Bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o TrƯêng ®¹i häc kinh tÕ quèc d©n ----------------

PH¹M THU H»NG

TÁC ĐỘNG CỦA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THEO NGÀNH ĐẾN GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ HỌC MÃ SỐ: 9310101

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. LÊ QUỐC HỘI

2. PGS.TS. HÀ QUỲNH HOA

Hµ néi, n¨m 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi

cam kết bằng danh dự cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và không vi

phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật. (Báo

Hà Nội, ngày tháng năm 2018

Nghiên cứu sinh

Phạm Thu Hằng

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tác giả luận án xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại

học kinh tế quốc dân, Viện Đào tạo Sau đại học, Khoa Kinh tế học cùng các Thầy,

Cô giáo, cán bộ của Khoa đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong

quá trình học tập, nghiên cứu.

Tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới hai giáo viên hướng dẫn

khoa học: PGS.TS Lê Quốc Hội và PGS.TS Hà Quỳnh Hoa đã luôn tâm huyết và

nhiệt tình hướng dẫn tôi thực hiện luận án.

Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các bạn đồng nghiệp và những người thân yêu trong gia đình đã luôn bên cạnh ủng hộ, chia sẻ khó khăn, động

viên, khích lệ trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận án.

Hà Nội, ngày tháng năm 2018

Nghiên cứu sinh

Phạm Thu Hằng

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC HÌNH VẼ

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ............................................................... 7

1.1. Tổng quan nghiên cứu lý thuyết ......................................................................... 7

1.2. Tổng quan nghiên cứu thực nghiệm................................................................. 11

CHƢƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG

CỦA TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ THEO NGÀNH ĐẾN GIẢM NGHÈO ............... 22

2.1. Một số vấn đề lý luận về tăng trƣởng kinh tế theo ngành và giảm nghèo .... 22 2.1.1. Một số vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế theo ngành ............................... 22

2.1.2. Một số vấn đề lý luận về giảm nghèo ............................................................. 25

2.2. Tác động của tăng trƣởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo .................... 34 2.2.1. Tăng trưởng kinh tế theo ngành tác động đến giảm nghèo qua tạo việc làm ........... 34

2.2.2. Tăng trưởng kinh tế theo ngành làm gia tăng nguồn lực để giảm nghèo........ 36

2.2.3. Tăng trưởng kinh tế theo ngành thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và

tác động đến giảm nghèo ........................................................................................... 39

2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến tác động của tăng trƣởng kinh tế theo ngành đến

giảm nghèo ................................................................................................................. 42 2.3.1. Mô hình tăng trưởng kinh tế ........................................................................... 42

2.3.2. Cấu trúc tăng trưởng kinh tế theo ngành ......................................................... 45

2.3.3. Chính sách gắn kết tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo ................................ 46

2.3.4. Nhận thức và nỗ lực của người nghèo ............................................................ 47

2.4. Kinh nghiệm gắn kết tăng trƣởng kinh tế theo ngành với giảm nghèo ở một số quốc gia .................................................................................................................. 48 2.4.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc ......................................................................... 48

2.4.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc ............................................................................ 52 2.4.3. Kinh nghiệm của Indonesia ............................................................................. 55 2.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ................................................................ 59

CHƢƠNG 3 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................................................... 62 3.1. Khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu...................................................... 62 3.2. Phƣơng pháp định tính ...................................................................................... 64 3.2.1. Phân tích định tính .......................................................................................... 64

3.2.2. Thống kê mô tả ................................................................................................ 64

3.2.3. Thống kê so sánh ............................................................................................. 64

3.3. Phƣơng pháp định lƣợng ................................................................................... 64 3.3.1. Mô hình Tác động cố định (FEM) .................................................................. 65

3.3.2. Phương pháp Kết nối điểm xu hướng (PSM) và Khác biệt kép (DID) ........... 67 3.3.3. Phương pháp Hệ phương trình đồng thời (SE) ............................................... 70

3.4. Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................................. 72 3.4.1. Niên giám thống kê hàng năm- Tổng cục thống kê ........................................ 72

3.4.2. Số liệu điều tra mức sống dân cư .................................................................... 72 3.4.3. Báo cáo Lao động- Việc làm- Tổng cục Thống kê ......................................... 73

CHƢƠNG 4 THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ THEO NGÀNH ĐẾN GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM ............................................ 74

4.1. Thực trạng tăng trƣởng kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam ......................... 74 4.1.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế ....................................................................... 74

4.1.2. Thực trạng giảm nghèo ở Việt Nam................................................................ 82

4.1.3. Các chính sách gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam .... 93

4.2. Tác động của tăng trƣởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam ...... 96 4.2.1. Tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua tạo việc làm .. 97

4.2.2. Tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua tạo nguồn lực ... 103

4.2.3. Tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua chuyển

dịch cơ cấu ngành kinh tế ........................................................................................ 107

4.3. Ƣớc lƣợng tác động của tăng trƣởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo ở

Việt Nam .................................................................................................................. 110 4.3.1. Kết quả ước lượng tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm

nghèo qua kênh việc làm ......................................................................................... 110

4.3.2. Kết quả ước lượng tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm

nghèo qua kênh tiếp cận nguồn lực hỗ trợ của chính phủ ....................................... 113 4.3.3. Kết quả ước lượng tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua chuyển dịch cơ cấu ngành ..................................................................... 118

4.4. Đánh giá chung về tác động của tăng trƣởng kinh tế theo ngành đến giảm

nghèo ........................................................................................................................ 121 4.4.1. Kết quả đạt được ........................................................................................... 121 4.4.2. Hạn chế .......................................................................................................... 123

4.4.3. Nguyên nhân ................................................................................................. 126

CHƢƠNG 5 GIẢI PHÁP GẮN KẾT TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ THEO

NGÀNH VỚI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM ........................................................ 130

5.1. Bối cảnh trong và ngoài nƣớc có ảnh hƣởng đến tăng trƣởng và giảm nghèo

ở Việt Nam ............................................................................................................... 130 5.1.1. Bối cảnh quốc tế ............................................................................................ 130 5.1.2. Bối cảnh trong nước ...................................................................................... 132

5.2. Quan điểm kết hợp tăng trưởng kinh tế theo ngành với giảm nghèo ở Việt Nam ... 135 5.2.1. Tăng trưởng kinh tế theo ngành là điều kiện cần cho mục tiêu giảm nghèo và

giảm nghèo là tiền đề cho tăng trưởng kinh tế cao, ổn định ................................... 135 5.2.2. Thực hiện gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ngay trong từng

giai đoạn và suốt quá trình phát triển với lộ trình cụ thể ........................................ 135

5.2.3. Giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước mà là bổn phận của chính

người nghèo phải tự vươn lên để thoát nghèo ......................................................... 136

5.3. Giải pháp nhằm gắn kết tăng trƣởng kinh tế theo ngành với giảm nghèo ..... 136 5.3.1. Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với mục tiêu giảm nghèo ........................ 136

5.3.2. Hoàn thiện chính sách gắn kết tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo .............. 137

5.3.3. Tăng cường hiệu quả các biện pháp hỗ trợ cho người nghèo ....................... 139

5.3.4. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ................................................. 141

5.3.5. Phát triển các ngành kinh tế .......................................................................... 142

5.3.6. Tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo ....... 144

5.3.7. Khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội vào công cuộc giảm nghèo ....... 146

5.3.8. Nâng cao nhận thức và tham gia của người nghèo vào quá trình tăng trưởng .... 146

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN .......................................................................................................... 150

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................... 151 PHỤ LỤC ................................................................................................................... 158

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

The Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển châu Á ADB

Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN

Bandan Pusat Statistik Cơ quan thống kê Trung ương của Indonesia BPS

ESCAP Economic and Social Commission for Asia and the Pacific Uỷ ban kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc về châu Á và Thái Bình Dương

FAO Food and Agriculture Organization Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc

GSO Tổng cục Thống kê Việt Nam General Statistics Office of Vietnam

ILO Tổ chức Lao động Quốc tế International Labour Organization

Korea Institute for Health and Social Affairs Viện nghiên cứu Phúc lợi và Xã hội Hàn Quốc KIHASA

Millennium Development Goals Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ MDG

MPI Multidimensional Poverty Index Chỉ số nghèo đa chiều

TRIPS AGREEMENT The Agreement on Trade- Related Aspects of Intellectual Property Rights Hiệp định quốc tế đa phương về thương mại trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ

United Nations Development Programme Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc UNDP

Vietnam Household Living Standard Survey Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam VHLSS

World Bank Ngân hàng Thế giới WB

WHO World Health Organization Tổ chức Y tế Thế giới

NICs Newly Industrialized Countries Các nước công nghiệp mới

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Chuẩn nghèo ở Việt Nam từng giai đoạn ................................................... 31

Bảng 2.2: Chuẩn nghèo ở Việt Nam qua các năm và theo khu vực ........................... 32

Bảng 2.3. Tiêu chí xác định nghèo đa chiều ở Việt Nam ........................................... 33

Bảng 4.1: Tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2016 .... 81

Bảng 4.3: Chỉ số khoảng cách nghèo ở Việt Nam từ năm 1993 đến 2012 ................. 89 Bảng 4.4: Hệ số Gini theo khu vực ở Việt Nam từ năm 2002 đến 2016: ................... 91

Bảng 4.5: Chênh lệch thu nhập bình quân đầu người một tháng giữa nhóm thu nhập

cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất theo giá hiện hành phân theo khu

vực và giới tính ........................................................................................... 93 Bảng 4.6: So sánh tốc độ tăng trưởng việc làm và tốc độ tăng trưởng theo ngành kinh

tế giai đoạn 2010-2016 ............................................................................... 99

Bảng 4.7: Dân số 15 tuổi làm công việc chiếm nhiều thời gian nhất trong 12 tháng

qua chia theo ngành kinh tế và theo nhóm thu nhập ................................ 100

Bảng 4.8: Hệ số co giãn giảm nghèo theo tăng trưởng thu nhập bình quân ............. 101

Bảng 4.9: Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận một số nguồn lực xã hội .................................... 104

Bảng 4.10: Tỷ lệ số hộ có vay hoặc còn nợ chương trình tín dụng ưu đãi cho người

nghèo theo nguồn vay và theo 5 nhóm thu nhập: ..................................... 105

Bảng 4.11: Hệ số cos ɸ trong dịch chuyển cơ cấu lao động Việt Nam giai đoạn 2001-

2016 .......................................................................................................... 108

Bảng 4.12: Kết quả ước lượng tác động của tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo qua

tạo việc làm .............................................................................................. 110

Bảng 4.13: Xác suất hộ nghèo tham gia các hình thức hỗ trợ .................................... 114

Bảng 4.14: Tác động của các hình thức hỗ trợ đến phúc lợi hộ gia đình ................... 115

Bảng 4.15: Tác động của các hình thức hỗ trợ đến phúc lợi hộ gia đình ở khu vực

nông thôn .................................................................................................. 117

DANH MỤC HÌNH VẼ Hình 3.1: Khung phân tích tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm

nghèo ở Việt Nam...................................................................................... 62

Hình 4.1: Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế trong giai đoạn 1998 - 2016 ............. 75

Hình 4.2: Tổng sản phẩm trong nước bình quân tính theo sức mua tương đương của

một số quốc gia và vùng lãnh thổ .............................................................. 75 Hình 4.3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế theo ngành từ năm 1998 đến năm 2016 ........ 77

Hình 4.4: Cơ cấu tăng trưởng theo ngành của Việt Nam từ năm 1998 đến năm 2016 .. 79

Hình 4.5: So sánh cơ cấu tăng trưởng kinh tế theo ngành của Việt Nam và một số

quốc gia ..................................................................................................... 80

Hình 4.6: Tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam từ 1998 đến 2016 ......................................... 83

Hình 4.7: Tỷ lệ nghèo của các hộ có nam hoặc nữ làm chủ hộ ................................. 87

Hình 4.8: Tỷ lệ nghèo theo dân tộc ........................................................................... 88 Hình 4.9: Tốc độ tăng trưởng việc làm của nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ...... 97

Hình 4.10: Cơ cấu lao động theo ngành .................................................................... 107

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Mục tiêu tăng trưởng kinh tế và giảm đói nghèo được xác định là những vấn đề mang tính chiến lược đối với sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Trên thế giới,

mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo từ lâu đã được nghiên cứu trên cả phương diện lý thuyết và thực nghiệm. Lý thuyết của Lewis (1954) và Kuznets (1955)

đã chỉ ra rằng tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo có mối quan hệ ngược chiều với nhau

trong quá trình phát triển kinh tế. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã chứng minh rằng tỷ

lệ đói nghèo giảm mạnh cùng với sự gia tăng của thu nhập và tốc độ tăng trưởng kinh tế

ở các quốc gia (Lopez, 2004; Dollar and Kraay, 2001; Ravallion and Datt, 1999)

Để hiểu một cách cặn kẽ và đưa ra những chính sách hướng tới giảm nghèo bền

vững thì tăng trưởng kinh tế chung cần được phân tách dưới góc độ nhỏ theo các loại

cơ cấu tăng trưởng kinh tế, trong đó quan trọng nhất là cơ cấu tăng trưởng kinh tế theo

ngành. Tuy nhiên, nghiên cứu về tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đối với

quá trình giảm nghèo không dễ dàng vì ngoài tác động trực tiếp thì tăng trưởng kinh tế

theo ngành còn có những tác động gián tiếp đến nghèo đói. Hơn nữa, các ngành kinh

tế lại tương tác và ràng buộc lẫn nhau chứ không tồn tại một cách độc lập trong tổng

thể kinh tế-xã hội. Trên thực tế, khi tiến hành những nghiên cứu thực nghiệm về vấn

đề này thì ở mỗi quốc gia lại có sự khác biệt. Khi thực hiện nghiên cứu với trường hợp

của Đài Loan, Warr và Wang (1999) đưa ra kết luận khẳng định tăng trưởng của ngành

công nghiệp có tác động lớn nhất tới quá trình giảm nghèo. Trong khi đó, nghiên cứu

của Montalvo và Ravallion (2009) chỉ ra rằng Trung Quốc đã gặt hái được nhiều thành công trong công cuộc giảm nghèo nhờ tăng trưởng kinh tế của ngành nông nghiệp,

thay vì vai trò của ngành công nghiệp và dịch vụ. Một nghiên cứu khác được thực hiện

bởi Suryahadi, Suryadarma và Sumarto (2009) đã tìm hiểu quá trình giảm nghèo dựa trên tăng trưởng độc lập của các ngành ở Indonexia và cho kết quả thực nghiệm rằng tăng trưởng của ngành dịch vụ có ảnh hưởng lớn nhất tới việc giảm tỉ lệ nghèo ở khu vực nông thôn.

Là một nước đi sau có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, tăng trưởng nhanh luôn là ưu tiên hàng đầu trong chính sách của chính phủ Việt Nam. Bên cạnh đó, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam còn nhấn mạnh mục tiêu xoá đói giảm nghèo và đảm bảo cho mọi người dân đều được hưởng lợi từ phát triển. Qua hơn 30 năm đổi mới theo hướng, mở cửa và hội nhập vào khu vực và thế giới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế quan trọng. Đó là tăng trưởng kinh tế cao so với một

2

số nước trong khu vực trong khi tỷ lệ đói nghèo ngày càng giảm. Thực tế cho thấy tốc

độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm từ năm 1986 đến 2016 đạt khoảng 7%, giai đoạn 2006-2010 bình quân đạt 7% và giai đoạn 2011-2016 bình quân đạt 4,6% (Ngô

Thắng Lợi và Nguyễn Quỳnh Hoa, 2017). Mức tăng trưởng bình quân này cao hơn hẳn

mức tăng trưởng bình quân toàn cầu và tương đồng với một số nước trong khu vực như Malaysia, Thái Lan, Phillipines trong giai đoạn 2011-2016 (EIU, 2016). Tỷ lệ

nghèo đã giảm nhanh từ 58,1% trong năm 1993 xuống còn 5,8% trong năm 2016

(GSO, 2016). Trước những con số thực tế về thành tựu tăng trưởng kinh tế và giảm

nghèo này, nhiều nghiên cứu đánh giá về tác động trực tiếp và tác động lan tỏa của tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo ở Việt Nam đã được thực hiện. Các nghiên cứu

này đều đưa đến chung một kết luận rằng: tăng trưởng kinh tế là một trong những yếu

tố quyết định đến công cuộc giảm nghèo ở Việt Nam thời gian qua. Một số nghiên cứu

điển hình như của Lê Quốc Hội (2009) về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, nghèo

đói, và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam từ năm 1996 đến 2008, hay của Hoàng Đức

Thân và Đinh Quang Ty (2010) về tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở

Việt Nam. Nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Vinh (2014) cũng đưa đến kết luận tăng

trưởng kinh tế cao là yếu tố cơ bản cho mục tiêu giảm nghèo và phát triển của quốc

gia. Và nghiên cứu mới nhất của tác giả Ngô Thắng Lợi và Nguyễn Quỳnh Hoa (2017)

cũng khẳng định vai trò của tăng trưởng kinh tế có tác động lan tỏa tích cực đến thực

trạng nghèo đói của Việt Nam.

Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế chung, từng ngành trong cơ cấu kinh tế cũng

có các nhịp độ tăng trưởng và phát triển riêng trong mối tương tác lẫn nhau trong nền

kinh tế tổng thể. Khu vực nông- lâm- ngư nghiệp có tốc độ tăng trưởng giảm dần từ mức trung bình là 3,53% giai đoạn 2006-2010 thì đến năm 2016 chỉ còn 1,36% (GSO,

2016). Khu vực dịch vụ cũng có mức tăng trưởng giảm nhẹ từ mức bình quân giai

đoạn 2006-2010 là 7,64% còn 6,98% trong năm 2016 (GSO, 2016). Duy nhất khu vực công nghiệp tăng từ mức bình quân 6,39% trong giai đoạn 2006-2010 lên 7,57% trong năm 2016 (GSO, 2016). Mối tương tác giữa các ngành trong nền kinh tế thể hiện qua cơ cấu kinh tế theo ngành và mức độ chuyển dịch giữa các ngành. Thực tế, từ năm

1990 đến 2016 tỷ trọng khu vực nông, lâm, ngư nghiệp đã giảm mạnh từ 38,74% xuống còn 3,54%% trong khi tỷ trọng của công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,67% lên 41,71%. Khu vực dịch vụ tăng từ mức 38,59% lên 43% (GSO, 2016). Những thành tựu giảm nghèo đạt được trong giai đoạn này cũng đi cùng với những biến chuyển của tăng trưởng kinh tế từng ngành với mục tiêu đưa Việt Nam từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu trưởng thành một nước công nghiệp vào năm 2020.

3

Đa phần những nghiên cứu đều cho thấy tăng trưởng kinh tế chung có tác động

tích cực đến giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn 2006-2016 vừa qua, tuy nhiên, tăng trưởng không đồng đều giữa các ngành có thể gây nên những ảnh hưởng khác

nhau đối với thực trạng nghèo đói. Về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn, các ngành kinh tế

không tồn tại độc lập và tách rời trong quá trình tăng trưởng. Liệu những mối quan hệ ràng buộc tương tác giữa các ngành trong quá trình tăng trưởng kinh tế có góp phần

thúc đẩy giảm nghèo hay không. Xoay quanh vấn đề này, có ba câu hỏi chưa thực sự

được trả lời một cách đầy đủ trong các nghiên cứu về Việt Nam: (i) Tăng trưởng kinh

tế theo ngành liệu có ảnh hưởng đến thực trạng nghèo đói qua những kênh tác động cơ bản nào? (ii) Những kênh tác động này ảnh hưởng như thế nào đến kết quả của quá

trình giảm nghèo (iii) Ngành nào có ảnh hưởng lớn nhất tới thành tựu giảm nghèo

trong giai đoạn vừa qua?. Các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung nghiên cứu tác

động trực tiếp của tăng trưởng chung tới giảm nghèo và chưa làm rõ quá trình tăng

trưởng theo ngành kinh tế đóng vai trò quan trọng như thế nào đối với giảm nghèo.

Xuất phát từ thực tế đó, tôi chọn đề tài “Tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành

đến giảm nghèo ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu. Việc nghiên cứu chủ đề này sẽ

đóng góp phần nào cho những minh chứng thực nghiệm, làm cơ sở hình thành những

giải pháp, chính sách trong việc tiếp tục theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế theo

ngành hợp lý gắn liền với giảm nghèo bền vững ở Việt Nam trong tương lai.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: Đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành

tới giảm nghèo ở Việt Nam và kiến nghị một số giải pháp nhằm gắn kết tăng trưởng

kinh tế theo ngành với giảm nghèo trong tương lai.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

 Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết và thực nghiệm về tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành tới giảm nghèo. Chỉ ra các kênh tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo.

 Phân tích thực trạng tác động của tăng trưởng kinh tế theo từng ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam. Ước lượng và kiểm định một số kênh tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo.

 Đề xuất những giải pháp nhằm gắn kết tăng trưởng kinh tế theo ngành với

giảm nghèo ở Việt Nam.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

4

Đối tượng nghiên cứu: Tác động của tăng trưởng kinh tế theo từng ngành đến

giảm nghèo.

Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu xem xét tác động của tăng trưởng kinh tế

theo từng ngành đến giảm nghèo trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến năm 2016 ở

Việt Nam.

4. Câu hỏi nghiên cứu

(1) Tăng trưởng kinh tế theo ngành tác động đến giảm nghèo thông qua những

kênh tác động nào?

(2) Mức độ tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo giai

đoạn 2010-2016 ở Việt Nam qua các kênh tác động như thế nào? Ngành nào có tác động lớn nhất qua từng kênh tác động được xem xét?

(3) Cần thực hiện những giải pháp nào để gắn kết tăng trưởng kinh tế theo ngành

với mục tiêu giảm nghèo trong tương lai cho Việt Nam?

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp sau:

- Phương pháp thu thập số liệu: Nguồn số liệu từ Tổng cục Thống kê, Bộ Lao

động, Thương binh và Xã hội, Viện năng suất Việt Nam, Bộ Kế hoạch – Đầu tư, Ngân

hàng thế giới -World Bank, Tổ chức Lao động quốc tế - ILO, và số liệu từ các trang

web và bài nghiên cứu đã được công bố.

- Phương pháp định tính: được sử dụng nhằm phân tích, tổng hợp để chỉ ra các

kênh tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo, trên cơ sở đó xây

dựng các giả thuyết nghiên cứu và lựa họn mô hình nghiên cứu phù hợp khi phân tích tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo. Phương pháp này còn được sử dụng

để tổng hợp, phân tích số liệu thực tiễn của Việt Nam trong giai đoạn 2010-2016, để làm rõ thực trạng tác động của tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tổng hợp và so sánh các kết quả nghiên

cứu để đưa ra giải pháp gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế theo ngành và giảm nghèo ở Việt Nam.

- Phương pháp định lượng: được sử dụng để ước lượng và kiểm định các tác động của tăng trưởng kinh tế và tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam. Trong nghiên cứu định lượng, các phương pháp chính được sử dụng bao gồm:

Mô hình tác động cố định (Fixed Effect-FE); Điểm xu hướng (Propensity Score Matching-PSM) và Khác biệt kép (Difference in differences-DID); Mô hình hệ

5

phương trình đồng thời (Simultaneous Equations -SE). Cụ thể, luận án đánh giá vai trò

tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua tạo việc làm bằng mô hình tác động cố định. Vai trò của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo ở

Việt nam còn được thể hiện rõ nét qua kênh tạo nguồn lực cho hộ nghèo. Để đánh giá

qua kênh này, nghiên cứu sẽ so sánh hai nhóm chính sách tạo nguồn lực cho sản xuất (nhóm chính sách này gián tiếp tác động đến thu nhập của hộ nghèo) và nhóm chính

sách tạo nguồn lực tăng thu nhập trực tiếp cho hộ nghèo. Mô hình sẽ đánh giá sự thay

đổi trong phúc lợi của hộ nghèo trong giai đoạn 2010-2016 khi được thụ hưởng lợi ích

từ hai nhóm chính sách kể trên. Luận án sử dụng phương pháp điểm xu hướng và khác biệt kép nhằm so sánh phúc lợi hộ nghèo thay đổi trong ba giai đoạn 2010-2012; 2012-

2014; 2014-2016. Cuối cùng, luận án sử dụng phương pháp hệ phương trình đồng thời

nhằm giải quyết vấn đề nội sinh trong tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến

giảm nghèo qua kênh chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam từ 2010-2016.

6. Kết cấu luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được cấu trúc thành 05 chương, gồm:

Chƣơng 1: Tổng quan nghiên cứu

Chƣơng 2. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về tác động của tăng

trƣởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo

Chƣơng 3. Phƣơng pháp nghiên cứu

Chƣơng 4. Thực trạng tác động của tăng trƣởng kinh tế theo ngành đến

giảm nghèo ở Viêt Nam

Chƣơng 5. Giải pháp gắn kết tăng trƣởng kinh tế theo ngành với giảm

nghèo ở Việt Nam

7. Những đóng góp của luận án

a. Những đóng góp về mặt lý luận

Luận án đã xây dựng khung lý thuyết về tác động của tăng trưởng kinh tế theo

ngành tới giảm nghèo. Khung lý thuyết đã chỉ rõ tăng trưởng kinh tế theo ngành có tác động tới giảm nghèo thông qua ba kênh chính gồm: tạo việc làm, tiếp cận nguồn lực và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.

Luận án đã xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo, bao gồm mô hình tăng trưởng kinh tế, cấu trúc tăng

6

trưởng theo ngành, chính sách gắn kết tăng trưởng và giảm nghèo và nhận thức của

người nghèo.

Luận án nghiên cứu kinh nghiệm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với giảm

nghèo của Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia và rút ra một số bài học tham khảo cho

Việt Nam.

b. Những đóng góp về mặt thực tiễn

Tăng trưởng kinh tế theo ngành tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế và

góp phần giảm nghèo ở Việt Nam. Trong cơ cấu tăng trưởng theo ngành, tăng trưởng

công nghiệp và dịch vụ có tác động tích cực đến giảm nghèo, tuy nhiên tăng trưởng

nông nghiệp lại khiến tỷ lệ nghèo tăng lên.

Tăng trưởng kinh tế theo ngành có tác động đến giảm nghèo qua tạo việc làm

và gia tăng thu nhập. Tăng trưởng của ngành nông nghiệp và dịch vụ tạo việc làm góp

phần giảm nghèo.

Người nghèo thụ hưởng lợi ích từ tăng trưởng qua tiếp cận nguồn lực từ chính

phủ. Tuy nhiên, hỗ trợ thu nhập cho người nghèo có tác động giảm nghèo lớn hơn so

với hỗ trợ nguồn lực sản xuất.

Luận án cũng chỉ ra các nguyên nhân của những hạn chế trong gắn kết tăng

trưởng và giảm nghèo ở Việt Nam: bất cập trong mô hình tăng trưởng kinh tế; cấu trúc

tăng trưởng kinh tế theo ngành chưa hợp lý; chính sách giảm nghèo chưa đầy đủ, đồng

bộ và việc thực hiện còn nhiều bất cập; nguồn lực của người nghèo còn rất hạn chế;

nhận thức và nỗ lực của bản thân người nghèo về giảm nghèo bền vững còn thấp.

Từ các kết quả nghiên cứu định tính và định lượng về tác động của tăng trưởng

kinh tế theo ngành đến giảm nghèo giai đoạn 2010-2016, luận án đề xuất một số định hướng về giải pháp cơ bản cho Việt Nam như sau: (i) đổi mới mô hình tăng trưởng cần gắn kết với mục tiêu giảm nghèo; (ii) hoàn thiện chính sách gắn kết tăng trưởng với giảm nghèo và tăng cường hiệu quả nhóm chính sách giảm nghèo; (iii) nhóm chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành và phát triển các ngành kinh tế; (iv) nâng cao

nhận thức và sự tham gia của người nghèo vào quá trình tăng trưởng và giảm nghèo.

7

CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU

1.1. Tổng quan nghiên cứu lý thuyết

Mối quan hệ giữa nghèo đói và tăng trưởng kinh tế từ lâu đã được nghiên cứu

và thừa nhận qua các nghiên cứu lý thuyết. Lewis (1954) là người đầu tiên đưa ra mô hình hai khu vực dựa trên giả định rằng các nước đang phát triển tồn tại hai khu vực

kinh tế bao gồm khu vực nông nghiệp truyền thống và khu vực công nghiệp hiện đại.

Mô hình lý thuyết này đưa ra kết luận cho rằng tăng trưởng kinh tế chung của nền kinh

tế sẽ phụ thuộc chủ yếu vào khả năng tăng trưởng của khu vực công nghiệp, mặt khác, mục tiêu tăng trưởng và mục tiêu nâng cao phúc lợi cho người nghèo nhằm làm giảm

bất bình đẳng không thể thực hiện được đồng thời mà nền kinh tế luôn phải đánh đổi

giữa hai mục tiêu này. Cụ thể, trong mô hình này, khu vực nông nghiệp bị coi là một

khu vực trì trệ do có lao động dư thừa và người lao động bị trả lương rất thấp do năng

suất lao động thấp. Lewis đồng thời cũng đưa ra quan điểm chỉ nên duy trì mức thu

nhập thấp cho lao động nghèo để tạo động lực lao động liên tục cho họ. Khu vực sản

xuất công nghiệp được nhận định là khu vực có tiềm năng tăng trưởng cao hơn và cầu

lao động gia tăng trong khu vực công nghiệp. Lewis khẳng định rằng vì mọi của cải xã

hội đều được tạo ra từ khu vực công nghiệp, do vậy, không nên có chính sách đầu tư vào khu vực nông nghiệp vì khu vực này có năng suất lao động rất thấp. Lewis đồng

thời cũng chứng minh rằng khi nào nông nghiệp vẫn còn lao động dư thừa thì khu vực

nông nghiệp vẫn còn trong tình trạng trì trệ vì sử dụng nguồn lực lao động kém hiệu

quả. Quá trình này sẽ được duy trì cho đến khi không còn lao động dư thừa (những

người lao động này được nhận định là có năng suất lao động biên bằng không hoặc rất

thấp) ở khu vực nông nghiệp. Sau đó, quy luật sẽ có xu hướng thay đổi ngược chiều.

Khu vực công nghiệp khi này sẽ phải tăng lương để thu hút lao động nông nghiệp, điều này sẽ làm tăng thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người nghèo trong xã hội, đặc biệt là nhóm người nghèo di cư từ nông nghiệp sang công nghiệp và tìm được việc làm. Bên cạnh đó, giai đoạn này cần áp dụng chính sách đầu tư một phần phát

triển khu vực nông nghiệp nhằm tạo ra thêm lao động dư thừa cung cấp cho khu vực công nghiệp. Cùng với sự gia tăng về thu nhập của người nghèo, lợi ích của nhóm người giàu trong xã hội bị giảm bớt tương đối so với giai đoạn trước đó. Theo Lewis, mức sống của người nghèo và khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội sẽ phụ thuộc vào quá trình dịch chuyển lao động giữa hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp. Lewis đã khẳng định vai trò quan trọng của khu vực công nghiệp trong

8

tăng trưởng kinh tế chung và trong quá trình làm gia tăng thu nhập cho nhóm người

nghèo trong xã hội khi xảy ra hiện tượng di chuyển lao động từ khu vực này sang khu vực khác. Một nền kinh tế có mức thu nhập thấp thì cần phát triển khu vực công

nghiệp và chấp nhận nghèo đói gia tăng ở khu vực nông nghiệp để đạt tốc độ tăng

trưởng cao. Mô hình hai khu vực của Lewis trên thực tế đã bị giới hạn bởi hoàn cảnh lịch sử nên đã bỏ qua nhân tố khoa học công nghệ trong sản xuất. Điều này khiến quá

trình dịch chuyển lao động và quyết định đầu tư trong khu vực công nghiệp trở nên

kém chính xác so với thực tiễn. Do vậy, quan điểm ưu tiên tăng trưởng công nghiệp và

chấp nhận nghèo đói gia tăng cũng bị nhiều nhà nghiên cứu phê phán sau này.

Ngược lại với lý thuyết của Lewis, nghiên cứu của Oshima (1993) đối với các

nước đang phát triển khu vực Châu Á lại đưa đến một kết luận trái ngược. Oshima phê

phán tính thực tiễn trong lý thuyết của Lewis khi áp dụng cho các nước “Châu Á gió mùa”

(thuật ngữ này dùng để chỉ các quốc gia Châu Á có điều kiện khí hậu thuận lợi cho phát

triển nền nông nghiệp đa dạng và có thể cho năng suất cao) vì lao động nông nghiệp theo

ông chỉ dư thừa mang tính thời vụ chứ không luôn tồn tại trong tình trạng năng suất lao

động thấp. Quá trình di cư sang khu vực công nghiệp ở các nước phát triển cũng tương

đối khác biệt so với các nước đang phát triển. Lao động nông nghiệp chuyển sang khu vực

công nghiệp tìm việc làm sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với quá trình này ở các nước phát

triển. Nguyên nhân chủ yếu chính là khoảng cách phát triển về công nghệ giữa công

nghiệp và nông nghiệp, cũng như tác phong lao động trong khu vực công nghiệp quá khác

biệt khiến những người lao động nông nghiệp khó có thể tìm được công việc phù hợp với

mình ở khu vực công nghiệp. Như vậy, việc phát triển công nghiệp trước như mô hình của

Lewis hoàn toàn không phù hợp. Ông chỉ ra rằng ở các nước đang phát triển thì khu vực nông nghiệp sẽ là khu vực cần phát triển trước tiên vì nông nghiệp được nhận định là khu

vực có lợi thế so sánh so với công nghiệp. Oshima đã phân tích rằng mối quan hệ giữa

nông nghiệp và công nghiệp trong mô hình kinh tế chuyển đổi sẽ luôn theo xu hướng từ mô hình kinh tế nông nghiệp dịch chuyển sang công nghiệp. Mô hình của Oshima mô tả rằng sự phát triển khu vực nông nghiệp sẽ làm giảm bớt bất bình đẳng và nâng cao chất lượng cuộc sống cho người nghèo, đặc biệt là những người lao động ở các cơ sở sản xuất

nông nghiệp. Theo lý thuyết này thì trăng trưởng nông nghiệp sẽ làm giảm bớt khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn do việc thực thi các chính sách cải cách ruộng đất từ sự trợ giúp của Chính phủ. Thêm nữa, quá trình cải thiện thu nhập giữa các cơ sở sản xuất nông nghiệp quy mô nhỏ và lớn ở khu vực nông thôn cũng là dấu hiệu tốt đối với lao động nghèo. Những kết quả này sẽ giúp các hộ nghèo thoát khỏi nghèo đói và nâng cao chất lượng cuộc sống.

9

Quan điểm của Oshima cũng được ủng hộ bởi nghiên cứu lý thuyết của Mellor

năm 1979. Mellor cho rằng do lao động chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp ở các nước đang phát triển nên việc tăng trưởng khu vực nông nghiệp sẽ thúc đẩy tăng

trưởng chung của nền kinh tế và giảm nghèo.

Một quan điểm khác cũng ủng hộ cho việc tăng trưởng nông nghiệp đó là quan điểm của Loayza và Raddatz (2006). Tác giả đã giải thích tại sao tình trạng nghèo đói

lại thay đổi khi cấu trúc tăng trưởng ngành trong nền kinh tế thay đổi. Hai tác giả đã

đưa ra mô hình kinh tế hai khu vực, trong đó việc tăng trưởng kinh tế theo ngành có

thể ảnh hưởng tới tiền lương cho lao động và giảm nghèo. Trong nghiên cứu này, dân số được chia ra thành hai nhóm người giàu và người nghèo. Vấn đề đầu tiên được phân

tích trong nghiên cứu là tăng trưởng kinh tế kém hiệu quả sẽ là khó khăn lớn cho các

nước đang phát triển trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Do vậy, không thể

giảm nghèo bền vững nếu thiếu tăng trưởng bền vững, tuy nhiên quy mô của tăng

trưởng lại không phải là điều kiện đủ để giảm nghèo. Nghiên cứu cũng chứng minh

rằng các ngành có tác động lớn tới giảm nghèo thì sẽ có nhiều lao động có tay nghề

cao hơn là ngành có quy mô tăng trưởng lớn. Theo đó, nông nghiệp sẽ là khu vực quan

trọng nhất đối với công cuộc giảm nghèo, sau đó là sản xuất công nghiệp. Dịch vụ sẽ

không có tác động tích cực giúp người nghèo cải thiện cuộc sống.

Khác biệt với các mô hình hai khu vực, lý thuyết của Jean Fourastie (1949) đưa

ra nền kinh tế ba khu vực tương ứng với ba lĩnh vực hoạt động bao gồm: khu vực khai

thác nguyên liệu thô (khu vực thứ nhất), khu vực sản xuất (khu vực thứ hai) và khu

vực dịch vụ (khu vực thứ ba). Theo lý thuyết này, hoạt động của nền kinh tế chuyển

đổi từ khu vực khai thác nguyên liệu thô sang hướng chú trọng hơn đến khu vực sản xuất và chuyển dần sang khu vực dịch vụ. Như vậy, nền kinh tế từ chú trọng tăng

trưởng khu vực thứ nhất sẽ hướng tới thúc đẩy tăng trưởng ở khu vực thứ hai và khu

vực thứ ba. Theo quan điểm của tác giả thì xu hướng chuyển dịch này là tích cực và sẽ có tác động làm gia tăng chất lượng cuộc sống, an sinh xã hội, giáo dục và văn hóa, giảm thất nghiệp. Như vậy, xu hướng chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng ngành theo lý thuyết của Fourastie sẽ nâng cao chất lượng cuộc sống cho người nghèo. Theo ông,

với các quốc gia có thu nhập bình quân thấp và trong giai đoạn đầu của phát triển kinh tế thì thu nhập quốc gia chủ yếu đạt được thông qua hoạt động sản xuất của khu vực thứ nhất (khu vực khai thác nguyên liệu thô). Quốc gia có thu nhập trung bình đạt được thu nhập thông qua hoạt động của khu vực sản xuất và nhóm quốc gia có thu nhập cao lại có nguồn gốc thu nhập chính từ khu vực dịch vụ. Như vậy, quá trình dịch chuyển về cơ cấu và tăng trưởng theo ngành được mô tả trong lý thuyết của Fourastie

10

và Clark cho thấy quá trình chuyển dịch tích cực là gia tăng dần khu vực sản xuất, dịch

vụ và quá trình này sẽ có tác động tốt tới mục tiêu giảm nghèo của xã hội.

Các nghiên cứu trên đưa ra xu hướng của tăng trưởng kinh tế theo ngành tác

động đến giảm nghèo. Bên cạnh đó, đi sâu vào nghiên cứu các kênh tác động của tăng

trưởng kinh tế của từng ngành đến giảm nghèo, các nghiên cứu lý thuyết cũng đã bóc tách tăng trưởng của từng ngành kinh tế có tác động gián tiếp đến nghèo đói thông qua

một số kênh tác động cơ bản. Mối tương quan giữa nông nghiệp và công nghiệp được

quan tâm nghiên cứu nhiều nhất vì mối tương quan này có đóng góp trực tiếp và gián

tiếp cải thiện đời sống người nghèo theo xu hướng tiến bộ.

Đối với khu vực nông nghiệp, vai trò của tăng trưởng khu vực nông nghiệp

đối với giảm nghèo được thể hiện thông qua ba kênh chính bao gồm (1) tiền lương cho

lao động và việc làm; (2) giá nông sản; (3) hiệu ứng tương tác giữa nông nghiệp và các

khu vực khác trên thị trường (Johnston and Mellor, 1961). Kết quả này cũng khá tương

đồng với một nghiên cứu lý thuyết khác về các kênh tác động trung gian của tăng

trưởng nông nghiệp đến nghèo đói, bao gồm: (1) thu nhập của các hộ trong khu vực

nông nghiệp, (2) giá nông sản phẩm và (3) thị trường lao động (Bresciani và Valdes,

2007). Kênh tác động thứ nhất qua thu nhập và việc làm: việc tăng cơ hội việc làm và

tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp sẽ có tác động lớn đến giảm nghèo. Kênh tác

động thứ hai qua giá nông sản: tăng trưởng khu vực nông nghiệp sẽ làm giảm giá

nông sản và tác động làm giảm nghèo chung trong nền kinh tế. Điều này sẽ có tác

động hai chiều tới người nghèo bao gồm thu nhập và chi tiêu. Nông sản là nguồn thu

chính của đa phần hộ nghèo trong nông nghiệp, mặt khác lại ảnh hưởng tới tiêu dùng

vì người nghèo chi phần lớn thu nhập của mình để đáp ứng nhu cầu thiết yếu. Kênh tác động thứ ba qua mối tương tác của khu vực nông nghiệp với các khu vực khác trong

nền kinh tế. Bản chất của mối tương tác giữa khu vực nông nghiệp với các khu vực

khác trong nền kinh tế chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành. Các mối tương tác này thể hiện tác động gián tiếp của tăng trưởng nông nghiệp lên các khu vực khác của nền kinh tế thông qua các mối tương quan mang tính giả thuyết như sau: mối liên hệ tiêu dùng và mối liên hệ năng suất.

Đối với khu vực công nghiệp, vai trò của khu vực công nghiệp tới giảm nghèo được xác định thông qua ba kênh tác động bao gồm (1) tăng trưởng công nghiệp tạo ra việc làm và gia tăng thu nhập; (2) qua sự lan tỏa công nghệ làm gia tăng năng suất lao động; (3) tăng trưởng công nghiệp kéo theo quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kênh thứ nhất qua việc mở rộng việc làm cho lao động trong nền kinh tế: Bản thân khu vực công nghiệp tăng trưởng sẽ tạo ra cơ hội việc làm cho lao động. Thậm chí nếu tốc độ

11

tăng trưởng của khu vực công nghiệp đủ lớn sẽ có thể thu hút cả những lao động nghèo

với mức thu nhập thấp nhất ở khu vực nông nghiệp (Lewis, 1954; Fisher and Allan, 1939). Kênh thứ hai qua hiệu ứng lan tỏa công nghệ: Tăng trưởng công nghiệp thường

được duy trì và đảm bảo nhờ sự tiến bộ của khoa học công nghệ, ngược lại, tăng

trưởng công nghiệp cũng đồng thời kéo theo sự cải tiến về công nghệ và làm lan tỏa công nghệ đến các khu vực khác trong nền kinh tế. Kênh thứ ba qua việc thúc đẩy quá

trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: Khu vực công nghiệp đóng vai trò như động lực

chính cho quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Dịch chuyển từ hoạt động kinh tế năng

suất thấp dựa trên tăng trưởng nông nghiệp, nông thôn hay dựa trên những dịch vụ phi chính thức sang những hoạt động kinh tế năng suất cao hơn trong khu vực công nghiệp

có thể tạo ra tác động bền vững và tích cực đến giảm nghèo.

Tóm lại, lý thuyết kinh tế đã đưa ra một mối liên hệ chặt chẽ giữa vai trò của

tăng trưởng kinh tế theo từng ngành đến giảm nghèo. Các học thuyết chính được đưa

ra và thừa nhận khi nghiên cứu về mối quan hệ này, đó là: quan điểm tăng trưởng khu

vực nông nghiệp trước sẽ có lợi cho giảm nghèo và quan điểm tăng trưởng khu vực phi

nông nghiệp trước sẽ tốt hơn. Ngoài ra, các nghiên cứu lý thuyết sau này cũng đưa ra

một số kênh tác động gián tiếp của tăng trưởng kinh tế nông nghiệp và công nghiệp tác

động tới nghèo đói. Song song với lý thuyết, những nghiên cứu thực nghiệm cũng đã

được tiến hành. Những nghiên cứu thực nghiệm về cơ bản cũng đưa đến các kết luận

hoặc ủng hộ cho quan điểm thứ nhất hoặc cho quan điểm thứ hai. Phần bài viết sau đây

sẽ đề cập đến những nghiên cứu thực nghiệm điển hình ở một số quốc gia và Việt Nam.

1.2. Tổng quan nghiên cứu thực nghiệm

Trong loạt nghiên cứu từ những năm 1950 trở lại đây, Kuznets (1955) là người

đầu tiên biểu diễn mối quan hệ giữa phân phối thu nhập với tăng trưởng kinh tế thông

qua hình chữ U ngược. Đường cong này đưa ra giả thiết rằng bất bình đẳng xã hội tăng

lên khi các quốc gia tăng trưởng kinh tế, và sau khi đạt đến mức thu nhập trung bình thì bất bình đẳng giảm xuống. Nghiên cứu thực nghiệm này được thực hiện từ năm 1962 đến 1985 thông qua số liệu thực tế của hơn 70 quốc gia. Kết quả thực nghiệm đã

cho thấy rằng trong suốt giai đoạn đầu của quá trình tăng trưởng thì càng đạt được tăng trưởng cao thì khoảng cách giàu nghèo càng gia tăng. Tuy nhiên xu thế này sẽ đảo ngược trong giai đoạn sau khi mà nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng cao nhất. Phân phối thu nhập càng có xu hướng gia tăng bất bình đẳng thì tỷ lệ nghèo đói sẽ càng tăng. Một vài

nghiên cứu sau này cũng đưa đến kết luận tương tự như nghiên cứu của Kuznets. Những người ủng hộ cho rằng sự gia tăng về bất bình đẳng không phải là nhân tố tiêu cực tác động đến tăng trưởng. Sự gia tăng của cải cho người giàu có trong xã hội sẽ thúc đẩy đầu

12

tư và tiêu dùng. Kaldor (1970) cũng đưa ra một kết luận tương tự, cho rằng một mức bất

bình đẳng nhất định sẽ là điều kiện cần thiết cho tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, một số nhà phê phán lại cho rằng số liệu thực tế sử dụng để dẫn tới

đường chữ U ngược chủ yếu lại được thu thập ở các nước giàu như Mỹ, Anh, Đức

trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20, như vậy sẽ không có tính ứng dụng cao cho quá trình phát triển hiện nay của các quốc gia đang phát triển, nơi mà nền kinh tế-xã hội và các

điều kiện khác còn nhiều phụ thuộc vào các quốc gia phát triển. Đường cong chữ U

ngược chưa chỉ rõ được sự khác biệt giữa các quốc gia có sự khác nhau về lịch sử phát

triển kinh tế. Như vậy, theo quan điểm này, xét về mặt thực tiễn phát triển kinh tế- xã hội của các nước đang phát triển hiện nay, quy luật chữ U ngược chưa chắc hẳn đã

đúng và các quốc gia đang phát triển có thể không cần phải cân nhắc để đánh đổi giữa

mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế của

mình. Ngoài nghiên cứu về quy luật chữ U ngược của Kuznets, nhiều nhà nghiên cứu

đã đưa ra những kết luận ngược lại: tăng trưởng kinh tế theo ngành có thể gắn liền với

xu hướng giảm của tỷ lệ nghèo đói.

Đầu tiên là những nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng tăng trưởng công

nghiệp dương luôn có xu hướng tác động tích cực đến giảm nghèo. Kết quả nghiên

cứu về Đài Loan của Warr và Wang (1999) chứng minh rằng tăng trưởng của ngành

công nghiệp luôn đi kèm với việc giảm nghèo mặc dù Đài Loan nằm trong giai đoạn

đầu hay giai đoạn sau của quá trình phát triển như trong mô hình chữ U ngược đưa ra.

Đài Loan đã đưa ra rất nhiều chính sách ngoại thương có hiệu quả, do vậy, công

nghiệp hóa đã dẫn đến sự tiến bộ đáng kể trong các mục tiêu giảm nghèo ở cả khu vực

nông thôn và thành thị. Nhiều nghiên cứu đã ủng hộ cho quan điểm phát triển công nghiệp và chỉ ra lao động và các nguồn lực sẽ tạo ra động lực làm tăng nhanh năng

suất khu vực công nghiệp. Thêm nữa, theo mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế ngành

và giảm nghèo thì việc nghiên cứu về mối tương tác đồng biến hay nghịch biến cũng trở nên vô cùng quan trọng giúp Chính Phủ đưa ra chính sách giảm nghèo.

Khác biệt so với những kết luận từ mô hình lý thuyết và thực nghiệm của Lewis

(1954) và Kuznets (1955) đều đưa ra quan điểm cho rằng khu vực nông nghiệp là khu vực luôn có năng suất lao động thấp, những nghiên cứu thực nghiệm sau chứng minh rằng nông nghiệp là khu vực dẫn đầu đưa nền kinh tế phát triển từ mức xuất phát điểm của một nền kinh tế có mức thu nhập thấp.

Khác với nghiên cứu về Đài Loan, kết quả nghiên cứu của Warr (1999) về giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế theo ngành ở khu vực Đông Nam Á đã đưa đến quan điểm ngược lại với quan điểm phát triển công nghiệp trước. Warr đã kiểm định về mối

13

quan hệ giữa nghèo đói với tốc độ tăng trưởng của ngành nông nghiệp, công nghiệp và

dịch vụ. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng bộ số liệu chéo của bốn quốc gia Đông Nam Á bao gồm Thái Lan, Indonesia, Malaysia và Philippine trong khoảng thời gian

từ 1990 đến 1999. Ông nghiên cứu về mối liên hệ giữa nghèo đói chung, nghèo đói ở

nông thôn và thành thị, sau đó đánh giá những tác động của tăng trưởng kinh tế đến nghèo đói. Nghèo đói được đo lường thông qua 3 chỉ số: (1) sự thay đổi trong chỉ tiêu

nghèo đói nông thôn với trọng số là tỷ lệ dân số nông thôn, (2) sự thay đổi trong chỉ

tiêu nghèo đói thành thị với trọng số là tỷ lệ dân số thành thị, (3) dân số di chuyển từ

nông thôn ra thành thị có trọng số là sự chênh lệch về dân số ở hai khu vực.

Bước thứ hai, ông dùng F-test để kiểm định liệu tăng trưởng kinh tế theo ngành

có tác động đến giảm nghèo chung hay không. Kết quả cho thấy giảm nghèo phụ thuộc

vào tăng trưởng kinh tế chung và tỷ trọng của từng ngành trong nền kinh tế. Quá trình

giảm nghèo có mối tương tác lớn với ngành nông nghiệp và dịch vụ, không có mối

liên hệ chặt chẽ với tăng trưởng của khu vực công nghiệp. Tăng trưởng của khu vực

công nghiệp dường như không có tác động gì tới nghèo đói. Warr cũng chỉ ra sự khác

biệt cơ bản giữa nghiên cứu của ông và nghiên cứu của Warr và Wang (1999) về Đài

Loan. Warr và Wang đưa ra kết luận cho Đài Loan rằng công nghiệp là khu vực có tác

động mạnh nhất tới việc giảm tỷ lệ nghèo đói. Lý do của sự khác biệt giữa hai nghiên

cứu này là do vai trò của chính sách công nghiệp ở các quốc gia là khác nhau. Chính

sách thương mại hướng Đài Loan tới một nền kinh tế mở cửa mạnh mẽ, đặc biệt là khu

vực công nghiệp đã dẫn đầu trong quá trình công nghiệp hóa rất nhanh ở cả khu vực

nông nghiệp và công nghiệp. Do vậy, đối với Đài Loan, tăng trưởng công nghiệp đã

tác động mạnh tới giảm nghèo cả ở nông thôn và thành thị. Trong khi đó, những nghiên cứu cho 4 quốc gia Đông Nam Á lại cho thấy chính sách nông nghiệp và dịch

vụ được chú trọng hơn do điều kiện phát triển nông nghiệp tự nhiên cũng như sự dư

thừa lao động và nhu cầu phát triển khu vực dịch vụ đã thu hút lao động vào ngành này. Khi phân tích về tác động của các chính sách tới tăng trưởng các ngành và giảm nghèo thì nghiên cứu còn chỉ ra điểm khác biệt ở Ấn Độ so với các quốc gia Châu Á khác. Ấn Độ đưa ra những rào cản thương mại hiệu quả đối với ngành công nghiệp

nặng và điều này giúp mở rộng vốn đầu tư nội địa trong ngành này. Chính sách này của Ấn Độ đã mang lại lợi ích lớn cho nhóm người nghèo trong xã hội. Cầu lao động ở khu vực nông nghiệp và dịch vụ tăng lên, đặc biệt là lao động thiếu kỹ năng hoặc không có tay nghề.

Theo nghiên cứu của Warr (1999), tăng trưởng kinh tế theo ngành rõ ràng có tác động lớn tới giảm nghèo. Tuy nhiên, ngoài tăng trưởng kinh tế theo ngành thì chính

14

sách kinh tế vĩ mô, chính sách ngoại thương, chính sách phát triển từng ngành kinh tế

cũng có tác động lớn tới giảm nghèo.

Montalvo và Ravallion (2009) lại nghiên cứu về vấn đề này cho Trung Quốc

qua số liệu cấp tỉnh. Tác giả đã kiểm định xem tăng trưởng kinh tế ngành ảnh hưởng

thế nào tới nghèo đói thông qua các biến số đã được logarit hóa làm giảm nhiễu, bao gồm: tỷ lệ nghèo đói cấp tỉnh, tỷ lệ các ngành, GDP bình quân và tỷ lệ lạm phát. Mô

hình này dựa trên nghiên cứu thực nghiệm đã được thực hiện bởi Ravallion và Datt

(2002) nghiên cứu cho Ấn Độ. Tác giả đã nghiên cứu xem tại sao Trung Quốc đạt

được kết quả ấn tượng trong cuộc chiến chống nghèo đói thông qua tăng trưởng ngành. Các tác giả đã sử dụng mô hình kinh tế gồm 3 khu vực: khu vực thứ nhất ( chủ yếu là

nông nghiệp), khu vực thứ hai ( công nghiệp và xây dựng ), khu vực thứ ba ( dịch vụ

và thương mại). Giả thuyết được đưa ra là nếu ngành A tác động đến nghèo đói thông

qua ngành B thì tác động này sẽ được tính trong ngành B. Do vậy, kết quả đạt được từ

nghiên cứu mang tính tương đối.

Để thực hiện kiểm định, hai mẫu nghiên cứu nhỏ được sử dụng bao gồm: sai

phân theo thời gian và số liệu chéo nhằm tránh tình trạng thiếu thông tin qua các năm

được khảo sát. Nhìn chung, không có sự khác biệt quá lớn giữa mô hình của Warr

(1999) với mô hình này. So sánh với kết quả nghiên cứu của Ravallion và Datt (2002),

tác giả đã loại bỏ xu hướng và tỷ lệ lạm phát và chỉ kiểm định với tốc độ tăng trưởng

của ba khu vực. Điều này cũng gây ra một vài thiếu sót về mặt số liệu do khác biệt về

thời gian giữa các lần khảo sát. Warr (1999) nghiên cứu cho Đông Nam Á đã không

tìm thấy bằng chứng thuyết phục giữa việc giảm nghèo với tác động của các ngành

nằm ngoài khu vực ngành thứ nhất. Những kết quả này khá giống so với Ravallion và Datt (2002). Ngành thứ hai và thứ ba, tác giả lần lượt chỉ ra những hệ số ước lượng là

âm ở một hoặc hai tỉnh. Kết quả này cho thấy mức độ quan trọng của khu vực một (

chủ yếu là nông nghiệp ) ở Trung Quốc có vai trò quan trọng với giảm nghèo. Tuy nhiên, ông không bác bỏ giả thiết rằng các hệ số của khu vực hai và khu vực ba sau ước lượng là cân bằng nhau. Qua những thành công của Trung Quốc, một ý tưởng gợi lên về sự đánh đổi giữa tăng trưởng của các ngành kinh tế có thể sẽ làm thay đổi các

chính sách kinh tế trong quá trình thực hiện cải cách kinh tế ở quốc gia này. Do vậy, các chính sách hướng tới khu vực nông nghiệp và đất nông nghiệp cần được củng cố để tạo ra thêm nhiều phúc lợi cho người nghèo ở Trung Quốc.

Mặc dù phương pháp và mô hình sử dụng có nhiều điểm chung, nhưng kết luận của Montavol và Ravallion (2009) và Warr (1999) có vài sự khác biệt nhỏ như sau. Trong khi Warr chắc chắn về tầm quan trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ thì

15

Ravallion và Montalvo lại không cho rằng hai khu vực này quan trọng đối với giảm

nghèo ở Trung Quốc, khu vực quan trọng nhất lại là nông nghiệp. Điều này cho thấy những thành tựu của khu vực nông nghiệp và cải cách chính sách nông nghiệp ở Trung

Quốc cần được đề cao hơn cả nhằm hướng tới mục tiêu giảm nghèo.

Một nghiên cứu nữa của Christiaensen, Demery và Kuhl (2010) cũng cung cấp những bằng chứng thực nghiệm cho thấy nông nghiệp là quan trọng nhất đối với giảm

nghèo, sau đó là những ngành phi nông nghiệp. Bắt đầu nghiên cứu bằng việc hoài nghi

về vai trò của khu vực nông nghiệp đối với giảm nghèo, ông đã xây dựng mô hình

nghiên cứu thực nghiệm với biến độc lập là tỷ lệ nghèo đói. Sự thay đổi trong tỷ lệ nghèo đói tương ứng với hệ số co giãn của GDP theo nghèo đói. Tốc độ tăng GDP bình

quân được tính toán xấp xỉ bằng tổng của tỷ lệ tăng trưởng ở các ngành ( bao gồm nông

nghiệp và phi nông nghiệp ). Trong nghiên cứu này, tác giả không chia cơ cấu kinh tế

thành ba ngành mà chỉ chia thành hai ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp. Đẩy

nhanh tốc độ tăng trưởng nông nghiệp cũng sẽ tạo ra sự thay đổi ở các ngành và khiến

ngành phi nông nghiệp tăng trưởng cao hơn. Do vậy, bốn nhân tố cốt lõi tác động đến

mối liên hệ giữa tăng trưởng ngành và nghèo đói là : tỷ trọng từng ngành trong tăng

trưởng kinh tế chung, tác động gián tiếp từ tăng trưởng ngành này kéo theo tăng trưởng

ngành khác có tác động tới giảm nghèo, tác động từ các nhân tố khác ngoài tăng trưởng

các ngành, quy mô của các ngành trong nền kinh tế. Kiểm định những tác động trực

tiếp, tác động gián tiếp và tác động từ các nhân tố khác, tác giả đã chú trọng vào phân

tích vai trò của khu vực nông nghiệp tới giảm nghèo so với các ngành khác. Hai kiểm

định được tiến hành: kiểm định tác động trực tiếp của một phần trăm tăng trưởng gia

tăng trong GDP của khu vực nông nghiệp trên đầu người và kiểm định tác động gián tiếp đến nghèo đói từ những khu vực phi nông nghiệp. Kết quả kiểm định cho thấy rằng

khu vực phi nông nghiệp có tác động mạnh hơn đến giảm nghèo trong nhóm dân cư “đỡ

nghèo hơn” và tốc độ tăng trưởng nông nghiệp chậm hơn (các tác nhân tăng trưởng trực tiếp). Điều đó cho thấy khu vực nông nghiệp hoạt động kém năng suất hơn. Với ngưỡng nghèo là 1 USD/ người/ ngày, nông nghiệp có tác động giảm nghèo cao hơn gấp 3,2 lần so với khu vực phi nông nghiệp. Qua kiểm định cho thấy, kết quả giảm nghèo từ tác

động của khu vực phi nông nghiệp giảm đáng kể khi ngành công nghiệp khai khoảng mở rộng quy mô trong nền kinh tế. Bằng chứng thực nghiệm này đã ủng hộ quan điểm cho rằng tăng cường năng suất nông nghiệp có thể dẫn tới các chiến lược giảm nghèo dưới mức chuẩn là 1 USD thì hiệu quả ngay cả ở các quốc gia có mức thu nhập thấp. Tuy nhiên, nếu muốn giảm nghèo cho mức chuẩn dưới 2 USD/ người/ ngày thì khu vực phi nông nghiệp lại vô cùng quan trọng đặc biệt đối với các quốc gia nghèo tài nguyên.

16

Christiaensen, Demery, và Kuhl (2010) cũng đưa ra minh chứng cho thấy rằng

nông nghiệp chiếm vai trò quan trọng trong giảm nghèo mặc dù tỷ trọng của ngành này có xu hướng giảm. Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng của khu vực nông nghiệp luôn

thấp hơn công nghiệp và dịch vụ. Xu hướng này tuân theo quy luật của Engel đưa ra

nhưng nông nghiệp vẫn luôn chiếm vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân nghèo ở các nước đang phát triển. Phát triển nông nghiệp sẽ tạo ra

lợi ích lớn nhất cho các nhóm người nghèo.

Quan điểm tăng trưởng khu vực dịch vụ sẽ tác động lớn nhất đến giảm nghèo

được đưa ra trong nghiên cứu của Suryahadi, Suryadarma và Sumarto (2009). Các nhà nghiên cứu đã ước lượng tác động của tăng trưởng kinh tế đến nghèo đói ở Indonesia

với sự thay đổi trong tỷ lệ nghèo đói là biến phụ thuộc và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế như

biến độc lập. Trong nghiên cứu này, giả thiết rằng không có tác động do vấn đề di dân

gây ra. Tăng trưởng kinh tế theo ngành không được xem xét dưới góc độ 3 ngành như

thông thường, các tác giả chia cơ cấu kinh tế ra thành hai khu vực: nông thôn và thành

thị. Tác giả cũng phân chia thành 6 khu vực để nghiên cứu kỹ hơn về mối liên hệ giữa

các ngành với giảm nghèo ở cả hai nhóm nông thôn và thành thị kể trên. Như vậy, 6

khu vực của tăng trưởng kinh tế được đưa vào phân tích bao gồm: nông nghiệp thành

thị, công nghiệp thành thị, dịch vụ thành thị, nông nghiệp nông thôn, công nghiệp

nông thôn và dịch vụ nông thôn. Nhờ sự phân loại này, nghiên cứu đã đưa đến nhiều

kết luận thú vị. Thêm nữa, các tác giả sử dụng bộ số liệu khá lớn nên những ước lượng

thu được kỳ vọng sẽ có tính chính xác cao. Phương pháp ước lượng được sử dụng là

GLS dùng cho số liệu mảng nên các sai số tiêu chuẩn sẽ giảm bớt hiện tượng phương

sai sai số thay đổi giữa các tỉnh. Trước tiên, tác giả tính toán xu hướng nghèo đói qua đường chuẩn nghèo của từng khu vực được đưa ra bởi Pradhan (2001) để có sự so

sánh tương đối giữa các khu vực qua thời gian. Sau đó tác giả nghiên cứu về tác động

của tăng trưởng kinh tế tới giảm nghèo thông qua mô hình đã được đề cập ở trên. Lỗi do thiếu hụt số liệu và thông tin được giảm thiểu bởi bộ số liệu mảng cấp tỉnh. Sau ước lượng, một số kết quả đáng chú ý được đưa ra. Kết luận đầu tiên là tăng trưởng của khu vực nông nghiệp và dịch vụ là yếu tố cốt lõi đối với giảm nghèo ở khu vực nông

thôn. Thứ hai, kết quả cho thấy rằng tồn tại mối liên hệ giữa tăng trưởng ở thành thị với nghèo đói ở nông thôn. Cuối cùng, các tác giả đã chứng minh rằng khu vực công nghiệp có tác động rất nhỏ đến giảm nghèo ở nông thôn. Điều này khơi dậy những ý tưởng về chính sách trong bối cảnh khu vực công nghiệp của Indonesia đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế nông thôn.

Một vài điểm khác biệt tác động tới quá trình giảm nghèo đã được chỉ ra giữa

17

thành thị so với nông thôn. Khi nông nghiệp nông thôn là khu vực chủ yếu giúp giảm

nghèo ở nông thôn thì lại không có chút tác động nào đến giảm nghèo đô thị. Sự tăng trưởng bùng nổ ở khu vực dịch vụ đô thị sẽ khiến cuộc sống người nghèo ở đô thị khá

hơn trong khi các khu vực khác lại không mấy tác động. Những kết luận đưa ra sẽ rất

quan trọng cho Indonesia trong quá trình xây dựng và đưa chính sách tăng trưởng và giảm nghèo vào thực hiện. Hầu hết nhà máy công nghiệp đều đặt quanh khu đô thị và

ngành công nghiệp đều thu hút lao động có kỹ năng cao. Khu vực nông nghiệp có tác

động nhỏ đến giảm nghèo ở thành thị. Điều này lý giải do hai nguyên nhân sau. Thứ

nhất, khu vực công nghiệp khó mở rộng lao động hơn khu vực nông nghiệp, do vậy, công nghiệp sẽ đóng góp ít hơn đối với vấn đề giảm nghèo ở nông thôn. Thứ hai, đa

phần người nghèo ở Indonesia tham gia vào khu vực nông nghiệp nông thôn hoặc có

liên quan đến các hoạt động dịch vụ ở thành phố do họ không có kỹ năng để làm việc

trong khu vực công nghiệp. Do vậy, người nghèo ở Indonesia chủ yếu đóng góp cho

nông nghiệp nông thôn hoặc dịch vụ đô thị là chính. Tăng trưởng kinh tế dựa vào sự

phát triển công nghiệp sẽ không thể là giải pháp then chốt để giảm nghèo. So sánh

giữa 6 nhóm ngành, ngành có tác động lớn nhất đến giảm nghèo ở cả nông thôn và

thành thị chính là dịch vụ thành thị. Những nhà nghiên cứu chính sách, do vậy, nên tập

trung vào nhóm chính sách thúc đẩy tăng trưởng của ngành này.

Bên cạnh những nghiên cứu quốc tế về giảm nghèo và tăng trưởng theo ngành,

rất nhiều những nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế chung tác động tới giảm nghèo ở

Việt Nam đã được công bố.

Balisacan, Pernia và Estrada (2003) đã giả định rằng tốc độ tăng trưởng cao thì

phân phối càng có ít tác động tới phúc lợi cho người nghèo. Các tác giả đã chạy mô hình hồi quy OLS với giá trị chi tiêu trung bình của nhóm nghèo nhất và số liệu về tiêu

dùng bình quân cấp tỉnh. Các chỉ số này đều được logarit hóa và tác giả thấy mối liên

hệ rõ rệt giữa mức sống của người nghèo với mức thu nhập cấp tỉnh. Sau đó, các tác giả ước lượng dựa trên số liệu mảng để thu được kết quả về mối quan hệ giữa độ co giãn của tăng trưởng và nghèo đói với một số biến số khác. Các biến giải thích mà mô hình sử dụng bao gồm nhân khẩu của mỗi hộ gia đình, vị trí địa lý, số năm đến trường

học, đặc điểm của hộ nông nghiệp và cơ sở hạ tầng sử dụng. Trong kết luận thu được, tác giả khẳng định rằng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam đã tạo thuận lợi cho nhóm người nghèo và cải cách kinh tế sẽ thúc đẩy cả tăng trưởng lẫn giảm nghèo trong dài hạn.

Tác giả Hansen và Nguyen (2008) đã đưa ra nghiên cứu về nghèo đói với các nhân tố kinh tế tác động đến nghèo đói. Nghiên cứu này phân tích vai trò của thị trường chính bao gồm thị trường lao động, thị trường hàng hóa, thị trường tài chính và nhà ở có

18

tác động đến người nghèo như thế nào, kể cả nhóm người nghèo kinh niên. Nghiên cứu

này đặc biệt thú vị khi phát hiện ra vai trò của tăng trưởng nông nghiệp đã giúp người nghèo thoát nghèo và giúp những người cận nghèo không rơi vào nghèo khó.

Phân tích của tác giả về nhịp độ giảm nghèo trong giai đoạn 2002-2004 dựa trên

cơ sở bộ số liệu mảng. Do sự khác biệt về tính chất các hộ nghèo ở khu vực nông thôn và thành thị và số liệu thống kê không thật sự đầy đủ, chỉ có mẫu nghiên cứu của khu

vực nông thôn được đưa vào phân tích. Bài nghiên cứu chia các hộ gia đình thành các

nhóm khác nhau: nhóm sắp thoát nghèo, nhóm sắp rơi vào dưới ngưỡng nghèo đói và

nhóm không nghèo đói trong suốt giai đoạn nghiên cứu. Do các tính chất khác biệt, hộ nghèo lâu năm có xu hướng tăng lên về số lượng do thường không được hưởng giáo

dục tốt và phần đông là lao động nghèo trong nông nghiệp. Do vậy, sự thay đổi nghề

nghiệp của các hộ gia đình trong nhóm này phản ánh sự thay đổi trong nền kinh tế theo

xu hướng rời bỏ khu vực nông nghiệp để hướng tới việc làm trong lĩnh vực phi nông

nghiệp. Nghiên cứu cũng đưa ra kết luận rằng: trong khi tăng trưởng nông nghiệp trở

nên quan trọng để tăng cơ hội cho hộ gia đình nông nghiệp và giảm nghèo, thì các

chính sách duy trì tăng trưởng ổn định và thu nhập cho các hộ nông dân tăng lên là các

chính sách trọng tâm nhằm duy trì tốc độ giảm nghèo đói nhanh. Một trong những

chính sách này là phải tìm thị trường đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là

thị trường nước ngoài. Tạo ra thị trường quốc tế đặc biệt cho sản phẩm nông nghiệp thì

cần phải phát triển công cụ bảo hiểm cho các sản phẩm nông nghiệp. Cần nhấn mạnh

vào các khoản đầu tư công cho xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn ở hiện tại và tương

lai dài hạn mặc dù những chính sách này không chỉ có tác động đến duy nhất nhóm dân

nghèo. Theo dòng nghiên cứu về nghèo đói, tác giả Nguyễn Thắng (2011) trong báo cáo giảm nghèo đánh giá về thành tựu và thách thức cho Việt Nam giai đoạn 2008-2009, kết

quả nghiên cứu có nhiều điểm tương đồng với nghiên cứu về nghèo đói giai đoạn trước

đây 2002-2004. Tuy nhiên, trong năm 2008-2009, tác giả đã chỉ rõ vấn đề nghèo ở Việt Nam đang tồn tại tình trạng nghèo co cụm và nghèo kinh niên ở nhóm dân tộc thiểu số. Giải pháp duy nhất để giảm nghèo cho nhóm này là Chính phủ cần phải tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực xã hội thông qua hệ thống chính sách xã hội, giảm nguy cơ

truyền đói nghèo từ thế hệ này sang thế hệ khác đối với nhóm này.

Một nghiên cứu khác về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo là nghiên cứu của Lê Quốc Hội (2008) đã đưa ra kết luận rằng tồn tại mối liên hệ ngược chiều giữa tỷ lệ nghèo và tốc độ tăng trưởng GDP. Nghiên cứu thực nghiệm này không chỉ ra mối quan hệ rõ ràng giữa bất bình đẳng và tốc độ tăng trưởng GDP. Thêm đó, tác giả dự đoán rằng mức độ nghèo đói càng cao sẽ dẫn tới bất bình đẳng

19

cao hơn trong tương lai. Nghiên cứu cũng chỉ ra tăng trưởng là biến phụ thuộc và được

tính toán dựa trên tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP cấp tỉnh trong giai đoạn nghiên cứu. Ba biến độc lập bao gồm chỉ số đo lường bất bình đẳng, tỷ lệ nghèo đói và

biến kiểm soát. Số liệu chéo cấp tỉnh được sử dụng trong nghiên cứu. Những kết luận

được đưa ra đã rất có hiệu quả trong việc ra chính sách và cụ thể hóa thành các chương trình giảm nghèo và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cũng như giúp làm giảm bất bình

đẳng trong xã hội.

Gần đây, nghiên cứu của Cesvantes-Godoy và Drewby (2010) cũng đưa ra bằng

chứng về vai trò của khu vực nông nghiệp tới giảm nghèo ở các nước nghèo, trong đó có Việt Nam. Trong nghiên cứu này, các tác giả chỉ ra nguyên nhân cơ bản vì sao nông

nghiệp lại quan trọng đối với đời sống người nghèo ở các nước đang phát triển bao

gồm: nông nghiệp được coi là nhân tố nền tảng cho phát triển kinh tế theo chiều rộng,

năng suất lao động của khu vực nông nghiệp tăng sẽ có tác động làm giảm giá lương

thực thực phẩm giảm, nông nghiệp là khu vực tạo ra thu nhập cho phần đông người

nghèo trong xã hội. Nghiên cứu này cũng cho biết tỷ lệ tăng trưởng nông nghiệp của

Việt Nam cao nhất trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Tỷ lệ tăng trưởng bình

quân giai đoạn 1981-2005 là khoảng 18%, trong khi các quốc gia khác trong khu vực

Châu Á- Thái Bình Dương chỉ khoảng 7-8%, Indonesia thậm chỉ là -5%. Qua sự thay

đổi về tăng trưởng nông nghiệp cũng như các chỉ số nghèo đói, Việt Nam được ghi

nhận là một trong những quốc gia mà tăng trưởng nông nghiệp đóng góp phần rất lớn

nâng cao đời sống của nhóm người nghèo trong xã hội. So với Indonesia, Việt Nam có

những tiền đề rất tốt cho tăng trưởng kinh tế như ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển

thương mại có hiệu quả và tăng trưởng nông nghiệp cao nhất trong khu vực. Mọi chính sách phát triển khu vực nông nghiệp đều gắn chặt chẽ với mục tiêu giảm nghèo.

Nghiên cứu của tác giả Vũ Thị Vinh (2014) cũng dẫn đến kết luận tương tự về

mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo. Tác giả đã nhận định tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao là yếu tố cơ bản dẫn tới thành tựu giảm nghèo của Việt Nam. Ngược lại, giảm nghèo cũng là nhân tố bảo đảm cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Thành tựu giảm nghèo ở Việt Nam trong thời gian qua là đáng ghi nhận, tuy

nhiên, giảm nghèo hiện nay vẫn còn là vấn đề bức xúc của Việt Nam. Những vấn đề lớn vẫn còn tồn tại là sự chênh lệch giàu- nghèo, phát triển không đồng đều giữa các vùng, các khu vực, các ngành của nền kinh tế. Xu hướng này đang gia tăng tại Việt Nam, đe dọa thành tựu giảm nghèo bền vững. Có rất nhiều quan điểm không đồng thuận trong việc tìm ra giải pháp khắc phục tình trạng này. Theo tác giả, Việt Nam cần có hệ thống chính sách vĩ mô

20

Tác giả Hoàng Đức Thân và Đinh Quang Ty (2010) trong nghiên cứu về tăng

trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam cũng đưa ra nhiều kết luận đáng chú ý. Nghiên cứu cũng đưa đến kết luận về vai trò quan trọng và tác động tích

cực của tăng trưởng kinh tế đối với mục tiêu giảm nghèo của Việt Nam giai đoạn 1993

đến 2008. Mặc dù được coi là về đích sớm trong công cuộc xóa đói giảm nghèo giai đoạn này, Việt Nam cũng thừa nhận rằng những thành tựu giảm nghèo chưa thật sự

bền vững. Nguyên nhân của tình trạng trên là do nhóm người nghèo gặp hạn chế trong

quá trình tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục,…Hơn nữa, nghiên cứu

còn nhấn mạnh vào cơ chế, chính sách giảm nghèo và hỗ trợ người nghèo chưa thực sự đồng bộ, minh bạch và hiệu quả. Nguyên nhân cơ bản cuối cùng chính là vấn đề khác

biệt lớn giữa các khu vực về điều kiện địa lý và cơ sở hạ tầng dẫn đến hiệu quả của

giảm nghèo rất khác nhau gữa các khu vực. Do vậy, tuy rằng tăng trưởng kinh tế cao

và ổn định, xu thế xã hội hóa diễn ra mạnh mẽ và tỷ lệ chi ngân sách cho các mục tiêu

xã hội có xu hướng tăng, nhưng hiệu quả giảm nghèo lại không ổn định.

Trong những nghiên cứu gần đây nhất, tác giả Ngô Thắng Lợi và Nguyễn

Quỳnh Hoa (2017) nghiên cứu về mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã nhận định

vai trò tất yếu của tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo tuy nhiên tác động này mang

tính chất lan tỏa. Cụ thể hơn, tác giả đã nhận định trong bối cảnh kinh tế Việt Nam giai

đoạn hiện nay, tăng trưởng kinh tế tuy vẫn còn tác động lan tỏa tích cực đến giảm

nghèo nhưng những hiệu ứng của tác động này đang giảm sút. Biểu hiện của tình trạng

này có thể thấy rõ qua thực tế giảm nghèo ở Việt Nam theo thu nhập chậm và chưa

thực sự bền vững. Tỷ lệ tái nghèo còn cao và đặc biệt trầm trọng ở các khu vực địa lý

và điều kiện hạ tầng không thuận lợi. Các tác giả đã sử dụng hệ số co giãn giữa giảm nghèo với tăng trưởng để so sánh trong khoảng thời gian từ 2004 đến 2016. Kết quả

cho thấy tác động lan tỏa từ tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo có xu hướng giảm.

Mô hình tăng trưởng hiện nay đã giảm dần hiệu lực tác động đến giảm nghèo. Nguyên nhân cơ bản do (1) sự tham gia của người nghèo trong thành quả tăng trưởng thấp (2) chính sách phân phối chưa thực sự có lợi cho người nghèo (3) chính sách giảm nghèo chưa thực sự gắn kết với khu vực nông nghiệp, nông thôn dẫn đến tình trạng nghèo đói

co cụm theo khu vực.

Có rất nhiều nghiên cứu khẳng định về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở trên thế giới và ở Việt Nam. Hầu hết các nghiên cứu thực nghiệm đã được thực hiện về Việt Nam đều khẳng định mối tương quan tích cực giữa tăng trưởng kinh tế chung tới giảm nghèo. Tuy nhiên, các nghiên cứu này đều được nghiên cứu dựa trên định tính hoặc định lượng tác động trực tiếp của tăng trưởng kinh tế đến tình

21

trạng nghèo đói. Trong khi đó, các nghiên cứu lý thuyết đều chỉ ra rằng cơ chế tác

động của tăng trưởng kinh tế đến nghèo đói không chỉ tồn tại các tác động trực tiếp này, mà còn tồn tại các cơ chế tác động gián tiếp khiến hiệu quả của tăng trưởng kinh

tế chung lan tỏa đến đời sống người nghèo trong xã hội. Hơn thế nữa, nếu nghiên cứu

một cách sâu sắc hơn về tăng trưởng kinh tế, thì tăng trưởng kinh tế chung còn được bóc tách thành rất nhiều loại cơ cấu tăng trưởng khác nhau- trong đó cơ cấu tăng

trưởng theo ngành được xem xét nhiều nhất. Bên cạnh đó, các ngành kinh tế cũng

không tồn tại một cách độc lập mà có tác động qua lại lẫn nhau trong nền kinh tế tổng

thể tạo thành cấu trúc tăng trưởng theo ngành. Nhìn từ góc độ này, tăng trưởng của mỗi ngành kinh tế cũng tác động đến giảm nghèo theo các kênh tác động chung và

riêng của từng ngành. Dựa trên tổng quan những nghiên cứu lý thuyết, những nghiên

cứu thực nghiệm trong và ngoài nước, rõ ràng vẫn còn tồn tại nhiều khoảng trống

nghiên cứu về tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến nghèo đói. Luận án sẽ

đi sâu nghiên cứu một số khía cạnh của khoảng trống nghiên cứu như sau:

- Xây dựng khung lý thuyết cho phân tích tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến nghèo đói. Từ đó xác định các kênh tác động của tăng trưởng kinh tế

theo ngành đến giảm nghèo.

- Phân tính định tính và định lượng cho các kênh tác động của tăng trưởng

kinh tế theo ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn 2010- 2016.

- Xác định một số nguyên nhân cơ bản của những hạn chế và đề xuất một số hàm ý chính sách cơ bản trong gắn kết tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo

ở Việt Nam giai đoạn 2010- 2016.

22

CHƢƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ THEO NGÀNH ĐẾN GIẢM NGHÈO

2.1. Một số vấn đề lý luận về tăng trƣởng kinh tế theo ngành và giảm nghèo

2.1.1. Một số vấn đề lý luận về tăng trưởng kinh tế theo ngành

2.1.1.1. Khái niệm

Tăng trưởng kinh tế luôn là vấn đề cốt lõi trong nghiên cứu kinh tế và là một

trong những mục tiêu hàng đầu trong quá trình phát triển kinh tế thực tiễn ở mọi quốc

gia. Khái niệm tăng trưởng kinh tế lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” năm 1776 của nhà kinh tế học Adam Smith. Theo thời gian, cách hiểu về

tăng trưởng cũng thay đổi và dần được mở rộng theo thời gian tùy thuộc vào bối cảnh

kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn. Cho đến nay, khái niệm tăng trưởng kinh tế dần

được hoàn thiện, được xem xét và đánh giá dưới nhiều góc độ.

Với rất nhiều khái niệm tăng trưởng được nêu ra, nhìn chung các khái niệm đều

thể hiện một tính chất và quan niệm chung về tăng trường như sau: Tăng trưởng kinh

tế được hiểu là sự gia tăng về quy mô, khối lượng hàng hoá và dịch vụ được tạo ra

trong nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. Sự gia tăng quy mô, khối

lượng này thường được tính toán thông qua sự gia tăng về thu nhập cho toàn bộ nền

kinh tế. Các chỉ tiêu đo lường về thu nhập thường được sử dụng bao gồm: tổng giá trị

sản xuất (GO); tổng sản phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng thu nhập quốc dân (GNI).

Với quy mô nghiên cứu cho toàn bộ nền kinh tế quốc gia thì chỉ tiêu GDP thường

được sử dụng phổ biến nhất. Như vậy, khái niệm tăng trưởng kinh tế phản ánh sự thay

đổi về lượng của nền kinh tế.

Để có tăng trưởng kinh tế và duy trì tăng trưởng thì cần cân đối các mục tiêu kinh

tế - xã hội khác và điều chỉnh tăng trưởng hợp lý ngay từ trong ngắn hạn. Đánh giá tăng trưởng chỉ qua quy mô và khối lượng sẽ không đầy đủ và có thể dẫn tới những chiến lược chỉ hướng tới mục tiêu tăng trưởng qua quy mô và bỏ qua mọi mục tiêu khác trong xã hội. Với mục tiêu đạt được là thành tựu và cả duy trì thành tựu tăng trưởng trong dài hạn, các nghiên cứu về tăng trưởng cho đến nay đều thống nhất rằng cần mở rộng hơn khái niệm về tăng trưởng kinh tế. Do vậy, hiện nay khái niệm về chất lượng tăng trưởng được đề cập nhằm mục tiêu nghiên cứu về tăng trưởng một cách toàn diện hơn. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều cách hiểu khác nhau xoay quanh khái niệm này.

Theo nghĩa hẹp, chất lượng tăng trưởng bị giới hạn bởi việc xem xét một khía

23

cạnh nào đó như chất lượng đầu tư, chất lượng dịch vụ… Ngoài mặt lượng trong khái

niệm tăng trưởng, thì khía cạnh về chất của tăng trưởng đang được nghiên cứu và hoàn thiện qua rất nhiều minh chứng thực tế và lý luận. Mặt chất của tăng trưởng thể hiện

qua quá trình sử dụng nguồn lực và những giá trị đã hy sinh cho tăng trưởng có đáng

được “đánh đổi” không so với những giá trị đạt được. Tuy rằng chưa có một khái niệm thống nhất về chất lượng tăng trưởng, nhưng quan niệm về chất lượng tăng trưởng

được sử dụng khá phổ biến được đưa ra trong nghiên cứu của Vinod (2000) như sau:

chất lượng tăng trưởng được thể hiện tốc độ tăng trưởng cao và được duy trì trong dài

hạn, kết quả của tăng trưởng đóng góp cho việc cải thiện một cách bền vững phúc lợi xã hôi, thành quả của tăng trưởng cần được phân phối nhằm xóa đói giảm nghèo. Bản

thân hai khía cạnh trên cũng được nhiều nghiên cứu đề cập dưới rất nhiều góc độ khác

nhau. Từ mỗi góc độ, các nhà kinh tế lại đưa ra các quan điểm về những vấn đề cụ thể

trong “chất lượng tăng trưởng kinh tế” với những điểm khác biệt.

Đánh giá những đóng góp của từng thành phần vào tăng trưởng kinh tế, tùy

theo các tiêu chí khác nhau mà tăng trưởng kinh tế chung có thể được phân tách thành

các bộ phần khác nhau. Có rất nhiều cách thức đánh giá tăng trưởng kinh tế theo các

loại cơ cấu khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu. Tuy nhiên, trong các loại

hình cơ cấu kinh tế thì cơ cấu ngành được coi là loại hình cơ cấu phản ánh xác thực

nhất trình độ phát triển của một nền kinh tế. Do vậy, đi sâu hơn vào tăng trưởng kinh

tế tổng thể, cấu trúc tăng trưởng kinh tế xem xét dưới góc độ các ngành sẽ phản ánh

chính xác hơn tình trạng, tính chất và triển vọng của tăng trưởng kinh tế trong tương

lai. Cơ cấu ngành được hình thành do trình độ phân công lao động xã hội trong nền

kinh tế và do tính chất của lực lượng sản xuất.

Theo góc độ tổng quát, nền kinh tế cần được xem xét thông qua ba nhóm ngành

lớn: công nghiệp, nông nghiệp (bao gồm cả nông- lâm- ngư nghiệp) và thương mại-

dịch vụ. Phân công lao động xã hội sâu sắc hơn thì từ những ngành cấp I sẽ hình thành các nhóm ngành nhỏ hơn- những ngành cấp II. Cơ cấu ngành được nghiên cứu dựa trên hai góc độ: (1) quy mô và tốc độ tăng trưởng của từng ngành và (2) mối tương quan qua lại giữa các ngành thông qua tỷ lệ đóng góp của các ngành trong tổng thể và

tương tác giữa chúng. Kết quả của tăng trưởng sẽ phụ thuộc vào kết quả tăng trưởng của các ngành kinh tế. Quy mô và tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng đóng góp của từng ngành chính là biểu hiện về mặt lượng của tăng trưởng của ngành đó và thể hiện vai trò của từng ngành trong tăng trưởng kinh tế chung. “Phân tích sự tương quan trong tốc độ tăng trưởng giữa các ngành với nhau, mức độ và xu thế đóng góp của từng ngành vào tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế và tác động của nó đến xu hướng

24

chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế lại chính là xem xét mặt chất lượng tăng trưởng”

(Ngô Thắng Lợi và Trần Thị Vân Hoa, 2016).

2.1.1.2. Chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trong nước (GDP): Là tổng giá trị mới của hàng hóa và dịch vụ

được tạo ra trong nền kinh tế, do kết quả của hoạt động sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định. Có ba cách đo lường tổng sản phẩm trong nước: phương pháp chi tiêu,

phương pháp thu nhập hoặc phương pháp giá trị gia tăng.

Tổng thu nhập quốc gia (GNI): Là tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ do công dân

một nước tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này phản ánh tổng thu

nhập lần đầu được tạo ra từ các yếu tố thuộc sở hữu quốc gia, và không phân biệt giá

trị được tạo ra trên lãnh thổ quốc gia hay ở nước ngoài. Giá trị tổng thu nhập quốc gia

được tính bằng tổng sản phẩm trong nước cộng với thu nhập tài sản ròng (chênh lệch

giữa thu nhập của người Việt Nam ở nước ngoài gửi về và thu nhập của người nước

ngoài ở Việt Nam gửi ra nước ngoài, cộng thêm chênh lệch giữa thu nhập sở hữu nhận

được từ nước ngoài với thu nhập sở hữu trả cho nước ngoài).

Ngoài nhóm chỉ tiêu đo lường quy mô, khối lượng tuyệt đối thì tăng trưởng

kinh tế còn được phản ánh thông qua các chỉ tiêu đo lường sự thay đổi tương đối. Tăng

trưởng kinh tế được tính theo công thức tăng trưởng chung như sau:

trong đó:

gt là tốc độ tăng trưởng trong thời kỳ t.

Yt và Yt-1 là GDP thực tế trong thời kỳ t và (t-1) tương ứng.

Tuy nhiên, chỉ đo lường về quy mô tăng trưởng sẽ không phản ánh được rõ bản chất của tăng trưởng nếu không tính đến sự gia tăng của quy mô dân số. Do vậy, để đánh giá chính xác hơn và có tính đến yếu tố dân số thì các chỉ tiêu bình quân đầu người thường được sử dụng như công thức sau.

t là tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người trong thời kỳ t,

Trong đó:

gpc

thông thường tính cho một năm.

Yt và yt-1 là GDP thực tế bình quân đầu người trong thời kỳ t và (t-1) tương ứng.

25

Tương tự công thức tính tốc độ tăng trưởng kinh tế chung, tốc độ tăng trưởng

kinh tế của từng ngành tính theo công thức sau:

gi t là tốc độ tăng trưởng của ngành i trong thời kỳ t.

Yi t và Yi t-1 là GDP thực tế của ngành i trong thời kỳ t và (t-1) tương ứng.

Ngoài các nhóm chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng về mặt lượng, tăng trưởng kinh tế còn được đo lường bằng các chỉ tiêu về mặt chất lượng như chuyển dịch cơ cấu kinh tế

có phù hợp với mức độ phát triển từng thời kỳ của nền kinh tế, việc sử dụng lao động,

sử dụng vốn có hiệu quả hay mức sống dân cư có được cải thiện cùng với mức độ tăng

tiến dần của tăng trưởng kinh tế, môi trường sinh thái không bị ô nhiễm và cạn kiệt.

Chất lượng của tăng trưởng thường được đo lường qua một số chỉ tiêu phản ánh hiệu

quả sử dụng các nhân tố đầu vào như vốn (hệ số ICOR), năng suất lao động và hiệu

quả sử dụng lao động. Một nền kinh tế tăng trưởng tích cực sẽ được thể hiện thông qua

các chỉ số tăng dần về quy mô, tốc độ và nâng cao về hiệu quả các nhân tố đầu vào và

thể hiện quá trình dịch chuyển tiến bộ trong cơ cấu tăng trưởng.

2.1.2. Một số vấn đề lý luận về giảm nghèo

2.1.2.1. Khái niệm

Nghèo đói luôn là vấn đề được các quốc gia quan tâm, tuy nhiên khái niệm thế

nào là nghèo đói và tính toán đo lường nghèo đói lại chưa có một khái niệm thống nhất

trên thế giới. Nguyên nhân cơ bản là do nghèo đói phụ thuộc vào điều kiện phát triển

kinh tế - xã hội và định hướng, mục tiêu xoá đói giảm nghèo của từng quốc gia. Hơn

nữa, khi nền kinh tế-xã hội phát triển ở các trình độ khác nhau thì bản thân khái niệm

nghèo đói cũng cần phải thay đổi để phản ánh được đời sống cư dân trong giai đoạn đó.

Về cơ bản, nghèo đói được hiểu là “Tình trạng một nhóm người trong xã hội không được đáp ứng những nhu cầu tối thiểu cần thiết mà những nhu cầu này được xã

hội thừa nhận, tùy theo điều kiện kinh tế-xã hội và phong tục tập quán địa phương” (Hội nghị về chống đói nghèo khu vực Châu Á-Thái Bình Dương, 1993). Từ cách hiểu chung nhất thì nghèo đói được đánh giá qua các mặt bao gồm không gian và thời gian, giới và môi trường, hai khái niệm về đói nghèo mà Uỷ ban kinh tế và xã hội của Liên hợp quốc về châu Á và Thái Bình Dương (ESCAP) đưa ra như sau:

- Nghèo tuyệt đối được hiểu là tình trạng một bộ phận dân cư không được thụ

26

hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu (bao gồm nhu cầu ăn, mặc, ở, giao tiếp xã hội,

vệ sinh, y tế và giáo dục và bao gồm cả quyền của cá nhân trong việc tham gia vào việc ra quyết định trong hoạt động cộng đồng). Với ý nghĩa trên, nghèo khổ tuyệt đối

thường được dựa trên việc xác định mức thu nhập tối thiểu cần thiết để đảm bảo cho

những nhu cầu vật chất cơ bản trên. Mức thu nhập này sẽ khác nhau và có thể thay đổi theo thời gian, theo địa phương, theo vùng. Do vậy, các chỉ tiêu đo lường nghèo khổ

tuyệt đối phụ thuộc nhiều vào các điều kiện tự nhiên, kinh tế khác nhau và nghèo đói

tuyệt đối luôn được đo lường dựa trên những chuẩn nghèo cụ thể thông qua việc đo

lường chi tiêu hoặc thu nhập.

Nghèo tương đối được hiểu như một hiện tượng tâm lý xã hội khi một bộ phận

dân cư sống dưới mức tiêu chuẩn, trong những địa điểm và thời gian xác định. Nghèo

tương đối có thể được xem như việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và

phi vật chất cho những người thuộc một tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc

của xã hội đó. Như vậy, nghèo khổ tương đối không có thước đo cụ thể đẻ xác định.

Nghèo khổ tương đối được xem xét trong các tương quan xã hội tại một địa phương

trong một thời điểm nào đó. Nghèo khổ tương đối bị tác động bởi bất bình đẳng trong

thu nhập của một bộ phận dân cư so với mức sống trung bình của nơi đó.

Những khái niệm về nghèo đói kể trên mới chỉ để cập đến một vài khía cạnh

nào đó của đời sống người nghèo, và các chỉ tiêu đo lường còn chưa toàn diện và thực

tiễn. Cho đến nay, không có một định nghĩa duy nhất về nghèo nhưng hầu hết các quan

điểm và khái niệm xoay quanh nghèo đói đều có những đặc điểm chung về bản chất.

Các quan điểm đều nhìn nhận nghèo là tình trạng con người thiếu hụt những nhu cầu

như sau: thu nhập, cơ hội tạo ra thu nhập, khả năng đảm bảo tiêu dùng để thoả mãn những nhu cầu cơ bản, ít hoặc hầu như không được tham gia vào các quá trình ra quyết

định của cộng đồng... Mỗi quốc gia hoặc vùng/ miền trong một quốc gia có thể xác

định nghèo đói khác nhau, nhưng sự khác biệt cơ bản nằm ở chỗ xác định mức độ của cư dân nơi đó thỏa mãn nhu cầu ở mức cao hay thấp. Do vậy, việc phân định đối tượng nghèo chỉ mang tính chất tương đối và phụ thuộc điều kiện cụ thể của địa phương.

Quan niệm về nghèo đói ở Việt Nam cũng khá phong phú và dần thay đổi gần hơn với khái niệm về nghèo đói của thế giới. Việt Nam sử dụng khái niệm nghèo do Hội nghị về chống đói nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Cốc, Thái Lan tháng 9/1993: “Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đó được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của địa phương”. Từ khái niệm chung về nghèo, nghèo lại được hiểu theo nghĩa

27

nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối như trên đã trình bày.

Theo đó, hộ nghèo là những hộ gia đình thiếu ăn từ 3 tháng trở lên trong năm, nợ sản lượng khoán, nợ thuế triền miên, vay nặng lãi, trẻ em không có điều kiện đến

trường (mù chữ hoặc bỏ học)....Từ đó khái niệm xã nghèo được xác định là xã có tỷ lệ

nghèo lớn hơn 40%, cơ sở hạ tầng không đủ phục vụ nhu cầu người dân. Khái niệm vùng nghèo được xác định là khu vực có nhiều yếu tố khó khăn, bất lợi cho phát triển

xã hội và có mức sống thấp hơn so với mức chung của cả nước trong cùng thời điểm

xem xét.

Ngoài các khái niệm khá phổ biến và được sử dụng ở Việt Nam về nghèo đói

nói trên, hiện nay vấn đề nghèo đa chiều đang được nghiên cứu và đánh giá sẽ giúp ích

cho mục tiêu xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam có hiệu quả hơn. Khái niệm nghèo đa

chiều được các nhà nghiên cứu và thế giới nghiên cứu nhưng đến năm 2013 mới được

đề cập chính thức trong chiến lược và các nghiên cứu về nghèo đói chính thức ở Việt

Nam. Để nghiên cứu một cách toàn diện về nghèo đói thì nghèo đa chiều đo lường

được nhiều mặt và toàn diện hơn, cung cấp một cái nhìn đầy đủ hơn về tình trạng

nghèo đói của cá nhân hoặc hộ gia đình. Đời sống con người không chỉ cần được đáp

ứng về thu nhập mà còn nhiều nhu cầu vật chất và phi vật chất khác, những nhu cầu

này có thể vì nhiều nguyên nhân mà không được phản ánh thông qua thu nhập.

Như vậy, “để đo lường nghèo đói, có thể là một chỉ số không liên quan đến mức

thu nhập mà bao gồm các khía cạnh khác liên quan đến sự thiếu hụt các dịch vụ xã hội

cơ bản” (Oxfam và ActionAid, 2010). Sau nhiều nghiên cứu thực nghiệm, chỉ số

nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index- MPI) được xây dựng về cơ bản trên

ba chiều cạnh chính là: y tế, giáo dục và điều kiện sống.

Nghèo đa chiều được xây dựng qua thang đo bằng tiêu chí thu nhập và các tiêu

2.1.2.2. Các chỉ tiêu đo lường nghèo đói

Tỷ lệ hộ nghèo

chí phi thu nhập. Hiện nay Bộ Lao động đang đề xuất xây dựng bộ tiêu chí nghèo đa chiều, đồng thời rà soát cơ chế, chính sách nhằm thực hiện giảm nghèo theo hướng đa chiều ở Việt Nam. Các thước đo cụ thể hơn về nghèo đa chiều sẽ được trình bày và lý giải rõ hơn trong phần sau.

Tỷ lệ hộ nghèo là phần trăm hộ dân cư có mức thu nhập thực tế bình quân đầu người thấp hơn chuẩn nghèo trong năm xác định trong tổng số hộ dân cư. Chuẩn nghèo là số tiền đảm bảo mức tiêu dùng thiết yếu (bao gồm cả lương thực thực phẩm

28

và phi lương thực thực phẩm) cho 1 người trong 1 tháng. Những hộ dân cư có thu nhập

bình quân đầu người dưới chuẩn nghèo là hộ nghèo. Thu nhập thực tế là thu nhập hiện hành của hộ dân cư tại thời gian điều tra sau khi đã loại trừ ảnh hưởng của giá cả theo

thời gian (theo tháng) và không gian (theo thành thị, nông thôn các vùng).

Công thức tính: P0 =

Trong đó: P0 là tỷ lệ hộ nghèo, Np là số lượng hộ sống dưới chuẩn nghèo, N là

tổng số hộ dân cư.

Hoặc công thức có thể được viết dưới dạng:

Trong đó: I lấy giá trị là 1 nếu điều kiện của hàm số được thỏa mãn và bằng 0

nếu điều kiện không được thỏa mãn. Nếu thu nhập hoặc chi tiêu yi nhỏ hơn chuẩn

nghèo z thì hộ gia đình này được tính là hộ nghèo và I nhận giá trị là 1 và ngược lại.

Tỷ lệ hộ nghèo là chỉ số đơn giản nhất để đo lường nghèo đói, tuy nhiên đo

lường nghèo đói qua tỷ lệ nghèo có một số nhược điểm sau:

(1) Chỉ số này không phản ánh được tình trạng thực sự của nghèo đói. Chỉ số

này chỉ phản ánh qua tỷ lệ và không phản ánh chính xác số lượng cư dân đang sống

dưới chuẩn nghèo.

(2) Chỉ số này không phản ánh được mức độ tập trung của tình trạng nghèo đói.

Nếu như số lượng người nghèo chủ yếu phân bố trong nhóm thu nhập thấp nhất thì

tình trạng nghèo đói trong bối cảnh này trầm trọng hơn. Tuy nhiên tỷ lệ người nghèo không phản ánh cụ thể được thực trạng phân bổ/ tập trung của người nghèo. Do vậy, nếu chính sách giảm nghèo hướng tới việc giảm nghèo cho đối tượng nằm sát dưới chuẩn nghèo thì tỷ lệ người nghèo giảm nhanh chóng, nhưng vấn đề cơ bản của nghèo

đói lại chưa giải quyết được vì đa số người nghèo lại nằm dưới, rất xa chuẩn nghèo.

(3) Tỷ lệ nghèo đói được tính theo hộ gia đình sẽ có những bất cập nhất định do tỷ lệ hộ nghèo và tỷ lệ người nghèo trên thực tế sẽ có sự khác biệt. Và thực trạng nghèo của cá nhân cũng khác biệt so với tình trạng nghèo của hộ gia đình. Chính sách giảm nghèo của Chính phủ lại hướng vào việc hỗ trợ chung cho hộ gia đình. Do vậy,

phúc lợi từ chính sách giảm nghèo có thể sẽ không hoàn toàn đến đúng với các đối

tượng người nghèo cần trợ giúp. Điều này cũng sẽ tác động làm giảm hiệu quả của

29

Chỉ số khoảng cách nghèo:

chính sách giảm nghèo.

Công thức tính:

Trong đó: Gi là khoảng cách nghèo, z là chuẩn nghèo, yi là thu nhập thực tế của

người hoặc hộ thứ i.

Chỉ số khoảng cách nghèo đo bằng tỷ lệ phần trăm bình quân của khoảng cách về thu nhập của những người hoặc hộ nằm dưới chuẩn nghèo so với tổng dân số. Chỉ

số này khá phù hợp khi tính toán đến chi phí xóa đói giảm nghèo nhằm hỗ trợ cho

những hộ nằm dưới chuẩn nghèo vì chỉ số này đo được khoản giá trị chuyển giao cho

người nghèo (tính theo thu nhập hoặc chi tiêu). Chi phí tối thiểu này sẽ được sử dụng

qua việc tính tổng tất cả các khoảng cách nghèo của các hộ. Tuy nhiên, trên thực tế có

thể Chính Phủ sẽ phải chi những khoản lớn hơn rất nhiều so với việc tính toán qua

thước đo này.

Chỉ số khoảng cách nghèo trên thực tế cũng không phải chỉ số hoàn hảo, vì

không phản ánh được tương quan thu nhập giữa các nhóm dân cư sống dưới chuẩn

nghèo. Do đó, tính nghiêm trọng của tình trạng nghèo đói không được phản ánh rõ rệt

Chỉ số khoảng cách nghèo bình phương

qua chỉ số này.

Công thức tính:

Chỉ số khoảng cách nghèo bình phương được đưa ra nhằm giảm bớt những hạn chế của chỉ số khoảng cách nghèo. Nếu như chỉ số khoảng cách nghèo đặt trọng số

như nhau cho mọi cá nhân hoặc các hộ gia đình trong xã hội thì chỉ số khoảng cách nghèo bình phương sẽ đặt trọng số lớn hơn cho các cá nhân có thu nhập thấp hơn, nằm cách xa bên dưới chuẩn nghèo. Tuy nhiên, chỉ số này ít được sử dụng vì thiếu trực

quan và khó giải thích về mặt thực tiễn. Tổng quát của ý tưởng này, thước đo do ba nhà nghiên cứu Foster-Greer-Thorberke được đưa ra trong nghiên cứu năm 1984:

Công thức tính:

30

Điểm khác biệt của chỉ số tổng quát này chính là việc lựa chọn trọng số trong

cách tính toán. Việc lựa chọn trọng số dẫn đến nhược điểm của chỉ số này là khá cảm tính và chủ quan. Sẽ có những nhóm rơi vào tình trạng tỷ lệ khoảng cách với chuẩn

nghèo cao nhưng khoảng cách nghèo lại thấp nếu như nhiều thành viên trong nhóm

Chỉ số Sen:

này sống sát dưới chuẩn nghèo, và ngược lại.

Công thức tính:

Trong đó, Po là tỷ lệ người nghèo, là thu nhập bình quân của người nghèo,

GP là hệ số Gini đo lường bất bình đẳng (Gini có giá trị từ 0 đến 1).

Sen (1976) đưa ra chỉ số nhằm kết hợp giữa việc đo lường số lượng nghèo

nghèo, kết hợp với mức độ trầm trọng của nghèo đói và mức độ bất bình đẳng trong

phân phối thu nhập giữa những nhóm người nghèo. Chỉ số Sen được nghiên cứu và

trao đổi khá nhiều nhưng ít được sử dụng vì tính phức tạp và thiếu trực quan. Chỉ số

này còn được điều chỉnh để tính toán theo công thức sau bổ sung thành chỉ số Sen-

Sorrocks-Thon:

Chỉ số Watt:

Công thức tính:

Công thức tính:

Trong đó: W là chỉ số Watt, N là tổng dân số, q là tổng số người hoặc hộ có thu

nhập dưới chuẩn nghèo, yi là thu nhập thực tế của cá nhân hoặc hộ, z là chuẩn nghèo.

Chỉ số này được đưa ra vào năm 1968 theo nghiên cứu của Watts. Chỉ số này đáp ứng được nhiều yêu cầu về mặt lý thuyết khi sử dụng để đo lường nghèo đói. Tuy

nhiên, chính vì sự tích hợp phức tạp trong công thức tính toán khiến chỉ số này lại

31

2.1.2.3. Đo lường nghèo đói của Việt Nam

Chuẩn nghèo chung

không mấy phổ biến trên thực tiễn.

Cách phổ biến nhất xác định ngưỡng nghèo là dựa vào thu nhập của hộ gia

đình. Theo tiêu chí này, các hộ gia đình sẽ được xếp vào diện nghèo nếu mức thu nhập bình quân đầu người của họ dưới mức chuẩn nhất định nào đó. Chuẩn này có thể được

quy định khác nhau giữa khu vực thành thị, nông thôn và miền núi hải đảo do những

đặc điểm riêng về kinh tế - xã hội.

Chuẩn nghèo của Tổng cục thống kê dựa trên cả khía cạnh thu nhập lẫn chi tiêu

theo đầu người. Hai chuẩn nghèo được xác định như sau:

- Chuẩn nghèo xác định theo mức lương thực, thực phẩm: Được tính toán dựa

trên số tiền cần thiết để mua một số lượng lương thực và thực phẩm đảm bảo lương

kalory bình quân cần tiêu dùng trong ngày (2.100 kalo/người/ngày).

Nếu các cá nhân tiêu dùng trong ngày dưới mức năng lượng bình quân trên thì

bị coi là người nghèo về lương thực thực phẩm.

- Chuẩn nghèo chung: Được xác định bằng cách lấy tổng của mức chuẩn nghèo

về lương thực, thực phẩm cộng thêm chi phí cho các mặt hàng cơ bản phục vụ đời

sống con người nhưng là hàng hóa phi lương thực, thực phẩm.

Bảng 2.1: Chuẩn nghèo ở Việt Nam từng giai đoạn

Nông thôn Thành thị Giai đoạn Hộ

Đói 8 kg 13 kg 1993-1995 Nghèo 15 kg 20 kg

Đói 13 kg 13 kg

Miền núi, hải đảo:

1995-1997 Nghèo 25 kg / 60.000 đồng

Đói 15 kg/ 60.000 đồng Đồng bằng, trung du: 20 kg/ 80.000 đồng 13 kg 13 kg

Miền núi, hải đảo:

Nghèo

1997-2000 (Công văn số 1571/LĐTBXH ngày 20/05/1997) 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng/người/tháng) 15 kg/ 55.000 đồng Đồng bằng, trung du: 20 kg/ 70.000 đồng

Nguồn: Tổng hợp từ Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động, Thương binh và Xã Hội

Kể từ sau 2000 tình trạng đói ở Việt Nam được xóa bỏ, chỉ tồn tại tình trạng

32

nghèo và Tổng cục Thống kê đã đưa ra phương pháp đo lường nghèo như sau:

Dựa trên phương pháp này, chuẩn nghèo về lương thực, thực phẩm và chuẩn nghèo chung ở Việt Nam sau khi xóa bỏ tình trạng hộ đói được tính cụ thể như bảng

sau đây.

Bảng 2.2: Chuẩn nghèo ở Việt Nam qua các năm và theo khu vực

Đơn vị: nghìn đồng

Thành thị Nông thôn

2002 150 100

2004 218 168

2006 260 200

2008 370 290

2010 450 360

2011-2015 500 400

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Ngoài khái niệm chung về nghèo đói thì nghèo đói đa chiều đang là vấn đề

ngày càng được quan tâm. Khái niệm nghèo đói đa chiều không mới, được đưa ra từ

năm 1997 trong Báo cáo phát triển con người của UNDP với ý nghĩa rộng hơn và đo

lường thông qua nhiều khía cạnh xung quanh đời sống con người hơn so với các khái

Chuẩn nghèo đói đa chiều

niệm nghèo đói đang được nghiên cứu phổ biến hiện nay.

Tuy nhiên, để đo lường nghèo đói đa chiều thì Việt Nam cũng đang vướng mắc phải một số khó khăn do cách tiếp cận khái niệm nghèo đa chiều còn khá mới mẻ, và khái niệm này mở rộng hơn rất nhiều so với khái niệm nghèo đơn chiều mà Việt Nam sử dụng hiện nay. Để chuyển đổi cách hiểu cũng như cách đo lường và phân tích

nghèo cần có thời gian để đo lường, phân tích và đánh giá thích ứng.

33

Bảng 2.3. Tiêu chí xác định nghèo đa chiều ở Việt Nam

Mức độ thiếu hụt

Cơ sở pháp lý

Chiều nghèo

Chỉ số đo lƣờng

Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên đủ 15 tuổi sinh từ năm 1986 trở lại không tốt nghiệp trung học cơ sở và hiện không đi học

1.1 Trình độ giáo dục của ngƣời lớn

1) Giáo dục

Hộ gia đình có ít nhất 1 trẻ em trong độ tuổi đi học (5 - 14 tuổi) hiện không đi học

1.2 Tình trạng đi học của trẻ em

Hiến pháp 2013 NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020. Nghị quyết số 41/2000/QH (bổ sung bởi Nghị định số 88/2001/NĐ-CP) Hiến pháp 2013. Luật Giáo dục 2005. Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020.

Hiến pháp 2013. Luật Khám chữa bệnh 2011.

2.1 Tiếp cận các dịch vụ y tế

Hộ gia đình có người bị ốm đau nhưng không đi khám chữa bệnh (ốm đau được xác định là bị bệnh/ chấn thương nặng đến mức phải nằm một chỗ và phải có người chăm sóc tại giường hoặc nghỉ việc/học không tham gia được các hoạt động bình thường)

2) Y tế

Hộ gia đình có ít nhất 1 thành viên từ 6 tuổi trở lên hiện tại không có bảo hiểm y tế

2.2 Bảo hiểm y tế

3.1. Chất lƣợng nhà ở

Hộ gia đình đang ở trong nhà thiếu kiên cố hoặc nhà đơn sơ (Nhà ở chia thành 4 cấp độ: nhà kiên cố, bán kiên cố, nhà thiếu kiên cố, nhà đơn sơ)

3) Nhà ở

Diện tích nhà ở bình quân đầu người của hộ gia đình nhỏ hơn 8m2

3.2 Diện tích nhà ở bình quân đầu ngƣời

Hộ gia đình không được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh

4.1 Nguồn nƣớc sinh hoạt

4) Điều kiện sống

Hộ gia đình không sử dụng hố xí/nhà tiêu hợp vệ sinh

4.2. Nhà vệ sinh

Hộ gia đình không có thành viên nào sử dụng thuê bao điện thoại và internet

5.1 Sử dụng dịch vụ viễn thông

5) Tiếp cận thông tin

Hộ gia đình không có tài sản nào trong số các tài sản: Tivi, đài, máy vi tính; và không nghe được hệ thống loa đài truyền thanh xã/thôn

5.2 Tài sản phục vụ tiếp cận thông tin

Hiến pháp 2013. Luật bảo hiểm y tế 2014. NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020. Luật Nhà ở 2014. NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020. Luật Nhà ở 2014. Quyết định 2127/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020. NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020. Luật Viễn thông 2009. NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020. Luật Thông tin Truyền thông 2015. NQ 15/NQ-TW Một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012- 2020.

Nguồn: Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, 2015

34

Như vậy, theo tiêu chí mới, một gia đình được coi là hộ nghèo nghiêm trọng

nếu hộ đó thiếu từ 1/2 tổng số nhu cầu cơ bản trở lên. Vấn đề cơ bản của nghèo đa chiều là được tiếp cận qua việc đo lường các chiều thiếu hụt, và so sánh với chuẩn đã

được đưa ra. Trên thực tế, việc xác định nghèo đa chiều là rất phức tạp.

Tiếp cận đo lường nghèo đa chiều, khái niệm hộ nghèo sẽ khác về nội dung so với xác định chuẩn nghèo thu nhập như hiện nay. Trong bối cảnh đó, các chính sách

giảm nghèo và tiêu chí đánh giá nghèo vẫn chủ yếu dựa trên tiêu chí phân loại hộ

nghèo theo thu nhập và chi tiêu. Dựa trên bảng về hệ thống chỉ tiêu để đo lường nghèo

đói đa chiều, có thể thấy rằng việc xác định các chiều nghèo, chỉ số đo lường,…cần phải có sự bổ sung, cập nhật và đo lường nghèo phức tạp hơn rất nhiều so với trước

đây. Hiện nay các số liệu này vẫn còn chưa đầy đủ và số lượng và chất lượng nên hiện

nay đánh giá nghèo đa chiều của Việt Nam vẫn chưa thể thực hiện đúng như ý nghĩa

của khái niệm nghèo đa chiều đưa ra. Trong giới hạn của nghiên cứu và giới hạn về

các số liệu về nghèo đói hiện nay, bài viết sẽ chỉ đánh giá nghèo đói thông qua tiêu chí

truyền thống là qua thu nhập/ chi tiêu và một phần nào đó về các tiêu chí phi thu nhập

nhưng phản ảnh chất lượng cuộc sống của người nghèo. Với góc nhìn đó, phần nào

của khái niệm nghèo đói đa chiều cũng sẽ được nghiên cứu và làm rõ.

2.2. Tác động của tăng trƣởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo

Tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành tới giảm nghèo được thể hiện

thông qua những kênh cơ bản sau đây.

2.2.1. Tăng trưởng kinh tế theo ngành tác động đến giảm nghèo qua tạo việc làm

Có rất nhiều cách phân loại về việc làm cũng như phân loại về tình trạng thất

nghiệp trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong giới hạn nghiên cứu của luận án, việc làm

được hiểu là những hoạt động lao động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm.

Tăng trưởng kinh tế được duy trì trước hết sẽ tạo ra nhiều cơ hội việc làm hơn cho người lao động. Trên cơ sở đó sẽ khiến thu nhập gia tăng, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư và góp phần giảm nghèo. Tác động của việc mở rộng việc làm ở các ngành có tác động đến giảm nghèo cũng được khẳng định qua nhiều nghiên cứu lý

thuyết thực nghiệm (Karnani, 2011; Puyana, 2011; Page và Shimeles, 2014)

Đối với khu vực nông nghiệp, việc tăng cơ hội việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp sẽ có tác động lớn đến giảm nghèo bởi vì người nghèo chủ yếu hoạt động nông nghiệp và việc làm mang tính mùa vụ, lao động chưa qua đào tạo. Đặc điểm này thường dẫn tới khả năng tìm kiếm việc làm của người nghèo trong khu vực công nghiệp và dịch vụ khá hạn chế và khả năng cải thiện thu nhập là rất thấp. Do vậy,

35

tăng trưởng khu vực nông nghiệp trước hết sẽ tạo ra việc làm cho lao động nghèo

trong khu vực nông nghiệp, là cơ sở nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của họ. Tạo ra việc làm ngay trong khu vực nông nghiệp có thể làm giảm tình trạng thiếu việc làm

mùa vụ sẽ là cơ sở cho quá trình gia tăng thu nhập cho lao động nghèo (Oshima,

1982). Kênh việc làm và cải thiện thu nhập sẽ tạo ra thành tựu giảm nghèo hiệu quả nhất và bền vững nhất (Bresciani and Valdes, 2007). Đặc biệt, đối với các nền kinh tế

trong giai đoạn công nghiệp hóa, sự phát triển công nghệ và ứng dụng công nghệ trong

nông nghiệp lại càng thúc đẩy giảm nghèo khu vực này theo cơ chế gia tăng năng suất

và thu nhập cho người lao động nghèo ở nông nghiệp (Johnson, 2015)

Đối với khu vực công nghiệp, việc tăng trưởng việc làm trong khu vực này

cũng sẽ tạo cơ hội lao động gia tăng thu nhập. Cơ hội việc làm mở ra trong khu vực

công nghiệp sẽ có thể có tác động tích cực đến giảm nghèo ở các khu vực khác. Thậm

chí nếu tốc độ tăng trưởng của khu vực công nghiệp đủ lớn sẽ có thể thu hút cả những

lao động nghèo với mức thu nhập thấp nhất ở khu vực nông nghiệp (Lewis, 1954;

Fisher, 1939). Ngoài tác động gia tăng thu nhập trực tiếp cho lao động ngay trong khu

vực công nghiệp thì tăng trưởng công nghiệp còn tác động tới nghèo qua các mối liên

hệ trực tiếp và gián tiếp giữa các ngành. Thông qua cơ chế tạo việc làm, khu vực công

nghiệp có tác động lớn tới giảm nghèo ở cả hai khu vực nông thôn và thành thị. Cụ

thể, cơ chế tạo việc làm của khu vực công nghiệp thể hiện thông qua mối liên hệ tương

tác giữa công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế có liên quan qua việc cung

ứng sản phẩm và chuỗi phân bổ hoặc các hiệu ứng của khu vực công nghiệp tạo ra.

Khu vực công nghiệp cho thấy vai trò quan trọng trong việc thu hút lao động tay nghề

thấp và tạo ra cho họ công việc ổn định cũng như lợi ích lớn hơn (Rodrick, 2011).

Vai trò của tăng trưởng công nghiệp đối với tạo việc làm và giảm nghèo có thể

thấy trong thực tế tăng trưởng khu vực công nghiệp của các nước đang phát triển. Các

nước này hầu hết đều bắt đầu giai đoạn tăng trưởng cao bằng chiến lược đầu tư vào những ngành công nghiệp thâm dụng lao động. Lý do là khi đầu tư vào những ngành sản xuất thâm dụng lao động thì nền kinh tế có thể vận hành quá trình sản xuất trên cơ sở tận dụng lợi thế tương đối về lao động giá rẻ và số lượng lao động lớn. Ngược lại,

những ngành thâm dụng vốn đòi hỏi người lao động có kỹ năng cao sẽ khiến khả năng tạo ra việc làm thấp hơn và lao động nghèo khó kiếm được việc làm hơn. Ở các nước đang phát triển, trong giai đoạn khu vực công nghiệp tăng trưởng nhanh, thậm chí bất bình đẳng có thể được cải thiện nếu các chính sách công nghiệp tập trung vào việc gia tăng lợi ích kinh tế từ các nhóm nhân tố sản xuất mà người nghèo sở hữu (như tăng lợi ích cho người lao động không được đào tạo, chính sách tăng lợi nhuận cho vốn và đất

36

đai hay chính sách hướng tới việc điều chỉnh được vấn đề sở hữu đất đai, vốn con

người và nhân lực). Mặt khác, phân bổ máy móc công nghiệp lại tác động đến toàn bộ quá trình giảm nghèo và gia tăng bất bình đẳng. Tăng trưởng của khu vực công nghiệp

do đó còn được nhận định là một trong những nhân tố tác động lớn đến giảm nghèo, có

tác động tới giảm nghèo tại những khu vực nghèo nhất của quốc gia. Do vậy, khu vực công nghiệp đóng góp vào tăng trưởng toàn diện và tác động đến giảm nghèo một cách

bền vững.

Trong khu vực dịch vụ, mở rộng quy mô việc làm ở khu vực này có tác động

phức tạp hơn so với hai khu vực còn lại. Sự phát triển khu vực dịch vụ, trên thực tế phải được xem xét ở cả hai khu vực chính thức và phi chính thức. Trong khu vực phi

chính thức, việc làm tạm thời trong khu vực này cũng có tác động tăng thu nhập đáng

kể cho hộ nghèo tuy nhiên khu vực phi chính thức lại nằm ngoài sự quản lý của Chính

phủ. Khu vực phi chính thức hình thành do quá trình di dân từ nông thôn ra thành thị

khiến người lao động nghèo buộc phải tự tạo việc làm cho mình nhằm tồn tại được ở

thành thị. Cơ hội việc làm ở thị trường này khá dễ dàng khi tham gia thị trường này chỉ

cần lượng vốn nhỏ, không yêu cầu về chuyên môn, kỹ thuật đối với người lao động.

Lao động khi tham gia thị trường này hoàn toàn không gặp bất kỳ rào cản nào, và

ngược lại, khi lao động muốn rút lui khỏi thị trường cũng hoàn toàn tự do. Điều này

khiến thị trường này thu hút số lượng lớn lao động nghèo và việc làm cũng như thu

nhập tạo ra trên thị trường phi chính thức cũng có tác động tích cực đến giảm nghèo.

Trước tiên, thu nhập của lao động thành thị phi chính thức tăng, khiến giảm nghèo ở

thành thị. Bên cạnh đó, một phần lợi nhuận thu được thường sẽ được gửi về cho các

thành viên trong gia đình vẫn còn ở khu vực nông thôn. Tác động này cũng có ý nghĩa tích cực trong việc giảm nghèo không chỉ ở thành thị mà còn ở nông thôn.

2.2.2. Tăng trưởng kinh tế theo ngành làm gia tăng nguồn lực để giảm nghèo

Thành quả tăng trưởng kinh tế được duy trì trong dài hạn có thể tạo nguồn lực để chính phủ có khả năng hỗ trợ tốt hơn cho người nghèo. Qua đó, chính phủ có nguồn lực tốt hơn để triển khai các chương trình, hỗ trợ vật chất, tài chính ngày càng tốt hơn

cho các địa phương khó khăn phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội cơ bản. Người nghèo và cộng đồng nghèo là đối tượng thụ hưởng, nhờ đó có cơ hội vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Do đó, tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để xóa đói giảm nghèo bền vững và trên quy mô lớn. Và một nền kinh tế đạt được thành tựu ngày càng

tích cực trong tăng trưởng kinh tế, sẽ càng có tiềm lực để có thể đề xuất tăng cường hiệu quả hay mở rộng hệ thống chính sách xóa đói giảm nghèo.

37

Quá trình thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo ngành cũng thúc đẩy khai thác và

mở rộng nguồn lực như vốn, công nghệ và đất đai hiệu quả của chính bản thân người nghèo. Các nguồn lực đầu vào như vốn, công nghệ hay đất đai là đầu vào cho tăng

trưởng kinh tế, và ngược lại tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ tạo ra số nhân kích thích

tăng trưởng của vốn, tạo tiền đề cho nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ trong quản lý và sản xuất hay tạo áp lực khiến quá trình phân phối đất đai cần điều

chỉnh sao cho phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi

để người nghèo và cộng đồng nghèo tiếp cận được các phương pháp phát triển sản

xuất, kinh doanh và hưởng thụ được từ thành quả tăng trưởng.

Ngoài ra tăng trưởng của từng ngành cũng tạo ra những nguồn lực cho người

nghèo thoát nghèo. Tăng trưởng kinh tế khu vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ

nhanh sẽ tạo tiềm lực vốn và qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo tiếp cận

nguồn lực này. Người nghèo sẽ gia tăng cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn vay tiêu dùng

và vay cho đầu tư. Đặc biệt, nhóm nghèo nhất trong xã hội cũng sẽ có điều kiện tiếp cận

các nguồn vốn vay này thông qua hệ thống chính sách hỗ trợ của Chính phủ đối với hộ

nghèo. Việc mở rộng quy mô và hình thức đầu tư vốn cũng kéo theo các kênh tiếp cận

vốn cho các hộ nghèo cũng được đa dạng hóa, gia tăng khả năng thoát nghèo cho các hộ

dưới chuẩn nghèo. Từ những nguồn vốn vay tín dụng, hộ nghèo sẽ có cơ hội thoát nghèo

bền vững khi có thể sử dụng sự hỗ trợ vốn cho mục tiêu đầu tư sản xuất.

Thông qua các kênh hỗ trợ từ Chính Phủ bao gồm: hỗ trợ tài chính và hỗ trợ kỹ

thuật (bao gồm hỗ trợ về công cụ sản xuất hay phương thức sản xuất), người nghèo có

thể tiếp cận nguồn lực tốt hơn để hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững. Dựa trên

quan điểm muốn thoát nghèo thì bản thân hộ nghèo phải tự vận động, học được những phương thức sản xuất mới để có thể làm chủ hoạt động sản xuất và tự tạo ra thu nhập

cho mình. Chính phủ đóng vai trò hỗ trợ và định hướng cho các hộ nghèo từ đầu vào,

đến tiến hành hoạt động sản xuất và sàn phẩm đầu ra. Có như vậy, hộ nghèo mới có khả năng tự lực thoát nghèo. Các kênh hỗ trợ hộ nghèo tiếp cận vốn có ý nghĩa to lớn đối với các nước nghèo khi tỷ lệ tái nghèo còn cao và hiệu quả của quá trình thực hiện xóa đói giảm nghèo còn chưa ổn định. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển,

khả năng nguồn ngân sách hạn hẹp dẫn đến việc nghiên cứu và lựa chọn chính sách hỗ trợ phù hợp với từng nhóm đối tượng nghèo cần được cân nhắc để đạt được hiệu quả tối ưu.

Tăng trưởng khu vực công nghiệp nhanh kéo theo sự phát triển của khoa học công nghệ và qua đó tạo nền tảng vững chắc cho giảm nghèo. Khoa học công nghệ được coi là một trong những kênh tác động lan tỏa mạnh đến giảm nghèo từ hiệu quả

38

của tăng trưởng khu vực công nghiệp. Tăng trưởng công nghiệp thường được duy trì

và đảm bảo nhờ sự tiến bộ của khoa học công nghệ, ngược lại, tăng trưởng công nghiệp cũng đồng thời kéo theo sự cải tiến về công nghệ và làm lan tỏa công nghệ đến

các khu vực khác trong nền kinh tế. Khoa học công nghệ là nhân tố cơ bản nâng cao

năng suất lao động giải quyết nguyên nhân sâu xa dẫn tới nghèo đói. Công nghệ không những cải thiện năng suất lao động của các ngành, mà còn nâng cao chất lượng sản

phẩm hàng hóa. Đối với các nước đang phát triển, yếu tố này có ý nghĩa quyết định

trong việc cải thiện thu nhập cho các hộ gia đình hoạt động nông nghiệp. Trong bối

cảnh công nghệ còn yếu kém, đa số sản phẩm nông nghiệp của các quốc gia nghèo tồn tại dưới dạng nguyên liệu hoặc bán thành phẩm, chưa được chế biến sâu nên khó bảo

quản và giá bán thấp trên thị trường. Thực trạng này khiến thu nhập của khu vực nông

nghiệp không ổn định, ảnh hưởng lớn đến đời sống lao động nghèo. Giảm nghèo sẽ có

ý nghĩa dài hạn bởi người nghèo được cung cấp phương thức sản xuất mới với năng

suất hiệu quả cao. Trong các nguyên nhân cơ bản gây ra nghèo đói ở các nước đang

phát triển, vòng tròn nghèo đói được đưa ra bao gồm bốn vấn đề cơ bản: mức sống

thấp dẫn đến tỷ lệ tích lũy thấp; điều này dẫn tới trình độ khoa học công nghệ thấp và

dẫn tới năng suất lao động thấp. Giải pháp duy nhất thoát nghèo của các nước đang

phát triển hiện nay về cơ bản chính là nâng cao trình độ khoa học công nghệ và sử

dụng công nghệ phù hợp cho từng ngành sản xuất sao cho đem lại hiệu quả kinh tế- xã

hội tối ưu. Lịch sử phát triển của các nước công nghiệp mới- NICs là bài học thực tiễn

minh chứng cho điều này. Tuy nhiên, nếu đặt mục tiêu cải thiện tình trạng nghèo đói

bắt đầu từ công nghệ, các nước đang phát triển cũng có thể rơi vào cái bẫy nghèo đói

nếu sử dụng công nghệ không phù hợp. Đối với một nước nghèo, nguyên nhân gây ra tình trạng khó cải thiện về năng suất lao động lại có thể đến từ thực trạng rằng nền

kinh tế đó chưa thể tiếp nhận công nghệ hiện đại trong sản xuất (Aziaradis và

Starchurski, 2005). Và khác với những nước phát triển và các nước NICs, sự tiến bộ

trong khoa học công nghệ diễn ra khá chậm chạp ở các nước đang phát triển. Bên cạnh đó, việc tiếp nhận công nghệ hiện đại lại chỉ tạo ra số ít việc làm cho lao động có tay nghề và kỹ năng, đa phần người lao động nghèo sẽ bị bỏ lại trong cuộc cạnh tranh tìm

việc làm và cải thiện thu nhập. Tác động của khoa học công nghệ đến nghèo đói trên thực tế khá phức tạp và phụ thuộc nhiều vào chiến lược định hướng về công nghệ của Chính phủ trong từng khu vực. Tuy nhiên, không thể phủ nhận thực tế rằng nhờ cải thiện khoa học công nghệ trong sản xuất mà nền kinh tế mỗi quốc gia có thể duy trì

tăng trưởng trong dài hạn. Ngược lại, thành tựu của tăng trưởng kinh tế- đặc biệt tăng trưởng khu vực công nghiệp trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa- sẽ là cơ sở và động lực thúc đẩy sự tiến bộ của khoa học công nghệ.

39

Đất đai là nguồn lực quan trọng trong tăng trưởng kinh tế, do đó việc huy động,

phân bổ, sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả là một nội dung quan trọng trong chiến lược tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Nhiều nghiên cứu cũng đã chỉ ra vai trò

của nguồn lực đất đai, cũng như tính cấp thiết của việc thực hiện các chính sách cải cách

nhằm phân bổ đất đai hợp lý tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo (Besley and Burgess, 1998). Đặc biệt nguồn lực này rất cần thiết cho những hộ nghèo

dân tộc thiểu sổ, hộ nghèo cùng cực ở vùng sâu vùng xa. Tỷ lệ những hộ nghèo cùng

cực và nghèo dân tộc thiểu số khi được mở rộng diện tích đất nông nghiệp phục vụ cho

sản xuất thì tỷ lệ tái nghèo của họ rất thấp (Walle, D. and Gunewardena, 2001). Nguồn lực đất đai tham gia vào quá trình tăng trưởng kinh tế vừa với vai trò nguồn lực đầu vào

cho sản xuất, vừa đóng một phần vai trò tạo nên không gian sinh thái cho hoạt động sản

xuất. Tăng trưởng kinh tế theo ngành hợp lý sẽ tạo ra cơ chế phân bổ đất đai hợp lý thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế và góp phần tích cực cho giảm nghèo. Đặc biệt trong hoạt động

sản xuất nông nghiệp, quy hoạch và sử dụng đất nông nghiệp một cách hiệu quả luôn là

vấn đề khó khăn đối với các nền kinh tế chuyển đổi. Ngoài ra, việc tăng trưởng khu vực

công nghiệp và dịch vụ mạnh mẽ, cũng tạo sức ép cho quy hoạch và mở rộng đất phục

vụ hoạt động sản xuất cho hợp lý. Để đạt được những mục tiêu về nguồn lực đất đai kể

trên cần có thành tựu từ tăng trưởng kinh tế nông – công nghiệp, dịch vụ.

2.2.3. Tăng trưởng kinh tế theo ngành thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và tác động đến giảm nghèo

Tăng trưởng kinh tế theo ngành không tác động đến nghèo đói một cách rời rạc,

bản thân mỗi ngành lại có những tương tác nhất định với nhau. Đối với những nước đang phát triển trong giai đoạn công nghiệp hóa, những tương tác này biến đổi khá

mạnh mẽ thông qua quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, và thúc đẩy chuyển dịch lao

động từ khu vực này sang khu vực khác. Mối tương tác giữa các ngành sẽ được làm rõ

thêm qua quá trình người lao động dịch chuyển dần từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp, và từ khu vực nông thôn sang khu vực thành thị tạo ra xu hướng đô thị hóa.

Xu hướng chuyển dịch cơ cấu lao động ở các nước đang phát triển tác động rất

lớn đến nghèo đói chung, và cả nghèo đói ở từng khu vực nông thôn, thành thị. Chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp ở nông thôn sẽ có tác động giảm nghèo, nhưng chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp ở thành thị lại có thể khiến tỷ lệ nghèo đói gia tăng (Christiaensen and Todo, 2008). Quá trình chuyển dịch lao động này cũng có thể tạo ra thêm việc làm cho người nghèo, đóng góp vào quá trình giảm nghèo và giảm bất bình đẳng theo vùng và theo ngành (Dollar and Kraay, 2002). Các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm đều khá thống nhất rằng quá trình dịch

40

chuyển lao động sẽ có thể tác động đến tăng trưởng và sau đó là tác động tích cực đến

giảm nghèo thông qua một số kênh gián tiếp như giáo dục, cơ sở hạ tầng và qua sự phát triển hệ thống tài chính. Xoay quanh vấn đề dịch chuyển lao động, các nghiên cứu lý

thuyết đều xoay quanh hai hiệu ứng “kéo” và “đẩy” đối với lực lượng lao động. Giả

thuyết thứ nhất nhấn mạnh vào xu hướng tăng trưởng năng suất trong khu vực nông nghiệp sẽ tạo ra việc làm (Rostow, 1960; Matsuyama, 1991; Gollin et al. 2007; Ngai and

Pissarides, 2007). Mặt khác, quan điểm thứ hai cho rằng, tăng trưởng các ngành phi

nông nghiệp sẽ tạo ra sức hút đối với lao động nông nghiệp, khiến lao động này dịch

chuyển sang những ngành khác (Lewis, 1954; Hansen and Prescott, 2002; Vollrath, 2009a). Tuy nhiên, tác động của quá trình chuyển dịch lao động này cũng khá phức tạp,

phụ thuộc vào nhiều yếu tố như bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi nền kinh tế và

từng khu vực trong một nền kinh tế. Nếu quá trình dịch chuyển lao động không diễn ra

một cách tuần tự và nhịp nhàng thì có thể gây tác động tiêu cực đến giảm nghèo.

Dưới góc nhìn từ các ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế có những tác

động cụ thể tới người nghèo như sau.

Trong khu vực nông nghiệp, các mối tương tác này thể hiện tác động gián tiếp

của tăng trưởng nông nghiệp lên các khu vực khác của nền kinh tế thông qua các mối

tương quan mang tính giả thuyết như sau: mối liên hệ tiêu dùng và mối liên hệ năng

suất lao động (Johnston and Mellor, 1961). Trước tiên, tăng trưởng nông nghiệp sẽ dẫn

tới gia tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp, cải thiện đời sống người nghèo nói

chung. Tiếp đến, việc gia tăng thu nhập như đòn bẩy tác động đến cầu hàng hóa và

dịch vụ trong nền kinh tế. Đời sống được nâng cao khiến con người mong muốn mở

rộng sự lựa chọn, tiêu dùng nhiều hàng hóa và dịch vụ đa dạng và chất lượng tốt hơn. Cầu hàng hóa và dịch vụ khu vực khác gia tăng sẽ tạo áp lực khiến tăng trưởng hai

ngành còn lại là công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, qua mối liên hệ tiêu dùng, tăng

trưởng nông nghiệp sẽ có tác động lan tỏa tới các ngành khác tăng trưởng và gián tiếp giảm nghèo. Ngoài mối liên hệ tiêu dùng, tương tác của khu vực nông nghiệp tới các khu vực khác còn thể hiện qua mối liên hệ về năng suất lao động. Khu vực nông nghiệp nằm trong chuỗi sản xuất tổng thể của nền kinh tế nên tăng trưởng khu vực

nông nghiệp cũng khiến các ngành cung cấp đầu vào và bảo đảm đầu ra cho nông nghiệp bị tác động. Cung đầu ra của nông nghiệp được coi như đầu vào của sản xuất phi nông nghiệp, và tăng trưởng nông nghiệp làm tăng cầu đầu vào của những ngành cung cấp yếu tố đầu vào như phân bón, công nghệ sinh, hóa,….Như vậy, tăng trưởng nông nghiệp sẽ tác động tới các ngành khác qua các mối liên kết xuôi và ngược giữa các ngành khiến tăng thu nhập trong cả khu vực công nghiệp và dịch vụ.

41

Trong từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia, vai trò của ngành nông

nghiệp cũng có ít nhiều thay đổi trong mối tương quan với mục tiêu giảm nghèo (Loayza and Raddatz, 2006). Trong những ghiên cứu về tác động của tăng trưởng

khu vực nông nghiệp đến nghèo đói, một phát hiện chung của các nghiên cứu đưa

ra là khả năng giảm nghèo của khu vực nông nghiệp giảm khi quốc gia đó giàu có hơn (Christiaensen and Demery, 2007; Ligon and Sadoulet, 2008). Sự gia tăng

trong thu nhập từ những nguồn lực nông nghiệp là lý do chính dẫn tới nghèo đói

nông thôn giảm trong giai đoạn nền kinh tế kém phát triển và ngược lại trong giai

đoạn phát triển kinh tế sau này, khu vực nông nghiệp lại ít có tác động đến mục tiêu giảm nghèo hơn (Gardner, 2000). Tương tự như vậy, đối với hộ nghèo nằm trong

nhóm thập phân vị thấp nhất thì tăng trưởng nông nghiệp đóng vai trò vô cùng quan

trọng trong việc cải thiện thu nhập giúp hộ thoát nghèo, ngược lại đối với nhóm

người nghèo có thu nhập cao hơn thì tăng trưởng nông nghiệp lại ít có ý nghĩa giảm

nghèo (Ligon and Sadoulet, 2008).

Đối với khu vực công nghiệp, khu vực này đóng vai trò như động lực chính cho

quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Dịch chuyển từ hoạt động kinh tế năng suất thấp

dựa trên tăng trưởng nông nghiệp, nông thôn hay dựa trên những dịch vụ phi chính

thức sang những hoạt động kinh tế năng suất cao hơn trong khu vực công nghiệp có

thể tạo ra tác động bền vững và tích cực đến giảm nghèo. Đặc biệt, tăng trưởng và

chuyển dịch cơ cấu kinh tế bắt đầu từ những ngành công nghiệp thâm dụng lao động

thì sẽ có những tác động trực tiếp và lớn nhất đến nhóm người nghèo ở những nước

đang phát triển. Tuy nhiên, khi năng suất tăng, tác động trực tiếp của tăng trưởng qua

tạo việc làm sẽ bị hạn chế nhưng sẽ lan tỏa đến các khu vực khác thông qua các mối liên kết. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra sẽ xác định vai trò của ngành

công nghiệp đến giảm nghèo có thể sẽ rất khác nhau trong từng giai đoạn. Tại mức

GDP bình quân thấp, vai trò của khu vực công nghiệp đối với giảm nghèo sẽ được thể hiện thông qua sự tăng trưởng của những ngành công nghiệp thâm dụng lao động và khả năng tạo ra việc làm cho lao động nghèo ở những ngành này. Đối với những quốc gia thu nhập trung bình, cơ cấu ngành sẽ có xu hướng dịch chuyển từ nhóm ngành

công nghiệp thâm dụng lao động giá rẻ sang những ngành công nghiệp sử dụng lao động có trình độ cao hơn. Tại đó, hiệu quả đối với giảm nghèo qua khả năng tạo ra việc làm và nâng cao thu nhập sẽ có hiệu quả hơn so với những tác động lan tỏa. Do vậy, mục tiêu giảm nghèo gắn với chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sẽ cần phải có định hướng trong việc xây dựng kỹ năng qua công việc, đào tạo nghề một cách có bài bản và hệ thống cho lao động nghèo chưa qua đào tạo trong nền kinh tế.

42

Tuy nhiên, không phải lúc nào chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng có tác động tích

cực đến giảm nghèo. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong giai đoạn công nghiệp hóa luôn gắn liền với quá trình đô thị hóa. Trong giai đoạn đầu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế,

có thể bất bình đẳng sẽ gia tăng tác động xấu đến mục tiêu giảm nghèo. Các doanh

nghiệp thường tập trung ở khu đô thị vì nơi đó dễ dàng thu hút lao động có tay nghề, cơ sở hạ tầng tốt hơn, thị trường lớn và tiếp nhận công nghệ dễ dàng (Lanjouw, 2001).

Dịch chuyển cơ cấu ngành cũng đi kèm với chuyển dịch cơ cấu lao động tạo ra dòng di

dân từ nông thôn ra thành thị. Do vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ban đầu có thể làm

gia tăng bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị và làm gia tăng nghèo đói nếu khả năng tạo việc làm ở thành thị thấp hơn dòng di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị

(Todaro, 1970). Nhưng ngược lại, nếu chuyển dịch cơ cấu kinh tế có tác động tích cực

thúc đẩy hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn, hoặc tăng năng suất lao động khu

vực này thì sự dịch chuyển lại có thể làm giảm sự phân hóa giàu - nghèo trong xã hội.

Kết quả của việc giảm phân hóa giàu - nghèo chính là sự cải thiện đời sống cho nhóm

người nghèo nhất.

Nhìn chung, những tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành lên giảm nghèo qua

các mối liên kết là rất phức tạp. Hầu hết các nghiên cứu chưa định lượng được tác

động của các mối liên kết này nhưng kết luận chung từ các nghiên cứu định tính đưa ra

đều khẳng định vai trò không thể thiếu của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành mà chủ

đạo từ tăng trưởng khu vực công nghiệp đến giảm nghèo.

2.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến tác động của tăng trƣởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo

2.3.1. Mô hình tăng trưởng kinh tế

Theo cách tiếp cận hệ thống, mô hình tăng trưởng kinh tế bao gồm việc kết hợp và phát triển các yếu tố đầu vào, xây dựng bộ xử lý (bao gồm cơ chế, thể chế, chính sách) và đầu ra ( bao gồm các thành quả của tăng trưởng kinh tế). Mô hình kinh tế thể hiện mục tiêu cần đạt tới của quá trình tăng trưởng, phương thức thực hiện, tạo nên động lực chính của tăng trưởng kinh tế và tác động của tăng trưởng đến các đối tượng

chịu ảnh hưởng từ quá trình tăng trưởng kinh tế (Ngô Thắng Lợi và Nguyễn Quỳnh Hoa, 2017). Mô hình tăng trưởng của một quốc gia sẽ có tác động quyết định đến tiến bộ xã hội của quốc gia đó. Trong đó, xóa đói giảm nghèo được coi là một trong những mặt chính trong nhóm yếu tố phản ảnh tiến bộ xã hội. Mô hình tăng trưởng, mặt khác, cũng quyết định tới tăng trưởng kinh tế từng ngành trong quá trình phát triển. Với một mô hình tăng trưởng phù hợp và tiến bộ, tăng trưởng kinh tế theo ngành được thúc đẩy

43

và có tác động hiệu quả đến tình trạng nghèo đói. Ngược lại, với mô hình tăng trưởng

kinh tế lạc hậu và yếu kém, tăng trưởng kinh tế theo ngành sẽ bị hạn chế và sẽ có tác động tiêu cực đến giảm nghèo.

Về lý luận cũng như thực tiễn, mô hình tăng trưởng kinh tế trên thế giới có thể

lựa chọn theo đuổi ba cách thức như sau: mô hình hướng tới tăng trưởng kinh tế trước và thực hiện các mục tiêu xã hội sau; mô hình hướng tới đáp ứng các khía cạnh xã hội

trước và mục tiêu tăng trưởng thực hiện sau; hoặc mô hình kết hợp đồng thời cả hai

khía cạnh tăng trưởng và các mục tiêu xã hội. Vậy rõ ràng, lựa chọn theo đuổi mô hình

tăng trưởng kinh tế nào sẽ có ảnh hưởng quyết định đến việc tăng trưởng kinh tế có tác động tiêu cực hay tích cực đến mục tiêu giảm nghèo. Theo đuổi mô hình kinh tế nhấn

mạnh vào tăng trưởng kinh tế trước và thực hiện các mục tiêu xã hội sau sẽ dẫn đến hệ

quả nền kinh tế quá phụ thuộc vào đầu tư, vào việc khai thác tài nguyên và những

nguồn lực có lợi thế như lao động giá rẻ. Mô hình tăng trưởng theo xu hướng này

thường chỉ có hiệu quả tăng trưởng cao trong ngắn hạn và phải trả giá bằng bất bình

đẳng, nghèo đói gia tăng. Nhấn mạnh vào mục tiêu tăng trưởng sẽ làm gia tăng bất

bình đẳng trong phân phối thu nhập theo chức năng và phân phối thu nhập theo quy

mô. Hệ quả của điều này là tình trạng nghèo đói không được cải thiện, thậm chí tỷ lệ

người nghèo còn có xu hướng gia tăng khi bất bình đẳng trong phân phối thu nhập

tăng. Ngược lại với mô hình nhấn mạnh vào tăng trưởng kinh tế, việc theo đuổi mô

hình hướng tới công bằng sẽ khiến nền kinh tế thu hẹp khoảng cách giàu nghèo nhưng

lại hạn chế tăng trưởng kinh tế. Nền kinh tế sẽ mất đi động lực để tăng trưởng nếu

Chính Phủ không khuyến khích và tạo điều kiện cho những khu vực sản xuất có lợi thế

tương đối. Hệ quả là thành tựu của tăng trưởng kinh tế sẽ không được đảm bảo trong dài hạn. Trong mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và nâng cao phúc lợi cho con

người, các lý thuyết kinh tế đều dẫn đến nhận định rằng tăng trưởng tạo ra những tiền

đề và nền tảng ban đầu cho quá trình cải thiện dần chất lượng cuộc sống. Nếu thiếu tăng trưởng kinh tế, mục tiêu xóa đói giảm nghèo cũng không có cơ sở để thực hiện. Việc định hướng về mô hình tăng trưởng kinh tế điều hòa giữa mục tiêu tăng trưởng và công bằng xã hội sẽ có ảnh hưởng to lớn đối với tác động của cơ cấu tăng trưởng kinh

tế theo ngành đến giảm nghèo. Lựa chọn mô hình này bảo đảm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đồng thời xây dựng cơ chế gắn kết các thành tựu của tăng trưởng phục vụ lợi ích cho nhóm người nghèo nhằm giảm bất bình đẳng trong phân phối thu nhập.

Mô hình tăng trưởng còn được nhìn dưới góc độ mối tương quan giữa yếu tố đầu vào và sản lượng đầu ra. Theo tiêu chí này, mô hình tăng trưởng có hai cách thức: mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng và mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều

44

sâu. Mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng thể hiện mô hình kinh tế đạt được

mục tiêu tăng trưởng sản lượng đầu ra nhưng dựa vào nhân tố đầu vào là mở rộng vốn và lao động. Ngược lại, mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu thể hiện mô hình

kinh tế đạt được mục tiêu tăng trưởng sản lượng đầu ra nhưng dựa vào nhân tố đầu vào

gia tăng là khoa học công nghệ. Đối với các nước đang phát triển, mô hình tăng trưởng theo chiều rộng trong giai đoạn đầu có thể sẽ là động lực tốt cho tăng trưởng kinh tế.

Khi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng đến giới hạn thể hiện qua tốc độ tăng trưởng

của nền kinh tế quốc dân ngày càng giảm dần thì các quốc gia dần dịch chuyển sang

mô hình tăng trưởng theo chiều sâu nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế. Xét dưới góc độ lợi ích xã hội cho nhóm người nghèo, theo đuổi mô hình tăng trưởng theo chiều

rộng, trên cơ sở mở rộng quy mô vốn và lao động sẽ có tác động tích cực đến người

nghèo thông qua việc mở rộng cơ hội việc làm trong nền kinh tế. Ngược lại, nếu theo

đuổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, cải thiện khoa học công nghệ trong

bối cảnh chất lượng lao động thấp sẽ có thể dẫn tới hệ quả là gia tăng tỷ lệ thất nghiệp.

Đa phần người nghèo trong xã hội là những đối tượng lao động chưa qua đào tạo và

không đáp ứng được nhu cầu lao động trong bối cảnh ngày càng ứng dụng khoa học

công nghệ cao vào sản xuất và dịch vụ. Tuy nhiên, khó có thể xác định một nền kinh tế

theo đuổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng hay chiều sâu trên thực tế. Thông

thường các nền kinh tế tăng trưởng thường xen kẽ, kết hợp tùy theo bối cảnh kinh tế

ngắn hạn và dài hạn. Việc lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng hay

chiều sâu nhằm thúc đẩy tăng trưởng cũng cần phải cân nhắc với các mục tiêu xã hội

khác, trong đó có mục tiêu giảm nghèo.

Đối với các nước đang phát triển, có mức thu nhập trung bình và trung bình thấp thì mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn là một trong những mục tiêu hàng đầu. Việc

lựa chọn mô hình tăng trưởng của nhóm nước này lại càng đóng vai trò quyết định cho

mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Việc lựa chọn theo đuổi mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp sẽ tác động tích cực đến cấu trúc kinh tế theo ngành. Trong giai đoạn công nghiệp hóa, xu thế tất yếu trong mô hình tăng trưởng là khuyến khích tăng trưởng kinh tế có ưu tiên cho nguồn lực trong ngành công nghiệp và dịch vụ. Do vậy, việc lựa chọn mô

hình tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này của các nước đang phát triển dễ rơi vào tình trạng bỏ rơi khu vực nông nghiệp và nông thôn. Kết quả của mô hình tăng trưởng này là sẽ không đảm bảo được các mục tiêu xã hội như giảm nghèo, giảm bất bình đẳng. Do vậy, việc lựa chọn và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế cho phù hợp bối cảnh kinh tế từng quốc gia, từng giai đoạn là yếu tố nền tảng quyết định tới khả năng tăng trưởng kinh tế các ngành và triển vọng giảm nghèo của quốc gia đó.

45

2.3.2. Cấu trúc tăng trưởng kinh tế theo ngành

Cấu trúc tăng trưởng kinh tế theo ngành được nhận định là một trong những yếu

tố quan trọng quyết định đến tiềm năng tăng trưởng kinh tế của các ngành trong ngắn

hạn và dài hạn, qua đó tác động giảm nghèo. Trong quá trình thực hiện công nghiệp

hóa, tăng trưởng kinh tế thể hiện rõ xu hướng không đồng đều giữa các ngành kinh tế

và giữa các khu vực kinh tế. Tốc độ tăng trưởng không đồng đều giữa các ngành có thể gây ra tác động tiêu cực đến mục tiêu giảm nghèo của những quốc gia này. Mức độ

đóng góp, vị trí của mỗi nhóm ngành trong cấu trúc tăng trưởng chung của nền kinh tế

có phản ánh đúng thế mạnh của từng ngành hay không, có tạo nên được sự liên kết

chặt chẽ và động lực tăng trưởng cho các ngành khác hay không, động thái thay đổi có theo đúng xu thế của quá trình phát triển hay không và nó tạo nên diện mạo chung của

tăng trưởng như thế nào chính là những điều kiện để bảo đảm tính hiệu quả của các tác

động của tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo.

Vai trò tăng trưởng của khu vực công nghiệp ở hầu hết các quốc gia sẽ là động lực

thúc đẩy sản xuất ở các ngành khác và là yếu tố quyết định đến tăng trưởng chung của nền

kinh tế. Do vậy, nếu tốc độ tăng trưởng trong các ngành công nghiệp hiện đại thấp hơn kỳ

vọng sẽ dẫn đến sự dôi dư lao động và tăng cung lao động trên thị trường, gây áp lực cho

ngành nông nghiệp, dịch vụ và cho các hoạt động trong khu vực phi chính thức. Kết quả

là dẫn đến giảm năng suất lao động và mức thu nhập tương đối trong ngành nông nghiệp

và dịch vụ. Ở nhiều quốc gia, đa phần người lao động nghèo là những lao động ngắn hạn,

chỉ làm thuê theo giờ. Do đó, mức lương thấp và thường xuyên làm việc trong môi

trường độc hại, không nhận được sự hỗ trợ và bảo vệ quyền lợi từ pháp luật sẽ khiến đời

sống nhóm người nghèo càng khó thoát nghèo. Nhịp độ tăng trưởng khu vực công nghiệp

không đủ lớn để tạo ra việc làm cho lực lượng lao động dịch chuyển từ nông nghiệp sẽ

khiến đời sống đa phần những người lao động này càng khó khăn hơn do không thể quay

lại khu vực nông nghiệp. Khi những người nghèo không tìm được việc làm sẽ dẫn đến sự bùng nổ của khu vực không chính thức và việc quá trình đô thị hoá đang diễn ra ở nhiều thành phố lớn của các nước đang phát triển hiện nay làm gia tăng áp lực việc làm ở khu vực công nghiệp và khu vực đô thị. Nếu quá trình tăng trưởng và mở rộng ở khu vực công

nghiệp và khu vực đô thị không tạo ra đủ việc làm sẽ khiến đời sống người nghèo trở nên bấp bênh, việc làm không ổn định dễ dẫn tới tình trạng tái nghèo.

Khu vực dịch vụ cũng đóng góp vai trò lớn trong thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và

giảm nghèo. Tăng trưởng khu vực dịch vụ đến từ các ngành dịch vụ truyền thống sẽ khó bền vững và hiệu quả tạo việc làm thấp. Ngược lại, thúc đẩy tăng trưởng khu vực dịch vụ phải đến từ các ngành dịch vụ, thương mại có chất lượng cao, giá trị gia tăng lớn, tận dụng

46

được lợi thế nhân lực trong các nguồn lực đầu vào. Quá trình phát triển kinh tế phải đi

kèm với thu hẹp quy mô khu vực dịch vụ phi chính thức, nâng cao chất lượng nguồn lao động để tạo việc làm cho người lao động nghèo trong khu vực dịch vụ chính thức.

Đối với khu vực nông nghiệp, mặc dù khu vực này có dấu0 hiệu của việc tăng

trưởng chậm hơn tương đối so với công nghiệp và dịch vụ trong giai đoạn công nghiệp hóa nhưng trên thực tế nông nghiệp vẫn là nơi đa phần người nghèo tìm kiếm sinh kế.

Đặc biệt đối với những nước đang phát triển thì tình trạng nghèo co cụm xảy ra chủ

yếu đối với nhóm hộ nghèo trong khu vực nông nghiệp. Do vậy, giảm tỷ trọng khu

vực nông nghiệp không có nghĩa là khu vực này phải thu hẹp tuyệt đối. Trên thực tế, khu vực nông nghiệp vẫn cần đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển theo xu hướng

chuyên canh, sản xuất quy mô lớn .Nếu cấu trúc tăng trưởng nông nghiệp-công

nghiệp- dịch vụ không hợp lý sẽ làm giảm tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế

theo ngành tới hiệu quả giảm nghèo.

2.3.3. Chính sách gắn kết tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo

Nhằm gắn kết tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo, định hướng về mặt chính

sách cần (i) tăng cường sự tham gia của người nghèo vào quá trình tăng trưởng kinh tế,

(ii) đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng để tạo cơ hội cho các khu vực nghèo, người nghèo

có cơ hội tiếp cận các dịch vụ công, (iii) thực hiện các chính sách đảm bảo an sinh xã

hội và đẩy mạnh xã hội hóa công tác xóa đói giảm nghèo.

Trước hết, tăng trưởng kinh tế có tác động lớn hay nhỏ đến giảm nghèo phụ

thuộc vào mức độ tham gia của người nghèo vào quá trình tăng trưởng kinh tế. Người

nghèo có cơ hội tham gia nhiều hơn và bình đẳng hơn vào quá trình tăng trưởng kinh

tế thì họ cũng sẽ có cơ hội gia tăng thu nhập tốt hơn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhóm

người nghèo rơi vào tình trạng yếu thế và thiệt thòi khi tiếp cận các cơ hội tham gia

vào quá trình đào tạo, tiếp cận vốn, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, tiếp cận các dịch vụ trợ giúp về mặt pháp lý,…Điều này hạn chế khả năng tham gia của người nghèo vào tăng trưởng và đẩy tình trạng nghèo đói tương đối trầm trọng hơn.

Thứ hai, thành tựu của tăng trưởng sẽ mang lại lợi ích cho người nghèo nếu

Chính phủ quan tâm đến việc phát triển cơ sở hạ tầng đối với các vùng nghèo, các hộ nghèo nhằm tạo điều kiện cho các khu vực và đối tượng này nâng cao chất lượng cuộc sống và hiệu quả sản xuất. Các nhóm chính sách hướng tới việc phát triển mạng lưới điện, giao thông, thủy lợi, thông tin và hệ thống trường học, trạm y tế sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với người nghèo. Những khu vực nghèo, những hộ nghèo sẽ cải thiện dần chất lượng cuộc sống và cơ sở hạ tầng đầy đủ cũng tạo điều kiện cho phát triển sản xuất ở

47

các khu vực này. Hơn thế nữa, những khu vực được đầu tư đầy đủ về cơ sở hạ tầng từ

Chính phủ cũng sẽ tạo nên lực hút đối với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, cơ hội việc làm được mở rộng, người nghèo sẽ có khả năng nâng cao thu nhập thoát nghèo.

Thứ ba, gắn kết tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo được bảo đảm nhờ các

chính sách giảm nghèo của Chính phủ. Chính sách giảm nghèo là hệ thống các quyết định, quy định của nhà nước nhằm cụ thể hóa các chương trình, dự án cùng với nguồn

lực, vật lực, các thể thức, quy trình hay cơ chế thực hiện nhằm tác động đối tượng cụ

thể như người nghèo, hộ nghèo hay xã nghèo với mục đích cuối cùng là xóa đói giảm

nghèo. Chính sách giảm nghèo trên thực tế được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Mỗi tiêu chí lại dựa trên một góc độ nghiên cứu và ý nghĩa riêng biệt. Xét trên

phạm vi ảnh hưởng, chính sách giảm nghèo được chia thành hai nhóm bao gồm: chính

sách tác động trực tiếp và chính sách gián tiếp tác động đến nghèo đói. Nếu căn cứ vào

bản chất đa chiều của nghèo đói, thì chính sách giảm nghèo lại được chia thành các

nhóm chính sách nhỏ, bao gồm: chính sách làm tăng thu nhập cho người nghèo, chính

sách làm tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo và

nhóm chính sách tăng cường vai trò và tiếng nói của nhóm người nghèo trong xã hội.

Theo World Bank (WB, 2012), căn cứ vào ba trụ cột tấn công nghèo đói thì chính sách

giảm nghèo lại bao gồm: nhóm chính sách tạo cơ hội cho người nghèo, nhóm chính

sách trao quyền cho người nghèo và nhóm chính sách an sinh xã hội.

Vai trò của chính sách được thể hiện ở việc ảnh hưởng của nó đến mức độ tác

động của tăng trưởng đến giảm nghèo. Hơn thế nữa, môi trường chính sách nói chung

khuyến khích người nghèo nỗ lực hơn, giảm tính dễ bị tổn thương do điều kiện của thị

trường lao động qua đó gắn kết đươc tăng trưởng với giảm nghèo. Cả chất và lượng của chính sách găn kết tăng trưởng với giảm nghèo đều có ảnh hưởng đến tác động

tăng trưởng đến đói nghèo. Chính sách hợp lý sẽ tạo ra sức mạnh kinh tế thực sự, tạo

nguồn lực cho tăng trưởng, hoạt động kinh tế được tiến hành hợp lý, hiệu quả cao và qua đó giảm nghèo nhanh. Ngược lại, các quyết sách kém hợp lý từ Chính phủ có thể dẫn tới sai lệch vai trò điều hành và hạn chế tăng trưởng. Khi chính sách của Chính phủ không được thực hiện tốt sẽ gây ra bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, điều

này tác động tiêu cực đến mục tiêu giảm nghèo.

2.3.4. Nhận thức và nỗ lực của người nghèo

Một trong những nguyên nhân gốc rễ của nghèo đói chính là từ vấn đề dân trí và nhận thức của người nghèo cản trở họ cải thiện phương thức sản xuất và thích nghi với những công việc ngày càng đòi hỏi chuyên môn, trình độ cao hơn để thoát nghèo.

48

Hơn nữa, một tình trạng cố hữu của người nghèo chính là tâm lý không muốn thoát nghèo

để được thụ hưởng những lợi ích từ hỗ trợ của Chính phủ cho hộ nghèo. Do đó, việc nâng cao dân trí góp phần đặt nền tảng vững chắc cho quá trình xóa đói giảm nghèo.

Nhân tố văn hóa, dân tộc, tôn giáo cũng có tác động khá lớn đến quá trình tăng

trưởng và giảm nghèo ở mỗi quốc gia. Văn hóa có ý nghĩa rất rộng lớn, bao gồm từ tri thức đến tinh hoa, đặc sắc văn hóa của mỗi dân tộc trong mọi lĩnh vực… Sự khác biệt

về văn hóa có ảnh hưởng lớn đến tính chất lực lượng lao động và yếu tố con người nói

chung. Đây chính là nguồn gốc cơ bản của mọi thành tựu trong tăng trưởng và phát

triển kinh tế-xã hội. Gắn liền với yếu tố văn hóa, dân tộc và tôn giáo cũng tác động lớn đến tăng trưởng. Một quốc gia quá đa dạng và khác biệt về các thành phần tôn giáo và

sắc tộc sẽ tiềm ẩn nhiều bất ổn về mặt chính trị, dẫn tới hạn chế khả năng tăng trưởng

vì những tranh chấp, mâu thuẫn trong nước. Sự đóng góp và tham gia mang tính cộng

đồng của dân cư trong xã hội sẽ tạo thành động lực lớn để thúc đẩy kinh tế-xã hội phát

triển nhanh.

2.4. Kinh nghiệm gắn kết tăng trƣởng kinh tế theo ngành với giảm nghèo ở một số quốc gia

2.4.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc là quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đứng đầu thế giới.

Tuy nhiên, bất chấp những thành tựu tăng trưởng nổi bật mà Trung Quốc gặt hái được

trong vài thập niên gần đây, nghèo đói vẫn còn là một vấn đề nổi bật ở quốc gia đông

dân nhất thế giới này.

Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong vài thập niên gần đây luôn đạt mức rất

cao. Giai đoạn trước 2008, tốc độ tăng trưởng bình quân của Trung Quốc đạt khoảng

gần 10%, từ 2009 đến nay tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 6-7% hàng năm. Từ

một nước nghèo của những năm 1950, Trung Quốc đã vực dậy khu vực công nghiệp và dịch vụ, nâng cao năng suất lao động và mở rộng khu vực nông nghiệp để đạt được những thành tựu tăng trưởng kinh tế thần kỳ. Đóng góp vào tăng trưởng cao ở quốc gia này, nông nghiệp không chiếm tỷ trọng cao trong GDP nhưng lại giải quyết việc làm

cho lượng lớn lao động. Mũi nhọn cho tăng trưởng kinh tế Trung Quốc cơ bản vẫn là khu vực công nghiệp. Trên con đường tạo ra kỳ tích tăng trưởng kinh tế, Trung Quốc cũng tập trung đầu tư và phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, tạo động lực nền tảng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của quốc gia.

Song song với thành tựu trong tăng trưởng kinh tế, một số mục tiêu và chiến lược trong xóa đói giảm nghèo cũng được đề xuất theo lộ trình cụ thể. Trong những

49

năm 1990, hàng loạt giải pháp lớn mang tính định hướng tích cực và giải quyết nghèo

đói được đưa ra và thông qua. Vào năm 1994, Trung Quốc đề ra “Kế hoạch 8-7” với mục tiêu cụ thể: trong 8 năm thực hiện xoá nghèo cho 70 triệu người. Chính phủ Trung

Quốc còn huy động sự giúp đỡ của các tỉnh, thành phố giàu có, phát đạt đối với các

tỉnh nghèo, đồng thời tích cực đề nghị các tổ chức quốc tế đầu tư giúp phát triển các vùng đói nghèo. Chiến lược giảm nghèo được thực hiện tích cực và đến năm 1997,

Trung Quốc đạt thành tựu chỉ còn 50 triệu người nghèo (so với 250 triệu năm 1978),

80% số này tập trung ở miền trung và Tây. Tính đến năm 1999 số người nghèo giảm

xuống chỉ còn 34 triệu. Như vậy, trong khoảng gần 40 năm, hơn 700 triệu người Trung Quốc thoát khỏi đói nghèo, chiếm hơn 70% mức giảm đói nghèo toàn cầu trong giai

đoạn này. Chính quyền trung ương và các cấp tiếp tục ưu tiên xóa đói, giảm nghèo

trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016 - 2020), cam kết sử dụng thời gian, nhân lực

và tài chính để giành chiến thắng trong cuộc chiến gian nan và thách thức này.

Tuy nhiên, bất chấp kinh tế Trung Quốc tăng trưởng nhanh chóng trong hai

thập niên qua, đói nghèo vẫn là một vấn đề lớn tại quốc gia đông dân nhất thế giới này,

nhất là ở khu vực nông thôn. Trong khi tình trạng thất nghiệp gia tăng đã tạo ra một

gánh nặng to lớn cho quỹ phúc lợi của các đô thị thì công cuộc xóa đói giảm nghèo ở

nông thôn của Trung Quốc lại chậm lại một cách đáng kể so giai đoạn đầu đổi mới.

Trong khi tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Trung Quốc luôn đứng đầu thế giới

nhưng “quả ngọt” của tăng trưởng dường như còn nằm quá cao so với tầm với của 28

triệu dân nghèo ở nông thôn. Tiêu chuẩn nghèo của Trung Quốc (0,66 USD/ngày) đã

“giúp” giảm tỷ lệ nghèo một cách đáng kể. Theo tính toán của Ngân hàng Phát triển

Châu Á, nếu sử dụng tiêu chuẩn 1 USD/ngày thì số lượng người nghèo của Trung Quốc lên tới 230 triệu (ADB, 2003). Theo tính toán của Ngân hàng thế giới (WB),

năm 2003 vẫn còn gần 50% dân Trung Quốc có mức thu nhập dưới 2 USD/ngày. Năm

2015, Trung Quốc có khoảng 70 triệu người, chủ yếu ở vùng nông thôn, sống dưới mức nghèo, với mức thu nhập ít hơn 362 USD/năm. Tính đến cuối năm 2016, Trung Quốc vẫn có hơn 43 triệu người nghèo ở nông thôn, chiếm khoảng 4,5% người dân nông thôn trên cả nước. Từ những thành tựu đã đạt được của giai đoạn trước, Trung

Quốc đặt mục tiêu xây dựng vào năm 2020 đạt tới một trạng thái kinh tế theo đó con người trở nên khá giả sau khi thoát nghèo, được tiếp cận giáo dục bắt buộc, chăm sóc y tế cơ bản và có nhà ở an toàn, cũng như có thực phẩm và quần áo. Trung Quốc phấn đấu thực hiện mục tiêu đến năm 2020 có GDP và thu nhập bình quân đầu người thành thị và nông thôn đều tăng gấp hai lần so năm 2010, mô hình phát triển kinh tế sẽ được thay đổi, tính cân đối, nhịp nhàng và bền vững trong phát triển được tăng cường rõ rệt.

50

Đối với một quốc gia hơn 1,3 tỷ dân, thách thức để xóa đói, giảm nghèo là rất lớn. Tuy

nhiên, chính quyền các cấp quyết tâm đưa xóa đói, giảm nghèo là ưu tiên hàng đầu trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (2016 - 2020).

Thành tựu giảm nghèo của Trung Quốc luôn gắn kết với quá trình tăng trưởng

kinh tế. Trung Quốc đạt được thành tựu giảm nghèo đáng kể do những nguyên nhân gắn kết với tăng trưởng sau đây:

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng nhanh là nguồn gốc cơ bản cho việc Trung Quốc

nâng cao mức sống dân cư nói chung và hầu hết dân cư đều được hưởng lợi ích từ

thành quả tăng trưởng đó. Tốc độ tăng trưởng hàng năm bình quân là khoảng 5,6% thì

riêng người lao động trong khu vực nông nghiệp của Trung Quốc giai đoạn này gia

tăng thu nhập bình quân với tốc độ vượt trội- khoảng 7,2%. Kết quả này có được từ nỗ

lực tăng trưởng liên tục không ngừng của Trung Quốc. Theo nghiên cứu của WB

(2002), trong khi Anh mất khoảng 58 năm để tăng GDP bình quân lên gấp đôi (1780-

1838), Mỹ mất 47 năm (1839-1886), Nhật mất khoảng 34 năm (1885-1919), Hàn

Quốc mất khoảng 11 năm (1966-1977), thì cứ khoảng 8.6 năm Trung Quốc tăng gấp đôi

GDP bình quân. Riêng đối với thu nhập bình quân của hộ gia đình trong khu vực nông

nghiệp, thì trong khoảng thời gian nghiên cứu của WB, cứ 9,7 năm thì GDP tăng lên gấp

đôi so với trước đây. Với tỷ lệ hộ nghèo rất lớn ở khu vực nông thôn, tăng trưởng kinh tế

nhanh và đặc biệt là tăng trưởng kinh tế khu vực nông thôn tăng lên thần kỳ là nguyên

nhân lớn nhất tác động giảm nghèo ở khu vực nông thôn Trung Quốc.

Thứ hai, chính sách mở cửa hướng về xuất khẩu cũng góp phần là động lực

quan trọng cho mục tiêu tăng trưởng và mục tiêu giảm nghèo ở Trung Quốc. Kim

ngạch xuất khẩu của Trung Quốc tăng nhanh từ khi quốc gia này thực hiện chính sách mở cửa, đặc biệt là các ngành thâm dụng lao động đã tạo ra năng suất lớn hướng tới

xuất khẩu trong một thời gian ngắn. Sự tăng trưởng và phát triển của ngành này đóng

vai trò chính trong quá trình mở rộng việc làm đặc biệt cho người nghèo trong xã hội. Chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển sản xuất nội địa tập trung cho những ngành trên thực sự đã khiến Trung Quốc vừa tăng trưởng nhanh, hòa nhập với

quá trình toàn cầu hóa qua hoạt động xuất khẩu, mặt khác lại góp phần giảm nghèo hiệu quả. Các ngành này đã thu hút phần lớn lao động nghèo ở khu vực nông thôn của hai tỉnh điển hình cho thành tựu giảm nghèo là Quảng Đông và Chiết Giang. Riêng Quảng Đông, tỷ lệ lao động của tỉnh này chiếm đến khoảng 39% tổng lực lượng lao động của cả nước. Đi kèm theo chính sách phát triển sản xuất, Trung Quốc cũng chú trọng tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua hoạt động giáo dục đào tạo và đào tạo nghề. Kết quả của chính sách đào tạo nhân lực là tỷ lệ người biết chữ

51

tăng cao- đặc biệt ở khu vực nông thôn. Đi kèm với thành tựu này là sự gia tăng của

năng suất lao động và hiệu quả sản xuất.

Thứ ba, để gắn kết tăng trưởng với giảm nghèo ở Trung Quốc, không thể không

kể đến những chiến lược chống nghèo đói của Chính Phủ với một loạt những chương

trình trực tiếp hỗ trợ cho hộ nghèo từ đầu những năm 1980 đến nay. Chính Phủ đã đưa ra rất nhiều chương trình trợ cấp trực tiếp cho người nghèo với các khoản ngân sách

tăng dần trong nhiều năm. Để đảm bảo lợi ích cho hộ nghèo khu vực nông thôn, Chính

Phủ chú trọng tới các chính sách điều chỉnh khu vực nông nghiệp hướng tới từng

bước nới dần giá cả nông sản phẩm và khuyến khích nâng cao chất lượng nhằm tăng giá nông sản. Kết quả là, giá nông sản trên thị trường tăng nhanh hơn so với giá cả của

hàng hóa công nghiệp. Thu nhập của hộ gia đình khu vực nông thôn nhờ đó tăng lên

đáng kể (khoảng 3,8% hàng năm) và đời sống được nâng lên rõ rệt so với giai đoạn

trước đây.

Thứ tư, xem xét cơ cấu tăng trưởng theo ngành tác động đến mục tiêu giảm

nghèo, có thể thấy rằng bài học giảm nghèo ở Trung Quốc chủ yếu đến từ quá trình

chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các hoạt động phi nông nghiệp. Đi kèm theo

quá trình này chính là tốc độ đô thị hóa nhanh của Trung Quốc. Ngày càng có nhiều

người lao động tự kinh doanh nhỏ ở khu vực nông thôn khiến tỷ trọng lao động trực

tiếp hoạt động nông nghiệp ở nông thôn giảm đáng kể. Chính phủ đã đưa ra nhiều

chính sách khuyến khích và trợ giúp các hộ gia đình khu vực nông thôn tự tạo việc làm

cho mình theo xu hướng này nên đã giúp giảm thất nghiệp đáng kể ở nông thôn, góp

phần giảm nghèo chung. Trung Quốc đã thực hiện thành công chiến lược giảm nghèo

qua chính sách tạo việc làm ở nông thôn, trực tiếp tuyển các đối tượng lao động ở khu vực nông thôn bao gồm các đối tượng chưa qua đào tạo kỹ thuật và phân bổ công việc

hợp lý cho những lao động này trong khu vực dịch vụ. Một phần lao động nông thôn

cũng di cư ra thành thị tìm việc làm và gia tăng thu nhập khá nhanh. Đây chính là nguồn lực tài chính quan trọng đầu tư cho khu vực nông nghiệp vì phần lớn các khoản thu nhập lại được người lao động di cư chuyển về cho gia đình đang ở nông thôn. Tỷ trọng thu nhập từ tiền công, tiền lương của hộ gia đình ở khu vực nông thôn tăng lên gấp 3 lần

trong giai đoạn từ 1985 đến 2010. Điều này cho thấy lợi ích to lớn mang đến cho đời sống của các hộ gia đình khu vực nông thôn, đặc biệt là các hộ gia đình nghèo có được qua quá trình đô thị hóa và dịch chuyển lao động sang các khu vực phi nông nghiệp.

Như vậy, trong khoảng thời gian từ những năm 1980 cho đến nay, thành tựu xóa đói giảm nghèo mà Trung Quốc đạt được có nguồn gốc từ tăng trưởng kinh tế, thông qua những thành tựu từ quá trình: tăng trưởng kinh tế chung tăng lên với tốc độ

52

nhanh chóng, lao động nông nghiệp dịch chuyển sang các ngành phi nông nghiệp,

chính sách tăng trưởng hướng về xuất khẩu và những chính sách hỗ trợ hộ nghèo của Chính Phủ thực sự phát huy hiệu quả.

2.4.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc

Hàn Quốc bắt đầu giai đoạn tăng trưởng nhanh và tạo ra “ hiện tượng sông

Hàn” vào đầu những năm 1970 và trở thành một trong bốn “con rồng Châu Á” vào đầu những năm 1990. Trong khoảng thời gian hơn 40 năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế

chung của Hàn Quốc trung bình đạt khoảng 7,6% (WB, 2016) và bài học tăng trưởng

kinh tế của Hàn Quốc vẫn luôn được coi là bài học quý giá cho các nước đang phát

triển hiện nay. Trong giai đoạn này, cơ cấu tăng trưởng chung của nền kinh tế chủ yếu được đóng góp từ khu vực công nghiệp. Chính phủ Hàn Quốc đã chuyển đổi chiến

lược từ chiến lược sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu sang chiến lược sản xuất hàng

hóa xuất khẩu. Hơn nữa, tận dụng được nguồn vốn cũng như quá trình chuyển giao công nghệ từ nước ngoài mà giai đoạn này các kế hoạch tăng trưởng của kinh tế Hàn

Quốc được thực hiện rất hiệu quả. Chỉ trong 10 năm tăng trưởng nhanh, Hàn Quốc đã

có khả năng trả các khoản nợ nước ngoài và tạo nền tảng cho tăng trưởng bền vững dài

hạn từ chính tiềm lực sản xuất nội địa.

Cùng với tốc độ tăng trưởng kỳ tích, đời sống dân cư Hàn Quốc được cải thiện

rất nhanh. Theo kết quả thăm dò của Viện nghiên cứu Phúc lợi và Xã hội Hàn Quốc

(KIHASA) với 7.048 hộ gia đình và phản ánh kết quả trong các bản báo cáo phân tích

phúc lợi từ năm 2006 trở lại đây, kinh tế Hàn Quốc vừa đạt mục tiêu tăng trưởng ổn

định vừa giảm tỷ lệ hộ nghèo. Theo tiêu chuẩn của KIHASA đưa ra thì: tầng lớp thu

nhập thấp được hiểu là những người có mức thu nhập dưới 50% mức trung bình tính

theo tiêu chuẩn thu nhập thông thường. Từ 50% đến 150% của mức trung bình này

tương ứng với tầng lớp thu nhập trung bình còn trên 150% là những người có thu nhập

cao. Theo thăm dò của Viện nghiên cứu Phúc lợi và Xã hội, trong khi tỷ lệ thoát nghèo ngày càng thấp thì ngược lại tỷ lệ những người vốn thuộc tầng lớp thu nhập cao vẫn duy trì mức này lại ngày càng cao lên. Cụ thể, con số này đã tăng 2,1% từ 77,3% của

năm 2013 lên 75,2% trong năm 2014. Số người tụt từ tầng lớp thu nhập cao xuống thu nhập thấp chỉ là 0,4%, mức thấp nhất từ trước đến nay, chỉ còn bằng một phần năm so với con số 2% của năm 2006.

Các chuyên gia nhận định xu thế tại Hàn Quốc đang là người nghèo thì ngày càng khó thoát nghèo còn người giàu thì lại càng duy trì và ổn định sự giàu có. Nhiều ý kiến cho rằng sự thay đổi các tầng lớp theo tiêu chuẩn thu nhập như vậy có liên quan

53

đến cơ cấu cố định trong tuyển dụng. Theo cuộc thăm dò lần thứ tám (2013), có đến

83% số người là lao động mang tính chất tạm thời hoặc làm việc tính theo ngày. Đến cuộc thăm dò thứ chín (2014) chỉ có 13,1% chuyển sang dạng lao động thường xuyên,

ổn định. 92,5% số lao động có việc làm cố định vẫn tiếp tục là người được tuyển dụng

còn 77,8% những người đi tuyển dụng vẫn duy trì là người đi tuyển dụng. Dù cơ cấu tuyển dụng gần như được giữ nguyên nhưng tỷ lệ thoát nghèo lại ngày càng có xu

hướng đi xuống. Điều này cho thấy chất lượng cuộc sống của tầng lớp thu nhập thấp

đang có dấu hiệu đi xuống. Bài toán mới đặt ra đối với xã hội Hàn Quốc chính là tình

trạng tỷ lệ hộ nghèo tính theo tiêu chuẩn mức chi hộ gia đình đang tăng lên trong khi tỷ lệ thoát nghèo lại giảm xuống.

Sự thành công nói trên là kết quả của mô hình phát triển mà Hàn Quốc sử dụng

từ thập niên 60 của thế kỷ 20, đó là mô hình phát triển toàn diện, kết hợp hợp l‎ý giữa

tăng trưởng nhanh với giảm nghèo ngay từ đầu. Nội dung chính của mô hình này được

thể hiện rõ nét qua các chính sách mà Chính phủ Hàn Quốc can thiệp vào các lĩnh vực

kinh tế và xã hội nhằm tạo ra sự phát triển đồng bộ của hai lĩnh vực này.

Thứ nhất, chính sách khuyến khích tăng trưởng nhanh, thông qua việc lựa chọn

mô hình công nghiệp hóa theo hướng xuất khẩu, Hàn Quốc đã có những chính sách

nhấn mạnh vai trò của kinh tế tư nhân và sự can thiệp của Nhà nước trong những lĩnh

vực kinh tế cần thiết.

Thứ hai, chính sách xã hội nhằm giải quyết ngay từ đầu vấn đề xóa đói giảm

nghèo. Điều này thể hiện trong các chính sách về phân phối lại, chính sách trợ cấp xã

hội, các dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng, giao thông cho các vùng khó khăn…. của Hàn

Quốc. Hệ thống giáo dục đảm bảo cho người dân được nâng cao trình độ, mạng lưới chăm sóc sức khỏe được tổ chức chu đáo, tất cả đều nhằm mục tiêu tạo điều kiện sống

ngang nhau ở tất cả các vùng trong cả nước. Hàn Quốc thành công trong chiến lược

giảm nghèo là do Chính phủ có những chính sách cải thiện mạng lưới an sinh xã hội tốt; cả chính phủ và người dân đều tập trung cao vào vốn con người, bên cạnh đó chính sách kế hoạch hóa gia đình phát huy rất hiệu quả.

Thứ ba, chiến lược xóa đói giảm nghèo gặt hái được nhiều thành tựu ở Hàn Quốc bắt nguồn từ việc thực hiện thành công chiến lược đầu tư theo ngành một cách có hiệu quả. Cụ thể hơn, tăng trưởng các ngành trong nền kinh tế tổng thể tác động đến giảm nghèo như sau:

Đối với khu vực công nghiệp, các chính sách đầu tư vào khu vực này được đưa ra với hai mục tiêu đảm bảo tăng trưởng và giảm nghèo nhanh. Hàn Quốc bắt

54

đầu quá trình tăng trưởng nhanh bằng việc phát triển các ngành công nghiệp sử dụng

nhiều lao động (công nghiệp dệt, may, chế tạo…). Với mục tiêu tập trung hàng đầu cho những ngành công nghiệp thâm dụng lao động, thời kỳ này Hàn Quốc đã giải

quyết được vấn đề việc làm cho cả những lao động trình độ thấp, lao động nghèo

chưa qua đào tạo. Kết quả của chiến lược này không chỉ khiến tăng trưởng kinh tế giai đoạn đầu được thúc đẩy mà còn góp phần mạnh mẽ vào giải quyết việc làm cho

lao động nghèo. Để đảm bảo chiến lược thay thế nhập khẩu ở một số lĩnh vực thâm

dụng lao động và bảo vệ việc làm cho lao động nghèo, Chính Phủ thực hiện hệ thống

chính sách bảo hộ rất hiệu quả khiến các doanh nghiệp nội địa tăng trưởng nhanh về cả số lượng lẫn nâng cao hiệu quả sản xuất. Chiến lược đầu tư vào các ngành công

nghiệp nhẹ đã khiến lao động dễ dàng có được việc làm và gia tăng thu nhập. Hơn

thế nữa, xu hướng mở rộng quy mô sản xuất thời kỳ này càng tạo điều kiện thuận lợi

hơn cho lao động nghèo tìm việc làm và có mức thu nhập ổn định. Tuy nhiên đầu

thập niên 70 giá nhân công bắt đầu tăng và cơ khí hóa mạnh mẽ, việc dựa vào việc

xuất khẩu sản phẩm dựa vào lợi thế lao động không còn phù hợp để thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế. Hàn Quốc đã chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sang các ngành công

nghiệp hóa chất và công nghiệp nặng đòi hỏi vốn lớn (hóa dầu, thép, đóng tàu, ô tô,

điện gia dụng…). Chiến lược từ sản xuất thay thế nhập khẩu dịch chuyển sang chiến

lược hướng về xuất khẩu cũng phản ánh rõ rệt quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế

từ nông nghiệp sang xu hướng công nghiệp hóa của Hàn Quốc. Tại thời điểm này,

lực lượng lao động cũng như những người lao động nghèo trong xã hội đã được quan

tâm nhiều hơn, được đào tạo và có mức thu nhập ổn định. Do vậy, khi nền kinh tế

dịch chuyển từ những ngành công nghiệp nhẹ thâm dụng lao động sang những ngành công nghiệp nặng thâm dụng vốn, lao động nghèo cũng có thể tiếp cận được việc làm

tốt hơn trong khu vực công nghiệp nặng. Công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu khiến

tăng trưởng nhanh chính là động lực to lớn cho mục tiêu giảm nghèo. Tăng trưởng

công nghiệp tạo ra cầu lao động lớn và làm gia tăng quy mô lao động, gia tăng thu nhập và giảm nghèo (WB, 2004). Kết quả của quá trình này là tăng trưởng kinh tế nhanh dựa trên xuất khẩu các sản phẩm từ những ngành thâm dụng lao động. Sự gia

tăng của vốn nhân lực về số lượng và chất lượng, lại có những tác động tích cực ngược lại đối với mục tiêu hướng về xuất khẩu của quốc gia này. So với một số các quốc gia đang phát triển khác, sự đầu tư vào nguồn nhân lực của Hàn Quốc là một trong những tiêu chí cốt yếu dẫn tới thành công trong chiến lược tăng trưởng gắn với

giảm nghèo. Tập trung cho giáo dục đào tạo đã cung cấp một nguồn lực đảm bảo cho tăng trưởng và giảm nghèo bền vững.

55

Đối với khu vực nông nghiệp, một kinh nghiệm khác từ Hàn Quốc trong quá

trình gắn kết tăng trưởng với mục tiêu giảm nghèo chính là quá trình thực hiện cải cách ruộng đất từ rất sớm (cuối những năm 1940)- đặc biệt ở khu vực nông thôn. Chính sách

cải cách ruộng đất trong thời gian này đã nhanh chóng chuyển giao quyền sở hữu ruộng

đất cho nông dân. Hiệu quả của chính sách ruộng đất đã khiến năng suất lao động nông nghiệp tăng đáng kể. Giá nông sản tăng và cuộc cách mạng xanh đi kèm với sự đầu tư

của Chính Phủ cho phát triển nông thôn đã làm gia tăng thu nhập khu vực nông thôn và

giảm nghèo nông thôn rõ rệt. Các chiến lược tăng trưởng kinh tế dẫn tới quá trình công

nghiệp hóa và đô thị hóa, mặt khác, cũng làm gia tăng nhanh chóng thu nhập cho lao động thành thị. Tỷ lệ nghèo giảm rất nhanh trong giai đoạn trước những năm 1980,

nhưng sau thời gian này thì tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại do sự phân hóa về

thu nhập giữa nông thôn và thành thị ngày càng lớn trong quá trình công nghiệp hóa.

Tuy nhiên, so với nhiều quốc gia Nam Á, sự phân phối thu nhập trong dân cư ở Hàn

Quốc vẫn còn tương đối bình đẳng. Với những chương trình phúc lợi xã hội hỗ trợ cho

người nghèo ở Hàn Quốc, hộ nghèo đã được đáp ứng về cơ bản chương trình dịch vụ

khám chữa bệnh và các dịch vụ thiết yếu khác cho đời sống con người. Đây cũng là một

trong những nguyên nhân lớn làm giảm nghèo và bất bình đẳng ở quốc gia này.

Qua bài học tăng trưởng gắn kết với mục tiêu giảm nghèo của Hàn Quốc, có thể

thấy rõ vai trò nền tảng và tích cực của tăng trưởng kinh tế chung tới giảm nghèo. Đặc

biệt, trong cơ cấu tăng trưởng kinh tế theo ngành thời gian qua, sự tăng trưởng của khu

vực sản xuất công nghiệp được chú trọng. Chiến lược của Hàn Quốc bắt đầu từ những

ngành công nghiệp thâm dụng lao động rồi chuyển đổi sang những ngành công nghiệp

thâm dụng vốn, có hàm lượng công nghệ cao. Quá trình dịch chuyển này đi kèm với chiến lược xuất khẩu hàng hóa, hướng từ thay thế sản phẩm nhập khẩu chuyển sang

xuất khẩu hàng hóa công nghiệp. Quá trình dịch chuyển này có ý nghĩa rất lớn cho

mục tiêu giảm nghèo của quốc gia. Sự chuyển dịch tuần tự tạo điều kiện việc làm và đào tạo tuần tự và có lợi cho nhóm người nghèo trong xã hội. Hơn nữa, tại mức xuất phát điểm thấp, lợi thế trong sản xuất của quốc gia nằm ở nhân tố lao động, do vậy việc Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu từ những ngành công nghiệp thâm dụng lao động

cũng có tác động thúc đẩy tăng trưởng cao. Đặc biệt, muốn giảm nghèo thì ngay trong khu vực nông nghiệp phải thực hiện chính sách cải cách ruộng đất và điều chỉnh bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các nhóm người, giữa các khu vực.

2.4.3. Kinh nghiệm của Indonesia

Indonesia đang trên đà tăng trưởng trở thành quốc gia có quy mô kinh tế lớn nhất khu vực Đông Nam Á. Trong vòng hơn một thập kỷ trở lại đây, Indonesia tăng

56

trưởng kinh tế dựa trên các chỉ số vĩ mô khá bền vững với tốc độ trung bình giai đoạn

2000-2012 khoảng 5,4%; từ 2013 đến nay tăng trưởng bình quân khoảng hơn 6% mỗi năm. Nền kinh tế Indonesia chuyển đổi từ nền kinh tế phụ thuộc lớn vào nông nghiệp

sang phát triển công nghiệp nhanh. Trong các ngành công nghiệp phát triển nhất

Indonesia phải kể đến vai trò của việc khai thác dầu thô trong GDP của nền kinh tế. Trên cơ sở đó, các ngành sản xuất khác cũng có điều kiện thuận lợi phát triển nhờ sự

bảo đảm về nguyên liệu dầu thô đầu vào cho sản xuất. Tuy nhiên, ngay cả khi cấu trúc

tăng trưởng kinh tế dịch chuyển theo xu hướng công nghiệp hóa thì khu vực nông

nghiệp vẫn giữ vai trò vô cùng quan trọng tạo việc làm cho người lao động. Tăng trưởng kinh tế nhanh cũng làm gia tăng lợi ích cho đa phần người lao động, khiến tỷ lệ

nghèo đói giảm đáng kể từ những năm 1960 cho đến nay.

Trong những năm qua, Indonesia đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện tình

trạng đói nghèo. Theo Cơ quan thống kê Trung ương của Indonesia (BPS), trong năm

2016 thì tỷ lệ người nghèo khoảng 11% và chuẩn nghèo của Indonesia được tính bằng

năng lượng tối thiểu cung cấp đủ cho một người sống qua ngày là 2.100 calo thức ăn/

ngày hoặc qua mức 152.847 rupiah (tương đương 16,8 USD)/ mỗi tháng. Như vậy so

với chuẩn thế giới thì chuẩn nghèo của Indonesia thấp hơn. Và nếu theo chuẩn nghèo

thế giới thì Indonesia có khoảng 13-14% dân số. Tuy nhiên, bất chấp những biến động

kinh tế xã hội trong gần hai mươi năm qua, tỷ lệ nghèo của Indonesia vẫn đang trong

xu hướng giảm, khả năng tạo việc làm cho người lao động gia tăng, đặc biệt đối với

nhóm người nghèo trong xã hội. Nếu nhìn một cách tổng thể hai thập kỷ qua, có thể

thấy song song với thành tựu tăng trưởng kinh tế là những kết quả của công cuộc giảm

nghèo với nỗ lực của toàn bộ nền kinh tế.

Cùng với tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, đến cuối năm 1990, Indonesia bắt

đầu gặt hái được những thành công đáng kể trong mục tiêu giảm nghèo và giảm bất

bình đẳng. Đánh giá về sự gắn kết giữa thành tựu tăng trưởng kinh tế với thành tựu trong giảm nghèo ở Indonesia, có thể nhận thấy những bài học rõ nét như sau.

Thứ nhất, trong chiến lược tăng trưởng kinh tế, rất nhiều chính sách thúc đẩy

tăng trưởng đồng thời cũng tác động tích cực đến tình trạng nghèo đói. Trước tiên, nền kinh tế dần tự do hóa và chuyển đổi từ mô hình kinh tế đóng sang nền kinh tế hướng về thị trường đã tạo ra một động lực vô cùng to lớn cho việc cải thiện đời sống dân cư nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. Nền kinh tế tự do hóa với những biểu hiện của tự do hóa nguồn vốn, tăng cường vai trò và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển, đồng thời giảm vai trò của các doanh nghiệp sở hữu Nhà nước đã khiến nền kinh tế tăng trưởng hiệu quả. Sự kiểm soát giá cả được xóa bỏ,

57

chính sách cân bằng cán cân ngân sách được áp dụng. Hệ thống ngân hàng khuyến

khích cho vay, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các ngân hàng nước ngoài.

Tốc độ tăng trưởng nhanh có tác động rõ rệt tới giảm nghèo ở Indonesia. Tăng

trưởng kinh tế được đảm bảo bởi những chính sách kinh tế vĩ mô chặt chẽ. Những

chính sách này khuyến khích khu vực nông nghiệp, khuyến khích đầu tư vào vốn nhân lực của quốc gia, chính sách gia tăng tính tự chủ trong nền kinh tế đối với các khu vực

tài chính, thương mại và đầu tư nước ngoài. Tăng trưởng nhanh cũng hướng tới sản

xuất các sản phẩm thâm dụng lao động, mở rộng việc làm cho những lao động nghèo

và chưa qua đào tạo. Một số khu vực sản xuất tư nhân thâm dụng lao động như ngành dệt may, quần áo, chế biến gỗ, công nghiệp thực phẩm đã tạo ra nhiều việc làm cho

những người nghèo trong xã hội.

Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chính phủ cũng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa

và nhỏ thông qua các khoản vay, tạo nhiều thị trường và nâng cao kỹ năng nghề

nghiệp. Sự tăng trưởng của các doanh nghiệp góp phần tạo ra nhu cầu mạnh mẽ trong

nước. Điều này không chỉ có ý nghĩa đối với phát triển kinh tế mà còn đối với cả vấn

đề an sinh, xã hội.

Thứ hai, để đạt được mục tiêu giảm nghèo đều đặn trong một khoảng thời gian

dài, chính phủ Indonesia đã đưa ra các chương trình ưu tiên giảm đói nghèo. Họ tìm

cách cải thiện phúc lợi cho người dân trong giáo dục, tiếp cận với y tế, giảm nhẹ thiên

tai, phát triển công nghệ,... Ở cấp độ cộng đồng, chính phủ đã đưa ra một chương trình

quốc gia về nâng cao năng lực cộng đồng để giúp cung cấp việc làm cho người nghèo.

Ở cấp độ gia đình, chính phủ đã cung cấp các khoản tiền mặt cho những gia đình

nghèo để giúp họ cải thiện cuộc sống. Đặc biệt chương trình chính sách hỗ trợ bằng tiềm mặt đã trực tiếp làm giảm đáng kể tỷ lệ nghèo của quốc gia này. Trước tình trạng

giá cả sinh hoạt phí gia tăng, Chính phủ đã hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo bằng cách trợ

cấp gạo, hỗ trợ tiền sinh hoạt phí là học phí cho học sinh, sinh viên. Thực hiện được điều này một phần nguyên nhân nằm ở phân hóa thu nhập trong xã hội Indonesia quá cao và Chính phủ có đủ tiềm lực về tài chính để thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ thu

nhập trực tiếp cho người nghèo. Tuy nhiên, cần chú ý rằng các chính sách hỗ trợ thu nhập trực tiếp thật ra chỉ có tác động giảm nghèo trong ngắn hạn.

Bốn nguyên nhân chính được xác định cho tình trạng này là bất bình đẳng về cơ hội, công việc làm không đồng đều, sự giàu có mang tính tập trung và sức bật thấp của những người nghèo. Do vậy, để duy trì thành tựu giảm nghèo, Chính phủ Indonesia xác định cần phải quan tâm đến vấn đề bất bình đẳng giữa các nhóm thu nhập, giữa các vùng và giữa các ngành. Để cải thiện, Ngân hàng Thế giới đề xuất 4 hoạt động

58

chính: nâng cao việc cung cấp các dịch vụ địa phương cho các mảng sức khỏe, giáo

dục và kế hoạch hóa gia đình; thúc đẩy tăng trưởng việc làm và đào tạo kỹ năng tốt hơn; đảm bảo sự bảo vệ của chính phủ trước những cú sốc kinh tế; và sử dụng các loại

thuế và chi tiêu chính phủ hợp lý để giảm tình trạng bất bình đẳng.

Thứ ba, một đặc điểm trong cơ cấu tăng trưởng kinh tế theo ngành của Indonesia là mặc dù khu vực công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất nhưng nông nghiệp lại là khu vực

tạo ra việc làm nhiều nhất cho lao động. Điều này vừa có mặt tích cực nhưng lại vừa có

mặt tiêu cực đối với đời sống kinh tế-xã hội của Indonesia. Khu vực công nghiệp của quốc

gia này chủ yếu tạo ra lợi ích từ ngành khai thác dầu mỏ, khí tự nhiên và một số ngành công nghiệp nhẹ như dệt may, giày dép, thực phẩm,.. Tuy nhiên những sản phẩm của

ngành công nghiệp nhẹ không phải là thế mạnh của Indonesia. Do đó, với nguồn lợi chính

từ việc khai thác dầu mỏ và khí tự nhiên, khu vực công nghiệp trở nên yếu thế hơn nông

nghiệp trong việc tạo việc làm cho người lao động nghèo. Tuy nhiên, quá trình dịch

chuyển lao động ở Indonesia không diễn ra ồ ạt như một số các quốc gia đang phát triển

khác và khu vực nông nghiệp vẫn giải quyết được vấn đề việc làm cho đa số lao động

nghèo. Mặt trái của vấn đề này nằm ở chỗ, khi khu vực công nghiệp ngày càng tạo ra

nhiều giá trị tăng trưởng hơn cho xã hội thì khoảng cách về thu nhập của người lao động

giữa các khu vực gia tăng mạnh. Và với cơ cấu tăng trưởng như vậy, thành tựu giảm

nghèo có nguy cơ bị đe dọa trong dài hạn. Nếu Chỉnh phủ không có cơ chế phân phối lại

hợp lý thì nghèo đói sẽ vẫn còn là vấn đề nan giải của Indonesia trong tương lai.

Như vậy, có thể thấy thành tựu tăng trưởng và giảm nghèo của Indonesia trong

vài thập kỷ vừa qua đạt được là khá rõ nét. Với tiềm lực tăng trưởng kinh tế như hiện

nay, Indonesia hứa hẹn sẽ vươn ra ngoài khu vực Đông Nam Á để cạnh tranh với những quốc gia có tiềm lực kinh tế mạnh hơn. Tăng trưởng trong giai đoạn vừa qua

cũng góp phần đáng kể trong mục tiêu giảm nghèo thông qua cơ chế tạo ra việc làm,

hay tăng trưởng tạo ngân sách cho việc thực hiện các chính sách hỗ trợ thu nhập trực tiếp cho nhóm đối tượng nghèo trong xã hội. Tuy nhiên, bài học của Indonesia cho thấy rằng thành tựu giảm nghèo trong thời gian gần đây chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với tăng trưởng. Nguyên nhân cơ bản do cơ cấu tăng trưởng có xu hướng gia tăng

mạnh mẽ ở khu vực công nghiệp và dịch vụ, trong khi nông nghiệp vẫn còn là khu vực tạo việc làm cho lao động nghèo lớn nhất. Hệ quả là bất bình đẳng ngày một cao, đe dọa đến khả năng duy trì tốc độ giảm nghèo trong dài hạn. Hơn nữa, Chính phủ can thiệp bằng chính sách hỗ trợ thu nhập trực tiếp cho người nghèo cũng chỉ có tác động ngắn hạn, chưa phải là giải pháp dài hạn cho quốc gia này nếu muốn gắn kết tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo dài hạn.

59

2.4.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Từ kinh nghiệm gắn kết tăng trưởng kinh tế theo ngành với mục tiêu giảm

nghèo của Hàn Quốc, Trung Quốc và Indonesia, có thể nhận thấy rằng mỗi quốc gia ở

mỗi thời điểm và ở mỗi giai đoạn khác nhau thì đều phải có những chiến lược riêng

nhằm bảo đảm cả hai yếu tố tăng trưởng và giảm nghèo. Tuy rằng mỗi quốc gia đều có

đặc điểm kinh tế- xã hội cũng như mục tiêu phát triển kinh tế khác nhau, nhưng nhìn chung đều thống nhất với quan điểm rằng tăng trưởng kinh tế tích cực luôn là nền tảng

cơ bản và cần thiết để thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Trong các chiến lược thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế theo ngành nhằm gắn kết tăng trưởng với giảm nghèo, cả ba nền

kinh tế đều tập trung chủ yếu vào tăng trưởng công nghiệp và nông nghiệp trong khi vai trò trực tiếp của tăng trưởng khu vực dịch vụ không được thể hiện rõ nét như công

nghiệp và nông nghiệp. Và các quốc gia đều phải đối mặt với xu hướng gia tăng bất

bình đẳng trong phân phối thu nhập khi khuyến khích tăng trưởng kinh tế đến một ngưỡng tăng trưởng cao nào đó. Khi bất bình đẳng gia tăng thì thành tựu giảm nghèo

sẽ có xu hướng chững lại và giảm tương đối trong giai đoạn sau. Cụ thể hơn, với mỗi

thực tiễn tăng trưởng ngành và giảm nghèo ở mỗi quốc gia đều để lại cho Việt Nam

những bài học kinh nghiệm quý giá.

Với bối cảnh kinh tế và mức độ phát triển gần với nền kinh tế Việt Nam

nhất, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế theo ngành với thực hiện mục tiêu giảm

nghèo của Indonesia lại cho thấy có nhiều điểm khác biệt so với các quốc gia khác.

Trước hết, để đảm bảo tăng trưởng kinh tế dài hạn, Indonesia vẫn tập trung phát

triển khu vực công nghiệp. Với lợi thế tự nhiên về dầu mỏ và khí thiên nhiên, khu

vực công nghiệp của Indonesia chủ yếu tập trung vào việc khai thác dầu mỏ, khí

thiên nhiên và một số ngành công nghiệp nhẹ. Điều này tất yếu dẫn đến tình trạng

không giải quyết được vấn đề việc làm và thất nghiệp trong nền kinh tế nếu chỉ dựa

trên khu vực công nghiệp. Đa phần lao động nghèo vẫn hoạt động trong khu vực nông nghiệp kém phát triển. Trên thực tế, cho dù trong vài thập kỷ gần đây, Indonesia vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh chủ yếu nhờ vào ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ và khí thiên nhiên, thì tiềm năng tăng trưởng dài hạn của

Indonesia vẫn là vấn đề gây tranh luận. Kết quả tăng trưởng chung cũng như tăng trưởng theo ngành gây khó khăn cho mục tiêu giảm nghèo dài hạn. Do đó, Chính phủ buộc phải can thiệp bằng cách trợ cấp trực tiếp cho người nghèo để gia tăng thu

nhập cho họ. Có thể nhận thấy, chiến lược tăng trưởng theo ngành, cũng như việc gắn kết các thành tựu tăng trưởng này đến mục tiêu giảm nghèo của Indonesia còn khá lỏng lẻo và kém hiệu quả. Khoảng cách giữa thu nhập của người nghèo và

60

người giàu trong xã hội Indonesia rất cao, mà Chỉnh phủ dường như chỉ đang nỗ

lực giảm bất bình đẳng về mặt hình thức và trong ngắn hạn.

Trung Quốc, một quốc gia có quy mô dân số lớn và diện tích rộng, cũng có

những bài học kinh nghiệm riêng trong quá trình gắn kết tăng trưởng kinh tế theo

ngành đến mục tiêu giảm nghèo. Có thể nói, tốc độ tăng dân số nhanh tương đối của Trung Quốc khiến cho nguy cơ bùng phát tình trạng nghèo đói luôn là mối nguy hiểm

thường trực của Chính phủ. Việt Nam cũng có nguy cơ gia tăng dân số tự nhiên có thể

dẫn đến tăng nghèo đáng kể. Để đảm bảo tăng trưởng gắn kết với giảm nghèo, Trung

Quốc đã thực thi các chính sách giảm nghèo vô cùng hiệu quả. Các chính sách này hướng trực tiếp tới người nghèo, đặc biệt hướng tới những người nghèo nhất sống

trong khu vực nông thôn, miền núi và những nơi điều kiện cơ sở hạ tầng khó khăn.

Việc tập trung nguồn lực giải quyết trực tiếp vấn đề nghèo đói từ cái lõi của nghèo

khiến thành tựu của Trung Quốc về giảm nghèo rất đáng ghi nhận. Người nghèo ở khu

vực nông thôn, vùng sâu vùng xa được quan tâm hỗ trợ bằng cách Chính phủ hướng

dẫn kỹ thuật cải thiện giống cây trồng, vật nuôi, đẩy cao giá nông sản trên thị trường.

Chính sách này của Trung Quốc có tác động cả ngắn hạn lẫn trong dài hạn để giảm

nghèo. Việc hỗ trợ trong hiện tại giúp người nghèo có cơ hội tiếp cận công nghệ sản

xuất mới, phương thức sản xuất mới. Không những thế, Chính phủ còn tạo điều kiện

về vốn vay, cơ sở hạ tầng để các hộ nghèo triển khai thực hiện. Chất lượng nông sản

gia tăng kéo theo sự tăng giá nhóm hàng này, và thu nhập của hộ dần được cải thiện.

Xét cơ cấu tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc thì quốc gia này vừa đẩy nhanh công

nghiệp hóa, đô thị hóa tạo việc làm cho lao động nghèo di cư từ nông thôn ra thành thị,

tuy nhiên Chính phủ cũng vẫn quan tâm đến khu vực nông nghiệp nhằm giải quyết việc làm ở khu vực này. Bài học gắn kết tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo ở Trung

Quốc có tác động tích cực và dài hạn. Tuy nhiên, để thực hiện được những chiến lược

này đòi hỏi nền kinh tế phải có đủ tiềm lực để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và việc làm ở cả hai khu vực nông nghiệp và công nghiệp. Đây là con đường gắn kết tăng trưởng công nghiệp và nông nghiệp với giảm nghèo dài hạn mà Việt nam có thể rút kinh nghiệm và học tập.

Với bài học kinh nghiệm từ Hàn Quốc, có thể nhìn nhận thành tựu tăng trưởng kinh tế có tác động đến xóa đói giảm nghèo đến từ việc thực hiện tốt các chính sách xã hội hỗ trợ cho hộ nghèo từ thu nhập đến việc làm; quá trình tăng trưởng kinh tế hài hòa và hợp lý diễn ra trong một thời gian dài ở khu vực công nghiệp và nông nghiệp giải quyết việc làm cho rất nhiều hộ nghèo trong nền kinh tế. Trong đó, Hàn Quốc từ việc phát triển một số ngành công nghiệp nhẹ rồi đến công nghiệp nặng làm trọng tâm của

61

các chiến lược tăng trưởng kinh tế giai đoạn công nghiệp hóa. Đồng thời, cũng trong

thời gian này, chiến lược thay thế hàng nhập khẩu dần được chuyển đổi thành chiến lược xuất khẩu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chung, tạo điều kiện cho việc gia

tăng ngân sách Chính phủ thực hiện mục tiêu giảm nghèo. Bài học kinh nghiệm gắn

kết tăng trưởng kinh tế theo ngành tới mục tiêu giảm nghèo của Hàn Quốc giai đoạn những năm 1970 đến nay phù hợp cho bối cảnh kinh tế- xã hội Việt Nam hiện nay.

Đặc biệt, thực hiện công nghiệp hóa và xác định tăng trưởng khu vực công nghiệp là

nền tảng và trọng tâm của công nghiệp hóa, nhưng Hàn Quốc vẫn thực hiện rất tốt các

chính sách tăng trưởng và phát triển trong khu vực nông nghiệp. Đây có thể coi là bài học quý giá cho Việt Nam nhằm thúc đẩy tăng trưởng nông nghiệp đồng thời với mục

tiêu giảm nghèo. Chính sách cải cách ruộng đất được Hàn Quốc thực hiện từ rất sớm,

trước khi nền kinh tế bước vào giai đoạn công nghiệp hóa, đã khiến năng suất lao động

nông nghiệp gia tăng đáng kể góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế chung. Hơn

nữa, khu vực nông nghiệp nhờ đó cũng đã đảm nhiệm vai trò tạo việc làm rất lớn đặc

biệt cho lao động nghèo. Do vậy, tỷ lệ người nghèo đều giảm rất nhanh kể cả giai đoạn

trước và trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hóa- thúc đẩy mạnh mẽ tăng trưởng khu

vực công nghiệp. Tuy nhiên, khi tăng trưởng công nghiệp quá cao, dẫn đến bất bình

đẳng gia tăng thì thành tựu giảm nghèo cũng có xu hướng chững lại.

62

CHƢƠNG 3 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. Khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu

Trên cơ sở hệ thống hóa cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu thực

nghiệm về tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo đã trình bày

CẤU TRÚC TĂNG TRƯỞNG KINH

trong chương 1 và 2, khung phân tích được thể hiện ở Hình 3.1:

TẾ THEO NGÀNH

KINH TẾ

CHÍNH SÁCH GẮN KẾT TTKT

NHẬN THỨC & NỖ LỰC

VỚI GIẢM NGHÈO

CỦA NGƯỜI NGHÈO

MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG

Hình 3.1: Khung phân tích tác động của tăng trƣởng kinh tế theo ngành

đến giảm nghèo ở Việt Nam

Khung phân tích thể hiện những kênh tác động chung của tăng trưởng theo ngành (tác động của tăng trưởng và tương tác giữa 3 ngành nông nghiệp, công nghiệp

và dịch vụ) tới giảm nghèo. Các kênh tác động được xác định trong khung phân tích là các kênh tác động gián tiếp và là các kênh cơ bản nhất Trong đó, tác động của tăng

trưởng kinh tế theo ngành đến tình trạng nghèo đói được cụ thể hóa qua ba kênh chung

63

bao gồm: việc làm, nguồn lực, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mối tác động này bị ảnh

hưởng bởi 4 nhóm yếu tố cơ bản bao gồm: mô hình tăng trưởng kinh tế, cấu trúc tăng trưởng ngành kinh tế, chính sách gắn kết tăng trưởng và giảm nghèo và nhận thức và

nỗ lực của người nghèo.

Từ khung phân tích này, các giả thuyết nghiên cứu được đưa ra để ước lượng và

kiểm định ba kênh tác động:

Giả thuyết 1: Tăng trưởng kinh tế theo ngành tác động đến giảm nghèo ở Việt

Nam qua kênh việc làm. Có 2 giả thuyết phụ của giả thuyết này.

Giả thuyết 1a: Tăng trưởng việc làm ở cả ba ngành nông nghiệp, công nghiệp

và dịch vụ đều có tác động tích cực đến giảm nghèo.

Giả thuyết 1b: Tăng trưởng việc làm của khu vực công nghiệp và dịch vụ sẽ có tác

động tích cực hơn tới giảm nghèo so với tăng trưởng việc làm khu vực nông nghiệp.

Giả thuyết 2: Tăng trưởng kinh tế theo ngành tác động đến giảm nghèo ở Việt

Nam qua kênh tiếp cận nguồn lực được hỗ trợ từ chính phủ. Có các giả thuyết phụ của

giả thuyết này.

Giả thuyết 2a: Tăng trưởng kinh tế theo ngành tác động tích cực đến giảm

nghèo qua hỗ trợ nguồn lực sản xuất cho hộ nghèo.

Giả thuyết 2b: Tăng trưởng kinh tế theo ngành tác động tích cực đến giảm

nghèo qua hỗ trợ về thu nhập trực tiếp cho hộ nghèo.

Giả thuyết 2c: Tăng trưởng kinh tế theo ngành tác động đến giảm nghèo qua hỗ

trợ nguồn lực sản xuất sẽ lớn hơn qua hỗ trợ thu nhập.

Giả thuyết 3: Tăng trưởng kinh tế theo ngành tác động đến giảm nghèo ở Việt

Nam qua kênh chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Có 2 giả thuyết phụ của giả thuyết này.

Giả thuyết 3a: Tăng trưởng và chuyển dịch của khu vực công nghiệp và dịch vụ

có tác động đến giảm nghèo lớn hơn khu vực nông nghiệp.

Giả thuyết 3b: Tăng trưởng và chuyển dịch của khu vực công nghiệp có tác

động lớn nhất đến giảm nghèo.

Trên cơ sở ước lượng và kiểm định ba kênh tác động trên qua các giả thuyết trên, những nhóm nhân tố tương tác bên ngoài sẽ được phân tích đánh giá nhằm hướng tới việc xây dựng đề xuất giải pháp chính để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo ngành gắn kết với mục tiêu giảm nghèo ở Việt Nam trong tương lai.

64

3.2. Phƣơng pháp định tính

3.2.1. Phân tích định tính

Phương pháp phân tích định tính được sử dụng nhằm phân tích, tổng hợp để chỉ ra các kênh tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo, trên cơ sở đó

xây dựng các giả thuyết nghiên cứu và lựa chọn mô hình nghiên cứu phù hợp khi phân tích tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo. Phương pháp này còn được sử

dụng để tổng hợp, phân tích số liệu thực tiễn của Việt Nam trong giai đoạn 2010-2016

để làm rõ thực trạng tác động của tăng trưởng kinh tế chung và tăng trưởng kinh tế

theo ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, tổng hợp và so sánh các kết

quả nghiên cứu để đưa ra giải pháp gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế theo ngành và

giảm nghèo ở Việt Nam.

3.2.2. Thống kê mô tả

Phương pháp được sử dụng để mô tả thực trạng tăng trưởng chung, tăng

trưởng theo ngành cũng như thực trạng tăng trưởng việc làm, thực trạng hộ nghèo tiếp

cận các nguồn lực sản xuất và hỗ trợ thu nhập từ Chính phủ, thực trạng chuyển dịch cơ

cấu kinh tế, thực trạng giảm nghèo của Việt Nam. Đồng thời, các dữ liệu được mô tả

trên đồ thị, bảng biểu để có thể thấy rõ xu hướng và tương quan biến động một cách

trực quan. Những mô tả và nhận định này sẽ tạo nên bức tranh tổng quan chung về

thực trạng và làm cơ sở cho những phân tích định lượng.

3.2.3. Thống kê so sánh

Phương pháp được sử dụng để so sánh khi phân tích định tính các nội dung

tăng trưởng kinh tế theo ngành, tăng trưởng việc làm giữa các ngành, tình trạng các

hộ nghèo nhận hỗ trợ nguồn lực thông qua hai nhóm chính sách. Phương pháp

thống kê so sành còn được sử dụng nhằm phân tích và so sánh các kết quả của phân tích định lượng như tác động của tăng trưởng của từng ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam; so sánh tác động của các hình thức hỗ trợ của chính phủ đến giảm nghèo ở Việt Nam.

3.3. Phƣơng pháp định lƣợng

Phương pháp phân tích định lượng được sử dụng để ước lượng tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam qua ba kênh tác động bao gồm: kênh việc làm, khả năng tiếp cận nguồn lực từ tăng trưởng ngành, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Cụ thể:

65

3.3.1. Mô hình Tác động cố định (FEM)

Ước lượng tác động của tăng trưởng theo ngành đến giảm nghèo qua

kênh tạo việc làm

Mô hình ước lượng được xây dựng nhằm kiểm định giả thuyết 1, giả thuyết 1a

và giả thuyết 1b. Để đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm

nghèo ở Việt Nam thông qua kênh tạo việc làm, các kiểm định thống kê sẽ được thực hiện nhằm lựa chọn mô hình ước lượng phù hợp nhất trong các phương pháp sau:

Phương pháp bình phương nhỏ nhất (Ordinary Least Square-OLS); phương pháp mô

hình các ảnh hưởng cố định (Fixed Effect Model, FEM); phương pháp mô hình các

ảnh hưởng ngẫu nhiên (Random Effect Model, REM). Với mục tiêu là đánh giá vai trò của tăng trưởng việc làm trong các ngành có tác động đến tỷ lệ nghèo đói như thế nào,

mô hình được xây dựng với biến phụ thuộc là tỷ lệ nghèo đói (POV) và các biến độc lập bao gồm giá trị GDP bình quân, tốc độ tăng trưởng việc làm của ba khu vực công

nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ và một số biến kiểm soát. Theo như đã trình bày ở

phần lý thuyết, quá trình mở rộng việc làm ở mỗi ngành sẽ chịu tác động bởi lực hút

kéo lao động vào ngành đó và lực đẩy lao động ra khỏi ngành. Tốc độ tăng trưởng của

việc làm ở mỗi ngành gia tăng sẽ đều gia tăng cơ hội việc làm cho các nhóm dân cư.

Tuy nhiên, khả năng tiếp cận việc làm của mỗi nhóm dân cư lại khác nhau và nhóm

người nghèo thường khó khăn hơn trong việc tiếp cận việc làm. Theo quy luật chung,

trong thời kỳ công nghiệp hóa như Việt Nam đang trải qua hiện nay, mở rộng việc làm

tương đối giữa các ngành còn tạo ra lực đẩy và hút lao động giữa các ngành này với

nhau. Tốc độ tăng trưởng việc làm của ngành nào cao hơn tương đối sẽ có xu hướng

thu hút lao động từ ngành có tốc độ tăng trưởng việc làm thấp hơn. Tuy nhiên, ngay cả

khi một ngành nào đó có khả năng tăng trưởng việc làm vượt trội, tạo ra động lực lớn

thu hút lao động từ ngành khác, thì nhóm người nghèo cũng là nhóm dân cư chậm

thích ứng và yếu thế hơn trong quá trình tìm việc làm mới. Như vậy, tác động của tốc độ tăng trưởng việc làm của mỗi ngành đến giảm nghèo chịu hai tác động hút và đẩy lao động sẽ dẫn tới hai hiệu ứng đều có thể xảy ra là hiệu ứng tích cực và tiêu cực đối

với giảm nghèo. Khả năng tìm việc làm hướng tới mục tiêu nâng cao thu nhập thoát nghèo phụ thuộc vào những yếu tố như trình độ giáo dục, tình trạng sử dụng đất nông nghiệp, khả năng cạnh tranh để tìm kiếm việc làm. Do vậy, mô hình đề xuất cần kiếm soát những yếu tố sau: mức độ đô thị hóa, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, tỷ lệ lao động

đã sẵn có việc làm, tỷ lệ đất nông nghiệp bình quân trên mỗi lao động.

Từ những phân tích trên và kế thừa mô hình ước lượng từ nghiên cứu của Page J. và Shimeles A. (2014), khả năng mở rộng việc làm từ các ngành nông nghiệp, công

66

nghiệp và dịch vụ có tác động tới tỷ lệ nghèo đói sẽ được ước lượng theo phương trình

(1) như sau:

POVit = α0 + α1*GDPbqit + α2*AGRwk_it + α3*INDwk_it + α4*SERwk_it + α5*URBit + α6*Labedu_it + α7*Labwk_it + α8*TLit + υ (1)

Trong đó: POVit là tỷ lệ nghèo đói của tỉnh i tại thời điểm t. Tỷ lệ nghèo đói được xác định bằng tỷ lệ hộ gia đình sống dưới chuẩn nghèo (trong đó chuẩn nghèo

được tính theo thu nhập hoặc chi tiêu và chuẩn nghèo thay đổi theo các ngưỡng như đã

trình bày và có sự khác biệt giữa các tỉnh/ thành phố).

GDPbqit là giá trị GDP bình quân đầu người của tỉnh i tại thời điểm t. Giá trị

sản lượng các khu vực được tính dựa trên giá trị gia tăng và theo giá so sánh.

AGRwk_it, INDwk_it , SERwk_it là tốc độ tăng trưởng việc làm trong khu vực nông

nghiệp, công nghiệp và dịch vụ của tỉnh i tại thời điểm t.

URBit là tỷ lệ đô thị hóa của tỉnh i tại thời điểm t. Chỉ số được tính qua tỷ lệ của

dân số sống ở khu vực đô thị so với tổng dân số của tỉnh tại thời điểm t.

Labedu_it là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của tỉnh i tại thời điểm t. Tỷ lệ được

tính bằng số lao động được đào tạo trên tổng số lao động của tỉnh tại thời điểm t.

Labwk_it là tỷ lệ lao động có việc làm của tỉnh i tại thời điểm t. Tỷ lệ được tính

bằng số lao động có việc làm trên tổng số lao động của tỉnh tại thời điểm t

TLit là tỷ lệ đất nông nghiệp bình quân của tỉnh i tại thời điểm t. Tỷ lệ được tính

bằng diện tích đất nông nghiệp trên số dân cư của tỉnh tại thời điểm t.

Quy trình ước lượng thực hiện trên phần mềm Stata như sau:

- Kiểm định Breusch-Bagan lựa chọn giữa phương pháp bình phương nhỏ nhất

(OLS) hay mô hình tác động cố định (fixed-effect model-FE) hoặc ngẫu nhiên (random-effect model-RE). Nếu kiểm định cho kết quả không có tác động ngẫu nhiên thì mô hình lựa chọn là OLS gộp. Ngược lại, nếu kết quả kiểm định cho rằng có tác động ngẫu nhiên thì lựa chọn mô hình tác động cố định hoặc ngẫu nhiên theo kiểm

định sau đây.

- Kiểm định Hausman để lựa chọn giữa mô hình FE hay RE. Kiểm định này xem có tồn tại tương quan giữa thành phần sai số và các biến độc lập. Kết quả kiểm định sẽ là căn cứ để lựa chọn mô hình FE hoặc RE. Nếu không có minh chứng khẳng định tương quan giữa thành phần sai số và các biến độc lập, chúng ta sẽ sử dụng mô

hình RE, ngược lại, nếu có tồn tại mối tương quan này thì lựa chọn mô hình FE.

67

Số liệu về nghèo đói được Tổng Cục thống kê Việt Nam công bố hàng năm

trong hệ thống số liệu điều tra hàng năm và số liệu điều tra hộ gia đình (VHLSS).

Số liệu về tăng trưởng GDP, tỷ lệ sở hữu đất nông nghiệp bình quân được sử

dụng từ thống kê tình hình kinh tế xã hội hàng năm của Tổng cục Thống kê Việt Nam.

Số liệu về tỷ lệ đô thị hóa được sử dụng từ Tổng điều tra dân số và nhà ở. Số liệu về tỷ lệ lao động có việc làm các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cấp tỉnh, tỷ lệ

lao động qua đào tạo cấp tỉnh được sử dụng từ Báo cáo điều tra Lao động và việc làm

của Bộ Lao động, Thương binh-Xã hội

3.3.2. Phương pháp Kết nối điểm xu hướng (PSM) và Khác biệt kép (DID)

Ước lượng tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua khả năng tiếp cận nguồn lực

Phương pháp định lượng này nhằm để kiểm định giả thuyết 2 bao gồm ba giả thuyết nhỏ 2a, 2b và 2c. Khả năng tiếp cận nguồn lực từ tăng trưởng kinh tế chủ yếu từ

sự hỗ trợ và đảm bảo thông qua các chương trình và chính sách của Chỉnh phủ nhằm

đạt được mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Phần này sẽ kiểm định xem tăng khả năng tiếp

cận nguồn lực của hộ nghèo có thực sự cải thiện được phúc lợi cho hộ nghèo giúp họ

thoát nghèo. Về cơ bản, hộ nghèo có thể tiếp cận các nguồn lực thông qua hai hình

thức là tiếp nhận trực tiếp và tiếp nhận gián tiếp. Tiếp nhận trực tiếp được xem xét

thông qua việc hộ nghèo nhận hỗ trợ bằng tiền và tiếp nhận gián tiếp được xem xét

thông qua việc hộ nghèo nhận hỗ trợ qua các chương trình, dự án cung cấp về nguồn

tín dụng, công cụ sản xuất và phương thức sản xuất. Việc hộ nghèo tiếp cận được

nguồn lực sản xuất liệu có đem lại lợi ích lớn hơn so với việc hộ nghèo được hỗ trợ

trực tiếp bằng tiền hay không.

Để trả lời câu hỏi này, việc đánh giá sẽ được thực hiện thông qua việc xem xét

sự thay đổi của nhóm người nghèo trước và sau khi nhận nguồn lực hỗ trợ. Tuy nhiên, trên thực tế, nhóm người nghèo không chỉ bị tác động bởi việc tham gia hỗ trợ mà còn bị chi phối bởi rất nhiều các nhân tố chủ quan và khách quan khác trong nền kinh tế-xã hội. Điều đó khiến cho sự thay đổi của nhóm đối tượng này có thể bắt nguồn từ tác

động của việc tham gia hỗ trợ, cũng có thể từ rất nhiều các nhân tố tác động khác mà người quan sát không thể kiểm soát được. Do đó, đơn thuần chỉ xem xét sự khác biệt trước và sau khi tham gia hỗ trợ của đối tượng sẽ đem lại những kết quả thiếu chính xác và khó có thể kiểm định được.

Để khắc phục điều này, theo các nghiên cứu của Khandker, Koolwal và Samad (2010), phương pháp “Kết nối điểm xu hướng” (PSM) và phương pháp “Khác biệt

68

kép” (DID) được sử dụng. Luận án sử dụng đồng thời hai phương pháp PSM và

phương pháp DID. Ý tưởng của việc kết hợp này là sử dụng nhóm so sánh dựa trên điểm xu hướng để khắc phục nhược điểm không kiểm soát được đặc trưng của hai

nhóm tham gia và không tham gia hỗ trợ trước khi tính toán chỉ số khác biệt trong

khác biệt.

Đầu tiên, việc so sánh để đánh giá hỗ trợ dựa trên so sánh giữa “thực tế” và

“phản thực tế”. Về cơ bản, “phản thực tế” không tồn tại nên để thực hiện nguyên tắc

này, chúng ta cần mô phỏng lại “ phản thực tế” bằng cách chọn lọc và xây dựng ra một

nhóm có các đặc tính và tính chất tương đồng với “ thực tế” nhưng lại không tham gia chính sách. Nhóm được chọn lọc này phải bảo đảm hai tiêu chí: (i) không nhận được

hỗ trợ, không bị tác động từ xa bởi hỗ trợ; (ii) Càng giống nhóm được nhận hỗ trợ

càng tốt. Dựa trên ý tưởng này, phương pháp PSM và DID được diễn giải cụ thể hơn

như sau:

Phương pháp Kết nối điểm xu hướng (PSM)

Bản chất của phương pháp PSM là xây dựng nhóm so sánh bằng các phương pháp

thống kê. Dựa vào các đặc tính quan sát được giữa nhóm tham gia và nhóm hỗ trợ,

chúng ta xây dựng một chỉ số gọi là điểm xu hướng (propensity score) - là xác xuất

một quan sát được chọn vào nhóm tham gia hay nhóm so sánh. Chỉ số xu hướng hoàn

toàn được tính toán dựa trên các đặc tính quan sát được, do đó phương pháp PSM yêu

cầu việc lựa chọn mẫu chỉ phụ thuộc vào các đặc tính có thể thấy được, các đặc tính

không quan sát được không ảnh hưởng đến quá trình chọn nhóm tham gia hay nhóm

so sánh.

Phương pháp khác biệt kép (DID)

Phương pháp này sử dụng một nhóm không tham gia hỗ trợ làm nhóm so sánh.

Sau đó thu thập số liệu của nhóm tham gia và không tham gia, trước và sau hỗ trợ. Số liệu sẽ cho thấy sự thay đổi của mỗi nhóm. Khác biệt của thay đổi giữa hai nhóm (khác biệt kép), chính là tác động của hỗ trợ.

Quy trình ước lượng như sau:

+ Trước hết, sử dụng mô hình probit hoặc logit để tính điểm xu hướng:

Pscore = P(Ci = 1) = αo + + ui

là biến nhị phân, Ci = 1 nếu có tham gia hỗ trợ; Xji là đặc trưng của hộ gia đình

Trong đó: Ci

69

+ Sau đó xây dựng vùng hỗ trợ chung và loại bỏ các quan sát không nằm trong

vùng này. Đồng thời, phân chia các quan sát dựa theo điểm xu hướng vào các khối, nhằm đảm bảo giá trị trung bình của mỗi biến số kiểm soát các đặc trưng của nhóm

tham gia là cân bằng với nhóm so sánh trong từng khối.

+ Cuối cùng, hồi quy mô hình để đánh giá tác động bằng khác biệt kép có dạng

như phương trình (1) sau đây:

Yi = βo + β1.Ti + β2.Year + β3.(T*Year) + εi (1)

Trong đó: Yi là phúc lợi hộ gia đình thứ i; T là biến trạng thái tham gia hỗ trợ (T=0, 1), Year là biến thời gian trước và sau khi tham gia hỗ trợ. Hệ số của biến tương tác T và

Year là giá trị khác biệt trong khác biệt (DID), hay chính là tác động của hỗ trợ.

Quy trình ước lượng được thực hiện trên phần mềm Stata như sau:

- Sử dụng phương pháp Kết nối điểm xu hướng (PSM) để đánh giá khả năng

hộ nghèo tham gia vào nhóm chính sách hỗ trợ nguồn lực cho sản xuất hoặc hộ tham gia nhóm chính sách hỗ trợ trực tiếp bằng thu nhập.

- Sử dụng phương pháp Khác biệt kép để đánh giá sự thay đổi trong phúc lợi

của hộ nghèo - được đo bằng cơ cấu thu nhập và chi tiêu của hộ - trước và sau khi

tham gia nhận hỗ trợ về nguồn lực cho sản xuất hoặc nhận trợ cấp tiền trực tiếp từ

Chính Phủ.

Đánh giá được thực hiện trên cơ sở dữ liệu dựa trên bộ số liệu Điều tra mức

sống hộ gia đình (VHLSS) năm 2010, 2012 2014, 2016. Sau khi loại bỏ các quan sát

không đầy đủ thông tin và ghép nối các hộ gia đình được điều tra ở cả hai năm, thu

được bộ số liệu mảng cân bằng cuối cùng gồm các quan sát cho ba giai đoạn tương

ứng với 4115 hộ gia đình.

Trong các nhóm chính sách hỗ trợ, có 7 chính sách hỗ trợ hộ nghèo được chọn

ra để đánh giá bao gồm : (1) dạy nghề cho người nghèo, người thu nhập thấp; (2) cấp đất sản xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu số; (3) tín dụng ưu đãi đối với người nghèo;

(4) hỗ trợ máy móc, vật tư sản xuất; (5) hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; (6) trợ cấp lương thực; (7) trợ cấp khó khăn đối với hộ nghèo. 7 chính sách hỗ trợ này được chia ra thành hai nhóm chính sách: Nhóm 1 là chính sách hỗ trợ nguồn lực sản xuất bao gồm 4 nhóm nhỏ: dạy nghề cho người nghèo, người thu nhập thấp; cấp đất sản xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu số; tín dụng ưu đãi đối với người nghèo; Nhóm 2 là chính sách hỗ trợ thu nhập bao gồm 3 chính sách hỗ trợ: Hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; trợ cấp lương thực; trợ cấp khó khăn đối với hộ nghèo.

70

3.3.3. Phương pháp Hệ phương trình đồng thời (SE)

Ước lượng tác động của tăng trưởng theo ngành đến giảm nghèo qua kênh chuyển dịch cơ cấu ngành

Mô hình này được sử dụng trong phân tích định lượng nhằm hướng tới việc

kiểm định lại giả thuyết 3, giả thuyết 3a và giả thuyết 3b. Quá trình chuyển dịch cơ cấu

ngành phản ánh sự thay đổi về số lượng, chất lượng của các ngành trong mối liên kết và tương tác giữa các ngành một cách chặt chẽ. Do vậy, bản thân mỗi ngành tăng

trưởng có tác động đến giảm nghèo nhưng mỗi ngành lại có tương tác qua lại với

những ngành khác. Mối tương tác này cũng góp phần tác động đến thành tựu giảm

nghèo. Tương tác giữa các ngành trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế được thể hiện trực tiếp qua quá trình dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và

dịch vụ. Đánh giá tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành tới giảm nghèo trên thực tế rất phức tạp vì tồn tại vấn đề nội sinh do các ngành có tương tác lẫn nhau.

Qua thực trạng tác động kể trên và kế thừa từ nghiên cứu lý thuyết có đề cập và

giải quyết vấn đề nội sinh trong tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm

nghèo (Allen, 2004), mô hình ước lượng tác động của tăng trưởng theo ngành đến

giảm nghèo qua kênh chuyển dịch cơ cấu ngành được xây dựng dựa trên cơ sở mô

POVit = α0 + α1*AGRIit + α2*INDit + α3*SEVit + α4*LITit + α5*URBit + α6*Lab wk_it +ν (1)

(2)

AGRIit = β0 + β1*POVit + β2*INDit + β3*SEVit + β4*TLit + β5*URBit + μ

INDit = γ0 + γ1*AGRIit + γ2*SEVit + γ3*Lab edu_it + γ3*URBit + γ3*STRUCit + λ (3)

(4)

URBit = δ0 + δ1*AGRIit + δ2*INDit + δ3*SEVit + δ4*POPit + δ5*Lab_NAit + ξ

hình hệ phương trình đồng thời. Hệ bao gồm 4 phương trình đồng thời như sau:

Phương trình (1) ước lượng tác động của tăng trưởng ngành tới nghèo đói. Đây là

phương trình cơ bản đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến nghèo đói. Biến phụ thuộc được xác định là tỷ lệ nghèo đói POV, các biến giải thích bao gồm biến tăng trưởng của các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ (AGRI, IND, SEV). Tuy nhiên, ngoài tăng trưởng ngành tác động trực tiếp, nghèo đói còn bị tác

động bởi khả năng mở rộng việc làm, tương tác giữa các ngành và trình độ dân trí. Như đã diễn giải ở trên, tương tác giữa các ngành thể hiện qua quá trình dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ được đại diện qua chỉ số về tỷ lệ đô thị hóa (URB). Khả năng tạo việc làm được đại diện qua tỷ lệ lao động có việc làm hàng năm (Labwk). Trình độ dân trí sẽ được đại diện qua tỷ lệ người biết chữ trong nền kinh tế (LIT).

71

Phương trình (2) đánh giá tác động tới tăng trưởng và chuyên dịch cơ cấu khu

vực nông nghiệp. Biến phụ thuộc là tốc độ tăng trưởng khu vực nông nghiệp (AGRI), các biến giải thích bao gồm tỷ lệ nghèo đói (POV), tăng trưởng khu vực công nghiệp

(IND) và dịch vụ (SEV). Hoạt động sản xuất trong khu vực nông nghiệp ở Việt Nam

vẫn còn mang tính mùa vụ, phụ thuộc lớn vào đất nông nghiệp. Do vậy, ngoài các biến đã đưa ra, tăng trưởng nông nghiệp còn được giải thích qua các biến bao gồm: tỷ lệ

bình quân đất nông nghiệp cho mỗi lao động nông nghiệp (TL) và tỷ lệ lao động nông

nghiệp hoạt động phi nông nghiệp (Lab_NA)

Phương trình (3) đánh giá tác động đến tăng trưởng và chuyên dịch cơ cấu khu vực công nghiệp. Biến phụ thuộc là tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp (IND). Các biến

giải thích bao gồm tốc độ tăng trưởng khu vực nông nghiệp (AGRI) và dịch vụ (SEV).

Giáo dục cũng có tác động lớn tới tăng trưởng công nghiệp, điều này được thể hiện rõ nhất qua chỉ số lao động đã được qua đào tạo (Labedu). Tăng trưởng khu vực công nghiệp cũng bị tác động bởi hai nhân tố đô thị hóa (URB) và tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế

(STRUC). Biến STRUC được tính toán dựa trên công thức tổng quát của Moore (1978).

Phương trình (4) đánh giá tác động đến đô thị hóa. Biến phụ thuộc là tỷ lệ đô thị

hóa (URB). Các biến giải thích bao gồm tỷ lệ nghèo đói (POV) sản lượng các ngành

nông nghiệp (AGRI), công nghiệp (IND) và dịch vụ (SEV). Ngoài ra, một số nhân tố

khác cũng tác động lớn đến đô thị hóa, bao gồm dân số (POP), tỷ lệ lao động nông

nghiệp hoạt động phi nông nghiệp (LAB_NA).

Hệ phương trình đồng thời trên được xây dựng dựa trên giả định: trong quá

trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành thì khu vực dịch vụ có tương tác không đáng

kể (do tỷ trọng khu vực dịch vụ trong cơ cấu ngành khá ổn định trong khoảng thời gian nghiên cứu của luận án. Biến động trong cơ cấu ngành chủ yếu do tương tác giữa hai

khu vực nông nghiệp và công nghiệp).

Số liệu sử dụng để ước lượng mô hình này là số liệu của 63 tỉnh/ thành phố ở

Việt Nam trong giai đoạn 2010 đến 2016 được thu thập từ các nguồn sau đây:

Số liệu tỷ lệ nghèo đói, tốc độ tăng trưởng các khu vực nông nghiệp-công

nghiệp-dịch vụ; tỷ lệ người biết chữ tỷ lệ đô thị hóa; tỷ lệ bình quân đất nông nghiệp được sử dụng từ điều tra kinh tế-xã hội hàng năm của Tổng cục Thống kê Việt Nam.

Số liệu về dân số, tỷ lệ lao động có việc làm, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo, tỷ lệ lao động hoạt động phi nông nghiệp được sử dụng từ báo cáo Lao động- việc làm của Tổng cục Thống kê và Điều tra Lao động- Việc làm của Bộ lao động- Thương binh và xã hội Việt Nam.

72

Tốc độ chuyển dịch cơ cấu được tính toán từ cơ cấu kinh tế theo ngành- số liệu

cơ cấu kinh tế theo ngành được sử dụng từ Điều tra kinh tế-xã hội hàng năm của Tổng cục Thống kê Việt Nam.

Quy trình ước lượng được thực hiện trên phần mềm Stata như sau:

- Xác định và kiểm định các biến nội sinh

- Tìm dạng thu gọn của phương trình trong hệ phương trình đồng thời (RFE-

Reduces form of equations)

- Ước lượng hệ số cho mỗi RFE

-Từ các hệ số ước lượng cho mỗi RFE, tính toán ước lượng các hệ số trong hệ phương trình đồng thời.

3.4. Dữ liệu nghiên cứu

3.4.1. Niên giám thống kê hàng năm- Tổng cục thống kê

Niên giám thống kê quốc gia là ấn phẩm của Tổng cục thống kê bao gồm các số

liệu cơ bản phản ánh động thái và thực trạng tình hình kinh tế-xã hội hàng năm. Số

liệu công bố hàng năm bao gồm số liệu các lĩnh vực: hành chính, dân số&lao động, tài

khoản quốc gia, các ngành sản xuất, chỉ số giá cả, giáo dục, y tế, mức sống dân cư, trật

tự an toàn xã hội và môi trường, thống kê nước ngoài. Trong niên giám thống kê có

báo cáo kinh tế-xã hội hàng năm tổng kết lại những kết quả chính trong một năm của

nền kinh tế.

3.4.2. Số liệu điều tra mức sống dân cư

Để đánh giá mức sống phục vụ hoạch định chính sách và lập kế hoạch phát triển

kinh tế xã hội, Tổng cục Thống kê đã tiến hành nhiều cuộc điều tra mức sống hộ gia đình. Bộ số liệu Điều tra mức sống dân cư (VHLSS) được thực hiện bắt đầu từ năm 1993, lần tiếp theo thực hiện điều tra năm 1998 và sau đó điều tra liên tục hai năm một

lần (khuyết năm 2000). Điều tra mức sống dân cư nhằm theo dõi và giảm sát một cách có hệ thống mức sống các tầng lớp dân cư Việt Nam; giám sát, đánh giá việc thực hiện

Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo; góp phần đánh giá kết quả thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.

Điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên từ các khu vực được liệt kê lựa chọn. Về cơ bản mẫu điều tra có hai cấp độ là cấp xã/ phường; cấp hộ gia đình. Mẫu điều tra gồm 46.995 hộ (37.596 hộ thu nhập và 9.399 hộ thu nhập chi tiêu) được chọn từ 3.133 địa

73

bàn. Mẫu được chọn từ dàn mẫu 15% của Tổng Điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009

được cập nhật khi tiến hành khảo sát. Mẫu khảo sát được thiết kế 2 bước bao gồm: chọn và phân bổ địa bàn khảo sát; chọn hộ khảo sát.

Số liệu tỷ lệ hộ nghèo được sử dụng trong luận án có một vài đặc điểm như sau:

số liệu cấp tỉnh từ năm 2010 đến năm 2016. Trong khoảng thời gian này, chuẩn nghèo liên tục được điều chỉnh tăng lên trong những năm 2010, 2012 và 2014, 2016. Số liệu

nghèo các tỉnh/ thành phố được tính toán theo chuẩn riêng của tỉnh/ thành phố nếu có.

3.4.3. Báo cáo Lao động- Việc làm- Tổng cục Thống kê

Mục đích của cuộc điều tra nhằm thu thập các thông tin về tình trạng tham gia

thị trường lao động của những người từ 15 tuổi trở lên hiện đang sống tại Việt Nam làm cơ sở tổng hợp, biên soạn các chỉ tiêu thống kê quốc gia về lao động, việc làm,

thất nghiệp và thu nhập của người lao động. Qua đó giúp các cấp, các ngành đánh giá

và so sánh sự biến động của thị trường lao động giữa các quý trong năm cũng như với các cuộc điều tra lao động việc làm hàng năm đã tiến hành trước đây của Tổng cục

Thống kê; và xây dựng, hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực, kế hoạch hoạt

động đầu tư, sản xuất, kinh doanh phù hợp với xu hướng phát triển của thị trường lao

động. Cuộc Điều tra lao động và việc làm thường nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật của Tổ

chức Lao động Quốc tế (ILO). Điều tra về Lao động và việc làm hướng tới những nội

dung cơ bản bao gồm: lực lượng lao động, thực trạng việc làm, điều kiện và chất lượng

công việc, tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm, dân số không hoạt động kinh tế, thực

trạng di cư. Những thông tin về Lao động việc làm thường được cập nhật theo quý.

74

CHƢƠNG 4 THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ THEO NGÀNH ĐẾN GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM

4.1. Thực trạng tăng trƣởng kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam 4.1.1. Thực trạng tăng trưởng kinh tế 4.1.1.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế

Đánh giá về tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của Việt Nam trong giai đoạn

này, chúng ta có thể thấy một số nét nổi bật như sau:

Thứ nhất, xem xét về tăng trưởng kinh tế chung cho thấy trong suốt giai đoạn từ

1998 đến năm 2016, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua giai đoạn phục hồi sau khủng

hoảng và một loạt các chính sách cải cách nền kinh tế đã đi vào thực hiện. Điều này dẫn

tới xu thế tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá cao, từ 5,76% trong năm 1998 đến 6,21%

trong năm 2016. Giai đoạn 2002-2007 với kết quả tăng trưởng nổi bật, Việt Nam được

coi là một trong những quốc gia có thành tựu tăng trưởng đáng ghi nhận trong khu vực.

Đặc biệt năm 2007 khi Việt Nam tham gia tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì

những thuận lợi trong tiếp cận thị trường và hội nhập kinh tế thế giới đã tạo điều kiện và

động lực cho tăng trưởng kinh tế. Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt cao nhất

trong suốt giai đoạn 1998-2014 (8,48%). Tuy nhiên, những dấu hiệu khủng hoảng của nền kinh tế toàn cầu đã xuất hiện vào cuối năm 2008 và 2009 ( khoảng 6.32% và 5,32%

lần lượt trong hai năm trên) báo hiệu giai đoạn tăng trưởng sụt giảm. Từ 2008 đến nay,

tốc độ tăng trưởng luôn thấp hơn 7% và không có xu hướng ổn định qua các năm. Chính

Phủ đã đưa ra nhiều giải pháp và các gói kích cầu trong năm 2009 nhưng cũng chỉ cải

thiện được tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm 2010, sau đó tăng trưởng lại tiếp tục xu

hướng giảm đến năm 2012, sau đó tăng nhẹ giai đoạn 2012-2016. Tốc độ tăng trưởng

kinh tế có dấu hiệu được cải thiện bắt đầu từ năm 2013 (năm được coi là năm bản lề của

kế hoạch 5 năm 2011-2016) cho đến nay nhưng mức độ cải thiện trong tốc độ tăng trưởng khá chậm. Tuy nhiên, dù tốc độ tăng trưởng trong năm 2016 (6,21%) đạt được thấp hơn năm 2007 rất nhiều nhưng Việt Nam vẫn nằm trong nhóm các quốc gia vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng cao sau khủng hoảng kinh tế.

So sánh với tốc độ tăng trưởng của giai đoạn từ 1998-2009 thì bình quân giai đoạn 2010- 2016, tốc độ tăng trưởng kinh tế ước đạt chỉ khoảng 5,91%, thấp hơn so với giai đoạn 2006- 2010. Như vậy, nhìn chung trong giai đoạn nghiên cứu, tốc độ tăng trưởng kinh tế chung có giảm, nhưng đặt trong bối cảnh nền kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và kinh tế thế giới thường xuyên xuất hiện nhiều nhân tố bất lợi thì đây vẫn là mức tăng tương đối tốt.

75

Hình 4.1: Tốc độ tăng trƣởng của nền kinh tế trong giai đoạn 1998 - 2016

Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam

Thứ hai, đi cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế chung thì tương quan về năng

lực sản xuất giữa các quốc gia cũng được đánh giá là một tiêu chí quan trọng. Tuy

nhiên, khác với sự biến động lớn của tốc độ tăng trưởng kinh tế của giai đoạn 1998-

2009 so với giai đoạn 2010-2016, so sánh năng lực sản xuất của Việt Nam trong tương

quan với các quốc gia trong khu vực trong giai đoạn từ 1999 đến 2014 cho thấy nhìn

chung vị thế của Việt Nam không những không có có thay đổi nhiều về tương quan

với các quốc gia khác mà còn có xu hướng gia tăng khoảng cách trong tổng sản phẩm

trong nước theo đầu người với một số quốc gia như Singapore, Thái Lan, Trung Quốc.

Hình 4.2: Tổng sản phẩm trong nƣớc bình quân tính theo sức mua tƣơng đƣơng của một số quốc gia và vùng lãnh thổ

Nguồn: Worldbank Development Indicator.

76

Giá trị tổng sản phẩm trong nước bình quân theo sức mua tương đương

trong năm 1999, Việt Nam (1860) chỉ đứng trên Cam-pu-chia (1361) và có khoảng cách khá xa với một số quốc gia trong khu vực như Thái Lan ( 6132 ) và

Malaysia ( 8209 ). Đến năm 2014, sắp xếp thứ tự giữa các quốc gia không có thay

đổi nhiều, tổng sản phẩm trong nước bình quân theo sức mua tương đương của Việt Nam được cải thiện, nhưng khoảng cách so với Thái Lan gia tăng khá xa so

với thời điểm năm 1999 (5629 và 82763). Điểm biến động cơ bản của hầu hết các

quốc gia được nghiên cứu diễn ra từ 2009 đến 2010, một số quốc gia có xu hướng

tăng ổn định, một số quốc gia khác có dấu hiệu tăng đột biến hoặc sụt giảm đáng kể về sản phẩm quốc dân bình quân. Nhóm quốc gia Indonesia, Malaysia,

Singapore có dấu hiệu sụt giảm đột ngột, trong khi Phillipine và Thái Lan tăng đột

biến. Việt Nam, Cam-pu-chia và Trung Quốc tăng đều đặn. So sánh với các quốc

gia và vùng lãnh thổ trong khu vực thì tốc độ tăng của giá trị tổng sản phẩm trong

nước ở mức tương đối cao. Nhìn chung, việc cải thiện năng lực sản xuất trong

nước của Việt Nam khá chậm chạp và kém hiệu quả, không có những thay đổi

mang tính đột biến. Trong giai đoạn đang thực hiện công nghiệp hóa như hiện

nay, sự gia tăng chậm chạp này cho thấy Việt Nam chưa có các thế mạnh hay mũi

nhọn để có thể phát triển sản xuất. Các thành tựu cũng như khó khăn qua tăng

trưởng kinh tế chung được thể hiện cụ thể hơn qua các loại hình cơ cấu tăng

trưởng như tăng trưởng theo thành phần kinh tế, theo ngành kinh tế, theo cơ cấu

4.1.1.2. Tăng trưởng kinh tế theo ngành

tăng trưởng đầu vào và đầu ra.

Trong các loại hình cơ cấu tăng trưởng thì cơ cấu tăng trưởng theo ngành kinh

tế dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội thể hiện rõ nét nhất mức độ phát triển của

nền kinh tế. Biến động trong tăng trưởng các ngành kinh tế ở Việt Nam giai đoạn

1998-2016 được thể hiện trong Hình 4.3 sau.

77

Hình 4.3: Tốc độ tăng trƣởng kinh tế theo ngành từ năm 1998 đến năm 2016

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam.

Nhìn chung, từ những năm 2000 đến nay, công nghiệp và dịch vụ luôn có tốc

độ tăng trưởng kinh tế cao hơn hẳn khu vực nông nghiệp. Trước năm 2008, tốc độ tăng

trưởng công nghiệp rất cao, thường xuyên đạt trên 10% mỗi năm, thấp nhất là nông

nghiệp với tốc độ tăng trưởng giao động từ 3-5% mỗi năm. Giai đoạn sau 2008 thì tốc

độ tăng trưởng của cả 3 ngành đều sụt giảm đáng kể, đặc biệt khu vực công nghiệp có

tốc độ tăng trưởng biến động lớn nhất. Cụ thể thực trạng tăng trưởng của từng khu vực

trong giai đoạn này như sau.

Thứ nhất, nhìn từ góc độ khu vực công nghiệp có thể thấy những điểm nổi bật

sau. Trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, Việt Nam hướng tới việc trở thành một quốc gia công nghiệp vào năm 2020. Để thực hiện được mục tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa này thì vai trò của khu vực công nghiệp là vai trò không thể thay thế. Xu hướng tăng trưởng không ngừng của khu vực công nghiệp cũng được minh họa rõ nét

trong giai đoạn từ 1998 đến 2016 (hình 4.3). Trong năm 1998, khi tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 5,76% thì tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp vượt 8%. Đến năm 2016, tốc độ tăng trưởng khu vực công nghiệp khá cao (7,57%). Tái cơ cấu khu vực

78

công nghiệp gắn liền với phát triển ngành hướng tới đa dạng hóa, từng bước hình

thành những ngành công nghiệp chủ chốt với tốc độ tăng trưởng cao, hình thành thị trường thế mạnh và gia tăng khả năng xuất khẩu. Tổng giá trị đầu ra của ngành công

nghiệp tăng 10% hàng năm trong giai đoạn 1998-2016. Tăng trưởng nhanh trong mọi

khu vực của ngành công nghiệp với một số tỉnh thành tăng trưởng cao đặc biệt như Vĩnh Phúc, Bình Dương, Hải Dương, Cần Thơ, Đồng Nai, Khánh Hòa, Quảng Ninh,

Hải Phòng, Đà Nẵng (Niên giám thống kê các tỉnh, 2016).

Thứ hai, đánh giá dưới góc độ khu vực nông nghiệp, cũng như các quốc gia

đang phát triển khác, nông nghiệp vẫn được coi là một ngành có lợi thế so sánh của Việt Nam và đóng góp vai trò lớn nhất trong cuộc chiến chống đói nghèo. Việt Nam

được coi như một quốc gia nông nghiệp với 24,7 triệu ha diện tích đất nông nghiệp,

rừng và thủy sản, chiếm 74,5% tổng diện tích đất tự nhiên (GSO, 2016). Đối với Việt

Nam, hoạt động nông nghiệp vẫn là hoạt động tạo ra nguồn thu nhập lớn nhất cho các

hộ gia đình khu vực nông thôn. Khoảng 70% dân số Việt Nam sống ở nông thôn với

khoảng 60% sống phụ thuộc vào nông nghiệp, lâm và ngư nghiệp (GSO, 2016).

Sau hơn 20 năm thực hiện chính sách cải cách mở cửa và hướng nền kinh tế

hoạt động theo cơ chế thị trường, năng suất lao động nông nghiệp tăng mạnh. Tăng

trưởng trong năng suất nông nghiệp luôn cao hơn tương đối và tăng ổn định trong hơn

10 năm trở lại đây (từ 1998 đến 2016) với giá trị năng suất bình quân tăng khoảng 5%

mỗi năm. Từ năm 1998 đến 2005, mặc dù khu vực nông nghiệp phải chịu điều kiện

thời tiết khí hậu không thuận lợi với những đợt hạn hán dài, nhiều bão lốc hủy hoại

mùa màng và các đợt dịch cúm gia cầm nguy hiểm, tổng giá trị nông nghiệp vẫn có xu

hướng tăng và đạt giá trị bình quân khoảng hơn 5,4% hàng năm. Kết quả này vượt ra ngoài sự mong đợi cho khu vực nông nghiệp là khoảng 4,8% mỗi năm. Trong giai

đoạn 2006 đến 2016, xu thế tăng trưởng của khu vực nông nghiệp giảm và tăng trưởng

thấp nhất vào năm 2016 với giá trị 1,36%.

Thứ ba, đánh giá dưới góc độ khu vực dịch vụ cho thấy: không biến động quá nhiều như hai khu vực trên, ngành dịch vụ có xu hướng tăng trưởng khá ổn định. Trong

giai đoạn 1991 đến 1995, khu vưc dịch vụ tăng trưởng nhanh với giá trị bình quân khoảng 12% hàng năm. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng giảm còn 5% một năm từ 1996 đến 2000 và sau đó lại có xu hướng tăng kể từ năm 2001. Giá trị đầu ra khu vực dịch vụ tăng lên 8,85% năm 2007, đây là giá trị cao nhất kể từ năm 1997 (hình 3.3). Kết quả này cao hơn xu hướng tăng trưởng chung của nền kinh tế. Khu vực dịch vụ tạo ra nhiều việc làm giai đoạn 1998-2016. Tuy nhiên, trên một số lĩnh vực, khu vực dịch vụ ở Việt Nam chưa thực sự tạo ra môi trường tốt cho sự phát triển kinh tế. Hiện tại, giá dịch vụ viễn thông, các

79

phương tiện thể thao, giao thông vận tải ở Việt Nam vẫn cao hơn giá trị trung bình ở các

nước khu vực Đông Nam Á (30-50% đối với giá dịch vụ viễn thông và hơn 40-50% đối với dịch vụ vận tải biển). Điều này gây ra khó khăn và trở ngại lớn cho quá trình tăng

trưởng kinh tế chung. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2010-2016 thì duy nhất khu vực dịch vụ

cho thấy xu hướng tăng và ít biến động hơn so với khu vực công nghiệp.

Đánh giá tổng thể về tương quan các ngành trong nền kinh tế chung cho thấy xu

hướng thay đổi trong cấu trúc ngành kinh tế ở ba khu vực: nông nghiệp, công nghiệp

và dịch vụ ở Việt Nam từ năm 1998 đến 2016 được thể hiện rất rõ rệt theo bảng 4.4.

Xu hướng chuyển dịch trong cơ cấu ngành thể hiện tỷ trọng ngành công nghiệp tăng nhanh trong giai đoạn 2000 đến 2006, nhưng trong năm 2008 thì chững lại và giảm

nhẹ. Từ năm 2002 đến 2008, xu hướng giảm không mạnh như giai đoạn trước đó

nhưng không duy trì được tốc độ tăng tỷ trọng cao. Giai đoạn 2009 đến nay tỷ trọng

công nghiệp khá ổn định. Ngược lại, tỷ trọng khu vực dịch vụ lại luôn có xu hướng

tăng trong giai đoạn 1998-2016. Giai đoạn 2008 đến nay, tỷ trọng dịch vụ vẫn có xu

hướng tăng nhẹ ổn định. Khu vực nông nghiệp cũng có sự biến động bất thường. Tỷ

trọng nông nghiệp thấp nhất trong giai đoạn từ 2001 đến 2007, sau đó lại có xu hướng

tăng. Những biểu hiện về chuyển dịch cơ cấu ngành ở Việt Nam cho thấy trong giai

đoạn công nghiệp hóa, cơ cấu ngành vẫn chưa có sự chuyển dịch một cách hợp lý theo

xu hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và giảm tỷ trọng nông nghiệp.

Hình 4.4: Cơ cấu tăng trƣởng theo ngành của Việt Nam từ năm 1998 đến năm 2016

Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2010, 2016

80

Với tốc độ tăng trưởng từng ngành và cơ cấu ngành như phân tích ở trên, có thể

nhận thấy rằng, cơ cấu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn này tương đồng với cơ cấu tăng trưởng của Indonesia, Trung Quốc những năm 1995 và Hàn Quốc năm

1980. Trong ba quốc gia so sánh với Việt Nam, Indonesia có cơ cấu tăng trưởng kinh

tế kém ổn định nhất vì giai đoạn trước đây, sự phát triển của khu vực công nghiệp không ổn định. Từ những năm 2000 đến nay, tốc độ tăng trưởng ổn định khu vực công

nghiệp dẫn đến cơ cấu tăng trưởng kinh tế của Indonesia năm 2016 khá tương đồng

với Việt Nam. Tuy nhiên triển vọng phát triển kinh tế của Indonesia, quy mô nền kinh

tế lớn, một loạt cải cách kinh tế- xã hội được thực hiện từ năm 2014 đến nay hứa hẹn tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định trong tương lai. So với Trung Quốc và Hàn Quốc,

cơ cấu kinh tế của Việt Nam khá lạc hậu, chỉ tương đương thực trạng cơ cấu kinh tế

của Trung Quốc vào năm 1995 và thực trạng cơ cấu kinh tế của Hàn Quốc vào năm

1980. Điều này cho thấy cơ cấu kinh tế theo ngành của Việt nam còn lạc hậu và cần

động lực lớn hơn nữa cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong tương lai.

Hình 4.5: So sánh cơ cấu tăng trƣởng kinh tế theo ngành của Việt Nam

và một số quốc gia

4.1.1.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Nguồn: World Bank indicators, 2016.

Để đánh giá rõ nét hơn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong giai đoạn 1998-2016, hệ số góc và tốc độ chuyển dịch được tính toán cụ thể trong bảng 4.1. Có sự chuyển biến rõ nét theo hướng giảm tỷ trọng của nhóm ngành nông, lâm nghiệp-

81

thủy sản, tăng mạnh tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp- xây dựng và dịch vụ theo

xu hướng công nghiệp hóa. Tuy nhiên, bảng 3 cho thấy tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đang có xu hướng giảm rõ rệt. Giai đoạn 2001-2005 đánh dấu tốc độ

dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế khá nhanh, tốc độ tăng trưởng cũng như tỷ trọng khu

vực công nghiệp gia tăng mạnh nhất trong ba ngành. Giai đoạn 2006- 2010, tốc độ dịch chuyển giảm hẳn, tỷ lệ dịch chuyển chỉ còn bằng ½ so với giai đoạn trước đó.

Điều này cho thầy tốc độ tăng trưởng tương đối của khu vực công nghiệp có xu hướng

giảm và chững lại. Giai đoạn này nền kinh tế rơi vào khủng hoảng do bị ảnh hưởng

của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới. Tuy nhiên giai đoạn sau đó 2011- 2016, tỷ lệ dịch chuyển của cơ cấu kinh tế theo ngành vẫn cho thấy xu hướng giảm nhẹ (từ 1,69

xuống còn 1,43). Giai đoạn 2011-2016 tuy nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, nhưng tốc

độ dịch chuyển vẫn giảm. Nguyên nhân cơ bản là do mô hình kinh tế của Việt Nam đã

không còn phát huy hiệu quả thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như trước nữa, đặc biệt đối

với khu vực công nghiệp. Với tốc độ dịch chuyển như giai đoạn vừa qua 2011-2016, rõ

ràng nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn trong mục tiêu

tăng trưởng công nghiệp, dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế nhằm đạt được các mục

tiêu tăng trưởng trong tương lai..

Bảng 4.1: Tốc độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam

giai đoạn 2001-2016

Đơn vị: %

Tốc độ chuyển Giai đoạn Cos ɸ ɸ dịch (%)

0,998827 2,775345 3,08 2001-2005

0,999649 1,518063 1,69 2006-2010

0,999749 1,284199 1,43 2011-2016

Nguồn: Ngô Thắng Lợi và Nguyễn Quỳnh Hoa, 2017

Đi vào các ngành cụ thể, tỷ trọng của khu vực nông nghiệp không có xu hướng

giảm rõ rệt. So sánh với giai đoạn trước đây thì tỷ trọng GDP của nhóm ngành nông,

lâm nghiệp- thủy sản cao hơn cả năm gốc so sánh- năm 2010. So với một số quốc gia trong khu vực thì tỷ trọng nông, lâm nghiệp-thủy sản của Việt Nam vẫn thuộc loại cao và giữ vị trí thứ 3/8 nước trong ASEAN, thứ 9/33 nước và vùng lãnh thổ ở châu Á, 32/142 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới có số liệu thống kê. Điểm bất cập nằm ở

chỗ, Việt Nam xuất phát từ nông nghiệp đi lên và có lợi thế tương đối trong việc phát

82

triển khu vực nông nghiệp. Ngoài ra, 70% dân số Việt Nam sống ở nông thôn, và đến

gần 50% lao động đang tham gia lao động sản xuất trong khu vực này. Do vậy, mục tiêu giảm tỷ trọng nông nghiệp cũng khá khó khăn nếu như quá trình giảm tỷ trọng

nông nghiệp không đi kèm với khả năng mở rộng và tăng trưởng cao của công nghiệp

và dịch vụ.

Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, khả năng tăng trưởng của công nghiệp và

dịch vụ cũng đang có xu hướng giảm sút. Nguyên nhân đến từ những tác động khách

quan của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 tác động xấu đến tăng trưởng

kinh tế nói chung. Xu hướng sụt giảm tương đối của công nghiệp khiến một loạt các dấu hiệu kinh tế tiêu cực diễn ra, ảnh hưởng ngược trở lại khu vực nông nghiệp. Đánh

giá về khu vực công nghiệp- xây dựng cho thấy quá trình tăng trưởng và tỷ trọng trong

GDP của ngành này có tăng nhưng không được như kỳ vọng đề ra. Các kết quả đạt

được trong khu vực công nghiệp còn cách khá xa so với mục tiêu. Tương tự công

nghiệp, khu vực dịch vụ thời gian vừa qua không có tốc độ tăng trưởng và tỷ trọng

trong GDP như kỳ vọng, tuy nhiên đang có xu hướng gia tăng ngày càng nhanh. Khu

vực này có khả năng đạt được hoặc vượt mục tiêu đề ra trong giai đoạn sắp tới. Hiện

nay, dịch vụ lại là khu vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong ba nhóm ngành, cao

hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Về cơ bản, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành vẫn nằm trong xu hướng kỳ

vọng nhưng chưa thật sự hiệu quả và tốc độ dịch chuyển đang có xu hướng chậm lại.

4.1.2. Thực trạng giảm nghèo ở Việt Nam

4.1.2.1. Giảm nghèo chung

Cùng với những thành tựu trong tăng trưởng kinh tế từ năm 1998 đến 2016,

Việt Nam cũng đạt được những thành tựu đáng kể trong công cuộc giảm nghèo. Qua

bộ số liệu điều tra hộ gia đình từ 1998 đến 2016 cho chúng ta thấy rõ điều đó. Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong việc thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ và giảm nghèo cũng vô cùng ấn tượng và là một trong số những quốc gia có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất thế giới. Tỷ lệ nghèo đói tính theo tiêu dùng ở Việt Nam đã giảm từ

37,2% xuống trong năm 1998 xuống còn khoảng 5% trong năm 2016. Như vậy trong 15 năm tỷ lệ nghèo giảm xuống 31,23 điểm phần trăm trong bối cảnh chuẩn nghèo liên tục được nâng lên.

83

Hình 4.6: Tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam từ 1998 đến 2016

Nguồn: Niên giám thống kê 2006, 2012, 2016.

Trước hết, xét trên cả nước thì tỷ lệ nghèo đói giảm liên tục trong giai đoạn 1993 đến 2008 và năm 2010 tăng tương đối so với năm 2008 khi tính theo chuẩn nghèo mới,

tuy nhiên xét giai đoạn 2010 đến 2016 thì tỷ lệ nghèo vẫn giữ xu hướng giảm. Trong

giai đoạn 1993 đến 2008, tỷ lệ người nghèo giảm đáng ghi nhận từ 58,1% xuống còn

14,5%. Trong thời kỳ này, do chuẩn nghèo được điều chỉnh từ việc tính tỷ lệ nghèo đói

theo lương thực, thực phẩm sang chuẩn nghèo tính theo thu nhập của hộ gia đình và các

chương trình giảm nghèo cũng như phân phối thu nhập được thực hiện hiệu quả dẫn tới

tỷ lệ nghèo giảm mạnh. Thời kỳ 2010 đến 2016, mặc dù chuẩn nghèo liên tục được nâng

lên sau mỗi 2 năm nhưng xu hướng nghèo đói giảm mạnh vẫn được duy trì. Trong giai

đoạn này, Việt Nam đã hoàn thành sớm mục tiêu Thiên niên kỷ trong xóa đói giảm

nghèo. Điều này sẽ tạo ra động lực giảm nghèo mạnh mẽ trong giai đoạn sau.

Thứ hai, xu hướng tỷ lệ nghèo giảm thể hiện rõ nét ở cả thành thị và nông thôn. Nhìn chung tỷ lệ nghèo ở thành thị thấp hơn hẳn so với ở nông thôn và tốc độ giảm

nghèo ở khu vực thành thị cũng có xu hướng nhanh hơn. Ở thành thị, tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 25,1% xuống còn 3,3% trong năm 2008 trong bối cảnh chuẩn nghèo tăng, trong khi đó ở nông thôn thì tỷ lệ nghèo giảm từ 66,4% xuống còn 18,7%. Năm 2010 khi thay

đổi chuẩn nghèo thì tỷ lệ nghèo ở nông thôn vẫn giữ xu hướng giảm thì tỷ lệ nghèo thành thị lại gia tăng 3,6 điểm phần trăm. Trong bối cảnh dân số phân bố chủ yếu ở khu vực nông thôn thì số lượng người nghèo ở nông thôn rõ ràng gia tăng lớn hơn so với

84

thành thị khi thay đổi chuẩn nghèo. Điều này có thể do tỷ lệ hộ cận nghèo ở nông thôn

lớn hơn hẳn so với khu vực thành thị nên khi chuẩn nghèo được nâng lên thì số lượng lớn hộ cận nghèo ở nông thôn rơi vào tình trạng nghèo đói. Theo số liệu công bố của

WB năm 2012 , Việt Nam có 73% dân số sống ở khu vực nông thôn, chiếm 93,6% tổng

số người nghèo, trong khi đó tỷ lệ nghèo thành thị chiếm 6,4%. Đặc biệt, số người nghèo làm việc trong khu vực nông nghiệp lại chiếm 90,9% tổng số người nghèo, còn

lại 9,1% số người nghèo làm việc ở khu vực phi nông nghiệp. Trong những người nghèo

làm việc ở khu vực nông nghiệp thì dân số nghèo trồng lúa nước chiếm đến 78% và còn

lại 28% là người nghèo mưu sinh bằng những hoạt động nông nghiệp khác. Đối với hộ nghèo nông thôn, tỷ lệ thành viên trong hộ rơi vào tình trạng thất nghiệp khá cao và

trong khoảng thời gian từ năm 1993 đến 2012 không có dấu hiệu được cải thiện, chỉ số

này luôn xoay quanh khoảng 40% trong suốt giai đoạn này. Số liệu điều tra cũng cho

thấy khoảng một nửa số thành viên của hộ nghèo nông thôn tham gia hoạt động nông

nghiệp và tỷ lệ này không có xu hướng giảm rõ rệt, ngược lại, rất ít hộ có lao động tham

gia hoạt động công nghiệp hoặc dịch vụ. Tuy nhiên, tình trạng này đều được cải thiện

trong giai đoạn 2012-2016. Thêm nữa, lao động ở hộ nghèo chủ yếu lại là lao động giản

đơn dẫn đến năng suất lao động thấp và thu nhập của hộ nghèo bị hạn chế. Tuy rằng quy

mô nghèo gia tăng ở nông thôn, nhưng đa phần lao động nghèo lại là đối tượng có xu

hướng di cư mạnh mẽ từ nông thôn ra khu vực thành thị. Điều này sẽ khiến cho áp lực

giảm nghèo ở khu vực thành thị trở nên nặng nề hơn rất nhiều. Dân di cư gặp khó khăn

ở khu vực thành thị, hơn nữa, với chuẩn nghèo ở thành thị cao hơn nông thôn, những lao

động di cư này lại càng dễ rơi xuống dưới chuẩn nghèo. Xu thế này có thể khiến tỷ lệ

nghèo giảm ở nông thôn và gia tăng ở khu vực thành thị.

Đánh giá cụ thể hơn về tình trạng giảm nghèo ở nông thôn và thành thị cho thấy

một vài đặc điểm thú vị sau. Xem xét về tỷ lệ thành viên thất nghiệp trong hộ nghèo

thành thị thì cũng có giá trị giao động từ 40-50% và không có xu hướng giảm - con số này khá tương đồng với hộ nghèo nông thôn. Tuy lao động tham gia khu vực nông nghiệp nhỏ nhưng tỷ lệ lao động giản đơn cũng vẫn khá lớn (một nửa số thành viên của hộ là lao động giản đơn). Lao động nghèo thành thị tham gia hoạt động trong

ngành công nghiệp và dịch vụ cũng khá thấp. Trên thực tế, điểm khác biệt này giữa hộ nghèo nông thôn và thành thị là do khu vực thành thị tồn tại thị trường lao động phi chính thức- là nơi mà gần như không có rào cản gia nhập thị trường nên các hộ nghèo thành thị có thể dễ dàng gia nhập tìm kiếm việc làm.

Thứ ba, xem xét nghèo dưới góc độ nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối cho thấy: số người nghèo tương đối và tuyệt đối ở khu vực nông thôn luôn cao hơn rất

85

nhiều so với khu vực thành thị. Tình trạng nghèo đói ở khu vực nông thôn Việt Nam

lại có mối liên hệ chặt chẽ với khu vực nông nghiệp và lao động nghèo trong nông nghiệp mưu sinh chính bằng hoạt động trồng lúa nước thay vì các hoạt động nông

nghiệp khác. Tình trạng nghèo đói ở thành thị lại chủ yếu xuất hiện đối với các nhóm

dân cư gia nhập thị trường phi chính thức ở khu vực thành thị. Tuy nhiên, dưới cái nhìn tổng quát về sự biến động trong tỷ lệ nghèo đói ở cả hai khu vực cho thấy những

nỗ lực đáng kể của Việt Nam trong mục tiêu giảm nghèo đã đạt được thành tựu đáng

4.1.2.2. Giảm nghèo theo vùng

ghi nhận trong giai đoạn vừa qua.

Tỷ lệ nghèo không chỉ khá cao ở khu vực nông thôn mà còn cao ở khu vực vùng núi phía bắc so với phía nam. Tỷ lệ nghèo cũng khác nhau khá nhiều giữa các

vùng. Xét nghèo đói theo quy mô các vùng địa lý, rõ ràng là đã có sự cải thiện đáng kể

về tỷ lệ nghèo đói ở một số khu vực, mặc dù thứ tự nghèo giữa các vùng không có sự thay đổi nhiều. Khu vực Đông Nam Bộ có tỷ lệ nghèo thấp nhất và khu vực Trung du

và miền núi phía Bắc có tỷ lệ nghèo cao nhất qua các năm. Nhìn chung các tỉnh khu

vực phía Nam có tỷ lệ nghèo đói thấp hơn khu vực phía Bắc.

Bảng 4.2: Tỷ lệ nghèo đói theo vùng ở Việt Nam từ năm 1998 đến 2016

Đơn vị: (%)

Vùng

1998 2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014 2015 2016

Đồng bằng Sông Hồng

30,7 21,5 12,7

10

8,6

8,3

6,0

4,0

3,2

2,4

64,5 47,9 29,4 27,5 25,1 29,4 23,8 18,4 16,0 13,8

Trung du và miền núi phía Bắc

42,5 35,7 25,3 22,2 19,2 20,4 16,1 11,8

9,8

8,0

Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung

Tây Nguyên

52,4 51,8 29,2 24,0 21,0 22,2 17,8 13,8 11,3

9,1

Đông Nam Bộ

7,6

8,2

4,6

3,1

2,5

2,3

1,3

1,0

0,7

0,6

Đồng bằng sông

36,9 23,4 15,3 13,0 11,4 12,6 10,1

7,9

6,5

5,2

Cửu Long

Tỷ lệ nghèo chung

37,4 28,9 18,1 15,5 13,4 14,2 11,1

8,4

7,0

5,8

Nguồn: Niên giám thống kê 2010, 2016, Tổng cục Thống kê

Cụ thể hơn, Đông Nam Bộ có tỷ lệ nghèo giảm từ 7,6% trong năm 1993 xuống còn 0,6%, đứng thứ hai là đồng bằng sông Hồng giảm từ 30,7% còn 2,4% trong năm 2016. Đồng bằng sông Hồng có kết quả giảm nghèo khá ấn tượng trong giai đoạn 1993 đến 1998 khi giảm đến 27,5 điểm phần trăm. Khu vực đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ

86

nghèo giảm mạnh đi kèm với đó là chất lượng cuộc sống của người dân khu vực này

được nâng cao. Trên thực tế, những khu vực có tỷ lệ nghèo thấp nhất là Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng, đều là những nơi có hai thành phố lớn là Hồ Chí Minh và Hà

Nội. Khu vực Trung du và miền núi phía Bắc luôn là khu vực có tỷ lệ người nghèo cao

nhất trong cả giai đoạn, tuy nhiên cũng có xu hướng giảm nghèo mạnh khi giảm từ 64,5 % xuống còn 13,8 %, tuy nhiên, khu vực này vẫn có tỷ lệ nghèo đói cao nhất trong 8

vùng. Khu vực Tây Nguyên đứng vị trí tiếp theo với tỷ lệ nghèo là 52,4% trong năm

1993 và giảm còn 9,1% trong năm 2016. Trong năm 1993, tỷ lệ nghèo ở đồng bằng sông

Cửu Long là 36,9%, tuy nhiên, đến 2016 thì tình trạng nghèo đói ở khu vực này có giảm mạnh (5,2% năm 2016). So với đồng bằng sông Hồng thì mức độ giảm nghèo ở đồng

bằng sông Cửu Long thấp hơn. Với tỷ lệ người nghèo gần như nhau trong năm 1998,

nhưng đến năm 2016 thì tỷ lệ nghèo đói ở đồng bằng sông Cửu Long gần gấp đôi so với

đồng bằng sông Hồng. Tuy nhiên, những thành tựu giảm nghèo ở hai khu vực này cho

thấy kết quả giảm nghèo có được chủ yếu dựa trên các hoạt động kinh tế cải thiện trực

tiếp đời sống của những người dân nghèo nông thôn. Mức nghèo đói cao ở khu vực Tây

Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên phản ánh những hạn chế mà khu vực này phải đối mặt

trong việc tham gia quá trình tăng trưởng do các khó khăn về giới hạn môi trường địa lý

và hạn chế trong xây dựng cơ sở hạ tầng, thị trường và dịch vụ xã hội.

Nhìn chung, tỷ lệ hộ nghèo so với chuẩn cũng còn khá cao và cuộc sống của hộ

nghèo ở vùng sâu vùng xa luôn gặp những khó khăn từ những tác động của thiên tai,

thời tiết, giao thông đi lại. Người nghèo khu vực này luôn gặp khó khăn trong việc tiếp

cận thị trường xã hội, và luôn thiếu thông tin về các nguồn lực cũng như các dịch vụ

cơ bản trong xã hội và phải chịu những khó khăn như hạn hán, mất mùa, bão lũ,…mà ít được sự hỗ trợ của Chính Phủ hơn những khu vực khác do điều kiện địa lý. Khu vực

phía nam với điều kiện thời tiết khí hậu tốt hơn, chất lượng đất nông nghiệp cao, tỷ lệ

4.1.2.3. Giảm nghèo theo giới tính và dân tộc

đất nông nghiệp trên đầu người lớn và có kinh nghiệm tốt trong việc sản xuất thương mại nên đạt được nhiều thành tựu tốt hơn trong xóa đói giảm nghèo.

Một điều đáng quan tâm nữa là số liệu nghèo đói theo giới tính của chủ hộ, số hộ có chủ hộ là nữ thì tỷ lệ nghèo cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ hộ nghèo của các hộ có chủ hộ là nam tính từ năm 1993 đến năm 2016. Chủ hộ là nữ có gần 10% là hộ nghèo trong năm 2016 (giảm từ 48,3% trong năm 1993 ). Đây là một trong những đặc điểm

của hộ nghèo trong nhiều năm. Các chính sách giảm nghèo của Việt Nam thực hiện từ năm 1993 đến 2016 luôn đi kèm với xu hướng giảm bất bình đẳng theo giới tính. Kết quả là, số hộ nghèo mà nữ làm chủ hộ nhận được sự hỗ trợ rất lớn từ các chính sách

87

giảm nghèo đặc biệt với sự trợ giúp của Chính Phủ và Hội phụ nữ. Hơn thế nữa, thành

tựu đạt được của quá trình giảm nghèo đối với nữ giới có xu hướng ổn định và bền vững hơn đối với các hộ có chủ hộ là nam. Tuy nhiên, cũng còn những nhân tố khách

quan khác tác động đến nghèo đói đối với các hộ gia đình có nam hoặc nữ làm chủ hộ.

Nhiều hộ gia đình mà chủ hộ là nữ do nam giới hoạt động kinh tế ở khu vực khác hoặc nước ngoài. Thêm vào đó, số chủ hộ là nữ thì thường nhỏ hơn, do vậy điều này rất

quan trọng trong việc xác định mức độ nghèo đói. Tuy nhiên, số liệu nghiên cứu chỉ ra

rằng phụ nữ có vai trò không thể thay thế trong các chiến lược giảm nghèo.

Hình 4.7: Tỷ lệ nghèo của các hộ có nam hoặc nữ làm chủ hộ

Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình VHLSS các năm 1998, 2008, 2012, 2014, 2016,

Tổng cục Thống kê. Tác giả tính toán năm 2014, 2016 theo VHLSS 2014, 2016.

Xu hướng giảm nghèo của hai nhóm có chủ hộ là nam và nữ cũng khá giống nhau, giảm mạnh từ 1993 đến 1998, giai đoạn sau vẫn giữ xu hướng giảm (trừ giai đoạn 2008 đến 2010 do chuẩn nghèo thay đổi) và đạt kết quả khá ấn tượng về giảm nghèo trong năm 2016.

Tỷ lệ nghèo theo dân tộc cũng giảm đặc biệt là đối với nhóm người Kinh. Trong bảng số liệu điều tra của Tổng cục thống kê, dân tộc thiểu số cũng có xu hướng giảm tỷ lệ nghèo đói nhưng kết quả giảm nghèo chưa thật sự hiệu quả. Đến năm 2016 thì tỷ lệ người nghèo đối với nhóm dân tộc thiểu số còn rất lớn (33,6%). Việt Nam có 54 nhóm dân tộc được chính thức công nhận, trong đó dân tộc Kinh là đông dân nhất

Theo điều tra dân số của các nhóm dân tộc Việt Nam có 5 nhóm dân tộc khác (dân tộc

88

Tày, Thái, Mường, Khmer và H‟mong) với số dân chiếm khoảng hơn 1 triệu người và

3 nhóm dân tộc khác (dân tộc Nùng, Dao và Hoa) có số dân từ 500.000 đến 1.000.000 người. Còn có nhiều nhóm dân tộc có dân số dưới 500.000 người. Các nhóm dân tộc

thiểu số hầu hết sống ở vùng núi và cao nguyên, cách xa khu vực đồng bằng và thành

phố lớn. Người dân tộc thiểu số tập trung đông nhất ở khu vực Tây Bắc, Đông Bắc và khu vực Tây Nguyên, mặc dù vậy vẫn có những cụm dân cư dân tộc thiểu số ở vùng

Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ và đồng bằng sông Cửu Long. Điều này cho thấy các

chính sách xóa đói giảm nghèo chưa mang lại những thành tựu tích cực cho nhóm dân

tộc thiểu số, và tỷ lệ tái nghèo trong nhóm này cao khiến chuẩn nghèo tăng từ năm 2008 đến 2010 làm tỷ lệ nghèo trong nhóm dân tộc thiểu số tăng mạnh. Phân bố của

dân tộc thiểu số cũng tập trung chủ yếu ở các vùng cao, vùng sâu, vùng xa, những khu

vực có tiềm năng phát triển kinh tế kém, điều kiện không thuận lợi cho hoạt động nông

nghiệp và thời tiết khắc nghiệt. Giai đoạn 2010-2016, tỷ lệ nghèo duy trì xu hướng

giảm, báo hiệu dấu hiệu tích cực cho mục tiêu giảm nghèo.

Hình 4.8: Tỷ lệ nghèo theo dân tộc

Nguồn: Niên giám thống kê các năm 1998, 2008, 2012, 2014, Tổng cục Thống kê

Tác giả tính toán năm 2016 theo số liệu Niên giám Thống kê 2016.

Theo kết quả thống kê về tỷ lệ nghèo theo dân tộc từ năm 1993 đến 2016, có thể thấy dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn trong xóa đói giảm nghèo. Từ tỷ lệ hộ nghèo rất cao trong năm 1993 (86,4%) đã giảm xuống hơn 50 điểm phần trăm trong năm 2016 (33,6%). Giai đoạn đạt được thành tựu giảm nghèo nổi bật

89

nhất là 2014-2016 ở cả hai nhóm dân tộc Kinh và cả dân tộc thiểu số. Theo báo cáo

của WB (2018) thì cho đến năm 2016, Việt Nam có khoảng 9 triệu người nghèo thì có đến 72% là người dân tộc thiểu số và sống ở vùng cao. Tuy rằng tỷ lệ hộ nghèo có

giảm mạnh đối với nhóm dân tộc thiểu số, nhưng nếu so sánh nhóm này với người

Kinh thì vẫn còn sự cách biệt rất lớn về tỷ lệ nghèo. Những đối tượng nghèo dân tộc thiểu số, lại sống chủ yếu ở khu vực vùng sâu vùng xa nên các hỗ trợ chính sách của

Chính phủ khó triển khai hiệu quả đến những đối tượng này. Ngoài ra, mỗi dân tộc

thiểu số lại có cách thức sản xuất nông nghiệp đặc thù, văn hóa riêng biệt. Do vậy, với

mục tiêu giảm nghèo bền vững đòi hỏi công cuộc xóa đỏi giảm nghèo phải thật sự phù hợp và có tác động đến thói quen sinh hoạt và lao động, ý thức cũng như phương thức

sinh hoạt và sản xuất của người nghèo dân tộc thiểu số. Giảm nghèo cho những đối

tượng này hiện đang là khó khăn không nhỏ của nền kinh tế-xã hội Việt nam.

Bên cạnh tiêu thức đo lường nghèo đói bằng tỷ lệ nghèo thì mức độ trầm trọng

của nghèo đói cũng là khía cạnh rất đáng được quan tâm. Nghiên cứu về mức độ trầm

trọng của nghèo đói sẽ giúp quá trình hoạch định và thực hiện chính sách giảm nghèo

4.1.2.4. Mức độ trầm trọng của nghèo đói

được hiệu quả hơn trên thực tiễn.

Một chỉ số khác phản ánh tình trạng nghèo đói chính là khoảng cách nghèo được

tính toán bằng khoảng cách giữa chi cho tiêu dùng của hộ nghèo với ngưỡng nghèo.

Khoảng cách này được tính bằng 0 đối với hộ không thuộc diện nghèo đói (những hộ

gia đình tiêu dùng trên chuẩn nghèo). Chỉ số về khoảng cách nghèo đo lường tỷ lệ của

hộ nghèo sống trên chuẩn nghèo. Khoảng cách nghèo giảm đi từ 18,5 trong năm 1998

xuống còn 4,5 trong năm 2012. Điều này cho thấy sự cải thiện đáng kể không chỉ trong

tỷ lệ nghèo đói nói chung mà còn thể hiện ở chất lượng giảm nghèo của nền kinh tế. Xu

thế này còn được thấy rõ trong số liệu về khoảng cách nghèo dưới đây:

Bảng 4.3: Chỉ số khoảng cách nghèo ở Việt Nam từ năm 1993 đến 2012

1993

1998

2002

2004

2006

2008

2010

2012

Chung

18,5

9,5

6,9

4,7

3,8

3,5

5,9

4,5

Thành thị

6,4

1,7

1,3

0,7

0,8

0,5

1,4

1,0

Nông thôn

21,5

11,6

8,7

6,1

4,9

4,6

7,8

5,9

Người Kinh/ Hoa

16,0

4,7

2,6

2,0

1,7

2,7

1,9

Dân tộc thiểu số

34,7

7,1 24,1

22,8

19,2

15,4

15,1

24,3

19,2

Nam làm chủ hộ

19,4

10,2

7,6

5,2

4,2

3,8

6,5

4,8

Nữ làm chủ hộ

15,3

6,9

4,4

2,9

2,6

2,3

3,8

3,4

Nguồn: Niên giám thống kê năm 2002, 2006, 2012, Tổng cục Thống kê

90

Khoảng cách nghèo chung giảm từ 18,5 xuống còn 4,5, trong đó nghèo nông

thôn có chỉ số về khoảng cách nghèo giảm lớn hơn so với nghèo thành thị trong giai đoạn này. Từ năm 1993 đến 2008 khoảng cách nghèo giảm mạnh ở cả hai khu vực và

tăng trong giai đoạn từ 2008 đến 2012. Hiện tượng này có thể được giải thích qua hai

lý do. Thứ nhất, đường chuẩn nghèo liên tục tăng từ năm 2006 và được điều chỉnh với biên độ lớn nhất vào năm 2010 dẫn đến khoảng cách nghèo trong năm 2010 tăng khá

lớn. Hơn nữa, giai đoạn 2008-2010, nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, tốc độ tăng

trưởng chậm lại và thu nhập của các nhóm dân cư cũng giảm đi tương đối so với giai

đoạn trước. Mặt khác, dân số có mức thu nhập sát trên chuẩn nghèo chiếm số lượng không nhỏ, nên mỗi khi điều chỉnh chuẩn nghèo sẽ khiến cho tình trạng nghèo đói

trầm trọng hơn. Lý do thứ hai là dòng di dân từ nông thôn ra thành thị khá lớn, đặc biệt

số di dân này đa phần là người nghèo không có công việc ổn định và thu nhập thấp.

Công nghiệp hóa diễn ra khiến lượng lớn lao động nông nghiệp, nông thôn tìm kiếm

công việc ở các khu công nghiệp quanh thành thị. Nông thôn dần mất đất nông nghiệp

cũng khiến lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp gia tăng. Đa phần dân di cư từ nông

thôn ra thành thị là những người lao động nghèo, họ khó tìm được công việc ổn định ở

thành phố nên lại dễ dàng rơi vào tình trạng nghèo đói sau di cư.

Khoảng cách nghèo còn khác nhau rõ rệt giữa các nhóm dân tộc. Trong 54

nhóm dân tộc ở Việt Nam, người Kinh chiếm 85% dân số. Nghèo đói giữa các nhóm

này không có tỷ lệ đồng đều, càng nhóm dân tộc thiểu số thì tỷ lệ nghèo lại càng cao

hơn nhiều lần so với tỷ lệ nghèo chung. Người Kinh và người gốc Hoa giảm đáng kể

tỷ lệ nghèo đói từ 16,0 xuống còn 1,9 trong năm 1993 đến năm 2012 trong khoảng

cách nghèo của người dân tộc thiểu số giảm từ 34,7 trong năm 1993 đến 19,2 trong năm 2012. Trong đó, tỷ lệ người nghèo cao nhất đối với người H‟mong, Người Dao,

người Khmer và Mường. Những nhóm này chủ yếu sống ở vùng sâu vùng xa ở các

khu vực vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên. Mặc dù nhìn chung Việt Nam đã đạt được những tiến bộ nói chung trong tăng trưởng và giảm nghèo, nhưng sự chênh lệch trong thành quả giảm nghèo giữa nhóm người Kinh với nhóm dân tộc thiểu số vẫn còn đáng kể. Nhất quán với tỉ lệ tăng trưởng khác nhau, mật độ dân tộc thiểu số trong nhóm hộ

nghèo đã tăng lên, theo nghiên cứu của WB trong Báo cáo đánh giá nghèo Việt Nam năm 2012: năm 1993, nghèo có tính rộng khắp và các hộ nghèo thuộc dân tộc thiểu số chỉ chiếm 20% tổng hộ nghèo. Đến năm 1998, số hộ nghèo thiểu số đã tăng lên 29% và năm 2010, số hộ nghèo thiểu số đã chiếm khoảng 47% tổng số hộ nghèo ở Việt Nam và điều đáng chú ý là có 66% hộ cá thể trong diện 10% dân số nghèo nhất. Căn cứ theo chuẩn nghèo năm 2010, Việt Nam có 66,3% dân tộc thiểu số thuộc diện

91

nghèo, trong khi đó tỉ lệ này ở người Kinh chỉ có 12,9%. Không chỉ là tỷ lệ nghèo còn

cao mà chính sự cải thiện chậm chạp đối với tình trạng nghèo trong các nhóm dân tộc thiểu số là rất đáng lo ngại và cần Chính Phủ có những giải pháp chính sách và thực

hiện giảm nghèo có hiệu quả hơn.

Một nghịch lý nữa được thể hiện qua bảng chỉ số khoảng cách nghèo, chính là sự khác biệt giữa chủ hộ là nam hoặc nữ thì khoảng cách nghèo cũng khác nhau. Chủ

hộ là nam thì khoảng cách nghèo luôn lớn hơn chủ hộ là nữ. Trên thực tế, nếu hộ gia

đình có chủ hộ là lao động nữ thì thường hộ đó ít được hỗ trợ từ lao động nam hoặc

thiếu lao động nam. Tuy nhiên kết quả ở bảng trên cho thấy, hiệu quả lao động của các hộ có chủ hộ là nữ lại đạt được mức thu nhập tốt hơn so với chủ hộ là lao động nam.

So sánh tương đối với các nhóm thu nhập khác thì tình trạng bất bình đẳng

trong phân phối thu nhập vẫn cao khiến khoảng cách thu nhập giữa nhóm người nghèo

và người giàu trong xã hội có xu hướng gia tăng:

Bảng 4.4: Hệ số Gini theo khu vực ở Việt Nam từ năm 2002 đến 2016:

Khu vực/ Vùng

2002 2004 2006 2008 2010 2012 2014 2016

Thành thị

0,410 0,410 0,393 0,404 0,402 0,385 0,397 0,402

Nông thôn

0,360 0,370 0,378 0,385 0,395 0,399 0,398 0,407

Đồng bằng sông Hồng

0,411 0,408 0,393 0,407 0,407

..

..

..

Trung du và miền núi phía Bắc

0,401 0,406 0,411 0,416 0,430

..

..

..

Bắc Trung Bộ và

..

0,381 0,385 0,384 0,385 0,390

..

..

Duyên hải miền Trung

Tây Nguyên

0,405 0,408 0,397 0,408 0,436

..

..

..

Đông Nam Bộ

0,410 0,414 0,391 0,397 0,399

..

..

..

..

..

..

Đồng bằng sông Cửu Long

0,395 0,398 0,403 0,395 0,403

Cả nước

0,420 0,420 0,424 0,434 0,433 0,424 0,430 0,436

Nguồn: Niên giám thống kê các năm 2010, 2016, Tổng cục Thống kê

Đánh giá về tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, thành thị có xu hướng giảm bất bình đẳng trong khi khu vực nông thôn có xu hướng tăng. Nhìn chung trong giai đoạn từ 1998 đến 2016 thì cả nước không giảm bất bình đẳng mà chỉ số Gini giai đoạn này lại có xu hướng tăng lên làm khoảng cách giãn cách giữa nhóm người giàu và người nghèo tăng. Đặc biệt trong năm 2006 đến 2008 thì hệ số

92

Gini tăng mạnh nhất trong cả giai đoạn. Điều này có thể được lý giải do một số

nguyên nhân như trong giai đoạn này Việt Nam bắt đầu chịu tác động của khủng hoảng kinh tế khiến các hoạt động kinh tế suy giảm mạnh. Các doanh nghiệp thu hẹp

quy mô sản xuất dẫn đến hiệu ứng đầu tiên trong nền kinh tế là tỷ lệ thất nghiệp tăng.

Hệ quả của xu hướng này là thu nhập của nhóm người nghèo giảm và cơ hội kiếm việc làm cũng như gia tăng thu nhập giảm. Thêm nữa, hoạt động nông nghiệp ở khu

vực nông thôn cũng bị ảnh hưởng do tác động chung của khủng hoảng dẫn đến sức

mua giảm, sức tiêu thụ hàng nông nghiệp giảm. Một nhân tố nữa cũng góp phần gây

tác động xấu đến sự phân bổ thu nhập chính là quá trình công nghiệp hóa diễn ra không đồng đều đã khiến đất nông nghiệp giảm. Trong quá trình chuyển dịch lao

động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ tìm kiếm việc làm thì

những đối tượng người nghèo có trình độ giáo dục thấp khó có thể tìm kiếm được

công việc phù hợp. Do vậy, trong giai đoạn 2006-2008 người nghèo lại có mức thu

nhập giảm xuống tương đối so với người giàu khiến Gini tăng mạnh. Giai đoạn

2008-2016, có sự thay đổi về chuẩn nghèo khiến một bộ phận dân số nằm sát trên

chuẩn nghèo rơi vào nhóm người nghèo. Điều này lại khiến việc đánh giá qua hệ số

Gini có lợi cho nhóm người nghèo. Về mặt hình thức giai đoạn này dường như giảm

bất bình đẳng trong phân phối thu nhập, nhưng trên thực tế việc hệ số Gini giảm cho

nâng chuẩn nghèo lên không có những tác động tích cực cụ thể để cải thiện đời sống

cho nhóm dân nghèo nhất trong xã hội. Tuy nhiên, nếu xem xét cả giai đoạn từ năm

2010- 2016 thì nhìn chung hệ số Gini giảm, cho thấy những chính sách hỗ trợ người

nghèo, chính sách phân phối thu nhập đã có tác động tích cực hơn cho nhóm dân

nghèo trong xã hội. Riêng giai đoạn 2014-2016 thì hệ số Gini lại có xu hướng tăng trở lại báo hiệu Chính phủ cần có giải pháp để cân bằng mục tiêu tăng trưởng và bình

đẳng xã hội. Nhìn tổng thể cả giai đoạn thì xu hướng tăng của hệ số Gini ở một số

khu vực như nông thôn, và cả nước nói chung cho thấy khả năng bảo đảm về công

bằng trong phân phối thu nhập giữa các nhóm dân cư vẫn chưa được thực hiện tốt và vẫn còn là vấn đề đáng lo ngại chung của Việt Nam hiện nay.

Một chỉ tiêu khác cũng góp phần đánh giá về mức độ trầm trọng của nghèo đói

chính là sự chênh lệch về thu nhập bình quân người mỗi tháng giữa nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp nhất.

93

Bảng 4.5: Chênh lệch thu nhập bình quân đầu ngƣời một tháng giữa nhóm thu

nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất theo giá hiện hành phân theo khu

Nhóm thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất (Lần)

Nhóm thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất (Lần)

Nhóm thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất (Lần)

Nhóm thu nhập cao nhất so với nhóm thu nhập thấp nhất (Lần)

Thu nhập bình quân đầu ngƣời một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập thấp nhất 369 633 330 359 415

2010 Thu nhập bình quân đầu ngƣời một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập cao nhất 3.410 4.983 2.462 3.243 3.923

Thu nhập bình quân đầu ngƣời một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập thấp nhất 512 952 450 494 592

9,2 7,9 7,5 9,0 9,5

vực và giới tính 2012 Thu nhập bình quân đầu ngƣời một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập cao nhất 4.784 6.794 3.615 4.638 5.243

Thu nhập bình quân đầu ngƣời một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập thấp nhất 660 1.267 565 638 753

9,4 7,1 8,0 9,4 8,9

2014 Thu nhập bình quân đầu ngƣời một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập cao nhất 6.413 9.421 4.641 6.095 7.442

Thu nhập bình quân đầu ngƣời một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập thấp nhất 791 1.489 676 903 1.503

9,7 7,4 8,2 9,5 9,9

2016 Thu nhập bình quân đầu ngƣời một tháng (Nghìn đồng) - Nhóm thu nhập cao nhất 7.755 11.276 5.669 7.200 8.323

9,8 7,6 8,4 8,0 7,9

CẢ NƢỚC Thành thị Nông thôn Nam Nữ

Nguồn: Niên giám thống kê các năm 2015, 2016, Tổng cục Thống kê

Chênh lệch về thu nhập giữa nhóm cao nhất và thấp nhất có xu hướng tăng khá

nhanh (năm 2010 là 9,2 lần thì đến năm 2016 là 9,8 lần). Khoảng cách này giảm ở

thành thị và tăng rất nhanh ở nông thôn. Ở khu vực thành thị trong năm 2010 khoảng

cách là 7,9 lần và giảm nhẹ trong năm 2012 còn 7,1 lần, đến năm 2016 tăng lên 7,6

lần. Ngược lại ở nông thôn, xu hướng khá thống nhất, khoảng cách này tăng đều từ 7,5

lần lên 8; 8,2 và 8,4 lần trong 4 năm xem xét. Nếu như trong năm 2010, người thu

nhập cao nhất và thấp nhất ở nông thôn có khoảng cách hẹp hơn thì đến 2016 khoảng

cách này ở nông thôn lớn hơn hẳn so với thành thị. Mức chi tiêu bình quân thực tế ở

hai khu vực này cũng gia tăng khá đồng đều ở cả hai khu vực tương ứng. Theo số liệu giữa thu nhập của nhóm cao nhất và thấp nhất giữa chủ hộ là nữ và nam đều có xu hướng chung là chủ hộ là nữ thì dù trong nhóm thu nhập nào cũng đều có thu nhập bình quân lớn hơn chủ hộ là nam. Tỷ lệ hộ nghèo có nữ làm chủ hộ thấp hơn và nhóm này có thu nhập bình quân cao hơn hẳn so với chủ hộ là nam.

4.1.3. Các chính sách gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam

Các chính sách gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở Việt Nam dần được bổ sung và hoàn thiện. Từ năm 1992, các chính sách này đã được Nhà nước quan tâm và thực hiện trên phạm vi cả nước thông qua Chỉ thị số 23-CT/TƯ ngày 29/11/1997 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.

94

Đặc biệt, nhằm đưa đồng bào miền núi nhanh chóng tiến kịp với miền xuôi,

ngày 31/7/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi,

vùng sâu, vùng xa nhằm tạo điều kiện đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình

trạng nghèo nàn, chậm phát triển (gọi tắt là Chương trình 135). Để thực hiện mục tiêu của Chương trình này, Nhà nước đã có chính sách giao đất, giao rừng và cấp

giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gắn với công tác định canh định cư, miễn thuế

sử dụng đất nông nghiệp. Ưu tiên đầu tư cho cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông,

lâm nghiệp. Thực hiện chính sách ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp ở vùng đặc biệt khó khăn. Nhà nước trợ giá, trợ cước vận chuyển các mặt hàng thiết yếu phục vụ

sản xuất và đời sống nhân nhân. Các hộ được hưởng thụ Chương trình 135 được ưu

tiên vay vốn từ Ngân hàng phục vụ người nghèo và các nguồn vốn tín dụng ưu đãi

từ các chương trình, dự án lồng ghép khác để phát triển sản xuất. Nhà nước hỗ trợ

kinh phí để đào tạo cán bộ cơ sở, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác

khuyến nông, khuyến lâm tại các địa phương; hỗ trợ kinh phí mở lớp dạy nghề cho

con em dân tộc nhằm khai thác tiềm năng tại chỗ, phát triển ngành nghề phi nông

nghiệp. Nhà nước cấp sách giáo khoa và miễn giảm học phí cho học sinh phổ thông

là con em của đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời cung cấp các dịch vụ y tế miễn

phí trong việc chăm sóc sức khỏe cho đồng bào, hỗ trợ về nhà ở và công cụ sản

xuất cho hộ nghèo.

Các chính sách của Chính phủ giai đoạn 1992-2000 chủ yếu tập trung cho tạo

việc làm, cải thiện thu nhập cho người nghèo mà chưa thực sự tạo ra một khung khổ về

chính sách thực sự gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo, cải thiện các mục tiêu xã hội.

Ngày 27/9/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 143/2001/QĐ-

TTg phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) về xóa đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001- 2005. Nội dung của Chương trình bao gồm các chính sách hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo về: Y tế, giáo dục, chính sách an sinh xã hội, miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, trợ giúp nhà ở, công cụ lao động, vốn

tín dụng và đất sản xuất… Các chính sách ưu đãi cho người nghèo được thực hiện thông qua các dự án hỗ trợ trực tiếp xóa đói giảm nghèo bao gồm: Nhóm các dự án xóa đói giảm nghèo chung (gồm dự án tín dụng cho hộ nghèo vay vốn phát triển sản xuất; dự án hướng dẫn người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, lâm, ngư; dự án xây dựng mô hình xóa đói giảm nghèo ở các vùng khó khăn…) và nhóm các dự án xóa đói giảm nghèo cho các xã nghèo (có 25% hộ nghèo trở lên và chưa đủ cơ sở

95

hạ tầng thiết yếu) không thuộc Chương trình 135 gồm: Dự án xây dựng cơ sở hạ

tầng thiết yếu ở xã nghèo; dự án hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề ở các xã nghèo; dự án đào tạo bồi dưỡng cán bộ XĐGN và cán bộ xã; dự án định canh định

cư, ổn định dân di cư và xây dựng kinh tế mới ở xã nghèo… Nội dung phát triển

việc làm theo 3 hướng: Tiếp tục phát triển kinh tế – xã hội nhằm tạo thêm chỗ làm mới; đẩy mạnh xấy khẩu lao động; tăng cường các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để tạo

việc làm và phát triển thị trường lao động (thông qua các dự án: Tổ chức vay vốn

theo dự án nhỏ, giải quyết việc làm thông qua Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, dự án

nâng cao năng lực và hiện đại hóa các trung tâm dịch vụ việc làm; dự án điều tra, thống kê lao động và xây dựng hệ thống thông tin thị trường lao động…).

Đến năm 2002, "Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo"

được phê duyệt. Đây là chiến lược gắn kết chặt chẽ mục tiêu tăng trưởng kinh tế và

giảm nghèo nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) của Liên

Hợp Quốc công bố. Các mục tiêu chính bao gồm: Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu

đói; Đạt phổ cập giáo dục tiểu học; Tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ

nữ; Giảm tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh; Tăng cường sức khỏe bà mẹ; Phòng chống bệnh

HIV/AISD, sốt rét và các bệnh khác; Đảm bảo bền vững môi trường; Thiết lập quan hệ

đối tác toàn cầu vì mục đích phát triển. Những mục tiêu này mang kết quả trực tiếp và

gián tiếp xóa đói giảm nghèo một cách bền vững, bởi nguy cơ đói nghèo, tái đói nghèo

đều có thể xảy ra trong những biến cố của môi trường thiên nhiên, của quá trình hội

nhập và phát triển.

Các chính sách cụ thể về hỗ trợ người nghèo trong Chiến lược toàn diện về tăng

trưởng kinh tế gắn kết với xóa đói giảm nghèo bao gồm.:

- Chính sách định canh định cư và di dân phát triển kinh tế mới. Bộ Nông

nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan chủ trì thực hiện chương trình, với phương

thức thực hiện là lồng ghép các nguồn vốn ở địa phương để thực hiện các dự án sắp xếp dân cư, ưu tiên các hộ sống ở địa bàn khắc nghiệt, thiếu đất sản xuất, thiếu nước sinh hoạt chuyển sang những vùng có điều kiện kinh tế-xã hội phát triển hơn nhằm ổn

định cuộc sống lâu dài cho người dân qua đó giúp cho người dân có điều kiện nâng cao chất lượng cuộc sống.

- Chính sách ổn định và phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp gắn với chế biến tiêu thụ sản phẩm thực hiện bằng các nguồn vốn lồng ghép với chương trình 135, chủ yếu là hỗ trợ về giống cây trồng, vật nuôi và xây dựng các mô hình sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

96

- Chính sách giao đất, giao rừng (Nghị định số 163/NĐ-CP ngày 16/11/1999,

Quyết định số 178/QĐ-TTg ngày 12/11/2001) cho các hộ gia đình. Nhờ vậy, kinh tế lâm nghiệp có bước chuyển biến quan trọng từ khai thác tự nhiên là chủ yếu chuyển

sang trồng mới, khoanh nuôi và bảo vệ rừng.

- Chính sách hỗ trợ đất sản xuất theo Quyết định 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về giải quyết khó khăn về đất đai cho đồng bào dân tộc. Đối với đồng

bào dân tộc nghèo chưa có chỗ ở, Nhà nước hỗ trợ giúp 5 triệu đồng/hộ để làm nhà.

- Chính sách trợ giá, trợ cước góp phần quan trọng bình ổn giá cả thị trường, cải

thiện và nâng cao đời sống, thúc đẩy phát triển sản xuất đồng bào miền núi, vùng xa.

- Chính sách tín dụng được thực hiện bằng nhiều nguồn vốn khác nhau thông

qua các tổ chức Ngân hàng Nhà nước, các dự án, các mô hình tín dụng đối với vùng

núi, vùng xâu, vùng xa, đặc biệt là các nguồn vốn từ Ngân hàng Chính sách xã hội.

Thông qua ngân hàng, người dân chỉ phải vay với lãi suất thấp (0,5%/tháng), thời

hạn vay từ 12 -60 tháng. Với nguồn vốn tín dụng này, hàng triệu lượt hộ nghèo có

cơ hội tiếp cận được nguồn vốn vay ưu đãi của Nhà nước, qua đó có thể giúp đời

sống vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Ngoài ra, ngân hàng chính sách còn cho vay

qua Quỹ Quốc gia về giải quyết việc làm và cho đối tượng chính sách nghèo vay

xuất khẩu lao động.

- Chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn, thường được

gọi là chương trình 135 giai đoạn 2 (2006-2010).

Các chương trình trên đây đều nhằm hỗ trợ người lao động không có được việc

làm trong các khu vực chính quy có điều kiện, cơ hội tìm, tạo việc làm gắn với quá

trình tăng trưởng. Trong quyết nghị của Chính phủ về định hướng giảm nghèo bền vững thời kỳ từ năm 2011 đến năm 2020 các nhóm chính sách hỗ trợ được đưa ra bao

gồm: hỗ trợ sản xuất, dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo; hỗ trợ về giáo dục và đào tạo; hỗ trợ về y tế và dinh dưỡng; hỗ trợ về nhà ở. Có thể nói hệ thống chính sách này đóng một vai trò rất quan trọng gắn kết giữa các thành tựu tăng trưởng kinh tế trong từng ngành tới việc phân bổ nguồn lực thực hiện mục tiêu giảm nghèo

trong nền kinh tế.

4.2. Tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam

Qua bối cảnh về thực trạng tăng trưởng kinh tế và thực trạng nghèo đói ở Việt Nam giai đoạn 2010-2016, phần nghiên cứu này sẽ hướng tới mục tiêu kiểm định ba giả thuyết nghiên cứu về các kênh tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo bao gồm kênh: tạo việc làm, khả năng tiếp cận nguồn lực và chuyển dịch

97

cơ cấu ngành. Các kiểm định giả thuyết trong phần nghiên cứu này sẽ được tiến hành

dưới các phân tích định tính.

4.2.1. Tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua tạo việc làm

Phần phân tích này sẽ tập trung vào mối tương quan giữa tăng trưởng và giảm nghèo thông qua khả năng tạo việc làm trong ba ngành nông nghiệp- công nghiệp-

dịch vụ. Xét trên góc độ lý thuyết như đã trình bày ở chương II, khi quy mô việc làm

được mở rộng ở mỗi ngành thì ngành đó sẽ có xu hướng thu hút lao động. Tương tự

kết quả này, nếu trong tương quan giữa các ngành, nếu một ngành có xu hướng tạo

việc làm với tốc độ nhanh hơn ngành đó cũng sẽ hút lao động từ ngành khác. Ngược

lại, nếu khả năng ứng dụng công nghệ thay thế lao động cao thì ngành đó lại có xu

hướng dư thừa tương đối lao động và xuất hiện hiệu ứng đẩy lao động ra khỏi ngành

đó. Trong lực lượng lao động, những người lao động nghèo sẽ phản ứng trước tiên với

hiệu ứng “hút” và “đẩy” này.

Hình 4.9: Tốc độ tăng trƣởng việc làm của nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ

Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu của Báo cáo lao động việc làm các năm từ 2010 đến 2016, Tổng cục thống kê.

Qua số liệu về tốc độ tăng trưởng việc làm của từng ngành trong Hình 4.9 có thể thấy xu hướng gia tăng việc làm ở từng ngành khá tương đồng với tăng trưởng

kinh tế theo ngành và xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành. Khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên về tỷ trọng đồng thời khu vực nông nghiệp giảm đi về tỷ trọng kéo

98

theo tốc độ gia tăng việc làm trong khu vực nông nghiệp có xu hướng giảm dần trong

giai đoạn 2010-2016. Thậm chí trong các năm 2012, 2014, 2015, 2016, tốc độ tăng trưởng việc làm khu vực nông nghiệp còn bị âm, thể hiện sự phân bổ lao động theo

ngành tuân theo đúng quy luật trong lý thuyết của Fisher. Tốc độ tăng trưởng việc làm

thể hiện cho sự tác động của hai hiệu ứng “kéo và đẩy” đối với lao động trong từng ngành kinh tế. Tốc độ tăng trưởng của khu vực nông nghiệp trong giai đoạn này cao

hơn tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ, tuy nhiên tốc độ gia tăng việc làm lại có

xu hướng giảm mạnh. Trong khu vực nông nghiệp, hiệu ứng “đẩy” lao động lớn hơn

so với hiệu ứng “kéo” lao động. Lý giải cho điều này, có thể thấy khá rõ rằng, trong một nền kinh tế đang trong giai đoạn công nghiệp hóa thì công nghệ có thể khiến khu

vực nông nghiệp tăng trưởng đồng thời giải phóng sức lao động tay chân của khu vực

này. Trong khi đó, lao động dịch chuyển dần về khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đặc

biệt, công nghiệp hóa khiến khu vực công nghiệp thu hút lao động lớn nhất, với tốc độ

gia tăng việc làm tăng mạnh vào năm 2015 (tăng 6,24% so với năm trước). Tăng

trưởng việc làm của khu vực dịch vụ có xu hướng giảm trong năm 2014, nhưng tăng

trở lại trong năm 2016. Tuy nhiên, khả năng tạo việc làm của khu vực dịch vụ vẫn

giảm so với năm 2011 (5,17%). Như vậy, xu thế cơ bản vẫn là lao động dịch chuyển từ

khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp tìm việc làm. Nguyên nhân chính của

tình trạng này là quá trình công nghiệp hóa của Việt nam bắt đầu từ việc phát triển một

số ngành công nghiệp nhẹ-những ngành sản xuất thâm dụng lao động. Do vậy, lao

động nông nghiệp có thể dễ dàng tìm được việc làm trong khu vực công nghiệp, khiến

quá trình dịch chuyển lao động này khá thuận lợi và có tác động tích cực đến tăng

trưởng kinh tế lẫn mục tiêu tạo việc làm cho những người lao động kém tay nghề, chưa qua đào tạo từ khu vực nông nghiệp.

Bảng 4.6 đánh giá tương quan giữa khả năng tạo việc làm giữa các ngành với

tiềm năng tăng trưởng giữa các ngành. Khu vực nông nghiệp luôn có tăng trưởng GDP dương, nhưng tốc độ tăng trưởng việc làm khu vực này lại có xu hướng giảm và liên tục âm trong giai đoạn 2010-2016. Đặc biệt trong năm 2015 và 2016 tốc độ tăng trưởng việc làm khu vực nông nghiệp giảm mạnh. Ngược lại, tốc độ tăng trưởng GDP

và việc làm ở khu vực công nghiệp và dịch vụ luôn dương. Đối với khu vực công nghiệp, khoảng cách giữa tốc độ tăng trưởng và tốc độ tăng việc làm ngày càng giảm tương đối, đến năm 2016 thì việc làm khu vực công nghiệp mở rộng với tốc độ 9,28% cao hơn hẳn tốc độ tăng GDP công nghiệp trong năm này ( 7,57%). Cũng duy nhất khu vực công nghiệp có tốc độ mở rộng việc làm tăng ngày càng mạnh, ngay cả khu vực dịch vụ cũng có tốc độ mở rộng việc làm giảm tương đối theo thời gian từ 2010 đến

99

2016. Đối với khu vực dịch vụ, khả năng mở rộng việc làm và tăng trưởng GDP đều

giảm dần, tuy nhiên tốc độ giảm của việc làm nhanh hơn so với GDP. So với năm 2011 thì tốc độ mở rộng việc làm giảm khoảng 3,68 điểm phần trăm, trong khi GDP

khu vực dịch vụ giảm khoảng 0,49 điểm phần trăm.

Bảng 4.6: So sánh tốc độ tăng trƣởng việc làm và tốc độ tăng trƣởng theo ngành kinh tế giai đoạn 2010-2016

Đơn vị: %

Tốc độ tăng trƣởng

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

-0.63

0,24

-0,05

-4,79

-3,94

-

0,12

Việc làm khu vực Nông nghiệp

-

4,23

2,92

2,63

3,44

2,41

1,36

GDP khu vực Nông nghiệp

-

3,86

0,99

1,53

2,46

6,24

9,28

Việc làm khu vực Công nghiệp

-

7,6

7,39

5,05

6,42

9,64

7,57

GDP khu vực Công nghiệp

-

5,17

5.15

3,47

1,66

3,29

1,49

Việc làm khu vực Dịch vụ

-

7,47

6,71

6,72

6,16

6,33

6,98

GDP khu vực Dịch vụ

Nguồn: Niên giảm Thống kê các năm 2010 đến 2016, Tổng cục Thống kê.

Như vậy, với thực trạng khu vực nông nghiệp tăng trưởng chậm lại và quy mô

việc làm giảm, người nghèo hoạt động trong khu vực nông nghiệp sẽ ngày càng gặp

nhiều khó khăn và gặp nhiều hạn chế khi tìm kế sách thoát nghèo. Khu vực công

nghiệp năm 2015 và 2016 có tốc độ mở rộng việc làm bùng nổ so với những năm

trước, tạo điều kiện thuận lợi cho lao động khu vực này tìm kiếm việc làm và nâng cao

thu nhập. Tuy nhiên, nếu xu hướng tăng trưởng việc làm bùng nổ quá nhanh, trong khi

tốc độ tăng GDP khu vực này lại có xu hướng chững lại sẽ khiến cơ hội việc làm cho

người nghèo khó duy trì được trong dài hạn. Tương tự nông nghiệp, khu vực dịch vụ

có tốc độ mở rộng việc làm giảm rất nhanh trong giai đoạn 2010-2016 là một bất lợi

đối với những lao động nghèo.

Nhìn chung trong ba ngành, duy nhất tăng trưởng khu vực công nghiệp mở rộng việc làm lớn nhất. Tuy nhiên, bản thân khu vực công nghiệp trong giai đoạn 2010- 2016 lại không duy trì được đà tăng trưởng mạnh và ổn định. Điều này có thể tác động

tiêu cực đến khả năng tiếp cận việc làm và khả năng duy trì thu nhập ổn định của lao động khu vực công nghiệp, đặc biệt là lao động nghèo. Hơn nữa, nếu khả năng tạo việc làm ở khu vực công nghiệp không được bảo đảm trong dài hạn, thì người nghèo khu vực nông nghiệp sẽ ngày càng khó có tìm kiếm cơ hội việc làm để thoát nghèo hơn trước. Những đối tượng này sẽ trở thành nhóm nghèo lâu dài và bần cùng trong xã hội

do họ không thể tìm kiếm việc làm tại khu vực nông nghiệp đang bị thu hẹp tương đối

trong giai đoạn công nghiệp hóa.

100

Tuy nhiên, tăng trưởng việc làm của từng ngành chỉ là điều kiện cần, chứ chưa

phải là điều kiện đủ để giảm nghèo. Để đánh giá vai trò tạo việc làm cho người nghèo cần xem xét khả năng người nghèo tiếp cận để tìm kiếm việc làm trong các khu vực và

thu nhập người nghèo có được từ việc làm thường xuyên.

Bảng 4.7: Dân số 15 tuổi làm công việc chiếm nhiều thời gian nhất trong 12 tháng qua chia theo ngành kinh tế và theo nhóm thu nhập

Đơn vị: %

Các nhóm thu nhập theo từng năm

Ngành kinh tế

Nhóm 1 77,8

Nhóm 2 59,4

Năm 2010 Nhóm 3 43,2

Nhóm 4 28,7

Nhóm 5 17,3

Nhóm 1 84,0

Nhóm 2 57,9

Năm 2014 Nhóm 3 40,3

Nhóm 4 27,4

Nhóm 5 19,8

(1)

0,2

0,3

0,4

0,5

1,0

0,3

0,4

0,6

0,7

0,3

(2)

10,5

14,0

19,0

20,7

19,2

13,1

18,4

20,6

18,2

4,9

(3)

4,0

8,7

9,0

8,0

6,0

4,1

9,2

9,9

7,8

6,0

(4)

3,6

8,1

12,0

16,0

19,3

3,0

9,0

12,9

15,9

18,2

(5)

0,7

2,0

3,3

4,5

6,6

0,6

2,0

3,4

4,7

6,2

(6)

0

0,1

0,2

0,5

2,1

0

0,1

0,2

0,6

2,4

(7)

1,1

3,0

4,9

6,7

9,6

1,1

3,3

5,4

7,5

9,6

(8)

0,5

1,2

2,3

3,8

6,8

0,6

1,3

2,4

4,1

7,0

(9)

0,5

1,4

3,3

8,0

9,6

0,5

1,8

3,9

7,9

10,0

(10)

1,0

1,8

2,4

2,7

2,4

1,0

2,1

2,9

2,9

2,0

(11)

100

(12)

100

100

100

100

100

100

100

100

100

Chú thích: (1): Nông, lâm, thủy sản; (2): Công nghiệp khai thác; (3) Công nghiệp chế biến; (4): Sản xuất, phân phối điện nước xây dựng; (5): Thương nghiệp; (6): Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc; (7): Tài

chính, tín dụng; (8): Các dịch vụ khác; (9): Quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng;(10): Giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao; (11): Khác; (12): Tổng

Nguồn: Kết quả khảo sát Mức sống dân cư 2014, Tổng cục thống kê.

Công việc chiếm tỷ trọng cao nhất trong lực lượng lao động chính là công việc trong ngành nông-lâm-thủy sản. Trong nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất thì đa phần

lao động hoạt động trong ngành này. Thậm chí tỷ trọng lao động trong ngành này ở nhóm thu nhập thấp nhất tăng lên đáng kể từ năm 2010 đến năm 2014. Trong khi đó, tốc độ gia tăng việc làm ở khu vực này lại thấp nhất trong ba ngành, thậm chí trong vài năm gần đây quy mô việc làm trong nông nghiệp còn giảm. Trong giai đoạn 2010- 2015, duy nhất nhóm dân nghèo có tỷ trọng tham gia vào khu vực nông nghiệp tăng mạnh (6,2 điểm phần trăm). Nhóm cư dân giàu nhất cũng có xu hướng tăng nhẹ việc

101

làm đối với khu vực này (tăng 2,5 điểm phần trăm), trong khu tất cả các nhóm dân cư

khác đều có xu hướng giảm tỷ trọng lao động trong nông-lâm-ngư nghiệp. Xu hướng này cho thấy, việc làm nông nghiệp đang có xu hướng giảm nhưng nông-lâm-ngư

nghiệp vẫn là khu vực quan trọng nhất cho người nghèo tìm việc.

Đối với nhóm người nghèo nhất trong xã hội, khu vực nông- lâm- ngư nghiệp vẫn là khu vực tạo ra việc làm cho đa số lao động. Do vậy, muốn xóa đói giảm nghèo

cho những đối tượng này cần thiết phải tạo ra việc làm cho họ ở khu vực nông nghiệp

nhằm cải thiện thu nhập giúp giảm nghèo bền vững. Bản thân nhóm người nghèo trong

khu vực nông nghiệp bao gồm nhóm nghèo cùng cực có rất ít cơ hội để tiếp cận giáo dục, đào tạo để có thể tiếp cận công việc ở khu vực công nghiệp hay dịch vụ. Giảm

nghèo muốn bền vững cần phải giải quyết được tình trạng nghèo đói trong lõi nghèo ở

khu vực nông nghiệp.

Khả năng mở rộng việc làm ở các ngành kinh tế có xu hướng khác nhau và biến

động qua thời gian, nhưng nhìn chung thu nhập của hộ gia đình đều có xu hướng gia

tăng cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong giai đoạn 2010-2016, tăng trưởng vẫn

duy trì với tốc độ như cũ, trong khi đó mức giảm nghèo có xu hướng nhanh hơn so với

các năm trước đó, khiến hệ số co giãn tăng nhanh. Mặc dù trong giai đoạn 2010-2016,

chuẩn nghèo liên tục tăng phù hợp với tiêu chuẩn mức sống mới và thu nhập gia tăng

nhưng tương quan giữa tăng trưởng kinh tế chung đến mục tiêu giảm nghèo vẫn khá

khả quan và có xu hướng gia tăng trong tương lai. Tuy nhiên, để đánh giá cụ thể và sâu

sắc hơn, hệ số co giãn giữa giảm nghèo với tăng trưởng bình quân đầu người sẽ phản

ảnh rõ nét mối tương quan giữa tăng trưởng với đói nghèo. Tăng trưởng bình quân đầu

người có tính đến sự biến động về dân số của quốc gia, do vậy sẽ phản ánh chính xác hơn hiện trạng gia tăng thu nhập của dân cư. Bên cạnh đó, đo lường nghèo đói theo

chuẩn thế giới (mức 3,1 USD/ ngày, giá PPP) sẽ cho chúng ta một cái nhìn khách quan

hơn về hiện trạng tăng trưởng và nghèo đói so với các quốc gia khác trên thế giới.

Bảng 4.8: Hệ số co giãn giảm nghèo theo tăng trƣởng thu nhập bình quân

Chỉ tiêu 2010 2012 2014 2016

Tăng trưởng thu nhập bình quân (%) 2,76 4,48 3,99 3,47

Tốc độ giảm nghèo (%) -37,9 -12,37 -6.87 -5,65

Hệ số co giãn giảm nghèo theo tăng trưởng -13,42 -2,87 -1,69 -1,66 thu nhập bình quân

Nguồn: Ngô Thắng Lợi và Nguyễn Quỳnh Hoa, 2017.

102

Với tiêu chuẩn về chuẩn nghèo là 3,1USD/ ngày (giá PPP) và tăng trưởng theo

thu nhập bình quân đầu người, có thể thấy mối tương quan giữa tăng trưởng và giảm nghèo có xu hướng ngược chiều so với bảng trên. Nếu đánh giá theo tăng trưởng

bình quân đầu người, có thể thấy trong giai đoạn 2010-2016, xu hướng tăng trưởng

thu nhập bình quân vẫn được duy trì. Tính theo chuẩn nghèo thế giới, tốc độ giảm nghèo của Việt Nam dần có xu hướng chững lại. Hai xu hướng này cho hệ quả là độ

co giãn giảm nghèo theo tăng trưởng có độ lớn giảm dần. Giai đoạn 2010-2016, hệ số

co giãn này giảm rất mạnh về độ lớn. Nếu trong năm 2010, 1% tăng trưởng thu nhập

bình quân sẽ có tác động giảm nghèo tới 13,42 điểm phần trăm, thì đến năm 2016, 1% tăng trưởng thu nhập bình quân chỉ mang lại hiệu quả giảm nghèo khoảng 1,66

điểm phần trăm.

Nếu đánh giá tăng trưởng thu nhập bình quân thì mức tăng trưởng khá rõ nét.

Tuy nhiên, so sánh với chuẩn nghèo mới thì thời gian gần đây Việt nam không gặt hái

được thành tựu giảm nghèo đáng kể như trước đây. Nguyên nhân cơ bản là vấn đề bất

bình đẳng trong giai đoạn 2010-2016 gia tăng so với giai đoạn trước khiến phân phối

cho nhóm người nghèo chưa được thực hiện tốt. Kết quả là mức giảm nghèo bình quân

có giảm tương đối so với đầu kỳ nghiên cứu. Mặt khác, chuẩn nghèo thế giới ở mức

cao cũng khiến cho tỷ lệ hộ nghèo tăng lên. Bên cạnh thành tựu giảm nghèo, tỷ lệ hộ

cận nghèo vẫn còn khá cao khiến kết quả giảm nghèo chưa bền vững. Khi chuẩn nghèo

cao sẽ khiến các đối tượng này dễ dàng rơi xuống dưới ngưỡng nghèo và khó thoát

nghèo. Bên cạnh đó, nếu hiệu quả giảm nghèo không bền vững, tỷ lệ tái nghèo có xu

hướng gia tăng.

Như vậy, qua khảo sát và phân tích định tính, có thể thấy một số vấn đề như sau khi đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua kênh tạo

việc làm:

i) Qua mở rộng việc làm thì tăng trưởng kinh tế các ngành có tác động đến giảm nghèo vì mở rộng việc làm sẽ tạo cơ hội cho các hộ gia đình gia tăng thu nhập (giả thuyết 1). Như vậy, tăng trưởng kinh tế theo ngành tác động đến giảm nghèo ở

Việt Nam qua kênh việc làm. Tuy nhiên, hệ số co giãn của giảm nghèo theo gia tăng thu nhập bình quân ngày giảm dần trong giai đoạn 2010-2016 cho thấy tác động của kênh mở rộng việc làm đến giảm nghèo có xu hướng ngày càng giảm đi về hiệu quả.

ii) Trên thực tế, quy mô việc làm khu vực nông nghiệp giảm, nhưng tỷ lệ công việc của nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất trong xã hội lại có xu hướng gia tăng công ăn việc làm ở khu vực nông nghiệp. Điều này cho thấy, có dấu hiệu của việc những người nghèo bị bỏ rơi lại khu vực nông nghiệp và họ không thể tìm kiếm

103

được việc làm ở những khu vực khác, bất chấp thực tiễn rằng công nghiệp và dịch vụ

đang mở rộng quy mô việc làm đáng kể. Tốc độ mở rộng việc làm ở công nghiệp và dịch vụ tăng chủ yếu chỉ tạo việc làm cho những lao động có tay nghề hoặc có khả

năng thích ứng với công việc mới tốt hơn, ngược lại, lao động nghèo vẫn gặp nhiều

khó khăn trong quá trình tìm kiếm việc làm trong khu vực công nghiệp và dịch vụ. Như vậy với giả thuyết 1a, không có minh chứng rõ ràng về mặt định tính cho tác

động tích cực của việc mở rộng việc làm khu vực công nghiệp hoặc dịch vụ đến giảm

nghèo. Thậm chí, tình trạng người nghèo bị bỏ rơi lại khu vực nông nghiệp có thể

gây ra tình trạng nghèo co cụm ở khu vực nông nghiệp- nông thôn như phần phân tích thực trạng đã nêu.

iii) Tốc độ mở rộng việc làm ở khu vực công nghiệp lớn nhất và tăng mạnh qua các năm. Tuy nhiên, đối với nhóm dân cư có thu nhập thấp nhất họ tìm được việc làm

chủ yếu trong khu vực nông nghiệp và đứng thứ hai là khu vực công nghiệp chế biến.

Thực trạng này không ủng hộ cho giả thuyết 1b. Như vậy, tăng trưởng việc làm của

khu vực công nghiệp và dịch vụ chưa chắc đã có tác động tích cực hơn tới giảm nghèo

so với tăng trưởng việc làm so với khu vực nông nghiệp.

Mặc dù được xem là sớm đạt được những thành tựu đáng kể trong tăng trưởng

ngành kinh tế và xóa đói giảm nghèo, nhưng Chính phủ Việt nam cũng thừa nhận rằng

kết quả tăng trưởng lẫn giảm nghèo đều chưa bền vững dẫn đến tác động tích cực của

tăng trưởng kinh tế theo ngành tới việc làm và thu nhập người nghèo còn chưa ổn định

và bền vững.

4.2.2. Tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua tạo nguồn lực

Đối với nhóm hộ nghèo, khả năng tiếp cận được những nguồn lực từ tăng

trưởng kinh tế các ngành hạn chế hơn các nhóm dân cư có thu nhập cao hơn. Là nhóm yếu thế trong xã hội, người nghèo thường có đặc tính chưa được qua đào tạo, ít đất nông nghiệp để canh tác, khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, không biết cách tổ chức hoạt động sản xuất có hiệu quả… Mặc dù Chính phủ đã nỗ lực trong quá trình

phân bổ nguồn lực tạo ra từ tăng trưởng kinh tế theo ngành đến tay người nghèo, nhưng khả năng tiếp cận và sử dụng hiệu quả các nguồn lực này ở người nghèo vẫn còn khá hạn chế. Bảng 4.9 cho biết tỷ lệ hộ nghèo có khả năng tiếp cận một số nguồn lực xã hội trong giai đoạn từ 2010 đến 2016.

104

Bảng 4.9: Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận một số nguồn lực xã hội

Đơn vị (%)

Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận nguồn lực (%)

Các nguồn lực

2010-2012

2012-2014

2014-2016

Đào tạo nghề

0,11

0,12

0,13

Đất sản xuất

0,0

0,02

0,02

Nguồn lực hỗ trợ sản xuất

Tín dụng ưu đãi

11,98

11,47

12,54

Máy móc, vật tư sản xuất

9,48

5,23

6,57

Nhà ở

1,26

8,7

10,3

Lương thực

5,17

5,2

5,7

Nguồn lực hỗ trợ thu nhập

Trợ cấp khó khăn

4,3

4,8

5.6

Nguồn: Tổng hợp từ số liệu khảo sát mức sống dân cư VHLSS 2010, 2012, 2014, 2016,

Tổng cục Thống kê.

Trong giai đoạn 2010-2016, tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận nguồn tín dụng ưu đãi là

lớn nhất, và tiếp cận đất sản xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu số là thấp nhất. Trong các

nguồn lực xã hội được đánh giá, trong ba giai đoạn từ 2010-2016, tỷ lệ tiếp cận các

nhóm nguồn lực có sự thay đổi như sau: hộ nghèo nhận hỗ trợ về nhà ở tăng mạnh

nhất, hộ nghèo nhận hỗ trợ máy móc, vật tư sản xuất giảm mạnh nhất. Thực tế cho

thấy, trong giai đoạn 2010-2016, khi Việt Nam đưa ra tiêu chuẩn đánh giá nghèo theo

nghèo đa chiều, các tiêu chí về đời sống của con người được quan tâm hơn so với

trước đây chỉ đánh giá qua thu nhập hoặc chi tiêu của hộ. Chính vì vậy, Chính phủ khuyến khích hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở được mở rộng hơn cho các hộ có thể tham gia

nhằm nâng cao chất lượng đời sống từ việc đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người.

Theo tổng hợp số liệu báo cáo của các tỉnh, tính đến năm 2016 cả nước đã thực hiện hỗ trợ cho 15.143 hộ nghèo vay vốn làm nhà ở, tương đương khoảng 377 tỷ đồng được giải ngân (đạt 95% số vốn đã phân bổ. Theo tổng hợp số liệu từ Đề án của các địa

phương, các đối tượng thuộc diện được hỗ trợ đa số là các hộ có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và đồng bào dân tộc thiểu số (chiếm 60,8%) nên việc huy động nguồn lực từ họ hàng, gia đình gặp nhiều khó khăn. Chính quyền tại một số địa phương chưa dành sự quan tâm đúng mức cho chương trình; công tác tuyên truyền, vận động cộng đồng tham gia chưa phát huy hiệu quả gây ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chương trình. Công tác phối kết hợp giữa các cơ quan liên quan, lồng ghép các nguồn lực để hỗ trợ nhà ở cho người dân chưa thường xuyên, liên tục. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn

105

vốn ngân sách Trung ương trong thời gian qua gặp nhiều khó khăn, dẫn đến thiếu

nguồn vốn triển khai, làm chậm tiến độ thực hiện các chương trình so với kế hoạch.

Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận máy móc, vật tư sản xuất giảm đáng kể trong ba giai

đoạn từ 2010 đến 2016. Mặc dù Chính Phủ rất quan tâm đến việc tăng cường khả năng

tiếp cận của hộ nghèo với khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả sản xuất nhưng hiệu quả của các chương trình hỗ trợ cho hộ nghèo đạt được không

cao. Nguyên nhân cơ bản là đối với các hộ nghèo khu vực miền núi, mặc dù họ rất nỗ

lực thoát nghèo nhưng chủ yếu địa hình khu vực này thuận lợi cho chăn nuôi hơn trồng

trọt nên việc hỗ trợ máy móc phục vụ trồng trọt sẽ không đem lại hiệu quả giảm nghèo cao. Mặt khác, hỗ trợ máy móc sản xuất nhằm tăng cường khả năng tiếp cận về khoa

học công nghệ đòi hỏi nguồn vốn ngân sách lớn từ Chính Phủ, nhưng việc lựa chọn

những máy móc cần thiết cho từng loại hình cây trồng, từng địa phương không thực

hiện tốt cũng ảnh hưởng đến hiệu quả. Một số khu vực tỷ lệ nghèo cao, nhóm hộ

nghèo nhất lại rơi vào tình trạng thiếu đất sản xuất, do vậy việc hỗ trợ máy nông cụ

không phải là nhu cầu bức thiết của nhóm hộ nghèo này. Như vậy, trong giai đoạn

2010-2016, tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận nhiều nhất là các chương trình hỗ trợ tín dụng cho

hộ nghèo, và các chương trình hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở.

Trong các nguồn lực hộ nghèo tiếp cận, có thể tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận cao nhất

chính là nguồn vốn thông qua các chương trình ưu đãi tín dụng ở cả ba giai đoạn

nghiên cứu. Cụ thể hơn, đối với các chương trình tín dụng ưu đãi cho người nghèo thì

cơ cấu vay hoặc còn nợ theo nguồn vốn vay cụ thể như sau:

Bảng 4.10: Tỷ lệ số hộ có vay hoặc còn nợ chƣơng trình tín dụng ƣu đãi cho ngƣời

nghèo theo nguồn vay và theo 5 nhóm thu nhập:

2010

2012

Nhóm

Nhóm

Nhóm

Nhóm

Nhóm

Nhóm

Nhóm

Nhóm

Nhóm

Nhóm

1

2

3

4

5

1

2

3

4

5

Tỷ lệ hộ có vay hoặc còn nợ

24,4 15,3 9,8

5,8

2,7

23,6

12,5

6,6

3,9

1,6

Ngân hàng Chính sách xã hội 87,5

84,0

79,9

74,9

63,0

91,3

89,4

84,2

82,2

80,8

Quỹ hỗ trợ việc làm

1,0

1,4

1,8

1,7

4,5

0,8

0,6

0,8

2,5

2,4

Quỹ giảm nghèo

4,6

4,8

4,6

6,2

6,8

4,2

4,4

4,5

4,8

5,1

Các tổ chức chính trị xã hội

5,7

8,2

10,7

12,0

10,0

3,7

5,0

8,4

9,5

6,4

Khác

4,1

4,6

8,1

9,2

18,6

2,4

3,9

6,0

3,6

7,1

Đơn vị: %

Nguồn: Kết quả khảo sát mức sống dân cư VHLSS 2014, Tổng cục Thống kê.

106

Đối với nhóm dân nghèo, tỷ lệ hộ vay hoặc còn nợ chiếm cao nhất. Trong cơ

cấu nguồn vay, chủ yếu các khoản vay tín dụng ưu đãi có được từ Ngân hàng chính sách xã hội, sau đó đến quỹ giảm nghèo hoặc các tổ chức chính trị xã hội. Vay tín

dụng ưu đãi từ quỹ hỗ trợ việc làm có tỷ lệ thấp nhất trong các nguồn vay. Theo ước

tính của Ngân hàng Chính sách, sau 15 năm hoạt động, nguồn vốn tín dụng chính sách đã giúp gần 4,5 triệu hộ vượt qua ngưỡng nghèo; giúp hơn 3,5 triệu lượt học sinh, sinh

viên có hoàn cảnh khó khăn được vay vốn học tập; xây dựng hơn 9,9 triệu công trình

nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn... Trong năm 2014, Ngân sách đã chi

khoảng gần 13.000 tỷ đồng để mua cấp thẻ bảo hiểm y tế cho các đối tượng, trong đó gần 10 triệu người nghèo và cận nghèo được hỗ trợ thẻ bảo hiểm y tế; gần 2 triệu lượt

học sinh nghèo, học sinh dân tộc thiểu số được miễn giảm học phí, hỗ trợ học bán trú,

hỗ trợ chi phí học tập với số tiền hơn 7.000 tỷ đồng; Ngân hàng chính sách xã hội đã

cho hơn 400.000 lượt hộ nghèo vay vốn sản xuất, xuất khẩu lao động, hơn 60.000 học

sinh nghèo được vay vốn học tập... Những kết quả này đã đóng góp một phần quan

trọng nhằm thực hiện được các mục tiêu gắn tăng trưởng với giảm nghèo bền vững.

Tóm lại, qua kênh tiếp cận nguồn lực, tình trạng nghèo đói có những điểm đáng

chú ý sau:

i) Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận nguồn lực tăng lên qua các giai đoạn, đồng thời tỷ lệ nghèo đói giữ xu hướng giảm qua các năm. Điều này cho thấy tác động tích cực của

kênh tiếp cận nguồn lực đến tình trạng nghèo đói ở Việt Nam trong giai đoạn nghiên

cứu. Nhìn chung các kết quả ủng hộ cho giả thuyết 2. Như vậy, tăng cường khả năng

và tỷ lệ người nghèo tiếp cận nguồn lực qua chính sách của Chính Phủ, tình trạng

nghèo đói sẽ được cải thiện.

ii) Tỷ lệ hộ nghèo được tiếp cận nguồn lực cho sản xuất lại có xu hướng giảm trong giai đoạn 2012-2014 so với giai đoạn trước đó. Tuy nhiên tỷ lệ này lại tăng trong

giai đoạn sau. Kết quả cho thấy chưa có bằng chứng định tính thuyết phục để đưa ra kết luận cho giả thuyết 2a. Như vậy, tiếp cận nguồn lực sản xuất chưa chắc đã phải là yếu tố giúp giảm nghèo.

iii) Ngược lại, tỷ lệ hộ nghèo được tiếp cận nguồn lực hỗ trợ thu nhập tăng lên rõ rệt, đi kèm theo đó tình trạng nghèo đói có xu hướng giảm. Điều này đóng góp bằng chứng cho giả thuyết 2b. Ngược lại với tiếp cận nguồn lực sản xuất, nếu hộ nghèo được hỗ trợ nguồn lực về thu nhập trực tiếp thì tác động giảm nghèo rõ rệt hơn.

iv) Qua phân tích định tính, giả thuyết 2c chưa đủ căn cứ để đưa ra kết luận. Các phân tích định tính chưa có căn cứ để so sánh tác động của hai nhóm chính sách tạo nguồn lực cho người nghèo.

107

Để kiểm định thêm cho giả thuyết 2a và 2c, luận án sẽ sử dụng phương pháp

phân tích định lượng để bổ trợ cho kết quả nghiên cứu ở những phần sau.

4.2.3. Tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động Việt Nam theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng lao động trong các ngành công nghiệp và

dịch vụ ngày càng tăng, trong khi tỷ trọng lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm.

Hình 4.10: Cơ cấu lao động theo ngành

Nguồn: Niên giám thống kê 2016, Tổng cục Thống kê.

Bảng trên cho thấy sự dịch chuyển trong lao động giữa các ngành. Trong 6

năm, tỷ trọng lao động nông nghiệp giảm khoảng 8%, trong đó công nghiệp tăng khoảng 4% và dịch vụ tăng khoảng 4%. Tuy nhiên, có thể nhận thấy hai vấn đề tồn tại trong cơ cấu lao động như sau. Thứ nhất, tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động còn khá chậm chạp. Trong giai đoạn công nghiệp hóa, việc chuyển dịch lao động diễn ra đồng

thời với quá trình mở rộng quy mô việc làm ở khu vực công nghiệp và dịch vụ, đồng thời diễn ra với quá trình tăng năng suất lao động rất nhanh ở khu vực công nghiệp và lan tỏa đến những khu vực khác. Tuy nhiên, với cơ cấu lao động trong 6 năm qua, rõ ràng quá trình dịch chuyển lao động còn khá khó khăn giữa các ngành. Thứ hai, Việt Nam đang trong giai đoạn công nghiệp hóa với tốc độ cao để hướng tới năm 2020 cơ

bản trở thành nước công nghiệp, tuy nhiên cơ cấu lao động cho thấy gần một nửa số lao động vẫn còn hoạt động trong khu vực nông nghiệp, trong khi lao động công

108

nghiệp chỉ chiếm khoảng ¼ lao động. Sự thay đổi trong cơ cấu lao động còn thể hiện

khả năng thu hút lao động của khu vực công nghiệp còn khá thấp, và khu vực tăng trưởng cao nhất lại sử dụng ít lao động nhất. Khu vực dịch vụ có biểu hiện tích cực của

quá trình chuyển dịch lao động. Nhưng trên thực tế, lao động khu vực dịch vụ ở những

nước đang phát triển nhu Việt Nam khá phức tạp và chủ yếu hoạt động ở khu vực dịch vụ phi chính thức. Đa phần lao động nghèo tham gia hoạt động kinh tế ở khu vực dịch

vụ đều nằm trong thị trường lao động phi chính thức. Như vậy, người lao động nghèo

vẫn rơi vào tình trạng khó tìm kiếm việc làm ổn định và việc làm trong khu vực có

năng suất lao động cao, tăng nhanh. Người nghèo chủ yếu vẫn làm việc ở khu vực nông nghiệp và dịch vụ phi chính thức vì nhiều hạn chế về tay nghề, kỹ năng lao động,

cơ hội để được giáo dục và đào tạo…

Tốc độ dịch chuyển lao động giữa các ngành cũng chậm lại đáng kể so với các

giai đoạn trước đây. Những năm 2001-2005, tỷ lệ dịch chuyển lao động là lớn nhất,

sau đó giảm khoảng gần 3 điểm phần trăm còn 2,41 trong giai đoạn 2006-2010. Đến

giai đoạn 2011-2016 thì tỷ lệ dịch chuyển này giảm hẳn, chỉ còn 1,65%. Với tỷ lệ

chuyển dịch thấp, Việt Nam sẽ còn bị hạn chế lớn trong quá trình phát triển kinh tế,

tạo việc làm cho lao động và nâng cao mức sống chung của dân cư. So với một số

quốc gia trong giai đoạn công nghiệp hóa, tốc độ dịch chuyển lao động tương ứng của

Việt nam cũng còn khá chậm chạp.

Bảng 4.11: Hệ số cos ɸ trong dịch chuyển cơ cấu lao động Việt Nam

giai đoạn 2001-2016

Giai đoạn Cos ɸ ɸ Tỷ lệ chuyển dịch (%)

0,99912 2,40 2,67 2001-2005

0,999285 2,17 2,41 2006-2010

0,999665 1,48 1,65 2011-2016

Nguồn: Ngô Thắng Lợi và Nguyễn Quỳnh Hoa, 2017.

Trong nội bộ cơ cấu kinh tế các ngành cấp II cũng diễn ra sự chuyển dịch cơ

cấu lao động. Cơ cấu lao động trong khu vực nông-lâm-thủy sản giai đoạn 2010-

2016 vẫn trong tình trạng lao động chủ yếu tập trung hoạt động nông nghiệp, tỷ trọng lao động lâm nghiệp và thủy sản tăng không đáng kể trong 6 năm. Trong khu vực công nghiệp, lao động tập trung chủ yếu vẫn tập trung ở các ngành công nghiệp gia công, lắp ráp với giá trị gia tăng thấp và không đòi hỏi tay nghề lao động cao. Tương

tự, khu vực dịch vụ chỉ tập trung lao động vào những ngành truyền thống và rất ít lao

109

động hoạt động trong ngành có hàm lượng tri thức cao (Ngô Thắng Lợi và Nguyễn

Quỳnh Hoa, 2017).

Sự dịch chuyển lao động giữa các ngành nông- công nghiệp, dịch vụ và giữa

các ngành cấp II diễn ra vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đến đời

sống hộ nghèo. Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay, động lực thúc đẩy người lao động nghèo rời bỏ khu vực nông nghiệp để hoạt động sản xuất trong khu vực công

nghiệp và dịch vụ đến từ hai nguyên nhân: do sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các

khu vực và do lao động nghèo không còn đất nông nghiệp để sản xuất. Nhưng nền

kinh tế đi sau như Việt Nam, quá trình dịch chuyển lao động lại không thể diễn ra một cách tuần tự như cách mạng công nghiệp của một số nước phát triển trước đây, vì nền

công nghiệp của chúng ta hiện nay mang tính kế thừa từ các nước phát triển. Do vậy,

có khoảng cách lớn giữa trình độ lao động nông nghiệp với yêu cầu chuyên môn,

nghiệp vụ của lao động công nghiệp và dịch vụ khiến lao động nông nghiệp khó tìm

được việc làm mới. Thực trạng này càng xảy ra phổ biến đối với lao động nghèo ít có

cơ hội được tiếp cận với những dịch vụ cơ bản của xã hội cũng như giáo dục nâng cao

trình độ. Với tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động chậm chạp, và tỷ trọng gần một nửa

lao động vẫn hoạt động trong khu vực nông nghiệp như hiện nay, việc cải thiện đời

sống cho lao động nghèo vẫn còn nhiều khó khăn cần Chính phủ phải có giải pháp

hiệu quả.

Như vậy, thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành ở Việt Nam tác động tới

khả năng giảm nghèo có một số điểm nổi bật như sau:

i) Chuyển dịch cơ cấu ngành hiện nay đang có những tác động cùng chiều đối với thực trạng giảm nghèo ở Việt Nam. Kết quả này phần nào ủng hộ cho giả thuyết 3 cho rằng tăng trưởng kinh tế theo ngành có tác động đến nghèo đói thông qua quá trình

chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tốc độ chuyển dịch có xu hướng chậm dần trong giai đoạn

từ 2010 đến 2016. Đây đồng thời cũng là xu hướng thể hiện kết quả và thành tựu giảm nghèo trong giai đoạn nghiên cứu.

ii) Ngoài xu hướng nêu trên, nghiên cứu định tính chưa cho thấy rõ ràng mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế các ngành và chuyển dịch cơ cấu ngành tới giảm nghèo một cách rõ nét.

Qua thực trạng tăng trưởng kinh tế theo ngành và thực trạng nghèo đói, những phân tích định tính đã phần nào mô tả được bức tranh về các vấn đề luận án nghiên cứu và đưa ra một số minh chứng trả lời cho câu hỏi nghiên cứu. Tuy nhiên, những tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua ba kênh tác động trong

110

giả thuyết trên thực tế rất phức tạp. Phần nghiên cứu sau sẽ tập trung vào mục tiêu

đánh giá tác động này qua ba kênh dựa trên một số công cụ về định lượng, nhằm kiểm định lại các giả thuyết đã nêu.

4.3. Ƣớc lƣợng tác động của tăng trƣởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam

4.3.1. Kết quả ước lượng tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua kênh việc làm

Để đánh giá về kênh việc làm, phần nghiên cứu này sẽ trình bày các kết quả kiểm

định cho giả thuyết (1) và hai giả thuyết phụ (1a) và (1b) trong khung lý thuyết mô tả

qua hình 3.1.

Kết quả ước lượng bảng 4.12 cho thấy tốc độ tăng việc làm khu vực nông

nghiệp và dịch vụ có tác động đến nghèo đói, ngược lại sự gia tăng việc làm của khu vực

công nghiệp lại không có ý nghĩa đối với thành tựu giảm nghèo. Ngoài ra, một số yếu tố

khác thể hiện đặc điểm của tình trạng lao động – việc làm cấp tỉnh cũng có tác động lớn

tới khả năng giảm nghèo. Cụ thể, tỷ lệ lao động được qua đào tạo, tỷ lệ lao động có việc

làm có tác động tích cực khá rõ nét đến tình trạng nghèo. Tuy nhiên, tỷ lệ đất nông nghiệp

bình quân và tỷ lệ đô thị hóa lại không cho thấy mối tương quan có ý nghĩa với tỷ lệ

nghèo. Kết quả ước lượng này không ủng hộ cho hai giả thuyết phụ 1a và 1b.

Bảng 4.12: Kết quả ƣớc lƣợng tác động của tăng trƣởng kinh tế đến giảm nghèo

qua tạo việc làm

Các biến Hệ số SE

-.607*** .111

-.058** .023

GDPbq AGRwk INDwk SERwk URBit Labedu Labwk TLit Cons_

-.005 -.028* .041 -.513*** .013 .015 .074 .099

-.988** 1.857 83.61*** .128 4.006 7.733

Chú thích: Biến phụ thuộc là tỷ lệ nghèo đói. *, **, *** là mức ý nghĩa với

10%, 5% và 1% tương ứng.

111

Mức thu nhập trung bình có tác động tích cực đến giảm nghèo, mỗi phần trăm

gia tăng trong thu nhập bình quân khiến tỷ lệ giảm nghèo giảm 0,607 điểm phần trăm. Về mức độ tác động, kết quả cho thấy tăng trưởng kinh tế chung có tác động đến giảm

nghèo khá lớn so với yếu tố khác. Tỷ lệ lao động có việc làm là nhân tố tác động đến

nghèo đói mạnh mẽ nhất. Mỗi phần trăm gia tăng trong tỷ lệ lao động có việc làm khiến tỷ lệ nghèo giảm khoảng 0,988 điểm phần trăm. Ngoài ra, tỷ lệ lao động đã qua

đào tạo cũng có tác động đến nghèo đói, mỗi phần tram gia tăng của tỷ lệ lao động qua

đào tạo có thể khiến tỷ lệ nghèo giảm 0,513 điểm phần trăm. Tuy nhiên, đánh giá về

tốc độ gia tăng việc làm của các ngành tác động đến tỷ lệ nghèo, kết quả ước lượng cho thấy như sau:

Tăng trưởng việc làm khu vực nông nghiệp và dịch vụ có tác động rất rõ rệt đến

giảm nghèo. Việc làm khu vực nông nghiệp tăng 1 phần trăm khiến tỷ lệ nghèo giảm

0,058 điểm phần trăm. Việc làm khu vực dịch vụ tăng 1 phần trăm khiến tỷ lệ nghèo

giảm 0,028 điểm phần trăm. Tác động giảm nghèo qua kênh việc làm từ khu vực nông

nghiệp có xu hướng lớn hơn. Ngược lại, tăng trưởng việc làm ở khu vực công nghiệp

lại không có ý nghĩa đối với công cuộc giảm nghèo trong giai đoạn 2010-2016 ở Việt

Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy tăng trưởng việc làm khu vực nông nghiệp và dịch

vụ có ý nghĩa đối với giảm nghèo, điều này phù hợp với thực tiễn trong thị trường lao

động Việt Nam. Người nghèo dễ tiếp cận và tìm kiếm việc làm ở khu vực nông nghiệp

và dịch vụ hơn là ở khu vực công nghiệp vì ở khu vực công nghiệp, lao động đòi hỏi có

kỹ năng và kỷ luật lao động nghiêm ngặt. Nhóm lao động nghèo đa phần chưa qua đào

tạo và quen thuộc với môi trường thời vụ ở khu vực nông nghiệp và khu vực dịch vụ thì

sẽ khó tiếp cận và thích nghi với môi trường làm việc của khu vực công nghiệp. Do vậy, mặc dù khu vực công nghiệp có tốc độ tăng trưởng việc làm lớn, nhưng cơ hội lại không

dành cho nhóm người nghèo. Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế ngày càng dựa trên

đóng góp của khu vực công nghiệp, quy mô việc làm khu vực nông nghiệp có xu hướng giảm sẽ là mối đe dọa lớn đối với đời sống người nghèo trong tương lai. Nhóm người nghèo nếu không tìm được việc làm ở khu vực công nghiệp, họ sẽ rơi vào tình trạng nghèo co cụm và cùng cực vì bị bỏ rơi lại khu vực nông nghiệp hoặc tham gia vào khu

vực dịch vụ phi chính thức. Trong khi đó, bản thân khu vực nông nghiệp không còn là mảnh đất tạo kế sinh nhai cho những người nghèo cùng cực như trước đây bởi quy mô đất nông nghiệp cũng như quy mô việc làm nông nghiệp có xu hướng giảm trong những năm gần đây và khu vực dịch phụ phi chính thức thì luôn trong tình trạng bất ổn.

Các yếu tố tỷ lệ lao động có việc làm, tỷ lệ lao động qua đào tạo và đô thị hóa lại có hiệu quả giảm nghèo rõ rệt hơn. Tỷ lệ lao động có việc làm gia tăng 1% thì

112

tương ứng tỷ lệ người nghèo giảm 0,988 điểm phần trăm. Thực tế cho thấy, gia tăng

việc làm trong nền kinh tế sẽ tác động đến thu nhập của cá nhân và hộ gia đình khiến giảm nghèo. Tuy nhiên cơ chế tác động này còn phụ thuộc lớn vào khả năng tiếp cận

việc làm của người nghèo. Người nghèo trong xã hội ít có cơ hội để lựa chọn và tiếp

cận với những phương thức giảm nghèo và trợ giúp khác của Chính Phủ sẽ hạn chế khả năng giảm nghèo. Đây là nhân tố có tác động lớn nhất đến nghèo đói.

Tác động lớn thứ ba đến giảm nghèo là tỷ lệ lao động qua đào tạo. Tỷ lệ này

tăng thêm 1% thì giảm nghèo có xu hướng tăng 0,513 điểm phần trăm. Kết quả này

hoàn toàn phù hợp với thực tiễn khi yêu cầu về chuyên môn, trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao phù hợp với công nghệ và phương thức sản xuất tiến

bộ. Xét trên phương diện lý thuyết và trong một số nghiên cứu thực nghiệm cho các

nước đang phát triển, giáo dục và đào tạo cũng có ý nghĩa lớn trong quá trình giảm

nghèo, đặc biệt trong công cuộc giảm nghèo bền vững. Càng nhiều lao động được qua

đào tạo càng thúc đẩy giảm tỷ lệ người nghèo. Đây là tác động tích cực và lâu dài

trong mục tiêu xóa đói giảm nghèo của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, để tiếp cận dịch vụ

giáo dục và đào tạo ở trình độ cao là một vấn đề khó khăn và yếu thế của người nghèo

hiện nay. Đối với các dịch vụ giáo dục cơ bản mà Chính phủ triển khai hỗ trợ người

nghèo qua hệ thống các chính giảm giảm nghèo chưa thực sự phát huy đúng vai trò

quan trọng trong xây dựng và phát triển năng lực người lao động. Hơn nữa, lao động

nghèo lại rất khó tiếp cận đào tạo ở trình độ cao, đào tạo chuyên sâu vì bị hạn chế bởi

nguồn lực, khoảng cách địa lý hay ngôn ngữ. Do vậy, trong giai đoạn 2010-2016, sự

gắn kết giữa yếu tố phát triển đào tạo cho nguồn lao động chính thức có ý nghĩa đối

với mục tiêu giảm nghèo chung trong nền kinh tế nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn đối với mục tiêu nâng cao chất lượng lao động và tạo điều kiện cho người nghèo

tiếp cận giáo dục.

Tóm lại, trong giai đoạn 2010-2016, nghiên cứu định lượng về tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành tới giảm nghèo qua kênh việc làm đã cho những kết luận như sau:

i) Tác động của tăng trưởng quy mô việc làm theo ngành có tác động tích cực tới giảm nghèo nhưng tác động này có xu hướng mờ nhạt hơn so với giai đoạn trước đây. Tác động của tăng trưởng việc làm tới giảm nghèo được nhận định là nhỏ hơn so với một số nhân tố tác động khác như tỷ lệ lao động có việc làm, tỷ lệ lao động qua đào tạo. Điều này cũng khá tương đồng với nghiên cứu định tính đưa ra ở phần trước về tác động của mở rộng việc làm tới giảm nghèo. Kết luận này cho thấy qua kênh việc làm, tăng trưởng kinh tế có tác động tích cực đến giảm nghèo (giả thuyết 1).

113

ii) Quy mô tăng trưởng việc làm khu vực nông nghiệp và dịch vụ có tác động tích cực đến giảm nghèo, ngược lại quy mô tăng trưởng việc làm khu vực công nghiệp không có ý nghĩa đối với mục tiêu giảm nghèo. Kết luận từ mô hình định lượng cũng

khá tương đồng với phân tích định tính. Kết quả cho thấy rằng khu vực công nghiệp

mở rộng việc làm trong giai đoạn công nghiệp hóa, tuy nhiên, khả năng tiếp cận việc làm của người nghèo không được cải thiện trong khu vực này. Hệ quả là những người

nghèo chủ yếu hoạt động nông nghiệp và ở khu vực nông thôn không có cơ hội được cải

thiện cuộc sống qua mối tương tác giữa khu vực nông nghiệp và công nghiệp. Tương tự

như vậy, lao động nghèo có thể gia tăng khả năng tiếp cận việc làm ở khu vực dịch vụ, tuy nhiên người lao động nghèo ở khu vực dịch vụ khó có thể tìm kiếm cơ hội làm việc

mới trong khu vực công nghiệp mặc dù khu vực này có mức tăng trưởng việc làm rất

cao. Kết quả nghiên cứu này không hoàn toàn ủng hộ giả thuyết 1a.

iii) Trong ba ngành, tăng trưởng việc làm khu vực nông nghiệp có tác động lớn nhất đến giảm nghèo, sau đó đến khu vực dịch vụ. Kết quả này không ủng hộ cho

giả thuyết 1b.

4.3.2. Kết quả ước lượng tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua kênh tiếp cận nguồn lực hỗ trợ của chính phủ

Để đánh giá về kênh nguồn lực hỗ trợ của Chính Phủ, phần nghiên cứu này sẽ

trình bày các kết quả kiểm định cho giả thuyết (2) và ba giả thuyết phụ (2a), (2b) và

(2c) trong khung lý thuyết mô tả qua hình 3.1.

Bảng 4.13 trình bày cơ hội của những hộ nghèo được tiếp cận chương trình trợ

giúp của Chính phủ trong ba giai đoạn. Kết quả cho thấy độ tuổi trung bình của hộ càng cao và hộ có tỷ lệ người già cao thì tiếp cận chính sách hỗ trợ nguồn lực sản xuất

ít hơn. Trình độ giáo dục (thể hiện qua số năm đi học bình quân) của hộ cao thì ít tham

gia chính sách hỗ trợ thu nhập. Tổng diện tích đất nông nghiệp mà hộ sở hữu có tác động lớn đến quyết định tham gia chính sách hỗ trợ sản xuất của hộ. Nhưng ngược lại, trong giai đoạn sau, những hộ có tổng diện tích đất nông nghiệp lớn lại có xu hướng tham gia chính sách hỗ trợ thu nhập nhiều hơn.

114

Bảng 4.13: Xác suất hộ nghèo tham gia các hình thức hỗ trợ

Hỗ trợ nguồn lực sản xuất

Hỗ trợ thu nhập

Biến số

2012-2014

2014-2016

2012-2014

2014-2016

Đặc điểm chủ hộ

2010-2012

2010-2012

Giới tính (Nam = 1)

-0.179

.0226

.034

-.0390

-.0036

-.023

-

-

-

-1.1729

-

-.992

Tình trạng hôn nhân (Đã có vợ chồng = 1)

Độ tuổi của chủ hộ

-.0155 **

-.0142***

-.0165**

-.0124

-.0064

-.0082

.0115

-.0056

.0114*

-.0581 *

-.0323*

-.0333*

.0562

.0406

.0432

.0808

.0552

.0654

Trình độ giáo dục (Số năm đi học) Bằng cấp cao nhất(1) Đặc trưng hộ

-.0180

.0139

.0243

-.0475

-.0754

-.0743

Quy mô hộ (Tổng số thành viên)

.1576

-.0895

-.1659

.1020

.4455

.3227

Tỉ lệ trẻ em

-.4644

-.2955*

-.3559*

.2809

.5789**

.4980**

-.0000 **

.0000

.0013

-.0000

.0000*

.0000*

Tỉ lệ người già Tổng diện tích đất (m2) Có người đi làm ăn xa

-

-.0021

-.0032

.1168

.1426

-

(Có = 1)

Chủ hộ đi làm ăn xa

-.0124

-

-.0012

-.1132

-

-.2165

(Có = 1)

.2511

-.1367

.2912

-.1378

-.2134

-

Khu vực nông thôn (Có = 1)

Thu nhập bình quân

-.0000***

-.0002***

-.0013***

-.0000**

-.0003***

-.00021

Hệ số chặn

-.3123

-.0085

-.0134

-.6047

-.7606

-.4315

Chú thích: *, **, *** là mức ý nghĩa với 10%, 5% và 1% tương ứng.

Bảng kết quả 4.14 cho thấy việc tiếp cận hỗ trợ về nguồn lực sản xuất và nhận

hỗ trợ về thu nhập làm thay đổi một vài tiêu chí đánh giá về lợi ích của hộ nghèo. Như

vậy, kết quả ước lượng chứng minh cho giả thuyết tăng trưởng làm tăng khả năng tiếp

cận của người nghèo và góp phần giảm nghèo. Tuy nhiên, việc hộ nghèo được tiếp cận

và hỗ trợ về nguồn lực sản xuất lại gần như không có ý nghĩa đối với thu nhập cũng như cơ cấu các khoản chi tiêu của hộ trong cả hai giai đoạn ước lượng. Mô hình chỉ cho thấy duy nhất bằng chứng về mối liên hệ giữa việc nhận chính sách ưu đãi hỗ trợ

cho nguồn lực sản xuất sẽ có tác động cùng chiều với việc gia tăng tổng chi tiêu của hộ giai đoạn 2012-2014. Cụ thể, những hộ nghèo có tham gia hỗ trợ này sẽ có mức gia tăng chi tiêu chênh lệch khoảng 42,5 triệu so với các hộ hoàn toàn không tham gia bất cứ nhóm hỗ trợ nào. Trong rất nhiều tiêu chí đánh giá về phúc lợi và đời sống hộ

nghèo, kết quả cho thấy duy nhất tiêu chí tổng chi tiêu được cải thiện, nhưng cũng chỉ trong giai đoạn 2012-2014. Tác động về sự hỗ trợ nguồn lực sản xuất đến chi tiêu của hộ cũng không được duy trì trong giai đoạn sau đó.

115

Bảng 4.14: Tác động của các hình thức hỗ trợ đến phúc lợi hộ gia đình

Hỗ trợ nguồn lực sản xuất

Hỗ trợ thu nhập

Chỉ tiêu phú lợi

2012-2014

2010-2012

2012- 2014

2010- 2012

2014- 2016

2014- 2016

Thu nhập

12721.4

47149.9

10743.1*

Tổng thu nhập cả năm

2383.2

14476.9

14593.1

***

***

**

Tiền lương/tháng

-161.9

1270.1

1271.8

197.2*

-608

3858.3 ***

Thu nhập từ HĐSX nông nghiệp

5423.2

-5683.3

-9475.8

-2593.1

16261.7

14386.5*

Thu nhập từ HĐSX phi nông nghiệp

889.5

20160.3

19350.8

43044.5*

17182.1 *

30888.2* **

Chi tiêu

Tổng chi tiêu

6875.7

42515.2*

86688.2

9143.5*

5824.6**

8481.01* **

-

426.4

Chi cho giáo dục

382.8

913.9

-

Chi cho y tế & chăm sóc sức khỏe

-292.8

1077.8

-2001.6

1381.3

-2042.9

-1434.8 ***

1908.7

Chi mua lương thực thực phẩm

-298.7

-386.4

-587.1

1468.8***

3011.4**

***

Chi mua đồ dùng lâu bền

-1527.5

-8206.1

-6471.4

-759.6

700.9

-490.03

Chi sinh hoạt

198.7

1025.1

6459.6

-9.4

582.5

489.9

Đầu tư cho hoạt động SXKD

4348.6

6237.5

5766.7

20350.9*

91392.9*

27815.1 ***

Chú thích: *, **, *** là mức ý nghĩa với 10%, 5% và 1% tương ứng.

Ngược lại, việc tham gia vào nhóm hình hỗ trợ thu nhập lại cho thấy mối liên hệ với việc thay đổi lớn về phúc lợi đối với hộ gia đình nghèo. Việc tham gia nhóm chính sách hỗ trợ trực tiếp về thu nhập sẽ khiến tổng thu nhập và mức tiền lương mỗi

tháng tăng so với các hộ không nhận hỗ trợ với mức chênh lệch kép tương ứng là 47,1

triệu và 3.9 triệu mỗi tháng trong giai đoạn 2012-2014 so với mức tăng tương ứng là 12,7 triệu và 197 nghìn mỗi tháng giai đoạn 2010-2012. Tuy nhiên mức tăng tiền

lương tháng có xu hướng giảm giai đoạn 2014-2016 (còn khoảng 10,7 triệu đồng). Về

cơ bản, mức tăng tiền lương nhanh hơn mức gia tăng trong giá trị nhận hỗ trợ, tuy nhiên vẫn còn ở mức thấp và sang giai đoạn 2014-2016 thì tác động của việc tham gia

nhận trợ cấp thu nhập lại không có ý nghĩa đối với tiền lương. Trong cơ cấu thu nhập,

116

thu nhập từ hoạt động sản xuất phi nông nghiệp tăng rõ rệt (mức chênh lệch là khoảng

43 triệu so với trước đây là 17,2 triệu) và không thấy mối tương quan giữa việc nhận hỗ trợ về thu nhập với gia tăng thu nhập từ hoạt động sản xuất nông nghiệp so với

nhóm hoàn toàn không nhận bất kỳ sự trợ giúp nào trong giai đoạn 2010-2014. Giai

đoạn 2014-2016 thì tham gia chính sách hỗ trợ thu nhập có thể khiến thu từ sản xuất nông nghiệp tăng khoảng 14 triệu đồng.

Tương ứng với việc gia tăng thu nhập thì những hộ này có mức gia tăng chi

tiêu khá lớn so với các hộ không tham gia chính sách (tăng 9,1 triệu, 8 triệu và

giảm xuống còn khoảng 5 triệu tương ứng cho ba giai đoạn). Thu nhập trong hai giai đoạn chỉ tăng lên khoảng 4 lần trong khu mức chi tiêu không tăng nhiều. Trong

cơ cấu chi của những hộ tham gia chính sách nhóm 2 cho thấy khoản chi mua lương

thực, thực phẩm tăng so với nhóm không được hưởng ưu tiên từ những chính sách

này. Điều này cũng khá hợp lý trong thực tế vì các hộ nhận hỗ trợ thu nhập thường

là những hộ đói, nghèo nhất của địa phương. Do vậy, khi gia tăng thu nhập thì

khoản chi tiêu cho nhu cầu cơ bản nhất là lương thực, thực phẩm sẽ được ưu tiên.

Trong khi đó, lại không thấy minh chứng rõ ràng cho việc gia tăng những khoản chi

về y tế, giáo dục, đồ dùng lâu bền và chi sinh hoạt. Đặc biệt trong giai đoạn 2010-

2012, các hộ nhận được hỗ trợ thu nhập lại có xu hướng giảm chi tiêu cho dịch vụ y

tế nhưng đến giai đoạn sau thì không có bằng chứng cho xu hướng này. Điều đáng

ngạc nhiên là các hộ nhận hỗ trợ về thu nhập lại có khoản chi đầu tư cho hoạt động

sản xuất kinh doanh cao hơn các hộ khác trong cả ba giai đoạn xem xét (mức chênh

lệch khoảng 27,8 triệu và 20,3 triệu tương ứng hai giai đoạn đầu và đặc biệt giai

đoạn ba khoản đầu tư tăng vọt đạt khoảng 90 triệu).

Về cơ bản, kết quả trên cho thấy các hộ nghèo nhận trợ giúp về thu nhập đều có

phúc lợi gia tăng lớn hơn so với nhóm nhận trợ giúp nguồn lực sản xuất. Nhóm nhận

hỗ trợ về nguồn lực sản xuất lại không cho thấy bằng chứng về việc gia tăng các khoản chi cho đầu tư sản xuất, ngược lại các hộ càng nhận nhiều hỗ trợ về thu nhập lại càng đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhiều hơn. Một điểm đáng chú ý nữa là các hộ nhận hỗ trợ thu nhập có sự cải thiện thu nhập từ hoạt động sản xuất phi nông

nghiệp lớn hơn so với hoạt động sản xuất nông nghiệp.

Để đánh giá cụ thể hơn, khi xem xét về phân bố của nhóm người nghèo và người thu nhập thấp thì đa phần các hộ ở khu vực nông thôn. Do vậy, phần tiếp sau đây sẽ đánh giá cụ thể tình trạng tham gia 2 nhóm hỗ trợ ở khu vực nông thôn.

117

Bảng 4.15: Tác động của các hình thức hỗ trợ đến phúc lợi hộ gia đình

ở khu vực nông thôn

Hộ tham gia hỗ trợ nguồn lực sản xuất

Hộ tham gia hỗ trợ thu nhập

Chỉ tiêu phúc lợi

2010- 2012

2012- 2014

2014- 2016

2010- 2012

2012- 2014

2014- 2016

Thu nhập

1770.9 18596.6

24364.2

12968.1*** 49071.8*** 10743.1*

Tổng thu nhập cả năm

Tiền lương/tháng

901.8

1687.104 1286.6

7160.6*

4163.7 ***

-1660.8*

5237.7 2501.36

2557.9

4268.1 17567.1

1438.6

Thu nhập từ HĐSX nông nghiệp

4736.3 16095.31 49943.8

6440.4 31504.7*** 30444.6*

Thu nhập từ HĐSX phi nông nghiệp

Chi tiêu

Tổng chi tiêu

8380.7 42800.87 10679.3

2937.1* 83412.6*** 52824.6**

Chi cho giáo dục

299.1 -

315.2*

845.2** -

-279.3*

-475.4 957.1909

-242.8*

-761.9

1536.8

-2042.9

Chi cho y tế & chăm sóc sức khỏe

-416.2

116.4

1323.7*** 1963.1***

3011.4***

- 626.6354

Chi mua lương thực thực phẩm

Chi mua đồ dùng lâu

-2154.8* -1639.5

-7005.1

404.1

779.1

490.1

bền

Chi sinh hoạt

425.1 1452.6

2607.6*

1335.2 679.1

-489.9

11769

15966.69 46357.14 16157.4*** 20127.8*

13929.9*

Đầu tư cho hoạt động SXKD

Chú thích: *, **, *** là mức ý nghĩa với 10%, 5% và 1% tương ứng.

Về cơ bản, kết quả ước lượng ở khu vực nông thôn cũng có cùng xu hướng với kết quả ước lượng cho các hộ nghèo, hộ thu nhập thấp trên cả nước. Đối với khu vực nông thôn, hoàn toàn không tìm thấy minh chứng nào cho thấy hộ tham gia chính sách

nhận hỗ trợ nguồn lực sản xuất có thể thay đổi thu nhập hoặc chi tiêu của mình. Điều này cho thấy hệ thống hỗ trợ công cụ sản xuất chưa thực sự hiệu quả. Việc tạo ra nguồn lực hỗ trợ người nghèo thoát nghèo chưa thực sự mang lại lợi ích cho người

nghèo. Trong đó, việc hỗ trợ nguồn lực sản xuất được kỳ vọng là nhóm giải pháp có thể giảm nghèo bền vững. Ngược lại hỗ trợ thu nhập mang lại lợi ích cho hộ nghèo trên cả phương diện thu nhập lẫn chi tiêu. Các chỉ số đo lường chênh lệch ở các chỉ

118

tiêu về tổng thu nhập, lương tháng, tổng chi tiêu, chi lương thực, thực phẩm và chi đầu

tư sản xuất kinh doanh của nhóm này đều cho thấy nhóm tăng lên về phúc lợi khi tham gia chính sách hỗ trợ về thu nhập.

Tóm lại, các kết quả phân tích định lượng có một số nét cơ bản như sau:

i) Tiếp cận nguồn lực thông qua hỗ trợ của chính phủ có tác động đến nghèo đói. Tuy nhiên, tác động của các nhóm hỗ trợ giảm nghèo đến mức độ giảm nghèo

tương đối khác biệt. Kết luận này ủng hộ cho giả thuyết 2.

ii) Cả hai nhóm chính sách hỗ trợ nguồn lực thu nhập và nguồn lực sản xuất đều có tác động tích cực cải thiện lợi ích của nhóm người nghèo nói chung và của

người nghèo khu vực nông thôn. Kết quả này ủng hộ cho giả thuyết 2a và 2b.

iii) Nhóm chính sách hỗ trợ thu nhập trực tiếp lại có tác động lớn tới giảm nghèo và có hiệu quả hơn so với nhóm hỗ trợ nguồn lực sản xuất cho hộ nghèo. Điều

này cho thấy giả thuyết 2c cho rằng hộ nghèo được hỗ trợ nguồn lực sản xuất sẽ đem

lại hiệu quả giảm nghèo không đúng trong thực tiễn Việt Nam giai đoạn 2010-2016.

Việc hỗ trợ trực tiếp các nguồn lực về thu nhập cho hộ nghèo trên thực tế lại có tác

động lớn hơn so với việc hỗ trợ các nguồn lực phục vụ quá trình sản xuất của nhóm hộ

nghèo. Hệ quả của quá trình này là thành tựu giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn

nghiên cứu 2010-2016 chưa thật sự bền vững, tỷ lệ tái nghèo còn cao và người nghèo

chưa thực sự tìm được sinh kế dài hạn cho mình.

4.3.3. Kết quả ước lượng tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua chuyển dịch cơ cấu ngành

Để đánh giá về tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua chuyển dịch cơ cấu ngành, phần nghiên cứu này sẽ trình bày các kết quả kiểm định cho

giả thuyết (3) với hai giả thuyết phụ (3a) và (3b) trong khung lý thuyết mô tả qua hình 3.1.

Kết quả ước lượng ở bảng 4.16 cho thấy trong cơ cấu ngành kinh tế, tăng trưởng công nghiệp và dịch vụ có tác động tích cực đến giảm nghèo. Mỗi phần trăm tăng trưởng công nghiệp khiến tỷ lệ nghèo giảm đi 2.27 điểm phần trăm. Kết quả này

phù hợp với Việt Nam trong bối cảnh đang thực hiện cùng lúc ba mục tiêu bao gồm tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo xu hướng công nghiệp hóa và mục tiêu giảm nghèo. Kết luận này cũng tương đồng với một số nghiên cứu khác về nghèo đói ở một số quốc gia đang phát triển khác như Trung Quốc, Indonesia (Montalvo và Ravallion, 2006; Suryahadi, Suryadarma, Sumarto, 2008; Warr, 2009). Điều này có thể thấy khá rõ rét trên thực tế khi Việt Nam

119

đang theo đuổi mục tiêu công nghiệp hóa, sự tăng trưởng và phát triển của ngành công

nghiệp sẽ tác động tới giảm nghèo.

Bảng 4.16: Kết quả ƣớc lƣợng hệ phƣơng trình đồng thời

Phƣơng trình

(2)

(1)

(3)

(4)

Biến phụ thuộc

AGRI

POV

IND

URB

Biến giải thích

-

-

-

POV

.336*** (.091)

-

AGRI

.531* (.398)

-

IND

SEV

2.172 (1.402) -4.016*** (.763) 1.409** (.809)

-

URB

1.344*** (.365) -.293 (.256) .3132*** (.067)

.357 (.259) -.267*** (.042)

-

-

-

LIT

-

-

-

Labwk

2.109*** (.364) -2.272*** (.555) -.224* (.378) -.401*** (.115) -.402*** (.147) .020 (.177)

-

-

-

Labedu

.011 (.068)

-

-

-

Lab_NA

.130 (.111)

-

-

-

TL

-2.154 (1.345)

-

-

-

POP

.000 (.001)

-

-

STRUC

Cons_

- 59.826 (16.211)

-.093* (.165) 7.303*** (1.552)

-11.780*** (3.054)

21.682*** (5.854)

*, **, *** là mức ý nghĩa với 10%, 5% và 1% tương ứng.

Biến nội sinh: POV AGRI IND URB. Biến ngoại sinh: SEV LIT Labwk TL

Labedu STRUC POP Lab_NA

Tương tự như ngành công nghiệp, tăng trưởng ngành dịch vụ cũng có ý nghĩa quan trọng trong mối tương quan với giảm nghèo ở Việt Nam. Khu vực dịch vụ tăng trưởng 1% thì tỷ lệ nghèo tăng khoảng 0,22 điểm phần trăm. Kết luận thực nghiệm này có thể được lý giải qua một số lý do sau. Quá trình công nghiệp hóa dẫn tới di dân ồ ạt

từ nông thôn ra thành thị, mà đa phần người dân di cư là người nghèo. Khu vực nông nghiệp bị thu hẹp tương đối khiến lao động di cư sẽ khó có cơ hội quay lại khu vực nông nghiệp. Do vậy, để tồn tại ở thành thị, lượng lớn lao động di cư này sẽ tham gia

120

vào thị trường phi chính thức mà hoạt động chủ yếu ở khu vực dịch vụ. Những khoản

tiết kiệm thu nhập từ khu vực phí chính thức này của người di cư được gửi về cho người thân của mình tại khu vực nông thôn. Tác động này cũng góp phần giảm nghèo

đáng kể cho người nghèo không có khả năng di cư để tìm việc làm. Một yếu tố quan

trọng trong khu vực dịch vụ có tác động rất lớn đến giảm nghèo đó là dịch vụ công trong một số lĩnh vực như y tế, giáo dục nhằm đảm bảo cho người nghèo cũng có cơ

hội tiếp cận với những dịch vụ xã hội cơ bản.

Ngược lại, duy nhất tăng trưởng khu vực nông nghiệp lại có mối tương quan

ngược chiều với giảm nghèo. Khu vực nông nghiệp tăng trưởng 1% thì tỷ lệ nghèo tăng khoảng 2,1 điểm phần trăm. Điều này gây cản trở lớn cho mục tiêu giảm

nghèo khu vực nông thôn cũng như mục tiêu giảm nghèo quốc gia. Kết quả này có

thể giải thích với thực tế tăng trưởng nông nghiệp nhanh gắn liền với ứng dụng

khoa học công nghệ, giải phóng sức lao động của con người. Hệ quả là khu vực

nông nghiệp tăng trưởng nhưng sự đóng góp vào tăng trưởng nông nghiệp của

nhóm người nghèo lại hạn chế. Do vậy, thành tựu của tăng trưởng nông nghiệp

không đến được với nhóm người nghèo một cách trực tiếp qua nguyên tắc phân

phối thu nhập tự nhiên thể hiện qua thu nhập từ sản xuất của nhóm người nghèo.

Thêm nữa, mặc dù khu vực nông nghiệp có tăng trưởng dương nhưng đang xảy ra

tình trạng đất nông nghiệp bị thu hẹp trong quá trình công nghiệp hóa. Thực trạng

này càng khiến nhóm người nghèo gặp khó khăn trong việc tìm được một việc làm

phù hợp và ổn định. Một bộ phận nhóm người nghèo bị rơi vào tình trạng bần cùng

hóa và nghèo co cụm ở khu vực nông nghiệp-nông thôn. Một bộ phận lao động

nghèo khác dễ dàng di dân và gia nhập thị trường phi chính thức ở thành thị, chấp nhận cuộc sống không ổn định về thu nhập và chất lượng cuộc sống thấp. Áp lực

ngày càng tăng của dòng dân di cư khỏi khu vực nông nghiệp sẽ có tác động ngược

đối với mục tiêu giảm nghèo nếu việc làm trong khu vực công nghiệp không tăng trưởng tương ứng. Bản thân lao động di cư khỏi nông nghiệp cũng cần có sự hỗ trợ về đào tạo chuyên môn mới có thể đáp ứng được công việc mới.

Ngoài ra, kết quả ước lượng cho thấy giảm nghèo còn bị tác động lớn bởi quá

trình đô thị hóa khi lao động dịch chuyển từ khu vực nông thôn ra khu vực thành thị. Tỷ lệ đô thị hóa tăng 1% khiến tỷ lệ nghèo giảm 0.401 điểm phần trăm. Trước xu thế công nghiệp hóa và xu hướng thu hẹp diện tích đất nông nghiệp như hiện nay thì quá trình đô thị hóa là tất yếu. Theo báo cáo của WB (2016) thì nếu tính theo chi tiêu cho các nhu cầu cơ bản như ăn uống, mặc, nơi ở thì những lao động nghèo tìm việc ở khu vực đô thị có nguồn thu nhập tốt hơn những lao động nghèo ở khu vực nông thôn.

121

Những lao động này còn có xu hướng gửi tiền về quê cho gia đình mặc dù các nguồn

này không đều đặn. Theo tính toán của WB (2016) thì trong năm 2012 và 2014 thì tỷ lệ hộ gia đình nhận được thêm tiền gửi từ lao động di cư này là khoảng 25% và 45%

số hộ. Các khoản này được chi dùng vào tiêu dùng hàng ngày và thanh toán một số

dịch vụ thiết yếu (45-55%) và thậm chí để tiết kiệm (11-15%); một phần giá trị được sử dụng cho các nhu cầu đặc biệt, cho nhu cầu y tế và giáo dục. Như vậy, thông qua

tác động trực tiếp và gián tiếp, quá trình đô thị hóa cũng có tác động tích cực đối với

việc tạo ra thu nhập cho chính bản thân lao động nghèo và góp phần giảm nghèo của

các hộ gia đình nghèo ở nông thôn có người lao động làm ăn xa tại khu vực thành thị.

Trình độ dân trí cũng có tác động tích cực đến giảm nghèo là một trong những

nhân tố có thể khiến giảm nghèo bền vững trong dài hạn. Tỷ lệ dân số biết chữ gia

tăng 1% tương ứng khiến nghèo đói giảm 0.402 điểm phần trăm và tỷ lệ lao động có

việc làm trong nền kinh tế lại không có tác động tới nghèo đói.

Dưới tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra mạnh mẽ trong giai đoạn

công nghiệp hóa hiện nay, mô hình định lượng về tác động của tăng trưởng kinh tế

theo ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam có một số kết luận như sau:

i) Tăng trưởng kinh tế của ba ngành nông- công nghiệp và dịch vụ đều có tác

động đến thành tựu giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn 2010-2016 (giả thuyết 3)

ii) Tăng trưởng khu vực công nghiệp và dịch vụ có tác động tích cực đến giảm nghèo, trong khi đó tăng trưởng khu vực nông nghiệp lại có tác động tiêu cực

đến giảm nghèo ở Việt Nam. Kết quả ước lượng ủng hộ cho giả thuyết 3a.

iii) Tăng trưởng khu vực công nghiệp có tác động lớn nhất đến giảm nghèo qua tác động của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Kết quả ủng hộ cho giả thuyết 3b.

4.4. Đánh giá chung về tác động của tăng trƣởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo

Qua phân tích định tính và định lượng về tác động của tăng trưởng kinh tế theo

ngành đến giảm nghèo có thể rút ra một số đánh giá sau đây.

4.4.1. Kết quả đạt được

Cùng với tăng trưởng kinh tế chung, tỷ lệ nghèo có xu hướng giảm. Trong cả giai đoạn từ 1993 đến 2016 tuy rằng chuẩn nghèo được điều chỉnh tăng liên tục nhưng tỷ lệ nghèo không ngừng giảm. Điều này thể hiện nỡ lực và kết quả của việc duy trì tăng trưởng kinh tế chung và tăng trưởng theo từng ngành cũng như các chính sách giảm nghèo chung và chính sách giảm nghèo đặc thù tiếp tục được triển khai ở Việt Nam.

122

Kênh việc làm cho thấy rằng: tăng trưởng kinh tế theo ngành có tác động đến

giảm nghèo qua khả năng tạo việc làm và gia tăng thu nhập. Cùng với tăng trưởng kinh tế, số việc làm tạo ra liên tục tăng, đặc biệt là việc làm trong khu vực công nghiệp và phi

chính thức, trong đó có một tỷ lệ lớn người nghèo trong tổng số lao động có việc làm.

Đánh giá về phúc lợi của hộ nghèo qua tiếp cận nguồn lực đưa đến kết luận như sau: tăng trưởng kinh tế theo ngành tạo điều kiện cho người nghèo có thể tiếp cận các

nguồn lực xã hội tốt hơn, điều này khiến thành tựu giảm nghèo được duy trì. Các hộ

nghèo đã nhận được trợ giúp trực tiếp qua thu nhập và các dịch vụ xã hội cho đời sống

con người và gián tiếp qua vốn, máy móc thiết bị và phương thức sản xuất, góp phần giảm nghèo trong ngắn hạn và dài hạn. Tăng trưởng kinh tế ổn định cũng đã tạo nguồn ngân

sách cho chính phủ trong việc đảm bảo các chính sách giảm nghèo được thực hiện.

Tăng trưởng kinh tế đã giúp Chính phủ dành nguồn lực đáng kể để đầu tư cho

chương trình mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Chương trình này hỗ trợ người nghèo tiếp

cận các dịch vụ hỗ trợ sản xuất thông qua tín dụng ưu đãi hộ nghèo, định canh định cư

ở các xã nghèo cũng như hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thông

qua hỗ trợ người nghèo về y tế, giáo dục, nhà ở… Bên cạnh đó, các chương trình an

sinh xã hội cho người nghèo không thể thực hiện được nếu không có tăng trưởng cao

và liên tục. Độ bao phủ của bảo hiểm y tế đã tăng trong tất cả các nhóm thu nhập và

chính sách phân phối lại thông qua cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí là đặc biệt có lợi

cho người nghèo. Tỷ lệ phần trăm người nghèo có bảo hiểm y tế có sự gia tăng nhanh.

Qua tác động của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế theo

ngành có tác động tích cực tới nghèo đói. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu ngành công

nghiệp có tác động lớn nhất đến giảm nghèo. Tăng trưởng cao trong ngành công nghiệp thu hút được nhiều lao động, tạo thêm việc làm, tăng thêm thu nhập và giúp xoá đói giảm

nghèo trên diện rộng. Thực tế cho thấy, tăng trưởng công nghiệp ở nhiều vùng của Việt

Nam trong thời gian qua là do hình thành và phát triển mạnh ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản... đã tạo ra được một động lực thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Đồng thời, phát triển công nghiệp chế biến cũng tạo điều kiện thuận lợi

cho quá trình tiêu thụ nông sản hàng hoá từ đó nâng cao thu nhập của người dân nghèo ở nông thôn và góp phần xoá đói giảm nghèo. Tăng trưởng công nghiệp tạo ra nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp thông qua các mối liên kết ngành kinh tế. Quá trình công nghiệp hóa diễn ra khiến lao động chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp làm gia tăng thu nhập cho lực lượng lao động nói chung và cho lao động dịch chuyển nói riêng.

Tăng trưởng kinh tế thúc đẩy quá trình đô thị hóa và quá trình này cũng tác động tích cực tới giảm nghèo. Quá trình đô thị hóa diễn ra, khiến lao động đổ dồn về

123

thành thị, tham gia tìm việc trong khu vực này cũng khiến giảm tỷ lệ nghèo đói. Xu

hướng này đã được minh chứng bởi lý thuyết và kết quả thực nghiệm, đặc biệt ở các nước đang phát triển trong giai đoạn công nghiệp hóa như Việt Nam.

4.4.2. Hạn chế

Qua việc đánh giá về thực trạng tăng trưởng và nghèo đói có thể thấy rằng tác

động của tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo còn nhiều khía cạnh hạn chế như sau:

Mức độ giảm nghèo vẫn không đạt so với chỉ tiêu đặt ra. Tuy mức độ giảm

nghèo giai đoạn 2011 -2015 đạt 1,5%/năm nhưng chưa đạt được mục tiêu đề ra cho

(giảm tỷ lệ hộ nghèo 2-3%/năm) và thấp hơn mức giảm giai đoạn 2006-2010 (trung

bình 2%/năm). Nguyên nhân một phần là do suy giảm kinh tế, tăng trưởng kinh tế chậm lại so với giai đoạn trước. Tốc độ giảm nghèo chậm đi cũng do những người

nghèo còn lại là những người nghèo dai dẳng, họ phải đối mặt với những khó khăn

triền miên như: trình độ học vấn thấp, sức khỏe yếu, sống cô lập, không có tài sản…

Hiệu ứng của tăng trưởng đến giảm nghèo có xu hướng giảm sút. Hệ số co giãn

giữa tăng trưởng và giảm nghèo đang có xu hướng giảm, từ 3,88 giai đoạn 2002-2006,

xuống 3,85 giai đoạn 2006-2010 và chỉ còn 1,33 giai đoạn 2010-2015. Đặc biệt, giai

đoạn 2010-2015, tốc độ tăng GDP/người (theo giá PPP) tăng gấp đôi so với giai đoạn

2006-2010 nhưng hệ số co giãn của giảm nghèo với tăng trưởng chỉ bằng 1/3, điều này

cho thấy tác động lan tỏa từ tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo đã giảm mạnh.

Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế theo ngành có xu hướng giảm dẫn đến

hiệu quả giảm nghèo cũng suy giảm. Tăng trưởng khu vực nông nghiệp có xu hướng

giảm tương đối, dẫn đến giá nông sản trên thị trường nội địa vẫn còn khá cao so với

chỉ số giá chung của các mặt hàng. Giá nông sản trên thị trường thế giới có xu hướng

giảm tương đối ở nhiều mặt hàng và khá bất ổn. Điều này tác động tiêu cực đến đời

sống người nghèo khi phần lớn khoản chi là dành cho các hàng hóa thiết yếu, đồng thời cũng tác động đến thu nhập hộ nghèo khiến các khoản thu trở nên không ổn định. Khu vực nông- lâm- ngư nghiệp lại có xu hướng giảm quy mô lao động, và các hộ thu nhập thấp gặp khó khăn trong quá trình tiếp cận việc làm.

Việc giảm nghèo dựa trên tăng trưởng vẫn còn chưa bền vững. Những thành tựu về xoá đói giảm nghèo chủ yếu mới ở tình trạng xoá đói nghèo về lương thực, thực phẩm. Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do vậy khi có những dao động về thu nhập hoặc chỉ cần những thiên tai, rủi ro hoặc biến động về giá cả thị trường và cơ chế chính sách cũng khiến họ rơi xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo. Những năm gần đây, việc giảm nghèo có xu hướng chậm lại, số

124

hộ tái nghèo còn lớn. Một số động lực cho xoá đói giảm nghèo, chẳng hạn như chính

sách đất đai, giao đất giao rừng… không còn tác dụng mạnh như giai đoạn đầu đổi mới. Cơ hội của người nghèo về việc làm ngày càng khó khăn hơn do đổi mới, khoa

học, công nghệ và tình trạng phát triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng.

Tốc độ giảm nghèo ở nông thôn cũng có xu hướng giảm, tỷ lệ nghèo ở vùng sâu vùng xa giảm chậm, có xu hướng chững lại, những nơi này cũng có tỷ lệ tái nghèo cao.

Điều này báo hiệu thực tế tăng trưởng và giảm nghèo ngày càng kém hiệu quả do nghèo

hiện nay đang trong tình trạng co cụm ở một số địa phương, ở một số khu vực khó khăn

về địa lý và tài nguyên và ở khu vực đồng bào thiểu số bị hạn chế trong việc tiếp cận giáo dục, y tế và thông tin. Hơn nữa, khoảng cách nghèo lại có xu hướng gia tăng, đặc

biệt gia tăng cao ở khu vực nông thôn. Như vậy, cần thiết phải có sự thay đổi về cách

thức gắn kết giữa tăng trưởng và giảm nghèo đối với các nhóm nghèo co cụm này.

Tăng trưởng nóng xuất phát từ thực hiện công nghiệp hoá, đô thị hoá nhanh có

những tác động tiêu cực đến giảm nghèo. Quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá đã

làm phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc mới liên quan đến giảm nghèo như: vấn đề

nông dân mất việc làm ở vùng chuyển đổi mục đích sử dụng đất nông nghiệp; vấn đề

di cư lao động từ nông thôn ra thành thị tìm việc làm (vấn đề xã hội của lao động nhập

cư); vấn đề mất việc làm do tác động của hội nhập, khủng hoảng và suy thoái kinh tế

toàn cầu, trong đó phần lớn là lao động kỹ năng thấp và từ nông thôn, hộ nghèo… Tất

cả những hiện tượng này dẫn đến hậu quả xã hội là phân hoá giàu nghèo có xu hướng

gia tăng, vấn đề nghèo tương đối ngày càng nghiêm trọng.

Những nghiên cứu và đánh giá về mặt định tính và định lượng cho thấy rằng,

tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo qua các kênh cơ bản bao gồm: việc làm, nguồn lực và chuyển dịch cơ cấu ngành. Tuy nhiên, những tác động

gián tiếp này trên thực tế khảo sát ở Việt Nam giai đoạn 2010-2016 cho thấy vẫn còn

nhiều bất cập khi hướng tới mục tiêu giảm nghèo:

Mở rộng việc làm ở các khu vực nông nghiệp và dịch vụ sẽ tạo cơ hội cho người lao động gia tăng thu nhập thoát nghèo, tuy nhiên người nghèo lại không tiếp cận được các cơ

hội việc làm mới trong khu vực công nghiệp. Thực tế cho thấy rằng đa phần người nghèo vẫn hoạt động nông nghiệp và tìm kiếm kế sinh nhai ở khu vực nông thôn. Trong khi đó quy mô việc làm khu vực này lại có xu hướng giảm, đồng thời việc làm gia tăng mạnh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Điều này dẫn tới hiệu ứng xấu đối với nhóm người nghèo vì bản thân họ chưa qua đào tạo để đáp ứng công việc khu vực công nghiệp. Bên cạnh đó, một bộ phận người nghèo hoạt động trong khu vực dịch vụ, tỷ trọng lớn là hoạt động dịch vụ trong khu vực phi chính thức ở thành thị. Nhóm người nghèo này cũng gặp nhiều khó

125

khăn trong việc tiếp cận những công việc ổn định và duy trì lâu dài trong khu vực công

nghiệp hoặc trên thị trường thành thị chính thức. Trên thực tế, giai đoạn công nghiệp hóa khiến khu vực công nghiệp tăng trưởng mạnh và tạo ra nhiều việc làm trong nền kinh tế

nhưng cơ hội việc làm cho nhóm người nghèo thực chất lại vô cùng hạn chế do khoảng

cách về chất lượng lao động giữa các khu vực còn khá xa.

Tăng trưởng góp phần giảm nghèo qua việc tăng nguồn lực cho người nghèo

còn thấp. Tỷ lệ hộ nghèo tiếp cận các nguồn lực xã hội còn khá thấp, đặc biệt tỷ lệ

người nghèo dân tộc thiểu số tiếp cận được những hỗ trợ về nguồn lực này còn rất ít.

Hơn nữa, tiếp cận về máy móc kỹ thuật, khoa học công nghệ lại khá thấp và có xu hướng giảm dần theo thời gian trong giai đoạn 2010-2016. Một nguồn lực vô cùng

quan trọng là đất nông nghiệp lại gần như không được tạo điều kiện hỗ trợ tới tay

người nghèo phục vụ sản xuất. Điều này cho thấy khả năng giảm nghèo bền vững còn

thấp mà chủ yếu thành tựu giảm nghèo đạt được chủ yếu mang tính ngắn hạn và phụ

thuộc rất lớn vào nguồn ngân sách gia tăng từ kết quả của tăng trưởng kinh tế. Bản

thân nhóm người nghèo chưa thực sự có sinh kế ổn định nên khó thoát nghèo bền

vững, để vươn lên thành lực lượng lao động tạo ra tăng trưởng trong xã hội. Hiện

tượng người nghèo cùng cực vẫn chưa có khả năng thoát nghèo do không có điều kiện

tham gia vào quá trình tăng trưởng và cũng không được hưởng thụ thành quả của tăng

trưởng, người nghèo thoát nghèo không phải bằng con đường tự vươn lên thoát nghèo

mà vẫn thông qua những hình thức trợ cấp của nhà nước.

Tăng trưởng kinh tế nhưng chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm làm ảnh

hưởng đến tốc độ giảm nghèo. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm thể hiện rõ nét ở chỗ

kém năng động của khu vực dịch vụ. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có liên quan chặt chẽ đến cơ cấu lao động. Tuy nhiên, cơ cấu lao động chưa có sự chuyển dịch rõ rệt

theo hướng tiến bộ, lao động chưa có việc làm còn lớn, đang bị “tắc nghẽn” trong lĩnh

vực nông nghiệp và nông thôn. Với một bộ phận lớn người nghèo tập trung ở khu vực nông thôn, miền núi việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động còn chậm sẽ làm cho việc giảm nghèo khó khăn hơn. Chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra khá chậm chạp, lao động chủ yếu vẫn hoạt động trong khu vực nông nghiệp, tỷ trọng lao

động công nghiệp là thấp nhất. Thực tế này đã hạn chế cơ hội việc làm và gia tăng thu nhập cho nhóm người nghèo, cản trở mục tiêu giảm nghèo chung của quốc gia.

Tốc độ dịch chuyển lao động giữa các ngành gần đây chậm và thấp hơn hẳn so với giai đoạn trước đây. Khả năng thu hút lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp còn thấp, dẫn đến tình trạng người nghèo trong khu vực nông nghiệp bị bỏ lại và gặp rất nhiều khó

khăn trong quá trình tìm kiếm sinh kế khi khu vực nông nghiệp đang thu hẹp lại tương đối.

126

Bản thân trong khu vực công nghiệp, lao động vẫn tập trung chủ yếu ở các ngành truyền

thống, giá trị gia tăng thấp. Tốc độ dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế chậm và không đi kèm quá trình đào tạo nhân lực thực tế đang hạn chế các hộ vươn lên thoát nghèo.

4.4.3. Nguyên nhân

Mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam chưa đảm bảo giảm gắn kết tăng

trưởng và giảm nghèo. Trong thời gian qua mô hình thực hiện mô hình tăng trưởng theo định hướng: (i) tập trung vào các ngành và dự án dùng nhiều vốn; (ii) cho các vùng có khả năng tăng trưởng cao (vùng trọng điểm); và (iii) cho các doanh nghiệp nhà nước. Với mô hình tăng trưởng và định hướng phân bổ nguồn lực như vậy dẫn đến

tăng trưởng nhưng không mở rộng cơ hội việc làm tương ứng, chi phí tạo ra một chỗ

việc làm cao, tạo ít thu nhập cho người lao động. Vì vậy, lợi ích của tăng trưởng không

được phân bổ một cách rộng rãi cho các tầng lớp dân cư. Một phần lớn thu nhập được

tạo ra và phân bố tại các trung tâm tăng trưởng lớn, trong khi dân cư các địa phương

miền núi và nông thôn, vùng sâu, vùng xa được hưởng lợi ít hơn nhiều từ tăng trưởng.

Kết quả là sự phân hoá giàu - nghèo theo vùng gia tăng. Bên cạnh đó mô hình tăng

trưởng kinh tế ở nước ta dựa quá nhiều vào khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ

trong khi lại chưa tập trung vào các động lực khác của nền kinh tế, như khoa học -

công nghệ, nhu cầu của thị trường trong nước... Mô hình tăng trưởng kinh tế thiên về

bảo hộ, thay thế nhập khẩu cũng làm tăng chi phí sản xuất và giá cả sinh hoạt cho hàng

triệu người nghèo. Như vậy mô hình tăng trưởng đã ảnh hưởng tới cơ hội việc làm, thu

nhập, tiếp cận thông tin của người nghèo.

Cấu trúc tăng trưởng kinh tế theo ngành chưa hiệu quả đối với mục tiêu giảm nghèo. Khu vực có tác động mạnh mẽ nhất đến giảm nghèo là khu vực công nghiệp. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hóa thực hiện chậm chạp và còn nhiều bất cập. Những bất

cập này thể hiện ở nhiều mặt. Sự liên kết trong phát triển công nghiệp còn yếu kém. Về cơ

bản, các ngành công nghiệp phát triển còn chậm, sản xuất vẫn chủ yếu còn phụ thuộc nhiều vào công nghệ chuyển giao từ nước ngoài, phụ thuộc vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Việt Nam còn gặp khó khăn trong việc định hướng phát triển các ngành công nghiệp đặc biệt là những ngành có hàm lượng công nghệ cao. Công nghiệp hóa vẫn chưa đưa ứng dụng công nghệ vào khu vực nông nghiệp có hiệu quả, khiến năng suất lao động có gia tăng nhưng vẫn thấp hơn kỳ vọng. Các vùng kinh tế trọng điểm vẫn chưa phát huy được thế mạnh cạnh tranh của mình, chưa có sự liên kết chặt chẽ để tạo ra tác động lan tỏa cho nền kinh tế, mức độ tập trung kinh tế vẫn còn yếu kém.

Chủ yếu người nghèo vẫn hoạt động trong khu vực nông nghiệp, tuy nhiên, năng suất khu vực nông nghiệp còn thấp, chưa xứng đáng với tiềm năng phát triển của

127

Việt Nam. Quá trình phát triển khu vực nông nghiệp còn kém hiệu quả. Trong khi đó,

nông nghiệp gặp rất nhiều ách tắc như làm thế nào để rút lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Việc thâm dụng yếu tố đầu vào như phân bón để tăng

năng suất đã tới giới hạn; khả năng áp dụng cơ giới hóa thấp; các chuỗi giá trị ngành

hàng có khả năng cạnh tranh và gia tăng giá trị kém do tình trạng manh mún, phân tán, chi phí giao dịch cao, tổ chức thực hiện yếu kém, chất lượng sản phẩm không đồng

đều, vệ sinh an toàn thực phẩm không đảm bảo.

Khu vực dịch vụ tạo ra việc làm cho người nghèo chủ yếu ở khu vực phi chính

thức. Với khu vực dịch vụ chính thức, người nghèo rất khó tiếp cận tìm kiếm việc làm. Người lao động trong khu vực phi chính và gia đình họ hay phải chịu thiệt thòi vì

không được điều chỉnh bởi pháp luật lao động. Ví dụ, đối với yêu cầu về an toàn và

sức khỏe liên qua tới điều kiện làm việc, họ không được nhận hỗ trợ từ các chương

trình trợ cấp xã hội. Thêm vào đó, tiếng nói của người lao động trong khu vực phi

chính thức ít khi được nhắc đến trong quá trình quyết định các chính sách. Trong khi là

một nguồn quan trọng tạo việc làm và cơ hội thu nhập cho nhiều người, đời sống của

người lao động trong khu vực phi chính thức ở Việt Nam có đặc điểm chủ yếu là thu

nhập thấp và điều kiện lao động không đảm bảo, khiến cho họ dễ bị tổn thương hơn

trước các tác động bên ngoài. Hoạt động thương mại, dịch vụ hỗ trợ cho công nghiệp

còn hạn chế, các loại hình dịch vụ truyền thống còn chiếm tỷ lệ cao, thương mại dịch

vụ hiện đại chưa phát triển. Chất lượng hoạt động thấp, chưa phát huy hiệu quả, tiềm

năng của địa phương về các lĩnh vực có nhiều lợi thế như: giáo dục, y tế, công nghệ

thông tin, du lịch, dịch vụ khu công nghiệp…

Chính sách hỗ trợ nguồn lực cho hộ nghèo hướng tới mục tiêu giảm nghèo chưa đầy đủ, đồng bộ và việc thực hiện còn nhiều bất cập. Về cơ bản, hệ thống chính

sách giảm nghèo vẫn chưa thực sự khuyến khích giảm nghèo bền vững, vẫn mang

nhiều tính chất bao cấp và nhiều chính sách có tính chất cho không. Điều này dẫn đến nhóm chính sách hỗ trợ công cụ sản xuất, nhằm mục đích định hướng cho người nghèo về sinh kế lâu dài lại không có tác động giảm nghèo rõ rệt. Chủ yếu kết quả giảm nghèo có được lại từ nhóm chính sách hỗ trợ trực tiếp thu nhập cho người nghèo.

Chính sách hỗ trợ công cụ sản xuất còn nhiều bất cập như chưa xác định đúng đối tượng nhận hỗ trợ, chính sách còn thiếu thực tiễn khi triển khai cho các hộ nghèo. Hệ quả là hộ nghèo chỉ cải thiện cuộc sống được trong ngắn hạn và các hộ này rất dễ rơi vào tình trạng tái nghèo.

Chính sách giảm nghèo chưa hiệu quả do việc áp dụng chính sách giảm nghèo chưa đồng đều. Những khu vực nghèo nhất, đói nhất nằm ở khu vực miền núi, đa phần

128

nhóm hộ nghèo là dân tộc thiểu số thì chính sách giảm nghèo còn chồng chéo, chia cắt

và kém hiệu quả. Đặc biệt, đối với khu vực này, việc xây dựng cho các hộ nghèo ý thức phải vươn lên thoát nghèo, cải thiện đời sống cơ bản chưa được thực hiện tốt.

Điều này dẫn đến những thành tựu giảm nghèo ở khu vực này chỉ mang tính chất ngắn

hạn. Bên cạnh đó, một số chính sách giảm nghèo chưa thực sự đi vào thực tiễn do hạn chế của nguồn lực để thực hiện. Hệ thống chính sách giảm nghèo khá đa dạng, bao

trùm hầu hết các lĩnh vực từ chính sách tín dụng đến giáo dục đào tạo, đầu tư cơ sở hạ

tầng, hỗ trợ y tế và sinh kế cho người nghèo. Tuy nhiên, một số chính sách được thiết

kế ở cấp quốc gia khi đi vào thực hiện ở cấp địa phương trở nên không phù hợp và kém hiệu quả. Mặt khác, một số chính sách giảm nghèo lại chồng chéo, một đối tượng

có thể được thụ hưởng lợi ích từ nhiều chính sách khác nhau trong khi một số đối

tượng khác lại rất khó tiếp cận. Thực tế trên khiến nguồn lực cho việc thực hiện các

chính sách giảm nghèo bị phân tán, chi phí cho các khâu hoạt động trung gian lại tăng

lên, và hiệu quả thực sự của chính sách đến giảm nghèo thấp.

Cách tiếp cận giảm nghèo rộng hơn trước, thông qua nhiều chính sách khác nhau.

Tuy vậy, tổ chức thực hiện chưa tốt như xác định đối tượng thiếu chính xác, thiếu hệ

thống theo dõi, đánh giá hiệu quả chương trình, gian lận trong thực hiện… đã và đang ảnh

hưởng đến hiệu quả của các chương trình giảm nghèo. Các chương trình mục tiêu quốc

gia được thiết kế nhằm giảm nghèo, đặc biệt giảm nghèo ở các huyện, xã vùng núi và

vùng sâu vùng xa nhưng việc triển khai chương trình vẫn còn hạn chế và hệ quả là chỉ một

số ít gia đình nhận được các hình thức hỗ trợ, dạy nghề, khuyến nông, hay nước sạch.

Thiếu các chính sách nhằm phòng ngừa rủi ro gây giảm thu nhập, mất việc làm

của người nghèo gắn với quá trình lao động sản xuất. Thực tế cho thấy đang tồn tại mâu thuẫn lớn, cụ thể là phần lớn lao động trong khu vực chính qui không phải là

người nghèo, nhưng họ lại được che chắn về mặt xã hội trước những rủi ro mất việc

làm, giảm thu nhập trong quá trình lao đông thông qua hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn lao động và bảo hiểm thất nghiệp. Trong khi phần lớn hộ nghèo hoạt động trong khu vực phi kết cấu, chưa được tham gia mạng lưới che chắn đó. Do đó, họ rất dễ rơi vào tình trạng nghèo chỉ sau một đợt lũ quét, dịch bệnh đối với

gia súc hay thành viên gia đình bị ốm v.v... Thiếu chính sách chuyển tiếp hữu hiệu nhằm hỗ trợ đối tượng vượt qua ngưỡng nghèo cũng làm cho kết quả xóa đói giảm nghèo thiếu bền vững. Rất nhiều trường hợp quay trở lại nghèo sau khi không được tiếp cận các biện pháp hỗ trợ của chính sách xóa đói giảm nghèo.

Nguồn lực của bản thân người nghèo thu được từ tăng trưởng còn rất hạn chế, đẩy họ vào vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo

129

vì họ không thể đầu tư vào nguồn nhân lực của họ. Ngược lại nguồn nhân lực thấp lại

cản trở họ thoát khỏi nghèo đói. Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hướng tăng lên, đặc biệt là ở đồng bằng. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến

việc đảm bảo an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hoá sản

xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng có giá trị cao hơn. Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cận các nguồn vốn tín dụng. Sự hạn chế của nguồn vốn là một

trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công

nghệ, giống mới. Mặc dù trong khuôn khổ của dự án tín dụng cho người nghèo thuộc

chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia, khả năng tiếp cận tín dụng đã tăng lên rất nhiều, song vẫn còn rất nhiều người nghèo không có khả năng tiếp cận với các nguồn

tín dụng. Một mặt, do không có tài sản thế chấp, người nghèo phải dựa vào tín chấp

với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác,

đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng các nguồn vốn

vay không đúng mục đích, do vậy khó có điều kiện tiếp cận các nguồn vốn và cuối

cùng sẽ làm cho họ càng nghèo hơn.

Nhu cầu vốn tín dụng ưu đãi cho người nghèo ngày càng lớn trong khi nguồn

vốn ưu đãi có hạn, vốn tín dụng ngân hàng vẫn chưa đáp ứng hết được nhu cầu vốn

cho phát triển sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống nhân dân. Chi ngân sách Nhà

nước cho các dịch vụ xã hội cơ bản đã tăng lên trong quá trình tăng trưởng. Tuy vậy,

so sánh với mức trung bình quốc tế đối với các nước có thu nhập trung bình thấp, chi

tiêu công cho y tế vẫn còn thấp. Trong khi các chính sách hỗ trợ chưa thực sự hiệu quả

và nguồn lực cho giảm nghèo vụ chậm cải thiện sẽ gây bất lợi cho người nghèo và ảnh

hưởng đến xóa đói giảm nghèo bền vững.

Nhận thức của xã hội và nỗ lực của bản thân người nghèo về giảm nghèo bền

vững còn thấp. Vẫn còn tình trạng người nghèo chưa nhận thức được ý nghĩa của việc

nâng cao chất lượng cuộc sống, và hướng tới cuộc sống ổn định khiến bản thân động lực giảm nghèo của nhóm thu nhập thấp chỉ mang tính ngắn hạn. Bên cạnh đó, nếu hiệu quả giảm nghèo không thật sự giúp hộ nghèo có thu nhập gia tăng rõ rệt, thì việc nhóm hộ sống dưới chuẩn nghèo chỉ đạt được mức tăng thu nhập bằng nhóm nằm sát

trên chuẩn nghèo, sẽ tạo ra hiệu ứng ngược. Các hộ nghèo được hưởng phúc lợi xã hội theo chính sách xã hội, ngược lại hộ sát trên chuẩn nghèo có thu nhập cao hơn không đáng kể lại ít nhận được hỗ trợ hơn. Các hộ nghèo do đó không có nhiều nỗ lực thoát nghèo nếu họ không nhìn thấy khả năng gia tăng thu nhập đáng kể.

130

CHƢƠNG 5 GIẢI PHÁP GẮN KẾT TĂNG TRƢỞNG KINH TẾ THEO NGÀNH VỚI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM

5.1. Bối cảnh trong và ngoài nƣớc có ảnh hƣởng đến tăng trƣởng và giảm nghèo ở Việt Nam

5.1.1. Bối cảnh quốc tế

Các quốc gia trong bối cảnh hiện nay, dù lớn hay nhỏ, dù thuộc hệ thống kinh tế

xã hội nào cũng đều chịu sự tương tác với các nền kinh tế khác trong hệ thống kinh tế

thế giới. Do vậy, với bất kỳ vấn đề toàn cầu nào cũng tác động chung đến các vấn đề kinh tế-xã hội trong nước, trong đó có mục tiêu giảm nghèo. Xu hướng quốc tế hoá

nền kinh tế thế giới phát triển trên cơ sở xuất hiện ngày càng nhiều những vấn đề kinh

tế toàn cầu, đòi hỏi phải có sự phối hợp chung để giải quyết các vấn đề đó. Cụ thể hơn,

một số vấn đề hiện nay đặt ra cho các nền kinh tế thế giới có tác động chặt chẽ đến

mục tiêu giảm nghèo của Việt Nam bao gồm:

Những lo ngại về tình hình an ninh quốc gia tác động đến xu hướng dự trữ

thực phẩm và ngân sách dành cho giảm nghèo. Trong những năm gần đây, tình trạng

chính trị-xã hội bất ổn diễn ra ở nhiều quốc gia, nhiều khu vực trên thế giới đã gây ra

hai xu hướng thay đổi cơ bản về kinh tế-xã hội của các nước. Trước tiên, các chính sách đối đầu khiến các nền kinh tế lớn chạy đua vũ trang, tiêu tốn khoản ngân sách rất

lớn vào hoạt động quốc phòng. Điều này ảnh hưởng rất xấu đến sự phân bổ ngân sách

của các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Với quy mô ngân sách nhỏ,

việc tăng cường tỷ trọng phân bổ cho quốc phòng sẽ khiến nguồn lực dành cho mục

tiêu giảm nghèo sẽ giảm tương đối. Đi kèm với những lo ngại về an ninh quốc gia, các

nước đều có xu hướng gia tăng dự trữ về hàng lương thực, thực phẩm. Xu hướng này

xảy ra với cả những nước đang phát triển khiến thị trường đầu ra của các sản phẩm nông nghiệp bị hạn chế. Hệ quả là đa phần người lao động nghèo hoạt động trong khu vực nông nghiệp sẽ gặp khó khăn trong nỗ lực gia tăng thu nhập.

Vấn đề ô nhiễm môi trường sinh thái có tác động xấu đến hoạt động nông-lâm- ngư nghiệp. Đây là vấn đề đang được đặt ra như một vấn đề toàn cầu nghiêm trọng. Môi trường là một trong ba vấn đề trụ cột của phát triển kinh tế mỗi quốc gia. Quá trình phát triển của nền kinh tế dẫn tới giai đoạn công nghiệp hoá, đô thị hoá cùng với sự gia tăng dân số quá nhanh ở nhiều quốc gia nghèo. Hệ quả này làm cho chất thải độc hại ngày càng lớn. Ô nhiễm môi trường ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, đang tác động xấu đến hoạt động nông-lâm-ngư nghiệp. Chất lượng sản

131

phẩm khu vực này có xu hướng giảm, tác động xấu đến thu nhập của các hộ khu vực

nông nghiệp. Mặt khác, cải thiện vấn đề ô nhiễm môi trường cần phải tốn những khoản chi phí khá lớn trong ngân sách các quốc gia đang phát triển. Các hệ quả trên đều hạn

chế khả năng tăng thu nhập của hộ nghèo đặc biệt ở các nước đang phát triển. Đi kèm

với xu hướng cạn kiệt dần tài nguyên thì ô nhiễm môi trường thực sự đang là mối lo ngại lớn toàn cầu tác động xấu đến chất lượng cuộc sống dân cư nói chung và hộ

nghèo nói riêng.

Hệ thống tín dụng bị ảnh hưởng bởi những cuộc khủng hoảng tài chính. Hệ

thống tín dụng quốc tế có liên quan đến mọi quốc gia, được tất cả các nước quan tâm. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới trong thời gian dần đây bị đe doạ bởi những cuộc

khủng hoảng tài chính có tác động đến hệ thống chính sách tín dụng của Việt Nam.

Trong đó, chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo phát triển sản xuất là một cấu phần

quan trọng trong chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững của Việt Nam.

Chính sách này đã tạo điều kiện cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác

tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước để cải thiện và từng bước nâng cao

điều kiện sống, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo. Bối cảnh hệ

thống tín dụng nói chung gặp khó khăn sẽ hạn chế khả năng thực hiện chính sách tín

dụng cho người nghèo.

Nền kinh tế thế giới còn gặp một số vấn đề toàn cầu nghiêm trọng khác như vấn

đề dân số, lương thực, khai thác đại dương…ngày càng được đặt ra và thừa nhận là

cấp bách. Về cơ bản chúng chưa được giải quyết và biểu hiện ngày càng nghiêm trọng.

Đây không phải là nhiệm vụ của một quốc gia nào, mà không phải giải quyết trong

phạm vi hẹp mà là nhiệm vụ chung của tất cả các quốc gia trên toàn cầu. Người nghèo là nhóm dân cư dễ bị tổn thương trong xã hội, các vấn đề biến động trong kinh tế-xã

hội sẽ tác động đến đời sống nhóm dân nghèo trước tiên. Dân số tăng nhanh, lương

thực giảm và khai thác đại dương quá mức cho phép đều tác động tiêu cực tới khả năng giảm nghèo.

Tính thống nhất của nền kinh tế hay xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế phát triển

trên cơ sở mở rộng các quan hệ hợp tác cùng có lợi giữa các quốc gia. Trước đây, những quan hệ cùng có lợi tồn tại trong trạng thái khá cục bộ, thường là giữa những quốc gia có chung quan điểm chính trị. Tuy nhiên, trong xu hướng mới từ thực tế đấu tranh của các nước đang phát triển đã buộc các nước phát triển phải xây dựng và mở rộng các quan hệ cùng có lợi với mọi quốc gia. Các nước đang phát triển nên dựa trên những nguyên tắc chung, tận dụng những lợi thế cho phép để tạo điều kiện tốt hơn về mặt kinh tế-xã hội cho nhóm người nghèo trong xã hội vươn lên thoát nghèo. Hơn nữa,

132

sự hỗ trợ từ các nước phát triển đối với các nước thu nhập thấp sẽ tạo nguồn vốn và gia

tăng các nguồn lực khác cho công cuộc xóa đói giảm nghèo.

5.1.2. Bối cảnh trong nước

Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế thế

giới, đang trong đà phục hồi. Nền kinh tế giai đoạn tới có nhiều biểu hiện tích cực

và triển vọng tăng trưởng dài hạn.

Tăng trưởng kinh tế được cải thiện: Nền kinh tế Việt Nam vẫn luôn thể hiện

tiềm năng tăng trưởng tốt và khả năng duy trì trong tương lai. Ưu thế này đến từ lợi

thế về thị trường nội địa còn nhiều tiềm năng và một số ngành sản xuất, chế tạo nội

địa đang dần chiếm ưu thế cạnh tranh. Duy trì được tốc độ tăng trưởng đều đặn và tăng dẫn sẽ tạo đà thuận lợi cho nền kinh tế có thể khắc phục được những khó khăn

khác. Đặc biệt với mục tiêu giảm nghèo trong hiện tại và tương lai thì tăng trưởng

kinh tế luôn là điều kiện cần thiết.

Trong cơ cấu ngành thì dịch vụ vẫn chiếm khoảng 40% GDP và có xu hướng

tăng lên sau một thời gian khá dài không có sự cải thiện. Khả năng tăng trưởng

nhanh của ngành dịch vụ nhờ vào những tác động từ hoạt động thương mại, bán lẻ

gia tăng do thị trường nội địa tiềm năng và dồi dào. Đặc biệt hoạt động của ngành

du lịch ngày càng có xu hướng tăng trưởng rất nhanh. Hoạt động sản xuất công

nghiệp tiếp tục được cải thiện. Các ngành mũi nhọn như công nghiệp nhẹ, công

nghiệp hàng tiêu dùng vẫn được đầu tư và khuyến khích phát triển. Công nghiệp

khai thác dầu thô có sụt giảm nhưng không gây ra tác động quá lớn đến tăng trưởng

khu vực công nghiệp. Nông nghiệp vẫn giữ xu thế tăng trưởng dương nhưng giảm

tương đối so với giai đoạn trước. Sự phục hồi khu vực nông nghiệp chưa thật sự

vững chắc.

Các dấu hiệu về tăng trưởng chung và tăng trưởng ngành cho thấy Việt Nam vẫn có thể kỳ vọng vào mục tiêu giảm nghèo cao nhờ nền tảng tăng trưởng kinh tế. Khu vực dịch vụ tăng trưởng có thể tạo ra động lực mới giải quyết việc làm cho người nghèo. Khu vực công nghiệp vẫn trên đà tăng trưởng nhanh, sẽ vẫn là khu

vực có tác động lớn nhất tới giảm nghèo thông qua kênh việc làm. Khu vực nông nghiệp chưa thực sự có khởi sắc, do vậy, lao động nghèo trong nông nghiệp sẽ vẫn duy trì xu hướng dịch chuyển sang công nghiệp và dịch vụ, trong đó lao động dịch chuyển dần sang khu vực dịch vụ sẽ gia tăng.

Triển vọng kinh tế Việt Nam trong tương lai vẫn được đánh giá là tích cực: Trong những năm sắp tới, GDP được dự báo sẽ tăng dần nhờ khả năng phục hồi của

133

những ngành nông nghiệp, công nghiệp, sự phát triển thị trường nội địa làm gia

tăng sức cầu. Một số ngành định hướng xuất khẩu cũng được đánh giá khả quan vì trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có dấu hiệu phục hồi cũng sẽ làm gia tăng cầu

hàng hóa và dịch vụ. Sự tăng trưởng và ổn định dần của khu vực nông nghiệp sẽ

khiến giả lương thực, thực phẩm và năng lượng ổn định dần. Đây là dấu hiệu tốt cho các hộ nghèo khu vực nông nghiệp có điều kiện thuận lợi cải thiện về thu nhập

nhờ giá hàng nông sản xuất khẩu ổn định. Triển vọng tăng trưởng các ngành nông,

công nghiệp tích cực hơn cũng là dấu hiệu tốt cho khả năng gia tăng việc làm cho

người nghèo.

Điều hành kinh tế vĩ mô dần ổn định: Điều hành vĩ mô của Chính phủ thận

trọng, củng cố và thiết lập các lớp đệm chính sách. Điều hành chính sách tiền tệ đã

cân đối giữa hai mục tiêu ổn định vĩ mô nhưng cũng hỗ trợ tăng trưởng. Với mức

lãi suất thực khá thấp và tăng trưởng tín dụng vẫn cao sẽ khuyến khích việc mở

rộng sản xuất trong nền kinh tế nội địa. Về chính sách tài khóa, các nỗ lực tăng

cường quản lý thu nhằm cải thiện nguồn thu đồng thời giảm gánh nặng tuân thủ cho

người nộp thuế phải được thực hiện song hành với những sửa đổi về chính sách

thuế nhằm đẩy mạnh huy động các nguồn thu trong nước. Các khoản chi đầu tư có

hiệu quả về hạ tầng và nguồn nhân lực cần được bảo vệ đồng thời cần chú trọng

việc nâng cao hiệu quả ở cả chi thường xuyên và chi đầu tư. Đây sẽ là điều kiện

đảm bảo ổn định tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện cần cho các chính sách xóa đói

giảm nghèo.

Trong bối cảnh kinh tế- xã hội những năm gần đây, chúng ta cũng xác định vai

trò của khoa học công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực sẽ trở thành ba động lực chủ chốt nhằm tạo đòn bẩy cho tăng trưởng kinh tế, tái cơ cấu nền kinh tế và

đổi mới mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu. Cuộc cách mạng công

nghiệp 4.0 hiện nay đang diễn ra là xu thế tất yếu mang lại nhiều cơ hội và thách thức mà mỗi quốc gia trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập đều cần phải tìm cách tiếp cận cho riêng mình để đạt được hiệu quả cao nhất trong phát triển kinh tế- xã hội. Trong giai đoạn vừa qua, đặc biệt giai đoạn 2010-2016, Việt Nam đã có những bước tiến lớn

trong phát triển khoa học công nghệ, làm cơ sở nền tảng đón nhận và ứng dụng công nghệ từ làn song của cuộc cách mạng 4.0. Cuộc cách mạng công nghiệp này sẽ tối ưu hóa quy trình sản xuất, phương thức sản xuất dựa trên sự tích hợp các công nghệ thông minh. Nền kinh tế hứa hẹn sẽ tăng trưởng đột phá nếu nắm bắt và ứng dụng được những ưu việt từ cuộc cách mạng công nghiệp này mang lại. Hơn thế nữa, cách mạng 4.0 dựa trên phát triển hạ tầng về kết nối số, sẽ tạo điều kiện công bằng và bình đẳng

134

hơn cho dân cư trong việc tiếp cận thông tin, cơ hội việc làm, giáo dục nâng cao trình

độ chuyên môn,…Nhóm người nghèo trong xã hội, đặc biệt là nhóm nghèo co cụm vẫn gặp nhiều khó khăn trong nỗ lực giảm nghèo của cộng đồng, có thể có thêm cơ hội

để nâng cao chất lượng cuộc sống.

Tuy nhiên, vẫn tồn tại những khó khăn nội tại trong nền kinh tế và những khó khăn mới phát sinh vẫn còn là những trở ngại lớn đối với nền kinh tế trong mục tiêu

tăng trưởng và giảm nghèo.

Một trong những thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt nam là duy trì bền

vững tốc độ tăng trưởng cao, kết hợp với mục tiêu giảm nghèo bền vững. Năng suất

lao động, môi trường kinh doanh, thị trường yếu tố sản xuất, đặc biệt là thị trường vốn

và đất đai chậm được hoàn thiện.

Kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao nhưng vẫn có nguy cơ tụt hậu xa hơn. Quy mô

nền kinh tế Việt Nam vẫn còn những khoảng cách quá xa so với các nước trong khu

vực về quy mô nền kinh tế, thu nhập bình quân đầu người. chỉ số HDI, năng suất lao

động, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người… Do giá trị của 1% tăng lên của

GDP bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp, nên tốc độ tăng chỉ tiêu này của

Việt Nam phải cao gấp nhiều lần so với thế giới thì mới không bị tụt hậu xa hơn.

Các khoản viện trợ ODA sẽ bị cắt giảm một phần lớn do Việt Nam đã thoát khỏi

danh sách các nước thu nhập trung bình. Điều đó có thể gây ra những ảnh hưởng lớn

đến khả năng đạt tốc độ tăng trưởng và giảm nghèo nhanh như thời gian qua.

Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế chưa được cải thiện đáng kể. Trong thời

gian gần đây, Việt Nam chưa thực sự khẳng định được khả năng cạnh tranh trong sản

xuất hàng hóa trên thị trường thế giới. Hơn nữa, bối cảnh kinh tế-chính trị-xã hội phức tạp khiến nhiều diễn biến khó lường của thị trường có thể xảy đến ngoài dự kiến.

Thiên tai, biến đổi khí hậu, nguồn lực tài chính quốc tế dần hạn chế và yêu cầu cấp thiết của quá trình tái cơ cấu kinh tế đòi hỏi Việt Nam cần có sự phát triển thật sự trên mọi phương diện mới bảo đảm được tăng trưởng kinh tế dài hạn. Hệ thống tài

chính vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực ngân hàng, khả năng giảm lãi suất cho vay bị hạn chế bởi vấn đề nợ xấu và lạm phát, sở hữu chéo. Ngoài ra, vấn đề thất nghiệp cũng đang là áp lực có nguy cơ dẫn tới nghèo đói vẫn là thách thức không nhỏ cho các vùng, địa phương còn nhiều khó khăn.

Xét tổng thể, bên cạnh những điều kiện thuận lợi, Việt Nam cũng đang đối mặt với những thách thức trong việc gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo trong tương lai.

135

5.2. Quan điểm kết hợp tăng trƣởng kinh tế theo ngành với giảm nghèo ở Việt Nam

5.2.1. Tăng trưởng kinh tế theo ngành là điều kiện cần cho mục tiêu giảm nghèo và giảm nghèo là tiền đề cho tăng trưởng kinh tế cao, ổn định

Quan điểm này dự trên logic biện chứng là muốn giúp đỡ, hỗ trợ có hiệu quả cho người nghèo thì Nhà nước phải có đủ nguồn lực vật chất. Tăng trưởng kinh tế tạo

điều kiện vật chất để thực hiện giảm nghèo. Không thể giàm nghèo bền vững trên cơ

sở một nền kinh tế tăng trưởng thấp, kém hiệu quả, chất lượng thấp, thậm chí có lúc

rơi vào trì trệ, suy thoái hoặc khủng hoảng. Thực tế cho thấy nhờ tăng trưởng kinh tế

Nhà nước có đủ nguồn lực để triển khai hoặc mở rộng hoạt động của các chương trình,

dự án giảm nghèo, hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội để người nghèo thoát

nghèo. Kinh tế phát triển, cơ cấu ngành nghề và hoạt động kinh tế đa dạng sẽ giải

quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người nghèo. Ngược lại, cũng không thể có

một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, có hiệu quả cao và bền vững trong một xã hội với

một tỷ lệ đáng kể dân cư còn nghèo do thất nghiệp hoặc thiếu việc làm. Tăng trưởng

kinh tế và giảm nghèo là hai nhân tố chủ lực của phát triển bền vững. Về bản chất đây

chính là sự phát triển bền vững của đất nước ta. Phát huy sự đồng thuận của hai nhân

tố này để tạo ra hợp lực phát triển kinh tế xã hội nhanh mà bền vững.

5.2.2. Thực hiện gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ngay trong từng giai đoạn và suốt quá trình phát triển với lộ trình cụ thể

Găn tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo vừa là vấn đề cấp bách trước mắt

nhưng vừa mang tính chiến lược lâu dài. Do vậy, cần xây dựng chiến lược, kế hoạch

để giảm nghèo trên phạm vi cả nước, đồng thời tập trung huy động nguồn lực đầu tư,

tiến hành công tác giảm nghèo có trọng tâm, trọng điểm. Trong mỗi bước đi, mỗi thời

điểm cụ thể của quá trình phát triển phải tìm ra đúng mức độ hợp lý giữa phát triển kinh tế với giảm nghèo sao cho hai mặt này không cản trở, triệt tiêu lẫn nhau mà trái lại chúng có thể bổ trợ cho nhau. Để bảo đảm hiệu quả mục tiêu giảm nghèo từ tăng trưởng ngành, cần thực hiện chính sách tăng trưởng cho từng ngành đúng chiến lược

và kế hoạch đề ra. Hỗ trợ phải gắn với đối tượng, địa bàn và thời hạn nhằm hướng tới tăng trưởng cao, ổn định. Trên cơ sở đó, tăng cường cơ hội tiếp cận chính sách và khuyến khích sự tích cực, chủ động tham gia của người nghèo. Ngoài ra, cần duy trì, bổ sung một số chính sách hỗ trợ phù hợp đối với hộ mới thoát nghèo, hộ cận nghèo giúp họ thoát nghèo. Cần lựa chọn lĩnh vực đầu tư hợp lý từ nguồn lực tăng trưởng sao cho có hiệu quả giảm nghèo cao nhất. Trong giai đoạn tới, cần đầu tư cơ sở hạ tầng và

136

phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số,

huyện nghèo, xã nghèo… Giải quyết cơ bản tình trạng hộ đồng bào dân tộc thiểu số không có đất ở và giải quyết đất sản xuất hoặc chuyển đổi nghề cho hộ đồng bào dân

tộc thiểu số nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn đang thiếu đất sản

xuất; kết hợp đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo chưa được hỗ trợ đất sản xuất, đồng thời có chính sách giải

quyết tình trạng di dân không theo quy hoạch ở một số địa phương.

5.2.3. Giảm nghèo không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước mà là bổn phận của chính người nghèo phải tự vươn lên để thoát nghèo

Giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân người nghèo, cộng đồng

nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thoát nghèo chính là động lực, là điều kiện cần

cho sự thành công của mục tiêu giảm nghèo ở các nước. Nhà nước trợ giúp người

nghèo biết cách tự thoát nghèo và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh sự hỗ trợ về

vật chất trực tiếp thì việc tạo việc làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn người

nghèo sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là

điều kiện giảm nghèo nhanh và bền vững. Cần có sự tham gia của cộng đồng xã hội để

giúp người nghèo giảm bớt khó khăn, vươn lên thoát nghèo, đồng thời khắc phục tư

tưởng ỷ lại, bao cấp, trông chờ vào Nhà nước.

5.3. Giải pháp nhằm gắn kết tăng trưởng kinh tế theo ngành với giảm nghèo

5.3.1. Đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với mục tiêu giảm nghèo

Đổi mới mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát

triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng chất

lượng, hiệu quả. Mô hình tăng trưởng phải đi kèm với phân phối thu nhập cho người

nghèo, giảm bất bình đẳng về thu nhập, về cơ hội tiếp cận dịch vụ xã hội, về quyền lợi

xã hội cho người nghèo. Bên cạnh đó, để giảm nghèo bền vững Việt Nam cần xây dựng và thực hiện mô hình tăng trưởng bao trùm và vì người nghèo. Mô hình này phải đảm bảo thu nhập của người nghèo tăng nhiều hơn so với thu nhập trung bình của xã

hội và góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo. Trong mô hình đó, vai trò của chính phủ phải hướng vào hoạch định chính sách, thể chế vĩ mô, cung cấp dịch vụ công, nhất là dịch vụ xã hội cơ bản; phát huy vai trò của khu vực tư nhân trong đầu tư tăng trưởng; nâng cao năng suất lao động, tạo việc làm và mở rộng sự tham gia của các đối tác xã hội vào công cuộc xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra, mô hình tăng trưởng phải vừa đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng cao, ổn định, vừa phải đạt được trên diện rộng có lợi cho người nghèo. Bên cạnh việc hình thành và phát triển các trung tâm

137

kinh tế làm đầu tàu tăng trưởng, cần chú ý đầu tư phát triển kinh tế ở một số vùng,

nhất là các vùng chậm phát triển. Đây cũng là một hướng quan trọng để giảm nghèo nhanh và bền vững.

5.3.2. Hoàn thiện chính sách gắn kết tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo

Hoàn thiện chính sách lao động, việc làm

Thực hiện nhất quán chính sách phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân, tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp luật và chính sách khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân đầu

tư phát triển rộng rãi vào các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ để tạo nhiều việc làm

cho lao động.

Tiếp tục nâng tỷ lệ toàn dụng lao động ở nông thôn bằng các giải pháp chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển mạnh ngành nghề nông thôn, thực hiện tốt

hơn chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình...

Để giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất, mất việc làm, cần sớm hoàn thiện chính sách phát triển thị trường lao động nông thôn theo hướng khuyến khích

phát triển mạng lưới trung tâm, văn phòng giới thiệu việc làm. Nghiên cứu cấp phiếu

đào tạo nghề miễn phí cho nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp tại các trung tâm dạy

nghề. Đồng thời với việc tiếp tục xác định giá cả hợp lý theo giá thị trường, không để

người có đất bị thu hồi thiệt thòi, cần có cách làm mới xuất phát từ nhìn nhận người

nông dân cũng phải được hưởng lợi của địa tô chênh lệch do chuyển quyền sử dụng

đất mang lại.

Tăng cường cơ sở hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ giới thiệu việc làm để đảm bảo

các điều kiện để thị trường lao động phát triển, những thông tin thị trường được

công khai, giúp cho người lao động có thể nhận biết được đâu là cơ hội và khả năng

có thể đáp ứng công việc của mình. Nâng cao năng lực và các loại hình dịch vụ đối

với lao động xuất khẩu có nguồn gốc từ nông thôn, có chính sách hỗ trợ và đảm bảo về tài chính và các thủ tục xuất khẩu lao động, đảm bảo cho người lao động được làm việc đúng ngành nghề được đào tạo và tạo điều kiện cải thiện cuộc sống cho

lao động xuất khẩu.

Giải quyết việc làm của vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc phải gắn với tổ chức lại sản xuất và tổ chức dân cư. Xúc tiến công tác quy hoạch các cụm sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, bảo đảm các cơ sở sản xuất kinh doanh có đủ hạ tầng cho sản xuất và đời sống.

Tuyên truyền để nâng cao nhận thức của cán bộ, người dân, người lao động về

138

yêu cầu đào tạo nghề, coi đó là một điều kiện để có thể hưởng lợi từ các chương trình

giải quyết việc làm. Đồng thời cần nâng cao chất lượng hệ thống đào tạo nghề của nhà nước, xã hội hóa đào tạo nghề theo phương thức ba bên cùng có lợi: Nhà nước – doanh

nghiệp và người lao động. Cần có các chính sách đặc biệt áp dụng hoạt động đào tạo

nghề cho khu vực nông thôn để đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu lao động, cải thiện thu nhập bền vững.

Hoàn thiện chính sách tín dụng

Các chính sách tín dụng cần hướng tới đời sống người nghèo. Tiếp tục hoàn

thiện khung pháp lý tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp tín dụng ưu đãi đối với

hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách khác. Bên

cạnh đó, tạo điều kiện hỗ trợ Ngân hàng Chính sách xã hội trong việc huy động vốn,

vay tái cấp vốn và chỉ đạo các tổ chức tín dụng Nhà nước thực hiện duy trì số dư tiền

gửi tại Ngân hàng Chính sách theo quy định. Đồng thời, Ngân hàng Chính sách cần

chủ động xây dựng phương án huy động vốn theo cơ chế hiện hành và trình cơ quan có

thẩm quyền bổ sung các nguồn khác để bảo đảm có thêm vốn cho vay hộ nghèo và các

đối tượng chính sách khác.

Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội

Cần tiếp tục mở rộng phạm vi bao phủ của hệ thống an sinh xã hội. Tăng mức

tuân thủ thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của doanh nghiệp ngoài

nhà nước để hệ thống này thực hiện đúng vai trò che chắn người lao động trước rủi ro

giảm hoặc không có tiền công do ốm đau, thất nghiệp và nghỉ hưu.

Đẩy nhanh thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện, trước hết đối với lao động làm

công ăn lương, lao động tự hành nghề trong khu vực phi chính quy, tiếp đến là nông dân. Cơ quan quản lý nên đánh giá hiệu lực thực thi để rút kinh nghiệm trong tổ chức

thực hiện. Từ đó cần xây dựng chương trình hành động, có lộ trình thời gian để thực hiện chế độ BHXH tự nguyện, vì đây là chế độ ảnh hưởng đến công bằng xã hội của nhóm người yếu thế trong hưởng lợi dịch vụ công.

Hoàn thiện hệ thống chính sách và hệ thống tổ chức thực hiện bảo hiểm thất nghiệp. Hệ thống này cần phải kết hợp chặt chẽ với các hệ thống liên quan đến lao động khác như giới thiệu việc làm, đào tạo nghề theo nhu cầu...thì mới có thể đảm bảo thực hiện được đúng chức năng của mình.

Các chương trình mục tiêu quốc gia

Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, các

139

chương trình, dự án và các giải pháp, chính sách đã ban hành để hỗ trợ phát triển sản

xuất, ổn định đời sống đối với người nghèo, vùng nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn, vùng bị thiên tai. Giảm bớt các khoản đóng góp cho nông dân.

Cần tổ chức tập huấn cho cán bộ địa phương (cả cán bộ xã và huyện) trước khi

thực hiện các chương trình và lồng ghép các dự án trên địa bàn.

Hoàn thiện chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số

Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay chưa được thực hiện đầy

đủ, toàn diện trên các lĩnh vực. Về mặt cơ chế, chính sách cần phân cấp mạnh cho địa

phương trên cơ sở công khai, minh bạch trong công tác xây dựng và lập kế hoạch, từ

hỗ trợ trực tiếp cho hộ chuyển dần sang hỗ trợ cho cộng đồng, nhóm hộ, từ “cho

không” chuyển sang cho vay. Cơ quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Dân tộc và

các Bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách

mới, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Để vùng đồng bào dân tộc phát triển mạnh hơn, cần

nghiên cứu các yếu tố đặc thù của địa phương, qua đó thống nhất cơ chế phân bổ kinh

phí, ban hành chính sách phù hợp. Chính sách dạy nghề, tạo việc làm cho đồng bào

dân tộc thiểu số cần phải được quan tâm một cách cụ thể, đúng mức. Cần ban hành

thông tư, hướng dẫn để triển khai thực hiện tại địa phương. Đẩy mạnh thực hiện chính

sách đầu tư phát triển sản xuất, nhất là đất sản xuất; trợ giúp đất ở, nhà ở, nước sạch,

cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo.

5.3.3. Tăng cường hiệu quả các biện pháp hỗ trợ cho người nghèo

Tăng cường và đổi mới nội dung, cách thức hỗ trợ kỹ thuật, kiến thức sản xuất

kinh doanh cho hộ dân thông qua việc tổ chức lớp học hiện trường đào tạo cho nông

dân về trồng trọt, chăn nuôi, phòng bệnh, sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu; tổ

chức tập huấn, hướng dẫn và nâng cao năng lực cho các hộ dân về hạch toán kinh

doanh, kiến thức về thị trường.

Cần tiếp tục nghiên cứu để cải tiến theo hướng đơn giản hóa các thủ tục, tạo điều kiện thuận lợi để người dân vay vốn từ các nguồn vốn ưu đãi qua Ngân hàng

Chính sách Xã hội; Gắn kết chặt chẽ việc cho vay vốn với hướng dẫn người dân tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đồng thời tăng cường các hoạt động giám sát đảm bảo sử dụng nguồn vốn vay đúng mục đích, tránh thất thoát.

Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp: Các cấp, các ngành cần rà soát và điều chỉnh các chính sách ưu đãi đầu tư ngành nông nghiệp trên địa bàn Tỉnh đảm bảo tạo ra môi trường đầu tư cạnh tranh so với các khu vực khác; Xây dựng cơ chế đặc thù kêu gọi các thành phần kinh tế trong

140

và ngoài tỉnh đầu tư vào sản xuất, chế biến, xây dựng thương hiệu sản phẩm hàng hóa.

Đặc biệt, cần nghiên cứu và học tập kinh nghiệm thành công của một số địa phương với mô hình đầu tư với nông dân thông qua Quỹ xúc tiến đầu tư kinh doanh nông lâm

nghiệp và để Quỹ này hoạt động có hiệu quả, mang lại lợi ích thiết thực cho người dân

tại các xã nghèo. Cụ thể:

Khi thực hiện các dự án đồng tài trợ cụ thể cần tổ chức tuyên truyền rộng rãi lợi

ích của việc thực hiện hợp tác công tư trong phát triển nông lâm nghiệp cho DN và

người dân. Lựa chọn các doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu, năng lực của người dân

và tiềm năng của địa phương để hỗ trợ, chú trọng các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Các cơ quan chức năng cần tổ chức hướng dẫn doanh nghiệp trong xây dựng dự

án và trong xây dựng hồ sơ bồi hoàn kinh phí, cần có những chính sách phù hợp cho

doanh nghiệp về các điều kiện thanh toán vốn ngân sách, thực hiện khoán kinh phí đối

với những hạng mục mà doanh nghiệp hay hợp tác xã có thể tự thực hiện để làm tăng

hiệu quả đầu tư.

Biện pháp hỗ trợ nhà ở cần hỗ trợ trực tiếp đến hộ gia đình để xây dựng nhà ở

theo đối tượng quy định. Bảo đảm công khai, công bằng và minh bạch đến từng hộ gia

đình trên cơ sở pháp luật và chính sách của Nhà nước; phù hợp với phong tục tập quán

của mỗi dân tộc, vùng, miền, bảo tồn bản sắc văn hoá của từng dân tộc; phù hợp với

điều kiện thực tiễn và gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của từng

địa phương. Nhà nước hỗ trợ, cộng đồng giúp đỡ, hộ gia đình tham gia đóng góp để xây dựng được một căn nhà có diện tích sử dụng tối thiểu 24 m2; tuổi thọ căn nhà từ 10 năm trở lên.

Bên cạnh nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước, các địa phương cần làm tốt công tác lồng ghép với các chương trình, dự án; tuyên truyền, khơi dậy tinh thần “Tương thân

tương ái”, huy động các tổ chức, cá nhân có lòng hảo tâm, cộng đồng dân cư tham gia

hỗ trợ bằng những việc làm thiết thực như hỗ trợ thêm tiền, ngày công lao động, nguyên vật liệu... Điều quan trọng hơn cả là ngay chính bản thân người nghèo, hộ gia đình chính sách cũng cần có nhận thức đầy đủ, cần phát huy tinh thần làm chủ, huy

động thêm các nguồn lực khác để tu sửa, làm mới nhà.

Cần xem xét kỹ điều kiện người nghèo, hộ nghèo và khắc phục hỗ trợ chồng chéo, manh mún. Có thể phân loại người nghèo thành 4 nhóm: nhóm có khả năng sản xuất nhưng thiếu vốn, kỹ năng lao động; nhóm bị ảnh hưởng thiên tai, bệnh tật; nhóm không có khả năng lao động như người già, người có công; nhóm có khả năng lao động nhưng lười lao động. Từ đó sẽ có chính sách hỗ trợ phù hợp hạn chế tư tưởng xin-cho và thoát nghèo ngắn hạn. Cần phân loại hộ nghèo thuộc chính sách bảo trợ xã

141

hội (là hộ nghèo và không còn thành viên nào trong hộ có khả năng lao động), xem xét

tách khỏi nhóm hộ nghèo để hưởng chính sách trợ cấp xã hội lâu dài vì các đối tượng này không còn khả năng thoát nghèo. Còn đối với hộ nghèo, cận nghèo khác, cần tăng

cường chính sách hỗ trợ, khuyến khích họ tích cực lao động, tiếp cận nguồn vốn, khoa

học kỹ thuật và các điều kiện sản xuất khác để thoát nghèo.

5.3.4. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế

Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và tạo việc làm thì phải chuyển đổi cơ

cấu chuyển dần lao động từ khu vực nông nghiệp với tăng suất lao động thấp sang khu

vực công nghiệp hoạt động sản xuất với năng suất cao hơn. Quá trình chuyển đổi đòi

hỏi cần đào tạo lao động trong một khoảng thời gian nhất định.

Đầu tư thích đáng vào đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là

nguồn nhân lực ở nông thôn. Cần chú trọng công tác đào tạo nghề cho các lao động

này theo đúng định hướng sản xuất kết hợp với lợi thế sản xuất của từng khu vực. Tăng cường kết hợp trong việc đào tạo nghề, xã hội hóa công tác đào tạo nghề, gắn kết

doanh nghiệp, các cơ sở sử dụng lao động với các cơ sở đào tạo nghề cho lao động

nông thôn. Nâng cao chất lượng lao động nông thôn. Điều đó là do tính chất quyết

định của trình độ văn hoá cũng như kỹ năng lao động của người lao động nông thôn

trong việc chuyển dịch lao động sang khu vực phi nông nghiệp một cách bền vững.

Trong đó cần tập trung nâng cao chất lượng đào tạo nghề; nâng cao thể lực cho người

lao động nông thôn. Thể lực khỏe mạnh đi kèm với đó là trình độ chuyên môn và ý

thức nghề nghiệp, văn hóa làm việc sẽ tạo ra sức cạnh tranh lớn và khả năng dịch

chuyển lao động cao hơn.

Khuyến khích và đầu tư mạnh hơn nữa vào phát triển sản xuất kinh doanh, đặc

biệt là phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.

Xoá bỏ chính sách về hạn điền, khuyến khích mạnh hơn nữa phát triển kinh tế trang trại và kinh tế hộ. Chính sách này đặc biệt quan trọng, là điều kiện cần thiết để thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng tăng nguồn lực và điều kiện để áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghiệp, hiện đại hóa.

Phát triển các khu kinh tế và đô thị hóa gắn với chuyển đổi nghề hiệu quả đối với lao động nông nghiệp. Phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất và đô thị hóa là một giải pháp có tính chiến lược về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển kinh tế xã hội đất nước theo hướng công nghiệp hóa.

Tạo điều kiện và có chính sách hợp lý đối với lao động di cư: Nhà nước cần có chính sách quản lý di dân hợp lý, tạo điều kiện cho người dân di cư làm ăn sinh sống

142

tốt hơn, góp phần thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân trước pháp luật; trước hết cần

đơn giản hoá một cách triệt để các thủ tục hành chính liên quan đến việc đăng ký hộ khẩu, đăng ký kinh doanh, thuê mướn sử dụng lao động..., tạo điều kiện thuận lợi cho

người lao động nhập cư ổn định cuộc sống và được tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ

bản, đặc biệt là đối với người lao động nghèo.

Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển vùng trong phạm vi cả

nước, quan hệ kinh tế giữa các vùng trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh của từng

vùng. Phát triển các vùng nông thôn có lợi thế so sánh, có thế mạnh về tiềm năng tự

nhiên cho phép tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập như vùng duyên hải, biển đảo, vùng miền Đông và Tây Nam Bộ... Định hướng, quy hoạch phát triển mạnh hệ thống

thị trường tiêu thụ các mặt hàng nông sản, nâng cao sức mua của thị trường trong

nước, mà trọng tâm là khu vực thị trường nông thôn, kể cả hệ thống chợ nông thôn.

5.3.5. Phát triển các ngành kinh tế

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp

Phát triển công nghiệp nhằm mục đích giảm nghèo trước hết cần thúc đẩy phát

triển một số ngành công nghiệp nhẹ, thâm dụng lao động tương đối so với các ngành

công nghiệp khác. Thực hiện mục tiêu này trước hết cần hoạch định rõ trong mục tiêu

kinh tế-xã hội của Chính Phủ và có hệ thống chính sách hỗ trợ hợp lý cho các doanh

nghiệp hoạt động trong những ngành này và hỗ trợ người lao động nghèo khu vực

nông nghiệp, nông thôn tiếp cận tham gia quá trình đào tạo lao động và tìm việc làm

phù hợp. Các biện pháp chính sách phải tập trung hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là

các doanh nghiệp quy mô nhỏ trong khu vực công nghiệp nhẹ trong việc đào tạo và

nâng cao tay nghề cho người lao động và nâng cao công nghệ đồng thời nâng cao chất

lượng và đa dạng hóa sản phẩm.

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở khu vực nông thôn. Các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường trong nước và xuất khẩu; đối với các làng nghề truyền thống ở nông thôn có lịch sử lâu đời cần kết hợp giữa truyền thống và hiện đại để phát huy hiệu quả các tiềm năng hiện có, nhất là vừa đẩy

mạnh phát triển sản xuất, vừa phát triển khu vực dịch vụ như các loại hình du lịch làng nghề truyền thống.

Tăng năng suất và hiệu quả ngành nông nghiệp

Trước hết, thúc đẩy năng suất và hiệu quả nông nghiệp cần tập trung vào chính sách ruộng đất. Chính sách quy hoạch cho khu vực nông nghiệp và luật đất đai áp dụng cho quyền sử dụng, sở hữu đất nông nghiệp nên cởi mở và tạo động lực lao động

143

cho người dân. Tập trung đất cho phát triển nông nghiệp hiện đại, hiệu quả cao và giải

quyết vấn đề việc làm và thu nhập của bộ phận nông dân không có đất. Với những bộ phận lao động không có đất, cần có chiến lược dịch chuyển sang làm các ngành nghề

như tiểu thủ công, dịch vụ hay các hoạt động phi nông nghiệp.

Nghiên cứu, phân bổ hợp lý đất đai giữa đất trồng cây lương thực, đất trồng rừng, đất phi công nghiệp, đất dịch vụ, đất chỉnh trang và phát triển đô thị... Trong bối

cảnh hiện nay khi biến đổi khí hậu có nguy cơ tác động lớn đến hoạt động nông nghiệp

thì việc phát triển công tác nghiên cứu về giống cây, con thích hợp và phân bổ đất

nông nghiệp hợp lý sẽ là nhân tố quyết định đến việc phát triển nông nghiệp dài hạn.

Phân chia lợi ích từ đất nông nghiệp một cách công bằng giữa các nhóm lợi

ích. Chính Phủ nên can thiệp và điều chỉnh lại những nguồn lợi ích này nhằm hạn chế

tình trạng sử dụng đất kém hiệu quả, chiếm dụng đất. Chính Phủ cần hỗ trợ can thiệp

vào việc chuyển đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp theo quy hoạch nhằm hoàn

thành quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Cần đảm bảo những quyền lợi chính đáng và hợp lý cho người sử dụng đất

nông nghiệp để khai thác, sử dụng đất đai hiệu quả cao nhất. Cần quy hoạch và có kế

hoạch sử dụng đất đai phù hợp với yêu cầu mới của quá trình tái cơ cấu nông nghiệp.

Cụ thể, cần quy hoạch vùng chuyên canh và giám sát thực hiện quy hoạch đối với một

số mặt hàng nông sản chiến lược. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực cần quy hoạch đất

cho chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Đối với các cây, con giống kém hiệu quả, cần

quy hoạch chuyển đổi sang trồng cây nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, cây ăn quả, rau,

nuôi trồng thủy sản và các sản phẩm giá trị cao khác. Có chiến lược bảo vệ đất lúa

nhưng cho phép thay đổi linh hoạt mục đích sử dụng giữa lúa và các cây trồng khác.

Phát triển khoa học kỹ thuật ứng dụng trong nông nghiệp. Cần cung ứng giống

một cách đồng bộ, giống cây trồng hay con giống cần nghiên cứu phù hợp với điều kiện của từng địa phương, từng vùng kinh tế. Khuyến khích mở rộng phạm vi và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ nông nghiệp như: trợ giúp kỹ thuật, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ tài chính và hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm... Xóa bỏ tình trạng độc

quyền, hạn chế rủi ro thị trường bằng việc cải thiện điều kiện mua bán sản phẩm của người nông dân; củng cố hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cũng như đội ngũ cán bộ làm công tác này để có thể nhanh chóng ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến vào sản xuất nông nghiệp; xúc tiến công tác đào tạo nông dân cả về kỹ thuật sản xuất và quản lý kinh doanh để giúp họ chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi.

Chính phủ hỗ trợ ngân sách bảo đảm cơ sở hạ tầng cho từng vùng sản xuất tập

144

trung. ngân sách nhà nước hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng các vùng sản xuất giống tập

trung áp dụng công nghệ cao phát triển giống. Ưu tiên cho áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ về giống thuộc các thành phần kinh tế. Quý phát triển dành thêm kinh phí

cho các dự án thử nghiệm sản xuất và chế biến, tạo giống mới tốt hơn.

Cần triển khai các giải pháp hỗ trợ phát triển sản xuất nông lâm, ngư nghiệp gồm: giống cây trồng, vật nuôi; thiết bị, vật tư, dụng cụ sản xuất; phân bón, thức ăn

chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, tiêu thụ sản phẩm. Hỗ trợ phát triển

ngành nghề và dịch vụ, du lịch nông nghiệp nông thôn gồm: sửa chữa thiết bị nhà,

xưởng, máy móc, vật tư dịch vụ ngành nghề. Hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật và quản lý chương trình, dự án phát triển sản xuất gồm: tập huấn, chuyển giao kỹ thuật; dạy nghề,

hướng nghiệp, tiếp cận thị trường, tạo việc làm; quản lý, kiểm tra giám sát.

Phát triển thị trường cho sản phẩm nông nghiệp. Chính phủ đầu tư cho ngành

nông nghiệp nghiên cứu giống phù hợp điều kiện thời tiết, khí hậu, phương pháp canh

tác thích hợp, và triển khai hướng dẫn kỹ thuật cho lao động nông nghiệp. Ngoài ra,

cần có chính sách ưu đãi về thuế như miễn, giảm thuế cho những lao động nông

nghiệp trồng giống cây, con mới hay khai phá đất nông nghiệp mới. Chính phủ có thể

hỗ trợ cho các hộ vay vốn sản xuất trên quy mô lớn dưới sự giám sát và hỗ trợ kiểm tra

kỹ thuật từ các cơ quan nghiên cứu. Về lâu dài, Chính Phủ cần có dự báo chiến lược

sản xuất các sản phẩm nào để có biện pháp đồng bộ từ tổ chức nông dân sản xuất đến

việc tạo thị trường. Tránh tình trạng để mặc cho dân tự phát sản xuất, dẫn đến sự ứ

đọng hàng hoá như hiện nay.

5.3.6. Tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo

Trước hết cần giúp người nghèo tiếp cận dịch vụ việc làm, chính sách hỗ trợ

việc làm, đào tạo nghề. Các đối tượng lao động dân tộc thiểu số cần được tư vấn về

việc làm và học nghề và định hướng việc làm. Bên cạnh đó, về dài hạn, cần tăng cường dịch vụ giáo dục cơ bản, hệ thống pháp luật và chính sách đồng bộ để hỗ trợ người nghèo chủ động tiếp cận các dịch vụ công. Giúp người nghèo tiếp cận các dịch vụ công, phải hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế chính sách, tài chính. Trong lĩnh vực

y tế, cần cải thiện hệ thống bệnh viện, giao cho bệnh viện được quyền tự quyết hơn trong tính giá cả, thay vì Nhà nước bao cấp cho các đơn vị cung ứng công lập theo dự toán ngân sách như hiện nay, chuyển số kinh phí đó sang tài trợ cho các dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu và hỗ trợ trực tiếp người thụ hưởng là đối tượng chính sách. Đổi mới chế độ giá và phí dịch vụ, triển khai hiệu quả các chương trình trợ giúp người thuộc diện chính sách và người yếu thế được hưởng dịch vụ sự nghiệp công một

145

cách bình đẳng. Trên cơ sở đó tăng cường chất lượng dịch vụ công và khả năng người

nghèo được hưởng lợi ích từ dịch vụ công.

Cần tăng cường tạo lập cơ sở pháp lý đảm bảo sự ổn định và thúc đẩy sự phát

triển của dịch vụ công toàn xã hội. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch định

hướng phát triển mạng lưới dịch vụ công toàn xã hội, đồng thời chỉ đạo thực hiện, kiểm tra giám sát hệ thống dịch vụ công một cách minh bạch, hiệu quả và hướng tới

người nghèo trong xã hội.

Cơ cấu lại thu chi ngân sách cho dịch vụ công hợp lý. Đầu tư thích đáng cho

những dịch vụ công thiết yếu nhất, phục vụ người dân ở khu vực nghèo và khó khăn

nhất trong xã hội. Đảm bảo một số dịch vụ công cơ bản cho người nghèo như giáo

dục, y tế cơ bản. Nâng hạn mức cho vay đối với người nghèo, hộ nghèo tạo điều kiện

thoát nghèo.

Hoàn thiện chính sách thu theo hướng bao quát toàn bộ các nguồn thu, mở rộng

cơ sở thu, nhất là các nguồn thu mới, phù hợp với thông lệ quốc tế; Tăng tỷ trọng thu

nội địa, bảo đảm tỷ trọng hợp lý giữa thuế gián thu và thuế trực thu, khai thác tốt

nguồn thu từ tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường. Đồng thời, tăng tỷ trọng thu từ

thuế và phí trong tổng thu ngân sách nhà nước; Hạn chế tối đa việc lồng ghép chính

sách xã hội trong các sắc thuế và chính sách miễn, giảm, giãn thuế, bảo đảm tính trung

lập của thuế, góp phần tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công bằng, khuyến

khích đầu tư, điều tiết thu nhập hợp lý.

Đổi mới phương pháp cấp phát kinh phí cho dịch vụ công trên tiêu chí giải

quyết được tốt nhất mối quan hệ về lợi ích giữa Nhà nước, xã hội, các tổ chức và

người nghèo. Tăng cường hình thức đấu thầu, khuyến khích cạnh tranh giữa các tổ chức cung ứng để nâng cao chất lượng dịch vụ công. Cần nâng cao hiệu quả của cơ

chế quản lý tài chính theo hướng trao quyền tự chủ cho các đơn vị dự toán; cần đổi mới phương thức cấp phát ngân sách từ cấp phát và phân bổ kinh phí dựa theo nguồn lực có hạn ở đầu vào sang cấp phát và phân bổ ngân sách trên cơ sở khuôn khổ chi tiêu trung hạn, gắn với kết quả đầu ra.

Cần có quy định về các mức phí, giá và tiêu chuẩn chất lượng cho dịch vụ công. Tổ chức tốt khâu thanh tra, kiểm tra trong cung ứng dịch vụ công. Thực hiện được mục tiêu này cần sự tham gia kiểm tra giám sát không chỉ của những đơn vị có chức năng, mà còn cần sự phản hồi từ các đối tương người nghèo thụ hưởng.

146

5.3.7. Khuyến khích sự tham gia của toàn xã hội vào công cuộc giảm nghèo

Để giảm gánh nặng của Nhà nước, phải có sự hỗ trợ của doanh nghiệp về giải

quyết việc làm, về vốn và công nghệ mới có thể tạo ra bước phát triển ở khu vực nông

thôn. Các chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp đầu tư vào các vùng nghèo, xã

nghèo cần được quan tâm thực hiện. Cũng cần xây dựng khung lộ trình thực hiện

Chương trình 135 để làm cơ sở thu hút các nguồn vốn đầu tư khác trên địa bàn.

Vận động tài trợ quốc tế, góp phần tăng cường vốn cho các địa phương còn trong

điều kiện khó khăn. Bên cạnh nguồn vốn của Nhà nước và doanh nghiệp, vốn viện trợ

không hoàn lại, vốn vay ưu đãi của nước ngoài cũng là các nguồn đầu tư lớn có thể

dành cho những vùng nông thôn chậm phát triển. Một thực tế rất rõ là vốn cao sẽ đi đôi với tăng trưởng cao khi mà nền kinh tế vẫn đang được đánh giá là năng động hàng

đầu khu vực. Vì vậy, việc cân đối các khoản giải ngân ODA cũng cần hướng đến mục

tiêu lâu dài hơn, đó là tạo ra sự phát triển bền vững và cân bằng trong nền kinh tế. Việc hiện đại hoá các thành phố lớn bằng tiền ODA ở khía cạnh công bằng thì cần giảm

xuống, thay vào đó là nghiên cứu xem các tỉnh vùng sâu, vùng xa đang cần hỗ trợ

những gì.

5.3.8. Nâng cao nhận thức và tham gia của người nghèo vào quá trình tăng trưởng

Để đáp ứng yêu cầu cao hơn về xoá đói giảm nghèo, yêu cầu trước tiên là cần

tiếp tục nâng cao nhận thức, quyết tâm vượt nghèo vươn lên làm giàu của hộ nghèo, xã

nghèo. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, động viên người dân phát huy nội lực,

ý chí tự lực tự cường, đoàn kết xóm làng, tương thân tương ái vươn lên trong phát triển

kinh tế - xã hội, xoá đói giảm nghèo. Cần khuyến khích các địa phương và người nghèo,

nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trên cơ sở đầu tư hỗ trợ của

Nhà nước, tự lực phấn đấu vươn lên thoát khỏi đói, nghèo một cách bền vững.

Xây dựng khuôn khổ pháp lý khuyến khích người nghèo tham gia vào quá trình tăng trưởng và phát triển ở địa phương. Tạo điều kiện cho người nghèo định hướng việc làm và phát huy tối đa năng lực sản xuất. Để thực hiện được mục tiêu này, trước

tiên cần xác định ít nhất một sản phẩm chủ lực, có ưu thế của địa phương (cây trồng, vật nuôi, ngành nghề…) để phát triển sản xuất hàng hóa. Cần có định hướng chủ đạo cụ thể về lợi thế phát triển sản xuất của địa phương. Có thể tập trung trước mắt vào những ngành hàng mà địa phương đang làm, có lợi thế cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ ổn định; xây dựng và phát triển thương hiệu sản phẩm nông nghiệp địa phương; đẩy mạnh phát triển các ngành nghề truyền thống, tiểu thủ công nghiệp, các mặt hàng

147

gia công, chế biến nông lâm thủy sản. Chiến lược này cần có mô hình sản xuất cụ thể

và có hiệu quả. Sau đó theo quy hoạch cụ thể của từng địa phương, xác định vai trò đóng góp sản xuất của nhóm người nghèo để có thể thực hiện các chính sách gắn kết

chặt chẽ quy hoạch tăng trưởng địa phương với giảm nghèo.

Để nâng cao năng lực của nhóm người nghèo, cần thiết kế tổ chức những khóa tập huấn, nâng cao hiểu biết và kiến thức của người nghèo nhằm cải thiện năng suất

nông nghiệp. Những lớp tập huấn này nhằm giúp người nghèo có cái nhìn khác hơn

về chất lượng sản xuất trong nông nghiệp. Sau đó, cần có các hoạt động tập huấn kỹ

thuật sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng lực sản xuất, giúp giảm chi phí đầu vào, tiếp cận thị trường tiêu thụ nhằm tăng giá thành sản phẩm. Nhiều hoạt động điển hình đã

được thực hiện như tổ chức tập huấn bảo quản thủy sản - sử dụng hóa chất an toàn trong

chế biến cá khô; nâng cấp đài truyền thanh xã để cung cấp thông tin thị trường đến

người dân; xây dựng trang thông tin về giá cả thị trường; khảo sát thực địa tìm hiểu thị

trường nguyên liệu; tập huấn hướng dẫn sử dụng hóa chất, phân bón hợp lý; bảo quản

sản phẩm sau thu hoạch … Đây là những bước đầu tiên khởi đầu cho các hoạt động

hướng đến hỗ trợ người dân nghèo nông thôn vươn lên thoát nghèo bền vững.

Tạo động lực khuyến khích người nghèo tự vươn lên thoát nghèo. Để việc giảm

nghèo đạt hiệu quả cao hơn và khuyến khích đúng đối tượng, cần có sự phân loại

người nghèo, hộ nghèo bất khả kháng thể thoát nghèo với những đối tượng khác để có

chính sách hỗ trợ. Mỗi nhóm hộ nghèo lại cần có những giải pháp và động lực khác

nhau, hướng tới giảm nghèo bền vững. Những hộ có khả năng thoát nghèo phải có

chính sách để họ vươn lên thoát nghèo, tạo cơ hội việc làm hoặc công việc kinh doanh

phù hợp. Ngược lại, đối với những người lười lao động, không muốn thoát nghèo vì sợ mất trợ cấp cần tạo động lực giảm nghèo từ việc nâng cao nhận thức cá nhân về vai

trò, vị trí của họ trong xã hội, từ đó có ý chí vươn lên thoát nghèo.

Để khuyến khích những hộ nghèo thoát nghèo, thay vì đầu tư cho hộ nghèo, cần thực hiện chính sách kích thích, khen thưởng tập trung vào những người cận nghèo và mới thoát nghèo, hạn chế chính sách cho không, phát không đối với người nghèo.

Hoạch định và quản lý chính sách hỗ trợ cho hộ nghèo đa chiều theo hướng ưu việt hơn. Theo đó, những hộ nghèo, hộ cận nghèo đa chiều thiếu hụt gì thì hỗ trợ cái đó. Việc hỗ trợ này nhằm đáp ứng đúng bản chất của sự nghèo, sự thiếu hụt của người dân. Nhưng trên tất cả, việc thiết kế, xây dựng chính sách hỗ trợ người nghèo cần phải theo hướng tạo ra động lực và khuyến khích hộ nghèo, từ đó làm cho hộ nghèo có ham muốn phấn đấu vươn lên thoát nghèo để nâng cao chất lượng cuộc sống và khẳng định vai trò của mình trong cộng đồng, xã hội.

148

KẾT LUẬN

Với đề tài “Tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo ở Việt

Nam”, luận án đã giải quyết các mục tiêu đề ra, bao gồm:

Hệ thống hóa cơ sở lý thuyết và thực nghiệm về tác động của tăng trưởng kinh

tế theo ngành tới giảm nghèo. Luận án chỉ ra 3 kênh tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến nghèo: tạo việc làm, tăng cường nguồn lực và chuyển dịch cơ cấu kinh

tế ngành. Luận án xác định có 4 yếu tố ảnh hưởng tới tác động của tăng trưởng kinh tế

theo ngành đến giảm nghèo bao gồm mô hình tăng trưởng kinh tế, cấu trúc tăng trưởng

theo ngành, chính sách gắn kết tăng trưởng và giảm nghèo và nhận thức của người

nghèo.

Dựa trên cơ sở lý thuyết, luận án đã phân tích và đánh giá thực trạng tác động

của tăng trưởng kinh tế theo từng ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam bằng cả phân tích

định tính và định lượng. Luận án đã rút ra các kết quả sau:

- Tăng trưởng kinh tế theo ngành có tác động tích cực đến giảm nghèo qua tạo

việc làm và thu nhập, trong đó khu vực nông nghiệp và dịch vụ có tác động tích cực

đến giảm nghèo, khu vực công nghiệp không có ý nghĩa đối với mục tiêu giảm nghèo.

- Người nghèo được mở rộng cơ hội tiếp cận nguồn lực từ tăng trưởng kinh tế

theo ngành và thụ hưởng gián tiếp và trực tiếp lợi ích từ những chính sách giảm nghèo.

Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ về nguồn lực sản xuất lại kém hiệu quả dẫn đến giảm

nghèo kém bền vững. Hệ quả là tình trạng nghèo co cụm và cùng cực ở khu vực nông

thôn chưa được cải thiện tương xứng với thành tựu giảm nghèo chung.

- Tăng trưởng kinh tế theo ngành có tác động tích cực đến giảm nghèo thông qua chuyển dịch cơ cấu ngành trong quá trình công nghiệp hóa. Trong giai đoạn 2010-

2016, tăng trưởng khu vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đều có tác động đến giảm nghèo của quốc gia. Tuy nhiên, khu vực công nghiệp tăng trưởng khiến nghèo đói có xu hướng giảm mạnh nhất, sau đó đến khu vực dịch vụ. Tăng trưởng khu vực nông nghiệp có tác động tiêu cực đến mục tiêu giảm nghèo.

- Trên cơ sở thực trạng tác động và kiểm định ba kênh tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo, luận án đã đề xuất những giải pháp nhằm gắn kết tăng trưởng kinh tế theo ngành tới giảm nghèo ở Việt Nam. Các giải pháp bao gồm: đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với giảm nghèo, hoàn thiện chính sách gắn kết tăng trưởng với giảm nghèo, tăng cường hiệu quả hỗ trợ của các biện pháp giảm nghèo, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế, tăng

149

cường khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản cho người nghèo, khuyến khích sự

tham gia của toàn xã hội vào công cuộc giảm nghèo, nâng cao nhận thức và sự tham gia của người nghèo vào quá trình tăng trưởng.

Tuy nhiên, do những hạn chế về khả năng tiếp cận và khung lý thuyết tổng thể

chưa thực sự đầy đủ, cũng như nguồn số liệu của Việt nam còn hạn chế và thiếu chính xác, nên 3 kênh tác động gián tiếp của các ngành tới giảm nghèo chưa được kiểm định

và phân tích một cách sâu sắc. Do vậy, chưa có các nhận định và giải pháp hiệu quả

đến từng kênh tác động gián tiếp của tăng trưởng ngành đến giảm nghèo.

Trong giới hạn về kiến thức, về khả năng tiếp cận và sử dụng các phương pháp

nghiên cứu và thời gian thực hiện luận án, tôi hy vọng những kết quả nghiên cứu trong

luận án có thể đóng góp phần nhỏ vào những nghiên cứu chung về mối tương quan

giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo tại Việt Nam. Từ đó, các chính sách gắn kết

tăng trưởng với giảm nghèo được hoạch định cụ thể và hiệu quả hơn, hướng tới mục

tiêu xói đói giảm nghèo, phát triển kinh tế xã hội của Việt nam trong tương lai.

150

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Phạm Thu Hằng, Lê Quốc Hội (2017), “Tác động của tăng trưởng kinh tế theo ngành đến giảm nghèo ở Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế Phát triển, Số 240 (II),

tháng 06, tr.2-10.

2. Phạm Thu Hằng (2017), “Tác động của chính sách hỗ trợ đến phúc lợi hộ gia đình Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Số 7 (470), tháng 7, tr.69-78.

3. Phạm Thu Hằng (2017), “Tình hình nghèo đói khu vực tây bắc - Thực trạng và giải pháp”, Kỷ yếu hội thảo khoa học quôc gia: Thực trạng và giải pháp thúc đẩy tăng trưởng hài hòa trong các khu vực doanh nghiệp ở Việt Nam, tháng

9/2017, tr.188- 196.

151

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Allen, C.R. (2004), Progress and poverty in Early Modern Europe, Nuffied

2. Aziaradis, C. and Starchurski, J. (2005), “Handbook of Economic Growth,

College, New Road Oxford, OX1 NF.

3. Balisacan, A., Pernia, E. and Estrada, G.E. (2003),"Economic growth and poverty reduction in Vietnam", ERD Working paper No.42, Manila: Economic

Volume 1A”, ELSEVIER, North Holland, Chapter 5, pp.316.

4. Barro, Robert J. (1996), “Determinants of Economic Growth: A Cross-Country

Research Department, Asian Development Bank

5. Barro, Robert J. (1999), Determinants of Economic Growth: Implications of the

Empirical Study”, National Bureau of Economic Research, Working Paper: 5698.

6. Besley T. and Burgess R. (1998), ”Land reform and poverty reduction and growth: Evidence from India”, DEDPS No. 13, London School of Economics.

7. Bresciani, F. and A. Valdés (2007), Beyond Food Production: The Role of

Global Evidence for Chile, Cuadernos de Economia v.36, n.107:443-478.

8. Cervantes-Godoy, D. and J. Dewbre (2010), “Economic Importance of Agriculture for Poverty Reduction”, OECD Food, Agriculture and Fisheries Working Papers, No. 23, OECD Publishing.

9. Chaudhry, I. S., and Rahman, S. (2009), “The impact of gender inequality in education on rural poverty in Pakistan: An empirical analysis”, European

Agriculture in Poverty Reduction, FAO, Rome.

10. Christiaensen, L. and Todo, Y. (2008), Poverty Reduction during the Rural-Urban

Journal of Economics, Finance and Administrative Sciences, 15, pp.174-188.

11. Christiaensen, L., Demery, L., and Kuhl, J. (2010), “The (Evolving) Role of Agriculture in Poverty Reduction”, Working Paper No. 2010/36, UNU-WIDER.

12. Dollar, D. (2015), Chất lượng thể chế và bẫy tăng trưởng, Chuyên đề nghiên cứu

Transformation – The Role of the Missing Middle, The World Bank Group.

13. Dollar, D. and Kraay, A., (2002), „Growth is good for the poor?‟, Journal of

của PAFTAD.

14. Economic Intelligence Unit (EIU) (2016), Global Forecasting Service, London, EIU.

Economic Growth, 7(3), pp.195-225.

15. Engel, E., (1857), “Die Produktions- und Consumtionsverhältnisse des Königreichs Sachsen”, Zeitschrift des Statistischen Büreaus des Königlich

152

Sächischen Ministeriums des Innern, 8 and 9, (Reprinted in Engel (1895).

16. Fisher, B. and Allan G., (1939), “Production, primary, secondary and tertiary”,

Appendix I, pp. 1–54.

17. Fourastié, J. (1949), Le Grand Espoir du XXe Siècle, Paris: Presses Universitaires de France, Reprinted as „Moderne Techniek en Economische Ontwikkeling‟

Economic Record, 15(1), pp.24-38.

18. Gardner, B.L., (2000), “Economic growth and low incomes in Agriculture”, American Journal of Agricultural Economics, Volume 82, Issue 5, 1 December

(1965), Amsterdam: Het Spectrum.

19. Gollin, D., (2009), “Agriculture as an Engine of Growth and Poverty Reduction: What We Know and What We Need to Know”, A framework paper for the

2000, pp. 1059-1074.

African Economic Research Consortium, Project on “Understanding links

20. Gollin, D., Parente, S. and Rogerson, R. (2007), “The food problem and the evolution of international income levels”, Journal of Monetary Economics, 54(4),

between growth and poverty reduction in Africa”, USA.

21. Goode, R. B. (1959), “Adding to the stock of physical and human capital”,

pp.1230-1255.

22. Hà Văn Hiền và Phạm Hồng Chương (2013), Mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu, NXB Chính trị

American Economic Review, 49(2), pp.147-155.

23. Hansen, G. and Prescott, E., (2002), “Malthus to Solow”, American Economic

quốc gia- Sự thật, Hà Nội, 2013.

24. Hansen, H. and Nguyen, T., (2008), Market, Policy and poverty reduction in Vietnam, Vietnam Culture and Information Pulishing House, Hanoi, 2008.

25. Harris, John R. and Todaro, Michael P. (1970), “Migration, unemployment and development: A two-sector analysis”, American Economic Review, 60(1), pp.126-142.

26. Hoàng Đức Thân và Đinh Quang Ty (2010), Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công

Review, 92(4), pp.1205-1217.

bằng xã hội ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội.

27. Human Development Report, (2016), Work for Human Development, UNDP.

28. Johnson, M., Omilola, B., Flaherty, K., Makombe, T., MacNeil, M. and Horowitz, L., (2015), Monitoring agriculture sector performance, growth and poverty in Africa, Washington DC, USA.

29. Johnston, Bruce F. and Mellor, John W. (1961), “The Role of Agriculture in

153

30. Kaldor, N. (1970), “The Case for Regional Policies”, Scottish Journal of Political Economy, Vol. 18 pp. 337-348, Reprinted in Scottish journal of Political Economy.

31. Karnani A., (2011), Rethinking strategies for business, governments and civil society to reduce poverty, Palgrave MacMillan, NewYork, ISBN: 978-0-230-

Economic Development”, American Economic Review, 51 (4).

32. Khilji, B. A. (2005). Education as a factor of human capital formation in Pakistan

10587-4.

33. Kuznets, S., (1955) “Economic Growth and Income Inequalit”, The American

(1951- 1998): Review, Journal of Agriculture and Social Sciences, 1(2), pp.180-186.

34. Lanjouw, J. and Lanjouw, P., (2001), „The rural non-farm sector: issues and evidence from developing countries‟, The journal of the international association

Economic Review, 45, pp.1-28.

35. Lê Du Phong (chủ biên) (2006), Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Lý luận Chính trị,

of agricultural economics, 26(1), pp.1-23.

36. Le Quoc Hoi (2008), „The linkages between Growth, Poverty and Inequality in Vietnam: An empirical analysis‟, Autralia: School of Economics, University of

Hà Nội.

37. Lê Quốc Hội (chủ biên) (2010), Tác động của tăng trưởng kinh tế đến xóa đói

Adelaide.

38. Lewis, W.A. (1954), „Economic Development with Unlimited Supplies of

giảm nghèo ở Việt Nam, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

39. Ligon, S., and Sadoulet, E., (2008), “Estimating the Effects of Aggregate Agricultural Growth on the Distribution of Expenditures “, World Development

Labour‟, Manchester School, 22(2), pp.139-191.

Report 2008.

40. Loayza, N., and Raddatz C., (2006), “The Composition of Growth Matters for Poverty Alleviation”, Policy Research Working Paper No. 4077, World Bank.

41. Lương Xuân Quỳ (chủ biên) (2015), Tư duy mới về phát triển kinh tế- xã hội Việt

154

42. Matsuyama, K.(2009), “Structural Change in an Interdependent World: A Global the European Economic

Nam trong bối cảnh mới, NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

View of Manufacturing Decline”, Journal of

43. Mellor, J.W. (1979), New Economies of growth, Cornell University Press,

Association, 7(2-3), pp.478– 486.

44. Montalvo, J.G. and Ravallion, M. (2009), “The pattern of Growth and Poverty Reduction in China”, Policy Research Working Paper 5069, World Bank.

45. Moore, T.,(1978), “Why Allow Planners to Do What They Do? A Justification from Economic Theory”, Journal of the American Institute of Planners , Volumn

Ithaca, New York.

46. Ngai, L. and Pissarides C., (2007), “Structural change in a multisector model of

44(4):387-398

47. Ngô Thắng Lợi và Nguyễn Quỳnh Hoa (đồng chủ biên) (2017), Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam: thực trạng và định hướng đến năm 203, NXB Chính trị

growth”, American Economic Review, 97(1), pp.429-443.

48. Ngô Thắng Lợi và Trần Thị Vân Hoa (2016), Động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam- Triển vọng đến năm 2020, NXB Chính trị quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

49. Nguyễn Đăng Bình (2012), Đầu tư phát triển theo hướng tăng trưởng nhanh gắn với giảm nghèo tại Việt Nam trong thời kỳ đến năm 2020, Luận án tiến sĩ, Đại

quốc gia Sự thật, Hà Nội.

50. Nguyễn Kế Tuấn (2016), “Phát triển đất nước thành nước công nghiệp theo

học Kinh tế Quốc dân

51. Nguyễn Khắc Minh (chủ biên) (2002), Các phương pháp phân tích và dự báo

hướng hiện đại”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, 177, tháng 11-2016.

52. Nguyễn Ngọc Toàn và Bùi Văn Huyền (2013), Tái cấu trúc kinh tế Việt Nam: nhìn từ cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế, NXB Chính trị quốc gia- Sự

trong kinh tế, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.

thật, Hà Nội.

53. Nguyễn Thắng, Nguyễn Thị Thu Phương, Trần Ngô Minh Tâm, Lê Đặng Trung và Nguyễn Thị Thu Hằng (2011), “Giảm nghèo ở Việt Nam: thành tựu và thách

155

54. Nguyễn Thị Hoa (2010), Chính sách giảm nghèo ở Việt Nam đến năm 2015,

thức”, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

55. Nguyễn Văn Nam và Ngô Thắng Lợi (2010), Chính sách phát triển bền vững các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam, NXB Thông tin và truyền thông, Hà Nội.

56. Nguyễn Việt Cường, Phùng Đức Tùng và Trần Quang Tuyến (2015), “Nghèo đói của hộ gia đình trong bối cảnh suy giảm kinh tế ở Việt Nam”, Nghiên cứu Kinh

NXB Thông tin và truyền thông, Hà Nội.

57. Nhóm nghiên cứu Ngân Hàng thế giới và Bộ kế hoạch Đầu tư (2016), Việt Nam 2035: Hướng tới thịnh vượng, sáng tạo, công bằng và dân chủ, NXB Hồng Đức.

58. Niên giám thống kê 63 tỉnh/ thành phố các năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014,

tế, số tháng 8.

2015, 2016.

59. Oshima, H. (1993), Strategic processes

in Monsoon Asia’s economic

60. Oxfam and ActionAid, (2010), “Mapping food securities actions at country

development, The Johns Hopkins University Press, Baltimore.

61. Page J. and Shimeles A.,(2014), Aid, employment, and poverty reduction in

level”, United Nation Committee on World Food Securities, Rome.

62. Pradhan, R.P.and Bagchi, T.P., (2001), “Effect of transportation infrastructure on economic growth in India: The VECM approach”, Research in Transportation

Africa, WIDER Working Paper 2014/043.

63. Puyana A., (2011), Economic growth, employment and poverty reduction: A comparative analysis of Chile and Mexico, Working Paper No.78, International Labour Office, Geneva.

64. Ravallion, M. and Datt, G., (1999), “When Is Growth Pro-Poor ? Evidence from the Diverse Experiences of India's States”, Policy Research Working Paper No. 2263, World Bank.

65. Ravallion, M. and Datt, G., (2002), “Is India‟s Economic Growth Leaving the

Economics, Volumn 38 Issue 1, pp.139-148.

Poor Behind?”, Journal of Economic Perspectives, Volume16 No.3: pp.89–108.

66. Rodrick, D., McMillan M. and Gallo, V., (2014), „Globalization, structural change, and productivity growth, with an update on Africa‟, World Development, 63, pp.11-32.

67. Rostow, W. (1960), The Stages of Economic Growth: A Non-Communist

156

68. Santos, M. E. (2009), „Human capital and the quality of education in poverty trap model oxford poverty & human development initiative‟, Working paper No.30

Manifesto, Cambridge, UK: Cambridge Univ. Press.

69. Schultz, T. W. (1961), „Investment in human capital‟, American Economic

ISSN 2040-8188 ISBN 978-1-907194-10-8.

70. Suryahadi, A., Suryadarma, D. and Sumarto, S., (2008), „The effects of location and sectoral components of economic growth on poverty: Evidence from

Review, 51(1), pp.1-17.

71. The Global Economy (2017), Global Innovation Index in Vietnam.

72. Tô Trung Thành (2016), Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2015: Trên bậc

Indonesia‟, Journal of Development Economics, 89 (1), pp.109-117.

73. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2010,2012,2014,2016), Điều tra mức sống hộ gia

thềm hội nhập mới, NXB Chính trị Quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

74. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2010-2016), Báo cáo điều tra lao động việc làm

đình các năm 2010, 2012, 2014, 2016, Hà Nội.

75. Tổng cục Thống kê Việt Nam (2010-2016), Niên giám thống kê các năm 2010,

các năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, Hà Nội.

76. Trần Nguyễn Tuyên (2010), Gắn kết tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã

2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, Hà nội.

77. Trần Quang Tuyến (2017) “Đói nghèo, bất bình đẳng và mức sống dân cư cấp xã

hội, NXB Chính trị quốc gia.

78. Trần Thọ Đạt (2010), Giáo trình Mô hình tăng trưởng kinh tế, Đại học Kinh tế

ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số tháng 4.

79. Trần Thọ Đạt (2010), Tăng trưởng kinh tế thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, NXB Đại

quốc dân, NXB Đại học Kinh tế quốc dân.

80. Trần Thọ Đạt và Tô Trung Thành (2018), Đánh giá kinh tế Việt Nam thường niên 2017: Tháo gỡ rào cản đối với sự phát triển của doanh nghiệp, NXB Đại học

học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.

Kinh tế Quốc dân.

81. Tran, T. Q. (2015a), “Nonfarm employment and household income among ethnic minorities in Vietnam”, Economic Research-Ekonomska Istraživanja, 28(1), 703-

157

82. Tran, T. Q. (2016). “Income sources and inequality among ethnic minorities in the Northwest region, Vietnam”, Environment, Development and Sustainability,

716. [SSCI], Taylor & Francis, UK.

18(4), 1239-1254. doi: 10.1007/s10668-015-9700-8 [SCIE], Springer

83. Trường Đại học Kinh tế Quốc Dân, (2017), Kinh tế Việt Nam 2016- Tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và vai trò Nhà nước kiến tạo

Netherlands.

84. Viện Năng suất Việt Nam (2010-2016), Báo cáo năng suất Việt Nam năm 2010,

phát triển, NXB Đại học Kinh tế Quốc dân.

85. Vollrath, T., Gehlhar, M. and Hallahan, A., (2009), “Bilateral import protection, free trade agreements, and other factor influencing trade flows in agricultural and

2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016.

86. Vũ Thị Vinh (chủ biên) (2014), Tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo ở Việt Nam

clothing”, Journal of Agricultural Economics, 60(2), pp.298–317.

87. Warr, P. (1999), Well-being and the workplace, In D. Kahneman, E. Diener, & N. Schwarz (Eds.), Well-Being: The Foundations of Hedonic Psychology (pp.

hiện nay, NXB Chính trị Quốc gia- Sự thật, Hà Nội.

88. Warr, P.G. and Wang, W.T. (1999), „Poverty, inequality and economic growth in Taiwan, The political Economy of Taiwan‟s Development into the 21st Century‟, in The Political economy of Taiwan's development into the Twenty-first

392-412) New York: Russell Sage Foundation.

Century:Essays in memory of John C.H. Fei., Ranis, G., Hu, S.C. & Chu,

89. Watts, H. (1968), An Economic Definition of Poverty, In: Moynihan, D.P., Ed.,

Y.P.(eds.), Cheltenham, UK: Edward Elgar.

90. World Bank (2004, 2012, 2016), Báo cáo thường niên các năm 2004, 2012, 2016.

91. World Bank (2017), World Development Indicators, from

On Understanding Poverty, Basic Books, New York.

https://data.worldbank.org/products/wdi

158

PHỤ LỤC

Variable

Obs

Mean

Std. Dev.

Min

Max

13.82302

10.18113

0

50.8

441

15.17011

6.481566

5.1

41.6

441

58.65847

3.908916

47.3

71.3

441

92.87285

6.498919

59.2

98.7

438

Bảng 1: Mô tả các biến sử dụng trong mô hình (1) - FE và mô hình (3) - SE

26.81908

16.31604

9.657281

87.28212

434

POV Labedu Labwk LIT

.4498896

.286059

.14896

1.498909

438

-1.203235

9.731597

-35.8921

33.07322

441

5.497163

16.55183

-38.30127

102.9013

441

4.169729

12.53573

-28.72494

70.32856

441

10.37506

5.835224

.093789

44.20239

438

URB

3.353568

2.85377

.020219

21.39903

441

TL AGRwk INDwk SERwk GDPbq

1417.346

1224.02

296.6

8146.3

441

STRUC

37.80555

17.03207

6.45764

89.73092

425

POP

Lab_NA

Bảng 2.1: Kết quả kiểm định Breusch và Pagan Lagrangian cho mô hình (1) - FE

Var sd = sqrt(Var)

92.62739 9.624312 POV

7.682338 2.771703 e

25.00127 5.000127 u

Test: Var(u) = 0 chibar2(01) = 472.94 Prob > chibar2 = 0.0000

159

RE

Difference

SE

FE

-.606597

-.1200115

.

-.7266085

-.0577456

.03828

.0103845

-.0194657

-.0054679

.0052865

.0055856

-.0001814

-.0277011

.0210445

.0077927

-.0066566

.0416091

-.1432441

.

-.101635

Bảng 2.2: Kết quả kiểm định Hausman cho mô hình (1) – FE

-.5133398

.1527188

.

-.3606209

-.988471

.4235059

.

-.5649651

1.857099

-1.013804

.

.8432953

GDPbq AGRwk INDwk SERwk URB

Labedu Labwk TL

b = consistent under Ho and Ha; obtained from xtreg

B = inconsistent under Ha, efficient under Ho; obtained from xtreg

Test: Ho: difference in coefficients not systematic

chi2(8) = (b-B)'[(V_b-V_B)^(-1)](b-B)

= 52.33

Prob>chi2 = 0.0000

Bảng 4.1: Các biến sử dụng trong mô hình (2) giai đoạn 2010 - 2012

9.399 62304.05 117787.2

-2539

8552550

Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max

9.399 29824.31 45391.8

0

799500

Tổng thu nhập cả năm

9.399 15590.48 101683.2

-38400 8522550

Lương tháng

9.289 16675

50127.81

0

1831500

Thu nhập từ HĐSX nông nghiệp

9.399 28581.62 46121.78

288

1203113

Thu nhập từ HĐSX phi nông nghiệp

9.399 40420.4

203036.3

8242200

0

Tổng chi tiêu

9.399 3115.969 7773.569

260000

0

Đầu tư cho hoạt động SXKD

9.399 3040.847 9340.483

455500

0

Chi cho y tế & chăm sóc sức khỏe

9.399 3276.981 10755.99

321300

0

Chi cho giáo dục

9.399 5679.08

33487.05

1092000

0

Chi sinh hoạt

9.399 2190.883 1550.753

89

26343

Chi mua đồ dùng lâu bền

Chi mua lương thực thực phẩm

160

Bảng 4.2: Các biến sử dụng trong mô hình (2) giai đoạn 2012 – 2014

9.399 59133.53 71794.63

-5784

2159300

Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max

9.399 7138.908 10450.15

212579.2

0

Tổng thu nhập cả năm

9.399 58901.38 120833.3

2511400

0

Lương tháng

9.259 39276.25 40605.06

-15500 417490

Thu nhập từ HĐSX nông nghiệp

9.399 24654.34 53820.92

306

1912300

Thu nhập từ HĐSX phi nông nghiệp

9.399 28872.59 87958.86

2447970

0

Tổng chi tiêu

9.399 3059.658 7248.578

201280

0

Đầu tư cho hoạt động SXKD

9.399 2460.438 5720.927

70000

0

Chi cho y tế & chăm sóc sức khỏe

9.399 3344.906 12627.53

452630

0

Chi cho giáo dục

9.399 2800.56

10322.11

341000

0

Chi sinh hoạt

9.399 1727.174 1683.9

97

17189

Chi mua đồ dùng lâu bền

Chi mua lương thực thực phẩm

Bảng 4.3: Các biến sử dụng trong mô hình (2) giai đoạn 2014 – 2016

Variable Obs Mean Std. Dev. Min Max

9.399 67946.56 559565.2

Tổng thu nhập cả năm -8655.75 1.81e+08

9.399 6285.883 24374.65 0

Lương tháng 2574374

9.399 30735.03 491085.3

Thu nhập từ HĐSX nông nghiệp -18172 1.81e+08

9.298 37211.54 261708.7 0

Thu nhập từ HĐSX phi nông nghiệp 2.94e+07

9.399 50373.37 636487.6 310

Tổng chi tiêu 1.81e+08

9.399 27704.77 242055.8 0

Đầu tư cho hoạt động SXKD 2.93e+07

9.399 2795.225 12424.11 0

Chi cho y tế & chăm sóc sức khỏe 1600000

9.399 237.8228 2633.454 0

Chi cho giáo dục 380000

9.399 2967.583 12845.39 0

Chi sinh hoạt 2013780

9.399 15856.89 73944.44 0

Chi mua đồ dùng lâu bền 8755810

9.399 2690.874 4275.883 93

Chi mua lương thực thực phẩm 247742