 - 50.
99. Lê Văn Lan (2012), “Vị trí quy mô và vấn đề “Trục chính tâm” của các
công trình kiến trúc cung đình trong Hoàng Thành Thăng Long thời Lý qua tài liệu
văn bản”, Nhật Việt tuyển tập bài viết nghiên cứu Hoàng thành Thăng Long, Quỹ
Tín thác Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Di sản Tokyo, tr. 27 - 38.
100. Ngô Thị Lan (2004), “Về mặt bằng trụ móng hình “lục giác” phát hiện
ở hố D6 (khu D), tại địa điểm 18. Hoàng Diệu - Hà Nội”, Những phát hiện mới về
Khảo cổ học năm 2004, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 323.
101. Ngô Thị Lan (2006), Trang trí trên ngói ở Hoàng Thành Thăng Long
qua tư liệu hố D4 - D5 - D6 (Khu D) ở 18. Hoàng Diệu - Hà Nội, Lv Ths Lịch sử,
Đại học Quốc gia Hà Nội;
102. Ngô Cao Lãng, 1975, Lịch triều tạp kỷ, Nxb Khxh, tr. 12, 13.
103. Phan Huy Lê (2003), “Phát hiện di tích Hoàng Thành Thăng Long tại
208
Ba Đình”, Tạp chí Khảo cổ học số (4);
104. Phan Huy Lê (2006a), Nhận thức mới về giá trị khu di tích Hoàng
Thành Thăng Long, Xưa và Nay, số 279, tr. 3.
105. Phan Huy Lê (2006b), Vị trí khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu
trong cấu trúc thành Thăng Long - Hà Nội qua các thời kỳ Lịch sử, Khảo cổ học, số
(1), tr. 31 - 56.
106. Phan Huy Lê (2007a), “Càng nghiên cứu, càng nhận thức sâu sắc hơn
giá trị khu di tích Hoàng Thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu”, Tạp chí Khảo cổ
học, (1), tr. 54 - 57;
107. Phan Huy Lê (2007b) Lịch sử và văn hóa Việt Nam tiếp cận bộ phận,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
108. Phan Huy Lê, 2010, Địa bạ cổ Hà Nội, NXB Hà Nội.
109. Phan Huy Lê (2010), “Giá trị toàn cầu của khu di tích trung tâm Hoàng
thành Thăng Long”, Tạp chí Khảo cổ học , (4), tr. 11 - 26.
110. Phan Huy Lê (2012a), “Vị trí khu di tích Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu
trong cấu trúc Thành Thăng Long - Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử”, Nhật Việt
tuyển tập bài viết nghiên cứu Hoàng Thành Thăng Long, do Quỹ Tín thác Nhật
Bản, Viện nghiên cứu Di sản Tokyo, tr. 45 - 65.
111. Phan Huy Lê (2012b), “Giá trị toàn cầu của khu di tích trung tâm
Hoàng Thành Thăng Long - Hà Nội”, Nhật Việt tuyển tập bài viết nghiên cứu
Hoàng thành Thăng Long, Quỹ Tín thác Nhật Bản, Viện nghiên cứu Di sản Tokyo,
tr. 107 - 121.
112. Phan Huy Lê (2015), “Cấu trúc Kinh Thành Thăng Long và vị trí, phạm
vi Cấm thành qua các thời kỳ lịch sử, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế Bảo tồn,
phát huy giá trị di sản Thế giới, nhìn từ Hoàng Thành Thăng Long, Hà Nội, ngày
23/11/2015, tr. 19 - 72.
113. Phan Huy Lê (2016), “Cấm Thành Thăng Long qua các thời lỳ lịch sử”,
Không gian khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long tư liệu và nhận thức, NXB Hà
209
Nội, tr. 11- 48.
114. Bùi Văn Liêm, Phạm Văn Triệu (2015), “Trung tâm bảo tồn di sản
Thăng Long - Hà Nội - Viện Khảo cổ học, 5 năm hợp tác khai quật, nghiên cứu và
bảo tồn di sản Thăng Long Hà Nội”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế Bảo tồn,
phát huy giá trị di sản Thế giới, nhìn từ Hoàng Thành Thăng Long, Hà Nội, tr. 101
- 113.
115. Bùi Văn Liêm (2016), “Di tích tâm linh đặc biệt thời Lý phát hiện tại lô
E- Khu di sản Hoàng thành Thăng Long”, Kỷ yếu Báo cáo Tổng kết dự án
UNESCO/Quỹ Tín thác Nhật Bản “Bảo tồn Khu Di sản Văn hóa Thăng Long - Hà
Nội”, Tokyo, tr. 119 - 126.
116. Lê Thị Liên và Ngô Thị Lan (2004), “Những giá trị lịch sử của các hố
D4 - D5 - D6, Hoàng Thành Thăng Long”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học ,
tr. 85 - 87.
117. Trần Huy Liệu (2009), Lịch sử thủ đô Hà Nội, NXB Lao động, Hà Nội.
118. William Logan (2015), “Phát huy giá trị di sản Thế giới - Nhìn từ khu
trung tâm Hoàng Thành Thăng Long - Hà Nội”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế
Bảo tồn, phát huy giá trị di sản Thế giới, nhìn từ Hoàng Thành Thăng Long, Hà
Nội, tr. 114 - 120.
119. Vũ Đường Luân (2003), Kinh thành Thăng Long thời Lý - Trần, Luận
văn Cử nhân Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN.
120. Vũ Đường Luân (2016), “Dấu tích Hoàng Thành Thăng Long và Thành
Hà Nội qua khảo sát địa bạ hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận”, Không gian Khu
Trumg tâm Hoàng Thành Thăng Long tư liệu và nhận thức, NXB Hà Nội, tr. 217 -
243.
121. Tống Văn Lợi (2016), “Thành Thăng Long - Hà Nội đầu thế kỷ XIX”,
Không gian khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long tư liệu và nhận thức, NXB Hà
Nội, tr. 315 - 335.
122. Nguyễn Văn Mạnh, Hà Văn Cẩn, Nguyễn Huy Hạnh, Nguyễn Kỳ Nam,
Phùng Văn Quỳnh, Nguyễn Văn Chuyên (2012), “Kết quả thám sát và khai quật
210
thăm dò khu vực điện Kính Thiên năm 2011”, Tạp chí Khảo cổ học, (4), tr. 34 - 47;
123. MOMOKI Shiro (2012), “Các công trình được xây đắp trong và ngoài
kinh đô Thăng Long thời Lý”, Nhật Việt tuyển tập bài viết nghiên cứu Hoàng Thành
Thăng Long, Quỹ Tín thác Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Di sản Tokyo, tr. 369 - 378.
124. MOMOKI Shiro (2013), “Khái quát điều tra lịch sử và thành quả của
Ban Nghiên cứu Lịch sử”, Kỷ yếu Báo cáo tổng kết dự án UNESCO/Quỹ tín thác
Nhật Bản “Bảo tồn Khu Di sản Văn hóa Thăng Long - Hà Nội”, Tokyo, tr. 37 - 46.
125. MOMOKI Shiro (2016), “Cung Thánh Từ, chế độ Thượng hoàng và
khu cung cấm của Thăng Long thời Trần”, Không gian khu trung tâm Hoàng Thành
Thăng Long tư liệu và nhận thức, NXB Hà Nội, tr. 265 - 285.
126. JI BYONG MOK(2010), “Nghiên cứu so sánh hai di tích lịch sử
Gyeongju và Hoàng thành Thăng Long là một chủ đề hấp dẫn”, Tạp chí Khảo cổ
học, (4), tr. 9 - 10.
127. Nhiều soạn giả (1977), Thơ văn Lý Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
128. Nhiều soạn giả (1978), Thơ văn Lý Trần, tập III, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
129. Đỗ Hoài Nam (2010), “Khả năng trở thành di sản văn hóa Thế giới của
Khu Di tích 18 Hoàng Diệu - Hà Nội”, Tạp chí Khảo cổ học, (4), tr. 4 - 6.
130. Đặng Công Nga (2002), Kinh đô Thăng Long thời Đinh - Tiền Lê, Sở
văn hóa Thông tin Ninh Bình.
131. Trần Nghĩa (2004), Một số văn đề về Hoàng Thành Thăng Long qua thư
tịch Hán Nôm, Tư liệu Viện Khảo cổ học.
132. Đỗ Văn Ninh (1983), Thành cổ Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
133. Đỗ Văn Ninh (1983), Đô thị cổ Việt Nam, Viện Sử học xuất bản, Hà
Nội.
134. Đỗ Văn Ninh (2004), “Những hiểu biết về Thành Thăng Long”, Tạp chí
211
Khảo cổ học (4), tr. 21.
135. Đỗ Văn Ninh (2012), “Những hiểu biết mới về Thành Thăng Long”,
Nhật Việt tuyển tập bài viết nghiên cứu của Hoàng Thành Thăng Long, Quỹ Tín
thác Nhật Bản, Viện nghiên cứu Di sản Tokyo, tháng 7/2012, tr. 3 - 17.
136. Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Văn Nguyên (Chủ biên): Địa chí Thăng
Long - Hà Nội trong thư tịch Hán Nôm, NXB Thế giới, Hà Nội, 2007.
137. Nguyễn Quang Ngọc (1986), “Góp thêm ý kiến về vấn đề Hoàng Thành
Thăng Long thời Lý, Trần và lịch sử Thập tam trại”, Tạp chí nghiên cứu Lịch sử
(1), tr. 25 - 33.
138. Nguyễn Quang Ngọc (2005), “Thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê:
Đôi lời bàn thêm về phạm vi, vị trí của Hoàng Thành và Cung Thành”, Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử , (2), tr. 25 - 33.
139. Nguyễn Quang Ngọc (2006), “Thăng Long thời Lý - Trần - Lê dưới ánh
sáng của các nguồn tư liệu mới”, Tạp chí Khảo cổ học, (1), tr. 28 - 34.
140. Nguyễn Quang Ngọc (2010), Long trì - Đan Trì trong cấu trúc khu
trung tâm Hoàng Thành Thăng Long - Đông Kinh, Tạp chí Khảo cổ học (4), tr. 87 -
95.
141. Nguyễn Quang Ngọc (2012), “Long trì - Đan Trì trong cấu trúc trung
tâm Hoàng Thành Thăng Long - Đông Kinh”, Nhật Việt tuyển tập bài viết nghiên
cứu Hoàng Thành Thăng Long, do Quỹ Tín thác Nhật Bản, Viện nghiên cứu Di sản
Tokyo, tháng 7/2012, tr. 189 - 197.
142. Nguyễn Quang Ngọc (2013), “Góp phần nhận diện không gian khu
trung tâm Cấm Thành Thăng Long”, Kỷ yếu Báo cáo tổng kết dự án UNESCO/Quỹ
tín thác Nhật Bản: Bảo tồn Khu Di sản Văn hóa Thăng Long - Hà Nội, Tokyo, tr.
37 - 46.
143. Nguyễn Quang Ngọc (2015), “Góp phần nhận diện không gian khu
trung tâm Cấm thành Thăng Long”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học quốc tế: Bảo tồn,
phát huy giá trị di sản Thế giới, nhìn từ Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội, tr. 227 -
212
247.
144. Nguyễn Quang Ngọc, (Chủ biên), (2016), “Góp phần nhận diện không
gian khu trung tâm Cấm Thành Thăng Long”, Không gian Khu Trung tâm Hoàng
Thành Thăng Long tư liệu và nhận thức, NXB Hà Nội, Hà Nội, tr. 244 - 264.
145. Ngô sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1998), Đại Việt sử kí toàn thư,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
146. Trần Thế Pháp (1959), Lĩnh Nam chích quái, bản dịch của Đinh Gia
Khánh và Nguyễn Ngọc San, NXB Văn hóa, Hà Nội.
147. Quốc sử quán triều Nguyễn (1960), Khâm Định Việt sử thông giám
cương mục, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội.
148. Phạm Quốc Quân (1979a), “Điều tra thám sát Quần Ngựa (Hà Nội), đợt
1”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 1978, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr .
226 - 227.
149. Phạm Quốc Quân (1979b), “Khảo cổ học Quần Ngựa và vấn đề Hoàng
thành Thăng Long”, Thông báo Khoa học Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, tr. 42 - 49.
150. Phạm Quốc Quân (1980), “Đào thám sát Quần ngựa (Hà Nội), đợt II”,
Những phát hiện mới về Khảo cổ học, 1979, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 227
- 229.
151. Phạm Quốc Quân (2004), “Khảo cổ học Quần Ngựa góp phần nhận
thức di tích Khảo cổ học tại nhà Quốc hội và Hội trường Ba Đình (mới)”, Tạp chí
Khảo cổ học (4), tr. 62 - 70.
152. Ngô Thì Sĩ (1997), Đại Việt sử kí tiền biên, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
153. Nguyễn Vinh Phúc (2002), “Về những công trình vốn có trong Thành
cổ Hà Nội mà nay không còn tồn tại”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học 2001,
Hà Nội, tr. 560 - 562.
154. Đặng Hồng Sơn (2008), “Gạch xây dựng thời Trần - Hồ ở Thành Nhà
Hồ, Nam Giao và Ly Cung”, Tạp chí Khảo cổ học , (3), tr. 53 - 69.
155. Nguyễn Văn Sơn (2012), “Nghiên cứu hoàn trả không gian Chính điện
213
Kính Thiên thời Lê”, Tạp chí Khảo cổ học, (4), tr. 3 - 6.
156. Nguyễn Văn Sơn (2015), “Một số kết quả nghiên cứu Khảo cổ học
Thăng Long - Hà Nội trong 5 năm qua và quy hoạch bảo tồn, phát huy giá trị di sản
Trung tâm Hoàng thành Thăng Long”, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế Bảo tồn,
phát huy giá trị di sản Thế giới, nhìn từ Hoàng Thành Thăng Long, tr. 142 - 153.
157. Hà Văn Tấn (1991), “Xi vẫn” trong bài thơ về chùa Một Cột của nhà sư
Huyền Quang”, Nghiên cứu Phật học, (3), tr. 51 - 54.
158. Hà Văn Tấn (1992), “Vấn đề văn bản học các tác phẩm văn học Phật
giáo Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (4), tr. 7 - 12.
159. Hà Văn Tấn (1997), “Khảo cổ học Lịch sử với Lịch sử nghệ thuật”,
Theo dấu các văn hóa cổ, NXB Khoa học xã hội, tr. 779 - 785.
160. Hà Văn Tấn (2000), “Về hội đèn Quảng Chiếu ở Thăng Long thời Lý
qua bia Sùng Thiện Diên Linh”, Văn hóa Thăng Long - Hà Nội, hội tụ và lan tỏa,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 122 - 134.
161. Hà Văn Tấn (2001), “Thăng Long trong lòng đất”, Kỷ yếu hội thảo khoa
học Lý Công Uẩn và Vương triều Lý (Kỷ niệm 990 năm Thăng Long - Hà Nội).
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; tr. 154 - 263.
162. Hà Văn Tấn (2007), “Về mối liên hệ giữa Văn bản học và Sử liệu học”,
Một số vấn đề Lý luận sử học, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 201 - 213.
163. Phan Phương Thảo (2006), “Một số di tích lịch sử văn hóa ở Hà Nội
qua tư liệu địa bạ”, Nghiên cứu Lịch sử, (7) , tr. 27 - 35.
164. Đinh Văn Thuận, Nguyễn Địch Dỹ (2010), “Đặc điểm môi trường địa
chất cổ địa lý Holocene giữa - muộn khu Hoàng Thành Thăng Long”, Tạp chí Khảo
Cổ học (4), tr. 96 - 108.
165. Đinh Văn Thuận, Mai Thành Tân, Vũ Văn Hà, Lê Đức Lương, Trịnh
Thị Thanh Hà, Nguyễn Văn Tạo (2018), “Nghiên cứu môi trường địa chất - Cổ địa
lý Holoxen với nhiệm vụ bảo tồn di sản Hoàng thành Thăng Long”, Kỷ yếu Tọa
đàm khoa học Quốc tế: Chia sẻ kết quả nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di
214
sản thế giới Khu Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long, Hà Nội, tr. 128 - 156.
166. Tống Trung Tín, (1997), Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý - Trần
(Thế kỷ XI - XIV), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
167. Tống Trung Tín, Hà Văn Cẩn (1998), Thám sát khai quật địa điểm Hậu
Lâu (Hà Nội), đợt 1 và đợt 2, Tư liệu Viện Khảo cổ học.
168. Tống Trung Tín, Trần Anh Dũng (1999), Thám sát, khai quật địa điểm
Đoan Môn - Bắc Môn, Tư liệu Viện Khảo cổ học.
169. Tống Trung Tín (2000a), “Khai quật địa điểm Đoan Môn (Hà Nội, năm
1999), Tạp chí Khảo cổ học (3), tr. 11 - 31.
170. Tống Trung Tín (2000b), “Khai quật địa điểm Bắc Môn (Hà Nội) năm
1999”, Tạp chí Khảo cổ học (3), tr. 33 - 41.
171. Tống Trung Tín, Trần Anh Dũng, Hà Văn Cẩn, Nguyễn Đăng Cường,
Nguyễn Thị Dơn, Nguyễn Văn Hùng (2000c), “Hệ thống vật liệu xây dựng ở Kinh
đô Thăng Long qua các đợt khai quật Đoan Môn, Bắc Môn, Hậu Lâu”, Khảo cổ
học, (4), tr. 27.
172. Tống Trung Tín (2004a), “Kết quả thăm dò khảo cổ học Đoan Môn,
Bắc Môn, Hậu Lâu, 62 - 64 Trần Phú và vấn đề vị trí, quy mô của Hoàng Thành
Thăng Long thời Lý - Trần - Lê”, Tạp chí Khảo cổ học , (4), tr. 10.
173. Tống Trung Tín (Chủ biên), (2004b), Hoàng Thành Thăng Long, NXB
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
174. Tống Trung Tín, Hà Văn Cẩn, Trần Anh Dũng, Nguyễn Thị Dơn
(2006a), “Khai quật thăm dò địa điểm 62 - 64 Trần Phú - Hà Nội”, Tạp chí Khảo cổ
học (1), tr. 43 - 51.
175. Tống Trung Tín, Nguyễn Tiến Đông (2006b), “Sưu tập hiện vật ở Khu
Đông Điện Kính Thiên”, Tạp chí Khảo cổ học (1), tr. 38 - 43.
176. Tống Trung Tín (2007a), “Một số kết quả nghiên cứu mới về khu di tích
Hoàng thành Thăng Long tại 18 Hoàng Diệu”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội,
215
(3).
177. Tống Trung Tín, Bùi Minh Trí (2007b), “Về một số dấu tích kiến trúc
trong Cấm Thành Thăng Long thời Lý - Trần qua kết quả nghiên cứu khảo cổ học
năm 2005 - 2006”; Tạp chí Khảo cổ học (1), tr. 58 - 72.
178. Tống Trung Tín (2008), Báo cáo kết quả khai quật Khảo cổ học khu di
tích đàn Tế Nam Giao (114 Mai Hắc Đế - Hà Nội), Tư liệu Viện Khảo cổ học.
179. Tống Trung Tín, Bùi Minh Trí (2012a), “Về một số dấu tích kiến trúc
trong Cấm Thành Thăng Long thời Lý - Trần qua kết quả nghiên cứu khảo cổ học
năm 2005 - 2006”, Nhật Việt tuyển tập bài viết nghiên cứu Hoàng thành Thăng
Long, Quỹ Tín thác Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Di sản Tokyo, tr. 81- 95.
180. Tống Trung Tín (2012b), “Chính điện Kính Thiên và không gian Chính
điện Kính Thiên”, Tạp chí Khảo cổ học, (4), tr. 7 - 26.
181. Tống Trung Tín, Bùi Minh Trí, Nguyễn Văn Sơn (2013a), “Hợp tác
nghiên cứu, bảo tồn Khu Di tích Hoàng Thành Thăng Long trong khuôn khổ dự án
quỹ tín thác UNESCO Nhật Bản”, Kỷ yếu Báo cáo tổng kết dự án UNESCO/Quỹ tín
thác Nhật Bản “Bảo tồn Khu Di sản Văn hóa Thăng Long - Hà Nội, Tokyo, tr. 65 -
70.
182. Tống Trrung Tín, Nguyễn Văn Sơn, Đỗ Đức Tuệ, Phạm Văn Triệu
(2013b), “Hệ tọa độ Thăng Long và nghiên cứu khảo cổ học trục trung tâm Hoàng
Thành Thăng Long các năm 2011 - 2013”, Kỷ yếu Báo cáo tổng kết dự án
UNESCO/Quỹ tín thác Nhật Bản “Bảo tồn Khu Di sản Văn hóa Thăng Long - Hà
Nội, Tokyo, tr. 71 - 80.
183. Tống Trung Tín (2015), “Kết quả nghiên cứu khảo cổ học khu vực trục
trung tâm Hoàng Thành Thăng Long sau 5 năm (2011- 2015) thực hiện khuyến nghị
UNESCO”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế “Bảo tồn, phát huy giá trị di sản Thế
giới nhìn từ Hoàng Thành Thăng Long”, Hà Nội, tr. 84 - 100.
184. Tống Trung Tín (2016), “Tổng quan về Khảo cổ học Thăng Long từ
cuối thế kỷ XIX đến nay”, Kỷ yếu Báo cáo tổng kết dự án UNESCO/Quỹ tín thác
216
Nhật Bản “Bảo tồn Khu Di sản Văn hóa Thăng Long - Hà Nội”, Tokyo, tr. 67 - 86.
185. Tống Trung Tín, Đố Đức Tuệ (2018), “Một số nhận thức mới về di tích
Hoàng Thành Thăng Long tại khu vực trục trung tâm qua kết quả nghiên cứu khảo
cổ học năm 2011- 2017 và vấn đề”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Quốc tế: “Chia sẻ
kết quả nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản Thế giới khu Trung tâm
Hoàng Thành Thăng Long - Hà Nội”, Hà Nội, tr. 1 - 4.
186. Lê Mạnh Thát (1999), Nghiên cứu thiền uyển tập anh, NXB Thành phố
Hồ Chí Minh.
187. Ngô Đức Thọ, (Chủ biên), (1993), Các nhà khoa bảng Việt Nam, NXB
Văn học.
188. Ngô Đức Thọ (2011), “Bổ sung nghiên cứu chữ húy đời Trần Trinh
và Thiên ” , Thông báo Hán Nôm học, tr. 872 - 882.
189. Bùi Minh Trí (2001), Gốm hoa lam Việt Nam - VietNamese Blue and
White Ceramics, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
190. Bùi Minh Trí (2005), Nét đẹp của đồ gốm sứ trong Hoàng cung Thăng
Long, trong Hoàng Thành Thăng Long, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr. 65 -
97.
191. Bùi Minh Trí, Tống Trung Tín (2010a), “Giá trị nổi bật toàn cầu, tính
chân thực và toàn vẹn Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội từ phân
tích đánh giá di tích khảo cổ học”, Tạp chí Khảo cổ học (4), tr. 27 - 42.
192. Bùi Minh Trí - Đỗ Đức Tuệ (2010b), “Nhận thức mới về đồ sành tại di
tích Hoàng Thành Thăng Long”, Tạp chí Khảo cổ học (4), tr. 80 - 86.
193. Bùi Minh Trí, Tống Trung Tín (2012c), “Giá trị nổi bật toàn cầu, tính
chân thực và tính toàn vẹn khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long - Hà Nội từ
phân tích, đánh giá di tích Khảo cổ học”, Nhật Việt tuyển tập bài viết nghiên cứu
Hoàng thành Thăng Long, do Quỹ Tín thác Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Di sản
Tokyo, tr. 135 - 150.
194. Bùi Minh Trí, Đỗ Đức Tuệ (2012d), “Nhận thức mới về đồ sành tại khu
217
di tích Hoàng Thành Thăng Long”, Nhật Việt tuyển tập bài viết nghiên cứu Hoàng
thành Thăng Long, Quỹ Tín thác Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Di sản Tokyo, tr. 175
- 181.
195. Bùi Minh Trí (2016), “Kiến trúc thời Lý ở khu A - B khu di tích Hoàng
Thành Thăng Long: Những thành tựu sau 10 năm nghiên cứu”, Kỷ yếu Báo cáo
tổng kết dự án UNESCO/Quỹ tín thác Nhật Bản “Bảo tồn Khu Di sản Văn hóa
Thăng Long - Hà Nội”, Tokyo, tr. 87 - 118.
196. Phạm Văn Triệu (2010), “Cấm Thành Thăng Long thời Lý (1010 -
1030) và giá trị các dấu tích kiến trúc ở khu A (Phía Tây Cấm Thành)”, Tạp chí
Khảo cổ học (6), tr. 36 - 40.
197. Phạm Văn Triệu (2011), Di tích kiến trúc Hoàng Thành Thăng Long hố
D4 - D5- D6 (18 Hoàng Diệu, Hà Nội), Lv. Ths Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội.
198. Phạm Văn Triệu, Nguyễn Huy Hạnh, Đỗ Ngọc Yến (2012), “Khai quật
thăm dò trung tâm Hoàng Thành Thăng Long”, Tạp chí khảo cổ học, (4), tr. 27 -
33.
199. Phạm Văn Triệu (2014), “Di tích kiến trúc thời Lý, hố B3 (Khu di tích
Khảo cổ học 18 Hoàng Diệu)”, Những phát hiện mới về Khảo cổ học năm 2013,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 248 - 252.
200. Phạm Văn Triệu (2016), Di tích kiến trúc thời Lý tại Hoàng Thành
Thăng Long, Hà Nội, LATS Lịch sử, Thư viện Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
201. Nguyễn Văn Tố (1955), Chặt xiềng, Sự thật, (in lần thứ 2), Lời tựa.
202. Đỗ Đức Tuệ (2017), Dấu tích kiến trúc thời Lê ở khu vực chính điện
Kính Thiên (Qua các đợt khai quật khảo cổ 2011 - 2013), LvThs (ĐHKHXH và
NV, ĐHQGHN).
203. Đỗ Đức Tuệ (2018), “Sự kế thừa và biến đổi trong thiết kế kinh đô
Thăng Long thời Trần (1225 - 1400)”, Kỷ yếu khoa học quốc tế: “Chia sẻ kết quả
nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản thế giới khu Trung tâm Hoàng Thành
218
Thăng Long - Hà Nội”, Hà Nội, tr. 62 - 77.
204. Trung tâm bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội (2010), Hồ sơ di sản
Quốc gia Đặc biệt, Phòng lưu trữ Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội.
205.Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội (2012), Khu trung tâm
Hoàng thành Thăng Long Di sản Văn hóa thế giới, NXB Hà Nội.
206. Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội (2014), Di vật tiêu biểu
Hoàng Thành Thăng Long 2002 - 2013, NXB Hà Nội.
207. Phan Thúc Trực (1973), Quốc sử di biên, (Tập thượng), bản dịch của Lê
Xuân Giáo, Sài Gòn.
208. Ueno Kunikazu (2016), “Khảo sát bản đồ Hồng Đức”, Kỷ yếu Báo cáo
tổng kết dự án UNESCO/Quỹ tín thác Nhật Bản“Bảo tồn Khu Di sản Văn hóa
Thăng Long - Hà Nội”, Tokyo, tr. 158 - 168.
209. UENO Kunikazu (2018), “Kiến trúc bát giác và lục giác tại các nước
Đông Á và Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế “Chia sẻ kết quả nghiên
cứu, bảo tồn và phát huy giá trị di sản thế giới khu Trung tâm Hoàng Thành Thăng
Long - Hà Nội”, tr. 1- 4; tr. 39 - 60.
210. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (2004), Đánh giá giá trị và đề xuất
phương án bảo tồn, phát huy giá trị khu di tích Hoàng Thành Thăng Long tại 18
Hoàng Diệu, Hà Nội, Tài liệu Hội thảo Khoa học Toàn quốc, Tổng hợp và giới
thiệu kết quả nghiên cứu của 6 tiểu ban), Hà Nội.
211.Viện Khảo cổ học (2004), Báo cáo khai quật di tích đàn Xã Tắc
(Phường Nam Đồng, quận Đống Đa, Hà Nội), Tư liệu Viện Khảo cổ học.
212. Viện Khảo cổ học - Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội
(2012), Báo cáo kết quả thăm dò khu vực Chính điện Kính Thiên năm 2012, Tư liệu
Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội.
213. Viện Khảo cổ học - Trung tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội
(2013), Báo cáo kết quả thăm dò khu vực Chính điện Kính Thiên năm 2013, Tư liệu
219
Trung Tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội.
214. Viện Khảo cổ học, Trung tâm Bảo tồn di sản Thăng Long - Hà Nội
(2014), Báo cáo sơ bộ kết quả khai quật thăm dò khu vực Chính điện Kính Thiên
năm 2014, Tư liệu Trung Tâm Bảo tồn Di sản Thăng Long - Hà Nội.
215. Việt sử lược (2005), (Bản dịch của Trần Quốc Vượng), NXB Thuận
Hóa và Trung tâm Ngôn ngữ - Văn hóa Đông Tây, Hà Nội.
216. Trần Quốc Vượng (1959), “Địa lý lịch sử miền Hà Nội (trước thế kỷ thứ
XI)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, (15), tr. 47 - 57; (17), tr. 44 - 53.
217.Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn (1963); Lịch sử chế độ phong kiến Việt
Nam, Tập I, NXB Giáo dục, Hà Nội.
218.Trần Quốc Vượng, Vũ Tuấn Sán (1975), Hà Nội nghìn xưa, Sở văn hóa
Thông tin Hà Nội.
219. Trần Quốc Vượng (1983), “Đôi điều về quy hoạch Hoàng thành Thăng
Long”, Thông báo khoa học Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, tr. 65 - 71.
220. Trần Quốc Vượng, Tống Trung Tín (2004), “Vị trí, cấu trúc, quy mô và
các dấu tích kiến trúc của Hoàng Thành Thăng Long qua các thời kỳ”, Hội nghị
Toàn quốc: Nghiên cứu, đánh giá giá trị của khu di tích khảo cổ tại 18 Hoàng Diệu,
Hà Nội, Tư liệu Viện Khảo cổ học.
221.Trần Quốc Vượng (2005), Thăng Long - Hà Nội, tìm tòi và suy ngẫm,
NXB Văn hóa Thông tin, Viện Văn hóa, Hà Nội.
222.Trần Quốc Vượng (2006), “Những vết tích của Hoàng Thành Thăng
Long trên mặt đất và dưới lòng đất, Thăng Long - Hà Nội”, Tìm tòi và suy ngẫm,
Nxb Văn hóa thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội, tr. 45 - 57.
223.Trần Quốc Vượng (2006), “Về giá trị của Khu di sản Văn hóa Thăng
Long - Hà Nội ở Khu vực Ba Đình, Thăng Long - Hà Nội”, Tìm tòi và suy ngẫm,
nxb. Văn hóa Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội, tr. 58 - 66.
224.YAO Takao (2012), “Sơ thảo nghiên cứu thành Thăng Long thời Lê
Sơ”, Nhật Việt tuyển tập bài viết nghiên cứu Hoàng Thành Thăng Long, Quỹ Tín
220
thác Nhật Bản, Viện nghiên cứu Di sản Tokyo, tr. 245 - 252.
225. Yumio Sakurai (2016), “Những trục chính tâm của đô thị Thăng Long -
Hà Nội”, Không gian Khu Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long tư liệu và nhận
thức, NXB Hà Nội, tr. 286 - 294.
226. Lý Tế Xuyên (1972), Việt điện u linh, bản dịch của Đinh Gia Khánh và
Trịnh Đình Rư, NXB Văn học, Hà Nội.
2. Tài liệu Hán Nôm
227. Hà Nội địa dư (bản Kh: VHv.2659, VNCHN).
228. Hà Nội địa dư ; Cấn Đình Dương Bá Cung biên
soạn năm Tự Đức 4 (1851)2 bản viết: A. 1154: 106 tr. 29 x 20; VHv. 2659. Vũ
Chức sao chép năm 1963, Hà Huy Chương hiệu đính, Kh: A. 1154, VNCHN.
229. Hà Nội sơn xuyên phong vực (bản Kh: A.541, VNCHN).
230. Hà thành linh tích cổ lục Nha Học chính Hà Nội khảo
cứu 1 bản viết, 154 tr. 32 x 21, 1 mục lục; Kh: A. 497, VNCHN.
231. Hồng Đức bản đồ , Đông Dương Văn khố, Tokyo,
Kh: 2499, VNCHN.
232. Long thành cảnh trí ca , Kí hiệu (Kh): AB.2, VNCHN.
233. Khán Sơn đình thi văn tập Vũ Duy Kì // đề tựa
năm Tự Đức 18 (1865). Ninh Khê Hữu Trúc Hiên in năm 1865, Kh:
VHV. 2824, VNCHN.
234. Thăng Long cổ tích khảo Kh: A. 1820, VNCHN.
235. Thăng Long cổ tích khảo tính hội đồ Kh: VHv 274,
VNCHN.
221
236. Thăng Long tam thập vịnh , Kh: A.1804,VNCHN.
237. Thăng Long thành hoài cổ thập tứ thủ Vũ Như
Phan sáng tác, TS Đông Tác điểm duyệt , Kh: A.166,
VNCHN.
3. Tài liệu Văn bia
238. Ký kỵ bia (Kh: 57, VNCHN); Thác bản văn bia phường Hồ
Khẩu, tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức , sưu
tầm tại đình Hồ Khẩu.
239. Chúc Thánh, Thanh lâu đẳng tự hương hỏa điền bi
, Kh: 66 (VNCHN); Thác bản văn bia phường Hồ Khẩu, huyện Quảng Đức, phủ
Phụng Thiên ( ), sưu tầm tại đình phường Hồ Khẩu.
240. Thiên Quang Thiền tự bi ký , Kh: 122/123 (VNCHN);
Thác bản văn bia thôn Đổi Mã, tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức
), sưu tầm tại chùa Hòa Mã, đường Huế, đệ bát hộ, (
Hà Thành.
241. Hàm Long tự bi ký , Kh: 156/157/158/159 (VNCHN), Thác
bản bia Kinh sư , sưu tầm tại chùa Hàm Châu, Hà thành; Niên đại Vĩnh
Thịnh thứ 10 (1714).
242. Hàm Long tự bi ký , Kh: 160 (VNCHN); Thác bản bia
phường Phục Cổ, sưu tầm tại chùa Hàm Long, phố Hàm Khánh, Hà Thành; Niên
đại: Vĩnh Thịnh 10 (1714).
243. Nam Giao điện bi ký ( ); Kh: 161a,b,c,d (VNCHN); Thác
bản văn bia sưu tầm tại điện Nam Giao, Hà thành; Niên đại: Vĩnh Trị thứ 4 (1679).
244. Hàm Long tự bi ký , Kh; 162/163 (VNCHN), Thác bản văn
222
bia sưu tầm tại chùa Hàm Long, Hà Thành. Niên đại: Vĩnh Thịnh 10 (1714).
245. Trùng kiến Quan Thánh miếu thiêm đề lục ; Kh: 167
(VNCHN); Niên đại: Gia Long 14 (1815).
246. Trùng Kiến Quan Thánh miếu bi ký , Kh: 172/173/174
(VNCHN). Thác bản bia tại phường Hà Khẩu , sưu tầm ở miếu Quan Thánh,
phố Hàng Buồm, Hà Thành. Niên đại: Gia Long 14 (1815).
247. Trùng kiến Quan Thánh miếu thiêm đề lục, ; Kh :
175 (VNCHN).
248. Thác bản văn bia phường Hà Khẩu , sưu tầm tại miếu Quan
Thánh, phố Hàng Buồm, Hà Nội; Niên đại: Gia Long thứ 14 (1815).
249. Quan Thánh miếu chu tất bi ký , Kh; 176 (VNCHN).
Thác bản bia phường Hà Khẩu , sưu tầm tại Miếu Quan Thánh, phố Hàng
Buồm, Hà Nội; Niên đại: Minh Mệnh thứ 7 (1826).
250. Tạo lệ bi ký , Kh; 184/191 (VNCHN). sưu tầm tại đền Bạch
Mã, phố Hàng Buồm, Hà Thành; Niên đại; Cảnh Hưng thứ 42 (1781).
251. Trùng tu bi ký , Kh: 185 (VNCHN); Thác bản văn bia,
phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương , sưu tầm tại Đền Bạch Mã, phố
Hàng Buồm, Hà Nội; Niên đại: Tự Đức 1 (1848).
262. Văn chỉ bi kí , ký hiệu; 186 (VNCHN); sưu tầm tại Đền Bạch
Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội; Niên đại: Cảnh Hưng thứ 35 (1774).
263. Trùng tu Bạch Mã miếu thiêm đề lục ; Kh; 189
(VNCHN); Niên đại: Minh Mệnh 2 (1820).
254. Trùng tu Bạch Mã miếu bi ; Thác bản bia phường Hà
Khẩu, tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức
, sưu tầm tại đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội; Niên đại: Minh Mệnh 1
223
(1820).
, 255. Trùng tu Hán Phục Ba tướng quân từ bi ký;
Kh; 192 (VNCHN); Thác bản văn bia sưu tầm tại phường Hà Khẩu, huyện Thọ
Xương , sưu tầm tại Đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội; Niên
đại: Chính Hòa 8 (1687).
256. Bạch Mã thần từ bi ký , Kh 193 (VNCHN); Thác bản
), phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên (
sưu tầm tại đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội; Niên đại: Chính Hòa thứ 8
(1687).
257. Trùng tu Liên Phái tự, Ly Trần viện , Kh:
202/203 (VNCHN); Thác bản văn bia sưu tầm tại chùa Liên Phái, phường Bạch
Mai, Hà Nội; Niên đại: Tự Đức 12 (1831).
258. Trùng hưng Liên Phái tự, Li Trần viện , Kh; 204
(VNCHN). Thác bản văn bia sưu tầm tại chùa Liên Phái, phường Bạch Mai, Hà
Nội; Niên đại: Tự Đức 25 (1872).
259. Trùng tu Trấn Vũ quán bi ký , Kh: 228 (VNCHN)
Thác bản bia Quán Trấn Vũ, phường Thụy Chưong, tồng Trung, huyện Vĩnh
Thuận , sưu tầm ở Quán Trấn Vũ, Hà Nội; Niên đại; Tự Đức thứ
10 (1857).
260. Chân Vũ Quán thạch bi ( ), Kh; 229 (VNCHN); Thác bản
văn bia phường Thụy Chương, tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận ( , ,
), sưu tầm tại Quán Trấn Vũ, Hà Nội; Niên đại: Thành Thái 5 (1893).
261. Diệu cảm tu tâm kiến văn lạc đạo bi , Kh: 230
(VNCHN); Thác bản bia sưu tầm tại Quán Trấn Vũ, Hà Nội; Niên đại: Đức Long
224
thứ 5 (1633).
262. San thánh kinh ký tiên nhân khuyến thiện bi ; Kh:
231 (VNCHN); Thác bản bia sưu tầm tại Quán Chân Vũ, Hà Thành; Niên đại: Đức
Long thứ 5 (1633).
263. Trùng tu Huyền Thiên Quán bi ký , Kh; 261
(VNCHN); Thác bản tại Quán Huyền Thiên, tổng Đồng Xuân, huyện Thọ Xương
, sưu tầm tại Quán Huyền Thiên, phố Hàng Khoai, Hà Nội;
Niên đại: Tự Đức 21 (1868).
264. Trùng tu Huyền Thiên quán bi minh , Kh: 262;
(VNCHN); Thác bản văn bia phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương, phủ Phụng
Thiên , sưu tầm tại Quán Huyền Thiên, phố Hàng Khoai, Hà
Nội; Niên đại: Cảnh Trị thứ 6 (1668).
265. Tiền tài hậu công đồng đắc phúc, , Kh: 263
(VNCHN); Thác bản sưu tầm tại quán Huyền Thiên phố Hàng Khoai, Hà Nội; Niên
đại: Cảnh Thịnh 5 (1797).
266. Trùng tu Huyền Thiên quán bi minh , Kh: 264
(VNCHN); Thác bản văn bia phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương, phủ Phụng
Thiên , sưu tầm tại Quán Huyền Thiên, phố Hàng Khoai, Hà
Nội; Niên đại: Vĩnh Tộ (1619).
267. Trùng tu Huyền Thiên quán bi ký , Kh 264 (VNCHN);
Thác bản văn bia thôn Huyền Thiên, tổng Đồng Xuân, huyện Thọ Xương, phủ Hoài
Đức , sưu tầm tại quán Huyền Thiên, phố Hàng
Khoai, Hà Nội; Niên đại Đồng Khánh 1 (1886).
268. Cải kiến Linh Sơn cổ tự bi ký , Kh: 267 (VNCHN),
Thác bản văn bia tại thôn Yên Ninh Hạ, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức
, sưu tầm tại chùa Linh Sơn, thôn Yên Ninh; Niên đại: Minh Mệnh
225
9 (1828).
269. Vô đề, Kh: 269 ; Sưu tầm tại chùa Linh Sơn, thôn Yên Linh Hạ,
huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức .
270. Hồng Phúc tự cổ văn bi ký , Kh: 275/276/289/290
(VNCHN); Thác bản văn bia phường Hòe Nhai, Đông Bộ Đầu, Thăng Long
, sưu tầm tại chùa Hồng Phúc, phố Hàng Than, Hà Nội; Niên đại:
Chính Hòa 19 (1698).
271. Phúc Kiến Hội Quán hưng sang lục , Kh; 277
VNCHN ; Thác bản bia Hội Quán Phúc Kiến Thăng Long , sưu
tầm Quán Phúc Kiến, phố Phúc Kiến, Hà Nội; Niên đại: Gia Long 16 (1817).
272. Đông Môn tự bi ký ; Kh 317; Bia chùa Đông Môn, phố Hàng
Đường, Hà Thành (nay thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội); Niên đại tạo tác năm Vĩnh
Tộ 6 (1625).
273. Đông Môn tự, Kh: 318 (VNCHN); Bia chùa Đông Môn,
phường Hàng Đường, Hà Nội, không ghi tên tác giả, tạo năm Dương Hòa thứ 5
(1639).
274. Trùng tu Đông Môn tự chi bi , Kh: 319 (VNCHN);
Thác bản văn bia phường Hà Khẩu, , sưu tầm tại chùa Đông Môn, phố Hàng
Đường, Hà Nội; Niên đại: Gia Long 15 (1816).
275. Trùng tu Nhất trụ tự chí , Kh: 345 (VNCHN); Thác bản
sưu tầm tại chùa Một Cột, thôn Thanh Bảo, phố Ngọc Thanh, Đệ lục hộ, Hà Nội;
226
Niên đại ước đoán: Tự Đức thứ 17, Giáp Tý (1864).
276. Ký Kị bi , Kh: 348 (VNCHN); Thác bản văn bia sưu tầm tại
chùa Một Cột, thôn Thanh Bảo, phố Ngọc Thanh, đệ lục hộ, Hà Thành; Niên đại;
Tự Đức 13 (1860).
277. Nhất Trụ tự bi; Kh: 11301 (VNCHN); Bia chùa Diên Hựu,
phố Chùa Một Cột, quận Ba Đình, Hà Nội; Niên đại Đinh Mùi niên hiệu Thiệu Trị
7 (1847).
278. Đại Việt Quốc, Lý gia đệ Tam đế, Sùng Thiện Diên Linh tháp bi
, Bia chùa Long Đọi, xã Long Đọi, huyện Duy Tiên, tỉnh
Hà Nam; Niên đại Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1221), Tác giả sưu tầm.
279. Nhất trụ tự bi , Kh: 350 (VNCHN), Thác bản bia huyện Vĩnh
Thuận, phủ Hoài Đức, thành phố Hà Nội , sưu tầm tại chùa
Một Cột, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức (nay là Quận Ba Đình - Hà Nội).
280. Trùng tu Huy Văn Điện Dục Khánh tự bi ký :
Kh: 449 (VNCHN); Điện Huy Văn, chùa Dục Khánh, làng văn Chương, huyện
Hoàn Long (nay thuộc quận Đống Đa) Hà Nội, Niên đại Tự Đức thứ 17 (1864).
281. Cải kiến Linh Sơn cổ tự bi ký ; Kh: 267 (VNCHN);
Bia chùa Linh Sơn, làng Yên Ninh Hạ (nay thuộc quận Ba Đình, Hà Nội); Niên đại:
Minh Mệnh thứ 9 (1828).
282. Thịnh Đức hoằng công/ phúc diễn vô cương / , Kh;
13533/13534/13535/13536 VNCHN; Thác bản sưu tầm ở chùa Hồng Phúc, phố
Hàng Than, Hà Nội; Niên đại: Chính Hòa 24 (1703).
283. Vô đề, Kh: 14518 (VNCHN); Thác bản khánh chùa Bích Câu,
sưu tầm tại chùa Bích Câu, Hà Nội; Niên hiệu: Minh Mệnh thứ 10 (1829).
284. Vô đề , Kh: 14519 (VNCHN); Thác bản bia phường Bích Câu
Thành Thăng Long ( ), sưu tầm tại đền Bích Câu, Hà Nội; Niên đại:
227
Thành Thái thứ 9 (1897).
285. Trùng tu tiên thị tự bi ký, Kh: 15744 - 45 (VNCHN),
đặt tại chùa Lý Quốc Sư, thôn Tiên Thị, tổngTiên Túc, huyện Thọ Xương (nay
thuộc quận Hoàn Kiếm, Tp Hà Nội).
286. Vô đề ; Bia chùa Lý Quốc Sư (Chợ Tiên, phố Lý Quốc Sư (quận
Hoàn Kiếm), Hà Nội; Niên đại Tự Đức thứ 8 (1855), tác giả sưu tầm.
287. Đại Bảo tam niên Nhâm Tuất khoa Tiến sĩ đề danh kí (1442),
.
288. Thái Hòa lục niên Mậu Thìn khoa Tiến sĩ đề danh kí (1448),
.
289. Quang Thuận tứ niên Quý Mùi khoa tiến sĩ đề danh kí (1463),
.
290. Quang Thuận thất niên Bính Tuất khoa Tiến sĩ đề danh kí (1466),
.
291. Hồng Đức lục niên Ất Mùi khoa tiến sĩ đề danh kí (1475),
.
292. Hồng Đức cửu niên Mậu Tuất khoa tiến sĩ đề danh kí (1478),
.
293. Hồng Đức thập nhị niên Tân Sửu khoa tiến sĩ đề danh kí (1481),
.
294. Hồng Đức thập bát niên Đinh Mùi Tiến sĩ đề danh kí (1487),
.
295. Hồng Đức nhị thập thất niên Bính Thìn khoa Tiến sĩ đề danh kí (1496)
.
296. Cảnh Thống ngũ niên Nhâm Tuất khoa tiến sĩ đề danh kí (1502),
.
297. Hồng Thuận tam niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ đề danh kí (1511),
.
298. Hồng Thuận lục niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề danh kí (1514),
228
.
299. Hồng Thuận tam niên Mậu Dần khoa Tiến sĩ đề danh kí (1518),
.
300. Minh Đức tam niên Kỷ Sửu khoa Tiến sĩ đề danh kí (1529),
.
301. Thuận Bình lục niên Giáp Dần khoa Tiến sĩ đề danh kí (1554), 顺
.
302. Chính Trị bát niên Ất Sửu khoa Tiến sĩ đề danh kí (1565),
.
303. Gia Thái ngũ niên Đinh Sửu khoa Tiến sĩ đề danh kí (1577),
.
304. Quang Hưng tam niên Canh Thìn khoa tiến sĩ đề danh kí (1580),
.
305. Quang Hưng lục niên Quý Mùi khoa tiến sĩ đề danh kí (1583),
.
306. Quang Hưng thập nhị niên, Kỷ Sửu khoa Tiến sĩ đề danh kí (1589),
.
307. Quang Hưng thập nhũ niên Nhâm Thìn khoa Tiến sĩ đề danh kí (1592),
.
308. Quang Hưng thập bát niên Ất Mùi khoa Tiến sĩ đề danh kí (1595),
.
309. Quang Hưng nhị thập nhất niên, Mậu Tuất khoa Tiến sĩ đề danh kí,
.
310. Hoằng Định tam niên Nhâm Dần khoa Tiến sĩ đề danh kí (1602),
229
.
311. Hoằng Định ngũ niên Giáp Thìn khoa Tiến sĩ đề danh kí (1604),
.
312. Hoằng Định bát niên Đinh Mùi khoa tiến sĩ đề danh kí (1607),
.
313. Hoằng Định thập nhị niên Canh Tuất khoa Tiến sĩ đề danh kí (1610),
.
314. Hoằng Định thập thất niên Bính Thìn khoa tiến sĩ đề danh kí (1616),
.
315. Hoằng Định thâp cửu niên Kỷ Mùi khoa Tiến sĩ đề danh kí (1619),
. 316. Vĩnh Tộ ngũ niên Quý Mùi khoa Tiến sĩ đề dnah kí (1623),
.
317. Vĩnh Tộ thập niên Mậu Thìn khoa Tiến sĩ đề danh kí (1628),
.
318. Đức Long tam niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ đề danh kí (1631),
.
319. Dương Hòa tam niên Đinh Sửu khoa Tiến sĩ đề danh kí (1637),
.
320. Dương Hòa lục niên Canh Thìn Khoa Tiến sĩ đề danh kí (1640),
.
321. Phúc Thái tứ niên Bính Tuất khoa Tiến sĩ đề danh kí (1646),
230
.
322. Khánh Đức nhị niên Canh Dần khoa Tiến sĩ đề danh kí (1650),
.
323. Khánh Đức tứ niên Nhâm Thìn khoa Tiến sĩ đề danh kí (1652),
.
324. Thịnh Đức tứ niên Bính Thân khoa Tiến sĩ đề danh kí (1656),
.
325. Vĩnh Khánh nhị niên Kỷ Hợi tiến sĩ đề danh kí (1659),
.
326. Vĩnh Thọ tứ niên Tân Sửu khoa Tiến sĩ đề danh kí (1661),
.
327. Cảnh Trị nhị niên Giáp Thìn khoa Tiến sĩ đề danh kí (1664),
.
328. Cảnh Trị ngũ niên Đinh Mùi khoa tiến sĩ đề danh kí (1667),
.
329. Cảnh Trị bát niên Canh Tuất khoa tiến sĩ đề danh kí (1670),
.
330. Dương Đức nhị niên Quý Sửu khoa Tiến sĩ đề danh kí (1673),
.
331. Vĩnh trị nguyên niên Bính Thìn khoa Tiến sĩ đề danh kí (1676),
.
332. Vĩnh Trị ngũ niên Canh Thân khoa Tiến sĩ đề danh kí (1680),
231
.
333. Chính Hòa tứ niên Quý Hợi khoa Tiến sĩ đề danh kí (1683),
.
334. Chính Hòa lục niên Ất Sửu khoa Tiến sĩ đề danh kí (1685),
.
335. Chính Hòa cửu niên Mậu Thìn khoa tiến sĩ đề danh kí (1688),
.
336. Chính Hòa thập nhị niên Tân Mùi khoa tiến sĩ đề danh kí (1691),
.
337. Chính Hòa thập ngũ niên Giáp Tuất khoa tiến sĩ đề danh kí (1694),
.
338. Chính Hòa thập bát niên Đinh Sửu khoa tiến sĩ đề danh kí (1697),
.
339. Chính Hòa nhị thập nhất niên Canh Thìn khoa tiến sĩ đề danh kí (1700),
.
340. Chính Hòa nhị thập tứ niên Quý Mùi khoa tiến sĩ đề danh kí (1703),
.
341. Vĩnh Khánh nhị niên Bính Tuất khoa tiến sĩ đề danh kí (1706),
.
342.Vĩnh Thịnh lục niên Canh Dần khoa tiến sĩ đề danh kí (1710),
232
.
343. Vĩnh Thịnh bát niên Nhâm Thìn khoa tiến sĩ đề danh kí (1712),
.
344. Vĩnh Thịnh thập nhất niên Ất Mùi khoa tiến sĩ đề danh kí (1715),
.
345. Vĩnh Thịnh thập tứ niên Mậu Tuất khoa tiến sĩ đề danh kí (1718),
.
346. Bảo Thái nhị niên Tân Sửu khoa tiến sĩ đề danh kí (1721),
.
347. Bảo Thái ngũ niên Giáp Thìn khoa tiến sĩ đề danh kí (1724),
.
348. Bảo Thái bát niên Đinh Mùi khoa tiến sĩ đề danh kí (1727),
.
349. Vĩnh Khánh tam niên Tân Hợi khoa tiến sĩ đề danh kí (1731),
.
350. Long Đức nhị niên Quý Sửu khoa tiến sĩ đề danh kí (1733),
.
351. Vĩnh Hựu nhị niên Bính Thìn khoa tiến sĩ đề danh kí (1736),
.
352. Vĩnh Hựu ngũ niên Kỷ Mùi khoa tiến sĩ đề danh kí (1739),
.
353. Cảnh Hưng tứ niên Quý Hợi khoa tiến sĩ đề danh kí (1743),
233
.
354. Cảnh hưng thất niên Bính Dần khoa tiến sĩ đề danh kí (1746),
.
355. Cảnh Hưng cửu niên Mậu Thìn khoa tiến sĩ đề danh kí (1748),
.
356. Cảnh Hưng thập tam niên Nhâm Thân khoa tiến sĩ đề danh kí (1752),
.
357. Cảnh Hưng thập ngũ niên Giáp Tuất khoa tiến sĩ đề danh kí (1754),
.
358. Cảnh Hưng thập bát niên Đinh Sửu khoa tiến sĩ đề danh kí (1757),
.
359. Cảnh Hưng nhị thập nhất niên Canh Thìn khoa tiến sĩ đề danh kí (1760),
.
360. Cảnh Hưng nhị thập tứ niên Quý Mùi khoa tiến sĩ đề danh kí (1763),
.
361. Cảnh Hưng nhị thập thất niên Bính Tuất khoa tiến sĩ đề danh kí (1766),
.
362. Cảnh Hưng tam thập niên Kỷ Sửu khoa tiến sĩ đề danh kí (1769), 叁
.
363. Cảnh Hưng tam thập niên Nhâm Thìn khoa tiến sĩ đề danh kí (1772), 叁
.
364. Cảnh hưng tam thập lục niên Ất Mùi khoa tiến sĩ đề danh kí (1775), 叁
234
.
365. Cảnh Hưng tam thập cửu niên Mậu Tuất khoa tiến sĩ đề danh kí (1778),
叁
366. Cảnh Hưng tứ thập niên Kỷ Hợi khoa tiến sĩ đề danh kí (1779),
4. Tiếng Trung Quốc
367. Trần Chí Bình (2010), Thư học sử liệu học, Nhân dân Nghệ thuật,
(2010), , .
368. Chu Khiêm Chi (2008), Trung Quốc triết học sử sử liệu học, Trung Hoa thư
cục (2008), , .
369. Dương Hồng Huân (2009), Cung điện khảo cổ thông luận, Tử Cấm Thành xuất
bản xã, Bắc Kinh (2009), , . ,
370. Trần Cao Hoa (2006), Trung Quốc cổ đại sử sử liệu học, Thiên Tân cổ tịch
xuất bản xã. (2006), . ,
371. Phùng Nhĩ Khang (2012), Thanh sử sử liệu học, Cố Cung xuất bản xã 尔
(2012) , .
372. Dương Khoan (2006), Trung Quốc cổ đại đô thành chế độ sử, Thượng Hải
Nhân dân xuất bản xã , (2006), , .
373. Trương Kỳ Mạn (2015), Minh đường, Thiên đường, Bắc Kinh xuất bản xã
, (2015), , .
374. Trương Đại Niên (1982), Trung Quốc triết học sử liệu học, Tân Tri tam liên
235
thư điếm (1982), , .
375. Từ Hữu Phú (2008), Trung Quốc cổ điển văn học sử liệu học, Bắc Kinh đại
học xuất bản xã (2008), , .
376. Chu Khứ Phi (đời Tống biên soạn), Dương Vũ Tuyền (hiệu chú) (2012), Lĩnh
ngoại đại đáp hiệu chú, Trung Hoa thư cục ấn hành, Bắc Kinh; ( ), 杨
书 , , .
377. Lưu Khánh Trụ, Lý Phồn Phương, Hán Trường An thành, Bắc Kinh, Văn Vật
xuất bản xã (2003) , (2003). . , .
5. Tài liệu Internet
236
378. Website tỉnh Bắc Ninh
PHẦN PHỤ LỤC
Bảng kê nội dung các danh mục bảng thống kê
Tt
Nội dung danh mục các bảng thống kê
Trang
221
221
A
Bảng 2: Bảng thống kê Tên gọi “Đại Nội” thời Lý
221
Bảng 3: Bảng thống kê tên gọi “Long Trì”
222
222
Bảng 4: Bảng thống kê tên gọi Long thành
và Phượng Thành
Bảng 5: Bảng thống kê tên gọi “Cấm Đình”
223
Bảng 6: Bảng thống kê tên gọi “Cấm Thành”, “Cấm Nội”, “Cung Cấm”
223
224
Bảng 7: Bảng thống kê tên gọi các công trình kiến trúc ở Thăng Long thời Lý - Trần - Hồ.
Bảng 8: Bảng thống kê các “điện” trong Hoàng Thành Thăng Long
225
Bảng 9: Bảng thống kê tên gọi “Đông Cung Thái Tử” thời Lý
229
229
Bảng 10: Bảng thống kê các năm xuất hiện rồng ở các điện trong Cấm Thành Thăng Long
230
Bảng 11: Bảng thống kê về các “điện” được các vị Hoàng đế triều Lý nghỉ ngơi cuối đời
Bảng 12: Bảng thống kê tên gọi các “Cung” thời Lý
230
Bảng 13: Bảng thống kê tên gọi các “Lầu - Gác” thời Lý
231
Bảng 14: Bảng thống kê tên gọi các “Cửa” thời Lý
232
Bảng 15: Bảng thống kê tên gọi các đền, đình thời Lý
233
233
Bảng 16: Bảng thống kê tên gọi các loại “đàn tế” thời Lý trên kinh đô Thăng Long
Bảng 17: Bảng thống kê tên gọi các loại “Kho” trong Cấm Thành
234
Bảng 18: Bảng thống kê các năm đặt lầu chuông, hòm đồng trên sân Long Trì
234
Bảng 19: Bảng thống kê sử liệu ghi về Văn Miếu thời Lý
234
235
Bảng 20: Bảng thống kê các hoạt động Phật giáo thời Lý tại Kinh đô Thăng Long
236
Bảng 21: Bảng thống kê những vị thiền sư tiêu biểu quê quán hoặc trụ trì ở một số ngôi chùa trong Cấm thành Thăng Long
Bảng 22: Bảng thống kê các năm xây dựng Đạo giáo thời lý
237
Bảng 23: Bảng thống kê các hoạt động tiêu biểu của Đạo giáo tại Hoàng thành
237
237
Phụ lục I: Bảng thống kê các sự kiện liên quan đến quy mô và cấu trúc HTTL thời Lý - Trần - Lê Bảng 1: Bảng thống kê các tên gọi khác nhau của thành Đại La, Đô hộ phủ, Cựu kinh trong các bộ chính sử.
Tt
Nội dung danh mục các bảng thống kê
Trang
Thăng Long thời Lý
Bảng 24: Bẳng thống kê tên gọi phường - chợ thời Trần
238
239
Bảng 25: Bảng thống kê tên gọi gắn với các chức năng của các điện và tên gọi diễn ra trong chính sử thời Lê
240
Bảng 26: Bảng thống kê các sự kiện liên quan đến việc xây dựng, trùng tu các công trình xây dựng trong Hoàng Thành và Cấm Thành Thăng Long thời Lê
246
Bảng 27: Bảng thống kê tên gọi “Hành cung” thời lý bên Hoàng Thành Thăng Long
246
Bảng 28: Bảng thống kê tên gọi các “Ao” trong Cấm Thành và Kinh Thành Thăng Long thời Lý
247
Bảng 29: Bảng thống kê tên gọi các cây “Cầu” được xây dựng trong Cấm Thành Thăng Long thời Lý
Bảng 30: Bảng thống kê tên gọi vườn trong khu vực Cấm Thành Thăng Long
247
Bảng 31: Bảng thống kê tên gọi “Trạm” thời Lý
248
Bảng 32: Bảng thống kê tên gọi “đài” thời Lý
248
248
Bảng 33: Bảng thống kê các hoạt động xây dựng nhà chứa Kinh, chép Kinh, in khắc Kinh tạng thời Lý
Bảng 34: Bảng thống kê các lễ hội tổ chức trong Hoàng Thành Thăng Long
249
Bảng 35: Bảng thống kê tên gọi các phiên đội bảo vệ Hoàng thành thời Lý
250
250
Bảng 36: Bảng thống kê những quy định về tổ chức và sinh hoạt văn hóa tinh thần thời Lý
252
Bảng 37: Bảng thống kê một số quy định về phong tục trong Hoàng cung triều Lý
Bảng 38: Bảng thống kê những năm bị thiên tai, hỏa hoạn
252
Tƣ liệu thống kê thời Trần
Bảng 39: Bảng thống kê các sự kiện diễn ra các hoạt động tại các điện thời Trần
253
Bảng 40: Bảng thống kê tên gọi các “cung” thời Trần
254
Bảng 41: Bảng thống kê tên gọi “Đông Cung” thời Trần
256
Bảng 42: Bảng thống kê tên gọi các “cửa” thời Trần
256
Bảng 43: Bảng thống kê tên gọi các “hồ” thời Trần
257
257
Bảng 44: Bảng thống kê so sánh đặc điểm, quy mô kiến trúc Kinh Thành, Hoàng Thành và Tử Cấm Thành Kinh đô Huế thời Nguyễn
259
B
Phụ lục II: Sơ đồ về quy mô, kiến trúc thời Lý - Trần - Lê
259
Sơ đồ 1: Vị trí các “Cung,” “điện” xây dựng khoảng các năm 1010 - 1011 dưới thời Lý Thái Tổ, (theo GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, 2016.)
259
Sơ đồ 2: Sơ đồ phục dựng quy hoạch Thăng Long năm 1010 (của Lê Văn Lan (2004), được sửa chữa bởi Yao Takao (2007) và Momoki Shiro (2010), bản bổ
238
Tt
Nội dung danh mục các bảng thống kê
Trang
sung của TS Phạm Lê Huy (2016).
260
Sơ đồ 3: Vị trí các “Cung”, “Điện” khoảng năm 1029 - 1030 dưới thời Lý Thái Tông (bản vẽ của GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, 2016)
261
Sơ đồ 4: Sơ sồ hình dung trục trung tâm Thăng Long thời Lý sau năm 1029 (bản vẽ của TS Phạm Lê Huy, 2016)
261
Sơ đồ 5: Phỏng đoán Tân Cung dưới thời Lý Cao Tông; (bản vẽ của GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, 2016)
262
Sơ đồ 6: Thăng Long thời Trần (một giả thuyết). Theo bản vẽ của GS.TS Momoki Shiro, 2016, tr 257)
262
Sơ đồ 7: Tương quan vị trí của Dương Minh Môn và các kiến trúc khác tại Thăng Long thời Trần, (bản vẽ của TS Phạm Lê Huy, 2016, tr 185)
263
Sơ đồ 8: Thăng Long thời Trần (một giả thuyết). Theo GS.TS Nguyễn Quang Ngọc, 2016)
263
Sơ đồ 9: Hình dung trục trung tâm Thăng Long thời Trần (bản vẽ của TS Phạm Lê Huy, 2016)
264
Sơ đồ 10: Tương quan vị trí Dương Minh Môn và các kiến trúc khác tại Thăng Long thời Trần, bản vẽ của Phạm Lê Huy, 2016
Sơ đồ 11: Hình dung trục trung tâm thời Trần (Bản vẽ của Phạm Lê Huy)
264
265
Sơ đồ 12: Vết tích kiến trúc Lý được phát hiện tại khu vực điện Kính Thiên (từ năm 2011- 2013), Vẽ theo sơ đồ của Hà Văn Cẩn, tr 156
265
Sơ đồ 13: Cấm thành Thăng Long phỏng theo Hồng Đức bản đồ (Bản vẽ sơ đồ của GS. Nguyễn Quang Ngọc, 2016)
266
Sơ đồ 14: Di tích Cổng Đoan Môn và điện Kính Thiên thời Lê trong sơ đồ so sánh vị trí với đường nước lớn (thời Lý) mới khai quật năm 2012 - 2013, bản vẽ của Hà Văn Cẩn, 2016
Bản đồ 1: Hồng Đức bản đồ, Bản Đông Dương văn khố Tokyo, kí hiệu: 2599.
267
Bản đồ 2: Bản đồ Hà Nội trong tập sách Đồng Khánh địa dư chí
268
Bản đồ 3: Hoàng thành và Cấm Thành Thăng Long trong HĐBĐ
269
270
Bản đồ 4: Bản đồ 2 huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận trong tập sách Đồng Khánh địa dư chí lược
Bản đồ 5: Bản đồ Hà Nội và Hoàng Thành Thăng Long nửa đầu thế kỷ XIX
271
272
C
Phụ lục III: Sử liệu chữ viết (Mộc bản: MB)
MB1: ĐVSKTT ghi về quy mô thành Đại La
272
MB2: ĐVSKTT, thời Lý Nhân Tông ghi việc sửa thành Đại La
273
273
MB3: ĐVSKTT, ghi về đời Lý Anh Tông làm cung Lệ Thiên và cung Long Khánh
274
MB4: ĐVSKTT ghi về đời Trần Thái Tông lập các cung điện ở hai bên phía Đông, phía Tây, làm cung Thánh Từ cho Thượng Hoàng ở và cung Quan Triều
239
Tt
Nội dung danh mục các bảng thống kê
Trang
cho vua ở.
MB5: KĐVSTGCM ghi về việc thay đổi tên gọi của HTTL trong lịch sử
274
MB6: KĐVSTGCM ghi về việc Lý Thái Tổ cho xây điện Thiên An
275
MB7: KĐVSTGCM ghi về việc đổi Đông Đô làm Đông Kinh đời Lê Thái Tổ
275
276
MB8: KĐVSTGCM ghi về việc đời Lê niên hiệu Hồng Đức (1477) đắp Thành Đại La
276
MB9: VSCB, ghi việc triều Lê Thái Tông, vua Mạc trở về thành Thăng Long, sửa sang thành trì
277
MB 10: ĐNTLCB: ghi việc triều Nguyễn cho xây dựng Hành cung ở Bắc Thành, xây thêm điện Cần Chánh trước ĐKT
MB 11: ĐNTLCB ghi việc đầu triều Nguyễn cho đắp thêm thành trì
278
278
MB 12: ĐNTLCB ghi việc xây dựng các công trình như điện Thị Triều, điện Cần
Chánh, nhà dài phía trước Ngũ Môn đều dùng ngói lợp
279
D
Phụ lục IV: Sử liệu ảnh (A)
279
280
280
A1: Ảnh điện Kính Thiên và bậc thềm rồng ở vào thời Lê Trung hưng (1685), bản vẽ của Samucl Baron, 1685, (Nguồn: Nguyễn Thị Chân Quỳnh (2007), Thi Đình Việt Nam, Nxb Văn học A2: Nhà Thập đạo trong HTTL - do Hoàng đế tổ chức chấm thi Đình A3: Điện Kính Thiên thời Nguyễn đổi tên thành điện Long Thiên (khoảng những năm trước 1886).
281
A4: Khu vực sân điện Kính Thiên và thềm rồng khoảng đầu thế kỷ XX (ảnh Internet)
281
A5: Ảnh khu vực Điện Kính Thiên cuối TK XIX - trở thành nơi đóng quân của quân đội Pháp
A6: Cửa Đông Nam thành Hà Nội, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
282
283
E
Phụ lục V: Sử liệu ảnh di tích, di vật Khảo cổ học (VT)
288
F
Phụ lục VI: Sử liệu thƣ tịch cổ và điển chế trong HTTL
293
G Phụ lục VII: Văn bia đề cập đến Tứ trấn, kinh thành và hoàng thành Thăng
long thời Lý - Trần - Lê
240
Phụ lục I: Hệ thống bảng thống kê số liệu các công trình thời Lý - Trần - Lê
Bảng1: Bảng thống kê các tên gọi khác nhau của thành Đại La, Đô Hộ phủ,
Cựu Kinh trong các bộ chính sử
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
VSL TT TB Ghi chú
La Thành
1
767
Cao Biền (…) đắp La Thành làm đô vững chãi
x
Đại La
1010
Vua từ thành Hoa Lư sắm sửa xe rồng đi ra thành Đại La đóng đô,
2
Đại La
1010
x
(…) Vua từ thành Hoa Lư, dời đô ra Kinh phủ ở thành Đại La, tạm đỗ thuyền
Đại La
3
1154
x
Vua ngự ra cửa Nam thành Đại La xem đắp đàn Viên Khâu
Đô Hộ Phủ
4
1107
x
Năm Đinh Hợi, hiệu Long Phù Nguyên Hóa thứ 7 (1107), tháng chạp xây đô hộ phủ
Đô Hộ Phủ
5
1126
x
Mùa xuân, tháng giêng, mở hội đèn Quảng Chiếu bảy ngày đêm. Tha người có tội giam ở phủ Đô Hộ
Cựu Kinh
6
1219
x
Kiến Gia năm thứ 9 (1219), Mùa hạ, tháng 6, (…) Ngày ất sửu, vua ngự ra bến Triều Đông ở Cựu kinh xem chư quân đánh Nộn
Bảng 2: Bảng thống kê tên gọi “Đại nội” thời Lý
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
VSL TT TB
Ghi chú
Đại Nội
1
1045
Dựng bia ở Đại Nội
x
x
Đại nội
1048
x
Mùa xuân, tháng 3, dựng Bia ở Đại Nội
Đại Nội
2
1055
Sửa các cung ở trong Đại nội
x
Đại Nội
3
(?)
NCTUTA, (1999), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr 292, 293; Không ghi năm
Vua Lý Nhân Tông nghe tiếng sư, xuống chiếu mời Sư vào Đại nội để giảng kinh Pháp Hoa
Đại Nội
5
1063
x
Tháng 6, xây cung Động Tiên ở phía Đông Đại Nội
241
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
VSL TT TB
Ghi chú
Đại Nội
6
1074
Đại Nội
6
1203
x
Tháng 3, ngày Canh Ngọ, vua, Thái tử trở về Đại Nội
Bảng 3: Bảng thống kê tên gọi “Long trì”
TT
Năm
Tên gọi
Sự kiện
VSL
TT
TB Ghi chú
Long Trì
1
1010
x
Hướng chính Nam dựng điện Cao Minh, đều có thềm rồng (giai viết Long Trì: đều gọi là Long Trì)
Long Trì
2
1029
x
Bên tả dựng điện Tuyên Đức, bên hữu dựng điện Diên Phúc, thềm trước điện goi là Long Trì (thềm rồng)
Long Trì
3
1052
Đúc chuông lớn đặt ở Long Trì
x
x
Long Trì
4
1127
x
Sai cấm quân cầm binh khí đứng ở dưới điện Thiên An, rồi ra lệnh mở cửa nách bên hữu, gọi các quan vào Long Trì
Long Trì
5
1128
x
tháng 2, ngày Canh Ngọ, vua ngự điện Thiên An xem Quốc nhân Hội thề ở Long Trì
Bảng 4: Bảng thống kê tên gọi Long Thành và Phƣợng Thành
Tt
Năm Tên gọi
Sự kiện
VSL TT TB Ghi chú
Long Thành
1
1028
x
Sai Hữu ty mở rộng quy mô, nhắm lại phương phướng mà làm lại, đổi tên điện là điện Thiên An. Bên tả dựng điện Tuyên Đức, bên hữu dựng điện Diên Phúc, thềm đước điện gọi là Long Trì (thềm rồng). Phía Đông thềm rồng đặt điện Văn Minh, phía Tây đặt điện Quảng Vũ, hai bên tả hữu thềm rồng đặt lầu chuông đối nhau để dân chúng ai có việc kiện tụng oan uổng thì đánhchuông lên. Bốn xung quanh thềm rồng đều có hành lang để tụ họp các quan và sáu quân túc vệ. Phía trước làm điện Phụng Thiên, trên điện dựng lầu Chính Dương làm nơi trông coi tính toán giờ khắc, phía sau làm điện Trường Xuân, trên điện dựng gác Long Đồ làm nơi nghỉ ngơi du ngoạn. Bên ngoài đắp một lần thành bao quanh gọi là Long Thành
LongTt hành
2
1028
x
Vũ Đức nghe tin, đều đem quân vào Cấm Thành, chia ra phục ở trong Long Thành
242
Tt
Năm Tên gọi
Sự kiện
VSL TT TB Ghi chú
Phượng Thành
3
1049
x
Mùa thu, tháng 8, đào ngòi ngự ở phía ngoài Phượng Thành,
Phượng Thành
4
1074
x
Mùa thu, tháng 8, đào ngòi ngự ở phía ngoài Phượng Thành
Bảng 5: Bảng thống kê tên gọi Cấm Đình
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
VSL TT TB Ghi chú
Cấm Đình
x
1
1074
Chim sẻ trắng đậu ở Cấm Đình
Cấm Đình
x
2
Đỗ Anh Vũ ra vào Cấm Đình, tư thông với Mẫu hậu, không tội gì to bằng
Cấm Đình
x
3
1111
Chim se trắng đến Cấm Đình
Cấm Đình
x
4
1148
Đỗ Anh Vũ nói với vua: Trước đây, bọn Đái tự tiện đem binh vào Cấm Đình, tội chúng không gì to bằng , xin trừ đi.
Cấm Đình
x
5
1150
Đỗ Anh Vũ ra vào Cấm Đình, tư thông với Mẫu hậu, không tội gì to bằng
Cấm Đình
x
6
1224
Ủy nhiệm cho một mình chỉ huy sứ Trần Thủ Độ quản lĩnh các quân điện tiền hộ vệ Cấm Đình
Bảng 6: Bảng thống kê tên gọi Cấm Thành, Cấm Nội, Cung cấm
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
VSL TT TB Ghi chú
Cấm Thành
1
1024
x
Mỗi vệ đều chia làm tả, hữu trực ở nhà xung quanh để bảo vệ trong Cấm Thành
Cấm Thành
x
2
1213
Ngày Tân dậu, Tự Khánh dẫn quân vào trong Cấm Thành, đốt cầu Ngoạn Thiềm
Cấm Thành
x
3
1214
lúc bấy giờ vua ở Đình Trà, nghe tin các quân đều thất bại, rất sợ hãi, sai xe giá vào Cấm Thành rước Thái hậu cùng lên thuyền định đi Lạng Châu.
Cấm Nội
x
4
1137
Ban đêm rồng vàng từ cung Thái Thanh bay vào trong Cấm Nội
Cấm Nội
x
5
1148
Ở trong Cấm Nội không được kết hội 5, 3 người bàn bạc việc phi nghĩa, ai trái phạm bị tội
243
Cung cấm
6
1150
x
Cấm các quan trong triều không được đi lại nhà các Vương Hầu, ở trong Cung cấm không được hội họp nhau năm, ba người bàn luận chê bai, ai phạm thì trị tội
Cung cấm
7
1225
x
Thủ Độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong Cung cấm Bảng 7: Bảng thống kê tên gọi các công trình kiến trúc ở Thăng Long thời Lý -
Trần - Hồ
Triều đại/Loại hình
Tổng
Triều Lý (1009- 1225)
Triều Trần 1225- 1400
Triều Hồ 1400- 1407
1
19
10
30
Cung
49
1
50
Điện
15
15
Gác
3
1
4
Lầu
6
6
Đài
7
2
9
Đình
4
8
12
Sân, bậc
/
25
25
Cổng
2
1
3
Hành lang
5
5
Kho tàng
6
3
9
Vườn
5
1
1
7
Áo, hồ
/
Giếng
17
12
29
Hành cung phủ đệ
11
6
17
Hành cung
6
6
12
Phủ đệ
6
2
8
Kiến trúc lễ chế
2
1
3
Đàn miếu
/
4
14
3
21
Lăng mộ
/
1
1
Văn Miếu
244
Kiến trúc tôn giáo
23
89
112
14
61
75
Chùa
7
7
Tháp
3
3
Am
1
8
9
Đạo quán
5
11
16
Đền
2
2
Miếu
Tổng
109
821
8
1183 (Nguồn: Đặng Hồng Sơn (2016): “Gạch ngói vật liệu trang trí trên mái thời
Lý - Trần - Hồ đã thống kê” Loại hình và số lượng kiến trúc được ghi chép trong
sách Việt sử lược và Đại Việt sử kí toàn thư (Xem bảng 2, tr 14), tác giả đã chia làm
6 loại hình: 1. Kiến trúc Kinh Thành; 2. Hành cung phủ đệ; 3 Kiến trúc Lễ chế; 4.
Lăng mộ, Văn Miếu và kiến trúc tôn giáo).
Bảng 8: Bảng thống kê tên gọi các điện trong Hoàng Thành Thăng Long
Năm
Tên điện
Sự kiện
VSL
TT
TB
Ghi chú
Tt
X
Xem đua thuyền
1
1012 Hàm Nguyên
Vua ngự
x
1012 Hàm Quang
Long An,
1012
Chữa
x
Long Thụy
x
x
2
Sét đánh
x
1017 Càn Nguyên
Sách Cương mục ghi phía đông là điệnTập hiền
Điện phía Đông
x
3
1020
x
x
Khởi dựng 3 điện, coi trầu ở điện phía trước, 2 điện phía sau nghe chính sự (CM ghi điện phía Tây = Giảng Võ)
4
Vua băng
1028 Long An
245
Tt
Năm
Tên điện
Sự kiện
VSL
TT
TB
Ghi chú
Càn Nguyên
,
Tuyên Đức
,
Diên Phúc
,
5
1029
Xây dựng mới
x
x
x
,
Văn Minh
Quảng Vũ
,
PhụngTiên
,
Trường Xuân
6
Xây dựng
1030 Thiên Khánh
7
Ban yến
x
1032 Thiên An
8
Cỏ Chi mọc
x
x
1035 Thiên Khánh
9
Đua thuyền
x
x
1038 Hàm Quang
10
Xử kiện
x
x
1040 Quảng Vũ
Trường Xuân
11
1043
x
Cái khiên tự chuyễn động
Trường Xuân
12
1054
Vua băng
x
x
13
Hội La Hán
x
1056 Thiên An
Hồ Thiên Bát Giác
14
1058
x
Xây dựng ở bên cạnh ao Kim Minh
Rồng vàng hiện
x
1058 Vĩnh Thọ
Kiến Lê,
1058
Xây dựng
x
Sùng Nghi
15
x
1059 Thiên Khánh
Các quan vào chầu
16
Rồng vàng hiện
x
1059 Vĩnh Thọ
Trường Xuân
1059
Rồng vàng hiện
x
17
Xử kiện
x
1064 Thiên Khánh
Đại Minh
,
18
1065
Rồng vàng hiện
x
Hội Nguyên
246
Tt
Năm
Tên điện
Sự kiện
VSL
TT
TB
Ghi chú
,
Diệu Linh
Diệu Linh
,
19
1068
Rồng vàng hiện
x
Hội Tiên
Rồng vàng hiện
20
x
1069 Long Quang
Xây dựng
x
x
21
1070 Tử Thần
Vua băng
x
22
x
1072 Hội Tiên
Rồng vàng hiện
x
1072 Vĩnh Thọ
Rồng vàng hiện
x
1072 Vĩnh Thọ
13
x
1077 Thiên An
Hội Nhân Vương
14
Xem đua thuyền
1080 Linh Quang
25
1083 Thiên Khánh
Duyệt định các Hoàng nam, chi 3 bậc
26
Rồng bay lên
x
x
1083 Hội Tiên
VSL ghi cả hai điện Tử Thần rồng hiện lên
27
x
1104 Thiên An
Diên Thành Hầu lấy hốt đánh Trung Nghĩa Hầu
28
Rồng hiện lên
x
1112 Vĩnh Quang
29
Rồng hiện lên
x
1113 Đại Minh
30
Ban áo mùa thu
x
x
1123 Tiên An
31
Hoàn thành
x
1125 Sùng Dương
Mở yến tiệc ba ngày đêm
32
Rồng hiện
x
1126 Vĩnh Quang
33
Vua băng
x
x
x
1127 Vĩnh Quang
x
Thiên An
Cấm quân đứng ở dưới điện
34
x
x
1128 Thiên An
Vua ngự lễ vu lan
35
x
1129 Linh điện
Làm thần chủ
247
Tt
Năm
Tên điện
VSL
TT
TB
Ghi chú
Sự kiện Lý Nhân Tông
Duyệt sáu quân
x
1129 Thiên Linh
Xây dựng
x
1129 Quảng Văn
x
1129 Linh Cảm
Ban yến cho quần thần
36
Xây dựng
x
1132 Cảm Linh
37
x
1133 Đại Minh
Hội đèn Quảng Chiếu Diên Mệnh
Rồng hiện
x
Vĩnh Quang
38
Sửa chũa
x
1134 Vĩnh Quang
Rồng hiện
1134 Vĩnh Quang
Sửa chữa
1134 Diên Sinh
39
x
1136 Sùng Uyên
Vua ngự ngày lập xuân, quần thần dâng biểu mừng
x
40
Vua băng
x
1138 Vĩnh Quang
41
x
1141 Vĩnh Thọ
Rồng hiện ở cây chanh sau điện
Rồng hiện
42
x
1143 Vĩnh Thọ
Sửa chữa
43
x
1164 Thiên An
Vua băng
44
x
1175 Thụy An
45
x
1179 Phụng Minh
Các Hoàng nam chép thơ cổ
Rồng hiện
46
x
1194 Vĩnh Thọ
47
x
1195 Thiên An
Ban yến mùa xuân
48
Xử kiện
x
1198 Thiên Khánh
Tẩn điện,
49
1203
Xây dựng
x
Thiên Thụy
Dương Minh
248
Tt
Năm
Tên điện
Sự kiện
VSL
TT
TB
Ghi chú
Thiền Quang
Chính Nghị
Kính Thiên
Thắng Thọ
50
Xây dựng
x
1204 Thắng Thọ
,
Thắng Thọ
51
1205
x
Thiên Thọ
,
Xây dựng xong, vua ban yến cho quần thần 3 ngày đêm
52
x
1210 Sùng Dương
Táng vua ở điện Sùng Dương
53
Bị động đất
x
1213 Chính Nghị
54
Vua…
x
1214 Đại An
55
Ở nhà Đỗ An
x
1215 Thảo điện
56
x
1216 Thảo điện
Trần Tự Khánh trả lại Kim ỷ (ghế vàng)
57
Coi chầu
x
1222 Thiên An
58
x
1225 Thiên An
Xem lễ nạp thái của con trai Thái úy Hiển Đạo Vương Hải
59
x
1225 Thiên An
Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh
(Bảng VIII: Các Điện trong Hoàng Thành Thăng Long thời Lý; Nguồn: Việt
sử lược (VSL), Trung tâm Văn hóa Đông Tây (2005); Đại Việt sử kí toàn thư, (TT),
249
(1998), NXB Khoa học xã hội; Đại Việt sử kí Tiền biên (TB), (1997).
Bảng 9: Bảng thống kê tên gọi Đông Cung Thái tử thời Lý
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
VSL
TT
TB Ghi chú
Đông cung
1
1033
Thái tử ở phía Đông “Đông Cung Thái tử”
x
Đông cung
2
1033
x
Tháng 8 phong Đông Cung Thái Tử [Nhật Tôn] làm Khai Hoàng Vương ở cung Long Đức
Bảng 10: Bảng thống kê các năm xuất hiện rồng hiện ở các điện trong Cấm
Thành Thăng Long.
Điện
Năm
Tt
Sự kiện
Vĩnh Quang
1012
1
Rồng vàng hiện
Càn Nguyên
1020
2
Rồng vàng hiện
Long Đức
1058
3
Rồng vàng hiện
1059
4
Rồng vàng hiện
Đại Minh
, Hội Nguyên
Diệu Ninh
1065
5
Rồng vàng hiện
Diệu Ninh
1065
6
Rồng vàng hiện
Diệu Ninh
寜
1068
7
Rồng vàng hiện
Long Quang
1069
8
Rồng vàng hiện
Vĩnh Thọ
夀
1072
9
Rồng vàng hiện
Vĩnh Thọ
夀
1073
10
Rồng vàng hiện
1083
11
Rồng vàng hiện
Tử Thần
, Hội Tiên
Trong điện (?)
1112
12
Rồng đen hiện
Đại Minh
1113
13
Rồng vàng hiện
Vĩnh Quang
1126
14
Rồng vàng hiện
Vĩnh Quang
1132
15
Rồng vàng hiện
Vĩnh Quang
1134
16
Rồng vàng hiện
1141
17
Rồng vàng hiện
Vĩnh Thọ
夀 (hiện ban đêm, ở cây chanh)
Vĩnh Thọ
夀
1143
18
Rồng vàng hiện
Thánh Thọ
1164
19
Rồng vàng hiện
Thắng Thọ
1205
20
Rồng vàng hiện
250
Bảng 11: Bảng thống kê về các “điện” đƣợc các vị hoàng đế triều Lý nghỉ ngơi
cuối đời
Tt
Năm
Sự kiện
Điện
Vua
Nguồn
1
1028 Vua băng
Long An
Lý Thái Tổ
VSL2005,, 78
2
1054 Vua băng
TT, BK, QII, tờ 39a, bd Tập I, tr 270
Trường Xuân
Lý Thái Tông
3
1072 Vua băng Hội Tiên
TT, BK, QIII, Tờ 5b, 33a, bd, Tập I, tr 276
Lý Thánh Tông
4
1127 Vua băng
TT, BK, QIII, Tờ 32b, 33a, bd tr 261
Lý Nhân Tông
Vĩnh Quang
5
1138 Vua băng
TB, BK, QIII, Tờ 52a,b, 33a, bd, tr 276
Lý Thần Tông
Vĩnh Quang
6
1175 Vua băng
VSL, 2005, bd, tr 154
Thụy Quang
Lý Anh Tông
Bảng 12: Bảng thống kê tên gọi các cung thời Lý
Tt
Năm
Tên cung
Sự kiện
VSL
TT
TB
Ghi chú
1
1023
x
Long Đức
Lý Thánh Tông sinh ở cung này
2
1028
x
Long Đức
Quần thần dâng di chiếu
3
1031
Đạo sĩ kí lục
x
Thái Thanh
4
1046
x
x
x
Ngân Hán
Cung nhân Chiêm Thành ở
TB chỉ ghi làm cung cho cung nữ ở
5
1054
Cung nữ ở
x
Thúy Hoa
6
1054
Ban tước cho bề tôi
x
Đông cung
7
1058
Rồng hiện
x
Long Đức
8
x
1065 Ngoạn Xuân
Cung Giáp Đàm (Dâm Đàm)
9
1066
Rồng hiện
x
Thải Tử
10
Rồng hiện
x
1069 Thưởng Xuân
11
1088
Xây dựng xong
x
Cảnh Linh
12
1090
Rồng hiện
x
x
Hợp Hoan
13
1129
Hoàng Thái Hậu ở
x
Động Nhân
251
Tt
Năm
Tên cung
Sự kiện
VSL
TT
TB
Ghi chú
14
1132
Rồng hiện
x
Lệ Quang
x
15
1137
Rồng bay vào
Thái Thanh
x
16
1143
Xây để Thái Hậu ở
Quảng Từ
x
x
17
1145
Quảng Từ
Rước Hoàng Hậu đến ở
x
18
1146
Lê Thái Hậu ở
Quảng Từ
x
19
1148
Khánh Thành
Quảng Từ
x
20
1149
Vua ngự
Quảng Từ
x
21
1154
Xây dựng
Ngự Thiên
x
22
1155
Xây dựng
Lệ Thiên
x
23
1166
Vua xem tắm đạo
Cảnh Linh
x
Phát hỏa
24
1170 Ngênh Thiềm
x
Phát hỏa
25
1192 Ngênh Thiềm
x
x
26
1197 Ngênh Thiềm
Xây dựng cùng với hơn 100 hành cung
Tân cung
x
27
1203
Xây dựng phía tây tẩm điện
(cung mới)
x
28
1206
Bị cháy
Phụng Thiên
x
29
1209
Vạn Diên
Rước Vương Tử Thần và Vương Tử Đảm về
x
30
1210
Vua băng
Thánh Thọ
x
31
1212
Trần Tự Khánh ở
Thánh Nghị
x
32
1213
Vua và Thái Hậu ở
Thánh Nghị
x
33
1214
Trần Tự Khánh đốt
Thánh Nghị
x
34
1215
Trần Tự Khánh đốt
Động Nhân
Tân cung
x
35
1220
Hoàn thành
(cung mới)
Bảng 13: Bảng thống kê tên gọi Lầu gác thời Lý
Tt
Năm
Tên Lầu - Gác
Sự kiện
VSL TT TB Ghi chú
252
Tt
Tên Lầu - Gác
Sự kiện
VSL TT TB Ghi chú
Năm
1030
Xây dựng
x
1
Lầu Phượng Hoàng
1053
Rồng hiện
x
2
G. Đoan Minh
1065
x
3
G.Du Thiềm
Nguyên Phi Ỷ Lan ở
1171
Xây dựng
x
5
G.Thái Bạch
1187
Động đất
x
6
G.Ly Minh
1187
Dựng chuồng hổ
x
G .Vĩnh Bình
1195
Sét đánh
x
7
H. Ly Minh
1203
x
8
G.Thánh Thọ
Xây dựng ở khu vực Tân cung
1203
x
9
G.Nhật Kim
Xây dựng ở khu vực Tân cung
1203
x
10
G.Nguyệt bảo
Xây dựng ở khu vực Tân cung
1204
Rồng hiện
x
11
G.Thánh Nhật
Bảng 14: Bảng thống kê tên gọi các cửa thời Lý
Tt
Năm
Tên Cửa
Sự kiện
VSL TT TB
Ghi chú
1021
x
1
Quảng Phúc
Xây Vạn Tuế Nam Sơn, bày lễ cúng
1028
x
2
Cửa Khuyết
Đông Chinh và Dực Thánh đến xin chịu tội
1048
Cúng đàn Xã tắc
x
3
Trường Quảng
x
1058
Sửa chữa
x
4
Tường Phù
Xây lầu ở đó (VSL)
Diên Hưng
,
1059
Xây dựng
x
5
Thổ Hằng
1063
Xây dựng
x
6
Ngân Hà
Trường Quảng
,
7
1072
Xây dựng
x
Thái Bình
Thượng Thủy Hà
1074
Cháy lan tới
x
8
Đại Hưng
Sửa chữa
9
Đại Hưng
253
Tt
Năm
Tên Cửa
Sự kiện
VSL TT TB
Ghi chú
10
1116
x
Đại Hưng
Hội đèn Quảng Chiếu, làm sư bằng gỗ, đánh chuông
11
1121
Nước tràn vào bên ngoài
x
x
x
Đại Hưng
12
1121
Sửa chữa
x
Đại Hưng
13
1125
Thề, tuyên bố quân lệnh
x
Đại Hưng
x
Đại Hưng
Các quan văn, võ ra ngoài cửa, rồi đóng cửa lại…
14
1127
Cửa nách bên hữu Đại Hưng
x
Cho các quan vào Long Trì
15
1128
Cửa thành Tây Dương
x
… Sùng Phúc đi qua cửa…
Các quan văn võ thề ở cửa
x
Đại Hưng
x
Việt Thành
Từ cửa Việt Thành ra Đông Bộ Đầu
16
1185
Phát hỏa
x
Nghị Tự
17
1195
Hội Đèn Quảng Chiếu
x
Đại Hưng
Vĩnh nghiêm
,
18
1203
x
Việt Thành
,
Xây dựng ở khu vực Tân Cung
Thấu Viên
19
1209
x
Việt Thành
Từ cửa Việt Thành ra bến Triều Đông…
20
1210
Đàm Nhập bị giết ở đây
x
Trường Quảng
21
1211
x
Cửa Triều Đông
Nguyễn Ngạnh và Trung Tự đánh nhau
22
1213
x
Đại Hưng
Trần Tự Khánh ở ngoài cửa định vào….
23
1219
Xem lễ tiết lập thu
x
Trường Quảng
24
1225
Lễ tàng Quy cưu
x
Đại Hưng
25
1226
x
Cửa Khoét
Đưa linh cữu Huệ Tông ra phường Yên Hoa
Bảng 15: Bảng thống kê tên gọi các đền, đình thời Lý
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
VSL
TT TB Ghi chú
1
1072
x
VSL, 1960,
Đền Ngênh thu
Xây cửa Trường Quảng, cửa Thái Bình, cửa Thượng Thủy Hà, đền Nghênh Thu,
254
trạm Quy Nhân, cả thảy năm nơi
tr 108
Đền Hậu Thổ
x
2
1171
VSL,2005 tr 152
Vua hạ chiếu sửa sang miếu Văn Tuyên Vương (miếu thờ Khổng Tử) và đền Hậu Thổ
Đình Trà
x
3
1214
Lúc bấy giờ vua ở Đình Trà, nghe tin các quân đều thất bại, rất sợ hãi, sai xe giá vào Cấm thành
VSL, 2005, tr 187).
Bảng 16: Bảng thống kê tên gọi các loại “Đàn tế” thời Lý trên kinh đô Thăng
Long
Tt
Năm
Sự kiện
VSL TT TB Ghi chú
Đàn
Xã Tắc
1
1048
x
x
Lập đàn Xã Tắc ở ngoài cửa Trường Quảng, bốn mùa cầu đảo cho được mùa thóc
Vu đàn
2
1137
x
Tháng 6, cho Nguyễn Công Đào đến vu đàn ở phía nam làm lễ cầu mưa
Vu đàn
3
1138
x
Tháng 6 hạn. Chư vệ là Phạm Tín xin đến vu đàn làm lễ cầu mưa. Vua y cho
Vu Đàn
4
1138
x
Mùa thu, tháng 7, không mưa. Vua sai hữu y làm lễ cầu ở vu đàn và chùa Báo Thiên
Viên Khâu
x
5
1154
Tháng 9, vua ngự ra cửa Nam thành Đại La xem đắp đàn Viên khâu
Bảng 17: Bảng thống kê tên gọi các kho triều Lý
Tt
Năm
Tên kho
Sự kiện
Nguồn
Kho Nội phủ
1
1103
Thái Hậu phát tiền kho Nội phủ để thuộc những con gái nhà nghèo
ĐVSKTT, Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 14a, bd, tập I,
Tư Thiên
2
1145
Mùa thu, tháng 7, dựng 6 sở kho Tư Thiên
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển IV, kỷ nhà Lý, tờ 5b,6a, bd, tập I, tr 316
Kho nhà vua
3
1154
Mùa đông, tháng chạp, kho nhà vua bốc cháy
VSL, tr 148
Vũ khố
4
1214
VSL, 2005, tr 191
(kho vũ khí)
Tháng 8, ngày Quý Mùi,viên Tả phụ Nguyễn Chính Lại tự tiện lấy khí giới ở Vũ Khố
Bảng 18: Bảng thống kê các năm Đặt lầu chuông, hòm đồng trên sân Long Trì
Tt
Năm
Dựng đặt
Sự kiện
Nguồn
1
1029
Lầu chuông
VSL, 80
Đối nhau ở hai bên tả hữu Long Trì là Chung lâu (lầu chuông) để lên nghe việc oan khuất.
255
Lầu chuông
2
1053
VSL, 88
Tháng 3, đúc chuông đặt ở Long Trì, khiến dân chúng ai bị oan ức không được thấu xét thì được phép đánh chuông để được nghe bày tỏ
Lầu chuông có sáu cạnh
3
1058
VSL, 91
Tháng 6, xây điện Linh Quang, bên trái dựng điện Kiến Lễ, bên phải dựng điện Sùng Nghi. Phía trước điện dựng lầu chuông, một cột, sáu cạnh hình hoa sen (độc trụ lục giác liên hoa chung lâu).
Đặt hòm đồng giống như nhà Tống
4
1158
VSL, 149
Mùa hạ, tháng Giêng, viên tạ ty Nguyễn Quốc Dĩ đi sứ nhà Tống về tâu rằng: “Thần đến nước Tống thấy ở giữa sân có cái hòm bằng đồng để thu nạp những tờ sớ của bốn phương
Bảng 19: Bảng thống kê Sử liệu ghi về Văn Miếu thời Lý
Kiến thiết
VSL TT TB Ghi chú
Tt Năm
x
x
1
1070
Mùa thu tháng 8, sửa Văn Miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tượng Thất thập nhị hiền,
x
2
1075
mùa xuân tháng 2, xuống chiếu tuyển Minh Kinh Bác Học và thi Nho học Tam trường. Lê Văn Thịnh trúng tuyển, cho vào hầu vua học
Dựng miếu Khổng Tử
x
3
1156
4
1171
Làm miếu thờ Văn Tuyên Vương và miếu thời Hậu Thổ
x
Bảng 20: Bảng thống kê các hoạt động Phật giáo thời Lý tại kinh đô Thăng
Long
Tt
Năm
Độ Tăng
Vấn đề khác
Sự kiện dựng chùa, xây tháp
Chép kinh, In khắc kinh Phật
Tạc tƣợng/ Tô tƣợng
1010
Viết kinh Tam tạng
x
1
1014
2
Làm chùa Chân Giáo ở trong thành để tiện xem tụng kinh
Thiên đế
1016
3
Thiên Quang, Thiên Đức
1034
6
Rước Phật Pháp Vân vào kinh
1040
7
Mở hội La Hán ở Long trì
8
1049
Dựng chùa Diên Hựu
9
1057
Xây tháp Báo Thiên 12 tầng
10
Làm chùa Thiên Phúc, Thiên Thọ
Tượng Phạn Vương, Đế Thích bằng vàng
11
1072
Vua xem tắm
256
Tt
Năm
Độ Tăng
Vấn đề khác
Sự kiện dựng chùa, xây tháp
Chép kinh, In khắc kinh Phật
Tạc tƣợng/ Tô tƣợng
đạo
12
1073
Rước Phật Pháp Vân vào kinh
13
1080
Đúc chuông lớn chùa Diên Hựu
14
1101
Sửa chùa Diên Hựu
15
1105
Đào hồ Linh chiểu, ao Bích trì, cầu vồng,
Làm hai ngọn tháp trắng ở chùa Diên Hựu, xây bảo tháp
16
1118
Mở hội Thiên Phật
1121
17
Khánh thành chùa Bảo Thiên
1124
Dựng chùa Hộ Thánh
18
Hộ độ Tăng
19
1129
Khánh thành 8 vạn 4 nghìn bảo tháp ở gác Thiên Phù
20
1131
Dưng nhà cho Đại sư Minh Không
21
1135
Mở đàn chay khánh thành ở chùa Diên Sinh
22
1137
Vua ngự chùa Báo Thiên
Khánh thành chùa Linh Cảm
23
Vua đến chùa Thiên Long, Thiên Sùng làm lễ tạ
24
1145
Dựng chùa Vĩnh Long, Phúc Khánh
25
1158
Mùa đông, tháng 10, dựng chùa Chân Giáo
Thếp tượng Phạn Vương, Đế Thích bằng vàng đặt tại chùa Thiên Phù, Thiên Hựu
26
1179
Mở rộng và sửa chữa chùa Chân Giáo
1206
Mùa đông, tháng 10,
257
Tt
Năm
Độ Tăng
Vấn đề khác
Chép kinh, In khắc kinh Phật
Tạc tƣợng/ Tô tƣợng
Sự kiện dựng chùa, xây tháp chữa chùa Chân Giáo
27
1210
Mùa xuân tháng giêng, chùa Thắng Nghiêm đất nứt xé ra
Bảng 21: Bảng thống kê những vị thiền sƣ tiêu biểu quê quán hoặc trụ trì ở
một số ngôi chùa trong Cấm Thành Thăng Long
Tt
Thiền sƣ
Ở chùa
Ghi chú
Năm sinh - mất
(?- ?)
Người Kinh sư
NCTUTA, 190
1
Quảng Trí
(?- ?)
Chùa Vạn Tuế, Thăng Long
2
Biện Tài
Tịnh Giới
(?- 1207)
NCTUTA, 230
3
Nhà vua đón sư về chùa Báo Thiên ở Kinh Đô
(?- 1203)
NCTUTA, 478, 479
4
Thường Chiếu
Làm quan Lệnh Đô Tào ở cung Quảng Từ
Tăng Thống Huệ Sinh
(?- 1064)
Chùa Vạn Tuế - Thăng Long
NCTUTA, 278
5
Thiền sư Chân Không
NCTUTA, 292, 293
6
(1046- 1100)
Sư Nhân Tông mời vào Đại Nội giảng kinh
(Nguồn: Lê Mạnh Thát (1999), Nghiên cứu thiền uyển tập anh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh)
Bảng 22. Bảng thống kê các năm xây dựng Đạo giáo thời Lý
1101
Mùa thu tháng 7, xây quán Khai Nguyên (VSL, 2005, tr 109)
VSL, 2005, tr 1
1
1102
Xây ba quán Khai Nguyên, Thái Dương, Bắc Đế (VSL, tr 120)
VSL, 120
2
1158
VSL, 150
3
Vua xuống chiếu lấy vàng ở trong kho thếp tượng Phạn Vương, Đế Thích đem đặt ở hai chùa Thiên Phù, Thiên Hựu (VSL, tr 150).
1166
VSL, 151
4
Mùa xuân, tháng 3, vua ngự ra cung Cảnh Linh xem Tắm Đạo. Lễ Tắm Đạo là bắt đầu từ đó
1171
Bỏ lễ tắm Đạo (VSL, tr 152)
VSL, 152
5
1194
VSL, 162
6
Mùa thu, mùa thu, tháng 7, lấy vàng bạc thếp tượng Phạn Vương Đế Thích đặt ở hai chùa Thiên Phù, Thiên Hựu
Tt Năm Sự kiện Nguồn
Bảng 23: Bảng thống kê các hoạt động tiêu biểu của Đạo giáo tại Hoàng Thành
Thăng Long thời Lý
258
Tt Năm Sự kiện Nguồn
1
1052
Tháng 3, đúc chuông lớn để ở Long Trì, cho dân ai có oan ức gì không bày tỏ được thì đánh chuông ấy để tâu lên
TT, Bản kỷ, quyển II, kỷ nhà Lý tờ 37b, bd, tập I, tr 269.
2
1060
VSL, 92
Cấm bọn lính Ngự thuyền hỏa, Củng Thánh hỏa, Tùy Long Hỏa và bọn nhà bếp không được ra vào thềm ngự, không được nói chuyện với bọn tiểu chi hậu và đưa tin tức, trao đổi vật, đi lại với nhau. Kẻ nào trái Lệnh bị tội chết, gặp khi xá tội cũng không được tha
3
1071
VSL, 98
Mùa đông, tháng chạp, vua mệt, xuống chiếu cho hữu ty là kẻ nào vào nhầm nhà các quan chức ô ở hai bên tả hữu, bị phạt 80 trượng
4
1084 Xuống chiếu cho thiên hạ nung ngói lợp nhà
TT, Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 11a, bd, tập I, tr 281
5
1092
Mùa đông, tháng 11, cấm dân bách tính không được xây nhà ngói, làm thuyền lớn
VSL, 1960, tr 119 (Bản in năm 2005 không có chi tiết này)
6
1099
VSL, 1960, tr 108
Mùa đông, tháng 10, cấm phụ nữ ở Kinh Thành không được bắt chước lối ăn mặc trong cung (Sách TT không chép)
7
1118 Cấm bọn gia nô không được thích hình rồng Ở trên người
VSL, tr 115
8
1131
TT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 36a, bd, tập I, tr 305
Mùa hạ tháng 4, xuống chiếu cấm gia nô của các Vương hầu, Công chúa và các quan không được lấy con gái của các quan chức đô và bách tính. Cấm con gái dân gian không được bắt chước kiểu búi đầu tóc như Cung nhân
9
1145
Cấm thợ bách tác không được làm đồ dùng theo kiểu nhà quan mà tự tiện bán cho dân
ĐVSKTB, BK, QIII, tờ 6a; bd tr 282
10
1148
Năm đó, cấm bọn quan thị canh cửa không được tự tiện vào cung, các quan ở triều không được đi lại trong nhà các vương hầu, những người nào phạm vào địa phận của Đô Phụng vệ bị phạt 80 trượng, ai đi vào trong hành lang bị tội chết
VSL, 1960, tr 146; Sách Toàn thư chép, ở trong Cấm nội không được kết hội 5, 3 người bàn bạc việc phi nghĩa, ai trái phạm bị tội VSL, tr 146
11
1149
TB, BK, QIV, tờ 6b; bd tr 283;
Mùa hạ, tháng 4, vua ngự ở thềm rồng xem bắt voi (Thềm rồng không phải là nơi bắt voi, ghi là vua xem để chê đấy
12
1150
TT, Bản kỷ, quyển IV, kỷ nhà Lý, tờ 8a, bd, tập I, tr 319
Anh Vũ mật tâu với vua rằng; “Trước kia bọn Vũ Đái tự tiện đem cấm quân xông vào Cấm đình, tội ấy không gì to bằng, nếu không sớm trừng trị, sợ một ngày kia sinh biến, không thể lường được”.
13
1150
TT, Bản kỷ, quyển IV, kỷ nhà Lý, tờ 9b, bd, tập I, tr 319
Xuống chiếu cấm bọn hoạn quan không được tự tiện vào trong cung, ai phạm thì bị tội chết. Nếu canh giữ không cẩn thận để người khác vào cung cũng bị tội như thế. Cấm các quan trong triều không được đi lại nhà các vương hầu, ở trong cung cấm không được hội họp nhau năm, ba người bàn luận chê bai, ai phạm thì trị tội. Kẻ nào phạm việc qua lại bên ngoài phía đầu hành lang chứa khí giới của đô Phụng quốc vệ bị xử 80 trượng, tội đồ; Nếu vào trong hành lang ấy thì xử tử. Lính phụng quốc vệ ở trong hành lang ấy có chiếu chỉ mới được cầm vũ khí giới, không có chiếu chỉ mà tự tiện mang khí giới đi quá ra ngoài phía đầu [hành lang] thì xử tử
259
Tt Năm Sự kiện Nguồn
14
1157
VSL, tr 149
Các vương hầu ban đêm không được đi lại trong Thành. Các gia nô của vương hầu không được thích hình con rồng ở trên ngực
15
1158
TT, Bản kỷ, quyển IV, kỷ nhà Lý, tờ 12b, bd, tập I, tr 32
Nguyễn Quốc sang nước Tống về, dâng tâu rằng: “Thần sang nước Tống thấy ởgiữa sân vua có cái hòm bằng đồng để nhận các chương tấu của bốn phương, thần xin bắt chước mà làm như thế để bề trên rõ được tình người dưới”.
16
1162
VSL, tr 150
đánh 80 trượng, thích 23 chữ vào bả vai bên trái, bắt về thứ hạng cũ
17
1179
VSL, tr 157
Vua cùng Thái hậu xem con em tăng quan thi đọc kinh Bát nhã, lại ngự ra điện Phượng Minh xem bọn hoàng nam thi chép ra các bài thơ của cổ nhân và làm toán
Tt Năm Sự kiện Nguồn
Bảng 24. Bảng thống kê tên gọi phƣờng - chợ thời Trần
Tt
Năm
Sự kiện
Nguồn
Tên phƣờng/ Chợ
Phường Yên Hoa
1
1226
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 2b, bd, tập II, tr 9
Thượng hoàng nhà Lý (Huệ tông) sau khi tự tử xong, Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam làm cửa (bấy giờ gọi là “Cửa Khoét”, đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang ...
Phường Hạc Kiều
2
1226
TT, Bk, QVI, Lý kỉ tờ 3b, bd, tập II, tr 9
Cha của Trần Thủ Độ làm Thái thượng hoàng ở cung Phụ Thiên (Phường Hạc Kiều phía bên tả (ĐVSKTT Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý tờ 3b, bd, tập II, tr 9).
Phường Ô Chợ
3
1241
Mùa hạ, tháng 4, hạn hán, núi nhiều nơi bị lở, Ô Chợ Dừa, đất toác ra
Dừa
TT, BK, QVI, Lý kỉ , tờ 12a,b, bd, tập II, tr 18).
Phường Cơ Xá
4
1266
Mùa thu tháng 7, nước to, vỡ ở phường Cơ Xá. Người và sức vật bị chết đuối nhiều
TT, Bk, Q VI, Lý kỉ, tờ 30a, bd, tập II, tr 35.
Phường Tây Giai
5
1295
TT Bk, Quyển VI, Lý kỉ , tờ 3b, bd tập II, tr 73
Ngày 13, tháng 6, người đàn bà ở phường Tây Giai, phía hữu Kinh thành là Lê Thị Ta nghe tin chồng là Phạm Mưu đi sứ nước Nguyên ốm mất, thương nhớ không ăn 3 ngày rồi cũng mất
Chợ Đông
6
1226
TT, Bk, QVI, Lý kỉ , tờ 2b, bd, tập II, tr 8
Trước đó, Thượng hoàng nhà Lý có lần ra chợ Đông, dân chúng tranh nhau chạy đến xem, có người thương khóc
Chợ Đông
7
1283
TT, Bk, Q VI, Lý kỉ , tờ 43b, bd, tập II, tr 49
Tháng 2, trị tội thượng vị hầu Trần Lão, cho Lão chuộc tội 1.000 quan tiền, độ làm lính, lăng trì tên Khoáng là gia nô của Lão ở chợ Đông, vì tội làm thư nặc danh phỉ báng nhà nước
260
Bảng 25: Bảng thống kê tên gọi gắn với các chức năng của các điện và tên gọi
diễn ra trong chính sử thời Lê
Tt
Tên điện
Sự kiên, chức năng
Năm
1434,1467
Đặt đàn chay, giải hạn, Khánh thọ
1
Cần Chánh
Đặt thần chủ thái tổ
2
1434
Càn Đức
Đặt ngai báu, sập vàng
3
1437
Hội Anh
4
Kính Thiên
1465,1466,1469,1474,148 1. 1488,1490, 1496, 1499, 1509, 1599, 1602,
Xây điện (1465), vua ngự điệnThi Đình (1466, 1469,1481,1490,1496,1499), chuông lớn bị gãy (1509), một góc ĐKT bị sập (1599), vua ra ngự ĐKT ra bài văn sách (1602)
1527, 1573, 1586,1601
5
Chính điện
Mạc Đăng Dung vào thành Thăng Long ở tại Chính điện (1527), làm lễ chầu mừng (1573), thiết triều (1586), ngự chính điện (1601)
1497
Vua băng (1497)
6
Bảo Quan
1510,1522
7
Kim Quan
Làm điện Kim Quang (1510), Mạc Đăng Doanh trông coi điện Kim Quang (1522)
8
1522
Thụy Qung
Ngự coi chầu (1522), đánh thẳng vào điện Thụy Quang
Vua ngự xem đấu voi với hổ
9
1513
Quang Trị
10
1504
Xây
Giám Trị
11
1504
Xây
Đồ Trị
12
1504
Xây
Trường Sinh
13
1504
Xây
Lưu Bôi
14
1504
Vua băng
Hoàng Cực
15
1504
Lên ngôi
Hưng Minh
16
1510
Xây
Thiên Quang
17
1510, 1522
Đặt quân trực
Kim Quang
18
Cầu tự
1513,1514
Tường Quang
19
1513
Xây
Mục Thanh
20
1513
Đem thần chủ xuống thờ...
Phụng Tiên
21
1516
Chưa xác định (?)
Thuần Mỹ
22
1520
Vua ngự úy lạo tướng sĩ
Quỳnh Văn
261
Tên điện
Năm
Sự kiên, chức năng
Tt
1522
Vua ngự coi chầu
23
Thụy Quang
1619, 1643
Lên ngôi
24
Cần Chánh
Bảng 26. Bảng thống kê các sự kiện liên quan đến việc xây dựng, trùng tu các
công trình xây dựng trong Hoàng Thành và Cấm Thành Thăng Long thời Lê
Tt
Năm
Sự kiện
Nguồn tƣ liệu
Ngày 22 tháng 4, Đặt đàn chay ở điện Cần Chánh
1
1434
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 8a, tập II, tr 314
, vì hạn hán hại lúa…
2
1434
Ngày 11 tháng 5, kinh thành bị cháy, lửa lan ra thiêu mất hơn vài trăm nhà, nhiều người chết cháy
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 8b, tập II, tr 315
3
1434
Ngày 12, tháng 5, sai năm quân diễn võ ở đấu trường cho quân Chiêm Thành xem
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 9a,b, tập II, tr 314
Tháng 11, đón vua ở cửa Thừa Thiên, bày lễ tế ở điện
4
1434
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 18a, tập II, tr 322
Càn Đức
5
1434
5/11, Thết yến ở Cần Chánh đƣờng
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 18a, tập II, tr 322
6
1434
Thần chủ của Thái tổ để ở điện Càn Đức
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 20a, tập II, tr 324
7
1435
Vua dẫn các quan bái yết Thái Miếu
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 20b, tập II, tr 324
Tháng 9, vua tập cưỡi voi ở Hậu điện
, cho voi chạy
8
1435
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 30a, tập II, tr 331
đuổi nhau…
9
1437
Sét đánh cửa Đông
kinh thành
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 41b, tập II, tr 340
Điện Phụng Thiên
có sập vàng, ngai báu; điện
10
1437
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 48a, tập II, tr 345
Hội Anh chỉ có sập vàng
11
1437
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 49a, tập II, tr 346
Vua bái yết Thái Miếu , Lễ bộ bày nghi trượng ở Đan Trì. Vua mang triều phục, áo cổn, mũ miện, ngự ở điện Hội Anh
Mùa thu, tháng 8, tuyển chọn con gái đẹp ở sân điện
12
1441
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 54a, tập II, tr 350
13
1445
Nước lũ tràn ngập vào trong thành, sâu đến 3 thước
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 61a, tập II, tr 356
Bắt chúa Chiêm thành… Cáo thắng trận ở Thái Miếu
14
1446
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 62a, tập II, tr 357
Xuống chiếu cho các quan văn võ phải trai giới đến chùa
15
1446
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 68b, tập II, tr 362
Báo Ân ở cung Cảnh Linh
làm lễ cầu mưa
262
Tt
Năm
Sự kiện
Nguồn tƣ liệu
Tháng 4 (bị hạn). Vua thân đến cung Cảnh Linh
16
1449
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 78b, tập II, tr 370
làm lễ cầu mưa
Thái úy Lê Khả thấy có cái lưới săn ở trước Vân Tập
17
1449
đƣờng
bèn gỡ đi và nói: “chớ để vua nhìn thấy
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 84a, tập II, tr 375
lưới này, sẽ gợi thú đi săn…”
Các quan đón (vua) ở cửa An Định
, cửa Đông
18
1450
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 87b, tập II, tr 378
An
(…) rồi đưa Anh Tông đến Nam Cung
Tháng 11, có con hổ vào chùa Diên Hựu trong Nội
thành
, sai quân ngự tiền
19
1457
ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 94b, tập II, tr 383
cầm dao bắt giết đi
Vua thần sắc anh tuấn, dáng điệu đường hoàng. Mỗi khi
20
1459
tan chầu, tự đến Kinh Diên
nghe giảng, mặt trời
(ĐVSKTT, BK, QXI, tờ 98b, tập II, tr 386)
nặn mới thôi
21
1460
Nghi sự đường ngoài cửa Sùng Vũ
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 3a, bd tập II, tr 389
, đổi niên
22
1460
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 3b, bd tập II, tr 389
Vua lên ngôi ở điện Tƣờng Quang hiệu Quang Thuận
23
1463
Treo bảng vàng ở cửa Đông Hoa
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 12b, bd tập II, tr 398
24
1465
Xây điện Kính Thiên
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 18b, bd tập II, tr 404
Quan các nha môn muốn vào tâu với vua phải đệ trình
với Thông chính ty rồi chực ở ngoài cửa Đông Hoa
25
1465
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 19a, bd tập II, tr 405
26
1466
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 22b, bd tập II, tr 409
, Tháng 3, ngày 12, vua ngự điện Kính Thiên thân hành ra bài văn sách hỏi các đế vương trị thiên hạ
27
1467
Làm lễ khánh thọ ở điện Cần Chánh
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 27a, bd tập II, tr 413
28
1467
Sai các ty tàm tang đào hồ ở đình Giảng Võ
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 30a, bd tập II, tr 416
Tháng 12, dời Hình bộ v
và Đại Lý tự
ra
29
1467
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 45a, bd tập II, tr 431
ngoài thành
Vua ngự điện Kính Thiên
thân hành ra đề văn
30
1469
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 50a, bd tập II, tr 336
sách
31
1469
Dâng tù ở Thái miếu
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 65a, bd tập II, tr 452
32
1472
Gác cửa Tây
bị cháy
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 72a, bd tập II, tr 458
263
Tt
Năm
Sự kiện
Nguồn tƣ liệu
Quy định về việc tiến chầu ở cửa Đoan Môn
, điện
33
1472
Văn Minh
, Sùng Vũ
, sân Đan Trì
ĐVSKTT, BK, QXII, tờ 73a, bd tập II, tr 460
theo hiệu lệnh của trống
Quy định các quan không được nhổ cốt trầu, ném bã trầu
34
1472
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 3a, bd tập II, tr 463
ở cửa và sân Đan Trì
Vua ngự điện Kính Thiên
, thân ra bài văn sách
35
1474
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 6b, bd tập II, tr 465
hỏi về đạo vua tôi
Hạ lệnh cho các quân tập tượng trận ở sân điện Giảng
36
1478
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 16a,b, bd tập II, tr 473
Võ
37
1480
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 26b, bd tập II, tr 481
Ra sắc chỉ: Các quan vào chầu, khi đến, nếu gặp ngày mưa thì tạm tránh nưa ở hai bên hành lang phía Đông và phía Tây
Vua ngự điện Kính Thiên
, thân hành ra bài văn
38
1481
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 30a, bd tập II, tr 483
sách thi đình
Ts Phạm Đôn Lễ vào sân Đan Trì
, vua ngự điện
39
1481
Kính Thiên
(…) Lễ bộ bưng bảng vàng, nổi
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 30b, bd tập II, tr 484
nhạc trống, rước ra ngoài cửa Đông Hoa
treo lên
Đào hồ Hải Trì,
hồ này quanh co đến 100 dặm.
40
1481
Giữa hồ có điện Thúy Ngọc
, bên hồ xây điện
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 32b, bd tập II, tr 485
Giảng Võ
để tập luyện binh tượng
Ngày 23, tháng 11. Làm lễ mở đọc chiếu thư của nhà
41
1488
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 59a, bd tập II, tr 504
Minh ở điện Kính Thiên
Tháng 5, ngày 18, vua ngự điện Kính Thiên
(...)
42
1490
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 64b, bd tập II, tr 508
Lễ bộ đem bảng vàng treo ở cửa Đông Hoa
Tháng 11, đắp rộng thêm Phụng thành
, dựa theo
43
1490
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 65a, bd tập II, tr 508
quy mô thời Lý, Trần
Làm Quảng Văn Đình
ở cửa Đại Hƣng trong
44
1491
Long thành
, phía trước Phƣợng Lâu
, có
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 67a, bd tập II, tr 510
ngòi Ngân Câu
chảy quanh hai bên tả hữu
Tháng 12, đặt kho tiền ở hồ Hải Trì, trong có Thƣợng
45
1492
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 68b, bd tập II, tr 511
Lâm tự
Tháng 4, ngày 8, vua thân ngự chính điện
ra bài
46
1493
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 70a,b, bd tập II, tr 512
văn sách (...) treo bảng ở cửa Đông Hoa
Tháng 3, ngày 16, vua thân hành khảo thí ở Đan Trì
47
1496
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 73a,b; bd tập II, tr 514, 515
điện
Kính Thiên
hỏi về đạo trị nước;
264
Tt
Năm
Sự kiện
Nguồn tƣ liệu
(...) ngày 26, dẫn các sĩ nhân vào sân điện Kim Loan.
Vua tự xem dung mạo từng người, lấy đỗ 30 người
Ngày Nhâm Tý (30), vua băng ở điện Bảo Quang
48
1497
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 59a, bd tập II, tr 504
Vua ở ngôi 38 năm (...), tới giờ Thìn, ngày 30 tháng
Giêng, vua băng ở cung Bảo Quang
(điện Bảo
49
1497
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 80a, bd tập II, tr 522
Quang- TG)
Vua băng, dân chúng cùng các quan mỗi sáng hằng ngày
50
1497
tới cửa Đông Trƣờng An
, cửa Cảnh Môn
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 80b, bd tập II, tr 522
để làm nghi thức
Tháng 5, mồng 3, xây Đãi Lậu viện
. Trước đây,
thái tổ làm Đãi Lậu viện
ở ngoài cửa Tây. Thái
Tông, Nhân Tông đều nhân theo đó. Thánh Tông làm
51
1497
ĐVSKTT, BK, QXIII, tờ 85a, b;, bd tập II, tr 525
thêm hai dãy nhà ở ngoài cửa Đại Hƣng . Đến đây, đặc cách ra lệnh cho Ngũ Phủ sai phái kỳ quân xây dựng Đãi Lậu viện ở ngoài cửa Đại Hƣng gồm 2 dãy, mỗi dãy 3 gian, hai chái
52
1498
Tháng 3, thả vài trăm cung nữ
ĐVSKTT, BK, QXIV, tờ 3a, bd tập III, tr 9
Ngày 16/7, vua ngự điện Kính Thiên
, quan
53
1499
Hồng Lô truyền loa xướng danh, Lễ bộ đem bảng vàng
ĐVSKTT, BK, QXIV, tờ 12b, bd tập III, tr 16
treo ở ngoài cửa Đông Hoa
Làm kho thóc ở bên trong tƣờng thành cung cấm
54
1499
ĐVSKTT, BK, QXIV, tờ 17b, bd tập III, tr 20
, gồm 20 dãy
55
1500 Mùa đông, tháng 10. Xây tƣờng phía Đông
ĐVSKTT, BK, QXIV, tờ 23b, bd tập III, tr 25
Trước đây, vua xây các điện Thƣợng Dƣơng
,
, Trƣờng Sinh
, Đồ Trị
56
1504
, nơi Giám trị để nghỉ ngơi, điện để đọc sách và ăn chay. Lại dựng điện
ĐVSKTT, BK, QXIV, tờ 34b, bd tập III, tr 34
Lƣu Bôi
ở trong cung (đưa nước vào trước thềm
điện, gọi là đài Lƣu Bôi
)
Ngày Giáp Tý, mồng 8, vua băng ở điện Hoàng Cực
57
1504
, có di chiếu để tang theo đúng lễ cổ
ĐVSKTT, BK, QXIV, tờ 37b, bd tập III, tr 37
Ngày 18 tháng 12, …Lục khoa đề hình 13 đạo, điện
58
1504
Hƣng Minh
kính đón con thứ hai của Hiến Tông
ĐVSKTT, BK, QXIV, tờ 38a, bd tập II, tr 37
là Tuấn lên ngôi hoàng đế
59
1505
Ngày 22, tháng 3, rước thần chủ của mẹ là Chiêu Nhân
ĐVSKTT, BK, QXIV, tờ 40b, bd
265
Tt
Năm
Sự kiện
Hoằng Ý hoàng thái hậu thờ vào cung Minh Đức
Nguồn tƣ liệu tập III, tr 39
của nhà Thái Miếu ở Đông Kinh
Quai chuông lớn ở điện Kính Thiên
bị gãy,
60
1509
chuông rơi
ĐVSKTT, BK, QXIV, tờ 46a, bd tập III, tr 44
Thánh Tông thân chinh, bắt được Trà Toàn an trí ở cửa
61
1509
Bảo Khánh
gần 30 năm
ĐVSKTT, BK, QXIV, tờ 47b, bd tập II, tr 45
62
1510
Làm điện Thiên Quang
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 6b, bd tập II, tr 56
63
1510
Đặt ty thiêm bảo đao trực ở điện Kim Quang
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 7b, bd tập II, tr 57)
Vua ngự điện Quang Trị
xem voi đấu nhau với
64
1513
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 21b, bd tập II, tr 70
hổ
Tháng 3, vua thân hành đến cầu tự ở điện Tƣờng Quang
65
1513
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 22a, bd tập II, tr 70
Vua làm điện Mục Thanh
và hai nhà Giáp Thất
Đông, Tây trước điện Phụng Tiên
đem thần chủ
66
1513
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 22a, bd tập II, tr 70
từ Lương Vương Tuyên, Tống Vương Đĩnh trở xuống phối tự ở đó
TS, Nguyễn Đức Lượng vào điện Thiên Quang
67
1514
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 24a,b, bd tập II, tr 72
làm bài ứng chế
Đắp thành bao sông Tô Lịch, làm điện Tƣờng Quang
68
1514
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 24b, bd tập II, tr 72
69
1516
Bấy giờ, đang làm điện lớn trăm nóc chƣa xong, dân gian ai cũng nghiến răng tức giận
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 29b, bd tập II, tr 76
70
1516
… Từ khi Trần Cảo vào Kinh mà tông miếu tan nát, từ khi quân Sơn Tây làm loạn mà Kinh thành sạch không…
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 44b, bd tập II, tr 88
Khi ấy, Đăng Dung cho là vua đang ở điện Thuần Mỹ
71
1516
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 46b, bd tập II, tr 89
…
Tháng 8, vua ngự điện Quỳnh Văn
, úy lạo Mạc
72
1520
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 52b, 53a, bd tập II, tr 95
Đăng Dung và các tướng sĩ ra vùng Kinh Bắc
73
1522
Mùa hạ, tháng 4, ngày 20, giặc cướp nổi lên ở Kinh thành, đốt phá phố xá trong nội thành
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 54a, bd tập II, tr 96
… Lại cho con trưởng là Đăng Doanh làm Dục Mỹ hầu,
74
1522
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 54b, bd tập II, tr 97
trông coi điện Kim Quang
75
1522
Ngày 16/8, vua ngự hành điện Thụy Quang
, coi
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 57b, bd tập II, tr 99
266
Tt
Năm
Nguồn tƣ liệu
Sự kiện chầu các quan, bốn phương hưởng ứng
… khi ấy, Thiệu Đế ở hành điện Thụy Quang
,
76
1522
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 58a, bd tập II, tr 99
sai Trung sứ đi gọi Trịnh Tuy ở Thanh Hoa…
Bọn Hưng Hiền bốn người mang mộc, cầm giáo từ
phường Phục Cổ đánh thẳng vào điện Thụy Quang
77
1522
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 58b, bd tập II, tr 100).
. Lúc ấy, vua Thiệu Đế đang coi chầu
Khoảng tháng 8 đến 20 tháng 9, vua lánh nạn ở Nhân Mục và Yên Quyết Thượng (Từ Liêm) làm hành điện để
78
1522
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 58b, bd tập II, tr 100
coi chầu và làm Thái miếu
ở phía Tây Kinh thành
Tháng 6, Mạc Đăng Dụng vào thành Thăng Long ở tại
79
1527
ĐVSKTT, BK, QXV, tờ 69b, bd tập II, tr 110
chính điện
Mạc Phúc Nguyên bỏ chính điện
ở thành Thăng
80
1549
ĐVSKTT, BK, QXVI, tờ 9b, bd tập II, tr 126
Long, dời ra ở ngoài thành, trong cõi rối loạn
Bấy giờ, quân Mạc bị thua luôn, Phúc Nguyên hoang mang lo sợ, bỏ thành Thăng Long dời ra ở ngoài
81
1559
ĐVSKTT, BK, QXVI, tờ 17a, bd tập II, tr 132.
Cửa Nam
Mạc Phúc Nguyên sai quân giữ thành Thăng Long,
82
1560
bên ngoài đóng đồn một dải từ dọc sông về phía
ĐVSKTT, BK, QXVI, tờ 18a,b, bd tập II, tr 133
tây…
Bấy giờ Mạc Kính Điển đem Mạc Mậu Hợp trở về
thành Thăng Long
, sai quân làm doanh trại ở
83
1573
ĐVSKTT, BK, QXVII, tờ 24b, bd tập II, tr 51
Cửa Nam
để ở
Tháng 6, họ Mạc mới đặt xa giá dời vào thành thăng
84
1586
Long, ở tại Chính điện
, nhận lễ chầu mừng của các
ĐVSKTT, BK, QXVII, tờ 15a, bd tập II, tr 161
quan
85
1587
Tháng giêng, họ Mạc sai sửa chữa tầng ngoài thành Thăng Long và sửa sang các đường phố
ĐVSKTT, BK, QXVII, tờ 16a, bd tập II, tr 162
86
1588
Đắp thêm ba lớp lũy ngoài thành Đại La ở Thăng Long (…) cao hơn thành Thăng Long đến vài trượng
ĐVSKTT, BK, QXVII, tờ 18b, bd tập II, tr 164
87
1592
ĐVSKTT, BK, QXVII, tờ 27a, b, bd tập II, tr 171
Trịnh Tùng tiến đánh… Mạc Mậu Hợp bỏ Thăng Long vượt sông Hồng đến Bồ Đề ở quán Thổ Khối, để lại các đại tướng chia giữ các cửa trong Thành
88
1573
Tháng 4, ngày 16, vua lên Chính điện, nhận lễ chầu mừng của trăm quan. Đại xá thiên hạ
ĐVSKTT, BK, QXVII, tờ 41a, bd tập II, tr 183
Sai sửa các điện Thái miếu
ở trong Thành
89
1596
Thăng Long, rước thần vị của Thái tổ Cao Hoàng Đế và Liệt Thánh Hoàng Đế vào Thái miếu thành Thăng
ĐVSKTT, BK, QXVII, tờ 57a, b, bd tập II, tr 195
Long
để cúng tế quanh năm
90
1599
Tháng 4 ngày 7, có nhiều sao băng xuống nội điện hành
ĐVSKTT, BK, QXVII, tờ 72b,
267
Tt
Năm
Sự kiện
Nguồn tƣ liệu bd tập II, tr 205
tại, một góc điện Kính Thiên
bị sập
Tháng 8, mùa thu, vua từ Thanh Hóa tiến về kinh sư,
91
1601
ĐVSKTT, BK, QXVIII, tờ 5b, bd tập II, tr 212
ngự lên chính điện
, có điềm rồng vàng
Đến khi thi đình, vua ngự điện Kính Thiên
, thân
92
1602
ĐVSKTT, BK, QXVIII, tờ 6a, bd tập II, tr 212
hành ra đề văn sách
Tháng 6, hoàng tử lên ngôi ở điện Cần Chánh
,
93
1619
ĐVSKTT, BK, QXVIII, tờ19a, bd tập II, tr 222
đổi niên hiệu là Vĩnh Tộ
lở đổ đến
94
1622
ĐVSKTT, BK, QXVIII, tờ 19b, bd tập II, tr 223
Mùa thu, tháng 8, trời mưa to, thành nội 6,7 chỗ, cộng hơn 30 trượng
Trịnh Xuân đem quân phá vào Nội phủ
, cướp đoạt
voi ngựa, vàng bạc, của cải, bức Vương dời ra ngoài
95
1623
ĐVSKTT, BK, QXVIII, tờ 20a,b, bd tập II, tr 223
thành
, rồi phóng lửa đốt cháy tràn lan các xứ trong
Kinh kỳ
ĐVSKTT, BK, QXVIII, tờ 27b,
96
1630
Tháng 9, vua làm 3 tòa cung điện và 10 gian hành lang
bd tập II, tr 229
Tháng 6 (…). Bấy giờ, có lửa cháy từ đầu sông, cháy lan
đến cửa tả Vương Phủ, phố phường hai bên và các nhà
ĐVSKTT, BK, QXVIII, tờ 29b,
Triều Nguyên
, Triều Đƣờng
trong thành
97
1631
bd tập II, tr 231
nội. Vua tránh ra nhà Hoa Dương hầu (không rõ tên) 4
ngày mới về cung
Tháng 6,ngày mồng 1, mưa to đến 3,4 ngày không ngớt.
ĐVSKTT, BK, QXVIII, tờ 32a,
98
1632
bd tập II, tr 233
Sân trong cung và các điện, nƣớc ngập vài tấc
Hoàng thái tử Duy Hựu lên ngôi hoàng đế ở điện Cần
ĐVSKTT, BK, QXVIII, tờ 36b,
99
1643
Chánh
, đổi niên hiệu Phúc Thái
bd tập II, tr 237
Sửa điện Chiêu Sự
ở đàn Nam Giao, hoành rui
ĐVSKTT, BK, QXIX, tờ 4a, bd
100
1663
đều sơn son thiếp vàng, quy mô, mới mẻ, sai Hồ Sĩ
tập II, tr 265
Dương soạn văn bia
Bảng 27. Bảng thống kê tên gọi Hành cung thời Lý bên Hoàng Thành Thăng
Long
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
VSL
TT
TB
Ghi chú
Tháng 8 ... làm hành
Dâm Đàm
Bản kỷ, quyển III,
1
1059
cung ở Dâm Đàm để
x
kỷ nhà Lý, tờ 2a,
xem đánh cá
268
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
VSL
TT
TB
Ghi chú
bd tập I, tr 272
Tháng 8 ... làm hành
Dâm Đàm
ĐVSKTB, BK, QIII,
2
1060
cung ở Dâm Đàm để
x
tờ 4a, bd tr 236
xem đánh cá
Mùa đông, tháng 10,
Giao Đàm
3
1060
xây hành cung ở Giao
x
VSL, 93
Đàm để đánh cá
Khải
Tháng 2, Rồng vàng
Thụy
4
1068
hiện ở hành cung Khải
x
VSL, 96
Thụy
Giao Đàm
vua ngự ra hành cung
5
1072
x
VSL, 1960, tr 107
Dao Đàm
Bảng 28. : Bảng thống kê tên gọi Ao trong Cấm Thành và Kinh thành Thăng
Long thời Lý
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
Nguồn
Ao Kim Minh
Mùa thu, tháng 8, đào ngòi ngự ở phía ngoài
1
1049
Phượng Thành, lại đào ao Kim Minh Vạn Tuế
Ao Thụy Thanh
Đào ao Thụy Thanh, ao Ứng Minh ở vườn Thắng
2
1051
Cảnh
Ao Ứng Minh
Đào ao Thụy Thanh, ao Ứng Minh ở vườn Thắng
3
1051
Cảnh
Ao Kim Minh
4
1058
Xây điện Hồ Thiên Bát Giác ở ao Kim Minh
Ao Phượng Liên
5
1098
tháng 9 xây điện Sùng Uyên ở ao Phượng Liên,
ao Dưỡng Ngư (nuôi cá), trên ao xây đình Ngoạn Ỷ,
Ao dưỡng ngư
6
1203
ba mặt đình có trồng hoa thơm cỏ lạ, nước ao thông
(Nuôi cá)
với sông,
269
Bảng 29: Bảng thống kê tên gọi các cây Cầu đƣợc xây dựng trong Cấm Thành
Thăng Long thời Lý
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
VSL
TT
TB
Ghi chú
Cầu Vũ Phượng
Lại đắp núi đá có ba ngọn ở trên ao,
1
1049
x
xây cầu Vũ Phượng
Ngày Tân dậu, Tự Khánh dẫn quân
Cầu Ngoạn
vào trong Cấm Thành, đốt cầu Ngoạn
Thiềm
2
1213
x
Thiềm, đem quân trở về bến Đại
Thông
Mùa hạ tháng 4, làm Cầu Lâm Ba ở
Cầu Lâm Ba
chùa Chân Giáo, qua hồ Ngoạn
3
1248
x
Thiềm, đến Quán Thái Thanh, cung
Cảnh Linh, cực kỳ tráng lệ
Bảng 30: Bảng thống kê tên gọi Vƣờn trong khu vực Hoàng Thành Thăng
Long
Tt
Năm
Tên Vƣờn
Sự kiện
VSL TT
TB
Ghi chú
Làm cung Ngân Hán ở
Hậu Uyển
1
1046
VSL, 2005, tr 86
x
vườn Hậu Uyển
Mùa thu, tháng 9, mở
ba vườn Quỳnh Lâm,
2
1048 Quỳnh Lâm
VSL, 2005, tr 86
x
vườn Thắng Cảnh,
vườn Xuân Quang
Thắng Cảnh
3
1048
(Như trên)
VSL, 2005, tr 86
x
4
1048 Xuân Q uang
(Như trên)
VSL, 2005, tr 86
x
Mùa đông tháng 10,
Thưởng Xuân
rồng vàng từ vườn
5
1065
VSL, 2005, tr 94
x
Thưởng Xuân hiện ở
cung đó
Tháng 8, mở vườn
6
1079 Thượng Lâm
VSL, 2005, tr 94
x
Thượng Lâm
270
ĐVSKTT Bản kỷ,
quyển III, kỷ nhà
Tháng 7, mở vườn
Lý, tờ 36b, bd, tập
Bảo Hoa
7
1131
x
x
x
Bảo Hoa
I, tr 305). VSKTB,
BK, QIII, tờ 46a;
bd, tr. 271
271
Bảng 31: Bảng thống kê tên gọi Trạm thời Lý
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
VSL TT TB Ghi chú
Hoài Viễn
1
1040
x
Ngày 1, tháng 12, đặt trạm Hoài Viễn ở bờ sông Gia Lâm, để làm nơi sứ nước ngoài đến nghỉ ngơi
Hoài Viễn
2
1044
x
hoài
Tháng chạp đặt trạm Hoài Viễn (Hoài Viễn dịch) ở Gia Lâm để cho các khách sứ bốn phương tới ngụ
Hoài Viễn
3
1044
x
x
Tháng 12, ngày mồng 1, đặt trạm Hoài Viễn ở bờ sông Gia Lâm làm quán nghỉ trọ cho người nước ngoài khi đến chầu
Quy Nhân
4
1072
x
Xây cửa Trường Quảng, cửa Thái Bình, cửa Thượng Thủy Hà, đền Nghênh Thu, trạm Quy Nhân, cả thảy năm nơi
Bảng 32: Bảng thống kê tên gọi Đài thời Lý
Tt
Năm
Tên Đài
Sự kiện
Nguồn
Động Linh
1109
Mùa đông, tháng chạp xây đài Động Linh
VSL, 112
1
Chúng Tiên
1120
Mùa đông, tháng 10, đắp đài Chúng Tiên
2
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 20b, bd, tập I, tr 291
Tử Tiêu
1123
Tháng 11 (...) Xây đài Tử tiêu
3
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 22b, bd, tập I, tr 292
Thông Tiêu
1123
VSL, 116
4
Mùa đông, tháng 10, xây đài Thông Tiêu, (sách TT ghi là đài Tử Tiêu)
Uất La
1124
Mùa đông, tháng 10, xây đài Uất La
5
VSL, 117; ĐVSKTT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 23a, bd, tập I, tr 293
Hoàn Khâu
1152
7
Tháng 9, xây đài Hoàn Khâu ở Cửa Nam Thành để làm nơi tế trời
VSL, tr 147). Sách TT chép là ởNam thành Đại La (chú thích VSL, 2005, tr 204
Bảng 33: Bảng thống kê các hoạt động xây dựng nhà chứa kinh, chép kinh, in
khắc kinh tạng thời Lý).
Tt
Năm
Sự kiện
Nguồn
1021
1
Làm nhà Bát giác chứa kinh
ĐVSKTT, Bản kỷ, quyển II, kỷ nhà Lý, tờ 9a, bd, tập I, tr 246
Chép kinh Tam Tạng
để ở kho Đại
1023
2
ĐVSKTT, Bản kỷ, quyển II, kỷ nhà Lý, tờ 9b, bd, tập I, tr 247
Hưng
3
1087 Mùa xuân, tháng 3, dựng Bí Thư Các
ĐVSKTT, Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý,
272
Tt
Năm
Sự kiện
Nguồn tờ 11b, bd, tập I, tr 282
Tháng 3 làm lễ khánh hạ năm bộ kinh ở chùa
1126
4
Thị Thánh
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 24a, bd, tập I, tr 294
Vua cùng Thái hậu xem con em tăng quan thi
1179
5
VSL, tr 157
đọc kinh Bát Nhã,
Bảng 34: Bảng thống kê các lễ hội tổ chức trong Hoàng Thành Thăng Long
Tt
Năm
Sự kiện
Nguồn tƣ liệu
ở Thềm Rồng
, đại xá
1
Hội La Hán thiên hạ
2
Hội khánh thành bảo tháp thất bảo, tha các tội nhân
3
Hội đèn Quảng Chiếu
7 ngày đêm
Mùa xuân, mở hội Nhân Vương
ở điện
Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý tờ 10a,
1077
4
bd, tập I, tr 280
Thiên An
Hội khánh thành 87000 bảo tháp ở gác Thiên
1077
5
Phù
6
1077 Hội khánh thành chùa Linh Cảm
7
1021
Lấy ngày sinh nhật vua là tiết Thiên Thành
ĐVSKTT, Bản kỷ, quyển II, kỷ nhà Lý, tờ 9a, bd tập I, tr 246); ĐVSKTB, BK, Q2, tờ 12b,13a bd tr 203
8
1028
Tháng 6, lấy ngày sinh của vua làm tiết Thiên Thành
ĐVSKTT, Bản kỷ, quyển II, kỷ nhà Lý, tờ 16b,17a, bd tập I, tr 252
9
1036 Hội đua thuyền
ĐVSKTB, BK, QII, tờ 30b, bản dịch tr 217
, khánh thành pho tượng
10
1038
ĐVSKTT, Bản kỷ, quyển II, kỷ nhà Lý, tờ 24,b, bd, tập I, tr 258.
Hội ở Long Trì Phật Đại nguyện
Hội Nhân Vương
ở điện Thiên An
VSL, 1960, tr 103
11
1077
12
1080 Đua thuyền
ĐVSKTB, BK, QIII, tờ 18b, bd tr 248
13
1118 Hội khánh thành bày bảo tháp
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 18b, bd, tập I, tr 289.
14
1119 Hội đua thuyền
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 19b, bd, tập I, tr 290
15
1120 Hội đèn Quảng Chiếu
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 20b, bd, tập I, tr 290
273
Tt
Năm
Sự kiện
Nguồn tƣ liệu
16
1122 Đua thuyền
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 21b, bd, tập I, tr 291
17
1126 Hội Đèn Quảng Chiếu
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 24a,b, bd, tập I, tr 294
18
1126 Hội Nhân Vương
ở Long Trì
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 24b, bd, tập I, tr 294
Hội Khánh thành chùa Quảng Nghiêm
19
1130
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 36a, bd, tập I, tr 304
Tư Thánh
20
1149 Hội Nhân Vương
ở Long Trì
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển IV, kỷ nhà Lý, tờ 6b, bd, tập I, tr 317
21
VSL, tr 151
1165 Xây Đài Quảng Chiếu Diên Mệnh
22
1182
VSL, 163
Phường Tuồng diễn trò một người làm Hình Bộ Thượng Thư sai Tư lại đi bắt
Vua ra cửa Đại Hưng
mở Hội Đèn
23
1195
VSL, 163
Quảng Chiếu
24
1225
Lễ thoái vị
ĐVSKTT Bản kỷ, quyển IV, kỷ nhà Lý, tờ 34a,b, bd, tập I, tr 340
Bảng 35: Bảng thống kê tên gọi các phiên đội bảo vệ HTTL thời Lý
Tt
Năm
Quy định
Nguồn
Mậu thìn, hiệu Thuận Thiên năm thứ 19 (1028). Đặt quân đội: Đặt mười vệ Điện tiền trúc quần, thứ nhất là Quảng
Thánh
, thứ 2 là Quảng Vũ
, thứ ba là Ngự Long
1
1028
VSL, 79
, thứ tư là Phủng Nhật
, thứ năm là Trừng Hải
, mỗi vệ đều chia làm tả hữu
Đặt quân đội để báo vệ Kinh thành: Đặt 10 vệ điện tiền cấm
quân; 1 Quảng Thánh
; 2. Quảng Vũ
; 3. Ngự
2
1028
; 4. Bổng Nhật
; 5. Trừng Hải
TT, Bản kỷ, Q II, Lý kỷ, tờ 16b, bd, tập I, tr 252
Long . Mỗi vệ đều chia ra tả hữu trực, đi quanh để bảo vệ bên trong Cấm Thành, cộng là 10 vệ.
Định hiệu quân, gọi là Ngự Long
, Vũ Thắng
,
Long Dực
, Thần Điện
, Bổng Thánh
, Bảo
3
1059
TT, Bản kỷ, Q III, Lý kỷ, tờ 2b, bd, tập I, tr 272
Thắng
, Hùng Lược
, Vạn Tiệp
, đều chia
làm tả hữu, thích vào trán 3 chữ “Thiên tử quân”
Bảng 36: Bảng thống kê những quy định về tổ chức và sinh hoạt văn hóa tinh
274
thần thời Lý
Tt
Năm
Quy định
Nguồn
VSL, 79
1
1028
Mậu thìn, hiệu Thuận Thiên năm thứ 19 (1028). Đặt quân đội: Đặt mười vệ Điện Tiền Trúc Quần, thứ nhất là Quảng Thánh, thứ 2 là Quảng Vũ, thứ ba là Ngự Long, thứ tư là Phủng Nhật, thứ năm là Trừng Hải, mỗi vệ đều chia làm tả hữu
2
1028
TT, Bản kỷ, Q II, Lý kỷ, tờ 16b, bd, tập I, tr 252
Đặt quân đội để báo vệ kinh thành: Đặt 10 vệ Điện Tiền Cấm Quân; 1 Quảng Thánh; 2. Quảng Vũ; 3. Ngự Long; 4. Bổng Nhật; 5. Trừng Hải. Mỗi vệ đều chia ra tả hữu trực, đi quanh để bảo vệ bên trong Cấm Thành, cộng là 10 vệ.
3
1059
TT, Bản kỷ, Q III, Lý kỷ, tờ 2b, bd, tập I, tr 272
Định hiệu quân, gọi là Ngự Long, Vũ Thắng, Long Dực, Thần Điện, Bổng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược, Vạn Tiệp, đều chia làm tả hữu, thích vào trán 3 chữ “Thiên Tử Quân”
4
1071
Xuống chiếu cho Hữu Ty ai vào lầm hành lang tả hữu quan chức đô thì đánh 80 trượng
TT, Bản kỷ, Q III, Lý kỷ, tờ 5b, bd tập I, tr 275).
5
1104
Mùa xuân tháng 2, sai Lý Thường Kiệt đánh Chiêm Thành... Tháng 3, định lại binh hiệu của quân Cấm vệ
TB, BK, QIII, tờ 24a, bd tr 253.
6
1119
TT, Bản kỷ, Q III, Lý kỷ, tờ 20b, bd, tập I, tr 290
Mùa đông, tháng 10, duyệt 6 binh tào Vũ Tiệp, Vũ Lâm vv... người nào mạnh khỏe cho làm Hỏa đầu ở các đội quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, còn bậc dưới thì cho làm binh ở các quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, Ngự Long)
7
1124
TT, Bản kỷ, Q III,Lý kỷ , tờ 23b, bd, tập I, tr 294
Tháng 11Nhập nội Lễ bộ thị lang Lê Bá Ngọc đi đánh bọn Nùng Quỳnh và Mạc Thất Nhân ở châu Quảng Nguyên... Sắp đi, cho quân thề ở ngoài cửa Đại Hưng, tuyên bố quân lệnh
8
1128
TT, Bản kỷ, Q III, Lý kỷ , tờ 28b, bd, tập I, tr 298
Mùa xuân, tháng giêng ... Ngày Kỷ sửu, biếm Đại Liêu ban Lý Sùng Phúc vì khi qua cửa thành Tây Dương, người tuần lại hỏi mà không trả lời
9
1134
T,T Bản kỷ, Q III, Lý kỷ, tờ 38a, bd, tập I, tr 307
Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu cấm các Viên Chi Hậu và Nội Nhân Hỏa đầu không được tự tiện ra ngoài, ai trái thì khép tội nặng, nếu có việc công phải tâu trước rồi mới được ra (ĐVSKTT Bản kỷ, quyển III, kỷ nhà Lý, tờ 38a, bd, tập I, tr 307).
10
1135
Năm thứ 3, mùa hạ tháng 4, vua ban chiếu cho Tả ty lang trung là Lý Công Tín được ra vào cung cấm để tâu 4 việc, không ai được ngăn cản
TT, Bản kỷ, Q III, Lý kỷ, tờ 39b, bd, tập I, tr .ĐVSKTB, BK, QIII, tờ 8b; bd tr 273
11
1140
Lấy Đỗ Anh Vũ làm Cung điện lệnh Tri Nội Ngoại sự. Anh Vũ là em của Đỗ Thái Hậu, nên Lê Thái Hậu trao cho chức này
TT, Bản kỷ, Q IV,Lý kỷ, tờ 1a, bd, tập I, tr 312
12
1150
Anh Vũ ra vào nơi cung cấm thông gian với Lê Thái Hậu
TB, BK, QIV,Lý kỷ, tờ 7a; bd tr 283
13
1150
TB, BK, QIV,Lý kỷ, tờ 8b; bd tr 284);
Anh Vũ dâng mật tâu với vua rằng: Trước kia, bọn Vũ Đái tự tiện đem Cấm quân xong vào cung đình, tội ấy không gì to bằng,
14
1170
TT, Bản kỷ, QIV, Lý kỷ, tờ 15a, tập I, tr 324
Vua tập bắn và cưỡi ngựa ở phía Nam La Thành, đặt tên là Xạ Đình, sai các quan võ hàng ngày luyện tập phép công chiến phá trận
15
1225
TT, Bản kỷ, Q IV, kỷ nhà
Thủ Độ sợ việc tiết lộ thì bị giết cả, bấy giờ mới tự đem gia thuộc thân thích vào trong cung cấm. Thủ Độ đóng cửa thành và
275
Tt
Năm
Quy định các cửa cung, sai người coi giữ, các quan vào chầu không được vào. Thủ Độ loan báo: “Bệ hạ đã có chồng rồi”
Nguồn Lý, tờ 33a,b, bd, tập I, tr 339
276
Bảng 37: Bảng thống kê một số quy định về phong tục trong Hoàng cung triều
Lý
Tt
Năm
Sự kiện
Nguồn
1
1118
TB, BK, QIII, tờ 27b, bd tr 256).
Định lệ cấm con nhà nô bộc thích mực (vào người). Các nô bộc các nhà trong ngoài Kinh thành không được thích dấu mực và chân như kiểu cấm quân và thích hình rồng lên thân mình, ai phạm thì mất chức quan
1118
2
TB, BK, QIII, tờ 36b; bd tr 263
… Ban chiếu rằng: Trong nước đương có tang, nhân dân không được cưỡi ngựa và đi kiệu màu lam cùng xe che màn (Chế độ đi kiệu ngồi xe không khảo được)
1118
3
Vua ngự điện Thiên An xem nhân dân trong nước thề ở thềm rồng, ban chiếu phát quần áo tiền lụa ở trong kho
TB, BK, QIII, tờ 38a; bd tr 264
1138 Mùa đông tháng 10 (....) 1138. Họp người trong nước thề ở thềm rồng
4
TB, BK, QIII, tờ 52b; bd tr 276
1042 Tháng 9, phạt đánh 50 trượng những người vắng mặt trong buổi hội thề
5
TT, Bản kỷ, quyển II, kỷ nhà Lý, tờ 30a, bd, tập I, tr 63
Bảng 38: Bảng thống kê những năm bị thiên tai, hỏa hoạn
Tt
Năm
Sự kiện
Nguồn
1199 Hậu cung bị cháy (VSL, tr 165).
VSL, tr 165
1
1214 Tháng 6, Tự Khánh tiến đánh Nộn ở cung Thánh Nghi, đốt cung đó
2
VSL, 2005, tr 190.
3
1214
Tháng 8, ngày Đinh Hợi, Tự Khánh dẫn binh xâm phạm cửa khuyết. Vua cùng Thái Hậu đem binh hội họp. Ngày hôm ấy Tự Khánh thả quân sĩ cướp tài vật của vua, đốt cả cung thất và nhà cửa của dân Kinh thành gần hết
VSL, 2005, tr 191
4
1214
VSL, 2005, tr 191
Tháng 9, ngày Kỷ Mùi, vua cùng Thái hậu về Kinh sư, thấy cung thất bị đốt cháy hết, bèn đi ra cầu Thái Hòa ở cạnh đền Chúc Thánh, sai dựng căn nhà tranh để ở.
5
1215
VSL, 2005, tr 192
Mùa xuân, tháng giêng, vua xuống chiếu nói rằng: “Trần Tự Khánh nhóm họp hung đảng, cướp nhiễu Kinh sư, đánh thủy đánh bộ, làm đau đớn đến tông miếu, xã tắc. Mùa đông năm ngoái, lửa bạo ngược lại càng bốc cháy, nó đem quân lính, càn rỡ tham ngược, cướp bóc của cải của ta, đốt phá cung thất của ta, đến như ngõ ngách Kinh thành, cũng bị biến thành tro bụi”
6
1215 Điện Vĩnh Thọ bị cháy
VSL, 2005,tr 195
277
TƢ LIỆU THỐNG KÊ CÁC ĐIỆN THỜI TRẦN
Bảng 39: Bảng thống kê các sự kiện diễn ra các hoạt động tại các điện thời
Trần
Tt
Năm
Tên điện
Sự kiện
Ghi chú
Thiên An
1
1237
Ban yến cho các quan ở điện Thiên An
Bát Giác
2
1238
Ban yến cho các quan từ ngũ phẩm trở lên ở điện Bát Giác
ĐVSKTT(TT), Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 11b, bd, tập II, tr 17
3
1238
TT, TB
Dựng điện Linh Quang ở Đông Bộ Đầu gọi là điện Phong Thủy
Thiên An
4
1256
TT, TB
Điện Thiên An bị sét đánh
Thiên An
5
1258
(?)
Màu xuân tháng giêng, ngày mồng một, vua ngự chính điện, cho trăm quan vào chầu. Trăm họ yên nghiệp như cũ
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 23b, bd, tập II, tr 29
Thiên An
6
1263
Điện Thiên An bị sét đánh
TT, TB
Diên Hiền
7
1264
TT, TB
Thượng hoàng ban yến cho các quan ở điện Diên Hiền
Tập Hiền
8
1281
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 41a, bd, tập II, tr 47
Xuân ngạo nghễ vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại. Xuân dùng roi nhựa quất họ bị thương ở đầu. Đến điện Tập Hiền, thấy chăng bày màn trướng, hắn mới chịu xuống ngựa. Vua sai Quang Khải đến Sứ Quán khoản tiếp
Diên Hồng
9
1284
Tháng 12, Thượng hoàng triệu tập phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, ban yến và hỏi kế đánh giặc (...)
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 44a, bd, tập II, tr 50
Diên Hồng
10
1285
TT
Toa Đô vào nước ta đốt phá cung điện, giết hại nhân dân
điện
Diên Hồng
11
1288
TB
Cung điện bị đốt phá, xe vua trở về, Thượng hoàng ngự nhà thị vệ, đại xã cho thiên hạ
điện
Tập Hiền
12
1289
Điện Tập Hiền
TB
Thiên An
13
1289
Giặc Nguyên vào điện Thiên An
TB
14
1293
Thiên An
TB
Thượng hoàng ngự điện Thiên An xem đấu voi ở
278
Tt
Năm
Tên điện
Ghi chú
Sự kiện Long Trì
Thụy Chương
15
1337
Sét đánh điện Thụy Chương
TT
Thiên An điện
16
1351
Vua ngự điện Thiên An duyệt cấm quân ở Long Trì
TT
Lục Thanh
17
1363
Dựng điện Song Quốc đặt tên là điện Lục Thanh
TB
Thiên An
18
1371
Ban yến cho các quan ở điện Thiên An
TB
Thiên An
19
1371
TT
Giặc Chiêm Thành vào đốt phá cung điện, cướp lấy con gái, lụa ngọc đem về
Thụy Chương
20
1391
Dựng điện Thụy Chương
TT
Bảng 40: Bảng thống kê tên gọi các cung thời Trần
Tt
Năm
Tên cung
Sự kiện
Nguồn
Phụ Thiên
1
1226
TT, Bản kỷ, QVI, kỷ nhà Lý tờ 3b, bd, tập II, tr 9
Cha của Trần Thủ Độ làm Thái Thượng Hoàng ở cung Phụ Thiên (Phường Hạc Kiều phía bên tả
Thánh Từ
,
2
1230
TT
Quan Triều
Trong thành dựng cung điện, lầu gác và nhà lang vũ ở hai bên phía Đông và phía Tây. Bên tả là cung Thánh Từ (Thượng Hoàng ở), bên hữu là cung Quan Triều (vua ở)
Phụng Thiên
3
1234
Thượng Hoàng bày ở cung Phụng Thiên
TT, TB
Lệ Thiên
4
1236
Mùa hạ, tháng 6, nước to, vỡ tràn vào cung Lệ Thiên
TT, Bản kỷ, Q VI, kỷ nhà Lý, tờ 9a, bd, tập II, tr 15
Thánh Từ
5
1236
Cung Thánh Từ ở bên trả cung Phượng Hoàng
TB
Phượng Hoàng
Thưởng Xuân
1236
Nước tràn vào cung Thưởng Xuân
TT, TB
6
1238
Thưởng Xuân
7
Mùa thu, tháng 7, nước to, vỡ tràn vào cung Thưởng Xuân
TT, Bản kỷ, Q VI, kỷ nhà Lý, tờ 11b, bd, tập II, tr 17
279
Tt
Năm
Tên cung
Sự kiện
Nguồn
Cảnh Linh
8
1248
TT, Bản kỷ, QVI, kỷ nhà Lý tờ 16a, bd, tập II, tr 21
Mùa hạ tháng 4, làm cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo, qua hồ Ngoạn Thiềm, đến quán Thái Thanh cung Cảnh Linh, cực kỳ tráng lệ
Thái Thanh
9
1256
Cung Thái Thanh bị sét đánh
TB
Bắc Cung
10
1258
Tháng 2, ngày 24, vua nhường ngôi cho Hoàng Thái Tử Hoảng, lui ở Bắc Cung. Sử thần Ngô Sĩ Liên bàn: (...) Gia phả họ Trần lại ghi khác thế;
TT, (Bk, Q VI, kỷ nhà Lý, tờ 24a, bd tập II, tr 29); TB. Bk, Q V, kỷ nhà Lý, tờ 24a, bd, tập II, tr 30
Thánh Từ
11
1258
TT, (Bk, Q VI, kỷ nhà Lý, tờ 24a, bd tập II, tr 29
Con đã lớn thì cho nối ngôi chính, còn cha lui về ở cung Thánh Từ xưng là Thượng Hoàng cùng trông coi chính sự (...). Có lẽ lấy nghĩa ”quẻ Càn” lui ở phương Tây Bắc và “quẻ Chấn” tiến ra phương Đông. Nhưng chưa đến lúc già nua thì không được lười mỏi
Nhân Thọ
12
1258
Vua Thánh Tông băng ở cung Nhân Thọ
TT, Bk, Q VI, kỷ nhà Lý, tờ 24a, bd tập II, tr 29
Bắc Cung
13
1259
Mùa đông, tháng 10, ngày mồng 4, Thượng hoàng ngự Bắc Cung (tức cung Thánh Từ), các quan đến chầu mừng
TT Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, 25btờ , bd, tập II, tr 31
Vạn Thọ
14
1277
Mùa hạ, tháng 4, ngày mồng 1, Thượng hoàng băng ở cung Vạn Thọ
TT Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 35a, bd tập II, tr 40
Nhân Thọ
15
1290
Tháng 5, ngày 25, Thượng hoàng băng ở cung Nhân Thọ
TT Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 59a, bd, tập II, tr 67
Thánh Từ
Cung Thánh Từ (được nhắc đến)
TT
1294
16
17
1311
ĐVSKTT , Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 27b, bd, TII, tr 96
Nhận con gái của nhà sư người Hồ là Du Chi Bà Lam vào cung
Đông Cung Thái Tử
18
1330
Đông Cung Thái Tử gọi là Toát trai
TT,TT, BK, quyển VII, tờ 3a, tập II, tr 119
Thượng Liều
19
1330
Cung Thượng Liều (được nhắc đến)
TT
th
Đông cung
20
1331
Đông cung
TT
21
1332
Quan Triều
Nội sảnh cung Quan Triều
TT
280
Tt
Năm
Tên cung
Sự kiện
Nguồn
Kiến Xương
22
1341
Cung Kiến Xương
TT
Quan Triều
23
1344
TT, BK, quyển VIII, tờ 12a, ba, tập II, tr 96
Đổi Hành khiển ty ở cung Thánh Từ làm Thượng thư sảnh, còn hành khiển ty ở cung Quan Triều
Thánh Từ
24
1356
Cung Thánh Từ
TT
Cung điện
25
1371
Giặc Chiêm Thành vào đốt phá cung điện
TT
Bảng 41: Bảng thống kê tên gọi Đông cung thời Trần
Tt
Năm
Tên gọi
Sự kiện
Nguồn
Đông cung Thái tử
1
1240
Tháng 9 ngày 25, hoàng đích trưởng tử là Hoảng sinh, lập làm Đông cung Thái tử
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 12a, bd, tập II, tr 18
Đông cung
2
1274
Tháng 12 (...) Chọn người Nho học có đức hạnh trong thiên hạ vào hầu Đông cung (Thái tử - Tg)
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 34a, bd, tập II, tr 39
3
1276
Đông cung Hoàng Thái tử
Mùa thu tháng 9, hoàng trưởng tôn Thuyên sinh, lâp làm Hoàng thái tôn, ít lâu sau lập làm Đông cung Hoàng Thái Tử
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 35a, bd tập II, tr 40
Đông cung Thái tử
4
1305
Mùa Xuân, tháng giêng, sách phong Hoàng tử thứ tư là Mạnh làm Đông cung Thái Tử, (vua) làm bài Dược thạch châm ban cho
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 20a, bd, TII, tr 89
Đông cung Thái tử
5
1330
Đông cung Thái Tử gọi là Toát trai
TT, Bản kỷ, quyển VII, kỷ nhà Lý, tờ 3a, bd, TII, tr 119
Bảng 42: Bảng thống kê tên gọi các cửa thời Trần
Tt
Năm
Tên cửa
Sự kiện
Nguồn
Cửa Khoét
1
1226
Thượng hoàng nhà Lý (Huệ Tông) sau khi tự tử xong, Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía Nam làm cửa (bấy giờ gọi là “Cửa khoét”
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 2b, bd, tập II, tr 9
Dương Minh
2
1281
Xây cửa Dương Minh
281
Tt
Năm
Tên cửa
Sự kiện
Nguồn
Dương Minh
3
1281
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 41a, bd, tập II, tr 47
Xuân ngạo nghễ vô lễ, cưỡi ngựa đi thẳng vào cửa Dương Minh. Quân sĩ Thiên Trường ngăn lại. Xuân dùng roi nhựa quất họ bị thương ở đầu. Đến điện Tập Hiền, thấy chăng bày màn trướng, hắn mới chịu xuống ngựa.
1289
Xây Cửa Đại Hưng
TB
4
Long môn
5
1304
Tháng 3, thi kẻ sĩ trong nước (...). Dẫn 3 người đỗ đầu ra cửa Long Môn của Phượng Thành đi du ngoạn đường phố ba ngày.
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 19a, bd, tập II, tr 89).
Vĩnh Xương
Xây cửa Vĩnh Xương
6
1330
TT
Vĩnh An
Xây cửa Vĩnh An
7
1332
TT
Cửa Khoét
Đục thành gọi là Cửa Khoét
8
1332
TT
Quảng Phúc
Dựng hành lang Tây điện cửa Quảng Phúc
9
1364
TB
Tường Phù
10
1388
Dẫn sứ phương Bắc qua cửa Tường Phù
TT
Cảnh Dương
11
1388
Cửa Cảnh Dương, dẫn sứ phương Bắc đi
TT
Bảng 43: Bảng thống kê tên gọi các Hồ thời Trần
Tt
Năm
Tên Hồ
Sự kiện
Nguồn
Hồ Ngoạn
1
1248
Thiềm
Mùa hạ tháng 4, làm cầu Lâm Ba ở chùa Chân Giáo, qua hồ Ngoạn Thiềm, đến quán Thái Thanh cung Cảnh Linh, cực kỳ tráng lệ
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý tờ 16a, bd, tập II, tr 21
Ao trong Vườn
Ngự
3
1263
TB
Đào ao trong vườn Ngự uyển trong Hậu cung
Hồ Lạc Thanh
4
1263
TB
Đặt tên hồ trong thành là hồ Lạc Thanh (Thả cá biển) đào hồ Thanh Ngư thả cá diếc
Hồ Thủy
5
1283
Mùa hạ, tháng 6, cá hồ Thủy Tinh chết
Tinh
TT, Bản kỷ, quyển VI, kỷ nhà Lý, tờ 43b, bd tập II, tr 49
282
Bảng 44: Bảng thống kê so sánh đặc điểm, quy mô kiến trúc Kinh Thành,
Hoàng Thành và Tử Cấm Thành Kinh đô Huế thời Nguyễn.
Tt
Tên gọi
Đặc điểm
Ghi chú
1
Kinh Thành (Kinh sư)
Hình dạng gần như vuông, mỗi cạnh dài hơn 2,2 km, chu vi = 10 km, chiều cao mặt ngoài hơn 6m, chiều dày tại chân thành 21m. Kinh thành có 10 cửa đường bộ (mặt nam 4 cửa, các mặt còn lại đều có 2 cửa), 2 cửa đường thủy đặt ở phía Tây và phía đông; ngoài ra còn có 1 cửa phụ nối thông qua Trấn Bình Đài ở phía Đông Bắc. Vòng tường thành này bao bọc lấy một khu vực có diện tích 5.200.000m2. Phong cách kiến trúc pha trộn giữ kiểu vauban và thành Việt Nam truyền thống. Kinh thành có 24 pháo đài xây lồi ra phía ngoài, phía trên tường thành trổ các lỗ châu mai, tường bắn cùng 355 xưởng súng, điếm canh bố trí 4 mặt bảo vệ. Các công thành xây kiểu vọng lâu, cửa chính nằm trong thân thành (ám môn), hai tầng vọng lâu bên trên xây gạch hoàn toàn theo kiểu truyền thống
2
Hoàng Thành
Hình chữ nhật, mặt nam và bắc dài 640 m, mặt đông tây dài 568 m, chu vi 2416m, cao 4m, chiều dày hơn 1m, bao bọc lấy 1 khu vực rộng 360.000m2. Hoàng thành bố trí 4 cửa bố trí tại 4 mặt (Ngọ môn: Nam); Hòa Bình: Bắc; Hiển Nhân môn: Đông; Chương Đức: Tây). Nguyên có 4 khuyết đài lồi ra ở chính giữa của 4 mặt. Năm 1833, vua Minh Mạng triệt bỏ Nam khuyết đài để xây Ngọ Môn.
3
Tử Cấm Thành
Hình chữ nhật, chiều dài cạnh Đông và Tây là 308m; chiều dài cạnh Nam, Bắc = 342m; chu vi = 1.300 m, tường thành cao hơn 3m, dày 0,6m, bao lấy khu vực rộng 90.000m2.Từ Cấm thành nguyên có 10 cửa trong đó quan trọng nhất là Đại Cung môn ở mặt Nam (mặt đông nguyên có 4 cửa nay chỉ còn có 3: Duyệt Thị, Hưng Khánh, Cấm Uyển; mặt Bắc có 3 cửa: Văn Phòng, Tường Loan, Nghi Phụng; Mặt tây có 2 cửa: Tây An và Gia Tường)
(Nguồn: Phan Thanh Hải (2009) “Quy hoạch và cấu trúc kinh đô Huế”, Tạp
283
chí Khảo cổ học, số 4, tr. 57).
Phụ lục II: Sơ đồ về quy mô, cấu trúc thời Lý - Trần - Lê
Sơ đồ 1: Vị trí các cung điện khoảng năm 1010- 1011 dưới thời Lý Thái Tổ,
(Bản vẽ của GS Nguyễn Quang Ngọc, 2016)
Sơ đồ 2: Phục dựng quy hoạch Thăng Long 1010 của Lê Văn Lan (2004), được sửa chữa bởi Yao Takao (2007)51 và Momoki Shiro (2010)52, bản bổ sung của Phạm Lê Huy53
51 Yao Takao (2007), “Sơ thảo nghiên cứu thành Thăng Long thời Lê sơ ở Việt Nam”, Thông báo lịch sử phương Đông, Đại học Hiroshima, tr. 12; 52 . Momoki Shiro (2010), “Xem xét lại các sử liệu văn bản liên quan đến Kinh thành Thăng Long của Đại Việt (Việt Nam) thời Lý”, Machikaneyama luận tùng (Phần lịch sử), tr. 44;
284
Chú thích tên các công trình:
Tt
Tên công trình
Tt
Tên công trình
1
Triều nguyên- Càn Nguyên điện
(
)
11 Long An điện
2
Tập hiền điện
12 Long Thụy điện
3
Giảng võ điện
13 Nhật Quang điện
4
Phi Long Môn
14 Nguyệt Minh điện
5
Nghênh Xuân cung
15 Thúy Hoa cung
6
Đan Phượng môn
16 Long Thụy cung
7
Uy Viễn môn
17 Tường Phù môn
8
Cao Minh điện
18 Quảng Phúc môn
9
Long trì
19 Đại Hưng môn
10 Hành Lang
20 Diệu Đức môn
53 . Phạm Lê Huy (2016), “Ảnh hưởng mô hình Lạc Dương và Khai Phong đến quy hoạch Hoàng thành Thăng Long thời Lý - Trần”, Không gian Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long tư liệu và nhận thức, NXB Hà Nội, tr. 182.
285
Sơ đồ 3: Vị trí các cung điện khoảng năm 1029 - 1030 dưới thời Lý Thái Tông
286
(Bản vẽ của GS Nguyễn Quang Ngọc, 2016)
Sơ đồ 4: Sơ đồ hình dung trục trung tâm Thăng Long thời Lý sau năm 1029
(Bản vẽ của Phạm Lê Huy, 2016)
Sơ đồ 5: Sơ đồ hình dung trục trung tâm Thăng Long thời Lý sau năm 1029
287
(Bản vẽ của Phạm Lê Huy, 2016)
Sơ đồ 6: Thăng Long thời Trần (một giả thuyết) (Theo bản vẽ của GS. TS Momoki
Shiro, 2016, tr 257)
Sơ đồ 7: Tương quan vị trí của Dương Minh Môn và các kiến trúc khác tại Thăng
288
Long thời Trần (Phạm Lê Huy, (2016), đd tr. 185)
Sơ đồ 8: Thăng Long thời Trần (một giả thuyết)
(Theo GS. TS Nguyễn Quang Ngọc, 2016)
Sơ đồ 9: Hình dung trục trung tâm Thăng Long thời Trần
289
(Bản vẽ của Phạm Lê Huy, 2016)
Sơ đồ 10: Tương quan vị trí Dương Minh Môn và các kiến trúc khác tại Thăng
Long thời Trần, (bản vẽ của Phạm Lê Huy, 2016)
Sơ đồ 11 : Sơ đồ hình dung trục trung tâm Thăng Long thời Trần (Bản phục dựng
của Phạm Lê Huy (2016), “Không gian khu trung tâm Hoàng Thành Thăng Long tư
290
liệu và nhận thức, NXB Hà Nội, tr. 213)
Sơ đồ 12: Vết tích kiến trúc Lý được phát hiện tại khu vực điện Kính Thiên (từ năm
2011- 2013), Vẽ theo sơ đồ của Hà Văn Cẩn (2016), tr. 156)
Sơ đồ 13: Cấm thành Thăng Long phỏng theo Hồng Đức bản đồ
291
(Bản vẽ sơ đồ của GS Nguyễn Quang Ngọc, 2016)
Sơ đồ 14: Di tích Cổng Đoan Môn và điện Kính Thiên thời Lê trong sơ đồ so sánh
vị trí với đường nước lớn (thời Lý) mới khai quật năm 2012 - 2013, bản vẽ của
292
Hà Văn Cẩn, 2016).
Bản đồ 1: Hồng Đức bản đồ
293
Bản Đông Dương Văn khố Tokyo, kí hiệu 2599
294
Bản đồ 2: Bản đồ Hà Nội thời Nguyễn trong tập sách Đồng Khánh địa dư chí
Bản đồ 3: Hoàng Thành và Cấm Thành Thăng Long
295
trong Hồng Đức Bản Đồ (1490)
Bản đồ 4: Hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận
296
trong tập sách Đồng Khánh địa dư chí lược
297
Bản đồ 5: Bản đồ Hà Nội và Hoàng Thành Thăng Long nửa đầu Tk XIX
Phụ lục III: Sử liệu thƣ tịch Hán nôm cổ
ĐVSKTT thuộc Đường kỷ, quyển 5, tờ 15: (ghi về quy mô thành Đại La, có
đê chu Vi 2125 trượng 8 thước, cao 1 trượng 5 thước, chân rộng 2 trượng, làm được
hơn 40 vạn gian nhà).
(H: MB1)
ĐVSKTT, Lý Thái Tổ, quyển 3, tờ 7, ghi: “Tháng10, đúc 2 quả chuông ở
chùa Thắng Nghiêm và Ngũ Phượng Tinh Lâu, đắp tường đất bốn chung quanh
298
Thành Thăng Long”.
(H: MB2)
ĐVSKTT, Lý Nhân Tông, tờ 10: Mậu Ngọ, năm thứ 3… (Mùa xuân, tháng
Giêng, sửa Thành Đại La ).
(H: MB3)
ĐVSKTT, Lý Anh Tông, quyển 4, tờ 12 ghi: Làm cung Lệ Thiên và cung
299
Long Khánh cùng hành lang)
300
(H: MB 4)
ĐVSKTT, Trần Thái Tông kỷ, quyển 5, tờ 5: ghi: “Trong thành lập cung,
điện, lầu, gác, hành lang ở hai bên Đông - Tây, bên trái là cung Thánh Từ do
Thượng Hoàng ở, bên phải là cung Quan Triều do vua đương triều ở).
(H: MB5)
KĐVSTGCM, quyển 2, Lý Thái Tổ niên hiệu Thuận Thiên nguyên niên, tờ
10, ghi: “Thời Lý gọi là Thành Thăng Long , thời Trần đổi làm Đông Đô ,
301
thời thuộc Minh gọi là Đông Quan , thời Lê là Đông Kinh , năm Gia Long
năm thứ 4 (1805) đổi thành Thăng Long , nay thuộc tỉnh Hà Nội” (
).
(H: MB 6)
VSTGCM, quyển 2, tờ 22, Lý Thái Tổ Thiên Thành nhị niên, ghi: Tháng 6,
302
xây điện Thiên An ).
(H: MB7)
KĐVSTGCM, Lê Thái Tổ Thuận Thiên nhị niên, tam niên, tờ 26: “Đổi Đông
303
Đô làm Đông Kinh, Tây Đô làm Tây Kinh” ( ).
(H: MB 8)
KĐVSTGCM, Q23, Lê Thánh Tông Hồng Đức 18 (1477), tờ 4, ghi: Mùa
xuân, tháng 2 nhuận đắp thêm Thành Đại La ).
(H: MB9)
Việt sử chính biên (VSCB), Lê triều Thái Tông, tờ 14, ghi: Tháng 6, vua Mạc
304
muốn trở lại vào Thành Thăng Long ở, bèn bàn bạc việc tu sửa thành trì, đại hưng
công, công việc làm gạch, ngói khoảng 1 năm thì xong.
).
(H: MB10)
ĐNTLCB, Đệ nhất kỷ, quyển 19, tờ 11, ghi: “Sai Bắc Thành sửa dựng hành
cung sứ quán. Vua cho sự thể bang giao là một việc quan trọng, hạ lệnh cho quan
Bắc Thành noi theo việc cũ của triều Lê, xây thêm điện vũ (đặt điện Cần Chánh ở
bên trong năm cửa trước Điện Kính Thiên, ngoài cửa điện Cần Chánh dựng một cái
rạp dài, đắp trước đặt cửa Chu Tước) và nhà tiếp sứ ở bên sông” (
305
).
(H: MB11)
ĐNTLCB, Đệ nhất kỷ, q 20, tờ 5: “Nhà vua thấy thành chật hẹp, muốn làm
rộng hơn ra bèn mệnh cho bề tôi, dây bản đổ lên, phát động cho các quân dinh đi
đắp, cung cấp cho lương thực…’.
(H: MB12)
ĐNTLCB, đệ Tam kỷ, tờ 17, ghi: “Việc kinh dinh, xây dựng các hành cung
cùng các sứ quán ở Bắc Ninh, Lạng Sơn. Ở Hà Nội, hành cung điện Kính Thiên,
phía trước xây điện Thị Triều, điện Cần Chánh đều dùng ngói lợp, ngoài Ngũ Môn
306
xây nhà dài, phía trước là cửa Chu Tước…”.
Phụ lục 4: Sử liệu ảnh
(A1) Điện Kính Thiên và bậc thềm rồng ở vào thời Lê Trung hưng (1685)
Tranh khắc của Samucl Baron, 1685; Nguồn: Nguyễn Thị Chân Quỳnh (2007),
307
Thi đình việt Nam, NXB Văn học).
(A2) Nhà Thập đạo
trong Hoàng Thành Thăng Long
(do Hoàng đế tổ chức chấm thi Đình), tranh khắc của Samucl Baron,
(A3) Điện Kính Thiên
thời Nguyễn được đổi tên là điện Long Thiên
308
(Khoảng những năm trước 1886)
309
(A4) Ảnh khu vực sân điện Kính Thiên
và thềm Rồng khoảng đầu Tk XX
(Ảnh Internet)
(A5) Ảnh khu vực điện Kính Thiên
cuối Tk XIX - trở thành nơi đóng quân của
lính Pháp và sân phía trước là bãi chăn thả ngựa
(Ảnh nhìn từ phía chính diện)
310
311
(A6) Cửa Đông Nam thành Hà Nội, cuối Tk XIX, đầu Tk XX
Phụ lục V: Sử liệu ảnh di tích, di vật Khảo cổ học
Mặt bằng khu khai quật các di tích thời Lý tại Hoàng Thành Thăng Long
312
(ảnh Hoàng Thành Thăng Long)
Di tích thời Đai La được phát hiện tại khu Trung tâm HTTL Tk VII - X (ảnh HTTL)
313
Hiện vật gạch lát nền thời Lý (Tk XI- XII) khai quật tại khu vực ĐKT của HTTL
Lá đề lệch thời Lý (hiện vật khai quật ở khu vực phía Bắc Đoan Môn - HTTL)
Ngói yếm (trích thủy) trang trí diềm mái công trình thời Lê sơ
314
(Khai quật trong khu vực Không gian Điện Kính Thiên)
Gạch thẻ, thời Lê
315
Gạch thỏi, có chữ “Vạn”
Gạch trang trí cánh sen và hình vũ nữ, chất liệu sứ tráng men, niên đại thời Lý
316
Lá đề cân, dùng để trang trí trên diềm mái công trình, niên đại thời Lý.
Phụ lục VI: Sử liệu thƣ tịch cổ ghi về điển chế trong HTTL54
Bảo vệ Hoàng cung
Điều 2: Tự tiện vào cửa cung điện
Phàm người nào tự tiện vào cửa Ngọ Môn, cửa Đông Hoa, Tây Hoa, cửa
Thần Vũ của Cấm thành (Tức nay là cửa Đoan Môn, Hiển Nhân, Chương Đức,
Cộng Thần ở hai bên tả hữu). Không có nhiệm vụ mà tự tiện vào các cửa đó và vào
vườn Cấm uyển thì xử phạt 100 trượng. Người tự tiện mà vào cửa cung điện thì
phạt 60 trượng, xử tội đồ 1 năm. Người nào tự tiện vào sở ngự thiện và sở ngự tại
thì xử tội giảo giam hậu, chưa bước qua cửa thì được giảm 1 mức. (gọi là “ngự” là
gồm cả Thái hoàng, Thái hậu, Hoàng thái hậu, Hoàng hậu). Nếu người nào không
có tên trong môn tịch mà giả mạo (tên người khác) mà vào (kể cả người chưa bước
qua cửa) đều bị xử tội như nhau. Người phải túc trực trong cung điện mà chưa ghi
vào trong môn tịch mà vào, hoặc đã hết phiên trực mà vào, hoặc phiên trực chưa
đến (tuy vào được, nhưng phiên trực chưa đến, mà vượt phận) mà vào thì phải xử phạt 40 roi. Người không […]55 mà mang dao nhỏ vào cửa cung điện thì xử tội giảo
giam hậu. Người chưa vào trong cửa, nhưng định tự tiện vào cửa thì cũng bắt tội.
Người tự tiện vào cửa cấm thành thì xử phạt 100 trượng, phát đi miền biên viễn,
sung quân. Quan thủ môn và quan túc vệ người nào có ý dung túng thì xử tội như
người vi phạm (phạm tội chết thì cho giảm một mức). Người nào sơ suất trong việc
kiểm sát, quan thì giảm 3 mức, tội chỉ 100 trượng, quân thì giảm 1 mức, và đều chỉ
bắt tội người trực nhật chỉ chung quan và quân. Các điều khác cũng chuẩn theo điều
này.
(Tử Cấm Thành là nơi vua ngự, theo lí là phải nghiêm cấm. Các cửa và
vườn cấm cũng là nơi phải phòng giữ. Nếu không phải các quân túc trực canh giữ,
thì không được vô cớ tự tiện bước vào. Người nào tự tiện vào thì xử phạt 100
54 Tất cả phụ lục VI, chúng tôi sưu tầm từ bộ sử do Quốc sử quán triều Nguyễn (2009) Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ (Viện sử học phiên dịch, NXB Giáo dục. 55 Phần này nguyên bản mất 8 chữ (chú thích của người dịch)
317
trượng. Cửa vườn còn xa cung điện nên càng phải nghiêm, người nào tự tiện vào thì
xử phạt 60 trượng, xử tội đồ 1 năm. Sở ngự thiện là nơi nấu nướng cung cấp đồ
ngọc thực. Sở ngự tại là nơi đấng chí tôn đến nghỉ ngơi, nên càng phải giữ nghiêm.
Người nào tự tiện vào, bất kể lý do gì, đều xử tội giảo. Ba hạng trên đây đều là nói
về người đã bước vào cửa. Nếu người nào mới đến cửa, mà chưa bước vào cửa thì
được giảm 1 mức. Vào cửa và vườn Cấm Thành thì xử phạt 90 trượng; Vào cửa
cung điện phải xử phạt 100 trượng; vào sở ngự thiện, ngự tại thì xử phạt 100
trượng, đi đày xa 3000 dặm. Người không có tên trong sổ môn tịch mà nói dối và
giả mạo họ tên người khác trong môn tịch, tự tiện vào Tử Cấm thành, vào các cửa,
vườn Cấm uyển, cửa cung điện, sở Ngự Thiện, Ngự tại thì đều xử tội giống nhau.
“Mạo nhập” (Giả mạo mà vào) cũng giống như “Thiện nhập” (tự tiện vào), thì chiểu
theo tội khoa “tự tiện vào” và chưa bước qua cửa” ở tiết trên mà phân biệt xét xử.
Tội tự tiện và giả mạo trên đây đều cho về những người không được vào. Còn người
cho phép được vào cung điện tuy không cấm, nhưng phải ghi tên vào trong sổ môn
tịch. Những người túc trực được phép vào nếu chưa được ghi tên trong sổ môn tịch
mà tự tiện vào, hoặc đã hết giờ trực, và chưa hết giờ trực mà đã tự tiện vào thì bị xử
phạt 40 roi. Chỉ có những người túc vệ trực nhật mới được mang theo binh khí để
phòng bị khi sự cố. Người không làm nhiệm vụ túc vệ mà mang theo con dao nhỏ
vào trong cửa cung điện thì bị tội xử tội giảo. Vào trong các cửa của Tử Cấm Thành
thì bị xử phạt 100 trượng, bị đày đi miền biên viễn, sung quân. Những vị quan viên
giữ cửa và quan quân túc vệ biết mà cố ý dung túng để cho người vào mà không xét
hỏi thì cũng bị tội như những người vi phạm các tội tự tiện, giả mạo, chưa có ghi
trong sổ môn tịch, cầm dao mà đột nhập vào. Nếu bị xử tội chết thì giảm 1 mức, xử
tội lưu. Người nào sơ suất việc xét hỏi thì giảm tội 3 mức, chỉ xử phạt 100 trượng.
Quân dân thì xử nhẹ hơn quan lại, giảm cho 1 mức, góp chung là giảm bốn mức, chỉ
xử phạt 90 trượng. Quan thì chia ra phiên trực và hết phiên trực, và đều chỉ bắt tội
người đang ở trong phiên trực. Chữ “đều” (tịnh) là chỉ về quan giữ cửa và lính túc
318
vệ.
Điều 3: Lính túc vệ canh gác tự tiện đổi canh
Phàm lính canh giữ cung cấm và cửa Hoàng thành, Tử Cấm thành đúng
phiên trực mà không trực bị xử phạt 40 roi. Người nào canh giữ hết phiên trực mà
tự tiện đổi canh thay người thì xử phạt 60 trượng. Người nào không có liên quan gì
về việc canh giữ, mà mạo tên tự tiện thay thế, thì cả người thay thế đều bị phạt 100
trượng. Quan viên thì xử tăng 1 mức. Nếu đang phiên trực mà bỏ trốn ra ngoài, thì
cũng xử tội như vậy. (Tội phải trực mà không trực thì thì quan viên xử tăng lên một
mức). Canh giữ cửa kinh thành thì được giảm 1 mức. Canh giữ cửa thành các nơi
cũng được giảm 1 mức. Viên đầu mục có nhiệm vụ cai quản biết mà cố ý dung túng
thì xử tội giống với tội của người vi phạm. Người sơ suất việc hỏi xét thì giảm 3
mức. Xảy ra sự cố mà chạy về sở báo cáo thì không bắt tội.
(Những người canh giữ cửa cung cấm và cửa Hoàng thành, Tử Cấm thành
đều là luân ban trực nhật, đều có định kỳ. Người đến phiên trực mà không lên trực,
tuy có xử phạt 40 roi mà thôi. Người đến phiên trực mà không trực, lại tự tiện thay
người, tuy cũng là người có nhiệm vụ canh giữ của bản nha, nhưng lại là che giấu
cho nhau để làm sự gian tình, điều đó còn nặng hơn tội không trực nhật, vì vậy cả
người trực thay đều bị xử phạt 60 trượng. Người không có nhiệm vụ canh giữ mà
mạo tên để thay người, thì đã không phải là người có nhiệm vụ canh gác của bản
nha, lại giả mạo gian dối. Tội ấy càng nặng, nên cả người mạo danh thay thế đều bị
xử phạt 100 trượng. Trên đây là nói về quân dân. Nếu quan viên mà có người nào
phạm các tội không trực nhật, tự tiện thay thế, giả mạo thay thế, thì chiếu theo tội
của quân, xử tăng lên một mức. Quân nhân vào ngày trực tự tiện bỏ trốn về nhà thì
tội cũng giống tội phiên trực mà không trực. Quan viên thì xử tăng lên 1 mức. Lính
canh giữ chín cửa kinh thành và cửa thành các nơi, phạm các tội đúng phiên trực mà
không trực, đang trực mà bỏ trốn, người có nhiệm vụ canh giữ mà tự tiện thay
người, không có nhiệm vụ canh giữ mà giả mạo thay thế thì giảm so với việc canh
giữ ở kinh thành 1 mức. Canh giữ ở các nơi lại giảm so với việc canh giữ ở kinh
thành 1 mức. Gộp chung là giảm hai mức. Viên đầu mục cai quản chỉ huy lính túc
319
vệ, thủ vệ canh giữ cửa thành, nếu biết rõ là tội bỏ trực, bỏ trốn, tự tiện thay người,
mạo tên thay người mà cố ý dung túng, không xét hỏi, thì bị xử tội như người vi
phạm. Người sơ suất trong việc xét hỏi thì chiếu theo tội của người vi phạm giảm 3
mức. Lính canh giữ các cửa cung cấm, cửa hoàng thành Tử cấm thành, cửa kinh
thành, thành ngoài, nếu có bệnh tật, việc tang vv… đã báo cáo cho viên đầu mục sở
quản biết thì không bắt tội).
Điều 4. Đi theo hầu giá chậm trễ, sai trái
Phàm những người phải đi theo (hầu) xa giá nhà vua mà đến chậm và về
trước 1 ngày thì xử phạt 40 roi. Cứ mỗi ngày thì tăng thêm 1 mức cao nhất là xử
phạt 100 trượng. Người có chức quan vi phạm đều xử tăng thêm 1 mức (mức cao
nhất là xử phạt 60 trượng, xử tội đồ 1 năm). Người nào đi theo hầu xa giá và bỏ trốn
thì xử phạt 100 trượng, phát đi miền biên viễn, sung quân. Chức quan bị xử tội giảo
(giam hậu viên đầu mục chỉ huy cố ý dung túng cho người đến chậm, về trước, bỏ
trốn) thì tội như những người vi phạm (xử tôi chết thì được giảm 1 mức). Người sơ
suất việc hỏi xét thì giảm 3 mức, chỉ xử phạt 100 trượng. (Đi theo hầu xa giá mà lỡ
kì hạn đến chậm, đã đi theo hầu và giá rồi mà lại bỏ về trước, tuy đều là phạm tội
khinh mạn vua, nhưng về tội thì là nhẹ, nên tính theo số ngày đến chậm và bỏ trốn
về trước mà luận tội. Mỗi một ngày là xử phạt 40 roi, cho tới 19 ngày. Những tội
trên đây chỉ xử cao nhất là phạt 100 trượng. Đó là nói về quân nhân, chức quan vi
phạm các tội trên thì xử nặng một mức. NGười nào đi theo hầu xa giá mà bỏ trốn là
có ý phản bội, nên không thể so với tội bỏ về trước. Quân nhân vi phạm tội xử phạt
mãn trượng (100 trượng), đày đi viễn biên. Chức quan thì bị tội giảo. Viên đầu mục
chỉ huy cố ý dung túng cho những người đến chậm, bỏ về trước, bỏ trốn, thì tội
giống như người vi phạm. Xử tội chết thì được giảm xuống tội lưu. Người sơ suất
không phát giác thì chiếu theo tội của người vi phạm giảm 3 mức, tội cao nhất xử
phạt 100 trượng).
Điều 5: Xông thẳng vào đƣờng vua đi
Phàm đoạn đường vua đi từ của Ngọ Môn hay cửa Đoan Môn đến cho đến
ngự kiều (đã bày nghi trượng), ngoài việc cho phép quan quân thị vệ dẫn đường
320
theo hầu xa giá được đi ở hai bên Đông, Tây ra, ngoài ra mọi người quân dân văn
võ bá quan không phải là thị vệ dẫn đường, theo hầu, và vô cớ xông thẳng vào và
bước quan ngự kiều thì xử phạt 80 trượng. Người nào xông thẳng đến ngự đạo ở
khu vực cung điện thì xử phạt 100 trượng. Quan thủ vệ cố ý dung túng thì tội giống
như người vi phạm. Người nào sơ suất không phát giác thì giảm 3 mức. Nếu người
nào trên đoạn đường ngự đạo chạy ngang qua, chỉ là người hành động nhất thời thì
không thuộc điều cấm này.
(Con đường giữa ở ngoài cửa Đoan Môn gọi là Ngự đạo. Cây cầu ở đó gọi
là Ngự Kiều, đoạn đường đó là nơi bậc chí tôn ra vào, không phải là nơi thần dân đi
lại. Nếu đã bày nghi trượng, mà người nào vô cớ xông thẳng vào Ngự đạo và bước
qua Ngự Kiều thì bị xử phạt trọng trượng 80 trượng ... Người nào xông vào đoạn
Ngự đạo ở khu vực trong cung điện hoặc nơi thân cực tôn nghiêm nhất mà vô cớ
xông thẳng vào thì xử phạt 100 trượng. Quan thủ vệ cố ý dung túng để cho người
vào mà không xét hỏi, thì tội như người vô cớ xông vào đường Ngự đạo và bước
qua Ngự Kiều, xử phạt 80 trượng, 100 trượng. Người nào sơ suất việc kiểm soát thì
giảm 3 mức. Nhất thời chạy qua thì không thuộc điều cấm kỵ này).
Điều 8. Tùy tiện ra vào cửa cung điện
Phàm người phải ra (làm các việc sai khiến ở ngoài) cung điện và đã xóa tên
trong sổ môn tịch rồi, mà vẫn cứ lưu lại ở trong cung điện không ra; Người được
vào cung điện trực nhật nhưng bị tố cáo đàn hặc đã có văn bản cấm chỉ, tuy chưa
xóa tên trong sổ môn tịch mà tự tiện vào cung điện thì đều bị xử phạt 100 trượng
(ban ngày cấm). Nếu lính túc vệ đã bị tâu hặc, thì bản quan, ti (cai quản) người lính
đó trước hết phải thu hồi binh trượng. Người nào vi phạm thì tội cũng như vậy.
Người nào có tên trong sổ môn tịch (được canh giữ) nhưng đến đêm thì đều không
321
được ra vào. Người vào thì xử phạt 100 trượng, người ra thì xử phạt 80 trượng.
Phụ lục VII: Văn bia đề cập đến Tứ trấn, Kinh Thành và Hoàng Thành Thăng Long thời Lý - Trần - Lê56
1. Ký kỵ bia (Kh: 57, VNCHN)
Thác bản văn bia phường Hồ Khẩu, tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận, phủ
Hoài Đức , sưu tầm tại đình Hồ Khẩu
- Thác bản 1 mặt, khổ 50 x 90 cm, gồm 14 dòng chữ Hán và chữ Nôm, toàn
bộ bài văn khoảng 320 chữ, có hoa văn, không có chứ húy.
- Niên đại: Tự Đức thứ 1 1849); Người soạn: Không ghi
- Nội dung: Ghi về việc bầu hậu, biểu dương việc thiện và sinh hoạt làng xã.
- Phường Hồ khẩu được triều đình cho giảm ngạch thuế giấy
2. Chúc Thánh, Thanh lâu đẳng tự hƣơng hỏa điền bi
( ), ký hiệu: 66 (VNCHN); Thác bản văn bia phường
Hồ Khẩu, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên ( ), sưu tầm tại
đình phường Hồ Khẩu, thác bản 1 mặt, khổ 55 x 87 cm, gồm 26 dòng chữ Hán, toàn
văn ước khoảng 600 chữ, có hoa văn, không có chữ húy; niên đại: Vĩnh Tộ thứ 4
(1622); Người soạn là Đỗ Trực ( ), quê quán xã Lạp Hạ, huyện Yên Sơn; học
vị: Giám sinh.
Dội dung: ghi về sinh hoạt làng xã, lịch sử di tích, thơ văn; Nội dung chính:
Phường Hồ Khẩu có 2 chùa là Chúc Thánh và Thanh Lâu đều là danh thắng có từ
rất lâu, nổi tiếng là linh thiêng. Năm Mậu Ngọ (1618) gặp kỳ lũ lớn phủ Chúa Trịnh
sai tới cầu đảo được thần phù hộ nên toát khỏi tai nạn. Bia khắc lệnh chỉ của chúa
Trịnh Bình An Vương hoàn trả ruộng tam bảo cho hai chùa, trong đó 4 mẫu 3 sào
của chùa Chúc Thánh và 6 mẫu của chùa Thanh Lâu, có bài minh 36 câu tóm lược.
3. Thiên Quang Thiền tự bi ký , ký hiệu: 122/123
(VNCHN); Thác bản văn bia thôn Đổi Mã, tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương,
phủ Hoài Đức ( ), sưu tầm tại chùa Hòa Mã, đường
322
Huế, đệ bát hộ, Hà Thành. 56 Tham khảo: Tóm tắt Tổng tập thác bản văn khắc Hán Nôm (2005), NXB Hà Nội.
Thác bản 2 mặt, khổ 85 x 135 cm, gồm 35 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng
1100 chữ, có hoa văn, không có chữ húy; niên đại: Gia Long thứ 13 (1814); Người
soạn: Họ Trần, tên tự: Tịch Khanh, nhà sư; Người viết chữ: Đào Nguyễn Viên (
); chức vụ Câu kê; Chủ đề: Lịch sử di tích, xây dựng trùng tu, thơ văn;
Nội dung chính: Chùa Thiên Quang đã được xây dựng từ lâu, vào thời Lê,
nhà vua mỗi khi đi tế Giao đều vào chùa này thắp hương rồi thay áo ngự. Chùa lâu
ngày bị hỏng. Nay nhà sư họ Trần, tự Tịch Khanh đứng ra dựng lại tòa thượng điện,
thiêu hương, tiền đường.
4. Hàm Long tự bi ký , ký hiệu: 156/157/158/159 (VNCHN)
Thác bản bia Kinh sư , sưu tầm tại chùa Hàm Châu, Hà thành; Thác bản
4 mặt, khổ 40 x 110 cm và 48 x 97 cm, gồm 75 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng
1500 chữ, không có hoa văn, không có chữ húy.
Niên đại Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714); Người soạn: Không ghi
Chủ đề: Hành trạng, nhân vật, xây dựng trùng tu di tích
Nội dung: Vương Thái phi họ Trương đứng ra quyên góp trùng tu chùa Hàm
Long, một thắng cảnh của Long Biên, được Chúa Trịnh ban cho tiền bạc và sự đóng
góp của đông đảo thiện nam tín nữ, có sự đóng góp của quận chùa Trịnh Thị Ngọc
Yên, Ngọc Kỳ, Ngọc Quỹ, Ngọc Dung.
5. Hàm Long tự bi ký , ký hiệu: 160 (VNCHN); Thác bản bia
phường Phục Cổ, sưu tầm tại chùa Hàm Long, phố Hàm Khánh, Hà Thành; Thác
bản 1 mặt, khổ 164 x 172 cm, gồm 29 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng 700 chữ, có
hoa văn, không có chữ húy;
Niên đại: Vĩnh Thịnh 10 (1714).
Người soạn: Nguyễn Quý Đức; học vị: Tiến sĩ khia Bính thin (1676); chức:
Tham tụng, Hộ bộ Thượng thư, thiếu phó, tước Liêm Đường Hầu.
Người viết chữ: Nguyễn Đình Hoàn, chức vụ: Thị nội thư tả Hộ phiên.
323
Nội dung chính: Về hành trạng, lịch sử, xây dựng trùng tu, thơ văn;
Chùa Hàm long ở phường Phục Cổ là một danh thắng chốn Kinh Sư. Có bà
Thái Phi ở Vương phủ khởi xướng việc trùng tu. Chúa Trịnh Thượng An Vương đã
xuất tiền chu cấp cho công việc.
6. Nam Giao điện bi ký ( ); ký hiệu: 161a,b,c,d (VNCHN); Thác
bản văn bia sưu tầm tại điện Nam Giao, Hà thành; Thác bản 4 mặt, khổ 144 x 207
cm, gồm 23 dòng chữ Hán, toàn văn ước khoảng 600 chữ, có hoa văn, không có chữ
húy. Niên đại: Vĩnh Trị thứ 4 (1679)
Người soạn là Nguyễn Tiến Triều , quê quán: xã Nam Nguyễn, huyện
Phúc Lộc, học vị: Tiến sĩ khoa Bính thin (1676); Chức vụ Đông các hiệu thư, tước
Xuân Trạch Nam, người nhuận sắc Hồ Sĩ Dương , quê quán xã Hoàn Hậu,
huyện Quỳnh Lưu, chức vị: Tham tụng, Công bộ Thượng thư, tước hiệu: Duệ Quận
Công; người viết chữ: Lê Công Chính , quê quán; Gia Lâm, chức vị: Binh
bộ lang trung, tước: Thượng thọ nam
Chủ đề: Xây dựng, trùng tu di tích.
Tóm lược nội dung: Điện Chiêu sự ở đàn Nam Giao nằm ở phía Nam của
Kinh thành, là nơi tiến hành lễ tế trời vào ngày đầu năm của các triều đại. Năm
Cảnh Trị thứ nhất (1663), chúa Trịnh Định Nam Vương khởi công trùng tu, đến
năm Giáp Thìn (1664) hoàn thành.
7. Hàm Long tự bi ký , ký hiệu; 162/163 (VNCHN)
Thác bản văn bia sưu tầm tại chùa Hàm Long, Hà Thành.
Thác bản có 2 mặt, khổ 152 x 163 cm, gồm 41 dòng chữ Hán, toàn văn
khoảng 720 chữ, có hoa văn, có chữ húy “Tân”; Niên đại: Vĩnh Thịnh 10 (1714)
Người soạn: Đặng Đình Tướng ; Chức vị: Tả đô đốc, Thiếu phó, tước
Ứng quận công; Người viết chữ: Ngô Bảo , tước vị: Tướng sĩ lang Thị nội Thư
tả.
Chủ đề: Hành trạng, công tích nhân vật; Lịch sử di tích; Xây dựng trùng tu di
324
tích; Thơ văn.
Tóm lược nội dung; Chùa Hàm Long là một danh thắng ở phía Đông của
Kinh thành Thăng Long. Từ xưa, đây là nơi cầu cúng rất linh thiêng. Nhưng trải qua
lâu năm, chùa bị mưa gió bị hư hỏng, di chỉ xưa bị người xâm chiếm (…). Năm Tân
Tỵ (1701), chúa Trịnh ra lệnh chỉ cho trùng tu chùa và hoàn thành vào năm 1713.
Bà Thái Phi họ Trương cung cấp cho chùa 30 mẫu ruộng ở phường Hồ Khẩu, huyện
Quảng Đức vào năm 1735 để cày cấy đèn nhang.
8. Trùng kiến Quan Thánh miếu thiêm đề lục ; ký
hiệu: 167 (VNCHN);
Thác bản sưu tầm tại miếu Quan Thánh, phố Hàng Buồm, Hà Nội, thác bản 1
mặt, khổ 70 x 86 cm, gồm 24 dòng chữ Hán, toàn văn ước khoảng 360 chữ, có hoa
văn, không có chữ húy.
Niên đại: Gia Long 14 (1815); Người soạn; Không ghi; Chủ đề: Sinh hoạt
làng xã, trùng tu di tích
Nội dung: Danh sách những người có tiền trùng tu di tích. Toàn bộ người
Hoa, nguyên quán ở tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến như: Trần Hiến Chu, người
Quảng Đông cúng 70 lượng bạc, Ngô Tân Sĩ cúng 16 lượng bạc…
9. Trùng Kiến Quan Thánh miếu bi ký , ký hiệu;
172/173/174 (VNCHN). Thác bản bia tại phường Hà Khẩu , sưu tầm ở miếu
Quan Thánh, phố Hàng Buồm, Hà Thành.
Thác bản có 3 mặt, khổ 70 x 106 cm, khổ 23 x 90 cm, có 27 dòng chữ Hán,
toàn văn ước khoảng 800 chữ, có hoa văn, không có chữ húy.
Niên đại: Gia Long 14 (1815)
Người soạn: Phạm Quý Thích ; học vị: Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1799),
chức vị: thị trung học sĩ, tước Thích An Hầu; Chủ đề: Lịch sử di tích, xây dựng
trùng tu di tích
Nội dung; Miếu Quan Thánh được dựng từ đời Lê, kể từ khi ông Bính Trung
đứng ra quyên góp xây dựng, miếu trở thành quy mô 3 gian, có thần điện, tiền điện
và cổng, xung quanh xây tường gạch. Ông lại cúng 1 gian nhà đất giao cho thủ từ lo
325
việc phụng sự. Đến năm Giáp Tuất (1814), 12 vị trong phường đứng ra tu sửa lại
miếu, di rời tiền điện ra đằng trước, ở giữa mở một gian đình vuông, đắp pho tượng
thần. Bia biên chép các tiết làm thờ phụng trong năm và quy định các hạng lễ vật
do phường và các giáp phải sắm sửa để cúng lễ.
10.Trùng kiến Quan Thánh miếu thiêm đề lục
; ký hiệu : 175 (VNCHN)
Thác bản văn bia phường Hà Khẩu , sưu tầm tại miếu Quan Thánh,
phố Hàng Buồm, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt, khổ 115 x 187 cm, gồm 50 dòng chữ Hán, khoảng 200 chữ,
có hoa văn, không có chữ húy; Niên đại: Gia Long thứ 14 (1815); Người soạn;
Không ghi
Chủ đề: Sinh hoạt làng xã, xây dựng trùng tu di tích
Tóm lược nội dung; Kê những vị đóng góp tiền thuộc các Giáp phường Hà
Khẩu cung tiến tu sửa miếu Quan Thánh, như phường cúng 225 quan, trong đó có
Hoàng Đình Thành cúng 5 quan, giáp Nam hạ có Phan Thiệu Viễn cúng 20 quan…
11. Quan Thánh miếu chu tất bi ký , ký hiệu; 176
(VNCHN)
Thác bản bia phường Hà Khẩu , sưu tầm tại Miếu Quan Thánh, phố
Hàng Buồm, Hà Nội; Thác bản bia 1 mặt, khổ 72 x 128 cm, gồm 24 dòng chữ Hán,
khoảng 100 chữ, có hoa văn, không có chữ húy.
Niên đại: Minh Mệnh thứ 7 (1826); Người soạn: Phan Thiệu Viễn , tự
Hiến Đình
Chủ đề: Sinh hoạt làng xã, trùng tu di tích
Nội dung chính: Từ năm Giáp Tuất (1814), phường Hà Khẩu tiến hành tu
sửa miếu Quan Thánh. Sau đó vào năm Ất Dậu (1825) tiếp tục sửa chữa máng nước
và sơn son lại toàn bộ miếu. Bia ghi danh sách các cá nhân và cửa hiệu phường
326
quyên góp công đức trong việc tu sửa quán Quan Thánh;
12. Về Đền Bạch Mã
Tạo lệ bi ký , ký hiệu; 184/191 (VNCHN)
Thác bản bia phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên
, sưu tầm tại đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Thành
Thác bản 2 mặt, khổ 62 x 100 cm, gồm 24 dòng, toàn bộ văn bia khoảng 700
chữ, có hoa văn; Niên đại; Cảnh Hưng thứ 42 (1781)
Người soạn: Vũ Đình Trác , quê quán; Phường Đồng Xuân, huyện
Thọ Xương; Chức vị: Nội thị thư tả, Binh phiên
Nội dung; Công văn triều đình (Sắc, lệnh, chỉ dụ):
Năm Cảnh Hưng thứ 39 (1778), dân 3 Giáp Mật Thái, Bắc Thượng và Bắc
Hạ, phường Hà Khẩu đệ đơn xin làm dân tạo lệ, miễn trừ các khoản sưu sai để thờ
phụng thần Bạch Mã. Các quan phủ liêu Ngũ phủ Trịnh Kiều, Phan Trọng Phiên tra
khám xác thực đã đệ trình khải lên chúa Trịnh đồng thời với sự trợ giúp của Trịnh
phu nhân Lê thị Huyên, xã Phượng Lâu, huyện Kim Động, cuối cùng vào tháng 7
năm Cảnh Hưng thứ 42 (1781), quan phủ liêu Sử trung hầu đã truyền tờ lệnh chỉ
của Chúa Trịnh chấp thuận đơn của địa phương. Văn bia trích toàn bộ nội dung lệnh
chỉ của chúa Trịnh Tĩnh Vương và nguyên văn tờ khai của dân phường Hà Khẩu
13. Lịch sử Đền Bạch Mã
Trùng tu bi ký , ký hiệu; 185 (VNCHN)
Thác bản văn bia, phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương , sưu
tầm tại Đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt, khổ 71 x 122cm, có 24 dòng, toàn bộ văn bia khoảng 520
chữ, có hoa văn, không có chữ húy
Niên đại: Tự Đức 1 (1848); Người soạn; Nguyễn Văn Thắng , quê xã
Yên Thái; học vị: Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1826)
Nội dung: Sinh hoạt làng xã, lịch sử di tích và quá trình trùng tu
Nội dung chính: Phường Hồ Khẩu có Đền Bạch Mã, tương truyền do Cao
327
Biền đời Đường dựng. Năm Đinh Mùi (1847) dân 3 Giáp trong phường tu bổ 4 cột
trụ ngôi đình của phường, mua sắm đồ thờ và di dời xây lại tòa miếu thờ tiên hiền
về phía sau ngôi đình. Toàn bộ chi phí cho công việc lên đến khoảng 3.000 quan,
đều do dân 3 Giáp đóng góp và sự trợ giúp của những người dân hảo tâm;
14. Xây dựng Đền Bạch Mã và cụm di tích liên quan (Văn chỉ)
, ký hiệu; 186 (VNCHN)
Thác bản văn bia phường Hà Khẩu , sưu tầm tại đền Bạch Mã, phố
Hàng Buồm, Hà Nội. Thác bản 1 mặt, khổ 38 x 67 cm, gồm 12 dòng chữ Hán, toàn
bộ khoảng 200 chữ, không có hoa văn, không có chữ húy.
Niên đại: Cảnh Hưng thứ 35 (1774); Người soạn: Không ghi
Chủ đề: Sinh hoạt làng xã, xây dựng, trùng tu di tích
Nội dung chính: Phường Hà Khẩu trước đây vốn chưa có nơi cố định để thờ
các vị tiên hiền. Nay có tiến sĩ Vũ Công Chân, làng Hoạch Trạch, Hải Dương cúng
một khu đất tư rộng 16 thước, dài 108 thước cho dân 3 Giáp trong phường để dựng
Văn chỉ. Dân 3 Giáp bèn đóng góp tiền của khởi công xây dựng tòa Văn chỉ ở bên
trái đền Bạch Mã;
15. Trùng tu Bạch Mã miếu thiêm đề lục ; ký hiệu;
189 (VNCHN)
Thác bản văn bia sưu tầm tại đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội; Thác
bản 1 mặt, khổ 100 x 160 cm, gồm 20 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng 100 chữ
Hán, có hoa văn, không có chữ húy.
Niên đại: Minh Mệnh 2 (1820); Người soạn: Không ghi
Chủ đề: Hành trạng, công tích nhân vật, xây dựng, trùng tu di tích
Nội dung: Khắc tên các hiệu buôn ở ba phố người Hoa gốc Quảng Đông,
Phúc Kiến và Triều Châu, góp tiền của tu sửa đền Bạch Mã.
16. Trùng tu Bạch Mã miếu bi
Thác bản bia phường Hà Khẩu, tổng Đông Thọ, huyện Thọ Xương, phủ Hoài
328
, sưu tầm tại đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Đức
Nội; Thác bản 1 mặt, khổ 97 x 158 cm, gồm 25 dòng chữ Hán, toàn bộ văn bia
khoảng 1000 chữ, có hoa văn, có chữ húy.
Niên đại: Minh Mệnh 1 (1820); Người soạn: Phạm Quý Thích , học
vị; Tiến sĩ khoa Kỷ Hợi (1799); chức vị: Thị trung học sĩ, tước vị: Thích An Hầu
Chủ đề: Lịch sử di tích, xây dựng, trùng tu di tích
Nội dung: Đền Bạch Mã, phường Hà Khẩu là nơi thờ phụng rất linh thiêng,
đền xây dựng từ rất lâu, đời Chính Hòa đã trùng tu. Đến nay 3 Giáp đứng ra quyên
góp công đức của dân và của hiệu người Hoa được hơn 3.000 lạng bạc, bèn tiến
hành tu sửa mở mang đền. Công việc bắt đầu từ năm Kỷ Mão (1819) đến nay hoàn
thành, dựng bia ghi tên những người đóng góp công đức.
17. Trùng tu Hán Phục Ba tƣớng quân từ bi ký
, ký hiệu; 192 (VNCHN)
Thác bản văn bia sưu tầm tại phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương
, sưu tầm tại Đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt, khổ 81 x 130 cm, gồm 26 dòng, tổng cộng khoảng 550 chữ,
có hoa văn, không có chữ húy; Niên đại: Chính Hòa 8 (1687)
Người viết chữ: Phan Đình Giang , chức vị; Thị nội thư tả
Người khắc bia: Xuân Lộc ( ); Chức vị; Quế Lâm thạch tượng cục
Chủ đề: Sinh hoạt làng xã, Lịch sử di tích, xây dựng trùng tu
Nội dung chính: Lược ghi về Mã Viện, tương truyền là người lập ra đền
Bạch Mã. Năm Bính Dần (1686) đền Bạch Mã được trùng tu. Bia ghi tên những
người được tham gia quyên góp, trong đó có gia đình họ Giang và các hiệu buôn
người Hoa nguyên quán ở xứ Giang Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, Giang Nam,
Vân Nam.
329
18. Bạch Mã thần từ bi ký , ký hiệu 193 (VNCHN)
Thác bản phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên (
), sưu tầm tại đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt bia, khổ 80 x 130 cm, gồm 35 dòng chữ Hán, toàn văn ước
khoảng 1100 chữ, có hoa văn, không có chữ húy; Niên đại: Chính Hòa thứ 8 (1687)
Người soạn: Nhữ Tiến Dụng , quê quán làng Hoạch Trạch, huyện
Đường An; học vị: Tiến sĩ khoa Giáp Thìn (1664); chức vị; Lễ khoa Đô cấp sự
trung.
Người viết chữ: Nhữ Hiển Trung ; học vị; Nho sinh
Chủ đề; sinh hoạt làng xã, xây dựng, trùng tu di tích
Nội dung chính: Năm Bính Dần (1686) dân 3 Giáp: Mật Thái, Bắc Thượng,
Bắc Hạ, phường Hà Khẩu đóng góp tiền của tu sửa đền Bạch Mã. Quan Lễ khoa
Nhữ Tiến Dụng chọn hướng khởi công trùng tu tiền đình, lợp mái chống dột. Bia
ghi tên những người cung tiến.
19. Ly Trần viện ở Thăng Long
Trùng tu Liên Phái tự, Ly Trần viện , ký hiệu:
202/203 (VNCHN)
Thác bản văn bia sưu tầm tại chùa Liên Phái, phường Bạch Mai, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt 2 mặt, khổ 95 x 142 cm, gồm 50 dòng, chữ Hán, toàn văn
khoảng 2000 chữ, không có hoa văn, không có chữ húy.
Niên đại: Tự Đức 12 (1831); Người soạn: Pháp danh: Thanh Minh ; nhà
sư; Người viết chữ: Pháp danh: Văn Đường ; nhà sư
Chủ đề: Lịch sử di tích, xây dựng, trùng tu di tích.
Nội dung chính: Chùa Liên Phái có lịch sử Lâu đời, từ năm Bính Ngọ
(1726), đời vua Bảo Thái vị tổ sư đời thứ nhất là Cứu Sinh sư nhân ngôi chùa cố
tiến hành tu sửa lại, tạc tượng Nhu Lai, đúc chuông khánh, vì thấy điềm hoa sen
mọc nên đặt tên chùa là Liên Tông, gọi nhà tăng là Viện Ly Trần. Từ đó trải nhiều
330
đời đã có 8 vị thiền sư tới trụ trì chùa, nối tiếp nhau tu bổ mở mang. Đến năm Giáp
Dần (1854), chùa trải qua cơn loạn lạc bị hư hỏng, nhà sư trụ trì là Phổ Hinh vì bị
ốm nên đem toàn bộ ruộng đất, đồ thờ và sổ sách của chùa cúng giàng vào chùa
Liên Trì. Nhà sư Phúc Điền hòa thượng, bèn cùng với đệ tử là Thanh Minh, quy
hoạch trùng tu lại chùa, sau 6 năm mới hoàn thành. Bia ghi công 2 vị hưng công là
Tổng đốc Nguyễn Đăng Giai và Tham tán đại thần Lê Thuận Chiêu và nhiều người
khác;
20. Trùng hƣng Liên Phái tự, Li Trần viện , ký hiệu;
204 (VNCHN)
Thác bản văn bia sưu tầm tại chùa Liên Phái, phường Bạch Mai, Hà Nội
Thác bản 1 mặt, khổ 76 x 112 cm, gồm 22 dòng chữ Hán và chữ Nôm, toàn
văn khoảng 700 chữ, có hoa văn, không có chữ húy.
Niên đại: Tự Đức 25 (1872); Người soạn: Pháp danh; Thanh Trang ,
nhà sư; Người viết chữ: Pháp danh: Văn Đường; Nhà sư
Chủ đề: Hành trạng, nhân vật, trùng tu di tích
Nội dung: Ông Trần Nhật Chương, tự là Thanh Minh được nhà sư Phúc
Đường ủy thác cho 1000 quan tiền và khu đất ao, 2 mẫu 6 sào, do sư tổ đời thứ 2 là
Thượng sĩ cao Thiền Hòa thượng để lại cùng với lời di chúc. Năm Ất Mão (1855),
nhà sư Thanh Minh cho sửa chữa chùa, xây nhà tổ, tô lại tượng Phật, khắc lại tiểu
sử 8 vị sư tổ của chùa;
21. Trùng tu Trấn Vũ quán bi ký , kí hiệu: 228
(VNCHN)
Thác bản bia Quán Trấn Vũ, phường Thụy Chưong, tồng Trung, huyện Vĩnh
Thuận , sưu tầm ở Quán Trấn Vũ, Hà Nội.
Thác bản bia 1 mặt, khổ 57 x 102 cm, gồm 19 dòng chữ Hán, toàn văn
khoảng 900 chữ, có hoa văn; Niên đại; Tự Đức thứ 10 (1857)
Người soạn: Lê Hy Vĩnh , học vị: Tiến sĩ, chức vị: Học chính tỉnh
Thanh Hóa; Chủ đề; Lịch sử, di tích và trùng tu
Nội dung chính: Quán Trấn Vũ ở phía bắc Hoàng Thành Thăng Long. Quán
331
được dựng từ lâu đời, niên hiệu Vĩnh Trị đời Lê thì được đức tượng đồng thờ. Năm
Tự Đức thứ 9 (1856) có vị chức sắc Sơn Tây Bố Chánh sứ, Hà Nội, Bố Chánh sứ,
Huyện Lệnh Thọ Xương và Vĩnh Thuận đứng ra trùng tu chính điện, tháp hương,
gác chuông, đắp lại tượng tứ đại Nguyên soái, tượng Văn Xương Đế quân, tượng
thần Hành khiển, di dời tấm biển vàng được ban vào đầu triều Thiệu Trị treo vào
giữa Bái đường. Xây hòn non bộ ở sau miếu, dựng chùa nhỏ gọi là Vũ Đương Sơn
và nhiều hạng mục xây mới tu bổ trang hoàng khác;
22. Chân Vũ Quán thạch bi ( ), kí hiệu; 229 (VNCHN)
Thác bản văn bia phường Thụy Chương, tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận (
, , ), sưu tầm tại Quán Trấn Vũ, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt, khổ 114 x 182 cm, gồm 16 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng
400 chữ, có hoa văn, không có chữ húy; Niên đại: Thành Thái 5 (1893)
Người soạn: Hoàng Cao Khải , tên hiệu Thái Xuyên; Chức vị; Phụ
Chính Đại Thần, Thiếu Bảo, Bắc Kỳ Kinh Lược Đại Sứ; Tước Diên Mậu Tử.
Người viết chữ: Mai Trung Quất , chức vị: Chủ sự
Chủ đề: Lịch sử di tích, xây dựng, trùng tu di tích
Nội dung chính: Quán Chân Vũ có từ đời Lý, thờ Huyền Thiên đại đế, có
tượng đồng thời Lê. Qua chiến tranh, quán bị hư hỏng. Ông cùng các vị quan khác
đứng ra tu sửa, việc này được quan Thống sứ toàn quyền người Pháp hoan ngênh.
Việc sửa chữa diễn ra 10 tháng, Quán trở lên khang trang, to đẹp;
23. Diệu cảm tu tâm kiến văn lạc đạo bi , kí hiệu:
230 (VNCHN)
Thác bản bia sưu tầm tại Quán Trấn Vũ, Hà Nội
Thác bản 1 mặt, khổ 46 X 67 cm, 13 dòng chữ Hán, toàn văn có khoảng 300
chữ Hán, có hoa văn, không có chữ húy; Niên đại: Đức Long thứ 5 (1633); Người
soạn: Không ghi; Chủ đề; hành trạng, công tích nhân vật
Tóm lược nội dung: Bia khắc bài vị thờ Phổ Huệ Quang Không Chân Nhân,
đạo hiệu Viên Thông và tiểu sử của ông viết theo thể thơ 6 chữ, gồm 47 câu. Ông là
332
con nhà gia thế, họ Trần, huyện Lương Tài, phủ Thuận Thành, cha là người trung
hậu, chính trực, mẹ là người đức hạnh, sinh thành 5 người con. Ông sinh năm Kỷ
Tỵ, người có tư chất khác thường, năm Ất Mùi đi tu và năm Đinh Dậu đã thông
kinh điển Đạo giáo. Năm Mậu Ngọ khai sáng ra ngôi Quán này, hằng ngày hương
333
đăng, cầu cho ông bà cha mẹ được đăng lên tòa báu lưu ly;
24. San thánh kinh ký tiên nhân khuyến thiện bi
; ký hiệu: 231 (VNCHN)
Thác bản bia sưu tầm tại Quán Chân Vũ, Hà Thành.
Thác bản 1 mặt, khổ 42 x 66 cm, 15 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng 280
chữ, có hoa văn, không có chữ húy; Niên đại: Đức Long thứ 5 (1633); Người soạn:
Không ghi; Chủ đề: Bầu hậu, gửi giỗ, hành trạng, biểu dương việc thiện.
Nội dung: Vợ chồng ông bà Vũ Cẩm và Lê Thị Vinh, người xã Hà Thượng,
huyện Thuần Hựu, phủ Hà Trung, nhân thấy các bản khắc gỗ, các quyển kinh do in
trước đây bị mục nát, bèn cùng một số thiện tín khác góp tiền của khắc lại, gồm:
“Phê hệ Tử Chàng đế quân” và “Thái thượng thuyết cảm ứng Vũ Đương sơn thùy
huấn” Đó là kinh Thái Thượng Thuyết Cảm Ứng” để phát cho các tín đồ;
25. Trùng tu Huyền Thiên Quán bi ký , kí hiệu; 261
(VNCHN)
Thác bản tại Quán Huyền Thiên, tổng Đồng Xuân, huyện Thọ Xương
, sưu tầm tại Quán Huyền Thiên, phố Hàng Khoai, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt, khổ 65 x 90 cm, 14 dòng chữ Hán, có khoảng 300 chữ,
không hoa văn, không chữ húy; Niên đại: Tự Đức 21 (1868)
Người soạn: Lê Khắc Cẩn , tên tự là Khác Phủ ( ); quê xã Ưu
Đàm, huyện Phong Điền; học vị Cử nhân khoa Quý Mão; Chức vị: Hà Nội Bố
chánh sứ.
Chủ đề: Hành trạng, công tích nhân vật, xây dựng, trùng tu di tích.
Nội dung: Quán Huyền Thiên Chân Vũ nguyên quân. Quán gồm 13 gian,
vốn được xây dựng từ thời Lê Thiệu Bình (1434 - 1439), thời Vĩnh Tộ tạc tượng
thần. năm Đinh Mão, quan Bố Chánh Hà Nội quyên góp lương bổng tổ chức trùng
tu với sự tham gia của nhiều vị thân hào quan lại như Nguyễn Hữu Xúc, Lê Hữu
Lộc, Nguyễn Đình Độ, Mai Xuân Bách cùng các hiệu buôn và dân trong thôn, tín
334
thí thập phương;
26. Trùng tu Huyền Thiên quán bi minh , kí hiệu: 262;
(VNCHN)
Thác bản văn bia phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên
, sưu tầm tại Quán Huyền Thiên, phố Hàng Khoai, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt, 97 x 153 cm, 29 dòng, khoảng 800 chữ Hán, có hoa văn,
không có chữ húy; Niên đại: Cảnh Trị thứ 6 (1668); Người soạn: Không ghi
Chủ đề: Xây dựng, trùng tu di tích
Nội dung: Hai vị trụ trì quán Huyền Thiên là Bùi Hữu Lễ và Bùi Hữu Dinh
hưng công trùng tu quán, gồm gác chuông, tam quan, thiêu hương, tiền đường, hậu
đường cùng hành lang. Ngoài ra có danh sách những người đóng góp công đức.
27. Tiền tài hậu công đồng đắc phúc, , kí hiệu: 263
(VNCHN)
Thác bản sưu tầm tại quán Huyền Thiên phố Hàng Khoai, Hà Nội
Thác bản 1 mặt, khổ 42 x 88 cm, gồm 23 dòng chữ Hán, có khoảng 1000
chữ, không có hoa văn, không chữ húy
Niên đại: Cảnh Thịnh 5 (1797); Người soạn: Không ghi; Chủ đề: Xây dựng,
trùng tu di tích
Nội dung: Liệt kê danh sách các tín thí đóng góp trùng tu Quán Huyền
Thiên;
28. Trùng tu Huyền Thiên quán bi minh , kí hiệu 264
(VNCHN)
Thác bản văn bia phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương, phủ Phụng Thiên
, sưu tầm tại Quán Huyền Thiên, phố Hàng Khoai, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt, khổ 105 x 195 cm, gồm 27 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng
700 chữ, có hoa văn, không có chữ húy; Niên đại: Vĩnh Tộ (1619); Người soạn:
Không ghi
Chủ đề: Hành trạng, công tích nhân vật, lịch sử di tích và trùng tu
Nội dung: Quán Huyền Thiên có từ cổ xưa, hiện Quán còn lưu tấm bia có từ
335
năm Thiệu Bình 7 (1440). Quán rất linh ứng. Nhưng trải qua mưa nắng đã hư hỏng
nhiều. năm Tân Dậu (1621) bà Thái Phi của Bình An vương Trịnh Tùng là Lại Thị
Ngọc Nho, xuất tiền ra trùng tu lại
29. Trùng tu Huyền Thiên quán bi ký , kí hiệu 264
(VNCHN)
Thác bản văn bia thôn Huyền Thiên, tổng Đồng Xuân, huyện Thọ Xương,
phủ Hoài Đức , sưu tầm tại quán Huyền Thiên, phố
Hàng Khoai, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt, khổ 48 x 68 cm, 11 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng 200
chữ, không có hoa văn, không có chữ húy; Niên đại Đồng Khánh 1 (1886); Người
soạn: Không ghi
Chủ đề: Sinh hoạt làng xã, hành trạng nhân vật, lịch sử di tích
Nội dung: Quán Huyền Thiên Chân vũ nguyên quân Thượng đẳng thần, rất
linh ứng. Quán được xây dựng niên hiệu Thiệu Bình, trùng tu đời Vĩnh Tộ. năm
bính dần niên hiệu Tự Đức (1866), quan Bố chánh Hà Nội là Lê Khắc Cẩn, vâng
theo lời thầy dạy là Dương Danh Thành cùng các đồng môn quyên góp lương bổng
trùng tu 13 gian nhà của quán. Công việc hoàn thành giao cho dân thôn phụng thờ
và quy định những người có công đóng góp tu bổ Quán được phối thờ trong Quán;
30. Cải kiến Linh Sơn cổ tự bi ký , kí hiệu 267
(VNCHN)
Thác bản văn bia tại thôn Yên Ninh Hạ, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức
, sưu tầm tại chùa Linh Sơn, thôn Yên Ninh.
Thác bản 1 mặt, khổ 58 x 156 cm, 28 dòng chữ Hán và Nôm, khoảng 500
chữ, có hoa văn, không có chữ húy; Niên đại: Minh Mệnh 9 (1828)
Người soạn: Hà Tông Quyền ; Chức vị: Lễ bộ hữu thi lang; tước
336
hiệu: Phương Trạch Hầu
Người nhuận: Nguyễn Hựu Nghi ; Chức vị: Hình bộ Tả thị lang, Bắc
Thành Hình tào, Tước hiệu: Thanh Xuyên Hầu, người viết chữ; Nguyễn Đăng Vinh
, chức vị: Bắc Thuy Đạt cho di rời chùa tả thông phán, tước Vinh Quang từ.
Chủ đề: Hành trạng, công tích nhân vật, lịch sử và trùng tu di tích
Nội dung: Chùa cổ Linh Sơn ở Bắc Thành thờ giáo phái Thanh Tịnh. Giáo
phái này nguyên từ nước Thanh, từng được vua Khang Hy ban Thánh dụ và 4 đại tự
“Gia hương truyền đường”. Vào thời Vĩnh Hựu triều Lê, chưởng giáo đại bồ tát họ
Nguyễn sang tu tạo tại chùa Linh Sơn, gặp đạo sĩ người Thanh là Sĩ Anh truyền
giáo. Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741) về nước, xây dựng chùa Linh Sơn ở thành
Thăng Long vào năm thứ 6 (1765). Chùa bấy giờ ở bên phải của cổng Chu Tước, có
rất nhiều vương công khanh sĩ đến tham thiền. năm Gia Long thứ 3 (1804), Giám
đốc cục Bảo truyền Lê Duy Đạt cho di rời chùa ra bên ngoài thành Thăng Long, đặt
tại thôn Yên Ninh Hạ, huyện Vĩnh Thuận. Năm nay (1828), nhà sư trụ trì chùa là
Nguyễn Quý Viêm quyên góp trùng tu lại chùa;
31. Theo tấm bia “Vô đề” kí hiệu 269 do Nguyễn Hữu Nghi , tên
hiệu Vũ Khanh , chức vị; Hình bộ hữu tham tri, tước Thanh Xuyên hầu cho
biết: chùa Linh Sơn, thôn Yên Linh Hạ, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức
còn có tên là Chân Như tự ;
32. Hồng Phúc tự cổ văn bi ký , kí hiệu: 275/276/289/290
(VNCHN)
Thác bản văn bia phường Hòe Nhai, Đông Bộ Đầu, Thăng Long
, sưu tầm tại chùa Hồng Phúc, phố Hàng Than, Hà Nội.
Thác bản 4 mặt bia, khổ 66 x 120 cm, và 16 x 90 cm, gồm 17 dòng chữ Hán,
toàn bộ khoảng 1200 chữ, không có hoa văn, không chữ húy
337
Niên đại: Chính Hòa 19 (1698)
Người soạn: Hà Tông Mục: , quê quán: Huyện Thiên Lộc, tỉnh Nghệ
An; Học vị: Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1688), chức vị: Bồi tụng; Người viết chữ:
Tưởng Hữu Kiên , quê quán: xã Hương Ngải, huyện Chân Định, phủ Kiến
Xương, xứ Sơn Nam. Tấm bia chùa Hòe Nhai đã chỉ cho vị trí chùa này chính là địa
danh Đông Bộ Đầu trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên để bảo vệ
338
Kinh thành Thăng Long.
33. Xác định cổng phía Đông của Kinh Thành Thăng Long (VNCHN)
Phúc Kiến Hội Quán hƣng sang lục, kí hiệu; 277
Thác bản bia Hội Quán Phúc Kiến Thăng Long , sưu tầm
Quán Phúc Kiến, phố Phúc Kiến, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt, khổ 104 x 163 cm, gồm 29 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng
800 chữ, có hoa văn, không có chữ húy; Niên đại: Gia Long 16 (1817)
Người soạn: Tên tự là Khiêm Thụ Phủ, tên hiệu: Dụ Am, Sài Sơn Di Lão,
học vị Tiến sĩ, chức vị: Đại phu; Chủ đề; Trùng tu di tích, xây dựng
Nộ dung: Sự tích vị thần Thiên Hậu. Thần giáng sinh ở đất Thục ở vào đời
Tống, hiển hiện linh thiêng, từng được vua Khang Hi đời nhà Thanh gia phong.
Năm Ất Hợi, các thương khách người Phúc Kiến cư trú tại Thăng Long tổ chức
quyên góp tiền của mua một khu đất ở cổng Đông Hoa cũ xây dựng thành Hội quán
và rước tượng Thiên Hậu vào thờ;
34. Đông Môn tự bi ký ; Kh 317
Bia chùa Đông Môn, phố Hàng Đường, Hà Thành (nay thuộc quận Hoàn
Kiếm, Hà Nội). Nguyễn Văn Hiệp, tự Đạo Án, tiểu tăng trụ tri chùa Đông Môn,
người huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, dựng bia. Niên đại tạo tác năm Vĩnh Tộ 6
(1625) nhà Lê. Bia 1 mặt, khổ 40 x 60 cm, không có hoa văn. Toàn văn chữ Hán,
khắc chân phương, gồm 15 dòng, khoảng 450 chữ.
Chùa Đông Môn là danh lam cổ tích, sông nhĩ mênh mông phía trước, trập
trùng Long Thành phía sau, là ngọc quý của nhà nước, là mệnh mạch của dân sinh.
Nhưng chùa quy mô còn nhỏ thấp, ai cũng sinh long ái ngại muốn dấy lòng thiện.
Có vị tiểu tăng tự Đạo Án cùng vợ hiệu là Diệu Bi, mua được khu vường là bất
động sản riêng của Tăng Thống Phạm Đức và vợ là Phạm Thị Mái, bán đứt cho với
giá là 300 quan tiền. Vợ chồng ông Đạo Án cúng cho chùa để hưng công xây dựng
chùa. Sau đó vị nguyên soái thống quốc chính Thanh Đô Vương (Trịnh Tráng) thấy
339
vị tiểu tăng có hằng sản hằng tâm bèn sắc cho phép chùa đó là chùa tư, truyền cho
con cháu trụ trì thắp hương lễ thánh. Cuối bia liệt kê chín đời tổ, từ vị thủy tổ Đạo
Án đến các vị tổ đời thứ 9.
35. Đông Môn tự, ký hiệu: 318 (VNCHN)
Bia chùa Đông Môn, phường Hàng Đường, Hà Nội, không ghi tên tác giả,
tạo năm Dương Hòa thứ 5 (1639) nhà Lê, khổ 70 x 88 cm. Chạm mặt trời, rồng, hoa
lá. Toàn văn chữ Hán, khắc chân phương, gồm 26 dòng, khoảng 900 chữ.
Bia ghi tên những người đóng góp để trùng tu chùa Đông Môn như Dụng
Sơn hầu Trần Mại tên tự Đạo Hiền… trong đó có 7 người tước hầu, 2 người tước tử,
1 người tước nam, 3 Thái phó. Có bài thơ thất ngôn bát cú ca ngợi công đức.
36. Xác định chùa Đông Môn ở phía Đông ngoài Thành Thăng Long
Trùng tu Đông Môn tự chi bi , kí hiệu 319 (VNCHN)
Thác bản văn bia phường Hà Khẩu, , sưu tầm tại chùa Đông Môn,
phố Hàng Đường, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt, khổ 89 x 135 cm, 26 dòng chữ Hán, khoảng 800 chữ, có hoa
văn, không chữ húy; Niên đại: Gia Long 15 (1816); Người soạn: Họ Nguyễn ,
tên hiệu là Dưỡng Hiên , quê quán; huyện Từ Liêm, Sơn Tây (Nay là quận Từ
Liêm - Hà Nội - TG).
Chủ đề: Lịch sử di tích, trùng tu, xây dựng.
Nội dung: Chùa Đông Môn ở ngoại thành Thăng Long là một danh lam Cổ
tích. Không biết chùa có tự khi nào, nhưng chỉ biết vào thời Lê đã có 2 lần trùng tu.
Nay bị hư hỏng. Năm Quý dậu (1813) tiếp tục tu sửa…
Theo tấm bia Đông Môn tự kí (kí hiệu: 317), niên đại: Vĩnh Tộ thứ
6 (1624) cho biết nhà sư Nguyễn Văn Hiệp, tự Đạo Án xã Văn Tràng, huyện Ngọc
340
Sơn, phủ Tĩnh Gia trụ trì cung tiến và mở rộng chùa.
Tấm bia Đông Môn tự (kí hiệu 318), niên đại: Dương Hòa 5 (1639)
ghi về việc tiến hành tu sửa Thượng điện, Thiêu hương, Tiền đường, Hậu đường,
Hành lang, Tăng phòng;
37. Vị trí phía tây Hoàng Thành Thăng Long
Trùng tu Nhất trụ tự chí , kí hiệu 345 (VNCHN)
Thác bản sưu tầm tại chùa Một Cột, thôn Thanh Bảo, phố Ngọc Thanh, Đệ
lục hộ, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt, khổ 48 x 57 cm, gồm 13 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng
230 chữ, có hoa văn, có chữ húy (chữ Thìn: ); Niên đại; Giáp Tý; Niên đại ước
đoán: Tự Đức thứ 17, Giáp Tý (1864)
Người soạn: Đặng Văn Hòa ; Chức vị: Án sát tỉnh Hà Nội, người
nhuận sắc: Tôn Thất Bật , chức vị: Tổng đốc Hà Ninh
Người viết chữ: Trần Quang Luyện: , quê thôn Yên Ninh, huyện Vĩh
Thuận; Học vị: Tú tài
Chủ đề: Lịch sử, xây dựng, trùng tu di tích
Nội dung: Chùa Nhất trụ là danh lam cổ tự, được dựng từ thời Lý ở phía Tây
Thành Long Đỗ, lâu ngày bị dột nát. Nay có hai vị Đặng Văn Hòa, chức Hàn lâm
viện thị giảng học sĩ, lãnh Hà Nội Án sát sứ và Tôn Thất Bật, chức Hậu quân đô
đốc, lãnh Hà - Ninh tổng đốc cùng cúng góp lương bổng đứng ra trùng tu chùa;
38. Tên gọi Xứ Vƣờn Tây
Ký Kị bi , kí hiệu: 348 (VNCHN)
Thác bản văn bia sưu tầm tại chùa Một Cột, thôn Thanh Bảo, phố Ngọc
Thanh, đệ lục hộ, Hà Thành.
Thác bản 1 mặt, khổ 30 x 60, 15 dòng chữ Hán, toàn văn 300 chữ, có hoa
văn, khong chữ húy; Niên đại; Tự Đức 13 (1860); Người soạn: Không ghi; Chủ đề:
341
Bầu hậu, trùng tu, xây dựng di tích
Nội dung: Vợ chồng ông Lê Văn Khoa ở thôn Đông Thành, tổng Thuận Mỹ,
huyện Thọ Xương, vốn có mộ của cha mẹ nuôi táng tại khu vườn phía Tây chùa
Diên Hựu. Nay thấy nhà chùa tu bổ các gian và tượng Phật bèn xuất của nhà 200
quan tiền đề mua 3 sào ruộng ở xứ Vườn Tây, một nửa cúng làm của Tam bảo thờ
Phật, một nửa cúng làm ruộng kỵ điền…;
39. Nhất Trụ tự bi; Ký hiệu: 11301 (VNCHN)
Bia chùa Diên Hựu, phố Chùa Một Cột, quận Ba Đình, Hà Nội. Không ghi
tên tác giả. Tạo năm Đinh Mùi niên hiệu Thiệu Trị 7 (1847) nhà Nguyễn. Bia 1 mặt,
khổ 70 x 116 cm. Chạm hoa lá cách điệu. Toàn văn chữ Hán, khắc chân phương,
gồm 21 dòng, khoảng 800 chữ.
Nội dung: Chùa Một Cột vốn là thắng cảnh phía Tây Kinh Thành. Trải qua
năm tháng đã bị hư hỏng. Tháng 2 năm Mậu Tuất (1838), quan Đốc Bộ Đường
Đặng Văn Hòa sẵn lòng từ thiện đã xuất tiền của ra hưng công tu tạo tượng Phật,
điện đường, tả hữu hành lang, tam quan, gác chuông, khiến chùa trở lên trang
nghiêm, đẹp đẽ. Công việc hoàn thành, ông còn cúng cho chùa khoảng 5 mẫu ao,
vườn để làm ruộng Tam bảo, hương hỏa quanh năm. Công đức đó thật lớn lao, nên
khắc vào bia đá để lưu truyền mãi mãi. Bia có bài minh dài 8 câu. Cuối bài minh
khắc tên những người có hưng công như: Tổng đốc Hà Ninh Nguyễn Văn Hòa,
Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên Nguyễn Đăng Giai, Đề đốc: Tông Thất Bột, Binh bộ
Thượng thư Nguyễn Văn Đô…vv có ghi giới hạn của số ao, vườn giao cho sư trụ trì
chùa là Thích Nguy Nguy quản lý.
40. Đại Việt Quốc, Lý gia đệ Tam đế, Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (Bia
chùa Long Đọi, xã Long Đọi, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam)
- Nội dung bia cho biết Lễ hội đèn Quảng Chiếu; Đoan Môn và Chùa Một
Cột ở phía Tây Hoàng Thành (Chính danh viên chi Tây Cấm …).
41. Nhất trụ tự bi , kí hiệu: 350 (VNCHN)
Thác bản bia huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức, thành phố Hà Nội
, sưu tầm tại chùa Một Cột, huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài Đức (nay là
342
Quận Ba Đình - Hà Nội)
42. Trùng tu Huy Văn Điện Dục Khánh tự bi ký: ký hiệu: 449 (VNCHN)
Điện Huy Văn chùa Dục Khánh làng văn Chương, huyện Hoàn Long (nay
thuộc quận Đống Đa) Hà Nội, do Dương Bá Cung, tự Cấn Đình, Phụng Nghị Đại
Phu, Đốc học tỉnh Biên Hòa soạn; Tú tài Trần Quang Luyện viết chữ. Tạo năm Tự
Đức thứ 17 (1864) nhà Nguyễn; Bia 1 mặt, khổ 73 x 122 cm, chạm rồng, mặt trời,
hoa lá. Toàn văn chữ Hán, khắc chân phương, rõ đẹp, gồm 20 dòng, khoảng 700
chữ.
Bia thuật lại việc bà Ngô Thị Ngọc Dao sinh vua Lê Thánh Tông tại chùa
này và việc nhà Tây Sơn chuyển tượng vua Lê Thánh Tông từ chùa Khán Sơn đến
điện Huy Văn. Tượng nhà vua làm năm Dương Đức (1672). Bia còn ghi việc sửa
sang 3 gian điện thánh, lợp 3 gian thờ Phật đường và 5 gian hành lang.
43. Cải kiến Linh Sơn cổ tự bi ký; ký hiệu: 267 (VNCHN)
Bia chùa Linh Sơn, làng Yên Ninh Hạ (nay thuộc quận Ba Đình, Hà Nội).
Bia do Hà Tông Quyền , Hữu thị lang bộ Lễ, tước Phương Trạch Hầu
soạn; Nguyễn Hựu Nghi , Tả Thị Lang Bộ Hình nhuận sắc; Thông Phán:
Nguyễn Đăng Vinh viết chữ. Tạo năm Minh Mệnh thứ 9 (1828) nhà
Nguyễn. Bia 1 mặt, khổ 58 x 155 cm. Chạm hoa văn, toàn văn chữ Hán, khắc chân
phương, gồm 28 dòng, khoảng 560 chữ.
Tương truyền đời Lê Vĩnh Hựu có 1 vị Bồ tát họ Nguyễn đi du ngoạn ở vùng
Vạn Ninh gặp một đạo sĩ Trung Quốc là Sĩ Anh. Đến năm Cảnh Hưng 2 (1741) ông
được về Thăng Long; Năm Cảnh Hưng thứ 6 (1745), ông cho xây chùa ở cửa Chu
Tước và lấy tên là chùa Linh Sơn để ghi nhớ kỷ niệm xưa. Về sau, Giám đốc sở
Đúc tiền là Lê Duy Đạt cho dời chùa đến làng Yên Ninh Hạ, huyện Vĩnh Thuận. Sư
trụ trì chùa là Nguyễn Quý Viêm cùng các hội chủ là Trần Quang Chiếu … liền
quyên góp tiền của để sửa sang chùa, đồng thời dựng bia để ghi lại sự việc này.
(Phụ chú; Bia Trùng tu Linh Sơn cổ tự bi ký; ký hiệu: 268 cho biết thêm Chùa Linh
Sơn được xây dựng từ năm Cảnh Hưng 6 (1745), năm Gia Long 3, ông họ Lê là
343
Giám đốc sở đúc tiền chuyển chùa đến là Yên Ninh, đến năm Minh Mệnh thứ 9
(1856), quan Tả thị lang bộ Hình là Thanh Xuyên Hầu Nguyễn Hữu Nghi đứng ra
sửa chùa).
44. Thịnh Đức hoằng công/ phúc diễn vô cƣơng ( / ), ký
hiệu; 13533/13534/13535/13536 (VNCHN)
Thác bản sưu tầm ở chùa Hồng Phúc, phố Hàng Than, Hà Nội. Thác bản 4
mặt, khổ 70 x 90 cm, và 15 x 90 cm, gồm 48 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng 1800
chữ, không có hoa văn, không có chữ húy; Niên đại: Chính Hòa 24 (1703)
Người soạn: Hà Tông Mục ( ), tự Chuyết Trai ( ), quê quán xã
Thuần Thạch, huyện Thiên Lộc, Nghệ An; học vị: Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, niên
hiệu Chính hòa thứ 9 (1688); Chức vị: Hoằng tín đại phu, Bồi tòng, Hồng lô tự
khanh, Trí Thủy sư.
Chủ đề; Bầu hậu, gửi giỗ, biểu dương việc thiện;
Nội dung: Thành Thăng Long xưa có chùa Hồng Phúc ở phường Hòe Nhai,
địa thế đẹp đẽ, linh thiêng, là nơi đô hội của chốn đô thành, trải qua mưa gió bị đổ
nát thê lương. Bà Nguyễn Thị Phán hiệu Từ Dụ là dòng lệnh tộc trong phường đã
đứng ra hưng công xây dựng, trùng tu chùa (…).
45. [Vô đề] Ký hiệu: 14518 (VNCHN)
Thác bản khánh chùa Bích Câu phía Nam La Thành ( ), sưu
tầm tại chùa Bích Câu, Hà Nội.
Thác bản 1 mặt, khổ 85 x 150 cm, gồm 20 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng
200 chữ, có hoa văn, không có chữ húy; Niên hiệu: Minh Mệnh thứ 10 (1829); Chủ
đề; Trùng tu di tích
Nội dung chính: Chùa Bích Câu là danh thắng của La Thành, lại linh thiêng
có tiếng. Vào năm Minh Mệnh Ất dậu (1825) phu nhân của Chưởng Cơ hầu họ
Nguyễn là bà Lê thị Phát đã phát tâm công dức trùng tu chùa
46. [Vô đề], ký hiệu: 14519 (VNCHN).
Thác bản bia phường Bích Câu thành Thăng Long ( ), sưu tầm
344
tại đền Bích Câu, Hà Nội;
Thác bản 1 mặt, khổ 60 x 100 cm, gồm 11 dòng chữ Hán, toàn văn khoảng
200 chữ, có hoa văn, không có chữ húy; Niên đại: Thành Thái thứ 9 (1897); Chủ đề,
trùng tu di tích
Tóm tắt nội dung:
Gò Kim Quy ở phường Bích Câu phía Tây Nam thành Thăng Long là nhà cũ
của Trần Chân Nhân. Đến năm Hồng Đức thì ông đắc đạo thành Tiên. Ngôi nhà này
được sửa làm nơi thờ tự.
47. Trùng tu tiên thị tự bi ký, ký hiệu: 15744 - 15745 (VNCHN)
Bia chùa Lý Quốc Sư (Chợ tiên), phố Lý Quốc Sư (quận Hoàn Kiếm), Hà
Nội. Lê Cúc Linh, Tiến sĩ Xuất thân khoa Kỷ Mùi, người làng Nhân Mục soạn, tạo
năm Tự Đức thứ 8 (1855), nhà Nguyễn. Bia 2 mặt, khổ 70 x 92 cm và 39 x 79 cm.
Chung quanh chạm hoa, dây leo, toàn văn chữ Hán, gồm 35 dòng, khoảng 900 chữ,
bia bị mờ nhiều chỗ.
Chùa Tiên Thị, huyện Thọ Xương thờ Minh Không Quốc sư có từ đời Lý,
bên phải có tháp Báo Thiên do Quốc Sư dựng, là một trong “An Nam tứ đại khí”.
Trải qua thời gian, đều bị hư hỏng nhiều. Nay có vị quan huyện doãn Phan Minh
Phủ trị dân đã 6 năm, theo đề nghị của dân, ông đứng ra tu sửa lại chùa cho to đẹp
hơn: Nội vũ 5 gian, tả hữu vũ 3 gian, mở tam quan ở phía trước và tô lại pho tượng.
Trong 2, 3 tháng thì xong, bèn khắc vào bia ghi lại sự việc. Mặt sau ghi tên những
345
người đóng góp tiền sửa chữa chùa Lý Quốc Sư./.