VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ HUY NGỌC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỪ THỰC TIỄN VÙNG TÂY NAM BỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI - năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HÀ HUY NGỌC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỪ THỰC TIỄN VÙNG TÂY NAM BỘ
Ngành: Chính sách công
Mã số: 9340402
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Bùi Nhật Quang
HÀ NỘI - năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng dùng để bảo vệ lấy
bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan các thông tin và số liệu trích dẫn trong luận án đều đã được
chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày……tháng…….năm 2020
i
Tác giả luận án Hà Huy Ngọc
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ của nhiều cơ quan và cá nhân trong cũng như ngoài cơ sở đào tạo. Nhân
dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới:
- Ban Giám đốc Học viện và Phòng Quản lý đào tạo, Học viện Khoa học xã hội.
- Lãnh đạo và thầy cô giáo Khoa Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội.
- Các cán bộ của Cục Biến đổi khí hậu, Bộ TN&MT; Tổng cục Thủy lợi,
Tổng cục PCTT; các chuyên gia, nhà khoa học thuộc Hội đồng tư vấn của UBQG
về BĐKH; cán bộ đang công tác ở sở TN&MT của một số địa phương vùng TNB.
- Ban chủ nhiệm 2 đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Cơ chế, chính sách liên kết
kinh tế nội vùng và liên vùng đối với vùng Tây Nam Bộ theo hướng phát triển bền
vững”, mã số TNB.ĐT/14-19/X1; “Các giải pháp cơ bản nhằm phát triển bền vững
vùng Tây Nam Bộ trong bối cảnh mới”, mã số KHCN-TNB.ĐT/14-19/X19. Đã hỗ
trợ, tạo điều kiện cho NCS tham gia khảo sát, điều tra thực tế tại các địa phương
vùng TNB và tham khảo một số kết quả nghiên cứu.
- Lãnh đạo Viện Địa lí Nhân văn, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình.
Đặc biệt, tôi bày tỏ lòng kính trọng tới giáo viên hướng dẫn khoa học PGS.TS.
Bùi Nhật Quang, thầy đã luôn động viên, tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình nghiên cứu thực hiện luận án.
Do tiếp cận BĐKH dưới góc độ khoa học chính sách công có phạm vi nghiên
cứu rộng và có nhiều vấn đề mới nẩy sinh, đồng thời có nhiều ý kiến chưa đồng
thuận, vì vậy luận án không thể trách khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả rất
mong nhận được sự lượng thứ và những ý kiến đóng góp của quý thầy, cô giáo và
độc giả.
Hà Nội, ngày……tháng……năm 2020
Nghiên cứu sinh
ii
Hà Huy Ngọc
LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................................. v
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG NƯỚC NGOÀI .................................................... vii
DANH MỤC BẢNG ............................................................................................................ ix
DANH MỤC HÌNH ............................................................................................................... x
DANH MỤC HỘP ............................................................................................................... xii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1.1. Các công trình nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài về thực hiện chính sách
ứng phó với biến đổi khí hậu ............................................................................................... 12
1.2. Các nghiên cứu đã công bố trong nước liên quan đến luận án ..................................... 21
1.3. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề
thuộc đề tài luận án chưa được các công trình công bố nghiên cứu giải quyết ................... 35
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ
VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
2.1. Chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ..................................................................... 37
2.2. Thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ..................................................... 51
2.4. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về thực hiện chính sách
ứng phó biến đổi khí hậu ..................................................................................................... 64
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...................................................................................................... 75
CHƯƠNG 3
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Ở VÙNG TÂY NAM BỘ
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách ứng phó biến đổi khí hậu
ở vùng Tây Nam Bộ ............................................................................................................. 77
iii
MỤC LỤC
3.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến vùng Tây Nam Bộ ............................................. 91
3.3. Các bước thực hiện chính sách ứng phó biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ.............. 100
3.4. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu
ở vùng Tây Nam Bộ ........................................................................................................... 129
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................................... 143
CHƯƠNG 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VÙNG TÂY NAM BỘ
4.1. Bối cảnh mới và các vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện chính sách
ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ ........................................................... 145
4.2. Một số quan điểm nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách
ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ ........................................................... 150
4.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách
ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ ........................................................... 151
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 .................................................................................................... 165
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 167
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 171
PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 195
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Danh mục chữ viết tắt Tiếng việt
AN-QP An ninh - Quốc phòng
BC&TT Báo chí và Tuyên truyền
BCĐ Ban Chỉ đạo
BĐCM Bán đảo Cà Mau
BĐKH Biến đổi khí hậu
BTB Bắc Trung Bộ
BVMT Bảo vệ môi trường
CSHT Cơ sở hạ tầng
CTMTQG Chương trình Mục tiêu Quốc gia
ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH Đồng bằng sông Hồng
DHNTB Duyên hải Nam Trung Bộ
DHPĐ Duyên hải phía Đông
ĐNB Đông Nam Bộ
DNXH Doanh nghiệp xã hội
ĐTM Đồng Tháp Mười
GTVT Giao thông vận tải
HĐND Hội đồng nhân dân
HLKHXH Hàn lâm Khoa học xã hội
HTX Hợp tác xã
KH&CN Khoa học và Công nghệ
KH&ĐT Kế hoạch và Đầu tư
KHCN&MT Khoa học công nghệ và Môi trường
KHKTTV Khoa học Khí tượng thuỷ văn
KHKTTV&BĐKH Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu
KNK Khí nhà kính
KT-XH Kinh tế - xã hội
v
LĐTB&XH Lao động thương binh và Xã hội
NBD Nước biển dâng
NCS Nghiên cứu sinh
NLTK&HQ Tiết kiệm năng lượng và hiệu quả
NLTT Năng lượng tái tạo
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
PTBV Phát triển bền vững
QHTL Quy hoạch thủy lợi
QLNN Quản lý Nhà nước
TGLX Tứ giác Long Xuyên
TN&MT Tài nguyên và Môi trường
TNB Tây Nam Bộ
TNTN Tài nguyên thiên nhiên
vi
UBND Ủy ban nhân dân
Danh mục chữ viết tắt tiếng nước ngoài
Cụm từ tiếng Anh Cụm từ tiếng Việt
ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển Châu Á
AFD Cơ quan Phát triển Pháp Agence Française de Développement
Aus AID Cơ quan Phát triển Quốc tế Úc Australian Agency for International Development
BCRF Quỹ Phục hồi khí hậu Bangladesh
Bangladesh Climate Resilience
BUR1 The First Biennial Update Report Báo cáo cập nhật hai năm một lần lần thứ nhất
CBA Community-based Adaptation Thích ứng dựa vào cộng đồng
CCCEP
Climate Change and Coastal Ecosystems in Mekong Delta Vietnam Program Biến đổi khí hậu và các hệ sinh thái ven biển vùng đồng bằng sông Cửu Long
CDM Cơ chế phát triển sạch Clean Development Mechanism
CIEM Central Institute for Economic Management Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
COP Conference of Parties Hội nghị Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu
CTF Climate Trust Fund Quỹ Ủy nhiệm khí hậu
EbA Ecosystem-based Adaptation Thích ứng dựa vào hệ sinh thái
ETS Emission Trading Scheme Cơ chế buôn bán phát thải
EU European Union Liên minh châu Âu
FTA Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do
GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội
GIZ Tổ chức Phát triển quốc tế Đức Gesellschaft für Internationale Zusammenarbeit
GRDP Tổng sản phẩm trên địa bàn Gross Regional Domestic Product
vii
GreenID Trung tâm Phát triển sáng tạo xanh Green Innovation and Development Centre
ICMP Integrate Coastal Management Programme Chương trình Quản lý tổng hợp vùng ven biển
Quỹ Phát triển nông nghiệp quốc tế IFAD International Fund For Agricultural Development
IMHEN Insitute of Meteorology - Hydrology and Environment Viện Khoa học Khí tượng - Thuỷ văn và Môi trường
IPCC Intergovernmental Panel on Climate Change Uỷ ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu
Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản JICA
Japan International Cooperation Agency
KACCC Korea Adaption Center for Climate Change Trung tâm Thích ứng với biến đổi khí hậu của Hàn Quốc
NAS National climate Adaptation Strategy Chiến lược Quốc gia về thích ứng với biến đổi khí hậu
NDC Nationally Determined Contribution Đối tác Đóng góp quốc gia tự quyết định
Tổ chức phi Chính phủ NGO Non-governmental Organization
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA
Official Development Assistance
SP-RCC Support Program to Respond to Climate Change Chương trình Hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu
SRD The Centre for Sustainable Rural Development Trung tâm Phát triển nông thôn bền vững
TARA Transformative Adaptation Research Alliance Nghiên cứu khung thích ứng biến đổi
UNDP United Nations Development Programme Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
UNFCCC United Nations Framework Công ước Khung về Biến đổi Khí hậu của Liên hợp quốc Convention on Climate Change
World Bank Ngân hàng Thế giới WB
viii
World Wide Fund For Nature Quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên WWF
Bảng 1. Số lượng mẫu phiếu điều tra theo tỉnh ..................................................................... 8
Bảng 2.1. Mức độ nghiêm trọng của BĐKH, thiên tai theo vùng ở Việt Nam ................... 50
Bảng 3.1. Số lượng văn bản có liên quan đến BĐKH được ban hành trong giai đoạn 2008-
2017 ..................................................................................................................................... 78
Bảng 3.2. Phân loại văn bản chính chính sách ứng phó với BĐKH .................................... 79
Bảng 3.3. Số lượng văn bản có liên quan đến BĐKH được ban hành ở vùng TNB trong
giai đoạn 2008-2018 ............................................................................................................ 82
Bảng 3.4. Phân loại văn bản chính sách đặc thù ứng phó với BĐKH ở vùng TNB ............ 82
Bảng 3.5. Các văn bản được ban hành nhằm thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB giai
đoạn 2008-2018 ................................................................................................................. 106
Bảng 3.6. Phân loại văn bản thực hiện chính chính ứng phó với BĐKH ở vùng TNB ..... 107
Bảng 3.7. Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BĐKH ở các địa phương ....................... 113
Bảng 3.8. Các dự án thuộc CTMTQG ứng phó với BĐKH ở vùng TNB trong giai đoạn
2011 - 2017 ........................................................................................................................ 115
Bảng 3.9. Các dự án thuộc Chương trình hỗ trợ ứng phó với BĐKH vùng TNB giai đoạn
2011-2017 .......................................................................................................................... 116
Bảng 3.10. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách ứng phó BĐKH ở vùng TNB ............ 133
Bảng 4.1. Kết quả phân tích SWOT trong thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB...... 151
ix
DANH MỤC BẢNG
Hình 3.1. Năng lực cán bộ thực hiện chính sách BĐKH ..................................................... 86
Hình 3.2. Sự tham gia của các bên trong thực hiện chính sách BĐKH ............................... 87
Hình 3.3. Các tiểu vùng sinh thái - xã hội vùng Tây Nam Bộ ............................................. 93
Hình 3.4. Diễn biến mặn tại trạm điển hình trên sông Cửa Tiểu,
sông Cửa Đại giai đoạn sau năm 2012 so với trước đây ..................................................... 96
Hình 3.5. Diễn biến mặn tại trạm điển hình trên sông Cổ Chiên,
sông Hậu giai đoạn sau sau năm 2012 so với trước đây ...................................................... 96
Hình 3.6. Tổng thiệt hại do sạt lở bờ sông, bờ biển TNB giai đoạn 2010-2018.................. 99
Hình 3.7. Ước tính thiệt hại do thiên tai và BĐKH ở vùng Tây Nam Bộ
giai đoạn 2010-2018 ............................................................................................................ 99
Hình 3.8. Đánh giá về ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH đến một số ngành/lĩnh vực .......... 100
Hình 3.9. Đánh giá về ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH đến các tiểu vùng ........................ 100
Hình 3.10. Số lượng hoạt động tuyên truyền BĐKH theo loại hình
giai đoạn 2011-2017 .......................................................................................................... 109
Hình 3.11. Các nội dung tuyên truyền, tập huấn về ứng phó với BĐKH .......................... 109
Hình 3.12. Đánh giá về các nội dung tuyên truyền ứng phó BĐKH
đã được tập huấn tại các tiểu vùng ..................................................................................... 110
Hình 3.13. Các hình thức tuyên truyền về BĐKH ............................................................. 110
Hình 3.14. Đánh giá về các hình thức tuyên truyền ứng phó BĐKH đã được tập huấn ... 111
Hình 3.15. Đánh giá chung về mức độ hiệu quả của chương trình tuyên truyền,
tập huấn kiến thức về BĐKH ............................................................................................. 111
Hình 3.16. Đánh giá về mức độ hiệu quả ứng phó BĐKH đã được tập huấn ................... 111
Hình 3.17. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH
ở tiểu vùng Duyên hải phía Đông ...................................................................................... 117
Hình 3.18. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH
ở tiểu vùng Tứ giác Long Xuyên ....................................................................................... 117
Hình 3.19. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH
ở tiểu vùng Đồng Tháp Mười ............................................................................................ 117
x
DANH MỤC HÌNH Hình 2.1. Khung lý thuyết về vùng sinh thái - xã hội .......... Error! Bookmark not defined.
Hình 3.20. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH
ở tiểu vùng Bán đảo Cà Mau ............................................................................................. 117
Hình 3.21. Đánh giá sự phân công nhiệm vụ giữa chính quyền các cấp ........................... 126
Hình 3.22. Đánh giá sự phối hợp giữa chính quyền các cấp ở các tiểu vùng vùng TNB .. 126
Hình 3.24. Đánh giá về nội dung chính sách ứng phó với BĐKH ở các tiểu vùng ........... 129
Hình 3.25. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó BĐKH ....................................... 130
Hình 3.26. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó BĐKH ở các tiểu vùng ............. 131
Hình 3.27. Tương quan giữa BĐKH và tác động tới tình hình KT-XH ............................ 131
Hình 3.28. Chỉ số Năng lực ứng phó BĐKH và các thành phần ở các tiểu vùng .............. 132
Hình 3.29. Tương quan giữa năng lực và hiệu quả ứng phó BĐKH ................................. 132
xi
Hộp 3.1: Tình hình sạt lở ở vùng TNB giai đoạn 2010-2018 .............................................. 98
Hộp 3.2: Thỏa thuận hợp tác về quản lý nước ở vùng tứ giác Long Xuyên
giữa An Giang và Kiên Giang, Kiên Giang và tỉnh Campot (Campuchia) ....................... 108
Hộp 3.3: Tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP ................................................ 112
Hộp 3.4: Trùng lặp mục tiêu và thiếu đồng bộ của chính sách BĐKH ............................. 137
Hộp 3.5: Hoạt động phối hợp của BCĐ 158 ...................................................................... 139
xii
DANH MỤC HỘP
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài luận án
Nhiều nghiên cứu và báo cáo phát triển toàn cầu đã đưa ra thông điệp BĐKH
là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI. BĐKH
tác động nghiêm trọng đến KT-XH và an ninh môi trường thế giới. Việt Nam được
xếp vào nhóm 10 quốc gia đã, đang và sẽ chịu tác động nặng nề nhất bởi BĐKH
[253]. BĐKH đang tác động xấu đến tất cả các ngành, lĩnh vực và vùng miền ở Việt
Nam, trong đó điển hình là lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng và đánh bắt
thuỷ, hải sản và các vùng đồng bằng, ven biển. Những vùng ĐBSH, ĐBSCL, BTB
và DHTNB được dự báo sẽ chịu những rủi ro cao nhất do BĐKH gây ra [91, tr.29,
39]. Trong thời gian qua, BĐKH đã ảnh hưởng rất lớn đến KT-XH-MT và sinh kế
người dân trong vùng ĐBSCL (hay còn gọi là vùng TNB). Theo kịch bản BĐKH và
NBD nếu mực NBD 100cm, sẽ có khoảng 38,9% diện tích có nguy cơ bị ngập.
Trong đó, các tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất là Hậu Giang (80,62%), Kiên Giang
(76,86%) và Cà Mau (57,69%) [24]. Nếu như kịch bản NBD cao nhất xảy ra, mà
không có các hoạt động ứng phó thì toàn bộ diện tích vùng TNB sẽ hoàn toàn bị
ngập thời gian dài trong năm và thiệt hại tài sản ước tính lên tới 17 tỷ USD [176].
Để ứng phó với những tác động bất lợi của BĐKH, Chính phủ đã xây dựng
và cải cách một loạt thể chế, chính sách từ Trung ương đến địa phương. Đầu tiên,
để thực hiện nghĩa vụ của một quốc gia thành viên tham gia UNFCCC, Việt Nam
đã hoàn thành xây dựng và đệ trình đến Ban Thư ký UNFCCC Thông báo quốc
gia lần thứ nhất vào tháng 12/2003, Thông báo quốc gia lần thứ hai vào tháng
12/2010 và Báo cáo cập nhật hai năm một lần lần thứ nhất vào năm 2014, lần thứ
2 năm 2018. Sau khi Thỏa thuận Paris được thông qua tại Hội nghị các bên liên
quan lần thứ 21 (COP21) tháng 12/2014, Việt Nam đã ký Thỏa thuận Paris cùng
hơn 170 quốc gia khác vào ngày 22/4/2016 tại trụ sở của Liên hiệp quốc ở New
York, Hoa Kỳ. Để thực hiện thỏa thuận này, Việt Nam đã ban hành Quyết định số
2053/QĐ-TTg ngày 28 tháng 10 năm 2016 Phê duyệt Kế hoạch thực hiện Thỏa
thuận Paris về BĐKH. Bên cạnh đó, hệ thống khung pháp luật, chính sách ứng
phó với BĐKH của Việt Nam đã được hình thành một cách nhất quán ở các cấp
độ từ cao tới thấp. Cụ thể, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XI Ban chấp hành
Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 về chủ
1
động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Ngoài ra, trong số các luật được Quốc hội thông qua, vấn đề ứng phó với BĐKH
cũng được đề cập (như: Luật Bảo vệ môi trường, 2014; Luật Sử dụng năng lượng
tiết kiệm và hiệu quả, 2010; Luật Đa dạng sinh học; Luật Tài nguyên nước, 2012;
Luật Phòng tránh thiên tai, 2013; Luật Khí tượng thủy văn, 2016…). Ngoài ra,
Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành một số văn bản liên quan đến BĐKH như:
Chỉ thị 35/2005/CT-TTg về việc Tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto thuộc
Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH cùng Kế hoạch tổ chức thực hiện
Nghị định thư giai đoạn 2007-2010; Chương trình MTQG ứng phó với BĐKH,
2008; Chiến lược quốc gia về BĐKH, 2011; Kế hoạch hành động quốc gia về
BĐKH giai đoạn 2012-2020; Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia, 2012... và
một số quyết định khác thuộc các lĩnh vực liên quan… [91, tr.29-39].
Riêng đối với vùng TNB ngoài việc thực hiện những chính sách của Trung
ương, trong thời gian qua Chính phủ, bộ/ngành đã xây dựng, ban hành nhiều chính
sách đặc thù gắn với ứng phó với BĐKH cho vùng như ban hành các quy hoạch
vùng, quy hoạch ngành có tính đến yếu tố ứng phó với BĐKH: quy hoạch tổng thể
phát triển KT-XH vùng ĐBSCL đến năm 2020; quy hoạch nông nghiệp, nông thôn;
quy hoạch thủy lợi, quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 trong điều kiện BĐKH. Đặc biệt, Chính phủ ban hành Nghị quyết
120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long
thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghị quyết nhằm mục đích kiến tạo một tầm nhìn
phát triển dài hạn, bền vững vùng TNB, dựa trên nguyên tắc tôn trọng các giá trị
sinh thái tự nhiên, con người của vùng. Đồng thời, ưu tiên phân bổ vốn đầu tư cho
các chương trình, nhiệm vụ, dự án cấp bách về ứng phó với BĐKH ở các địa
phương vùng TNB. Nhờ quá trình triển khai thực hiện các chính sách ứng phó với
BĐKH ở các địa phương và đã góp phần mang lại hiệu quả trong việc thích ứng và
giảm nhẹ ảnh hưởng của BĐKH ở vùng TNB. Tuy nhiên, bên cạnh một số thành
tựu đã đạt được, trong quá trình triển khai thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH
ở vùng TNB, đang gặp một số khó khăn, bất cập như sau: (i) các chính sách BĐKH
chủ yếu do cấp Trung ương hoạch định, ban hành nên trong thực tiễn thực thi ở
vùng TNB đã xuất hiện nhiều điểm chưa phù hợp; (ii) quy trình thực hiện chính
sách BĐKH còn gặp nhiều hạn chế (ban hành văn bản thực hiện chính sách; tuyên
truyền chính sách; phối hợp thực hiện chính sách; năng lực thực hiện chính sách của
2
các chủ thể ở địa phương); (iii) các nhiệm vụ, dự án để thực hiện chính sách được
thiết kế chưa dựa trên các đặc trưng sinh thái - xã hội của vùng ở TNB và thiếu sự
gắn kết lâu dài với các chương trình, quy hoạch, kế hoạch ưu tiên của Chính phủ,
bộ/ngành. Bên cạnh đó, trong bối cảnh phát triển mới, vùng TNB cũng đang đứng
trước những cơ hội và đối diện với nhiều thách thức từ sự phát triển thiếu bền vững
ở nội tại, các thách thức đến từ bên ngoài.
Mặt khác, từ tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, cũng cho thấy đã có rất nhiều nghiên cứu công bố về ứng phó với BĐKH ở vùng TNB. Tuy nhiên, các vấn đề về thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH vẫn còn nhiều khoảng trống về: lý thuyết, phương pháp, nội dung…để luận án nghiên cứu.
Do vậy, để có cơ sở khoa học nhằm đề xuất những giải pháp để hoàn thiện việc thực hiện các chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB, nghiên cứu sinh lựa chọn nghiên cứu thực hiện luận án: “Thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu từ thực tiễn vùng Tây Nam Bộ”. 2. Mục đích và nhiệm vụ, giả thuyết nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Luận án có mục tiêu tổng quát là nghiên cứu được luận cứ khoa học cho việc
đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung thực hiện những nhiệm vụ cơ bản
sau đây:
- Phân tích làm rõ được một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về thực
hiện chính sách ứng phó với BĐKH.
- Đánh giá được thực trạng thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.
- Trên cơ sở đó, đề xuất được các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện
việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.
2.3. Giả thuyết nghiên cứu
Từ việc khái quát thực tiễn và đánh giá sơ lược một số công trình nghiên cứu
liên quan, một số câu hỏi nghiên cứu được đặt ra:
1) Cơ sở lý luận và thực tiễn cho nghiên cứu cho nghiên cứu thực hiện chính
sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB là gì?
2) Kết quả của việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB hiện
nay như thế nào?
3) Những yếu tố ảnh hưởng và các bất cập nảy sinh trong thực hiện chính sách
3
ứng phó với BĐKH ở vùng TNB hiện nay là gì?
4) Để hoàn thiện việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB
trong giai đoạn tới cần những giải pháp gì?
Xuất phát từ những câu hỏi nghiên cứu đã nêu, việc nghiên cứu thực hiện đề
tài luận án là có ý nghĩa. Kết quả của luận án không chỉ góp phần hoàn thiện thực
hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB. Mà còn là cơ sở, là kinh nghiệm
cho nghiên cứu chính sách ứng phó BĐKH ở các vùng khác trong cả nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH
ở vùng TNB.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung nghiên cứu của luận án: luận án tập trung nghiên cứu
việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH (chính sách thích ứng và chính sách
giảm nhẹ) với các khâu: ban hành văn bản thực hiện chính sách; thông tin, tuyên
truyền chính sách; phối hợp giữa các chủ thể để thực hiện; triển khai thực thi chính
sách; kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách).
- Phạm vi về không gian: luận án sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề thực hiện
chính sách ứng phó với BĐKH ở 13 tỉnh/thành phố vùng TNB. Trong đó tập trung
nghiên cứu sâu, điều tra, khảo sát ở 8 tỉnh/thành phố: Bến Tre, Tiền Giang, Long
An, Đồng Tháp, Tp Cần Thơ, An Giang, Cà Mau, Sóc Trăng.
- Phạm vi thời gian: luận án sẽ nghiên cứu việc thực hiện chính ứng phó với
BĐKH hậu từ năm 2008 trở lại đây (Chính phủ ban hành Chương trình mục tiêu quốc
gia về BĐKH năm 2008). Các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB được đề xuất cho giai đoạn 2020-2030.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
- Luận án sử dụng phương pháp luận nghiên cứu chính sách để nghiên cứu vấn
đề thực hiện chính sách BĐKH. Với phương pháp tiếp cận này, nó chỉ ra 2 định
hướng chủ đạo khi nghiên cứu về chính sách, đó là:
+ Khi đánh giá thực hiện chính sách cần phải đặt trong điều kiện tham chiếu
với cả chu kỳ chính sách, từ khâu hoạch định đến tổ chức triển khai chính sách. Nếu
chỉ bó hẹp đánh giá một khâu nào đó trong chu kỳ sẽ không thấy hết được những
4
mặt mạnh, những bất cập và nguyên nhân của những bất cập trong chính sách.
Trong đó: i) đối với khâu hoạch định chính sách, khi đánh giá cần phải tổng hợp
được các văn bản chính sách ứng phó BĐKH đã ban hành, từ đó xác định được mục
tiêu, đối tượng và nội dung chính sách; phân tích, ghi nhận những mặt được và bất
cập trong từng nội dung. ii) Đối với khâu triển khai thực hiện chính sách, cần đánh
giá cách thức tổ chức triển khai chính sách, kết quả triển khai và những tác động
của chính sách đến đối tượng thụ hưởng chính sách từ đó đánh giá được những mặt
được, bất cấp và nguyên nhân của những bất cập.
+ Những mặt được và bất cập trong quá trình thực hiện chính sách có thể bắt
nguồn ở cả khâu hoạch định chính sách, giải quyết đơn lẻ sẽ không hiệu quả. Vì thế,
cần phải có sự đánh giá tổng hợp để có được cái nhìn tổng thể về những mặt được
và những bất cấp nảy sinh, cũng như nguyên nhân của những bất cấp để làm cơ sở
đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách cho chu kỳ mới.
- Luận án còn sử dụng cách tiếp cận liên vùng: TNB là một vùng lãnh thổ rộng
lớn gồm 13 tỉnh, có đường biên giới với Campuchia và tiếp giáp với ĐNB. Việc
nghiên cứu tổng thể về vùng TNB hướng tới PTBV vừa phải chú ý đến tính tổng thể
của toàn vùng hoặc phân vùng, cũng như lưu ý tới việc làm sáng tỏ những đặc điểm
riêng của mỗi tiểu vùng, trên cơ sở đó đề xuất các định hướng giải pháp, mô hình
PTBV phù hợp với từng tiểu vùng. Mặt khác, trong cách tiếp cận liên vùng, cần đặc
biệt chú ý đến các loại tương tác trong từng tiểu vùng và giữa các tiểu vùng, đồng
thời vừa chú ý đến tính khu biệt, tính chồng lắp của các tiểu vùng. Bên cạnh đó,
việc nghiên cứu vùng TNB cũng cần phải đặt trong mối liên hệ với ĐNB và vùng
Tây Nguyên, cũng như Campuchia - nước có chung đường biên giới với Việt Nam.
- Luận án sử dụng cách tiếp cận vùng dựa trên hệ thống hệ sinh thái - xã hội.
Phân vùng chức năng sinh thái-xã hội là công việc quan trọng góp phần PTBV
vùng. Mục đích của việc phân chia tiểu vùng chức năng sinh thái - xã hội trong
nghiên cứu này là xác định vùng tương đồng quan trọng về sinh thái, KT-XH, nhận
diện những biểu hiện và tác động của BĐKH.
- Ngoài ra luận án còn sử dụng cách tiếp cận kết hợp từ trên xuống - dưới
lên: thường gọi là phương pháp tiếp cận “top - down, bottom - up”, hay gọi là tương tác cộng đồng - cơ quan chức năng.
5
+ Cách tiếp cận từ dưới lên: tập trung vào cấp độ địa phương, cộng đồng, tình huống cụ thể và những ảnh hưởng ngắn hạn; thường được đánh giá định tính và có sự tham gia của cộng đồng. Đánh giá tính dễ bị tổn thương cần đầy đủ thông tin
về KT-XH, phản ánh mức độ phơi bày và tính dễ bị tổn thương cũng như những lựa chọn địa phương, các mục tiêu và khả năng thích ứng với BĐKH.
+ Tiếp cận từ trên xuống: là phân tích các quan điểm, chủ trương và chính
sách BĐKH xuất phát từ chính quyền trung ương, cơ quan QLNN ở địa phương được vận dụng một cách hợp lý và hiệu quả, sát với thực tế như thế nào.
- Do lĩnh vực nghiên cứu chính sách BĐKH mang tính hệ thống, liên ngành,
liên lĩnh vực, nên luận án sẽ sử dụng cách tiếp cận tích hợp của nhiều ngành khoa học khác nhau như kinh tế học, xã hội học, văn hóa học, dân tộc học, luật học,
chính sách công, khoa học môi trường, khí hậu học, địa lý học, khu vực học…Việc
sử dụng phương pháp tiếp cận tích hợp hệ thống và kiến thức liên ngành nhằm nhận
diện, phân tích, đánh giá hiện trạng hệ thống chính sách BĐKH, cũng như đề xuất
quan điểm và giải pháp bổ sung và hoàn thiện chính sách ứng phó với BĐKH ở
vùng TNB.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thu thập, xử lý thông tin thứ cấp
Luận án sẽ tổng hợp và phân tích các nguồn tài liệu trong và ngoài nước:
- Tập trung phân tích các quan điểm về chính sách và thực hiện chính sách
ứng phó với BĐKH.
- Thu thập thông tin và phân tích kinh nghiệm thực hiện chính sách BĐKH của một số quốc gia, lãnh thổ có điều kiện tương đồng với Việt Nam và rút ra bài
học cho vùng TNB.
- Thu thập các văn bản chính sách về BĐKH từ các cơ quan ban hành cơ chế
chính sách liên quan đến ứng phó với BĐKH: Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT, Bộ Tài
chính, Bộ KH&ĐT.
- Thu thập thông tin, tài liệu thống kê, báo cáo của các sở, ban, ngành tại các
tỉnh về luận án tiến hành khảo sát.
- Đồng thời, nghiên cứu sẽ thừa kế các kết quả nghiên cứu trước đây đã đề cập
trong tổng quan nghiên cứu đề tài...
4.2.2. Phương pháp nghiên cứu đánh giá chính sách
Nghiên cứu chính sách là một quá trình mang tính hệ thống thường gồm các
hoạt động sau: (i) Phân tích và đánh giá các điểm bất hợp lý, hiệu quả và tính khả
thi của các chính sách nhằm đạt được các mục tiêu đề ra; (ii) Đánh giá và phân tích
ảnh hưởng của chính sách; (iii) Đưa ra các khuyến nghị và đề xuất các lựa chọn
6
nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.
Đề tài sẽ rà soát các chính sách liên quan đến ứng phó với BĐKH ở trung ương và địa phương, từ đó xác định những bất cập, thiếu hụt của chính sách. Đề tài
sẽ đánh giá những ảnh hưởng và bất cập, thiếu hụt của chính sách theo chu kỳ thực
hiện: trước - trong và sau thực hiện chính sách [211].
4.2.3. Phương pháp thu thập, xử lý thông tin sơ cấp 4.2.3.1. Khảo sát thực tế
Chính sách ứng phó với BĐKH được thực hiện ở 13 tỉnh/thành phố vùng
TNB. Do đặc thù về sinh thái - tự nhiên và KT-XH ở mỗi địa phương, mỗi tiểu
vùng ST-XH khác nhau, dẫn đến việc thực hiện chính sách cũng có những điều
khác nhau. Do hạn chế về các nguồn lực thực hiện, nên luận án lựa chọn 8 địa
phương để tiến hành khảo sát: Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp, Tp Cần
Thơ, An Giang, Cà Mau, và Sóc Trăng. Tại mỗi địa phương khảo sát, các thông tin
thu thập chung bao gồm: tình hình KT-XH, các văn bản ban hành của địa phương
nhằm thực hiện chính sách về BĐKH của địa phương.
4.2.3.2. Phương pháp phỏng vấn sâu
Luận án sẽ lựa chọn một số chuyên gia sâu về BĐKH (cán bộ hoặch định
chính sách, nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn chính sách BĐKH; một số nhà quản lý ở
địa phương tiến hành khảo sát, để trao đổi và phỏng vấn về: (i) thực hiện chính sách
ứng phó với BĐKH hiện nay; (ii) các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện
chính sách BĐKH; (iii) các bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách;
và (iv) các đề xuất kiến nghị nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách BĐKH.
4.2.3.3. Phương pháp điều tra theo bảng hỏi
- Cách chọn mẫu khảo sát
+ Để đảm bảo tính đại diện cho các địa phương mẫu khảo sát trải rộng trên
phạm vi 8/13 tỉnh/thành phố: Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp, Tp Cần
Thơ, An Giang, Cà Mau, Sóc Trăng.
+ Do một trong những mục tiêu chính của khảo sát là tập trung vào vấn đề phân
tích thực hiện chính sách ứng phó BĐKH nên người trả lời phỏng vấn được lựa chọn
là các cán bộ công chức của các sở/ngành của 8 địa phương vùng TNB. Luận án sử
dụng phương pháp chọn mẫu có chủ đích ở 7 sở/ngành (Sở TN&MT, KH&ĐT, NN&PTNT, GTVT, Xây dựng, Công thương, LĐ&TBXH1) và ngẫu nhiên người trả
1 Sở TN&MT là cơ quan chủ trì và thực trực của BCĐ 158 cấp tỉnh/thành, 6 sở còn lại có vai trò chính trong Ban Chỉ đạo thực hiện Kế hoạch hành động ứng phó BĐKH tại các tỉnh/thành vùng TNB.
7
lời phiếu từ danh sách cán bộ, công chức của 7 sở thuộc 8 tỉnh vùng TNB.
+ Quy mô mẫu được lựa chọn là 305 phiếu. Một quy mô mẫu hợp lý vừa đảm
bảo mức độ ý nghĩa thống kê của số liệu vừa phù hợp với phạm vi, quy mô và của
luận án.
Bảng 1. Số lượng mẫu phiếu điều tra theo tỉnh
Sở
Cà Mau 7 7 7 5 5 5 5
Tp Cần Thơ 8 5 6 5 6 5 6
Long An 5 4 10 5 5 5 5
Bến Tre 5 5 8 5 5 3 4
Tiền Giang 5 6 5 4 6 5 5
Đồng Tháp 7 3 5 5 9 1 5
Sóc Trăng 7 6 5 3 5 5 6
An Giang 7 8 9 5 5 2 5
Sở TN&MT Sở KH&ĐT Sở NN&PTNT Sở GTVT Sở Xây dựng Sở Công thương Sở LĐ-TBXH Tổng
305
- Nội dung điều tra mẫu
Để có thể thu được một bức tranh toàn diện nhất về thực trạng thực hiện chính
sách ứng phó với BĐKH của vùng TNB, nội dung của khảo sát sẽ bao hàm từ các
biểu hiện của BĐKH cho tới các giải pháp ứng phó, và các vấn đề về thực hiện
chính sách. Nội dung chính của khảo sát được chia thành các vấn đề được liệt kê cụ
thể dưới đây: Đánh giá về biểu hiện và ảnh hưởng của BĐKH đến phát triển KT-
XH. Đánh giá về thực trạng xây dựng kế hoạch triển khai, thực hiện các chính sách
ứng phó BĐKH. Đánh giá về các hoạt động tuyên truyền chính sách ứng phó
BĐKH. Đánh giá về phân công, phối hợp giữa các chủ thể có liên quan trong việc
thực hiện chính sách ứng phó BĐKH. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó
BĐKH. Các kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ứng phó BĐKH.
4.2.4. Phương pháp phân tích SWOT
Đây là phương pháp đánh giá tổng hợp các yếu tố định lượng và định tính có
ảnh hưởng đến thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB, trên cơ sở phân tích tổng
hợp cả 4 mặt: điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ của vùng để xem xét tiềm
nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện chính sách BĐKH ở vùng trong giai đoạn tới
dựa trên cơ sở phân tích lợi thế so sánh vùng.
4.2.5. Phương pháp xây dựng bộ chỉ số đánh giá
Để phân tích sâu hơn các vấn đề về BĐKH, luận án xây dựng một số chỉ số
tổng hợp, để đánh giá như: chỉ số đánh giá biểu hiện; chỉ số năng lực ứng phó
8
BĐKH; chỉ số hiệu quả ứng phó BĐKH. (xem phụ lục 3)
4.2.6. Kỹ thuật sử dụng
- Ngoài các phương pháp phân tích định tính, đề tài sẽ sử dụng một số kỹ thuật
toán và kinh tế lượng để phân tích số liệu.
- Phần mềm chính được sử dụng cho các thống kê là STATA.
4.2.7. Khung phân tích của luận án
Từ mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi, cách tiếp cận và phương pháp
Khung khổ lý luận về thực hiện chính sách BĐKH
H K Đ B h c á s
Thực hiện chính sách BĐKH
h n í h c n ệ i h c ự h t n ế đ
g n ở ư h h n ả ố t n â h n c á C
Chỉ tiêu kỳ vọng của thực hiện chính sách
Ban hành văn bản thực hiện chính sách
Truyền thông chính sách BĐKH
Phối hợp tổ chức thực hiện chính sách
Tổ chức triển khai thực thi chính sách
Kiểm tra, giám sát thực hiện chích sách
á i g h n á đ , h n á s o S
Đánh giá và kết quả của việc thực hiện chính sách BĐKH
Chỉ tiêu thực tế đạt được
Bất cập, hạn chế trong thực hiện chính sách BĐKH
Bối cảnh phát triển mới
Quan điểm và giải pháp - Quan điểm - Nhóm giải pháp chung - Nhóm giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách thích ứng BĐKH - Nhóm giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách giảm nhẹ ảnh hưởng BĐKH
nghiên cứu, luận án xây dựng khung phân tích như sau:
9
Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2020
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 5.1. Những đóng góp mới của luận án về học thuật và lý luận
Việc thực hiện luận án sẽ có những đóng góp mới sau đây về lý luận và học thuật: - Hệ thống hóa được các quan điểm về chính sách công và đưa ra được khái niệm
về chính sách ứng phó với BĐKH và thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH.
- Phân tích, làm rõ được các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách BĐKH (nhân tố bản thân chính sách, nhân tố khách quan, nhân tố chủ quan), 4 tiêu chí đánh giá chính sách và quy trình thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH, bao gồm 5 bước thực hiện.
- Xây dựng được phương pháp đánh giá quá trình thực hiện chính sách ứng phó BĐKH, để từ đó chỉ ra rằng, hoàn thiện thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH không chỉ nhằm để giải quyết những bất cập trước mắt mà còn định hướng cho việc thực hiện chính sách theo hướng chủ động thích ứng với BĐKH phù hợp với đặc điểm của từng vùng, miền, địa phương trong điều kiện bối cảnh mới. 5.2. Những đóng góp mới của luận án về thực tiễn
Bên cạnh các đóng góp mới về phương diện lý luận và học thuật, luận án còn
có những đóng góp mới về thực tiễn, như sau:
- Việc nghiên cứu của luận án đã góp phần làm rõ vấn đền thực hiện chính sách đối với một lĩnh vực cụ thể là BĐKH: từ xây dựng kế hoạch triển khai chính sách; tuyên truyền quá trình triển khai chính sách; tổ chức thực hiện chính sách; phân công, phối hợp giữa các chủ thể trong việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH; kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách.
- Luận án đã góp phần cụ thể hóa việc thực hiện chính sách ứng phó với
BĐKH cho một vùng, địa phương cụ thể - ở đây là vùng TNB.
- Đồng thời luận án đã hình thành nguồn thông tin mới về thực trạng chính sách ứng phó với BĐKH và kết quả triển khai thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH vùng TNB để các cơ quan QLNN về BĐKH ở Trung ương, địa phương và các nhà nghiên cứu, giảng dạy có thêm nguồn thông tin hữu ích để tham khảo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án đã hệ thống hoá, làm rõ hơn về mặt lý thuyết về chính sách công, các biểu hiện của chính sách, thực hiện chính sách; vai trò của thực hiện chính sách trong quy chu trình chính sách; phân tích các chủ thể của thực hiện chính sách.
10
- Luận án đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống khung lý luận về thực hiện chính sách thích ứng với BĐKH, bao gồm các khái niệm, nội hàm, các nội dung quy trìn thực hiện chính sách.
- Luận án xây dựng và hoàn thiện hệ thống khung lý luận về các yếu tố tác
động đến thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH.
- Trên cơ sở phân tích, hệ thống hoá thực tiễn kinh nghiệm thực hiện chính
sách ứng phó với BĐKH ở một số quốc gia, luận án cũng hé mở nhiều hàm ý cho
việc hoàn thiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Dựa trên những phân tích, đánh giá thực trạng và tác động của việc thực hiện
chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB, luận án có những đóng góp thực tiễn
như sau:
- Việc luận án nghiên cứu một cách hệ thống về thực hiện chính sách ứng phó
với BĐKH, lại nghiên cứu ở một khu vực cụ thể là vùng TNB sẽ góp phần làm rõ
các vấn đề mang tính thực tiễn về chính sách BĐKH. Trong bối cảnh vùng đang hội
nhập quốc tế, xu hướng liên kết vùng và ảnh hưởng của cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư.
- Luận án làm rõ được các yếu tố mang tính đặc thù ảnh hưởng đến thực hiện
chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.
- Luận án góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết của các cơ quan quản lý Nhà
nước về BĐKH ở cấp Trung ương và các địa phương vùng TNB hiện nay, và vai trò
của việc thực hiện chính sách trong ứng phó với BĐKH.
- Cuối cùng luận án đưa ra cơ sở khoa học để các nhà hoạch định chính sách
về BĐKH tham khảo cho quá trình hoàn thiện chính sách BĐKH ở Việt Nam nói
chung và vùng TNB nói riêng.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án sẽ bao gồm các chương cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu về thực hiện chính sách ứng phó với
biến đổi khí hậu
Chương 2: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu
Chương 3: Thực trạng thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ở
vùng Tây Nam Bộ
Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách ứng
11
phó với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ.
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1.1. Các công trình nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài về thực hiện chính
sách ứng phó với biến đổi khí hậu
Chính sách và thực hiện chính sách về BĐKH đã được các nhà khoa học, và
các tổ chức quốc tế quan tâm nghiên cứu từ rất sớm, sau đây là một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu:
Các nghiên cứu về tác động của BĐKH ở vùng Tây Nam Bộ Báo cáo của ADB (1994) đưa ra nhận định vùng ĐBSCL của Việt Nam nằm
trong nhóm có nguy cơ tổn thương cao do tác động của hiện tượng BĐKH và NBD
[188]. Tiếp đến báo cáo của UNFCCC (2003) đã đưa ra những bằng chứng cho thấy
trong suốt 30 năm vừa qua, mực nước quan trắc dọc theo bờ biển Việt Nam có dấu
hiệu gia tăng, ước tính đến năm 2050 mực nước biển sẽ gia tăng thêm 33cm và đến
năm 2100 sẽ tăng thêm 1m. Với nguy cơ này, vùng ĐBSCL của Việt Nam sẽ chịu
tổn thất mỗi năm chừng 17 tỉ USD (chiếm 80% tổng sản phẩm nội địa GDP).
Nghiên cứu của Reiner và các cộng sự (2004) dựa trên mô hình toán thuỷ lực đã đưa ra phỏng đoán các diễn biến ngập lũ ở TNB trong thời đoạn tháng 8 đến tháng 11 với kịch bản mực NBD 20 cm và 50 cm. Kết quả cho thấy đường đồng mức ngập lũ sẽ mở rộng tương ứng với mức nước dâng 20 cm và 50 cm sẽ là 25 km và 50 km về phía hạ lưu. Ở giai đoạn đầu của lũ (tháng 8), mực nước trung bình vùng Đồng bằng sẽ gia tăng thêm 14,1cm (khi NBD 20cm) và 32,2 cm (khi NBD 50 cm). Đến kỳ đỉnh lũ (tháng 10), mức gia tăng mức ngập tương ứng này sẽ là 11,9 cm và 27,4 cm. Và nếu như Chính phủ và chính quyền các địa phương vùng TNB không có những chính sách nhằm ứng phó thì BĐKH sẽ ảnh hưởng rất lớn đến KT-XH, sinh kế cộng đồng dân cư [262, tr.89-107]. Báo cáo của Nicholls và Lowe (2006) đã tính toán khi mực nước biển dâng cao 40 cm, số nạn nhân của lũ trên thế giới hiện nay là 13 triệu người sẽ tăng lên 94 triệu người. Khoảng 20% trong số họ sống ở vùng Đông Nam Á, trong đó vùng bị ảnh hưởng nặng nhất là vùng TNB và tiếp đến là vùng ĐBSH [238, tr.1073, 1095].
12
Cũng theo kết quả phỏng đoán các BĐKH ở TNB từ các mô hình toán của Peng và cộng sự (2004) cho thấy, trong khoảng thập niên 2030-2040, nhiệt độ trung bình cũng như nhiệt độ lớn nhất và nhỏ nhất trong vùng TNB đều gia tăng, phổ biến tăng khoảng 2C. Khi nhiệt độ thấp không khí tăng lên 1C, năng suất lúa sẽ giảm đi khoảng 10% [244, tr.9971, 9975].
Nổi bật là các nghiên cứu của IPCC (2007, 2012, 2013) bên cạnh dự báo và
cập nhật các kịch bản về BĐKH và NBD trên toàn cầu, và các vùng ở Việt
Nam,Nghiên cứu cũng đã tập trung phân tích những tác động, tác động tiềm tàng
của BĐKH, NBD đến kinh tế, xã hội, môi trường, đặc biệt là sinh kế người dân.
Chuỗi các báo cáo của IPCC đã đưa ra khuyến cáo ba vùng châu thổ được xếp trong
nhóm cực kỳ nguy cơ do sự BĐKH là vùng hạ lưu sông Mê Kông (Việt Nam), sông
Ganges - Brahmaputra (Bangladesh) và sông Nile (Ai Cập) [227].
Dựa trên những kết quả dự báo của IPCC, nghiên cứu của Dasgupta và các
cộng sự (2007) cũng cho thấy những kết quả tương tự [253, tr.4136]. Việt Nam nằm
trong nhóm 5 quốc gia chịu ảnh hưởng cao nhất do BĐKH, và hai đồng bằng,
ĐBSH và ĐBSCL bị chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Khi NBD cao 1m, ước chừng
5,3% diện tích tự nhiên, 10,8% dân số, 10,2% GDP, 10,9% vùng đô thị, 7,2% diện
tích nông nghiệp và 28,9% vùng đất thấp sẽ bị ảnh hưởng. Rủi ro kép ở vùng TNB
(bao gồm cả hạn hán và lũ lụt) sẽ làm gia tăng với các trận mưa có cường độ cao và
các ngày hạn kéo dài [219, tr.45-59]. Dựa vào kết quả ghi lại ở trạm đo thuỷ triều ở
Việt Nam cho thấy trung bình mỗi năm mực nước biển ở Việt Nam đã tăng trong
khoảng 1,75-2,56mm/năm.
Báo cáo phát triển con người của UNDP (2008) đã chỉ ra rằng BĐKH là thách
thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ XXI và những tác động của BĐKH đang
gây tổn thương trong một thế giới bất bình đẳng, như: các tổn thương về sản xuất
nông nghiệp và an ninh lương thực; tổn thương nguồn nước; tổn thương hệ sinh
thái; gia tăng nghèo đói và di cư, gây tổn thương sức khoẻ. Đồng thời, trên cơ sở
đó, báo cáo đưa ra những biện pháp về thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH
như: xác định các tiêu chí giảm nhẹ, đánh giá các bon, vai trò quản trị của Chính
phủ và tầm quan trọng của hợp tác quốc tế [168].
Nghiên cứu của Susmita Dasgupta (2007) cũng cho chúng ta thấy tác động của BĐKH và NBD. Các kết quả nghiên cứu cho thấy 0,31% (194.309 km2) vùng lãnh
thổ của 84 nước đang phát triển bị ảnh hưởng khi mực NBD cao 1m. Việt Nam
đứng đầu danh sách 10 nước bị ảnh hưởng về dân số, khu vực đô thị và đất ngập
nước (khoảng 10%) [253, tr.4136].
Tiếp đó UNDP (2011) một lần nữa tổ chức này đã khẳng định các hoạt động của con người với nhịp độ và quy mô chưa từng thấy, đã và đang biến đổi môi
13
trường tự nhiên và góp phần làm BĐKH. Báo cáo cũng đã chỉ rõ các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương dưới tác động của BĐKH, gồm: cư dân miền núi, cộng đồng
ở châu thổ, người dân đảo, các dân tộc bản địa, người nghèo thành thị. BĐKH sẽ ảnh hưởng đến nhóm đối tượng này gây tổn thương kinh tế, sức khoẻ, sinh kế bị đe
doạ và đặc biệt là tạo nên luồng di cư [169]. Hay nghiên cứu của Bingxin Yu,
Tingju Zhu, Clemens Breisinger, Nguyen Manh Hai (2013) đã đánh giá ảnh hưởng
của BĐKH đến sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam và các ứng phó chính sách của ngành nông nghiệp để giảm thiểu tác động bất lợi của thiên tai và BĐKH [268].
Nghiên cứu của Lê Anh Tuấn và Suppakorn Chinvanno (2011), đã cho thấy
các tác động và tác động tiềm tảng của BĐKH đến tài nguyên đất, tài nguyên nước,
đe doạ an ninh lương thực ở vùng TNB [261, tr.205-217]. Đồng thời, các tác giả
cũng đề xuất những biện pháp ứng phó hiệu quả ở khu vực này đó là: tập trung ứng
phó dựa vào cộng đồng và hệ sinh thái, tập trung vào các giải pháp phi công trình.
Và tổ chức IMHEN và UNDP (2015) đã xuất bản ấn phẩm đánh giá, phân tích một
cách đầy đủ các biểu hiện, tác động của thời tiết cực đoan đến môi trường tự nhiện,
KT-XH và PTBV đến các vùng ở Việt Nam. Sự biến đổi các hiện tượng thời tiết
cực đoan trong tương lai do BĐKH và quản lý rủi ro thiên tai ở Việt Nam [176].
Trước diễn biến và ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng của BĐKH đến vùng
TNB, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tổ chức quốc tế về vấn đề này,
dưới các cách tiếp cận khác nhau: an ninh nguồn nước, ANLT, sụt lún... Trong
nhiều năm qua, nguồn nước sông Mê Kông vừa mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế nông nghiệp và thuỷ sản vùng TNB nhưng cũng là yếu tố hạn chế cho vấn đề dân
sinh trong khu vực. Nhờ nguồn nước dồi dào, khối lượng phù sa lớn và điều kiện
khí hậu tương đối thuận lợi, trong hàng thập niên vừa qua, vùng đồng bằng này là
nơi sản xuất sản lượng lương thực và thực phẩm lớn nhất nước. Mỗi năm sông Mê Kông chuyển về vùng đồng bằng này từ 450-475 tỷ m3 nước và tải khoảng 160 triệu tấn phù sa (Thorne et al., 2011). Mặt khác, nếu đem chia khối lượng nước và phù sa
trung bình của sông Mê Kông cho 18 triệu người dân sống ở đây thì mỗi năm, mỗi người dân có thể nhận từ 25.000-30.000m3 nước (gấp 5-6 lần lượng nước nội địa trung bình cho mỗi đầu người Việt Nam, vào khoảng là 4.500m3) và gần 8,5 tấn phù sa. Sông Mê Kông cũng mang lại một nguồn lợi cá tự nhiên rất lớn cho người dân Việt Nam, có thể cung cấp khoảng 35kg cá tự nhiên/năm cho mỗi người trong vùng [223]. Hay nghiên cứu của Simon Benedikter (2014) phân tích về vai trò của nước và sự thay đổi trong cách thức quản lý nguồn nước ở vùng TNB từ năm 1975 trở lại
đây [195, tr.547-587].
14
Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả do nhà địa chất P. S. J. Minderhoud đứng đầu, đến từ trường Đại học Utrech Hà Lan (2019) đã sử dụng phương pháp
mô hình số và mô hình 3D trên toàn ĐBSCL đã tính toán lún đất dựa trên phương pháp InSAR và đánh giá tương quan sụt lún đất với khai thác nước dưới đất.
ĐBSCL hiện có độ cao trung bình cực thấp, cao hơn mực nước biển khoảng 0,8m.
Mức cảnh báo này thấp hơn nhiều so với giả định trước đó khoảng 2,6m. Nguyên
nhân của hiện tượng trên là do khai thác nước ngầm quá mức, kết hợp với sự gia tăng mực nước biển do BĐKH, đã làm cho nền đất bị sụt lún, giảm trầm tích trên bề
mặt, gây gia tăng tính dễ bị tổn thương do lũ lụt và nước biển dâng do bão và cuối
cùng ĐBSCL có thể phải đối diện với nguy cơ bị ngập lụt toàn bộ [233].
Các công trình nghiên cứu về chính sách và thực hiện chính sách ứng phó
với BĐKH
Các vấn đề nghiên cứu về chính sách ứng phó với BĐKH đã được các nhà
khoa học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm, tập trung vào các lĩnh vực giảm khí thải
KNK, chính sách tài chính, chính sách năng lượng, xây dựng chiến lược giảm nhẹ
rủi ro khí hậu. Sau đây là các công trình tiêu biểu:
Trong nghiên cứu của (Ian Burton, Elizabeth Malone, Saleemul Huq, 2004) đã
đưa ra khung chính sách thích ứng được xây dựng trên 4 nguyên tắc chính, làm nền
tảng để có thể phát triển các hành động tích hợp thích ứng với BĐKH: (i) sự thích
ứng với BĐKH ngắn hạn và các hiện tượng cực đoan đóng vai trò là điểm xuất phát
để giảm tính dễ bị tổn thương đối với sự thay đổi khí hậu lâu dài; (ii) sự thích nghi xảy ra ở các cấp khác nhau trong xã hội, bao gồm cả cấp địa phương; (iii) chính
sách thích ứng và các biện pháp cần được đánh giá trong một bối cảnh phát triển; và
(iv) chiến lược thích ứng và quá trình thực hiện của các bên liên quan cũng quan
trọng không kém [198].
Nghiên cứu của (Godefroy Grosijean, 2014) đã tập trungphân tích các cuộc
tranh luận nên hay không nên cải cách Hệ thống thương mại phát thải giữa các quốc
gia ở EU [218]. Để làm rõ hơn nhận định trên nghiên cứu của (Jos Delbeke và Peter
vis, 2016) đã giải thích các chính sách về khí hậu của EU, phương pháp tiếp cận, đánh giá cũng như cách lựa chọn các công cụ, mức độ hiệu quả của chính sách để
thích ứng với những thách thức phía trước [205]. Các tác giả cuốn sách chia sẻ không có một chính sách duy nhất nào có thể giảm phát thải KNK, mà phải kết hợp các chính sách lại với nhau một cách chặt chẽ - đây là một thách thức lớn đặt ra cho EU trong giai đoạn tới. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng đề cập đến những nỗ lực của
EU để giảm phát thải KNK và đưa ra những chính sách đầy tham vọng khi muốn
15
tách rời phát thải và tăng trưởng kinh tế. BĐKH không phải là vấn đề của riêng EU, mà là của tất cả các quốc gia, các khu vực. Chính vì vậy, cần sự chung tay góp sức
của tất cả các nước; hiệu quả và chi phí của các chính sách sẽ là chìa khóa để xác định tốc độ tiến bộ của mỗi nước.
Trong kỳ đàm phán thứ 4 về việc Anh rời khỏi Liên minh châu Âu giai đoạn
2016-2017, Ủy ban Chiến lược Kinh doanh, công nghiệp và năng lượng của Hạ
viện Anh đã đưa ra báo cáo [265]. Báo cáo đã đề cập đến những bất lợi và khó khăn về chính sách năng lượng và BĐKH, đặc biệt là Hệ thống Thương mại Phát thải của
EU (ETS) khi Anh rời khỏi liên minh. Ông Greg Clark Clark - Bộ trưởng Ngoại
giao cũng đã thừa nhận Anh có lợi khi hợp tác với các đối tác của EU, và khuyến
nghị Chính phủ nên tìm cách tránh gây gián đoạn cho ngành năng lượng và chương
trình nghị sự về BĐKH trong nước. Chính phủ nên duy trì tư cách thành viên của
EU ETS cho đến ít nhất là năm 2020. Cuối cùng nghiên cứu đưa ra những lo ngại
trong tương lai các tiêu chuẩn của Anh sẽ khác xa với các nước châu Âu… Báo cáo
cũng đề cập đến nhiều chính sách quan trọng liên quan đến chính sách năng lượng
và BĐKH là chiến lược dài hạn và không phụ thuộc vào các cuộc đàm phán Brexit.
Đề cập đến chính sách quốc gia nghiên cứu của MESTI (2013) đã nhấn mạnh
chính sách ứng phó với BĐKH của Chính phủ Ghana trong bối cảnh ưu tiên PTBV,
hướng tới những cơ hội và lợi ích của một nền kinh tế xanh để đối phó với những
thách thức của BĐKH. Chính sách của Ghana được chia làm 3 giai đoạn: (i) trình
bày chính sách BĐKH quốc gia, phân tích tình hình hiện tại và đưa ra mục tiêu và tầm nhìn rõ ràng; (ii) giai đoạn hai trình bày chi tiết hơn các sáng kiến và chương
trình được xác định trong Chính sách biến đổi khí hậu quốc gia dưới hình thức
Chương trình hành động để thực hiện; và (iii) giai đoạn ba sẽ trình bày chi tiết các
chương trình và hành động về BĐKH được xác định trong giai đoạn hai, có thể
được lồng ghép và gắn với thời hạn và ngân sách theo kế hoạch hoạt động hàng
năm của các đơn vị thực hiện. Ba mục tiêu của chính sách là thích ứng có hiệu quả,
xã hội phát triển và giảm nhẹ. Để giải quyết các vấn đề thích ứng, bốn lĩnh vực
thích ứng đã được Ghana xác định, đó là (i) vấn đề năng lượng và cơ sở hạ tầng, (ii) quản lý tài nguyên thiên nhiên, (iii) nông nghiệp và an ninh lương thực, và (iv)
phòng ngừa thảm hoạ và phản ứng với thảm họa [257].
Bên cạnh đó, các nghiên cứu của các tác giả Jung, Huicheul & Sungwoo Jeon & Dong Kun Lee (2012), Kim Jong-Jin (2013), Norton Rose Fulbright (2011), và Niederhafner, Stefan (2014) tựu chung lại, cho thấy nhận thức rõ về mối đe dọa của
BĐKH cũng như trách nhiệm của mình đối với vấn đề này [224], [229], [240],
16
[252]. Chính phủ Hàn Quốc đã triển khai thực hiện các chính sách theo cách tiếp cận từ trên xuống (top-down) đối với ứng phó với BĐKH. Bộ máy điều hành công
tác ứng phó với BĐKH được thành lập, bao gồm các cơ quan: Ủy ban Chính phủ ứng phó với biến đổi khí hậu được thành lập vào tháng 4/1998; Trung tâm Thích
ứng với Biến đổi Khí hậu của Hàn Quốc (KACCC) được thành lập vào tháng
7/1999; Ủy ban đặc biệt về biến đổi khí hậu trực thuộc Quốc hội được thành lập vào
tháng 3/2001; Lực lượng đặc nhiệm của các doanh nghiệp sử dụng nhiều năng lượng được thành lập vào tháng 11/2004 để tìm cách giảm phát thải KNK. Để tạo
cơ sở pháp lý cho các cơ quan điều hành hoạt động, tháng 4/2010, Hàn Quốc ban
hành Luật khung về các bon thấp và tăng trưởng xanh. Luật này quy định chế độ bắt
buộc báo cáo về lượng khí thải, đồng thời đưa ra một khung khổ cho quy trình pháp
lý cần thiết để đạt được cam kết theo Thỏa thuận Cophenhagen. Luật khung này
được xếp vị trí cao hơn các luật khác liên quan đến các bon thấp và là đạo luật toàn
diện đề cập đến tất cả các vấn đề có liên quan đến năng lượng, BĐKH và PTBV.
Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu các biện pháp ứng phó với BĐKH vào
năm 1999. Kế hoạch Ứng phó toàn diện đã được điều chỉnh 3 lần trong thập niên
2000 và đến này đã có kế hoạch thứ năm.
Hay các nghiên cứu của Okazumi, Toshio (2008), và Notomo, Takuya
(2013), những báo cáo trên đã tập trung phân tích vào thực hiện chính sách ứng phó
với BĐKH của Nhật Bản, trong đó, Chính phủ Nhật đã chú trọng vào xây dựng một
xã hội các bon thấp, giảm phát thải trong lĩnh vực giao thông, xây dựng toà nhà xanh, năng lượng tái tạo, năng lượng xanh [259], [254].
Công trình của Diana Carney (2003) đã tập trung tóm tắt các quan điểm tranh luận dựa trên nhiều cách tiếp cận về sinh kế bền vững và hàm ý cách tối đa hóa đóng góp của nó trong việc giảm nghèo. Khi đánh giá về giá trị của sinh kế bền vững, tác giả cho rằng việc sử dụng mô hình sinh kế bền vững có thể mở ra nhiều cơ hội cho người nghèo để bàn luận về các vấn đề cơ sở của sự nghèo nàn [199].
Hay các nghiên cứu thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH của Hà Lan, là
quốc gia có phần rất lớn diện tích lãnh thổ thấp hơn mực nước biển, nên rất dễ chịu
ảnh hưởng tiêu cực với các hiệu ứng do BĐKH gây ra. Để PTBV, người Hà Lan
luôn phải tìm cách đương đầu với các thách thức ngày càng hiện hữu của BĐKH và
NBD. Thống kê cho thấy tổn thất tài chính của Hà Lan do lũ lụt, hạn hán và đuối
nhiệt trong giai đoạn đến năm 2050 sẽ vào khoảng 71 tỷ euro [206]. Để giảm thiểu
tác động của BĐKH, chính sách của chính phủ Hà Lan tập trung vào giải quyết các
vấn đề sau đây: thích ứng với BĐKH (bằng cách thực hiện các biện pháp ngăn ngừa
lũ lụt và bảo vệ nguồn cung cấp nước ngọt, sản xuất nông nghiệp, môi trường và
17
sức khoẻ…); giảm phát thải KNK (bằng cách chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch
sang các nguồn năng lượng bền vững, như: năng lượng mặt trời và năng lượng gió,
chăn nuôi gia súc...) [255]. Tháng 12/2016, Chính phủ Hà Lan cho ra mắt Chiến
lược Quốc gia về thích ứng với BĐKH (NAS). Chiến lược dựa trên nghiên cứu mới
nhất trong nhiều lĩnh vực và so sánh các kịch bản khác nhau này giới thiệu nhiều
sáng kiến mới giúp thúc đẩy những kế hoạch đang thực hiện. Chiến lược cho thấy,
BĐKH mang lại những thách thức nhưng cũng tạo ra nhiều cơ hội, cần khai thác
chúng ở mức độ cao nhất có thể [235]. Bên cạnh đó, chính phủ Hà Lan cũng đánh
giá BĐKH cũng có thể tạo ra những cơ hội mới, có thể nhiều quốc gia có nhiều nhu
cầu về chuyên môn của Hà Lan trong quản lý nước, an toàn lũ, hệ thống phân phối
nước, NLTT và nông nghiệp sáng tạo. Ảnh hưởng của BĐKH ở khu vực phía Nam
và phía Đông có thể tạo ra những lợi thế cạnh tranh cho nông nghiệp Hà Lan [235].
Ngoài một chiến lược ứng phó BĐKH chi tiết nêu trên, Hà Lan còn có một chiến
lược PTBV dành riêng cho khu vực đồng bằng có tên gọi Chương trình phát triển
Đồng bằng (Delta Programme). Chương trình này tập trung vào xử lý các vấn đề (i)
an toàn nước, (ii) nước ngọt và (iii) sử dụng không gian nước [46]. Có thể thấy
những kinh nghiệm của Hà Lan trong thực hiện chính sách ứng phó với tác động
BĐKH đặc biệt rất hữu ích cho kinh nghiệm ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.
Canada là một trong những quốc gia đi đầu thế giới về duy trì PTBV đồng
thời đối phó hiệu quả với BĐKH. Nhiều khu vực Canada đã và đang phải đối phó
với tình trạng xâm nhập mặn, NBD và lũ lụt nghiêm trọng, khá tương đồng với khu
vực vùng ĐBSCL của Việt Nam. Lấy ví dụ, thành phố Vancouver kể từ năm 2005
trở lại đây, đã liên tục gặp tình trạng NBD cao dẫn đến lũ lụt, với tần suất nhiều
bằng cả 40 năm trở về trước [251]. Đặc trưng về thực hiện PTBV và ứng phó với
BĐKH ở Canada được thể hiện trong các báo cáo hàng năm với một bộ chỉ tiêu
PTBV và thích ứng với BĐKH, dựa vào các chỉ tiêu sau: (i) Sự thay đổi về khí hậu,
được đánh giá dựa vào lượng KNK (lượng KNK chủ yếu do các hoạt động của con
người tạo ra như carbon dioxide, nitrous oxide, và khí methane) trong bầu khí
quyển của Trái Đất; (ii) Chất lượng không khí, được đánh giá dựa vào tỷ lệ phần
trăm các chất gây ô nhiễm trong bầu khí quyển so với mức tối đa cho phép; (iii)
Chất lượng nước, được đánh giá dựa vào tỷ lệ phần trăm dân số ở đô thị liên quan
đến các nhà máy xử lý nước thải công cộng; (iv) Sự đa dạng sinh học, vốn tự nhiên
được đánh giá dựa vào sự thay đổi về tình trạng các loài đang gặp nguy hiểm.
18
Đề cập đến vai trò của chính quyền địa phương, vùng trong thực hiện chính sách BĐKH, các nghiên cứu của Bjorkum, I. (2005), Fei Teng & Alun Gu (2007),
và Chmutia, K., Zhu, J., Riffat, S. (2012) đã cho thấy, ở Trung Quốc chính quyền địa phương trở thành một chủ thể không thể thiếu trong quá trình thực hiện chính
sách này. Trong đó, Trung Quốc đã hình thành được bộ máy quản lý và thực thi
chính sách đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Chính quyền có vai trò quan
trong đối với việc xử lý xung đột trong quá trình thực hiện chính sách BĐKH ở Trung Quốc. Bên cạnh đó để các chính sách đi vào thực tiễn một cách nhanh chóng
và phát huy hiệu lực, chính quyền sử dụng nhiều biện pháp khuyến khích, khen
thưởng xử phạt đối với cán bộ thực thi chính sách. Chính quyền Trung ương phân
cấp, tăng nhiều quyền hơn cho chính quyền địa phương trong việc xử lý những
công ty thuộc sở hữu của nhà nước Trung ương đang hoạt động ở địa phương có
phát thải KNK vượt quy định. Đồng thời, đẩy mạnh sự tham gia của khu vực tư
nhân và tạo điều kiện cho tổ chức xã hội dân sự tham gia tích cực vào việc tương
tác với chính quyền các cấp trong suốt quá trình chính sách ứng phó BĐKH [196],
[256], [201, tr.138, 151].
BĐKH thường mang tính phức tạp, đa chiều, qui mô lớn là thách thức lớn đối
với xã hội, đòi hỏi các nhà quản lý, các nhà khoa học cần có những tiếp cận mới,
mang tính tổng thể, liên ngành để đánh giá, quản lý khung thích ứng phù hợp. Tiếp
cận hệ tri thức, giá trị được xem là hướng nghiên cứu mang tính hệ thống, tổng hợp
để giải quyết vấn đề thách thức sẽ hạn chế được rủi ro, phát huy được nguồn lực lãnh thổ, nhất là đảm bảo tính bền vững trong tiến trình phát triển của xã hội. Trong
đó, việc xây dựng các hình thức quản trị thích ứng phù hợp với các hệ thống xã hội
(giá trị, qui tắc, tri thức) có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định của các cá
nhân, tổ chức [214, tr.60, 69], [202, tr.87, 96], [193]. Theo đó, một hệ thống sinh
thái xã hội được quan niệm là một thực thể địa vật lý kết hợp với các tác nhân và tổ
chức xã hội, có tính chất phức tạp, thích ứng và các mối quan hệ tương hỗ. Sự
chuyển đổi của hệ sinh thái xã hội có thể bắt đầu từ những thay đổi của nhân tố sinh
thái do tác động của BĐKH hoặc tác nhân khác, sau đó là thay đổi hệ sinh thái dẫn đến các thích nghi các tác nhân xã hội, gồm thay đổi sử dụng các dịch vụ hệ sinh
thái, sinh kế và quản trị tài nguyên [202, tr.87, 96].
Bên cạnh đó, Matthew J. Colloff et al. (2017) còn nhấn mạnh tác động của BĐKH đối với bảo tồn đa dạng sinh học tập trung nhiều vào hệ sinh thái, loài và duy trì tính toàn vẹn sinh thái, ít tập trung vào bối cảnh thể chế, các mối quan hệ với
xã hội, con người. Tuy nhiên, trong thập kỷ qua đã có những thay đổi trong tiếp cận
19
giải quyết tác động, đó là tập trung nhiều hơn vào khả năng thích ứng với biến đổi của các hệ sinh thái xã hội trên cơ sở tiếp cận khung thích ứng biến đổi TARA (the
Transformative Adaptation Research Alliance). Cách tiếp cận này cung cấp cách thức và cấu trúc để dự báo, xây dựng tiến trình thích ứng, nhất là giải quyết tính
không chắc chắn trong việc ra quyết định thích ứng theo quan điểm tổng hợp, hệ
thống về các giá trị, qui tắc, tri thức; hay nói cách khác, các tác nhân của xã hội
tham gia vào thực hiện khung thích ứng với những thay đổi mang tính toàn cầu. Có 3 nhân tố hình thành khung tiếp cận, đó là: hệ thống giá trị, qui tắc và tri thức; lộ
trình thích ứng và các dịch vụ thích ứng [202, tr.87, 96].
Đối với vùng ven biển, tác động của BĐKH đang trở thành thách thức cho các
cộng đồng sống dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để ứng phó với những biến
đổi này, các lãnh thổ đã đề xuất các giải pháp mang tính vĩ mô, ở tầm quốc gia,
vùng, phần lớn các lãnh thổ trực tiếp bị ảnh hưởng ít được tham vấn nên việc thực
thi chính sách thường kém hiệu quả. Vì vậy, để giải quyết khó khăn này cần thúc
đẩy sự tham gia của địa phương trong xây dựng khả năng phục hồi và khả năng
thích ứng với các tác động trước mắt và lâu dài của BĐKH. Điển hình tại vùng eo
biển Madagascar, cách tiếp cận dựa vào cộng đồng trong can thiệp hỗ trợ khả năng
phục hồi và thích ứng sinh thái xã hội, dựa trên kết quả nghiên cứu tổng thể hệ
thống con người và hệ sinh thái trong lãnh thổ có cộng đồng dễ bị tổn thương bởi
các tác động của BĐKH, qua đó đã đề xuất khung thích ứng hợp lý. Các giải pháp
này đảm bảo tính khả thi bởi phù hợp với tình hình thực tế, chi phí thấp, khả năng thích ứng nhanh và khả năng chấp nhận của xã hội, do đó làm giảm tính dễ bị ảnh
hưởng của BĐKH ở các cộng đồng phụ thuộc vào tài nguyên [263, tr.87, 97].
Đặc biệt, các nghiên cứu về thích ứng với BĐKH dựa vào hệ sinh thái và dựa
vào cộng đồng là những hướng tiếp cận được nhiều học giả và tổ chức nghiên cứu
trong những năm gần đây, và được xem là phương pháp tiếp cận thích ứng nhằm
đảm bảo: (i) Cộng đồng là trung tâm của kế hoạch phát triển; (ii) Khung chính sách
thích ứng mang tính tổng thể phù hợp với bối cảnh thể chế, quản trị; (iii) Khuyến
khích phát triển và nhân rộng các giải pháp hiệu quả, nhất là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương [255].
Thích ứng dựa vào hệ sinh thái (EbA) được định nghĩa là làm giảm tính dễ bị tổn thương trước BĐKH của con người thông qua việc sử dụng và bảo tồn bền vững các hệ sinh thái, đặc biệt sử dụng năng lực của hệ sinh thái để cung cấp dịch vụ. Đây được xem là cơ sở hạ tầng xanh và có thể bổ sung hoặc thay thế cho các biện
pháp cơ sở hạ tầng cứng. Khung thích ứng được đề xuất thông qua phân tích mối
20
quan hệ tương hỗ, phụ thuộc lẫn nhau giữa các hệ sinh thái, dịch vụ hệ sinh thái và cộng đồng phụ thuộc theo nguyên tắc: thúc đẩy khả năng thích ứng của hệ sinh thái
dựa vào điều chỉnh các chương trình, hành động quản lý và cộng đồng; duy trì các dịch vụ hệ sinh thái, được xem là chìa khóa đo lường tính hiệu quả được cung cấp
[203], [234, tr.67-71], [207]. Một trong những thế mạnh của EbA là khả năng tối đa
hóa sự phối hợp giữa nhiều mục tiêu môi trường, kinh tế, xã hội; liên quan đến lợi
ích xã hội, các dự án EbA hợp lý có tiềm năng mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương; là công cụ giúp các nhà hoạch định chính sách và quản lý giải quyết mối
nguy cơ từ BĐKH ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh kế người dân [236], [234].
Thích ứng dựa vào cộng đồng (CbA) được phát triển bởi Action Research
trong công trình nghiên cứu về hành động thích ứng cộng đồng ở Bangladesh, với
mục tiêu chuyển đổi khả năng phục hồi trên cơ sở tập trung vào tăng cường 3 lĩnh
vực: tri thức, năng lực và thực tiễn cho các cá nhân, tổ chức; đồng thời, lồng ghép
và xây dựng các giải pháp thích ứng trong khung phát triển, dịch vụ của địa
phương. Cộng đồng được trao quyền, tham vấn trong qui trình lập kế hoạch, chính
sách phát triển theo hướng hỗ trợ từ dưới lên. Từ cách tiếp cận này có thể cung cấp
một khung thích ứng mang tính linh hoạt, hiệu quả, tiết kiệm chi phí thông qua phân
tích, áp dụng các tri thức, kinh nghiệm của cộng đồng [203], [247], [192], [243,
tr.385, 393]. Các tác giả đã nhấn mạnh vai trò của hệ sinh thái trong thích ứng với
BĐKH, xây dựng các bước nhằm hướng dẫn lồng ghép hệ sinh thái trong các kế
hoạch, chương trình thích ứng với BĐKH ở cấp quốc gia, vùng và địa phương.
1.2. Các nghiên cứu đã công bố trong nước liên quan đến luận án
Ở Việt Nam cho đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu được công
bố về BĐKH ở vùng TNB, dưới nhiều hình thức thực hiện khác nhau: Chương trình
nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp Nhà nước, Chương trình khoa học cấp Bộ,
Chương trình khoa học cấp Tỉnh, các nghiên cứu của trường Đại học, đặc biệt là
Trường Đại học Cần Thơ, các chương trình hợp tác quốc tế… Các nghiên cứu nói
trên được thực hiện theo các chiều cạnh như sau:
Các nghiên cứu về tác động của BĐKH và các hoạt động thích ứng với
BĐKH ở vùng TNB
Báo cáo của Viện QHTL miền Nam (2013) cho thấy Chính phủ Việt Nam đã
xây dựng và triển khai các quy hoạch trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông
thôn nhằm thích ứng với BĐKH. Công tác thích ứng với BĐKH được đưa ra thảo
luận cho từng lĩnh vực, trong đó có ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng khung quy hoạch hành động bao gồm lĩnh vực nông
nghiệp và phát triển nông thôn, và yêu cầu các cơ quan chức năng của ngành này
21
triển khai quy hoạch phát triển để ứng phó hoặc thích ứng với BĐKH. Nghiên cứu
trên cũng đã tập trung làm rõ các vấn đề: dự báo và đánh giá các tác động của
BĐKH giai đoạn trung và dài hạn 2020-2050; lập quy hoạch tổng thể thích ứng với
BĐKH và đề xuất các dự án ưu tiên. Và thông qua các hoạt động của dự án, khả
năng lập quy hoạch và thực hiện dự án về thích ứng BĐKH cho lĩnh vực nông
nghiệp và phát triển nông thôn [180].
Bên cạnh đó các nghiên cứu của Lê Anh Tuấn, Hoàng Thị Thuỷ (2014), Viện
Quản lý và Phát triển châu Á (2016) cũng đã cho thấy ĐBSCL được xác định là một
trong những vùng nhạy cảm và dễ phơi lộ với hiện tượng BĐKH và NBD [138]. Với
giả thiết rằng sinh kế của người dân địa phương đang bị ảnh hưởng mạnh do các thay
đổi bất thường của các điều kiện khí hậu tự nhiên. Nhiều khảo sát dựa vào phỏng vấn
bán cấu trúc và thảo luận ở cộng đồng về tác động của thiên tai và BĐKH lên sinh kế
được thực hiện trên ba vùng sinh thái thủy văn khác nhau đã được thực hiện ở vùng
đồng bằng. Kết quả khảo sát chỉ ra rằng những thông tin thu nhận được là hiện thực
và liên quan đến các mong ước cuộc sống của cư dân địa phương. Người dân sống
vùng nông thôn ven biển gặp khó khăn hơn người dân sống ở vùng lũ. Người nghèo,
trẻ em, người già, người khuyết tập, phụ nữ đơn thân và người dân tộc thiểu số thuộc
nhóm người dễ bị tổn thương. Các nghiên cứu trên đã đề xuất những mô hình sinh kế
bền vững thích ứng với khí hậu như mô hình: tôm - lúa, mô hình lúa - cá… Trái với
quan điểm của các nghiên cứu trên, Tổ chức (IOM, 2015) đã đưa ra các tiếp cận thích
ứng với BĐKH ở vùng này thông qua di cư. Do đó, Chính phủ, các địa phương tiếp
nhận dân di cư phải tạo các điều về cơ sở hạ tầng để tái định cư, cũng như các dịch vụ
xã hội cơ bản khác cho các lao động này [179].
Nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Đức Toàn (2015), Nguyễn Đình Tuấn
(2015) đã đánh giá tác động của BĐKH tới khu vực ĐBSCL; xây dựng bộ tiêu chí
để xây dựng làng sinh thái thích ứng với BĐKH sử dụng năng lượng sạch phục vụ
cho nhu cầu sinh hoạt trong điều kiện BĐKH và NBD. Đồng thời, đánh giá tác
động BĐKH đến tài nguyên nước và đất vùng nghiên cứu ứng với các kịch bản đã
xác định, phục vụ xây dựng khung hỗ trợ ra quyết định; nghiên cứu và thiết kế kiến
trúc hệ thống chính sách hỗ trợ ra quyết định phục vụ công tác quản lý và khai thác
tài nguyên nước và tài nguyên đất phù hợp với đồng bằng này [119], [139]. Và các
nghiên cứu khác của tác giả Trần Hồng Thái (2011, 2015) đã làm sáng tỏ hơn các
nhận định của 2 tác giả nói trên. Báo cáo cho thấy, các tác động và tác động tiềm
tàng của BĐKH ở vùng ĐBSCL: nước cho sinh hoạt, nước cho trồng trọt, nuôi
22
trường thuỷ sản và nước cho các hoạt động công nghiệp, và nếu không có những
giải pháp đồng bộ và kịp thời thì sẽ dẫn đến mất an ninh nguồn nước ở khu vực này
[100], [101]. Lê Ngọc Cầu (2017) đã xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả
các mô hình kinh tế cấp huyện thích ứng với BĐKH cho vùng ĐBSCL, và đãáp
dụng thử nghiệm bộ tiêu chí này cho huyện điển hình ở vùng ĐBSCL [30].
Bắt đầu từ năm 2015 vùng TNB phải đối mặt với những thách thức mới do
thiên tai, BĐKH gây ra. Do đó, vùng càng nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các tổ chức và học giả, các nghiên cứu trong thời kỳ này chủ yếu xoay quanh các
vấn đề hạn hán và sạt lở sông, biển. Điển hình là báo cáo của Bộ NN&PTNT
(2016), nghiên cứu đã chỉ ra rằng, từ năm 2015 đến tháng 4/2016, các tỉnh vùng
TNB đã hứng chịu các đợt hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng nhất trong lịch sử. Hạn hán, xâm nhập mặn đã làm cho khoảng 160.000ha lúa của vùng TNB bị thiệt
hại, trong đó có hơn 50% diện tích bị mất trắng, làm cho khoảng 400.000 hộ thiếu nước sinh hoạt [16]. Tiếp đến, khu vực TNB liên tục phải hứng chịu những đợt sạt
lở bờ sông, bờ biển với tần suất và quy mô lớn chưa từng có trong hơn 300 năm qua
[17], [107]. Theo số liệu thống kê, hiện khu vực TNB có 564 điểm sạt lở với tổng
chiều dài trên 834km. Trong đó, sạt lở bờ sông 512 điểm với tổng chiều dài khoảng
566km (chủ yếu diễn ra dọc theo sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Cỏ Đông, Vàm
Cỏ Tây và các nhánh chính của hệ thống kênh, rạch); sạt lở bờ biển 52 điểm với
tổng chiều dài 268km [19]. Hay Báo cáo của Bộ TN&MT (2019) [29] cho thấy
BĐKH đã làm cho các hiện tượng thiên tai ở vùng TNB ngày càng diễn biến dị
thường và phức tạp, điển hình là lũ lụt. Theo công bố của nghiên cứu, từ năm 2000
đến nay có 4 năm xảy ra lũ lớn, 6 năm lũ vừa và 7 năm lũ nhỏ (lũ nhỏ không mang
lại nguồn lợi và nguy cơ xảy ra xâm nhập mặn sâu vào mùa khô kế tiếp). Lũ có xu
hướng đến muộn hơn so với trước đây, từ năm 2010 trở về trước, đỉnh lũ chính vụ
hầu hết xuất hiện vào cuối tháng 9, đầu tháng 10; từ năm 2010 trở lại đây, các trận
lũ hầu hết xuất hiện vào giữa tháng 10.
Hay nghiên cứu IMHEN (2018) đã cho thấy, hạn hán, lũ lụt, các hiện tượng khí hậu thời tiết cực đoan gia tăng, lượng mưa, phân bố mưa thay đổi làm tăng nguy cơ thiếu lương thực, xung đột tài nguyên, gia tăng ô nhiễm môi trường, tạo ra bất ổn xã hội do di dân, mất đất canh tác do xói lở, xâm nhập mặn là các thách thức được tạo ra từ tính chất làm gia tăng mức độ tác động của nhiều vấn đề hiện hữu khác của BĐKH [68]. Việt Nam được đánh giá là một trong những nước bị ảnh hưởng
nghiêm trọng của BĐKH, đặc biệt là khu vực ĐBSCL. Hiện nay, hầu hết các cửa
23
sông ở ĐBSCL bị xâm nhập mặn từ 50-70km. Đặc biệt, trên sông Vàm Cỏ, xâm nhập mặn vào sâu hơn 90km. Hàng loạt hậu quả nặng nề đã và đang ảnh hưởng trực
tiếp tới người dân. Diễn biến sạt lở bờ sông, bờ biển có xu thế ngày càng gia tăng. Tốc độ xói mòn đã vượt tốc độ bồi tích làm diện tích ĐBSCL giảm khoảng
300ha/năm, chưa kể đến diện tích bị ngập do NBD. Nghiên cứu cũng chia sẻ các nỗ
lực của Việt Nam trong quá trình chuyển đổi mô hình PTBV tại ĐBSCL; các mô
hình tốt trong ứng phó với BĐKH; cách tiếp cận hài hòa và đồng lợi ích giữa các phương án thích ứng và giảm nhẹ BĐKH, nhằm thực hiện các mục tiêu PTBV tại
các địa phương…
Nghiên cứu của Phạm Thanh Long (2018) đã xây dựng được bản tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn ứng dụng phục vụ các ngành/lĩnh vực trọng điểm ở vùng ĐBSCL như: quản lý tài nguyên nước; sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; giao thông vận tải; xây dựng; y tế; thể thao và du lịch. Nghiên cứu cũng xây dựng được hệ thống cung cấp thông tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn ứng dụng bằng công nghệ WebGIS cho vùng ĐBSCL [73].
Các nghiên cứu về chính sách và thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH
ở Việt Nam
BĐKH là vấn đề mang tính toàn cầu, do vậy các hành động ứng phó với BĐKH của Việt Nam, hiện nay đều được thực hiện thống nhất cùng cộng đồng quốc tế theo khuôn khổ Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH (UNFCCC). Ngay sau khi Việt Nam chính thức phê chuẩn Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH năm 1994 và đến năm 2002 tiếp tục phê chuẩn Nghị định thư Kyoto về BĐKH thì vấn đề chính sách ứng phó với BĐKH đã bắt đầu được các học giả và tổ chức quan tâm nghiên cứu. Theo quan sát của nghiên cứu sinh thì các nghiên cứu thường tập trung vào các vấn đề: hoàn thiện thể chế, chính sách, cơ chế phối hợp; tích hợp, lồng ghép chính sách BĐKH vào quy hoạch kế hoạch phát triển KT-XH; chính sách liên kết vùng; chính sách tài chính; chính sách hỗ trợ mô hình sinh kế thích ứng; chính sách đàm phán và hội nhập quốc tế về BĐKH... Sau đây là các nghiên cứu tiêu biểu:
24
Bước đầu những nghiên cứu về thể chế để thực hiện giảm nhẹ phát thải KNK (NAMA) ở Việt Nam đang trong giai đoạn hoàn thiện. Một số nghiên cứu tập trung vào hoạt động như: tăng cường năng lực, hỗ trợ kỹ thuật để xây dựng các kịch bản cơ sở, kịch bản giảm phát thải, hình thành hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm tra (MRV)... đang được tiến hành. Bên cạnh đó, các nghiên cứu đề xuất NAMA trong các lĩnh vực năng lượng (phát triển điện gió, điện mặt trời, khí sinh học, hình thành Quỹ phát triển năng lượng tái tạo), công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, lâm nghiệp và quản lý chất thải ở Việt Nam đã được xây dựng nhưng chưa tiếp cận được các nguồn hỗ trợ tài chính quốc tế [42], [52].
Nghiên cứu của Phạm Thị Trầm và Nguyễn Song Tùng (2010) đã nhận diện
các tác động của thiên tai trên các vùng lãnh thổ ở Việt Nam, trên cơ sở đó, rà soát
các cơ chế chính sách hỗ trợ cho các cộng đồng bị ảnh hưởng và đề xuất các chính
sách cơ bản nhằm nâng cao năng lực thích ứng và chủ động ứng phó với thiên tai và
BĐKH cho các vùng, lãnh thổ ở Việt Nam [126]. Một nghiên cứu khác của Phạm
Thị Trầm và Nguyễn Thị Bích Hà (2013), các tác giả đã chỉ ra rõ, để ứng phó hiệu
quả với BĐKH thì cần nâng cao nhận thức, khả năng thích ứng và chủ động ứng
phó với thiên tai và BĐKH của các chủ thể: người dân, các cấp chính quyền từ
trung ương, địa phương, các doanh nghiệp,…[125].
Báo cáo của Mai Thanh Sơn, Phùng Đình Tùng, Lê Đức Thịnh (2011). Nghiên
cứu đã tập trung đánh giá một số biểu hiện của biến đổi thời tiết và thiên tai ở khu
vực miền núi phía Bắc, và những ảnh hưởng của thiên tai đến các hoạt động sản
xuất, đến đồng bào dân tộc thiểu số, vàcác nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Mặt khác,
nghiên cứu cũng phân tích các sáng kiến của cộng đồng, các tri thức bản địa để ứng
phó với thiên tai. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đi sâu vào đánh giá các chính sách
hỗ trợ cho dân tộc thiểu số và phát hiện những “lỗ hổng” của các chính sách. Từ đó,
đưa ra một số khuyến nghị cho việc sửa đổi các chính sách phù hợp hơn cho các
nhóm đối tượng [97].
Nghiên cứu của Trần Thục, Huỳnh Thị Lan Hương và Đào Mai Trang (2012)
lần đầu tiên đã làm rõ khái niệm về tích hợp BĐKH (định nghĩa tích hợp, sự cần
thiết phải tích hợp BĐKH, thực trạng tích hợp BĐKH ở Việt Nam, những lợi ích và
rào cản trong tích hợp vấn đề BĐKH trong lập quy hoạch kế hoạch phát triển); một
số vấn đề cơ bản khi tiến hành tích hợp BĐKH vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển KT-XH (các nguyên tắc khi tiến hành tích hợp; các hoạt động hỗ trợ tích
hợp như: tăng cường năng lực thể chế và nguồn lực, tăng cường sự hợp tác giữa các
bộ/ngành, xác định cơ quan tích hợp, chia sẽ thông tin, mối quan hệ cam kết); các
bước tích hợp vấn đề BĐKH; Góp phần thiết kế quy trình tích hợp vấn đề BĐKH
trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH [116].
Trên cơ sở đó, Báo cáo của Bộ KH&ĐT (2015) đã tập trung vào tình hình tài chính cho ứng phó với BĐKH của Việt Nam và đề xuất những sáng kiến trong ngắn hạn và dài hạn để tiếp tục lồng ghép vấn đề BĐKH vào các chính sách, quy trình lập kế hoạch và dự toán ngân sách của Việt Nam, và để xác định các khoản đầu tư
25
và hoạt động ưu tiên nhằm tăng cường ứng phó với BĐKH của đất nước. Đặc biệt, các sáng kiến tập trung vào những hành động trước mắt để xác định các ưu tiên
chiến lược trong kế hoạch phát triển KT-XH và chu trình lập kế hoạch, dự toán ngân sách cũng như cách thức để xây dựng chính sách tốt hơn, tăng cường thể chế
và phối hợp thực hiện nhằm hỗ trợ những hoạt động ứng phó với BĐKH và đầu tư
cụ thể. Với mục tiêu lồng ghép BĐKH vào ngân sách, điều này sẽ nâng cao khả
năng thích ứng của Việt Nam đối với những tác động của tình trạng khí hậu ấm lên trên toàn cầu, giúp các cộng đồng ít bị tổn thương hơn, và giải quyết những thách
thức về phát thải trong khi Việt Nam tiến bước trên hành trình tiến tới một tương lai
xanh hơn, thích ứng tốt hơn và thịnh vượng hơn [9]. Để làm rõ hơn nhận định trên,
nghiên cứu của Hoàng Văn Hoan (2015), đã tập trung phân tích làm rõ hệ thống hóa
cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ chế chính sách tài chính cho ứng phó với BĐKH;
phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế, hệ thống chính sách tài chính huy động, quản
lý và sử dụng nguồn lực tài chính ứng phó với BĐKH ở Việt Nam. Từ đó, chỉ ra
những ưu điểm và tồn tại, hạn chế; nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế của cơ
chế, hệ thống chính sách hiện tại; và xác định yêu cầu về nguồn lực tài chính để ứng
phó với các kịch bản của BĐKH giai đoạn sau 2020; đánh giá nhu cầu cần hoàn
thiện, bổ sung các cơ chế, chính sách, hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính ứng phó
với BĐKH. Trên cơ sở đó, đề xuất cơ chế, chính sách và các giải pháp vừa đảm bảo
huy động tối đa nguồn lực trong và ngoài nước, vừa đảm bảo sử dụng hợp lý, vừa
nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính trong ứng phó và giảm thiểu tác động của BĐKH ở nước ta trong thời gian tới [63].
Nghiên cứu của Nguyễn Song Tùng (2015), trong nghiên cứu nói trên tác giả
cũng đã phân tích đánh giá, nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của việc lồng ghép vấn
đề BĐKH trong các quy hoạch vùng, quy hoạch KT-XH của địa phương, đồng thời
đưa ra một số kiến nghị cho vấn đề trên. Với quy mô khảo sát ở 20 tỉnh/thành thuộc
6 vùng KT-XH của cả nước, nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng,với đặc điểm địa lý - xã
hội của Việt Nam, tác động của BĐKH đối với nước ta cũng rất đa dạng theo từng
khu vực, vùng, miền. Trong khi đó, quy mô, phạm vi ảnh hưởng của BĐKH dường như vượt quá khả năng ứng phó độc lập của từng địa phương riêng lẻ... Điều đó cho
thấy, sự liên kết, phối hợp giữa các địa phương và vùng miền là rất cần thiết trong việc ứng phó với BĐKH ở Việt Nam. Vì vậy, tác giả đã nhấn mạnh vấn đề chính sách quy hoạch vùng chính là công cụ liên kết giữa các địa phương trong quá trình phát triển và ứng phó với BĐKH nhằm đảm bảo tính thống nhất và sự phù hợp
trong phát triển của toàn vùng [152].
26
Một nghiên cứu khác của Lưu Ngọc Trịnh (2015) đã đề cập đến các phản ứng chính sách ở tầm vĩ mô của Chính phủ các nước Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, trong đó, tập trung và các biện pháp thích ứng, giảm nhẹ và trách nhiệm toàn cầu. Trên cơ sở đó đưa ra những khuyến nghị chính sách cho ứng phó với BĐKH ở
Việt Nam [128]. Để bổ sung cho nhận định nói trên báo cáo của Hội đồng Khoa học
các cơ quan của Đảng Trung ương (2013) cho thấy nổ lực chung cùng với cộng
đồng quốc tế, Chính phủ Việt Nam cũng đã có những hành động chính sách cụ thể để nhằm thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH [66]. Đề cập đến khía cạnh
hẹp, cụ thể hơn nghiên cứu của Phạm Hữu Nghị (2016) đã đánh giá chính sách pháp
luật về ứng phó với BĐKH góp phần làm rõ vấn đề chính sách pháp luật về ứng phó
với BĐKH ở Việt Nam hiện nay. Quá trình thực thi chính sách pháp luật về thích
ứng với BĐKH. Các bất cập thiếu hụt và giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật
về ứng phó với BĐKH ở Việt Nam [84].
Bên cạnh đó còn có các nghiên cứu về chính sách phát triển các mô hình sinh
kế thích ứng bền vững với khí hậu, tiêu biểu như: (Bộ KH&ĐT, 2012), báo cáo này
là tổng hợp và đánh giá một số điển hình PTBV được thực hiện ở Việt Nam thời
gian qua, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm và khuyến nghị để tiếp tục
thực hiện các mô hình, sáng kiến điển hình, góp phần thúc đẩy tiến trình PTBV ở
Việt Nam [8]. Bên cạnh đó, báo cáo của SRD (2014) cũng đã góp phần tổng hợp,
phân tích và làm rõ thêm một số điển hình tốt về thích ứng và giảm nhẹ BĐKH dựa
vào cộng đồng ở các địa phương nghèo (chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung), nhằm
chia sẻ rộng rãi thông tin và các bài học kinh nghiệm đến các bên liên quan với hy
vọng nhân rộng các điển hình này ra các địa phương trong cả nước [133].
Công trình của các tác giả Trần Thọ Đạt và Nguyễn Thị Hoài Thu (2012),
cuốn sách đã tổng hợp các kinh nghiệm của các quốc gia về gắn kết giữa BĐKH và
sinh kế ven biển. Trong đó nhấn mạnh tập trung vào phân tích sinh kế của nhóm
cộng động nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, từ đó đưa ra một số gợi ý chính sách về
hỗ trợ sinh kế để thích ứng với BĐKH [51]. Một nghiên cứu khác của Trương
Quang Học và Hoàng Thị Ngọc Hà (2016), theo đó nhóm tác trong bối cảnh BĐKH
hiện nay, nông nghiệp được xem là lĩnh vực rất dễ bị tổn thương. Đa dạng sinh học
và BĐKH có mối tương tác lẫn nhau và đều có ảnh hưởng tới phát triển sinh kế
nông nghiệp [64]. Hay tác giả Nguyễn Thị Liễu (2018), đã bước đầu xây dựng cơ sở
lý luận cho việc xây dựng và vận hành thị trường cácbon ở Việt Nam, góp phần xác
định được các ngành/lĩnh vực có tiềm năng tham gia vào thị trường các bon tại Việt
Nam, và đề xuất được các giải pháp kỹ thuật và chính sách xây dựng thị trường các
27
bon tại Việt Nam cùng với một lộ trình triển khai khả thi [72].
Các nghiên cứu về thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB Trong thời gian qua, bên cạnh các công trình nghiên cứu về biểu hiện, kịch bản và dự báo tác động của BĐKH đến PTBV, thì các tác giả cũng bắt đầu quan
tâm đề cập đến các vấn đề cơ chế, chính sách, thể chế ứng phó với BĐKH ở vùng
TNB. Các công trình đề cập đến các khía cạnh: quy hoạch vùng, liên kết vùng; đầu
tư công, chu trình ngân sách trung hạn cho ứng phó BĐKH ở cấp địa phương; thiết
lập cơ chế chia sẻ thông tin; xây dựng hệ thống an sinh xã hội; hỗ trợ sinh kế cộng đồng thích ứng với BĐKH...
ĐBSCL là một trong năm đồng bằng trên thế giới có khả năng bị ảnh hưởng
nghiêm trọng do BĐKH. Do đó, việc xây dựng một chiến lược thích hợp để giảm
thiểu và thích ứng với những biến đổi này là vô cùng cần thiết cho các thế hệ tương lai ở khu vực này. Kế hoạch ĐBSCL là cốt lõi của chương trình hợp tác giữa Việt Nam và Hà Lan cho ĐBSCL. Dựa trên những kinh nghiệm của Hà Lan, Chính phủ
Việt Nam quyết tâm lập Kế hoạch ĐBSCL nhằm phát triển một cách an toàn, trù
phú và bền vững cả về mặt kinh tế và môi trường và ứng phó với BĐKH cho
ĐBSCL. Kế hoạch ĐBSCL nhằm xây dựng một tầm nhìn chiến lược lâu dài cho
một ĐBSCL an toàn, bền vững và trù phú, bao gồm cả các đề xuất về chính sách và
các giải pháp. Kế hoạch ĐBSCL là một tài liệu tham khảo để hỗ trợ Chính phủ Việt
nam trong việc xem xét và sửa đổi lại các quy hoạch phát triển KT-XH, quy hoạch
không gian và quy hoạch tổng thể ngành cho vùng ĐBSCL cũng như định hướng
trong việc đưa ra các quyết định, ban hành luật và định hướng đầu tư tại khu vực
ĐBSCL trong tương lai [31].
Đồng quan điểm với các tiếp cận của Kế hoạch nói trên, Trần Hữu Hiệp,
Nguyễn Song Tùng và Hà Huy Ngọc (2015) cũng đã nhấn mạnh: để tồn tại, phát
triển an toàn, trù phú và bền vững trong tương lai, phải có hành động khẩn cấp,
nhưng trên cơ sở định hướng, tầm nhìn dài hạn, tiếp cận đa ngành, tiếp cận vùng,
liên vùng và quốc gia. Trong đó, cần nghiên cứu một các kỹ lưỡng trong việc thực thi các giải pháp công trình, ưu tiên các biện pháp phi công trình, để đảm bảo
nguyên tắc “không hối tiếc” trước một tương lai không chắc chắc [60, tr.17-24]. Để tiếp tục củng cố nhận định trên Hà Huy Ngọc (2015) đã phát hiện ra những bất cập trong các kế hoạch ứng phó BĐKH của các địa phương ở vùng TNB, đó là: mỗi địa phương xây dựng một kế hoạch ứng phó BĐKH cấp tỉnh và kèm theo nhu cầu ngân sách, nhưng lại thiếu sự chia sẻ thông tin và hợp tác xây dựng kế hoạch ứng phó
28
BĐKH với các địa phương lân cận. Điều này dẫn tới, hiệu quả ứng phó thấp, nguồn lực phân tán, chồng chéo, lãng phí [87].
Cùng tiếp nối quan điểm trên, các nghiên cứu của Bùi Quang Tuấn, Hà Huy
Ngọc (2018); Hà Huy Ngọc, Bùi Quang Tuấn (2018); và Nguyễn Quang Thuấn, Hà
Huy Ngọc, Phạm Sỹ An (2019) trong các báo cáo nói trên, các tác giả đã đề cập đến
vấn đề chính sách ứng phó với BĐKH ở cấp quốc gia, cấp vùng và địa phương.
Đồng thời nhấn mạnh vai trò của thực hiện chính sách liên kết vùng, thực hiện các
chương trình, dự án mang tính tổng hợp, liên vùng trong ứng phó với BĐKH ở
vùng ĐBSCL [146, tr.52-64], [91, tr.29-39], [115, tr.3-16].
Chuỗi các nghiên cứu của ICMP (2012, 2013, 2016a) đã đưa ra nhiều phát
hiện khá thú vị, đó là: hiện nay, thực hiện phân bổ các nguồn lực đầu tư cho BĐKH,
đặc biệt là dự án đầu tư cho bảo vệ bờ biển và đê điều cũng như gia cố hệ thống kè
cống sông ngòi, chống xói mòn trong vùng nội đồng và các dự án thuỷ lợi lớn hay
ngăn ngừa xâm nhập mặn, chủ yếu phụ thuộc vào nguồn ngân sách Trung ương
[33], [34], [37]. Do đó, khi các tỉnh ĐBSCL đề xuất các dự án ưu tiên thực hiện
trong Chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu, đều phụ thuộc vào khả năng cân
đối của ngân sách Trung ương và thường là vượt quá khả năng hỗ trợ. Do các dự án
đầu tư ứng phó với BĐKH ở cấp tỉnh phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn do Chính
phủ cấp, và quy trình phân cấp dự án đầu tư công rất phức tạp, qua nhiều giai đoạn
và mất nhiều thời gian, điều này dẫn đến một hệ luỵ xấu trong phân cấp ngân sách
theo cơ chế xin - cho, bao cấp, hoặc là bình quân giữa các địa phương.
Bên cạnh đó, các nghiên cứu khác của IPMC (2013b, 2014, 2017) cũng đã đề
cập đến vai trò của Chính phủ trong việc thực hiện chính sách phân bổ đầu tư theo
cách có lựa chọn hơn, tập trung vào các dịch vụ, và hàng hóa công cơ bản, như: tiếp
tục đầu tư cho hạ tầng nông thôn, các hệ thống cảnh báo sớm về thời tiết, giám sát
về sâu bệnh và dịch hại; tăng cường năng lực thể chế để thực thi hiệu lực các quy
định về môi trường... Đồng thời, cần thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các sản phẩm
nông nghiệp thông minh thích ứng với BĐKH. Để chuyển đổi và phát triển các
chuỗi giá trị mới hướng đến các thị trường mới đòi hỏi thời gian, các chính sách hỗ
trợ và nhất là thu hút sự tham gia của doanh nghiệp và thúc đẩy liên kết doanh
nghiệp với nông dân [35], [36], [39].
29
Mặt khác, nghiên cứu của Lê Khắc Côi (2013) đã rà soát các hệ thống chính sách ứng phó với BĐKH ở cấp Trung ương và 5 tỉnh vùng TNB (An Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau). Theo đó, hệ thống tổ chức từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh cần phải xây dựng được kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH từ cấp quốc gia đến cấp tỉnh gắn với lập kế hoạch ngân sách cho ứng phó với
BĐKH ở các cấp; thiết lập cơ chế điều phối và phối hợp, chia sẻ thông tin giữa quốc gia và tỉnh, giữa 5 tỉnh trong thích ứng BĐKH [40].
Vùng TNB có hai trụ cột kinh tế chính là nông nghiệp và thủy sản (gồm: thủy sản nuôi và thủy sản tự nhiên, nước ngọt, nước lợ và nước mặn). Tất cả những hợp phần kinh tế khác ở TNB như: công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đều từ 2 trụ cột kinh tế này xây lên. Cả 2 lĩnh vực này hiện nay đều bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi tác động của BĐKH, chính vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu về tác động cũng như chính sách giảm nhẹ thiệt hại trong 2 lĩnh vực nông nghiệp và thuỷ sản. Điển hình là các nghiên cứu của [178], [95], [13], [79]. Qua phân tích các báo cáo nói trên cho thấy, các tác giả rút ra những thông điệp chủ đạo là BĐKH đang đe dọa nghiêm trọng đến phát triển nông nghiệp vùng ĐBSCL trên tất cả các mặt: (i) thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt là vùng đất thấp ven biển; (ii) tác động lớn đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng; (iii) ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng, tăng khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia cầm; và (iv) ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống nhiều mặt của nông dân như: thu nhập, sinh kế, tình trạng nghèo, tình trạng bất bình đẳng thu nhập, tính dễ bị tổn thương, sức khỏe, dinh dưỡng... Trong bối cảnh đó, việc đẩy mạnh tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp để nâng cao khả năng ứng phó với BĐKH, giảm thiểu những tác động tiêu cực của BĐKH có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nông nghiệp Việt Nam nói chung, đặc biệt là đối với ĐBSCL - nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH.
Nghiên cứu của Hà Huy Ngọc và Ngô Vĩnh Bạch Dương (2013) cũng đã cho
thấy rằng, trong giai đoạn 2008-2013 ảnh hưởng của thiên tai và BĐKH đến đời
sống, KT-XH của người dân các tỉnh vùng TNB rất lớn, nhưng các giải pháp ứng
phó với thiên tai, BĐKH hiện nay chỉ được tiến hành đơn lẻ, trong nội bộ của từng
địa phương. Trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra kiến nghị UBND và sở của các địa
phương cần đưa ra những sáng kiến về xây dựng các mô hình sinh kế bền vững
trong chia sẻ rủi ro và phân bổ lợi tích để ứng phó với thiên tai, BĐKH (mô hình
bảo hiểm nông nghiệp, tín dụng vĩ mô thôn bản, nhà vượt lũ, tôm sinh thái, bảo vệ
rừng ngập mặn....) [90].
30
Bên cạnh đó, còn có những nghiên cứu về các mô hình hình sinh kế bền vững, phát huy vai trò của tổ chức xã hội dân sự trong nỗ lực ứng phó với BĐKH ở vùng này. Tiêu biểu là nghiên cứu của SRD (2012) và ICMP (2016b), qua đó cho thấy ĐBSCL giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với an ninh lương thực của Việt Nam cũng như với nguồn cung lương thực toàn cầu [132], [38]. Những tác động của
BĐKH tới ĐBSCL và các giải pháp ứng phó ở khu vực này đang nhận được sự quan tâm rất lớn của các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia, các tổ chức xã hội và các nhà tài trợ. Chính phủ đã ban hành nhiều chương trình, chính sách, định hướng cho các hoạt động ứng phó của các địa phương, nhưng việc đưa những định hướng, chính sách vào thực tế cộng đồng còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Trong những năm qua, các tổ chức phi chính phủ (NGOs), các tổ chức xã hội dân sự đã rất tích cực trong nỗ lực ứng phó với BĐKH, nhất là trong việc triển khai các hoạt động ứng phó với BĐKH dựa vào cộng đồng. Những kinh nghiệm, sáng kiến thành công trong hoạt động của các NGOs là một nguồn thông tin rất quan trọng để xây dựng và triển khai các chương trình hành động ứng phó BĐKH ở các địa phương vùng TNB.
Nghiên cứu của Võ Văn Tuấn và Lê Cảnh Dũng (2015a, 2015b, 2015c). Các
nghiên cứu nói trên đã chỉ ra rằng: ở những vùng lũ của khu vực TNB, các hộ sống
trong đồng lũ không có đất hoặc ít đất, và phải đi làm thuê nông nghiệp, khai thác
tài nguyên thiên nhiên,... có tính dễ bị tổn thương cao hơn các nhóm cộng đồng
khác. Do đó, đa dạng nguồn sinh kế là một trong các giải pháp quan trọng để thích
ứng với BĐKH của các hộ nông dân ở vùng chuyên canh lúa, cây ăn trái và tôm
nước nước lợ. Đồng thời, chính quyền địa phương cần tránh lựa chọn các biện pháp
“không hối tiếc” xây dựng cơ sở hạ tầng (xây dựng đê bao, tái định cư) có thể giúp
giảm ảnh hưởng trực tiếp bởi các hiểm họa, nhưng cũng gây ra các hệ lụy tiêu cực
đến hệ sinh thái-xã hội và vốn tự nhiên [147], [148, tr.120-129], [149].
Bênh cạnh đó, nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Anh (2016), lại tập trung đánh
giá hiện trạng và xu hướng phát triển cùng các vấn đề liên quan đến các hình thức,
mô hình cộng đồng tham gia vào quản lý và bảo vệ tài nguyên nước ở vùng TNB
(tập trung hai tỉnh Cà Mau và Hậu Giang). Đồng thời, đề xuất được cơ chế, chính
sách và các hình thức, mô hình cộng đồng quản lý tài nguyên nước bền vững ở hai
tỉnh nói trên [1]. Nghiên cứu của Nguyễn Phong Lan (2018) đã góp phần xác lập
được cơ sở khoa học cho PTBV trong bối cảnh ứng phó với BĐKH phù hợp cho
các tiểu vùng sinh thái ở TNB. Đồng thời, nghiên cứu đánh giá được thực trạng ứng
phó với BĐKH tại các tiểu vùng sinh thái ở đồng bằng, trên cơ sở đó, đề xuất mô
hình và giải pháp PTBV cho các tiểu vùng sinh thái ở TNB [70].
Tiếp nối cách tiếp cận nói trên, nguyên cứu của Nguyễn Tuấn Anh (2018), đã
chi tiết hơn trong việc xác lập được luận cứ khoa học cho PTBV ở khu vực ven
31
sông dưới tác động của BĐKH, thiên tai, hoạt động nhân sinh. Đánh giá và dự báo
được các tác động của BĐKH, thiên tai, hoạt động nhân sinh khu vực ven sông Hậu
nhằm đề xuất các cơ chế, chính sách và mô hình PTBV phù hợp với tiểu vùng khu
vực ven sông Hậu [3]. Vũ Văn Nghị (2016), khác với nghiên cứu nói trên, công
trình này tập trung phân tích xác lập cơ sở khoa học về đặc điểm và quy luật tự
nhiên của tiểu vùng ngập lũ vùng ĐTM, nhằm làm tiền đề cho quy hoạch vùng
ĐTM trở thành vùng trữ nước ngọt. Báo cáo cũng đã đánh giá tác động của con
người và ảnh hưởng của BĐKH đến cân bằng tài nguyên nước, hệ sinh thái tiểu
vùng vùng ĐTM. Trên cơ sở đó, đề xuất mô hình, giải pháp quy hoạch vùng ĐTM
trở thành vùng trữ nước ngọt nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước cho khu vực
ĐBSCL thích ứng với BĐKH [83]. Với cách tiếp cận ứng phó BĐKH dựa vào cộng
đồng, nghiên cứu của Phan Tất Thắng (2017) đã phân tích vai trò của tri thức địa
phương trong ứng phó với BĐKH; mô tả được thực trạng sử dụng tri thức địa
phương trong ứng phó với BĐKH ở một số tỉnh vùng TNB; và xây dựng được một
số mô hình sử dụng và phát huy tri thức địa phương trong chủ động ứng phó với
BĐKH ở vùng TNB [105].
Trong bối cảnh vùng TNB đang phải đối mặt với xâm nhập mặn, thì nghiên
cứu của Vũ Thị Mai (2016) đã xác lập được cơ sở khoa học về mặt lý luận xây dựng mô hình kinh tế thích ứng với BĐKH, trong đó, xác định rõ: bộ tiêu chí mô
hình kinh tế thích ứng xâm nhập mặn; phân tích các mô hình kinh tế thích ứng với
xâm nhập mặn trong bối cảnh BĐKH; đánh giá, dự báo tác động xâm nhập mặn ở
vùng TNB, nhấn mạnh các cơ hội và thách thức từ xâm nhập mặn để phát triển KT-
XH. Khẳng định tính cấp thiết phải chuyển đổi sang mô hình kinh tế thích ứng với
xâm nhập mặn ở TNB. Nghiên cứu cũng đã thiết kế được một số mô hình trình diễn
về phát triển kinh tế thích ứng với xâm nhập mặn, phù hợp với các đặc trưng sinh
thái - xã hội vùng TNB. Đồng thời, xác định điều kiện, giải pháp, quy trình thực
hiện và chuyển giao mô hình kinh tế xanh cho các huyện bị xâm nhập mặn tương tự ở các tiểu vùng TNB [74]. Bên cạnh đó, còn có nhiều nghiên cứu về công nghệ thủy
lợi nhằm giảm tiêu sóng, hạn chế xói lở bờ sông, bờ biển, giải pháp bán công trình
32
đa mục tiêu được nghiên cứu và đưa vào chuyển giao cho một số địa phương vùng TNB, tiêu biểu là công trình của Nguyễn Duy Khang (2017), Lê Thanh Chương (2017), Phó Hoàng Uyên (2016), Trần Văn Thái (2016) [69], [30], [171], [102]. Hay các nghiên cứu về giải pháp ứng dụng công nghệ thủy lợi để trị thủy, chuyển nước, nằm ứng phó với các hiện tượng khí hậu cực đoan ở vùng TNB của Trần Minh Tuấn (2016), Nguyễn Đăng Tính (2016) [140], [98].
Ngoài ra, nghiên cứu của Bộ NN&PTNT (2016) cho thấy địa phương ở TNB
còn đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên địa bàn. Nhiều mô hình
phát triển kinh tế hiệu quả đem lại giá trị sản lượng gấp nhiều lần so với phương
thức canh tác khác. Đồng thời, các địa phương cũng giảm dần diện tích lúa hè - thu,
chuyển đổi sang trồng các cây rau màu ít sử dụng nước tưới, có khả năng chịu hạn.
Vào mùa nước lũ, thay thế cây lúa bằng các loại cây sử dụng nhiều nước, chịu ngập
úng, như: sen, ấu… hoặc kết hợp nuôi trồng thủy, hải sản. Chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi không chỉ đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp, tăng hiệu quả kinh tế
cho nông dân mà còn góp phần hiệu quả trong bảo vệ môi trường và ứng phó với
BĐKH. Do vậy, để phát triển TNB, rất cần những nguồn lực mới, những mô hình
phát triển mới với hiệu quả cao hơn, năng suất lao động cao hơn [16].
Đồng thời, trong báo cáo của Bộ NN&PTNT (2017) đã nhấn mạnh việc phân
vùng TNB dựa theo Kế hoạch châu thổ Mê Kông do Chính phủ Hà Lan và Việt
Nam xây dựng năm 2013, theo đó, đồng bằng sẽ được chia thành ba tiểu vùng: tiểu
vùng thượng nguồn, tiểu vùng giữa và tiểu vùng ven biển. Tiểu vùng thượng nguồn
với chiến lược sinh kế chính là phải chuyển từ sinh kế dựa chính vào lúa 3 vụ sang
sinh kế đa dạng hòa hợp với lũ. Tiểu vùng giữa, sinh kế chính gắn với chuyển từ
diện tích lúa 3 vụ sang chuyên canh trái cây, chuyên canh cây công nghiệp và
chuyên canh rau màu, bên cạnh phát triển thủy sản nước lợ ở mức độ vừa phải. Tiểu
vùng ven biển với sinh kế là chuyển đổi sang thủy sản chuyên canh bền vững thông
minh chống chịu với BĐKH kết hợp với phục hồi rừng ngập mặn. Cách phân vùng
này cho phép việc phân tích và thiết kế các định hướng chuyển đổi sinh kế trong
nông nghiệp phù hợp hơn với tình hình BĐKH và phát triển theo lưu vực sông [17].
Năm 2017, trước những thách thức to lớn do BĐKH và NBD, nhiều hiện
tượng thời tiết cực đoan, việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu
thổ,… tác động tiêu cực đến phát triển KT-XH của vùng ĐBSCL, Thủ tướng Chính
phủ đã tổ chức Hội nghị Diên Hồng về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu
Long thích ứng với biến đổi khí hậu với sự tham gia có trách nhiệm của các
bộ/ngành, địa phương, cơ quan quản lý và tham gia tích cực, tâm huyết của đông
đảo các chuyên gia, nhà khoa học, các đối tác quốc tế, các doanh nghiệp để thảo
luận, tìm các giải pháp toàn diện, căn cơ, đồng bộ cho sự PTBV, thịnh vượng của
vùng. Sau gần 2 năm thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP, đã có một số báo cáo đánh
33
giá các kết quả bước đầu ở một số bộ/ngành và địa phương vùng TNB. Báo cáo của
Bộ TN&MT (2019) đã cho thấy trong gần hai năm qua, việc triển khai các nhiệm
vụ, giải pháp PTBV ĐBSCL đã đạt được một số kết quả quan trọng, một số cơ chế
chính sách đã được rà soát, bổ sung; quy hoạch tổng thể PTBV vùng ĐBSCL đang
được khẩn trương xây dựng; sinh kế của người dân từng bước được chuyển đổi theo
hướng thích ứng bền vững với BĐKH. Hạ tầng cơ sở được quan tâm đầu tư, xây
dựng, tăng cường kết nối liên vùng, nhất là hệ thống giao thông đường bộ, đường
thủy, các cụm tuyến dân cư vượt lũ [27]. Nghiên cứu của Đặng Kiều Nhân (2018),
Lê Việt Dũng (2018), Lê Anh Tuấn (2018) và Hà Thanh Toàn (2018) đã khái quát
hóa những công việc đã làm được sau một năm thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP,
trên các khía cạnh truyền thông, tuyên truyền chính sách; xây dựng quy hoạch; xây
dựng các cơ chế liên kết, điều phối vùng; xây dựng các dự án thực hiện chung của
bộ/ngành và một số địa phương vùng TNB [85], [47], [135], [118].
Các nghiên cứu của Bộ TN&MT (2019b, 2019c), Bộ NN&PTNT (2019),
NAWAP (2019) và Lê Anh Tuấn (2019) đã nhấn mạnh hiện trạng sử dụng tài
nguyên nước, và các giải pháp ứng phó với sụt lún, xâm nhập mặn, sạt lở bờ sông,
bờ biển ở các địa phương bằng các biện pháp công trình và phi công trình [28],
[29], [19], [76], [136]. Bộ KH&ĐT (2019), nghiên cứu đã cho thấy sự khẩn trương
của Bộ trong việc tổ chức lập quy hoạch vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2030 tầm
nhìn đến năm 2050 theo phương pháp tích hợp đa ngành theo quy định của Luật
Quy hoạch. Quy hoạch vùng ĐBSCL mới hứa hẹn sẽ tạo ra một khung chiến lược
toàn diện cho vùng ĐBSCL, làm cơ sở để triển khai các chương trình, dự án đầu tư
phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, hạ tầng sản
xuất cũng như việc khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực trên cơ sở phát huy
những tiềm năng, lợi thế của vùng ĐBSCL trong điều kiện BĐKH, xâm nhập mặn
để thúc đẩy phát triển KT-XH nhanh, bền vững. Bên cạnh đó, báo cáo còn rà soát,
đánh giá cơ chế thí điểm điều phối vùng theo Quyết định số 593/QĐ-TTg ngày
6/4/2016, các giải pháp hoàn thiện cơ chế điều phối vùng ĐBSCL [11]. Hay nghiên
cứu của Bộ NN&PTNT (2019b), báo cáo đã tổng kết các chương trình nghiên cứu,
lựa chọn, tạo giống cây trồng, vật nuôi thích ứng với BĐKH ở ĐBSCL do Bộ triển
khai [20]. Một nghiên cứu khác của Tổng cục KTTV (2019), cũng cho thấy quá
trình thực hiện các nhiệm vụ, dự án nhằm tăng cường công tác dự báo, cảnh báo,
giám sát thiên tai tại ĐBSCL như: xây dựng hệ thống giám sát nguồn nước dự báo,
cảnh báo hạn hán và xâm nhập mặn vùng ĐBSCL; nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống
34
quan trắc, giám sát, cảnh báo và dự báo khí tượng thủy văn, bùn cát, hải văn [120].
1.3. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề thuộc đề tài luận án chưa được các công trình công bố nghiên cứu giải quyết 1.3.1. Những kết quả đã đạt được
Qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy,
vấn đề BĐKH ở vùng TNB đã được các học giả và tổ chức trong nước và ngoài nước đặc biệt quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây.
- Điểm chung trong các công trình nêu trên là đối tượng nghiên cứu đều tập
trung vào vấn đề khắc hoạ rõ nét diễn biến BĐKH và tính dị thường của thiên tai:
hạn hạn, xâm nhập mặn, lũ lụt, bão, áp thấp nhiệt đới… và các tác động đến KT-
XH, môi trường, hệ sinh thái và sinh kế người dân vùng TNB. Trên cơ sở phân tích,
đánh giá thực trạng, các tác giả đề xuất các giải pháp chính sách (nâng cao chất
lượng quy hoạch, đầu tư vào cơ sở hạ tầng ứng phó với BĐKH, dự án liên kết
vùng...) mang tính nguyên tắc, định hướng. Một số giải pháp chính sách cụ thể cũng
được đề xuất ứng dụng vào thực tiễn.
- Các công trình nghiên cứu về tác động của BĐKH, chính sách thích ứng với
BĐKH đã được tiến hành tương đối đa dạng cả về nội dung và phạm vi nghiên cứu
với các tiếp cận phong phú, như: tiếp cận ứng phó với các giải pháp can thiệp vật lý,
hạ tầng; tiếp cận dựa vào vốn tự nhiên, cộng đồng; tiếp cận theo hướng phân vùng
sinh thái xã hội và phân vùng chức năng đã bước đầu làm sáng tỏ về tác động của
BĐKH, tiềm năng chống chịu và tính dễ bị tổn thương của lãnh thổ nhất định.
- Các nghiên cứu về chính sách ứng phó với BĐKH đã được tiến hành tương
đối đa dạng cả về nội dung và phạm vi: thể chế, quy hoạch, cơ sở hạ tầng, huy động
tài chính cho BĐKH, KH&CN, mô hình sinh kế cộng đồng bền vững…
- Các công trình đã công bố đều là những tài liệu nghiên cứu có giá trị tham
khảo hữu ích cho luận án trên các khía cạnh lý luận và thực tiễn.
1.3.2. Những vấn đề thuộc luận án chưa được các công trình công bố nghiên cứu giải quyết
- Các công trình đã công bố trước đó có đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên
cứu riêng. Nên vấn đề về thực hiện chính sách BĐKH chỉ được đề cập với chừng
mực nhất định, nên còn nhiều khoảng trống về mà luận án tiếp tục nghiên cứu, như
sau: cơ sở lý luận về thực hiện chính sách BĐKH; nhóm các nhân tố ảnh hưởng và
tiêu chí đánh giá thực hiện chính sách BĐKH; Việc thực hiện chính sách BĐKH ở
các vùng, địa phương hiện nay, thì chính sách đã và đang có các mặt tích cực và bộc
35
lộ những hạn chế gì; và cần phải thiết kế các giải pháp như thế nào để nhằm khắc
phục những hạn chế, bất cập của việc thực hiện chính sách BĐKH trong điều kiện
bối cảnh mới ở vùng TNB.
- Các công trình nghiên cứu trong thời kỳ gần đây cho thấy đã chú trọng tập
trung cho hoạt động đánh giá diễn biến, biểu hiện, tác động và giải pháp ứng phó
với BĐKH vùng TNB. Đồng thời có nhiều nghiên cứu cũng đã tập trung vào đánh
giá chính sách ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, chính sách ứng phó với BĐKH có
nhiều quy trình khác nhau, trong đó giai đoạn thực hiện chính sách ứng phó BĐKH
ở vùng TNB sẽ còn nghiều không gian và nội dung để luận án tiếp tục nghiên cứu,
làm sáng tỏ thêm.
- Về phương pháp nghiên cứu đánh giá thực hiện chính sách: các công trình
nghiên cứu trước đó đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu và kỹ thuật đánh giá
khác nhau để thực hiện các nội dung và làm sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu. Tuy
nhiên, việc đánh giá thực hiện chính sách ứng phó BĐKH dựa trên các bằng chứng
thực nghiệm, dựa trên các tiêu chí đánh giá kết quả; các phương pháp theo dõi,
giám sát thực hiện chính sách, cũng là những vấn đề mà luận án cần tiếp tục làm
sáng tỏ.
- Nhìn chung nội dung của các công trình, khảo nghiệm về thực hiện chính
sách BĐKH đã nêu trên rất phong phú, bao quát khá nhiều nội dung vấn đề của
chính sách, thể hiện trên nhiều khía cạnh và bình diện khác nhau, tùy thuộc vào mục
tiêu nghiên cứu của các tác giả. Tuy nhiên, việc nghiên cứu vấn đề thực hiện chính
sách ứng phó với BĐKH theo logic tuần tự, từ vấn đề khung lý luận, đến thực tiễn
quá trình thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB, trên cơ sở đó đề xuất các quan
điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng
TNB. Còn rất nhiều khoảng trống để luận án tiến tiếp tục nghiên cứu để bổ sung,
36
hoàn thiện thêm vấn đề này.
CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
2.1. Chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu
2.1.1. Một số khái niệm then chốt 2.1.1.1. Khái niệm về chính sách công
Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về chính sách công, tùy thuộc vào các cách
tiếp cận mà các học giả đưa ra các quan niệm khác nhau, sau đây là một số quan
điểm tiếp cận phổ biến:
a. Tiếp cận khoa học chính trị
Trên nền tảng của khoa học chính trị, chính sách không đơn thuần chỉ là một
quyết định để giải quyết một vấn đề cụ thể, mà nó là đường lối hay quan điểm hành
động của chủ thể. Theo Hugh Heclo (1972) đưa ra định nghĩa một chính sách có thể
được xem như là một đường lối hành động hoặc không hành động thay vì những
quyết định hoặc các hành động cụ thể [221 tr.83-108]. Còn David Easton (1953) lại
cho rằng, chính sách bao gồm một chuỗi các quyết định và các hành động mà trong
đó phân phối thực hiện các giá trị trong xã hội [210, tr.544-547]. Tác giả Adam
Smith (1976) lại quam niệm rằng, chính sách bao hàm sự lựa chọn có chủ định hành động hoặc không hành động, thay vì những tác động của các lực lượng có quan hệ
với nhau [96].
Tiếp nối quan điểm trên, Thomas Dye (1972) lại đưa ra một định nghĩa khá cô
đọng về chính sách công như sau: chính sách công là bất kỳ những gì Nhà nước lựa
chọn làm hoặc không làm. Định nghĩa này tuy ngắn gọn, những lại chỉ ra những dấu
hiệu nhận biết nhất định về chính sách công, đó là, chủ thể ban hành là Nhà nước.
Tuy nhiên, lại không cung cấp những hiểu biết sâu sắc về chính sách công bởi nó
không đưa ra được những phân định những hoạt động của Nhà nước [209]. Tác giả William Jenkins (1978) đã đưa ra định nghĩa cụ thể hơn, chính sách công là một tập
hợp các quyết định liên quan với nhau được ban hành bởi một hoặc một nhóm các nhà chính trị gia cùng hướng đến lựa chọn mục tiêu và các phương thức để đạt mục tiêu trong một môi trường xác định thuộc phạm vi thẩm quyền. Theo đó, chính sách công là một quá trình chứ không đơn giản chỉ là một sự lựa chọn; đồng thời, định
nghĩa này cũng cho thấy một cách rõ ràng rằng chính sách công là một tập hợp các
37
quyết định có liên quan mật thiết với nhau. Vì trên thực tế, hiếm khi Nhà nước giải quyết một vấn đề công bằng một quyết định đơn lẻ mà hầu hết đều phải bao gồm
hàng loạt các quyết định khác nhau [228]. Còn Jame Anderson (1984) đưa ra định nghĩa khái quát hơn về chính sách công. Ông cho rằng, chính sách công là đường
lối hành động có mục đích được ban hành bởi một hoặc một tập hợp các nhà hoạt
động chính trị để giải quyết các vấn đề trong xã hội [190]. Định nghĩa này bổ sung
thêm hai thành tố cho các định nghĩa của William Jenkins và Thomas Dye. Bởi, định nghĩa này chỉ ra rằng, các quyết định chính sách thường được ban hành bởi
một tập thể các nhà hoạt động chính trị, thay vì một nhóm hoặc một nhà hoạt động
duy nhất trong bộ máy Nhà nước.
b. Cách tiếp cận khoa học hành chính
Theo trường phái khoa học hành chính, tác giả B. Guy Peters (1990) đưa ra khái niệm: chính sách công là toàn bộ các hoạt động của Nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân trong xã hội. Quan niệm này của B. Guy Peters đã bổ sung thêm một khía cạnh quan trọng của chính sách công, đó là tác động của chính sách công đến đời sống của mọi người dân hay cộng đồng xã hội, thay vì tác động lên một cá nhân hoặc một tổ chức cụ thể [245, tr.420-428].
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…” [49, tr.475]. Theo định nghĩa này thì mục đích của chính sách công là thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng chứ không đơn giản chỉ dừng lại ở việc giải quyết vấn đề công. Nói cách khác, chính sách công là công cụ để thực hiện mục tiêu chính trị của Nhà nước.
c. Tiếp cận khoa học chính sách
Còn dưới góc độ khoa học chính sách, theo Vũ Cao Đàm, “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội.” [48]. Khái niệm “hệ thống xã hội” ở đây được hiểu theo một ý nghĩa khái quát. Đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành chính, một doanh nghiệp, một nhà trường… [50].
Từ nhiều định nghĩa khác nhau, luận án đi đến tổng tích hợp một định nghĩa
có tính hệ thống tổng quát như sau: Chính sách công là tập hợp các biện pháp được
thể chế hóa của Nhà nước, nhằm giải quyết các vấn đề chính sách theo mục tiêu ưu
38
tiên đã được xác định trong môi trường luôn biến động.
Khái niệm trên cho thấy nội hàm của của chính sách bao gồm các vấn đề sau:
(i) Chính sách công là chính sách do Nhà nước ban hành.
(ii) Do Nhà nước chủ động xây dựng để tác động trực tiếp lên các đối tượng
quản lý một cách tương đối ổn định, cho thấy bản chất của chính sách công là là
hoạt động mang tính định hướng của Nhà nước, để giải quyết những vấn đề phát
sinh trong đời sống xã hội.
(iii) Chính sách luôn xác định mục tiêu cần đạt tới và điều kiện bảo đảm bảo
thực hiện mục tiêu thì cần phải đảm bảo các nguồn lực tương ứng: con người,
nguồn lực tài chính, môi trường chính trị, pháp lý, văn hóa xã hội.
(iv) Do môi trường thực hiện chính sách luôn biến động nên các chủ thể tham
gia của chính sách cũng phải luôn chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong quá trình thực
hiện các chính sách.
2.1.1.2. Khái niệm liên quan đến biến đổi khí hậu
Theo Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH năm 1992, “BĐKH là
sự biến đổi của khí hậu do hoạt động của con người gây ra một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu và do sự biển động tự
nhiên của khí hậu quan sát được trong những thời kỳ có thể so sánh được.” [71].
Theo Bộ TN&MT (2008) “BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với
trung bình và/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài,
thường là vài thập kỷ, hàng trăm năm hoặc dài hơn. BĐKH có thể là do các quá
trình tự nhiên bên trong hoặc các tác động bên ngoài, hoặc do hoạt động của con
người làm thay đổi thành phần của khí quyển hay trong khai thác sử dụng đất” [22].
- Thiên tai: các thay đổi nghiêm trọng trong chức năng bình thường của một
cộng đồng hay một xã hội do các hiểm họa tự nhiên tương tác với các điều kiện dễ
bị tổn thương của xã hội, dẫn đến các ảnh hưởng bất lợi rộng khắp đối với con
người, vật chất, kinh tế hay môi trường, đòi hỏi phải ứng phó khẩn cấp để đáp ứng
các nhu cầu cấp bách của con người và có thể phải cần đến sự hỗ trợ từ bên ngoài.
- Giảm nhẹ rủi ro thiên tai: là làm giảm bớt các tác động tiêu cực tiềm ẩn
của các nguy cơ vật lý (bao gồm cả những nguy cơ con người gây ra) thông qua
các hành động làm giảm mức độ nguy hiểm, mức độ phơi nhiễm và khả năng bị
39
tổn thương.
2.1.1.3. Khái niệm ứng phó với biến đổi khí hậu
Ứng phó với BĐKH: là các hoạt động của con người nhằm thích ứng với
BĐKH và giảm phát thải KNK (giảm nhẹ BĐKH). Vậy ứng phó với BĐKH có 2
nội dung là thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ tác động của BĐKH.
- Thích ứng với BĐKH: là sự điều chỉnh trong hệ thống tự nhiên hoặc nhân
tạo để ứng phó với các tác nhân khí hậu hiện tại và tương lai, như: làm giảm những
thiệt hại hoặc tận dụng các cơ hội có lợi của BĐKH mang lại; đồng thời, tạo cho
con người có sự chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện tinh thần, vật chất, kỹ năng và tập
quán, thói quen sinh sống, ổn định sinh kế để họ có thể sống chungvới sự thay đổi
do các yếu tố khí hậu gây nên. Nói một cách khác, mục đích của thích ứng với
BĐKH là giảm sự tổn thương, tăng cường năng lực thích ứng, quản lý và giảm rủi
ro do tác động của khí hậu tới cuộc sống cũng như sinh kế của người dân [154].
Do đó, thích ứng là quá trình điều chỉnh được các hoạt động của con người,
đòi hỏi sự tham gia của nhiều đối tượng, nhiều thành phần và được thực hiện ở
nhiều cấp độ khác nhau từ Trung ương tới địa phương theo từng bước trong một
quy trình thống nhất, được thực hiện lâu dài. Thích ứng cần được thực hiện sao cho
hiệu quả nhất và phù hợp nhất, không gây xáo trộn lớn đến cuộc sống của người
dân cũng như không ảnh hưởng đến hoạt động KT-XH của khu vực [154].
- Giảm nhẹ BĐKH: là sự can thiệp của con người làm giảm nguồn và cải thiện bể
chứa các KNK. Giảm nhẹ là việc giảm tốc độ của BĐKH thông qua việc quản lý các tác
nhân của nó (phát thải KNK từ quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch, từ nông nghiệp,
từ thay đổi sử dụng đất, từ sản xuất xi măng,…) [176, tr.399-400].
Việc giảm nhẹ BĐKH cần được tập trung vào các hoạt động đồng có lợi, vừa
giảm nhẹ được phát thải KNK vừa mang lợi ích KT-XH. Giảm nhẹ BĐKH thể hiện
sự tích cực của Việt Nam trong thực hiện trách nhiệm chung bảo vệ hệ thống khí
hậu trái đất. Giảm nhẹ BĐKH cũng là điều kiện để tiếp nhận hỗ trợ quốc tế về tài
chính và chuyển giao công nghệ hiện đại. Đây cũng là cơ hội để đổi mới công nghệ
trong nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất và tính cạnh tranh trên
trường quốc tế.
Thích ứng và giảm nhẹ là hai mặt của một nhiệm vụ chung là ứng phó với
BĐKH và có quan hệ chặt chẽ, bổ trợ cho nhau. Nếu làm tốt công tác giảm nhẹ, đặc
biệt là nếu các nước công nghiệp giảm bớt việc sử dụng nhiên liệu hoá thạch, giảm
bớt phát thải KNK ở nhiều lĩnh vực khác, có thể hạn chế được sự nóng lên của trái
40
đất, khí hậu và thiên tai sẽ bớt khắc nghiệt, dị thường trái với quy luật và tình trạng
tổn thương của các khu vực sẽ được giảm nhẹ. Điều này đồng nghĩa với công tác
thích ứng dễ dàng hơn và chi phí cho thích ứng có thể giảm xuống.
2.1.2. Những biểu hiện và điều khoản của chính sách 2.1.2.1. Những biểu hiện của chính sách
Những người làm chính sách cần có kỹ thuật (và nghệ thuật) sử dụng kết hợp các loại thiết chế này trong một văn bản chính sách, hoặc trong một số văn bản
chính sách có liên quan. Hơn nữa, chủ thể chính sách cũng phải biết dự kiến tối đa
những thiết chế ngầm định ngoài mong muốn, dẫn đến hạn chế hiệu quả của một
chính sách [65, tr.65].
Mặt khác, chính sách của Nhà nước không thể chỉ tuyên bố bằng lời, mà phải thể hiện trên một loại văn bản của Nhà nước gọi chung là văn bản quy phạm pháp
luật. Chẳng hạn, chính sách BVMT được công bố dưới dạng một Bộ luật BVMT.
Văn bản quy phạm pháp luật được công bố dưới nhiều hình thức đa dạng, tùy tính chất của chính sách cần khẳng định đến mức độ nào trong hệ thống chính sách. Gọi
chung các văn bản quy phạm pháp luật là phương tiện thể hiện chính sách của một
chủ thể quản lý. Cũng có thể gọi một cách đơn giản là “vật mang chính sách” ở đây là
vật mang pháp lý của chính sách. Ngoài ra, còn tồn tại nhiều loại vật mang đa dạng
khác nhau, như: xuất bản phẩm, bao bì hàng hóa, các phương tiện truyền thông…
- Luật: Luật là một văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất sau Hiến pháp, do
Quốc hội ban hành. Chính sách được công bố dưới dạng một luật của Quốc hội là
chính sách ở tầm một văn bản có giá trị pháp lý cấp cao nhất, có hiệu lực trong một
thời gian dài. Tất cả các chính sách có liên quan đều không được trái với những
chính sách quy định trong đạo luật này. Về lý thuyết, luật là văn bản pháp lý có giá
trị hiệu lực cao nhất, nhưng ở Việt Nam, một đạo luật không có giá trị thực thi nếu
chưa có các văn bản hướng dẫn của cấp dưới, ví dụ, Nghị định của Chính phủ và
các Thông tư hướng dẫn cấp bộ và liên bộ.
- Nghị định: Nghị định là một văn kiện chính sách cấp Chính phủ. Nghị định có chức năng tuyên bố về một chính sách của Nhà nước, có giá trị trong toàn xã hội.
Chính sách được công bố dưới dạng một văn kiện cấp Chính phủ có giá trị pháp lý thấp hơn một đạo luật của Quốc hội và không được trái với những quy định trong các đạo luật của Quốc hội. Trong một số trường hợp, Chính phủ cũng ban hành chính sách dưới dạng những quyết định, nghị quyết, chỉ thị và có thể được hiểu như sau:
- Quyết định: Quyết định là tuyên bố của một chủ thể quản lý có thể dưới dạng
thành văn hoặc bất thành văn, hướng tới đối tượng quản lý có giá trị trong toàn hệ
41
thống quản lý. Cấp nào cũng có thể ra văn bản quyết định.
- Chỉ thị: Chỉ thị là tuyên bố của một chủ thể quản lý hướng tới các đối tượng
quản lý thuộc quyền quản lý của mình. Chỉ thị là một phương tiện mà một cấp quản
lý sử dụng để buộc cấp dưới thực hiện đúng đòi hỏi của mình. Theo Luật thì các
UBND cũng có thể ban hành các chỉ thị.
- Nghị quyết: Nghị quyết là thỏa thuận bằng văn bản của một tổ chức về hệ
thống biện pháp chính sách. Các tổ chức xã hội luôn có những nghị quyết về mọi
hoạt động của mình. Trong thực tế chính sách ở Việt Nam, chúng ta từng gặp nhiều
chính sách có vật mang là nghị quyết. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, với vai trò của
đảng cầm quyền, cấp ủy đảng các cấp cũng có thẩm quyền ban hành các nghị quyết
và chỉ thị tới các tổ chức đảng cấp dưới, qua đó, thực hiện sự lãnh đạo của đảng với
chính quyền. Thông thường, một chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy đảng cũng có hiệu
lực chỉ đạo thực hiện đối với chính quyền cùng cấp.
- Thông tư: Thông tư là một văn bản được ban hành bởi các bộ hoặc liên bộ
nhằm hướng dẫn thực hiện một nghị định (hoặc quyết định/nghị quyết/chỉ thị) của
Chính phủ [50].
2.1.2.2. Các loại điều khoản trong văn bản chính sách
Trong bất kì văn bản chính sách thuộc cấp nào cũng luôn tồn tại 3 loại điều
khoản: điều khoản cưỡng chế, điều khoản hướng dẫn và điều khoản tùy nghi.
(i) Điều khoản cưỡng chế là loại điều khoản bắt buộc, không được phép làm trái.
(ii) Điều khoản hướng dẫn là loại điều khoản chỉ dẫn cách thức thực hiện một
hoạt động nào đó.
(iii) Điều khoản tùy nghi là loại điều khoản được vận dụng tùy tình huống cụ
thể, không cưỡng chế, bắt buộc ai phải thực hiện cũng không hướng dẫn ai mà tùy
nghi, ai cần thì áp dụng [49, tr.24, 26].
Do vậy, khi chuẩn bị quyết định chính sách, chủ thể chính sách cần xác định
rõ từng loại điều khoản sẽ được quy định trong chính sách.
2.1.3. Ứng phó với biến đổi khí hậu 2.1.3.1. Các biểu hiện biến đổi khí hậu
BĐKH và NBD có những biểu hiện chính như sau: - Nhiệt độ trung bình, tính biến động và dị thường của thời tiết và khí hậu
tăng lên.
- Lượng mưa thay đổi bất thường trong năm, mưa trái mùa, mưa bất thường,
mưa lớn cục bộ diễn ra trên diện rộng.
42
- Mực NBD lên do sự tan băng ở các Cực và các đỉnh núi cao.
- Các thiên tai và hiện tượng thời tiết cực đoan (nắng nóng, giá rét, bão, lũ lụt, lũ quét, lũ ống, hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở đất...) xảy ra với tần suất, độ bất thường [154, tr.25]. 2.1.3.2. Các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu
Có nhiều biện pháp thích ứng với BĐKH. Báo cáo đánh giá lần thứ 2 của
Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) đã đề cập và miêu tả 228 phương pháp thích
ứng khác nhau. Cách phân loại phổ biến là chia các phương pháp thích ứng ra
thành các nhóm:
- Chấp nhận tổn thất: Phản ứng cơ bản là không làm gì cả, ngoại trừ chịu đựng
hay chấp nhận những tổn thất. Trên lý thuyết, chấp nhận tổn thất xảy ra khi bên chịu
tác động không có khả năng chống chọi lại bằng bất kỳ cách nào (ví dụ như ở những
cộng đồng nghèo vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, hay ở nơi mà giá phải trả
cho các hoạt động thích ứng là cao so với sự rủi ro hay là các thiệt hại có thể).
- Chia sẻ tổn thất: Loại phản ứng thích ứng này liên quan đến việc chia sẻ
những tổn thất giữa một cộng đồng dân cư. Cách thích ứng này thường xảy ra trong
một cộng đồng truyền thống và trong xã hội hiện đại. Trong xã hội truyền thống,
nhiều cơ chế phi chính thức tồn tại để chia sẻ những tổn thất giữa các cộng đồng,
như: giữa các hộ gia đình, họ hàng, làng mạc hay các cộng đồng nhỏ tương tự. Mặt
khác, các cộng đồng lớn của xã hội hiện đại phát triển cao, thì các hình thức chia sẻ
những tổn thất thông qua cứu trợ cộng đồng, phục hồi và tái thiết bằng các quỹ hỗ
trợ công cộng, mạng lưới an sinh xã hội. Chia sẻ tổn thất cũng có thể được thực
hiện thông qua bảo hiểm nông nghiệp hoặc bảo hiểm rủi ro thiên tai.
- Làm thay đổi nguy cơ: Ở một mức độ nào đó, người ta có thể kiểm soát được
những mối nguy hiểm do BĐKH. Đối với một số hiện tượng thiên tai, như: lũ lụt
hay hạn hán, những biện pháp thích hợp là công tác kiểm soát lũ lụt, là đầu tư cho
hệ thống thủy lợi (xây đập, đê, kè). Đối với BĐKH, có thể điều chỉnh thích hợp làm
chậm tốc độ BĐKH bằng cách giảm phát thải KNK và cuối cùng là ổn định nồng độ
KNK trong khí quyển.
- Ngăn ngừa các tác động: Là một hệ thống các biện pháp thường dùng để
thích ứng từng bước và ngăn chặn các tác động và rủi ro tiềm tàng do BĐKH. Ví
dụ, trong lĩnh vực nông nghiệp, thay đổi phương thức canh tác, quản lý mùa vụ để
thích ứng với sự thay đổi của thời tiết cực đoan.
43
-Thay đổi cách sử dụng: Khi những rủi ro của BĐKH làm cho không thể tiếp tục các hoạt động sản xuất, kinh doanh, người ta có thể thay đổi cách sử dụng. Ví
dụ, để ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn người nông dân có thể chuyển sang sử dụng những giống cây chịu hạn, mặn tốt hơn.
- Di chuyển địa điểm cư trú, sản xuất: Trong trường hợp một số hiện tượng
thời tiết cực đoan đe dọa sự an toàn của một nhóm cộng đồng, thì cần sử dụng biện
pháp là thay đổi/chuyển địa điểm của các hoạt động cứ trú, kinh tế. Ví dụ, việc di chuyển một nhóm cộng đồng dân cư ở khu vực sạt lở bờ sông, bờ biển đến nơi ở
mới an toàn hơn. Tuy nhiên, việc lựa chọn giải pháp này thường rất tốn kém về mặt
kinh phí, và sự đồng thuận của nhóm đối tượng cộng đồng bị di chuyển địa điểm.
- Nghiên cứu: Quá trình thích ứng được thực hiện dựa vào các nghiên cứu và
ứng dụng triển khai công nghệ trong các lĩnh vực khác nhau (hạ tầng, giao thông,
năng lượng, nông nghiệp). Thích ứng thông qua nghiên cứu thì Nhà nước phải đầu
tư cho mạng lưới nghiên cứu và tổ chức khoa học công nghệ.
- Giáo dục, truyền thông nhằm thay đổi hành vi: Hoạt động thích ứng dựa vào phổ
biến kiến thức thông qua các chiến dịch thông tin công cộng và giáo dục, dẫn đến việc
thay đổi hành vi. Ví dụ, giải pháp truyền thông hưởng ứng giờ trái đất, để giúp cộng
đồng có ý thức tiết kiệm điện, giảm phát thải KNK bảo vệ trái đất [154].
Nghiên cứu về thích ứng với BĐKH hiện tại đã chỉ rõ rằng các hoạt động
thích ứng hiện nay của con người nhiều khi không mang lại kết quả tốt như kỳ
vọng. Bởi, những thiệt hại nặng nề ngày càng gia tăng do các thiên tai lớn, các thảm hoạ thiên nhiên gây ra, vượt qua khả năng phòng vệ của con người. Tuy nhiên,
không thể quy kết những thiệt hại này chỉ do các hiện tượng đó, mà còn do sự thiếu
sót trong hoạch định và thực thi các chính sách thích ứng với BĐKH ở phạm vi toàn
cầu, khu vực và quốc gia. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, thì chính sách
ứng phó với BĐKH vẫn tập trung chủ yếu vào hoạt động thích ứng với BĐKH. Bởi,
thích ứng là một quá trình điều chỉnh được các hoạt động của con người, đòi hỏi sự
tham gia của nhiều đối tượng, nhiều thành phần và được thực hiện ở nhiều cấp độ
khác nhau theo từng bước trong một quy trình thống nhất, được thực hiện lâu dài. Thích ứng cần được thực hiện sao cho hiệu quả nhất và phù hợp nhất, không gây
xáo trộn lớn đến cuộc sống của người dân, cũng như không ảnh hưởng đến hoạt động KT-XH của địa phương [154, tr.43-44]. 2.1.3.3. Các biện pháp giảm nhẹ ảnh hưởng của BĐKH
Đối với việc giảm nhẹ BĐKH, bao gồm các hoạt động cụ thể nhằm giảm phát
thải khí nhà kính trong các lĩnh vực/ngành kinh tế chủ yếu như:
44
- Trong lĩnh vực năng lượng thông qua việc nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo tồn năng lượng chiếu sáng; chương trình tiết kiệm năng lượng và nâng cao hiệu quả
sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp, hộ gia đình; tiết kiệm năng lượng trong giao thông vận tải. Ngoài ra, còn thúc đẩy nghiên cứu, triển khai và tăng
cường sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo: năng lượng mặt trời, điện gió, năng
lượng sinh khối, địa nhiệt…
- Trong ngành lâm nghiệp, tập trung thực hiện Chương trình trồng rừng nhằm tăng độ che phủ của rừng; Chương trình RED, RED+; xây dựng chương trình hành
động nhằm ngăn chặn tình trạng giảm sút tài nguyên rừng và phục hồi rừng thông
qua bảo vệ rừng hiện có hay khoanh nuôi phục hồi và trồng mới rừng... Bên cạnh
đó, cần thu hút sự tham gia của các hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ rừng và
trồng rừng.
- Trong ngành nông nghiệp có tính đến yêu cầu ứng phó với BĐKH, các
phương thức canh tác bền vững được sử dụng như xây dựng các biện pháp kỹ thuật
canh tác nông nghiệp mới vừa tăng sản lượng và năng suất nông nghiệp, vừa giảm
nhẹ phát thải KNK (chọn giống lúa ngắn ngày có năng suất và chất lượng cao, chọn
biện pháp gieo thẳng thay cho cấy, chuyển đổi cơ cấu cây trồng độc canh sang lúa -
màu, bón phân dạng viên thích hợp cho việc bón phân đơn, cải thiện nước tưới tiêu
ruộng lúa...
2.1.3.4. Năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu
Để ứng phó hiệu quả với ảnh hưởng của BĐKH phụ thuộc rất nhiều vào năng lực ứng phó của các chủ thể liên quan (năng lực tổ chức Nhà nước, năng lực của
doanh nghiệp, năng lực của cộng đồng…). Năng lực là tổng hợp các nguồn lực,
điểm mạnh và đặc tính sẵn có trong từng cá nhân, cộng đồng, xã hội và tổ chức có
thể được sử dụng nhằm đạt được các mục tiêu chung [227, tr.33]. Năng lực có tính
động và thay đổi tùy theo hoàn cảnh cụ thể. Nâng cao năng lực thường được xác
định như là mục tiêu của các chính sách và các dự án, dựa trên quan điểm cho rằng
tăng cường năng lực cuối cùng sẽ dẫn đến giảm nguy cơ rủi ro. Năng lực đóng vai
trò quan trọng trong việc hạn chế các tác động của BĐKH [227, tr.72].
Năng lực thích ứng: là sự kết hợp của tất cả các điểm mạnh, thuộc tính và
nguồn lực sẵn có cho một cá nhân, cộng đồng, xã hội, hoặc tổ chức có thể được sử
dụng để chuẩn bị và thực hiện các hành động để giảm tác động xấu, giảm thiệt hại
hoặc tận dụng các cơ hội có lợi. Năng lực thích ứng đề cập đến khả năng dự đoán
và thay đổi cơ cấu, chức năng, hoặc tổ chức để tồn tại tốt hơn trước các hiểm họa.
Nhu cầu năng lực trong mỗi giai đoạn ứng phó với BĐKH là khác nhau, phụ
thuộc vào khả năng dự báo và phòng tránh trước khi rủi ro xảy ra, khả năng đối
45
phó khi hiểm họa xảy ra, và khả năng phục hồi và thay đổi sau khi xảy ra thiên
tai và BĐKH. Ngoài ra, khi nghiên cứu về năng lực ứng phó với BĐKH thì cần tính
đến khả năng chống chịu. Khả năng chống chịu của một hệ thống được định nghĩa
là khả năng phán đoán, tiếp nhận, điều chỉnh và phục hồi từ những ảnh hưởng của
một hiện tượng nguy hiểm một cách kịp thời và hiệu quả. Khả năng chống chịu bao
gồm khả năng giữ gìn, hồi phục và tăng cường các cấu trúc và chức năng cơ bản,
quan trọng của hệ thống đó [227, tr.34].
2.1.4. Chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu
Từ khái niệm chính sách công, BĐKH, ứng phó với BĐKH, luận án khái quát
hóa lại khái niệm chính sách ứng phó với BĐKH như sau: là tập hợp các biện pháp
ứng phó được thể chế hóa, bao gồm mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách của
Nhà nước, nhằm thực hiện mục tiêu ưu tiên thích ứng với tác động bất lợi và giảm
nhẹ các ảnh hưởng của BĐKH, đồng thời tận dụng các cơ hội có lợi do BĐKH
mang lại.
Như đã phân tích ở trên thì chính sách ứng phó với BĐKH có nội dung rất
rộng, tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau mà giới hạn nội hàm, cách phân loại
chính sách ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, sự phân loại này cũng chỉ mang tính
chất tương đối.
a. Phân loại theo nội hàm chính sách
- Chính sách thích ứng với BĐKH: các chính sách tập trung vào các giải pháp
để khuyến khích góp phần điều chỉnh, chuyển đổi hệ thống KT-XH, ngành/lĩnh vực
kinh tế, chuyển đổi các mô hình sản xuất nhằm phù hợp với sự thay đổi của khí hậu.
- Chính sách giảm nhẹ BĐKH: tập trung vào các chính sách nhằm chuyển đổi
sang nền kinh tế xanh, các-bon thấp nhằm giảm phát thải KNK.
b. Phân loại theo tính chất của chính sách
- Chính sách công trình: là tập trung vào các chính sách khuyến khích các giải
pháp công trình nhằm ứng phó với BĐKH (tập trung vào làm đê biển, đê sông, kè
sông, hệ thống thuỷ lợi, đường giao thông, hạ tầng đô thị…) có tính đến yếu tố thích
ứng với BĐKH.
- Chính sách phi công trình: các chính sách nhằm các giải pháp phi công trình,
bán công trình có tính đến thích ứng với BĐKH: chính sách chuyển đổi mô hình
sinh kế sản xuất của cộng đồng; chính sách trồng rừng ngập mặn, rừng ven biển;
chính sách thúc đẩy ứng dụng KH&CN nhằm ứng phó với BĐKH; chính sách ứng
46
phó với BĐKH dựa vào tri thức bản địa, văn hoá cộng đồng…
c. Phân loại theo nhóm nguồn lực chính sách
- Chính sách nâng cao năng lực bộ máy: tập trung vào nâng cao năng lực của
bộ máy thực hiện chính sách từ Trung ương đến địa phương.
- Chính sách hạ tầng: tập trung vào các chính sách về hạ tầng thuỷ lợi, giao
thông… nhằm ứng phó với BĐKH.
- Chính sách tài chính cho BĐKH: tập trung thực hiện các chính sách nhằm
huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho BĐKH.
- Chính sách KH&CN: chính sách thúc đẩy đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng
và triển khai công nghệ nhằm ứng phó với BĐKH.
- Chính sách hội nhập và hợp tác quốc tế về BĐKH: tận dụng sự hỗ trợ về kỹ
thuật, kỹ năng và tài chính cho các mô hình ứng phó với BĐKH của các tổ chức
quốc tế, tổ chức NGOS ở nước ngoài.
2.1.5. Vùng sinh thái - xã hội trong ứng phó với biến đổi khí hậu
2.1.5.1. Khái niệm vùng sinh thái - xã hội
Phân vùng lãnh thổ đối với bất kỳ lãnh thổ nào đều có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng cho công tác quản lý tổng hợp lãnh thổ theo vùng. Phân vùng lãnh thổ là sự
phân chia lãnh thổ thành các khu vực riêng biệt dựa vào tính không lặp lại trong
không gian, có cấu trúc riêng biệt, bao gồm một tập hợp có quy luật các đơn vị lãnh
thổ theo kiểu loại. Tùy thuộc vào từng quy mô, cách tiếp cận và mục đích nghiên
cứu lãnh thổ sẽ có các cấp và tiêu chí phân loại khác nhau, đối với cấp phân loại
tiểu vùng - được xem là cấp phân vùng cơ sở, mỗi tiểu vùng đều có chức năng đặc
thù và có thể thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi đặc điểm cấu trúc lãnh thổ.
Khái niệm “vùng” được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu và văn bản
nhà nước. Tuy nhiên, chưa có sự thống nhất cao về nội hàm của khái niệm này. Các
khác biệt xuất phát từ các góc độ xem xét và cách tiếp cận như theo phương diện
địa lý và điều kiện tự nhiên, hành chính, tài nguyên sinh thái, lưu vực sông, phát
triển KT-XH,… Từ định nghĩa về vùng của Hoover E. M. (1984) và Lê Bá Thảo
(1998) thì “vùng là một bộ phận lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia với các đặc
điểm khác biệt về địa lý tự nhiên và xã hội, có trình độ phát triển khác biệt, có cấu
trúc và hoạt động như một hệ thống trong mối quan hệ tương hỗ với quốc gia và với
vùng khác” [222], [103] [142]. Theo định nghĩa này, vùng có thể là vùng liên quốc gia,
vùng liên bang trong một quốc gia, vùng độc lập trong một quốc gia và có sự phân biệt
47
rõ về lãnh thổ giữa vùng này và vùng khác. Các vùng này có sự phát triển khác nhau
nên đòi hỏi phải có những can thiệp để phát triển đồng đều và phát triển toàn diện. Về
hình thức, vùng có nhiều hình thức khác nhau như: vùng thủ đô, vùng tam giác hay tứ
giác phát triển, vùng liên bang, vùng KT-XH, vùng hành lang kinh tế, vùng hành chính
kinh tế đặc biệt, vùng kinh tế động lực, vùng kinh tế trọng điểm…
Theo định nghĩa đã nêu ở trên, vùng là một bộ phận lãnh thổ với các đặc điểm
khác biệt về địa lý tự nhiên và xã hội, có trình độ phát triển khác biệt, điều này hàm
ý, vùng là một khu vực lãnh thổ có những đặc thù để phân biệt với các vùng khác.
Chính tính chất đặc thù này cấu thành nên sự khác biệt của các vùng khác nhau.
Theo đó, có thể có vùng có đặc thù về địa lý tự nhiên như ở vùng núi cao hay vùng
biển, có vùng có đặc thù về kinh tế như vùng động lực kinh tế hay vùng nghèo và
kém phát triển về kinh tế, có vùng có đặc thù về xã hội như vùng tập trung dân tộc
thiểu số và bất bình đẳng xã hội trầm trọng, có vùng có tầm quan trọng đặc thù về
an ninh, quốc phòng…Các đặc thù càng nhiều càng làm cho các vùng dễ phân biệt
với nhau hơn và càng làm cho vùng đa dạng hơn. Theo cách nhìn như vậy, đặc thù
của vùng có ý nghĩa rộng hơn và bao trùm lên cả nội dung về cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội như quan niệm của Ngô Doãn Vịnh (2003)2 [142].
Đặc thù vùng - thể chế: Đặc thù vùng là những yếu tố khách quan quy định thể chế vùng và do đó quy định quản trị vùng là yếu tố chủ quan. Thể chế vùng là thể chế ở cấp độ vùng, chỉ tồn tại để phục vụ cho việc quản trị vùng đó. Ví dụ vùng TNB là vùng phải dựa chủ yếu vào tài nguyên nước của sông Cửu Long nên đòi hỏi phải có sự liên kết thể chế với nhau để quản trị, chia sẻ hiệu quả nguồn tài nguyên nước [142].
Đặc thù vùng - kinh tế: Mỗi vùng đều có các điều kiện để phát triển kinh tế khác nhau. Với hệ thống sông nước và hệ sinh thái đa dạng, vùng TNB còn có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế thuỷ sản, trái cây, lúa gạo...
2 Ngô Doãn Vịnh (2003, tr.184) cho rằng: vùng kinh tế là một hệ thống KT-XH lãnh thổ, bao gồm các mối liên hệ tương tác nhiều chiều giữa các bộ phận cấu thành: liên hệ địa lý, liên hệ về kỹ thuật, liên hệ về kinh tế và liên hệ về các mặt xã hội trong hệ thống cũng như với ngoài hệ thống. Mỗi vùng là một tập hợp các thành tố tự nhiên, KT-XH. Đặc tính và trình độ phát triển của nó được phản ánh bởi cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội của nó (trong đó có cả cơ cấu các yếu tố tự nhiên bền vững). Nói cách khác, cơ cấu là thuộc tính quan trọng nhất của vùng. Vùng này khác vùng kia là bởi cơ cấu của nó [182].
48
Đặc thù vùng - văn hoá: Văn hoá, phong tục tập quán cũng có vai trò quan trọng trong việc tạo nên tính đặc thù vùng, và ứng xử với môi trường tự nhiên. Ví dụ, do sinh kế nông nghiệp gắn với sông nước, nên cư dân vùng nông thôn ở vùng TNB thường sinh sống ven bờ sông, bờ biển; nên dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở bờ sông, bờ biển.
Đặc thù vùng - môi trường: Các đặc thù vùng sinh thái có những tác động trực tiếp và gián tiếp đến môi trường nơi con người sinh sống. Ví dụ, như môi trường
vùng TNB gắn với sông nước, cư dân bám biển, bãi bồi. Tuy nhiên, BĐKH và thiên
tai, thời tiết cực đoan đã làm thay đổi môi trường sinh sống, di cư và thay đổi sinh
kế của một số nhóm cộng đồng dân cư vùng TNB.
Theo Luật Quy hoạch 2017, thì “vùng là một bộ phận quốc gia bao gồm một
số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lân cận gắn với lưu vực sông hoặc có sự
tương đồng về điều kiện tự nhiên, KT-XH, lịch sử, dân cư, kết cấu hạ tầng và có mối quan hệ tương tác tạo ra sự liên kết bền vững với nhau”.3Theo quan điểm của Trương Quang Hải (2012), tiểu vùng là cấp dưới vùng, được phân chia dựa trên
những đặc thù về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, dân cư, KT-XH các vùng phân hoá
thành các tiểu vùng [58]. Dựa trên quan điểm đó Trần Thanh Hà (2012), đã đưa ra
cách tiếp cận vùng theo hướng chuyên môn hoá, theo hướng tiếp cận tiểu vùng chức
năng [55]. Theo đó, tiểu vùng chức năng là cách tiếp cận không theo các tiếp cận
truyền thống về vùng là không bị giới hạn theo địa giới hành chính, lãnh thổ. Tiểu
vùng là cách tiếp cận theo các đặc thù hệ thống sinh thái - xã hội của từng khu vực
trong các địa phương khác nhau, xuất phát từ nhu cầu phát triển KT-XH. Tuy nhiên,
hiện nay chưa có văn bản pháp lý nào công nhận tính pháp lý của các phân chia tiểu
vùng này.
Tiếp cận vùng sinh thái - xã hội là hướng tiếp cận liên ngành được đề cập từ những năm 70 - 80 của thế kỷ XX nhằm vượt qua rào cản của sự tách biệt giữa KT- XH, văn hóa, với vốn tự nhiên, HST để hướng tới khả năng thích ứng được tổ chức tốt về mặt thể chế cho quản lý tài nguyên, môi trường một cách bền vững. Theo đó, khái niệm “hệ sinh thái xã hội” (social ecological system) ban đầu được coi la hệ thống các đơn vị địa lý - sinh học - tự nhiên (bio - geo - physical units) và các tác nhân tổ chức xã hội liên quan trong các hệ thống đó [213, tr.77-80]. Hay (Elinor Ostrom, 2009) và các cộng sự đã xây dựng lý thuyết và khung phân tích hệ sinh thái - xã hội (SES) toàn diện hơn, phục vụ quản lý tài nguyên, PTBV lãnh thổ và được
ứng dụng rộng rãi trên thế giới [241]. Còn theo Trương Quang Học (2016), vùng chức năng theo các tiếp cận sinh thái - xã hội là một biến thể của hệ sinh thái nhân văn, nhấn mạnh yếu tố xã hội với nội hàm là một hệ thống phức tạp và thống nhất bao gồm cả con người và tự nhiên cấu thành với một đơn vị sinh - vật - địa và các
3 Điều 3, khoản Luật Quy hoạch được Quốc hội khóa 14 thông qua vào tháng 11/2017 và có hiệu lực vào ngày 1/1/2019.
49
yếu tố xã hội, thể chế kèm theo [64]. Tuỳ theo các đặc trưng cơ bản về sinh thái - xã
hội để phục vụ mục đích quy hoạch sản xuất và phát triển KT-XH. Tiếp nối cách tiếp cận trên, Mai Trọng Nhuận (2017) lại đưa ra khái niệm vùng sinh thái - xã hội dưới góc
độ PTBV, thì vùng sinh thái - xã hội là không gian có thể thuộc địa phận hành chính
của nhiều địa phương [86]. Quan niệm này đã đảm bảo cho việc lập quy hoạch vùng
không dựa vào tư duy nhiệm kỳ, lợi ích cục bộ của từng bộ/ngành và địa phương; và không gian quy hoạch không bị hạn chế bởi địa giới hành chính và ý chí chính trị của
các chủ thể lập quy hoạch. Có thể thấy, phân chia các vùng ở ĐBSCL theo tiếp cận
sinh thái - xã hội tuy không phải là vấn đề mới trên thế giới, nhưng đây là vấn đề
liên ngành mới được ứng dụng trong nghiên cứu vùng ở Việt Nam cho các mục tiêu
PTBV, ứng phó với thiên tai, BĐKH.
nét tương đồng về điều kiện môi trường sinh thái (địa lý, tài nguyên, môi trường) và đặc điểm KT-XH, văn hóa, cùng với hệ thống thể chế, quản trị vùng. Đồng
thời có mối quan hệ tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống KT-XH, nhân văn, thể chế, tạo nên đặc trưng riêng biệt của lãnh thổ. Dựa vào các quan điểm, có thể nhận thấy vùng sinh thái - xã hội thường được
Từ các khái niệm ở trên có thể hiểu, vùng sinh thái - xã hội là một khu vực có
xem xét trên các yếu tố: (i) các địa phương có điều kiện tương đồng về điều kiện tự
nhiên, sinh thái, lịch sử; (ii) các địa phương có mối quan hệ, liên kết tương đối chặt
chẽ; (iii) quy mô của vùng phù hợp để xác định các định hướng phát triển theo tiềm
năng, lợi thế của các địa phương trong vùng, mang lại hiệu quả tổng thể cao nhất
[99]. Với đặc điểm địa lý - xã hội của Việt Nam, tác động của BĐKH ở nước ta
mang tính chất từng khu vực, vùng, miền rất rõ nét. Và quy mô, phạm vi ảnh hưởng
của BĐKH dường như sẽ vượt quá khả năng ứng phó độc lập, vật lý của từng địa
phương riêng lẻ... Điều đó cho thấy, cần phải có sự liên kết, tích hợp giữa các địa
phương và vùng miền là rất cần thiết trong việc ứng phó với BĐKH. Trong
CTMTQG ứng phó với BĐKH đã nhấn mạnh quan điểm “ứng phó với BĐKH được tiến hành trên nguyên tắc PTBV, bảo đảm tính hệ thống, tổng hợp, ngành, liên
ngành, vùng, liên vùng” [109].
Bảng 2.1. Mức độ nghiêm trọng của BĐKH, thiên tai theo vùng ở Việt Nam4
Thiên tai
Tây Bắc Đông Bắc ĐBSH BTB NTB TN ĐNB ĐBSCL
1 Bão 2 Áp thấp nhiệt đới 3 Lũ
4 4 4
4 4 4
4 4 4
3 4 4
2 - 4
1 1 3
1 1 2
4 4 4
4 (4) Rất nghiêm trọng, (3) Nghiêm trọng, (2) Trung bình; (1) Nhẹ, (-) Không ảnh hưởng
50
4 Lũ quét 5 Lốc, tố 6 Hạn hán 7 Xâm nhập mặn 8 Lụt Sạt lở đất 9 10 Sạt lở sông, biển 11 Nước biển dâng 12 Cháy rừng
4 4 3 - - 4 1 - 4
3 2 4 3 4 2 2 2 3
- 3 3 1 3 2 2 2 1
2 2 3 1 2 2 2 1 2
- 1 4 4 2 - 4 4 2
4 4 3 - - 4 1 - 4
3 2 4 - - 2 - 2
3 2 4 2 3 2 3 2 4 Nguồn: CTMTQG BĐKH, 2008; Viện KHKHTV&BĐKT,
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, 2015; và cập nhật của Luận án, 2018.
Về mặt nguyên tắc, bản thân mỗi địa phương/vùng đều có tính đặc thù nhất
định, sức chịu tải môi trường nhất định, tính chống chịu với BĐKH nhất định,
nhưng hiện nay ứng phó với BĐKH, đang được quản lý theo lãnh thổ hành chính,
chứ chưa tính đến vấn đề tính chống chịu với BĐKH liên tỉnh, liên vùng [154].
2.1.5.2. Lợi ích của tiếp cận vùng sinh thái-xã hội trong ứng phó với biến đổi khí hậu
Luận án lựa chọn vùng sinh thái - xã hội bởi những lợi ích như sau:
- Mức độ phù hợp về điều kiện KT-XHvà tài nguyên thiên nhiên, môi trường
sinh thái với từng tiểu vùng.
- Khả năng phát huy được lợi thế so sánh, tiềm năng, thế mạnh của tiểu vùng.
- Phát huy các giá trị lịch sử, tri thức bản địa và giá trị văn hoá của cộng đồng
trong thích ứng với thiên tai và BĐKH.
- Duy trì được tính bền vững của hệ thống vốn tự nhiên và ứng phó linh hoạt
với các rủi ro về KT-XH và BĐKH.
- Tăng cường khả năng về liên kết giữa các địa phương và giữa các địa
phương với các trung tâm (hạt nhân - đầu tàu kinh tế) và sự phát triển hạ tầng kết
nối các địa phương trong vùng [173].
- Quy mô vùng sẽ phù hợp với năng lực tổ chức và quản lý của chính quyền
địa phương, liên kết vùng trong ứng phó với BĐKH giữa các địa phương.
2.2. Thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu 2.2.1. Các khái niệm liên quan 2.2.1.1. Thực hiện chính sách công
Thực hiện chính sách được xem xét, phân tích là một giai đoạn của chu trình
chính sách công: hoạch định chính sách; xây dựng chính sách; thực hiện chính sách;
51
đánh giá chính sách.
Hiện nay, định nghĩa về thực hiện chính sách có nhiều cách khác nhau, theo
Mazmanian và Sabatier (1989): “là thực hiện một quyết định chính sách cơ sở,
thường được thể hiện trong một đạo luật, nhưng cũng có thể được thể hiện dưới
hình thức các quyết định quan trọng của cơ quan hành pháp hoặc các quyết định của
tòa án. Theo quyết định đó xác định vấn đề cần được giải quyết, quy định các mục
tiêu cần theo đuổi, và rất nhiều cách thức, định hình quá trình thực thi”. Thông
thường, quá trình này trải qua nhiều giai đoạn, bắt đầu với việc thông qua đạo
luật cơ bản, tiếp theo là các quyết định của các cơ quan thực thi chính sách, sự
tuân thủ của các nhóm lợi ích với các quyết định đó, các tác động thực tế - cả
chủ định và không chủ định - của các đầu ra đó, những tác động nhận thức được
của các quyết định, và cuối cùng là những sửa đổi quan trọng trong đạo luật cơ
bản [231, tr.95-97].
Theo Jeffrey Presman và Aaron Wildavsky, thì một quyết định chính sách
công đưa đến một giả thuyết liên kết các mục tiêu với mục đích hoặc những kết quả
mong đợi. Tác giả, Paul Berman đã thay thế giả thuyết này bằng chuỗi ít nhất hai
mối quan hệ: (i) Hiệu lực thực hiện: nếu P, thì I (một lựa chọn chính sách công P
dẫn đến một chương trình thực hiện cụ thể I); (ii) Hiệu lực kỹ thuật: nếu I, thì O
(chương trình được thực hiện dẫn đến kết quả O). Paul Berman cho rằng, hiệu lực
thực hiện và hiệu lực kỹ thuật không thể tách rời nhau, chúng gắn liền với nhau.
Mối quan hệ (nếu P, thì I) giải quyết những thứ còn thiếu giữa chính sách công và
kết quả là một chương trình được thực hiện. Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận, sự thực
hiện chương trình phụ thuộc vào sự tác động lẫn nhau phức tạp giữa chính sách
công và môi trường thực hiện [246, tr.8].
Theo Amy DeGroff, Margaret Cargo, thực hiện chính sách công phản ánh một
quá trình thay đổi phức tạp mà các quyết định của Nhà nước được chuyển thành các
chương trình, các quy định, hoặc các hoạt động nhằm đạt được những cải thiện xã
hội [204, tr.47-49]. Còn Lawrence W Green (1988) với góc nhìn thuyết hành vi lại
cho rằng “thực hiện là một quá trình lặp đi lặp lại, trong đó các ý tưởng được thể
hiện trong chính sách công được biến đổi thành hành vi, được thể hiện thành hành
động xã hội. Thông thường hành động xã hội được biến đổi từ chính sách nhằm đạt
được sự cải thiện xã hội; và thường được thể hiện phổ biến nhất dưới dạng các
chương trình, quy định và hành động” [216]. Theo Thomas Dye, thực hiện bao gồm
tất cả các hoạt động được thiết kế để thực hiện các chính sách công đã được thông
52
qua bởi cơ quan lập pháp. Vì chính sách công có những tác động mong muốn hoặc
có chủ định, nên chúng phải được chuyển thành các chương trình và các dự án mà
sau đó được thực hiện để đạt được các mục tiêu của chính sách [209]. Còn theo tác
giả William N. Dunn lại quan niệm thực hiện chính sách là cơ quan hành pháp, các
hành động chính sách có hai mục đích chính là điều chỉnh và phân bổ nguồn lực
theo các nguyên tắc thị trường cho cho xã hội thông qua các chương trình dự án
[208, tr.227-228]. Trong đó, các hành động điều chỉnh là những hoạt động được
thiết kế để đảm bảo sự tuân thủ các tiêu chuẩn của chính sách. Còn các hành động
phân bổ nguồn lực là những hoạt động đòi hỏi phải có các đầu vào như nhân lực,
vật lực, tài lực… Như vậy, theo các quan điểm đã nêu trên thì thực hiện chính sách
không đơn giản chỉ là sự tổ chức thực hiện các giải pháp, chính sách cụ thể mà bao
gồm: (i) Ban hành các văn bản quy định chi tiết các biện pháp, các thủ tục thực thi
chính sách công (văn bản thực thi chính sách công) và thi hành các văn bản đó; (ii)
Thiết lập các chương trình, dự án để thực hiện chính sách công, và (iii) Tổ chức
thực hiện các chương trình, dự án đó.
Từ những khái niệm đã có ở trên, luận án khái quát hóa lại một định nghĩa mang tính tổng hợp như sau: Thực hiện chính sách là quá trình mà chủ thể chính sách đưa chính sách vào thực tiễn đời sống xã hội nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách trong môi trường biến động. 2.2.1.2. Thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu
Từ khái niệm thực hiện chính sách công, ứng phó với BĐKH, luận án khái quát hóa lại khái niệm thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH như sau: Là quá trình mà Nhà nước đưa chính sách vào thực tiễn ứng phó với BĐKH nhằm hiện thực hóa các mục tiêu ưu tiên thích ứng với tác động bất lợi và giảm nhẹ các ảnh hưởng của BĐKH, đồng thời tận dụng các cơ hội có lợi do BĐKH mang lại.
Đối với các quốc gia hiện nay, sẽ có thực hiện chính sách thích ứng và thực hiện chính sách giảm nhẹ, trong đó, chính sách giảm nhẹ là chính sách mang tính dài hạn. Đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, thì các hoạt động tập trung vào thực hiện chính sách thích ứng là chủ yếu. 2.2.2. Vai trò và chủ thể của thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu 2.2.2.1. Vai trò của thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu
53
Thực hiện chính sách công là một giai đoạn rất quan trọng của chu trình chính sách, bởi sự thành công của một chính sách công phụ thuộc vào kết quả của thực hiện chính sách công. Theo Wayne Hayes (2001) có bốn khả năng xảy ra: (i) chính sách công tốt và thực hiện tốt dẫn đến thành công; (ii) chính sách công tốt, nhưng thực hiện tồi dẫn đến thất bại; (iii) chính sách công tồi, nhưng thực hiện tốt dẫn đến thành công; và (iv) chính sách công tồi và thực hiện tồi dẫn đến thất bại kép [220, tr.24].
Như vậy, thực hiện chính sách BĐKH có vị trí đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách ứng phó với BĐKH, nó là giai đoạn thực hiện hóa mục tiêu chính
sách. Vai trò của thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH trong chu trình chính
sách được thể hiện ở những phương diện sau:
- Từng bước hiện thực hóa mục tiêu của chính sách ứng phó với BĐKH: Các mục tiêu của chính sách ứng phó với BĐKH chỉ có thể đạt được thông qua quá trình
thực hiện chính sách trong thực tiễn. Bởi thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH
do các chủ thể: cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp, người dân và các bên liên quan
khác, hướng tới đạt được các mục tiêu và mục đích đã tuyên bố trong chính sách
BĐKH. Trong quá trình thực hiện, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải xây
dựng và ban hành các văn bản, chương trình, nhiệm vụ, dự án để hiện thực hóa các
mục tiêu và mục đích chính sách BĐKH. Và tiến hành các hoạt động để thực hiện
các văn bản, chương trình, dự án đó.
- Khẳng định tính đúng đắn của chính sách BĐKH: Quá trình hoạch định
chính sách cho ra đời một chính sách ứng phó BĐKH. Tuy nhiên, chính sách đó có
thực sự phù hợp với thực tiễn hay không, thì phải trải qua giai đoạn thực hiện chính
sách vào các vùng, địa phương cụ thể. Thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH sẽ
cung cấp những bằng chứng thực tiễn về mục tiêu chính sách BĐKH có thích hợp
hay không, và các giải pháp chính sách ứng phó BĐKH đưa ra có thực sự phù hợp với vấn đề mà nó hướng tới giải quyết hay không. Về phương diện lý thuyết, một
chính sách BĐKH được ban hành phải đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn của một
chính sách tốt và mới chỉ được thừa nhận bởi các chủ thể ban hành, nhưng khi triển
khai vào thực tiễn tại các vùng và địa phương, thì tính đúng đắn của chính sách
BĐKH mới được khẳng định một cách chắc chắn, bởi xã hội và đối tượng thụ
hưởng chính sách BĐKH.
- Thực hiện chính sách giúp cho chính sách ứng phó với BĐKH ngày càng
hoàn thiện hơn: Chính sách ứng phó với BĐKH được ban hành nhằm định hướng
về mục tiêu và giải pháp để giải quyết vấn đề thích ứng và giảm nhẹ ảnh hưởng của
BĐKH ở phương diện quốc gia, vùng, địa phương. Chính sách ứng phó với BĐKH
này sẽ được cụ thể hóa cho phù hợp với bối cảnh và điều kiện cụ thể trong quá trình
thực hiện của các cơ quan Nhà nước các cấp. Căn cứ vào mục tiêu và giải pháp
chính sách ứng phó với BĐKH ban đầu, thì các cơ quan Nhà nước các cấp theo
thẩm quyền hoạch định và ban hành các chương trình, nhiệm vụ dự án để cụ thể hóa
các mục tiêu và giải pháp cho phù hợp với bối cảnh, điều kiện thực thi chính sách
54
BĐKH cụ thể. Hơn nữa, thông qua thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH, những
người thực hiện đưa ra những đề xuất điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực
tiễn thích ứng tại các vùng và địa phương cụ thể, để ra những bài học kinh nghiệm
cho việc thiết kế chính sách ứng phó với BĐKH trong tương lai [206, tr.13-14].
2.2.2.2. Chủ thể thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu
Tùy thuộc vào thể chế chính trị, những quy định của Hiến pháp, nguyên tắc
thực thi quyền lực Nhà nước, cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, mức độ dân chủ,
công khai, minh bạch trong quản lý Nhà nước, trình độ phát triển KT-XH ở mỗi
quốc gia mà số lượng và loại chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện chính sách ở
các nước là khác nhau.
Theo Lê Vinh Danh (2001), có 5 chủ thể tham gia vào thực hiện chính sách và
cùng tác động lẫn nhau trong tiến trình thực hiện, bao gồm: (i) Các cơ quan chuyên
trách của Chính phủ - các cơ quan chuyên trách và viên chức của họ là lực lượng
nòng cốt trong việc thực hiện chính sách; (ii) Các thành viên của Quốc hội- nhiều
nghị sĩ quốc hội và các ủy ban, như: Ủy ban đường lối và chính sách, Ủy ban Ngân
sách… quản lý một cách chặt chẽ việc thực hiện chương trình; (iii) Hệ thống tòa án-
trực tiếp thực hiện một số chính sách và tham gia thi hành chính sách với các cơ
quan chuyên trách của chính phủ; (iv) Các tổ chức lợi ích - gây ảnh hưởng đối với
các cơ quan chuyên trách của Chính phủ và tham gia vào cung ứng các đầu ra chính
sách; (v) Đối tượng thụ hưởng chính sách-là tác nhân thụ động nhưng góp phần vào
sự thành công hay thất bại của chính sách [181, tr.287-293].
Còn theo tác giả Đỗ Đức Minh những người thực hiện chính sách là những tổ
chức, nhóm xã hội hoặc cá nhân mà những hành động cụ thể của họ có tác dụng đưa
chính sách từ lý thuyết trở thành hiện thực, từ đó tạo ra những biến đổi trong thực tế
đời sống xã hội. Lực lượng tham gia thực hiện chính sách rất đông đảo, gồm các cơ
quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân hoặc các đối tượng chính
sách; trong đó, chủ thể triển khai trước hết và quan trọng nhất là các cơ quan hành
chính nhà nước cùng với các công chức của các cơ quan đó [65, tr.65].
55
Qua các cách tiếp cận ở trên cho thấy, có rất nhiều chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH, và các chủ thể này có mối quan hệ tương tác với nhau trong quá trình thực hiện chính sách ở các vùng và địa phương. Số lượng chủ thể và vai trò của từng chủ thể tham gia tùy thuộc vào từng chính sách ứng phó với BĐKH cụ thể và bối cảnh của từng quốc gia. Tuy nhiên, có thể nhóm các chủ thể tham gia vào thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH thành các nhóm sau: (i) chủ thể thực hiện là các cơ quan Nhà nước - đây là chủ thể chịu trách nhiệm
thực hiện chính sách ứng phó BĐKH; (ii) chủ thể tham gia là các đối tác phi nhà nước (các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá nhân trong và ngoài nước); (iii) chủ thể tham gia với tư cách là đối tượng thụ hưởng chính sách (người dân, các cộng đồng dân cư…).
2.2.3. Quy trình thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu
Thực hiện chính sách về BĐKH là quá trình đưa chính sách vào thực tiễn tại
các địa phương, nhằm hiện thực hóa các mục tiêu chính sách. Quá trình thực hiện
chính sách được triển khai thông qua hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước từ Trung
ương đến địa phương, với sự tham gia của nhiều chủ thể và các bên liên quan khác
nhau. Tùy thuộc vào từng chính sách BĐKH cụ thể, mà các chủ thể thực hiện chính
sách xác định các nhiệm vụ cụ thể để triển khai thực thi chính sách đó.
2.2.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về biến đổi khí hậu
Căn cứ vào các quy định trong chính sách được công bố để hướng dẫn cơ
quan có thẩm quyền xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về BĐKH ở
địa phương. Trong kế hoạch cần phải nêu rõ các nội dung:
- Kế hoạch tổ chức điều hành về ứng phó với BĐKH; kế hoạch cung cấp các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài chính, thông tin, công nghệ…) cho ứng phó với BĐKH.
- Kế hoạch và thời gian triển khai thực hiện các chương trình, dự án ứng phó
với BĐKH.
- Dự kiến nội quy, quy chế về tổ chức điều hành; quy chế phối hợp giữa các tổ
chức có liên quan đến ứng phó với BĐKH.
- Quy định về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân, tổ chức tham gia
thực hiện chính sách BĐKH.
Hiện nay, các bộ/ngành và chính quyền địa phương đều quan tâm đến việc xây
dựng kế hoạch thực hiện chính sách về BĐKH thuộc thẩm quyền một cách cụ thể.
Tại các địa phương, kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về BĐKH đều có sự
tham gia của các sở, ban ngành của tỉnh và được lãnh đạo UBND tỉnh thay mặt ký
phê duyệt kế hoạch hành động thực hiện Chương trình MTQG về BĐKH theo từng
giai đoạn cụ thể, để tạo cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện chính sách về BĐKH.
2.2.3.2. Tuyên truyền chính sách về biến đổi hậu hậu
Hiện nay, có nhiều hình thức khác nhau để phổ biến, tuyên truyền chính sách
về BĐKH: tuyên truyền, phổ biến trên các phương tiện truyền thông như đài truyền
56
hình, đài phát thanh; trên các phương tiện báo chi (báo giấy, báo mạng); tổ chức hội
nghị, cuộc họp; các lớp tập huấn, đào tạo về BĐKH… Tùy thuộc các đối tượng
tuyên truyền chính sách khác nhau mà chủ thể chính sách có thể lựa chọn các hình
thức tuyên truyền phù hợp, để mang lại hiệu quả cao nhất.
2.2.3.3. Phân công phối hợp thực hiện chính sách biến đổi khí hậu
Để đảm bảo cho sự thành công của thực hiện chính sách BĐKH, thì sự phân
công, phối hợp giữa các bên trong thực hiện có vai trò hết sức quan trọng. Sự phối
hợp trong việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH diễn ra ở nhiều cấp độ
(phối hợp theo chiều dọc, và phối hợp theo chiều ngang).
- Phối hợp theo chiều dọc: là sự phối hợp giữa các bộ/ngành với địa phương
trong việc triển khai thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH.
- Phối hợp theo chiều ngang: là sự phối hợp giữa các bộ và cơ quan ngang bộ;
sự phối hợp giữa các sở/ngành của địa phương trong việc triển khai thực thi chính
sách BĐKH ở tại các địa phương.
Để đảm bảo cho sự phân công phối hợp được thực hiện tốt, cần ban hành quy
chế phối hợp thực hiện chính sách BĐKH. Trong quy chế cần nêu rõ cơ quan chịu
trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ liên quan của các đơn vị phối hợp để làm tăng
hiệu quả của việc thực hiện chính sách BĐKH.
2.2.3.4. Triển khai thực hiện chính sách
Là quá trình các chủ thể chính sách BĐKH tổ chức triển khai thực hiện các dự án, nhiệm vụ về BĐKH tại các bộ/ngành và địa phương, đồng thời, phải đảm bảo đúng tiến độ và chất lượng của các nhiệm vụ, dự án. Để quá trình này diễn ra thuận lợi thì phải đảm bảo các yếu tố cơ bản như sau:
- Bộ máy tổ chức thực thi phải có có năng lực: phụ thuộc vào năng lực thực thi của các cơ quan QLNN về BĐKH từ cấp trung ương đến địa phương; năng lực của các cán bộ thực hiện chính sách BĐKH; năng lực giám sát, phản biện chính sách của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội và cộng đồng.
- Cơ chế tổ chức thực thi rõ ràng: phải xây dựng được cơ chế thực hiện chính sách BĐKH rõ ràng, minh bạch trách nhiệm, nguyền lợi, nghĩa vụ của các chủ thể và các bên liên quan đến chính sách ứng phó với BĐKH.
- Nguồn lực thực thi phải đầy đủ: chính sách phải được hoạch định và thực thi dựa vào các nguồn lực sẵn có, và phải đáp ứng đầy đủ, phù hợp với thực tiễn của vùng và địa phương [59]. 2.2.3.5. Kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách biến đổi khí hậu
57
Định kỳ các chủ thể thực thiện chính sách về BĐKH tiến hành đánh giá, kiểm tra kết quả thực hiện chính sách. Việc đánh giá, kiểm tra, giám sát thực hiện chính
sách được tiến hành theo nhiều cấp độ khác nhau: kiểm tra, đánh giá đầu kỳ; kiểm tra, đánh giá giữa kỳ; kiểm tra, đánh giá cuối kỳ; kiểm tra, đánh giá đột xuất.
Có nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá thực hiện chính sách khác nhau: (i)
thông qua các báo cáo tình hình thực hiện chính sách BĐKH cấp dưới gửi lên cho
cấp trên; (ii) qua việc tổ chức các đoàn công tác xuống tại các địa phương thực hiện chính sách.
- Hàng năm, các cơ quan, tổ chức được giao thực thi chính sách về BĐKH nào
thì tiến hành báo cáo, đánh giá việc thi hành chính sách đó và báo cáo lên cơ quan,
tổ chức cấp cao hơn. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh được giao thực
hiện các chương trình, dự án BĐKH thuộc thẩm quyền, thì tiến hành đánh giá giữa
kỳ và đánh giá kết thúc chương trình, dự án đó và báo cáo lên Chính phủ, các
bộ/ngành liên quan. Trong đó, báo cáo đánh giá giữa kỳ, báo cáo đánh giá kết thúc
chính sách BĐKH cần thể hiện rõ quá trình triển khai thực hiện; những kết quả đạt
được; những hạn chế, bất cập của chính sách; nguyên nhân và đề xuất những kiến
nghị đối với cấp trên để xử lý những vướng mắc trong tổ chức thực hiện chính sách
ứng phó với BĐKH [62, tr.20].
- Tiếp theo, trên cơ sở các báo cáo của các cơ quan, tổ chức thực hiện chính
sách BĐKH ở địa phương gửi lên Chính phủ, bộ/ngành lập các đoàn công tác liên
ngành xuống các địa phương kiểm tra đánh giá thực thi chính sách BĐKH. Hoặc
nhiều khi Thường vụ Quốc hội, và các ủy ban của Quốc hội cũng lập các đoàn giám
sát quá trình thực thi pháp luật, chính sách về BĐKH tại các địa phương.
2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách biến đổi khí hậu
Để đạt được các mục tiêu chính sách về BĐKH thì cần thực hiện một chuỗi
các bước liên quan đến nhau, có nhiều chủ thể tham gia, đòi hỏi những nguồn lực
nhất định, bị chi phối bởi nhiều nhân tố ảnh hưởng lên chính sách. Thực hiện chính
sách về BĐKH được xem là thành công hay hiệu lực khi nó đạt được mục tiêu của
chính sách một cách đầy đủ [57, tr.338]. Tuy nhiên, để thực hiện chính sách về
BĐKH đòi hỏi phải đảm bảo các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách, có
thể chia hai nhóm nhân tố như sau: nhóm các nhân tố chủ quan và nhóm các nhân tố
khách quan.
2.2.4.1. Nhóm các nhân tố thuộc về bản thân chính sách
a. Yếu tố chính sách
Bản thân chính sách công là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến việc thực hiện
58
chính sách BĐKH, ở những khía cạnh sau.
- Chính sách BĐKH được ban hành phải có chất lượng, nghĩa là chính sách
ban hành phải dựa trên các căn cứ khoa học và thực tiễn.
- Mục tiêu chính sách về BĐKH phải được xác định rõ ràng, cụ thể và nhất
quán về chủ trương, đồng bộ và đồng hướng về chính sách.
- Trong quá trình xây dựng chính sách BĐKH phải đảm bảo tính chủ động,
sáng tạo, để thu hút được nhiều chủ thể tham gia chính sách.
- Các mục tiêu chính sách BĐKH không mâu thuẫn, không bị triệt tiêu bởi các
chính sách khác.
Tuy nhiên, trên thực tế một chính sách về BĐKH được ban hành thỏa mãn tất
cả các điều kiện trên là khó đạt được, bởi: (i) để một chính sách về BĐKH dễ dàng
được thông qua thì mục tiêu và giải pháp chính sách công cần chung chung và trừu
tượng thay vì cụ thể; (ii) các chính sách về BĐKH do Chính phủ hoặc các bộ/ngành
ban hành, do đó, khó có thể xác định được mục tiêu và giải pháp cụ thể mà có thể
áp dụng cho mọi địa phương, vùng, miền bởi mỗi địa phương, vùng miền bị ảnh
hưởng bởi tác động của BĐKH khác nhau; (iii) chính sách về BĐKH được ban
hành để giải quyết những vấn đề thực tiễn, trong đó có những vấn đề gắn liền với
những nhóm dân cư, cộng đồng ở những vùng, miền và địa bàn cư trú khác nhau.
Do đó, nếu mục tiêu và giải pháp chính sách về BĐKH được xác định chi tiết và cụ
thể ngay từ ở cấp cao nhất thì có thể sẽ không phù hợp tất cả các đối tượng mà bản
thân chính sách hướng tới. Do vậy, thực hiện chính sách về BĐKH không chỉ đơn
giản là tổ chức thực hiện các giải pháp chính sách về BĐKH cụ thể, mà là sự tiếp
nối những gì còn thiếu trong giai đoạn hoạch định chính sách về BĐKH.
b. Chủ thể thực hiện chính sách
Một chính sách về BĐKH chỉ có thể có hiệu lực trong thực tế khi quá trình
thực hiện chủ thể thực hiện chính sách hội tụ đầy đủ các yếu tố sau:
- Năng lực của chủ thể thực hiện chính sách BĐKH: các chủ thể của chính
sách cần phải có đủ những năng lực và kỹ năng cần thiết để thực hiện thành công
các mục tiêu của chính sách BĐKH (năng lực của các cơ quan thực hiện, năng lực
của cán bộ thực hiện, năng lực của người dân).
- Bộ máy tổ chức thực hiện: xây dựng cơ quan chuyên trách, tổ chức chủ trì
việc thực hiện chính sách một cách độc lập, có đủ năng lực để thực hiện chính sách
thành công.
- Cơ chế, phối hợp giữa các bên tham gia: trong quá trình thực hiện chính sách
59
tổ chức chủ trì chính sách phải có cơ chế huy động được sự tham gia một cách thực
chất của các bên liên quan (Nhà nước - nhóm cộng đồng, người dân - khu vực tư
nhân - các tổ chức xã hội), trong quá trình thực hiện chính sách BĐKH. Đồng thời,
chủ thể chính sách sách phải tính đến lợi ích và động lực của các bên tham gia thực
hiện chính sách BĐKH.
Lợi ích của các bên liên quan trong quá trình thực hiện chính sách về BĐKH
như: những người thụ hưởng chính sách, các đối tác tham gia thực hiện, những
người liên quan khác có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thực hiện chính sách về
BĐKH [62, tr.27-30].
- Hình thành được cơ chế phối hợp và chia sẻ thông tin và liên lạc giữa các
chủ thể và các bên liên quan trong quá trình thực hiện chính sách BĐKKH.
2.2.4.2. Nhóm các nhân tố chủ quan
a. Các nguồn lực thực hiện chính sách
Việc thực hiện chính sách BĐKH cần phải đảm bảo các điều kiện về nguồn
lực cho việc thực hiện. Nguồn lực về con người cho việc thực hiện chính sách;
nguồn lực tài chính; nguồn lực cơ sở vật chất, hạ tầng; nguồn lực khoa học công
nghệ; nguồn lực về thông tin cho việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH.
b. Bối cảnh chính trị, KT-XH
- Những biến đổi chính trị có tác động lên thực hiện chính sách về BĐKH.
Chính phủ thay đổi có thể dẫn đến những thay đổi trong cách thức thực hiện chính
sách về BĐKH, và cũng có thể thay đổi bản thân chính sách về BĐKH. Chính vì
thế, bối cảnh thực hiện chính sách BĐKH là khác nhau giữa các nước và giữa các
hệ thống chính trị.
- Điều kiện KT-XH. Những thay đổi về các điều kiện KT-XH có tác động lớn
đến việc thực hiện chính sách về BĐKH. Chẳng hạn, khi kinh tế phát triển, Chính
phủ sẽ chú trọng nhiều ngân sách cho vấn đề ứng phó với BĐKH, còn trong giai
đoạn khó khăn thì Chính phủ sẽ cắt giảm chi tiêu công cho BĐKH. Mặt khác,
những thay đổi về các điều kiện xã hội như cơ cấu dân số, trình độ dân trí, cơ cấu
nghề nghiệp, cơ cấu gia đình, dân tộc, tôn giáo… có thể ảnh hưởng đến việc giải
thích một vấn đề chính sách BĐKH, và vì thế tác động đến cách thức thực hiện các
chính sách trong lĩnh vực đó.
2.2.4.3. Nhóm các nhân tố khách quan
a. Bối cảnh khu vực, quốc tế
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì những thay đổi của
60
thế giới (bao gồm cả sự thay đổi chính sách của các nước lớn và chính sách của các
tổ chức quốc tế, các tổ chức khu vực) có thể ảnh hưởng tích cực, hoặc tiêu cực đến
quá trình thực hiện chính sách về BĐKH của từng nước thông qua sự ảnh hưởng
của chính sách đến các môi trường trong nước; đặc biệt là sự thay đổi chính sách
của các nhà tài trợ quốc tế cho ứng phó với BĐKH, như WB, UNDP, ADB,… sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện những chính sách về BĐKH của nước nhận tài
trợ. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng lĩnh vực chính sách về BĐKH cụ thể và mức độ
phụ thuộc của từng quốc gia vào môi trường quốc tế, mà mức độ ảnh hưởng của
môi trường quốc tế đối với các chính sách này là khác nhau.
b. Sự phát triển của KH&CN
Sự ra đời những công nghệ mới trên toàn cầu có thể gây ra những thay đổi
trong các chương trình thực hiện chính sách về BĐKH. Ví dụ, nhờ tác động của
cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 mà giá tấm pin năng lượng mặt trời và thiết bị
sản xuất điện gió giảm giá thành. Đó là cơ hội cho các quốc gia có tiềm năng về
NLTT như Việt Nam, có thể lựa chọn phát triển năng lượng gió, mặt trời để thay
thế cho nhiệt điện than, nhằm góp phần giảm nhẹ tác động của BĐKH.
c. Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán
Các chính sách về BĐKH hướng tới những đối tượng thụ hưởng, đối tượng
mục tiêu nhất định, đồng thời nó được thực hiện ở những địa phương nhất định. Vì
vậy, văn hóa, phong tục, tập quán, tri thức bản địa của cộng đồng, tín ngưỡng, tôn
giáo của dân cư địa phương có ảnh hưởng rất lớn đến việc hoạch định và thực thi
các dự án, nhiệm vụ BĐKH. Nếu một chương trình được thiết kế không phù hợp
với văn hóa, phong tục tập quán của đối tượng, hoặc địa phương thì nó sẽ không
được chấp nhận bởi người dân địa phương.
2.2.5. Các tiêu chí đánh giá thực hiện chính sách biến đổi khí hậu
Tiêu chí đánh giá thực hiện chính sách BĐKH cũng rất phong phú và đa dạng
tùy thuộc từng nhóm chính sách, thậm chí từng chính sách cụ thể. Trong phạm vi
nghiên cứu luận án đề xuất một số tiêu chí chung trong lĩnh vực đánh giá thực hiện
chính sách BĐKH như sau:
2.2.5.1. Tính hiệu lực của chính sách
Hiểu theo nghĩa rộng, tính hiệu lực của một chính sách là việc xem xét mục
61
tiêu có đúng, hợp lý và thực hiện được không hoặc có đạt mục tiêu đề ra không. Để chính sách có hiệu lực trong thực tế thực hiện thì việc xây dựng và ban hành chính sách phải tuân thủ quy trình chính sách. Các nội dung chính sách phải đạt được sự
đồng thuận của các bên liên quan, nhất là các đối tượng trực tiếp thực thi chính sách. Khâu thực hiện chính sách cần được triển khai và quản lý tốt: truyền thông
chính sách, huy động sự tham gia của các chủ thể, phân công phối hợp thực hiện
chính sách, theo dõi và kiểm tra quá trình thực thi chính sách BĐKH.
2.2.5.2. Tính hiệu quả của chính sách
Là mức độ đạt được các mục tiêu ban đầu đặt ra và thể hiện kết quả đạt được,
nhìn vào dòng vốn đầu vào đến đầu ra. Cụ thể, tính hiệu quả được đánh giá theo các
nội dung sau: mức độ đạt được các mục tiêu đề ra, sự phù hợp của đầu vào và mức
độ đạt được các mục tiêu chính sách. Đây là tiêu chí quan trọng hàng đầu để đánh
giá thực hiện chính sách. Hiệu quả cũng là tiêu chí tổng hợp thể hiện sự phù hợp,
đồng bộ và khả thi của chính sách. Hiệu quả của chính sách có thể đánh giá bằng
tiêu chí chung như kết quả thực hiện, mức độ giảm thiểu thiệt hại ảnh hưởng của
BĐKH, xây dựng được mô hình sinh kế bền vững cải thiện thu nhập cho cộng
đồng,… Một số chính sách có thể đánh giá bằng cách so sánh kết quả lợi ích mang
lại với chi phí đã đầu tư cho BĐKH. Cũng có thể so sánh kết quả đạt được sau khi
thực hiện chính sách với thời kỳ trước khi có chính sách BĐKH… Tùy trường hợp
cụ thể mà áp dụng tiêu chí định tính hay định lượng trong việc đánh giá hiệu quả
của chính sách ứng phó với BĐKH.
Chính sách ứng phó với BĐKH là chính sách của Nhà nước. Chủ thể được hưởng hiệu quả của thực hiện chính sách BĐKH là toàn bộ xã hội mà người đại
diện là Nhà nước. Vì vậy, hiệu quả của thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH là
mối quan hệ giữa các lợi ích mà nền KT-XH thu được so với các đóng góp (các chi
phí) mà nền KT-XH phải bỏ ra khi thực hiện chính sách đó. Trong đó, lợi ích và chi
phí KT-XH được xác định theo nguyên tắc: tất cả những gì làm tăng mục tiêu là lợi
ích và những gì làm giảm mục tiêu là chi phí.
Lợi ích KT-XH của thực hiện chính sách bao gồm lợi ích về kinh tế, lợi ích về
xã hội và lợi ích về môi trường. Vì vậy, tính hiệu quả của thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH phải được thể hiện ở cả ba mặt: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và
hiệu quả về môi trường.
a. Hiệu quả kinh tế của chính sách Đánh giá hiệu quả kinh tế của chính sách ứng phó với BĐKH là đánh giá sự
đóng góp của chính sách vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, đó là:
- Đánh giá sự đóng góp vào thực hiện mục tiêu tăng cường năng lực cho các
62
ngành, các địa phương, các cộng đồng dân cư, chủ động thích ứng với BĐKH và hạn chế thiệt hại kinh tế do BĐKH gây ra.
- Đánh giá sự đóng góp vào thực hiện mục tiêu nâng cao được trình độ công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh tế cho các hoạt động của ngành, của địa phương và
của từng người dân.
- Đánh giá sự đóng góp vào thực hiện mục tiêu hạn chế những tác động xấu
đến sức khỏe, lây lan bệnh tật, giảm chi phí cho công tác phòng và chữa trị bệnh tật. - Đánh giá sự đóng góp vào thực hiện mục tiêu tiết kiệm đáng kể chi phí khắc
phục hậu quả các tác động của BĐKH đến các công trình kiến trúc, văn hoá, cuộc
sống của nhân dân, và các giá trị khác của đất nước
b. Hiệu quả xã hội của chính sách
Đánh giá hiệu quả xã hội của chính sách ứng phó với BĐKH là đánh giá sự
đóng góp của chính sách vào việc thực hiện các mục tiêu xã hội, cụ thể là:
- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng sống,
an ninh và an toàn cho người dân.
- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội
được nâng cao do có chính sách ưu tiên đầu tư cho các vùng nghèo dễ bị tổn thương.
- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu đảm bảo an ninh xã hội
cho cộng đồng.
- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng nếp sống văn
minh, có ý thức sẵn sàng ứng phó, tương thân, tương ái, hợp tác phòng ngừa, khắc phục khó khăn và hậu quả của BĐKH.
c. Hiệu quả môi trường của chính sách
Đánh giá hiệu quả môi trường của chính sách ứng phó với BĐKH là đánh giá
sự đóng góp của chính sách đối với mục tiêu môi trường, đó là:
- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu góp phần cùng cộng đồng
quốc tế bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất, giảm nhẹ BĐKH, giảm nhẹ các tác hại do
BĐKH gây ra.
- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu kiểm soát được tốc độ tăng
phát thải KNK, giảm nhẹ tác động của BĐKH đến môi trường sống của con người.
- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu giảm nhẹ tác động của BĐKH đến các hệ sinh thái, duy trì và bảo tồn các sản phẩm và dịch vụ môi trường của hệ sinh thái. 2.2.5.3. Tính phù hợp, công bằng của chính sách
- Sự phù hợp được xem xét thông qua giá trị pháp lý của các mục đích, mục
63
tiêu tổng thể trong mối tương quan với nhu cầu của đối tượng thụ hưởng. Những chỉ tiêu đánh giá tính phù hợp được quan tâm đến là: nhất quán so với nhu cầu xã hội,
của quốc gia; thích hợp về phương pháp triển khai; thích hợp trong việc lựa chọn mục tiêu; sự phù hợp với năng lực, điều kiện của địa phương, vùng. Ban hành một
chính sách mới BĐKH cần phải xem xét nhiều mặt. Trước hết là phải đánh giá sự
cần thiết cấp bách cần phải có chính sách BĐKH, xuất phát từ những tồn tại và hạn
chế của chính sách BĐKH hiện hành đang thực hiện. Chính sách mới ban hành phải bảo đảm sự phù hợp về nội dung, thời điểm và đối tượng tác động của chính sách.
Nội dung chính sách BĐKH phải phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và
Nhà nước, phù hợp với hệ thống luật pháp và thể chế hiện hành; đồng thời, phù hợp
năng lực quản lý của bộ máy QLNN về BĐKH, phù hợp với năng lực thực thi chính
sách của các đối tượng tác động bởi chính sách. Hơn nữa, thời điểm ban hành chính
sách phải đúng lúc, kịp thời để giải quyết vấn đề thực tế ảnh hưởng của BĐKH
đang đặt ra đối với địa phương, vùng và quốc gia. Bên cạnh đó còn phải tính tới sự
phù hợp với đối tượng thực hiện chính sách, từ cơ quan QLNN đến cộng đồng,
người dân, doanh nghiệp, tổ chức chính trị xã hội.
- Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ thông qua chính sách, công
bằng xã hội được nâng cao do có chính sách ưu tiên đầu tư cho các vùng nghèo dễ
bị tổn thương. Tính công bằng của chính sách còn thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các
chi phí và lợi ích, các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch định, thực
thi chính sách và các nhóm đối tượng liên quan đến chính sách. 2.2.5.4. Tính đồng bộ, đồng hướng của chính sách
Chính sách ứng phó với BĐKH chỉ là một bộ phận trong tổng thể hệ thống
các chính sách về phát triển KT-XH của địa phương, vùng. Ngoài việc bảo đảm
tính phù hợp như đã trình bày ở trên, còn phải bảo đảm tính đồng bộ, đồng
hướng, cùng chiều, mỗi chính sách để đảm bảo tính tổng thể của chính sách
BĐKH. Điều quan trọng nhất là bảo đảm tính đồng bộ, đồng hướng và nhất quán
trong mỗi chính sách và giữa các chính sách cụ thể nhằm giải quyết vấn đề
BĐKH, như các chính sách về: truyền thông, cơ chế phối hợp, về tài chính, KH&CN, hạ tầng, nhân lực, đất đai,... Sự đồng bộ và thống nhất của các chính
sách bộ phận này là hết sức quan trọng, đóng góp giải quyết mục tiêu chung là ứng phó hiệu quả với tác động của BĐKH.
2.3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về thực hiện chính sách ứng phó biến đổi khí hậu
Thực tiễn cho thấy việc nghiên cứu những mô hình thực nghiệm về thực hiện
chính sách BĐKH ở một số quốc gia trên thế giới, sẽ góp phần gợi mở những kinh
64
nghiệm quý báu cho việc hoạch định và thực hiện chính sách BĐKH ở Việt Nam.
Trong nghiên cứu này NCS đưa ra một số tiêu chí lựa chọn như sau: (i) Nhóm các
quốc gia, vùng lãnh thổ có vùng đồng bằng ven biển bị ảnh hưởng nặng nề bởi
BĐKH: Bangladesh; (ii) Nhóm quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam
và vùng TNB: Thái Lan (iii) Nhóm quốc gia có nền kinh tế phát triển và bị ảnh
hưởng bởi BĐKH, đồng thời đang hỗ trợ Việt Nam và TNB ứng phó với tác động
của BĐKH: Hà Lan.
2.3.1. Kinh nghiệm của Banglades 2.3.1.1. Biểu hiện và tác động của BĐKH ở Bangladesh
Bangladesh được coi là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi
BĐKH do sự bất lợi về vị trí địa lý; địa hình bằng phẳng và thấp; mật độ dân số
cao; tỷ lệ đói nghèo cao. Sự phụ thuộc nhiều của sinh kế người dân vào tài nguyên
thiên nhiên, đặc biệt là những người làm trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản.
Khoảng 50% dân số Bangladesh hiện đang sinh sống bằng nông nghiệp mà sản
phẩm chính là lúa, đay, chè, mía, khoai tây, thuốc lá, bông, hạt có dầu… [217]. Hơn
50 triệu người dân vẫn sống dưới mức nghèo khổ và phần lớn trong số họ sống ở
vùng sâu, vùng xa, ở những vùng đồng bằng thường xuyên xảy ra lũ lụt, hoặc các
khu vực ven biển nơi lốc xoáy là mối đe dọa lớn tới đời sống dân cư. Có thể thấy,
BĐKH đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới ANLT và các CSHT thiết yếu của
Bangladesh [225].
Theo đánh giá của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF), Bangladesh đã
và đang phải chịu nhiều tổn thương bởi BĐKH và thiên tai. BĐKH sẽ dẫn tới sự
thay đổi về đặc tính của các tai biến thiên nhiên và sự thay đổi dần về hiện tượng
của các hệ thống vật lý. Báo cáo đánh giá thứ tư của Ủy ban Liên chính phủ về
BĐKH (IPCC) đã dự báo rằng lượng mưa, gió mùa ở khu vực Nam Á sẽ tăng lên
dẫn đến mực nước thủy triều của hệ thống sông cao hơn; mực nước biển sẽ tăng lên
từ 0,8-0,9m dẫn đến xâm nhập mặn và ngập lụt ven biển ở khu vực này; lượng mưa
sẽ trở nên cao hơn và thất thường hơn. Nằm trong khu vực Nam Á, Bangladsh đang
phải chống chịu với tình trạng tần suất và cường độ của thiên tai có khả năng tăng
lên, đặc biệt là ở phía Bắc và Tây Bắc của quốc gia này. Tình trạng hạn hán và lũ
lụt thường xuyên xảy ra. Trong đó, xâm nhập mặn được coi là biểu hiện rõ rệt và có
tác động lớn nhất đến sản xuất nông nghiệp của Bangladesh. Hệ thống sản xuất
nông nghiệp sẽ phải đối mặt với những tác động của BĐKH do sự thay đổi chế độ
65
thủy văn và xâm nhập mặn.
2.3.1.2. Thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở Bangladesh
a. Lồng ghép BĐKH và kế hoạch phát triển KT-XH
Trước bối cảnh BĐKH đang có tác động tiêu cực đến KT-XH và sinh kế
người dân, chính phủ Bangladesh đã đưa BĐKH vào quy hoạch phát triển KT-XH
của đất nước. Trong đó, kế hoạch phát triển đến năm 2021 đã xác định phải thực
hiện đồng bộ các giải pháp về môi trường trước những tác động của BĐKH và sự
nóng lên toàn cầu: giảm ô nhiễm không khí; xử lý chất thải; đảm bảo và duy trì hệ
sinh thái thông qua việc bảo vệ rừng, nguồn nước; và phòng, chống xói mòn, sạt lở
vùng bờ sông, ven biển. Cụ thể như sau:
- Tài nguyên nước: Chính phủ sẽ xây dựng chính sách vùng về bảo vệ tài
nguyên nước cùng với Ấn Độ, Nepal và Buhtan để đảm bảo an ninh nguồn nước
cho cả khu vực
- Nông nghiệp và phát triển nông thôn: Mục đích chính của Chính phủ là đảm
bảo “thực phẩm cho tất cả” bằng cách thực hiện các biện pháp có thể để Bangladesh
có thể tự cung cấp lương thực vào năm 2013 thông qua tăng cường trợ cấp đầu vào
cho hoạt động sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ vay vốn và đơn giản hóa thủ tục cho
vay; mở rộng kho bãi, cho thuê đất sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ giá cho các sản
phẩm nông sản; hướng tới xuất khẩu sau khi đáp ứng được nhu cầu về lương thực
và thực phẩm trong nước; tất cả hồ sơ về đất đai sẽ được tin học hóa và tiến hành
cải cách ruộng đất để đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối nguồn đất và nước
phục vụ sản xuất nông nghiệp; duy trì sự cân bằng hệ sinh thái; thực hiện dự án đập
Ganges để mở rộng các công trình thủy lợi, ngăn mặn và giải quyết vấn đề khan
hiếm nguồn nước ngọt trong vùng Sundarban.
Vấn đề BĐKH đã được đưa vào trong Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm lần
thứ 6: nhận thức được hậu quả lâu dài của suy thoái môi trường đối với hệ sinh thái,
đất, nước và phúc lợi của người dân, Chính phủ đã đặt ra một số mục tiêu để đạt
được môi trường bền vững và giải quyết hậu của của BĐKH bao gồm: thúc đẩy các
hệ thống quản lý môi trường để giảm thiểu và thích ứng với BĐKH; bảo tồn, bảo vệ
và phát triển tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học; đảm bảo sự tham gia của
người nghèo, đặc biệt là phụ nữ trong các hoạt động quản lý môi trường và ứng phó
với BĐKH ở mọi cấp độ; tăng cường năng lực của các khu vực công và tư trong
66
quản lý các vấn đề về môi trường; thực hiện các hành động liên quan đến nghĩa vụ
quốc tế và các công ước về giảm thiểu tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế đến
môi trường toàn cầu; thúc đẩy hợp tác với các tổ chức trong khu vực và quốc tế để
giải quyết các vấn đề môi trường địa phương, khu vực và toàn cầu; xây dựng năng
lực hợp tác khu vực công và tư trong BVMT và BĐKH; thực hiện nghiên cứu và
phát triển đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ hiện đại, trao đổi thông tin và
chia sẻ lợi ích với các quốc gia khác; cải thiện chất lượng không khí thông qua việc
sử dụng nhiên liệu sạch, giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch bằng cách thúc
đẩy và khuyến khích việc sử dụng năng lượng Mặt trời/năng lượng xanh; lồng ghép
mối quan hệ đói nghèo - môi trường - khí hậu - thảm họa trong các dự án phát triển,
thiết kế, quy trình ngân sách, thực hiện dự án và quy trình giám sát.
Đầu tư vào thích ứng với BĐKH ở Bangladesh: theo đánh giá việc thực hiện
Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ 6, Chính phủ Bangladesh với sự hỗ
trợ của các đối tác phát triển đã đầu tư vào việc thực hiện một loạt các hoạt động
thích ứng với BĐKH như: quản lý lũ để nâng cao năng suất nông nghiệp, tránh
những hậu quả nghiêm trọng của lũ lụt; xây dựng và thực hiện đề án bảo vệ và thoát
lũ để bảo vệ các khu vực đô thị trong mùa mưa; xây dựng và thực hiện các dự án kè
bờ biển (hơn 6.000km kè) và các công trình cấp nước để nâng cao năng suất nông
nghiệp ở các vùng ven biển khỏi lũ lụt và xâm nhập mặn; lập hơn 2.000 nơi trú ẩn
bão nhiệt đới, 200 nơi trú ẩn lũ cho người tị nạn; thực hiện các dự án quản lý thảm
họa toàn diện dựa vào cộng đồng, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm cho lũ lụt và lốc
xoáy; thực hiện dự án tưới tiêu cho phép người nông dân trồng lúa vào mùa khô ở
những khu vực thường xuyên xảy ra hiện tượng gió mùa, hạn hán, phát triển các
giống lúa và các loại cây trồng có khả năng chịu mặn, hạn hán và thích ứng với lũ
cao, trồng gần 9.000km rừng ngập mặn dọc theo các đường bờ biển.
b. Ban hành văn bản thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở Bangladesh
Trong đó, một số điểm đáng lưu ý của các chính sách này như sau:
- Chương trình hành động thích ứng với BĐKH quốc gia năm 2005 của
Bangladesh đã đưa ra các chiến lược, như: giảm nguy cơ BĐKH thông qua trồng
rừng ven biển cùng với sự tham gia của cộng đồng; cung cấp nguồn nước uống cho
cộng đồng ven biển; tích hợp BĐKH trong phân vùng nước cho các tổ chức quản lý
nguồn nước; phổ biến các biện pháp chuẩn bị khẩn cấp và nâng cao nhận thức về
thảm họa thích ứng BĐKH cho cộng đồng dễ bị tổn thương; lồng ghép thích ứng
67
BĐKH trong các chương trình, chính sách ở những lĩnh vực khác nhau; phát triển
kiến thức thích ứng đặc trưng của từng vùng sinh thái (bao gồm cả kiến thức bản
địa); thúc đẩy nghiên cứu và đưa vào sản xuất các loại cây trồng chịu hạn, lũ, mặn;
tăng cường các giải pháp thích nghi của hệ thống nông nghiệp ở những vùng dễ bị
ngập lụt ở khu vực Đông Bắc và miền Trung; tăng cường các giải pháp thích ứng
của nghề cá ven biển thông qua nuôi cá biển chịu mặn ở những vùng ven biển; đưa
ra các loại hình bảo hiểm với thảm họa khí hậu cho người dân.
- Chiến lược và kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH năm 2009: chiến
lược và kế hoạch này nhằm đưa ra những biện pháp thích ứng và giảm nhẹ BĐKH
tại Bangladesh từ năm 2009-2018 theo những chủ đề chính: (i) an ninh lương thực,
bảo vệ xã hội và sức khỏe; (ii) quản lý thiên tai toàn diện; (iii) cơ sở hạ tầng; (iv)
quản lý nghiên cứu và phổ biến thông tin, kiến thức; (v) giảm thiểu phát thải
cácbon; (vi) tăng cường năng lực và tăng cường thể chế.
c. Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH Bộ Môi trường và Rừng chủ yếu chịu trách nhiệm chính về việc xây dựng
chính sách thích ứng với BĐKH. Đơn vị BĐKH và Sở Môi trường các tỉnh/địa
phương chị trách nhiệm triển khai các dự án và chương trình theo Chương trình
hành động thích ứng với BĐKH quốc gia năm 2005 và Chiến lược và kế hoạch
hành động ứng phó với BĐKH năm 2009 ở cấp độ địa phương. Ngoài ra, các bộ
ngành khác cũng góp phần, hỗ trợ việc đưa ra chính sách và triển khai trên thực tế.
Chính phủ đã thành lập một số ủy ban cấp cao để giám sát quá trình lập kế hoạch và
thực hiện hành động thích ứng với BĐKH ở các địa phương. Ủy ban Liên bộ về
BĐKH, đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Môi trường và Rừng và một số ủy ban do các
thành viên thuộc nghị viện đứng đầu được thành lập để thực hiện nhiệm vụ này.
Đơn vị BĐKH được Chính phủ thành lập như một cơ quan quan trọng của Bộ Môi trường và Rừng vào tháng 06/2010 với trách nhiệm quản lý các quỹ liên quan đến khí hậu của Chính phủ, và cung cấp, hỗ trợ kỹ thuật và chuyên môn cho Bộ Môi trường và Rừng. Ngoài ra, Chính phủ Bangladesh cũng thiết lập các đơn vị BĐKH ở tất cả các bộ có liên quan để lập kế hoạch và thực hiện các dự án giải quyết vấn đề BĐKH, quản lý các quỹ liên quan đến BĐKH và thiết lập sự liên kết giữa các bộ/ngành và phối hợp với các đối tác NGOs trong các vấn đề liên quan đến BĐKH.
d. Quỹ tài chính cho ứng phó với BĐKH Chính phủ Bangladesh đã đưa ra 02 quỹ để thực hiện Kế hoạch hành động ứng
phó với BĐKH
68
(i) Quỹ Ủy nhiệm khí hậu (Climate Trust Fund, CTF): hoạt động của quỹ được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Ban Ủy nhiệm và Ủy ban kỹ thuật. Năng
lực tài chính của quỹ chủ yếu là từ sự phân bổ của Chính phủ (40,23% quỹ được phân bổ cho các dự án CSHT quản lý nước, 21,59% quỹ phân bổ cho lĩnh vực bảo vệ rừng).
(ii) Quỹ Phục hồi khí hậu Bangladesh (Bangladesh Climate Resilience, BCRF): được chính phủ tạo ra để hỗ trợ các hành động ứng phó với BĐKH, các đối
tác quốc tế của Bangladesh góp phần vào việc tạo nên quỹ này (hay nói cách khác,
đây là quỹ được xây dựng dưới sự phân bổ ngân sách của Chính phủ và sự kêu gọi
đóng góp của quốc tế).
e. Một số dự án thích ứng với BĐKH điển hình đã được thực hiện Dự án giảm tính dễ bị tổn thương bởi BĐKH cho cộng đồng; Dự án tăng
cường khả năng phục hổi của các cộng đồng dễ bị thiên tai ở Gaibandha; Dự án xây
dựng chiến lược thích ứng với BĐKH cho các khu vực dễ bị hạn hán và lũ lụt ở
Bangladesh; Dự án sinh kế thích ứng với BĐKH trong các khu vực dễ bị hạn hán…
2.3.2. Kinh nghiệm của Thái Lan
2.3.2.1. Biểu hiện và tác động của BĐKH của Thái Lan
Theo Báo cáo Rủi ro khí hậu toàn cầu (GCR) năm 2013, Thái Lan đứng đầu
trong hơn 100 quốc gia được nghiên cứu về mức độ dễ bị tổn thương do BĐKH
trong năm 2011 tiếp theo là Campuchia, Pakistan, El Salvador và Philippines. Thái
Lan cũng như Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng đang hứng chịu nhiều ảnh
hưởng của BĐKH như thiếu nước ngọt, hạn hán, xâm nhập mặn vào mùa khô. Hiện
tại tình trạng nhiễm mặn tại các tỉnh ven biển cuối nguồn sông Chao Phraya - nguồn
cung cấp nước chính của Bangkok, đã trở nên đáng báo động. Cục Cấp thoát nước
đô thị cho các vùng thủ đô Bangkok, Nonthaburi và Samut Prakan, cho biết độ mặn
của sông Chao Phraya đã tăng lên mức cao, có nơi tăng đến 4,5g/l, vượt gấp3 lần so
với tiêu chuẩn. Vì vậy, một số nguồn cung cấp nước phải sử dụng nước từ phía tây
và đông của thủ đô Bangkok.
2.3.2.2. Thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở Thái Lan
a. Ban hành kế hoạch thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH
Chính sách BĐKH của Thái Lan được soạn thảo để đảm bảo các cam kết và
nghĩa vụ của đất nước đối với Công ước Khung của Liên hợp quốc về BĐKH và
Nghị định thư Kyoto được thực hiện trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia.
- Thái Lan đã tích hợp vấn đề BĐKH vào quá trình lập kế hoạch phát triển
quốc gia kể từ Kế hoạch Phát triển KT-XH lần thứ 7 (1992-1996).
69
- Trong Kế hoạch Phát triển KT-XH lần thứ 8 (1997-2001) và Kế hoạch Phát
triển KT-XH lần thứ 9 (2002-2006) đã đưa ra nguyên tắc của “nền kinh tế đầy đủ”,
các vấn đề quan trọng được đưa ra liên quan đến chất lượng giáo dục, phân phối thu
nhập, an ninh xã hội... Những chính sách chung về BĐKH ở Kế hoạch Phát triển
KT-XH lần thứ 8 và thứ 9 vẫn tiếp tục được thực hiện. Theo đó, Thái Lan đã xây
dựng một loạt chính sách ngành có liên quan (năng lượng, lâm nghiệp và tài nguyên
nước) để tăng cường việc giảm thiểu phát thải KNK; nhận thức của cộng đồng
thông qua các chiến dịch thông tin và giáo dục về thích ứng với BĐKH đã được
tăng cường, đặc biệt là các kiến thức về nông nghiệp và tài nguyên nước.
Kế hoạch Phát triển KT-XH lần thứ 10 (2007-2011) đã nhấn mạnh mối quan
hệ giữa sự phát triển KT-XH lên tài nguyên thiên nhiên và môi trường; xác định các
chiến lược cụ thể liên quan đến bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, sự
nóng lên của trái đất, BĐKH và sự suy giảm ozone đã làm suy yếu hệ sinh thái quốc
gia. Những thảm họa thiên nhiên (hạn hán, lũ lụt, bão) đã gây ra những thiệt hại
nghiêm trọng cho CSHT, nền kinh tế và cuộc sống của con người. Do đó, tầm nhìn
phát triển 20 năm của Thái Lan đã xác định cần nâng cao hiệu quả bảo tồn năng
lượng, mở rộng việc sử dụng năng lượng sinh khối và thích ứng với BĐKH để đạt
mục tiêu giảm phát thải các bon.
Theo đó, Bộ Năng lượng đưa ra các giải pháp chính sách (việc sử dụng năng
lượng đầu vào từ sinh khối, khí sinh học, năng lượng Mặt trời và gió) có thể khiến
doanh nghiệp hưởng lợi trên giá bán mỗi đơn vị điện (kWh), với giá năng lượng
thay thế này có thể kết hợp Dự án Cơ chế phát triển sạch với việc sản xuất và bán
cho lưới điện quốc gia. Về mặt tiêu thụ, ghi nhãn các bon được thực hiện để nâng
cao ý thức của người tiêu dùng. Các công ty tư nhân lớn và Chính phủ nỗ lực
nghiên cứu tìm kiếm nhiên liệu sinh học thế hệ thứ 2 và thứ 3. Tuy nhiên, chưa có
chính sách về chuyển giao công nghệ.
Văn phòng Chính sách và Quy hoạch TN&MT thuộc Bộ TN&MT đã công bố
“Chiến lược quốc gia về quản lý biến đổi khí hậu”. Chiến lược đã xác định các vấn
đề sau: BĐKH ảnh hưởng tới an ninh tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi
trường cũng như chất lượng cuộc sống; cần nâng cao năng lực và nhận thức cho
người dân để tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong thích ứng với BĐKH
quốc gia; cần nâng cao năng lực việc tích hợp BĐKH trong các kế hoạch hành động
của các cơ quan chính phủ của các Bộ chủ chốt (Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã, Bộ
TN&MT); xác định cách thức hợp tác với cộng đồng quốc tế và Công ước Khung
70
của Liên Hiệp quốc về BĐKH.
Đồng thời, Văn phòng Chính sách và Quy hoạch TN&MT cũng đã xây dựng Kế hoạch Tổng thể về BĐKH của Thái Lan. Kế hoạch này xác định ba chiến lược:
(i) thích ứng với BĐKH; (ii) giảm thiểu phát thải KNK và tăng cường các bể chứa
các bon; (iii) xây dựng năng lực quản lý rủi ro BĐKH. Để thực hiện mỗi chiến lược,
Văn phòng Chính sách và Quy hoạch TN&MT đã đề xuất các mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn được thực hiện bởi chính quyền các cấp.
Bên cạch đó, Ban Phát triển KT-XH Quốc gia Thái Lan đã xây dựng Chiến
lược phát triển “xã hội các bon thấp”: được xây dựng với mục tiêu Thái Lan sẽ có
kinh nghiệm trong việc phát triển kinh tế bền vững với những cải thiện về phúc lợi
xã hội kết hợp việc giảm phát thải các bon.
- Song hành với Nhà nước thì khu vực tư nhân cũng có vai trò quan trọng
trong việc giảm phát thải KNK. Khu vực tư nhân ở Thái Lan đã có những nỗ lực
đáng kể trong việc giảm phát thải KNK, gồm: áp dụng “giá thêm” cho việc phát
điện từ sinh khối, khí sinh học, năng lượng Mặt trời và gió; cấp chứng nhận giảm
phát thải, xây dựng thị trường các bon, tăng cường sử dụng năng lượng sạch, áp
dụng cơ chế sản xuất sạch. Có thể nói khu vực tư nhân Thái Lan đã thực hiện các
chính sách về năng lượng của chính phủ khá hiệu quả [194].
b. Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách ứng với BĐKH
Ủy ban Quốc gia về BĐKH Thái Lan do Thủ tướng Thái Lan làm trưởng ban
có nhiệm vụ chỉ đạo ứng phó với BĐKH quốc gia. Các thành viên của Ủy ban là
các Bộ trưởng các bộ/ngành liên quan. Nhiệm vụ của Ủy ban là đầu mối thực hiện
Chương trình nghị sự BĐKH quốc gia của Văn phòng Chính sách và Quy hoạch
TN&MT, Tổ chức Quản lý KNK Thái Lan, Ban Phát triển KT-XH Quốc gia, với sự hỗ trợ từ Bộ Tài chính, Văn phòng Chính sách tài chính, Cục Ngân sách về vấn đề
chi tiêu tài chính công cho BĐKH. Tiếp đến là Tổ chức Quản lý KNK Thái Lan
cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm phát thải KNK ở khu vực tư nhân
nhằm thực hiện Nghị định thư Kyoto, đề nghị thành lập Quỹ các bon Thái Lan.
c. Thực hiện chính sách huy động tài chính cho BĐKH
Để thực hiện được Kế hoạch tổng thể về BĐKH (2010-2019), Thái Lan đã huy động nguồn lực tài chính từ tất cả các ngành, khu vực công và tư, các quỹ khí hậu, các viện nghiên cứu và mọi người dân. Cụ thể như:
- Chính quyền Bangkok lên kế hoạch đến năm 2019, giảm khoảng 15% khí phát
thải nhà kính, nguồn kinh phí 300 triệu USD được hỗ trợ bởi Quỹ Công nghệ sạch.
- Thái Lan định hướng tiếp cận tài chính từ các Quỹ Khí hậu trên thế giới cho
71
các dự án ứng phó với BĐKH.
- Thái Lan hình thành Quỹ Tự nguyện cho việc trồng rừng và bảo vệ rừng theo
ý tưởng giảm phát thải các bon. Các công cụ thị trường thực hiện trong lĩnh vực
đượcchọn xếp thứ tự ưu tiên như sau:
+ Tín dụng giảm phát thải tự nguyện trong nước: Công cụ sẽ được thực hiện
tại các thành phố tự nguyện và các nhà máy phát thải nhiều các bon trên toàn bộ
lãnh thổ Thái Lan, thúc đẩy PTBV.
+ Kinh doanh phát thải trong nước: Công cụ này sẽ được thực hiện tại các nhà
máy ở các khu vực bất động sản công nghiệp.
- Thúc đẩy thành lập cơ chế phát triển sạch và thị trường các bon tại Thái Lan,
tạo động lực cho các doanh nghiệp giảm phát thải khí các bon.
2.3.3. Kinh nghiệm của Hà Lan 2.3.3.1. Biểu hiện và tác động của BĐKH ở Hà Lan
Hà Lan là quốc gia có phần rất lớn diện tích lãnh thổ thấp hơn mực nước
biển, nên rất dễ bịảnh hưởng tiêu cực với các hiệu ứng do BĐKH gây ra. Để
PTBV, người Hà Lan luôn phải tìm cách đương đầu với các thách thức ngày
càng hiện hữu của BĐKH và NBD. Thống kê cho thấy tổn thất tài chính do lũ
lụt, hạn hán và đuối nhiệt trong giai đoạn đến năm 2050 của Hà Lan sẽ vào
khoảng 71 tỷ euro [206], [46].
2.3.3.2. Thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở Hà Lan
Để giảm thiểu tác động của BĐKH, chính sách của chính phủ Hà Lan tập
trung vào: thích ứng với BĐKH (bằng cách thực hiện các biện pháp ngăn ngừa lũ
lụt và bảo vệ nguồn cung cấp nước ngọt, sản xuất nông nghiệp, môi trường và sức
khoẻ…); giảm phát thải KNK (bằng cách chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang
các nguồn năng lượng bền vững, như năng lượng Mặt trời và năng lượng gió, chăn
nuôi gia súc...) [197].
a. Chương trình Đồng bằng
Hà Lan xây dựng chiến lược PTBV dành riêng cho khu vực đồng bằng có tên
gọi Chương trình phát triển Đồng bằng (Delta Programme). Chương trình này tập
trung vào xử lý các vấn đề: (i) an toàn nước, (ii) nước ngọt, và (iii) sử dụng không
gian nước. Hai công cụ quan trọng đã được sử dụng để đạt được mục tiêu này:
một chương trình khích lệ và một kế hoạch giám sát. Kết quả là ô nhiễm nước, an
toàn nước và hạn hán đã được cải thiện, tuy nhiên vấn đề chống nhiệt ở các thành
phố cần sự quan tâm nhiều hơn. Chính phủ đảm bảo rằng các chức năng quan
72
trọng của quốc gia và dễ bị tổn thương (như các nhà máy điện), có khả năng
kháng lũ lụt tốt hơn [46].
b. Chương trình giảm phát thải
Hà Lan đã ban hành quyết định về 61 hành động giảm phát thải từ các lĩnh
vực chủ yếu: tiết kiệm năng lượng, NLTT, nhà máy điện, không phát thải KNK, lưu
trữ Carbon Oxide trong rừng cũng như dưới lòng đất. Mỗi lựa chọn bao gồm giá,
tiềm năng giảm phát thải và công cụ chính sách để thực hiện. Những sự lựa chọn
này sẽ xác định rõ giá trị và cách thức thực hiện của từng biện pháp khác nhau thay
vì nhầm lẫn về giá trị thực sự của các biện pháp đó. Những chính sách hỗ trợ giảm
phát thải bao gồm: thuế năng lượng tiêu thụ quy mô nhỏ (1999), tiêu chuẩn hiệu quả
năng lượng cho các tòa nhà mới, trợ cấp cho các dự án giảm phát thải Carbon Oxide
như sử dụng nhiệt dư và thiết kế chính sách để tăng thị phần NLTT (mục tiêu đạt
10% thị phần sử năm 2020).
- Công cụ chính sách: Áp dụng nguyên tắc tự điều chỉnh trong khuôn khổ đã
cung cấp thúc đẩy các nhóm mục tiêu thực hiện các biện pháp thích ứng với BĐKH
ở Hà Lan. Theo đó, các địa phương, các lĩnh vực, các doanh nghiệp, tổ chức và cá
nhân tự điều chỉnh biện pháp phù hợp với khuôn khổ chung của quốc gia nhằm đạt
được sự năng động và đồng thuận trong thích ứng với BĐKH. Những thỏa thuận
thương lượng được tạo điều kiện bởi những công cụ định hướng thị trường như:
thuế năng lượng, ưu đãi tài chính và được hỗ trợ theo các quy định của Luật Quản
lý môi trường. Các công cụ chính sách được thay đổi theo các nhóm mục tiêu nhằm
đáp ứng nhu cầu và tối đa hóa khả năng thích ứng của các nhóm mục tiêu. Hiện có
hơn 25 công cụ thị trường chính sách BĐKH khác nhau.
- Các giải pháp chính sách bao gồm: gói các giải pháp cơ bản, gói các giải
pháp dự trữ và gói các giải pháp cải tiến.
+ Gói giải pháp cơ bản bao gồm: các giải pháp cơ bản và thích hợp đối với
từng ngành, từng lĩnh vực thích ứng với BĐKH đã được đúc kết từ quá khứ đến
hiện tại.
+ Gói giải pháp dự phòng: biện pháp dự phòng đã được thiết lập sẵn sàng để
thực hiện trong nhưng năm tới trong trường hợp những biện pháp hiện tại không tạo
ra kết quả mong muốn (thuế năng lượng bổ sung, thuế tiêu thụ đặc biệt, cắt giảm
Carbon Oxide và Nito Oxide trong ngành công nghiệp hóa chất...).
+ Gói giải pháp cải tiến: tập trung vào việc cần thực hiện ngay để đề xuất các
73
giải pháp và công cụ chính sách cho tương lai dài.
c. Ban hành Chiến lược Quốc gia thích ứng với BĐKH
Tháng 12/2016, Hà Lan đưa ra Chiến lược Quốc gia về thích ứng với BĐKH
dựa trên kết quả nghiên cứu mới nhất trong nhiều lĩnh vực và giới thiệu nhiều sáng
kiến mới thúc đẩy những kế hoạch đang thực hiện. Chiến lược chỉ ra rằng mọi cộng
đồng xã hội cần nhận thức được trách nhiệm cũng như nắm vững được cách thích
ứng với BĐKH, đoàn kết các bên tham gia sẽ tăng hiệu quả thích ứng với BĐKH.
Theo đó, chiến lược khuyến khích các cơ quan nhà nước, các viện nghiên cứu, các
doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, tổ chức xã hội và cá nhân đóng vai trò của họ
trong giảm nhẹ các tác động của BĐKH gây ra và tận dụng các cơ hội do BĐKH
mang lại. Chiến lược được xây dựng dựa trên một thập kỷ của việc thực hiện các
chính sách BĐKH kết hợp với Chương trình Đồng bằng [237]. Có thể thấy những
kinh nghiệm của Hà Lan trong ứng phó với tác động củaBĐKH đặc biệt rất hữu ích
cho kinh nghiệm ứng phó với BĐKHở vùng TNB.
2.3.4. Một số bài học kinh nghiệm
Từ phân tích thực nghiệm thực hiện chính sách BĐKH của các quốc gia nêu
trên, nghiên cứu rút ra được một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung
và vùng TNB nói riêng như sau:
Thứ nhất, thành lập cơ quan chịu trách nhiệm điều phối và tập trung vào việc
xây dựng cơ chế điều phối, hợp tác ứng phó với BĐKH vùng, ví dụ: Hà Lan thành
lập Ủy ban Đồng bằng có trách nhiệm triển khai các chương trình thích ứng với
BĐKH của vùng đồng bằng và đảm bảo sự gắn kết của các địa phương trong vùng.
Xây dựng cơ chế điều phối vùng cho phép kết hợp quan điểm chính sách, nhu cầu
ứng phó của tỉnh với các tỉnh trong vùng, toàn vùng và quốc gia.
Thứ hai, kêu gọi sự hỗ trợ tài chính từ khu vực tư nhân và cộng đồng quốc tế.
Hiện nay, nguồn ngân sách tài chính phục vụ cho việc ứng phó với BĐKH ở các
tỉnh trên cả nước nói chung và các tỉnh vùng TNB nói riêng còn thiếu, chủ yếu là
nguồn phân bổ từ ngân sách Nhà nước. Do đó, ngoài sự phân bổ từ ngân sách Nhà
nước, cần nâng cao năng lực tài chính thông qua việc kêu gọi sự đóng góp của khu
vực tư nhân và sự hỗ trợ từ quốc tế. Ví dụ: Chính phủ Bangladesh thành lập Quỹ
Phục hồi Khí hậu với sự kêu gọi đóng góp từ các đối tác quốc tế; Thái Lan kêu gọi
hỗ trợ tài chính ở những quỹ hỗ trợ khí hậu quốc tế ở Thái Lan: Quỹ Thích ứng,
Quỹ Công nghệ sạch, Quỹ Sáng kiến khí hậu quốc tế của Chính phủ Đức, Quỹ
74
BĐKH đặc biệt.
Thứ ba, chú trọng đến các biện pháp chính sách nhằm đảm bảo sử dụng an
toàn, hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, thực hiện các bon thấp, giảm phát thải KNK
trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.
Thúc đẩy, khuyến khích việc sử dụng năng lượng sinh khối, khí sinh học,
năng lượng Mặt trời, năng lượng gió (như trong kế hoạch phát triển KT-XH lần thứ
10 nhằm đạt mục tiêu giảm phát thải các bon và chiến lược phát triển “xã hội các
bon thấp” của Thái Lan.
Thứ tư, đẩy mạnh các hoạt động phổ biến thông tin về kết quả hoạt động thích
ứng với BĐKH của từng tỉnh và của toàn vùng tới người dân; nâng cao trách nhiệm
của người dân, doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức KT-XH trong việc thực hiện
các giải pháp ứng phó với BĐKH.
Thứ năm, tăng cường việc báo cáo giám sát, kiểm tra thường xuyên việc hoạch
định và thực hiện chính sách ở cấp tỉnh và vùng thông qua việc tự giám sát (của các
tỉnh) và liên kết giám sát (giám sát chéo giữa các tỉnh). Chính phủ Hà Lan thường
xuyên giám sát việc thực hiện Chiến lược Thích ứng khí hậu Quốc gia một cách đầy
đủ, chính xác và chi tiết việc thích ứng có được thực hiện theo đúng kế hoạch
không. Bên cạnh đó, chính phủ Hà Lan cũng khẳng định cần có sự kết nối giữa các
bên tham gia trong việc thực hiện giám sát. Những kết quả giám sát này thể hiện
việc thực hiện nghiêm túc, hiệu quả và tạo cơ sở cho những sửa đổi, cải cách chính
sách trong những giai đoạn tiếp theo.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Chương hai đã mô tả tóm tắt hệ thống các quan điểm khác nhau về chính sách
công, chính sách BĐKH, thực hiện chính sách BĐKH. Các kết quả ở Chương 2 đã
cho thấy, chính sách ứng phó với BĐKH là chính sách khá đặc biệt trong hệ thống
chính sách công của Nhà nước, vì nguyên nhân dẫn đến BĐKH là do con người và
quy luật của tự nhiên. Mặt khác, nó ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia, của nhiều
doanh nghiệp, nhóm gây phát thải KNK. Nên quá trình thực hiện chính sách không
phải lúc nào cũng nhận được sự đồng thuận của các nhóm chủ thể trong xã hội,
nhóm tác nhân gây phát thải KNK. Bên cạnh đó, quá trình thực thi chính sách
BĐKH có vai trò quan trọng trong chu trình chính sách, và có ý nghĩa then chốt đến
75
sự thành bại của các chính sách BĐKH ở cấp quốc gia, vùng, địa phương. Hơn nữa,
việc thực hiện chính sách BĐKH luôn tuân theo các bước và quy trình thực hiện cụ
thể. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào bối cảnh cụ thể của mỗi quốc gia, vùng và địa phương
mà các bước của quy trình thực hiện có thể khác nhau. Đồng thời, để đảm bảo cho
sự thành công của thực hiện chính sách về BĐKH thì cần phải đảm bảo các nhân tố
để cho quá trình thực hiện chính sách được diễn ra. Mặt khác, qua nghiên cứu các
kinh nghiệm, thông lệ quốc tế về thực hiện chính sách BĐKH, những bài học thành
công, các bài học thất của chính sách, cũng rút ra được nhiều hàm ý mang tính
chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện thực hiện chính sách BĐKH ở Việt
76
Nam nói chung và vùng TNB nói riêng.
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VÙNG TÂY NAM BỘ
3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách ứng phó biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ
3.1.1. Nhóm các nhân tố thuộc về bản thân chính sách 3.1.1.1. Các chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu hiện hành ở Việt Nam
a. Chính sách ở cấp quốc gia
Vấn đề ứng phó với BĐKH cũng đã trở thành những nội dung quan trọng trong các Luật (Luật Bảo vệ môi trường, 2014; Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, 2010; Luật Đa dạng sinh học; Luật Tài nguyên nước, 2012; Luật
Phòng tránh thiên tai, 2013; Luật Khí tượng thủy văn, 2016…). Ngoài ra, còn có
các văn bản cụ thể ở cấp quốc gia, Thủ tướng Chính thuộc Công ước Khung của
Liên Hiệp Quốc về BĐKH cùng Kế hoạch tổ chức thực hiện Nghị định thư giai
đoạn 2007-2010; Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH; Chiến lược
quốc gia về BĐKH; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh; Kế hoạch hành động
quốc gia về BĐKH giai đoạn 2012-2020; Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng
nhà kính, quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ các bon ra thị trường thế giới;
Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 23/01/2014 về Ban hành kèm theo Nghị quyết này
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng
cường quản lý tài nguyên và BVMT... và một số quyết định khác thuộc các lĩnh vực
liên quan [91, tr.34, 35].
Trên cơ sở đó, các bộ/ngành ban hành các Kế hoạch hành động ứng phó
vớiBĐKH, đến hết năm 2018 đã có 16 bộ/ngành Ban hành Kế hoạch ứng phó với BĐKH.5 Cùng với việc xây dựng một số Thông tư, Thông tư liên tịch nhằm lồng ghép BĐKH vào các hoạt động chuyên ngành. Trong đó, Thông tư số 29/2014/TT- BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ TN&MT “Quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất” với yêu cầu khi xây dựng các quy hoạch, kế
77
hoạch sử dụng đất ở các cấp cầnphải phân tích, đánh giá về BĐKH tác động đến việc sử dụng đất theo hai nội dung cụ thể: (i) NBD, xâm nhập mặn và (ii) sa mạc 5 Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải; Bộ Xây dựng; Bộ LĐTB&XH; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; Bộ Y tế; Bộ Công thương, Bộ NN và PTNT; Bộ Công An; Bộ Quốc phòng, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Ngoại giao, Ủy ban Dân tộc…
hóa, xói mòn, sạt lở đất [114].
Bên cạnh đó, để triển khai CTMTQG về BĐKH, các tỉnh, thành phố đang tích
cực triển khai các hoạt động phù hợp với đặc điểm bối cảnh của địa phương, như:
(i) khẩn trương đánh giá tác động của BĐKH đến các khu vực, các lĩnh vực nhạy
cảm, dễ bị tổn thương, để từ đó ban hành kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH cho từng tỉnh, thành phố giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020; (ii)
thành lập BCĐ cấp tỉnh, thành phố về ứng phó với BĐKH. Tính tới tháng 12/2016,
đã có 63/63 tỉnh, thành phố đã ban hành Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH
giai đoạn 2011-2015. Và có 62/63 địa phương phê duyệt cập nhật Kế hoạch hành
động ứng phó với BĐKH giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, mới chỉ có một số địa
phương xây dựng kế hoạch lồng ghép, tích hợp BĐKH trong quy hoạch tổng thể, kế
hoạch phát triển KT-XH, như: Lào Cai, Quảng Ninh, Nam Định, Nghệ An, Quảng
Trị, Tp Đà Nẵng, Bình Định, Đồng Nai, Tp Hồ Chí Minh, Tp Cần Thơ, An Giang,
Cà Mau, Đồng Tháp... [114].
Theo thống kê của luận án, ước tính trong giai đoạn 2008-2018, đã có hơn 315
văn bản được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới nhiều hình thức
khác nhau: Công ước; Luật; Nghị định,Thông tư hướng dẫn thi hành; Nghị quyết;
Chiến lược, quy hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia; Quyết định, Kế hoạch của cơ quan Trung ương, địa phương… và các văn bản khác liên quan đến BĐKH4.
Bảng 3.1. Số lượng văn bản có liên quan đến BĐKH được ban hành
trong giai đoạn 2008-2018
Loại hình văn bản
Công ước quốc tế có liên quan đến BĐKH Luật có liên quan đến BĐKH
TT 1 2 3 Nghị định và Thông tư hướng dẫn thi hành có liên quan đến Số lượng 12 15 32 BĐKH
4 Nghị quyết của Đảng, Chính phủ, Quốc hội có liên quan đến 75
5 35 BĐKH Chiến lược, quy hoạch và Chương trình MTQG có liên quan đến BĐKH
6 Quyết định, kế hoạch có liên quan đến BĐKH
Tổng 146 3155
4 Tổng hợp của NCS năm 2018. 5 Chưa bao gồm thống kê các văn bản liên quan đến lĩnh vực phòng chống và giảm nhẹ thiên tai.
78
Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2019.
Bảng 3.2. Phân loại văn bản chính chính sách ứng phó với BĐKH
TT Loại hình văn bản chính sách Số lượng Tỷ lệ (%)
1 Chính sách liên quan đến lĩnh vực thích ứng BĐKH 180 57,1
2 Chính sách liên quan đến lĩnh vực giảm nhẹ BĐKH 37 31,1
3 Chính sách mang tính tích hợp (thích ứng, giảm nhẹ) 98 11,8
Tổng 315 100
Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2019. Qua thống kê ở bảng 3.2 cho thấy các chính sách hiện hành chủ yếu thuộc lĩnh
vực thích ứng với BĐKH (57,1%), trong đó tập trung vào cơ sở hạ tầng thích ứng
BĐKH, chuyển đổi sản xuất, kinh doanh thích ứng BĐKH. Lĩnh vực chính sách
giảm nhẹ BĐKH chiếm khoảng (31,1%), thuộc các nội dung về SDNLTK&HQ;
năng lượng tái tạo; tăng diện tích trồng rừng gắn với thị trường các bon, REDD+; giảm
phát thải trong trồng trọt, chăn nuôi...Còn lại là nhóm chính sách mang nội dung tích hợp
bao hàm cả nội dung thích ứng và giảm nhẹ ảnh hưởng của BĐKH, chiếm 11,8%.
Theo các kết quả đã phân tích ở trên cho thấy chính sách về BĐKH đã được
Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng tương đối đồng bộ và được ban hành đa
dạng về loại hình văn bản chính sách. Trong đó, có những điều khoản bắt buộc địa
phương phải thực hiện, điều khoản hướng dẫn thực hiện và điều khoản tùy nghi
không cưỡng chế, bắt buộc địa phương phải thực hiện. Điều đó, tạo thuận lợi và cơ
sở pháp lý cho các địa phương vùng TNB thực hiện chính sách, chương trình, dự án
BĐKH.
b. Chính sách đặc thù gắn với ứng phó BĐKH ở vùng TNB
Từ khi Chính phủ ban hành Chương trình MTQG về BĐKH năm 2008 đến
nay, đã có nhiều chính sách trực tiếp và gián tiếp được ban hành liên quan đến ứng
phó với BĐKH ở vùng TNB và được chia thành các nhóm như sau:
- Nhóm chính sách liên quan đến quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng có lồng
ghép, tích hợp vấn đề BĐKH.
Tính đến tháng 12/2018, đã có hơn 2.500 quy hoạch được lập cho vùng TNB
có lồng ghép trực tiếp và gián tiếp vấn đề ứng phó với BĐKH. Trong đó, riêng quy
hoạch cấp vùng hiện có tới 22 bản quy hoạch, gồm: 3 quy hoạch về phát triển KT-
XH; 5 quy hoạch về xây dựng; 7 quy hoạch về phát triển nông nghiệp, nông thôn; 7
quy hoạch phát triển một số ngành, lĩnh vực chủ yếu (giao thông, điện lực, thương
79
mại, du lịch, thông tin và truyền thông…). Các quy hoạch cấp vùng cũng được lập
theo phạm vi không gian khác nhau, như: phạm vi toàn vùng TNB (13 tỉnh thành
phố), vùng kinh tế trọng điểm (4 tỉnh, thành phố) và vùng biển, ven biển Việt Nam
thuộc Vịnh Thái Lan [10].
- Nhóm chính sách liên quan đến hạ tầng ứng phó với BĐKH.
Quyết định số 1397/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012 của Thủ tướng Chính
phủ Phê duyệt Quy hoạch thủy lợi ĐBSCL giai đoạn 2012-2020 và định hướng đến
năm 2050 trong điều kiện BĐKH, NBD. Quyết định đã nhấn mạnh, quy hoạch thủy
lợi nhằm góp phần khai thác, sử dụng hiệu quả, bảo vệ và phát triển nguồn nước ở
thượng lưu và vùng lân cận. Quy hoạch trên cũng đặc biệt nhấn mạnh, kết hợp hài
hòa giữa giải pháp công trình và phi công trình; hạn chế các tác hại do nước gây ra,
nhất là lũ lụt và xâm nhập mặn trong điều kiện BĐKH, NBD. Do đó, quy hoạch đã
đưa ra các giải pháp như: (i) kiểm soát mặn, giải quyết mâu thuẫn giữa vùng nuôi
trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp của các tỉnh Kiên Giang, Hậu
Giang và Bạc Liêu thuộc lưu vực sông Cái Lớn - Cái Bé; (ii) chủ động ứng phó với
BĐKH, NBD, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển để giải quyết tình trạng thiếu
nước ngọt vào mùa khô, phòng chống cháy rừng; (iii) tăng cường khả năng thoát lũ,
tiêu úng, tiêu chua cải tạo đất phèn; và (iv) kết hợp phát triển giao thông thủy, bộ
trong vùng dự án. Để triển khai Quyết định số 1397/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ
cũng đã ban hành Quyết định số 498/QĐ/TTg, ngày 17/4/2017 về Phê duyệt chủ
trương đầu tư dự án Hệ thống Thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1.
Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2623/QĐ-TTg,
ngày 31/12/2013 về Phê duyệt dự án Phát triển đô thị ứng phó với BĐKH giai đoạn
2013-2020. Theo đó, vùng TNB có 12 đô thị được Chính phủ hỗ trợ xây dựng kịch
bản đánh giá tác động của NBD, nâng cao năng lực ứng phó với BĐKH, và xây
dựng quy hoạch đô thị ứng phó với BĐKH và NBD. Trên cơ sở đó, Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 68/QĐ-TTg, ngày 15/1/2018 về việc Phê duyệt
Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm
2050. Với mục tiêu phát triển vùng TNB theo hướng tăng trưởng xanh, bền vững và
thích ứng với BĐKH. Phát triển vùng trở thành vùng trọng điểm quốc gia về sản
xuất nông nghiệp và đánh bắt, nuôi trồng thủy sản. Phát triển mạnh kinh tế biển, du
lịch sinh thái. Phát triển không gian vùng với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã
hội đồng bộ, mang đặc thù của vùng TNB nhằm phát triển kinh tế, nâng cao chất
80
lượng cuộc sống, bảo vệ môi trường [115, tr.3-16].
- Nhóm chính sách liên quan đến liên kết vùng trong việc hình thành các sản
phẩm chủ lực địa phương trong bối cảnh ứng phó với BĐKH.
Quyết định số 639/QĐ-BNN-KH, ngày 2/4/2014 về việc Phê duyệt Quy hoạch
nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong
điều kiện BĐKH. Trong đó, nhấn mạnh quy hoạch nông nghiệp, nông thôn vùng
TNB trên cơ sở đổi mới tư duy, cách tiếp cận thị trường; khai thác, phát huy lợi thế
của vùng và địa phương để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá
trị gia tăng và PTBV; tạo sự liên kết sản xuất, xây dựng các vùng sản xuất chuyên
canh, cánh đồng lớn; ứng dụng nhanh các thành tựu KH&CN trong sản xuất với chế
biến và tiêu thụ sản phẩm, trong bối cảnh ứng phó với tác động của BĐKH.
Để cụ thể hóa cơ chế pháp lý cho liên kết vùng ở ĐBSCL, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 593/QĐ-TTg, ngày 6/4/2016 về việc Ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển KT-XH vùng ĐBSCL giai đoạn 2016-2020. Trong đó, chú trọng đến nội dung liên kết vùng trong ứng phó với BĐKH, như: (i) đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu, phòng chống lũ, kiểm soát xâm nhập mặn; (ii) quản lý, khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước, nâng cao hiệu quả sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản trong mùa khô; (iii) xây dựng, nâng cấp hệ thống đê biển, đê bao, cống, đập, vành đai rừng ngập mặn và các dự án bảo vệ môi trường, ứng phó với BĐKH... Nhằm triển khai Quyết định nói trên, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 2220/QĐ-TTg, ngày 17/11/2016 về việc Ban hành Kế hoạch triển khai Quyết định 593/QĐ-TTg. Quyết định 2220 đã đưa ra kế hoạch hành động liên kết vùng nhằm ứng phó với BĐKH, gồm: (i) kế hoạch quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước nhằm mục tiêu kiểm soát lũ, kiểm soát mặn, tăng cường khả năng lưu chứa nước ngọt của vùng; (ii) kế hoạch trồng rừng ngập mặn, bảo vệ môi trường, thích ứng BĐKH, kế hoạch bảo vệ, chăm sóc rừng. Để tiếp tục thúc đẩy thực hiện Quyết định 593 tại các địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành tiếp Quyết định số 64/QĐ-TTg, ngày 18/1/2017 về việc Thành lập Tổ chỉ đạo liên ngành về liên kết vùng ĐBSCL giai đoạn 2016-2020.
- Nhóm chính sách ứng phó mang tính tổng hợp, liên ngành, đa mục tiêu liên
quan đến thích ứng với BĐKH
81
Để PTBV vùng TNB trong bối cảnh BĐKH và ứng phó với các thách thức từ sự phát triển nội tại của vùng và khu vực thượng nguồn, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP, ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bảng 3.3. Số lượng văn bản có liên quan đến BĐKH được ban hành ở vùng TNB trong giai đoạn 2008-2018
Mức độ liên quan
TT
Loại hình văn bản
Số lượng
1 Hiệp ước quốc tế có liên quan đến BĐKH
4
Trực tiếp X
Gián tiếp
2 Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ có liên
5
X
quan đến BĐKH
3 Nghị định, Thông tư, Chỉ thị của Thủ tướng 4 Quyết định của Chính phủ, Thủ tưởng Chính phủ và
7 28
Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ
5 Quy hoạch vùng, ngành 6 Quy hoạch tỉnh, ngành
22 2500
Tổng
X 66
X 2500
Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2019
Từ số liệu thống kê (bảng 3.3) cho thấy, vùng TNB đã được Đảng và Nhà
nước dành sự quan tâm đặc biệt, trong công tác ứng phó với các thách thức của
BĐKH. Trong giai đoạn 2008-2018, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ đã ban hành
66 văn bản pháp luật: Hiệp ước, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, Nghị
quyết và quy hoạch có liên quan trực tiếp đến ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.
Bên cạnh đó, còn có khoảng hơn 2.500 quy hoạch tỉnh, ngành có liên quan đến vấn
đề BĐKH ở vùng. Do vậy, việc ban hành các chính sách đặc thù cụ thể trên nhiều
lĩnh vực khác nhau, gắn với ứng phó BĐKH ở vùng TNB đã tạo điều kiện thuận lợi
cho các tỉnh/thành phố trong việc thực thi các chính sách.
Bảng 3.4. Phân loại văn bản chính sách đặc thù ứng phó với BĐKH ở vùng TNB
Loại hình văn bản chính sách
TT
Số lượng
Tỷ lệ (%)
Chính sách liên quan đến lĩnh vực thích ứng BĐKH
1
32
48,5
Chính sách liên quan đến lĩnh vực giảm nhẹ BĐKH
2
21
31,8
3
13
19,7
Chính sách mang tính tích hợp các hoạt động (thích ứng, giảm nhẹ)
4
66
100
Tổng
82
Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2019.
Xét về khía cạnh lĩnh vực chính sách ứng phó với BĐKH, cũng cho thấy
nhóm chính sách liên quan đến thích ứng BĐKH chiếm ty lệ khá lớn gần 48,5 %,
nhóm chính sách liên quan đến hoạt động giảm nhẹ chiếm 31,8 %, còn lại nhóm
chính sách tích hợp các hoạt động (thích ứng và giảm nhẹ BĐKH) chiếm 19,7 %.
3.1.1.2. Năng lực của các chủ thể thực hiện chính sách
a. Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách
Từ khi Việt Nam ký Công ước Khung của Liên hợp quốc về BĐKH năm
1992, cũng như ký Nghị định thư Kyoto năm 1998, một loạt các hoạt động về tổ
chức đã được xúc tiến, trong đó, liên quan trực tiếp tới CTMTQG là lập Ban chỉ đạo
quốc gia và Văn phòng CTMTQG để triển khai CTMTQG (theo Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ số 158//2008/QĐ-TTg ngày 02/12/2008). Bộ máy tổ chức
cũng được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới theo Quyết định số
43/QĐ-TTg về việc thành lập Ủy ban Quốc gia biến đổi khí hậu, ngày 9/1/2012.
(i). Bộ máy thực hiện chính sách ở cấp Trung ương
Theo đó ở cấp Trung ương đã thành lập Ủy ban Quốc gia biến đổi khí hậu, với
chức năng, nhiệm vụ: nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
phương hướng, giải pháp để giải quyết những hoạt động ứng phó với BĐKH quan
trọng, mang tính liên ngành, lĩnh vực. Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều hòa,
phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc giải
quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành, các chiến lược (Chương trình quốc gia
về BĐKH, Chiến lược tăng trưởng xanh và các chương trình khác có liên quan đến
ứng phó với BĐKH). Chỉ đạo, điều phối, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các chiến
lược, chương trình về BĐKH bảo đảm hiệu quả, đồng bộ và thống nhất… [111].
Cơ cấu của Ủy ban Quốc gia biến đổi khí hậu bao gồm có Thủ tướng Chính
phủ, một Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ TN&MT, các Bộ trưởng các Bộ, ngành
khác, đại diện một số cơ quan của Quốc hội, một số Viện khoa học và một số
chuyên gia, nhà khoa học. Hỗ trợ Ủy ban là một Văn phòng thường trực được đặt
tại Bộ TN&MT [111]. Đồng thời để giúp việc cho Ủy ban, đã hình thành cơ quan
giúp việc của Ủy ban Quốc gia, trong đó, Bộ TN&MT là cơ quan thường trực của
Ủy ban. Để triển khai các hoạt động của Ủy ban, Bộ TN&MT đã thành lập Văn
phòng Ủy ban Quốc gia về BĐKH là cơ quan giúp việc cho Ủy ban Quốc gia về
BĐKH đặt tại Bộ TN&MT do Cục trưởng Cục BĐKH làm Chánh văn phòng. Văn
phòng có biên chế riêng, có con dấu và tài khoản theo quy định của pháp luật. Để
83
tư vấn cho cho Ủy ban Quốc gia về BĐKH, Ủy ban đã thành lập Hội đồng tư vấn
Quốc gia về BĐKH, bao gồm các chuyên gia, các nhà khoa học hàng đầu về lĩnh
vực BĐKH và PTBV [111].
(ii). Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB
Để triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu thì 13 tỉnh,
thành phố TNB đã thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh, thành phố về ứng phó với biến
đổi khí hậu (BCĐ 158. Trong đó, trưởng ban chỉ đạo là Lãnh đạo UBND tỉnh/thành
phố, Phó ban chỉ đạo là Giám đốc Sở TN&MT và thành viên ban chỉ đạo là lãnh
đạo các sở/ngành liên quan.
b. Cán bộ và chế độ chính sách cho cán bộ triển khai thực hiện chính sách
(i) Cán bộ làm công tác triển khai chính sách BĐKH ở các địa phương, vùng
Qua báo cáo của Cục Biến đổi khí hậu, Bộ TN&MT và kết quả thống kê của
NCS, hiện nay cán bộ thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB được chia thành ba
nhóm như sau:
- Cán bộ chuyên trách: chỉ có ở cấp tỉnh/thành phố trực thuộc TW, Sở
TN&MT sẽ bố trí từ 1 chuyên viên của Sở phụ trách mảng BĐKH.
- Cán bộ kiêm nhiệm: ở cấp huyện/thị xã, Phòng TN&MT sẽ bố trí 1 cán bộ
kiêm nhiệm về lĩnh vực môi trường làm công tác BĐKH.
- Cán bộ hợp đồng: ở cấp xã/thị trấn, UBND xã ký hợp đồng lao động với 1
cán bộ làm công tác địa chính - môi trường, kiêm nhiệm làm công việc liên quan
đến BĐKH trên địa bàn xã.
(ii) Chế độ chính sách
Để thúc đẩy sự tận tụy, đam mê và trách nhiệm cao trong công việc, chế độ
chính sách cho cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm về BĐKH là yếu tố rất quan
trọng, có ảnh hưởng lớn đến kết quả của tổ chức triển khai chính sách BĐKH. Theo
báo cáo của Cục Biến đổi khí hậu, Sở TN&MT của 13 tỉnh/thành vùng TNB, chế độ
chính sách cho cán bộ hiện nay chủ yếu là lương, thưởngtheo quy định; hỗ trợ khi
đào tạo tập huấn nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ; và ngân sách tỉnh/thành phố cấp
cho hoạt động của BCĐ 158 cấp tỉnh/thành phố, cụ thể:
- Về lương, đối với cán bộ biên chế (chủ yếu là cán bộ cấp huyện trở lên)
thì được hưởng lương từ ngân sách như cán bộ trong khối hành chính Nhà nước.
Còn đối với cán bộ hợp đồng, địa chính - môi trương cấp xã không có lương, chỉ
được hưởng phụ cấp từ 500.000 đồng đến 1.490.000 đồng/người/tháng, tuỳ thuộc
84
vào điều kiện về nguồn quỹ lương của địa phương.
- Về chế độ thưởng, cán bộ thực hiện chính sách BĐKH cũng được chế độ
khen thưởng theo quy định Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành.
- Hỗ trợ tham gia đào tạo tập huấn nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ: cán bộ
làm công tác BĐKH, khi tham gia hội nghị, hội thảo, đào tạo, tập huấn nâng cao
năng lực chuyên môn thì được hưởng chế độ theo quy định hiện hành.
- Phụ thuộc vào điều kiện KT-XH của mỗi địa phương vùng TNB, hằng năm
ngân sách tỉnh sẽ hỗ trợ khoảng 20-50 triệu đồng/năm, cho BCĐ 158 cấp tỉnh/thành
phố. Số tiền này sẽ chuyển về cho Sở TN&MT để chi in ấn tài liệu, hội nghị sơ kết…
Rõ ràng, qua kết quả phân tích ở trên cho thấy, đội ngũ cán bộ là công tác
BĐKH ở các địa phương vùng TNB hiện nay, chủ yếu là kiêm nhiệm nhiều công
việc khác nhau. Tuy nhiên, chế độ hỗ trợ, phụ cấp cho cán bộ đảm trách công tác
BĐKH hiện nay rất thấp, nhất là cán bộ ở cấp xã. Do vậy, rất khó khích lệ sự đam
mê, sáng tạo và tận tụy với việc được giao.
Bên cạnh đó, các vấn đề liên quan tới năng lực của một số chủ thể thực hiện
chính sách, đặc biệt là cán bộ chuyên trách về ứng phó BĐKH có vai trò hết sức
quan trọng trong quá trình thực thi chính sách. Đánh giá về năng lực của chủ thể
thực hiện chính sách được thực hiện, luận án dựa trên 4 chỉ số: (i) số lượng cán bộ
chuyên trách; (ii) thực tế công việc thực hiện so với chuyên môn được đào tạo; (iii)
thu nhập và các chế độ đãi ngộ khác; (iv) vấn đề đào tạo nâng cao năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ. Kết quả khảo sát của luận án cho thấy 4 chỉ số về năng lực của chủ
thể thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB hiện chỉ đạt ở mức độ khá và trung
bình: (i) số lượng cán bộ chuyên trách chỉ đạt 3,0 điểm; (ii) thực tế công việc thực
hiện so với chuyên môn được đào tạo chỉ đạt 2,9 điểm; (iii) thu nhập và các chế độ
đãi ngộ khác đối với cán bộ đạt 2,7 điểm; và (iv) kém nhất là chỉ số đào tạo nâng
cao năng lực chuyên môn để đáp ứng nhu cầu công việc ngày càng lớn chỉ đạt 2,6
điểm. Điều đó, cho thấy chất lượng năng lực chuyên môn và chế độ đãi ngộ của các
cán bộ chuyên trách về BĐKH là vấn đề mà các địa phương vùng TNB cần phải cải
thiện. Thực tế cho thấy, chuyên môn của các cán bộ chuyên trách chưa thực sự đáp
ứng được nhu cầu thực tế đặt ra. Trong khi đó các hoạt động và công việc liên quan
85
đến thực hiện chính sách BĐKH ngày càng nhiều (Hình 3.1).
Hình 3.1. Năng lực cán bộ thực hiện chính sách BĐKH
3.1.2. Nhóm các nhân tố chủ quan 3.1.2.1. Nguồn lực thực hiện chính sách
Các nguồn lực để thực hiện các dự án, nhiệm vụ ứng phó với BĐKH, là nhân
tố quan trọng nhất đối với quá trình thực thi chính sách BĐKH. Nguồn lực này phụ
thuộc vào các nguồn đảm bảo thu - chi ngân sách Nhà nước từ Trung ương và địa
phương, huy động nguồn vốn viện trợ ODA, đóng góp của doanh nghiệp, cộng
đồng... Tính đến tháng 6/2017 trong CTMTQG về ứng phó với BĐKH đã có 122 dự
án ứng phó với BĐKH do bộ/ngành chủ trì được triển khai thực hiện với tổng số
kinh phí là hơn 361 tỷ đồng, và 101 dự án do các địa phương chủ trì thực hiện tổng
số kinh phí hơn 4.103 tỷ đồng. Còn đối với chương trình hỗ trợ ứng phó với BĐKH
(SP-RCC), đã có 16/62 dự án được bố trí vốn để thực hiện với tổng số kinh phí là
4.433 tỷ đồng. Trong 16 dự án cấp bách được ưu tiên phân bổ vốn để thực hiện, chủ
yếu tập trung vào lĩnh vực cải tạo và nâng cấp hệ thống hạ tầng thuỷ lợi: hồ chứa
nước, hệ thống đê bao, đê sông, đê biển, kênh thoát lũ... [91, tr.29-39].
3.1.2.2. Sự tham gia của khu vực tư nhân, cộng đồng
Hoạt động ứng phó với BĐKH ở vùng TNB hiện nay, chủ yếu tập trung ở khu
vực công mà chưa phát huy được vai trò và sự đóng góp của khu vực tư nhân
(doanh nghiệp, cộng đồng, người dân), nhóm tác nhân gây phát thải KNK lớn nhất.
Sự tham gia của doanh nghiệp trong việc đóng góp nguồn lực cho ứng phó với
BĐKH, hay đầu tư cho đổi mới công nghệ tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi
trường, giảm phát thải. Sự tham gia của cộng đồng, người dân trong việc chuyển
đổi sang mô hình sản xuất giảm phát thải, xây dựng các làng xã các theo hướng
86
kinh tế xanh, các bon thấp ở vùng TNB chưa thật sự có nhiều điển hình tiêu biểu.
Kết quả khảo sát của NCS cho thấy sự tham gia, đóng góp của khu vực tư nhân
trong việc thực hiện các hoạt động ứng phó với BĐKH thấp (2,5 điểm) và khu vực
doanh nghiệp hiện nay bị động trong ứng phó với BĐKH. Điều này hàm ý rằng,
khu vực tư nhân vẫn chưa thực sự nhận thức được vai trò của mình trong hoạt động
ứng phó với BĐKH và xem đó là nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước.
Hình 3.2. Sự tham gia của các bên trong thực hiện chính sách BĐKH
3.1.3. Nhóm các nhân tố khách quan 3.1.3.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô
Sau hơn 30 năm kể từ khi bắt đầu thực hiện công cuộc Đổi mới toàn diện đất
nước vào năm 1986, Việt Nam thành công chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, và đạt được
những thành tựu đáng kể về phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Việt Nam đã
vượt qua thời kỳ khủng hoảng KT-XH, từ một quốc gia có nền nông nghiệp lạc hậu,
kém phát triển, trở thành nước có mức thu nhập trung bình. Theo số liệu của Tổng
cục Thống kê cho thấy năm 2018 quy mô nền kinh tế đạt 5.007,9 nghìn tỷ đồng
tương ứng với 220 tỷ USD, GDP bình quân đầu người ước tính đạt 53,5 triệu đồng,
tương đương 2.385 USD [143]. Đặc biệt, trong công cuộc giảm nghèo, Việt Nam đã
hoàn thành xuất sắc các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ, khi tỷ lệ đói nghèo giảm từ hơn 80% dân số sau 30 năm giảm xuống còn khoảng 8% [124]. Đây là tiền đề
87
quan trọng cho Chính phủ phân bổ nguồn lực cho ứng phó với BĐKH cho các địa phương. Trong kế hoạch phân bổ vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 cho vùng TNB, tổng số vốn đầu tư trong kế hoạch đầu tư công trung hạn của vùnglà 193.967,151 tỷ đồng chiếm 16,53% so với cả. Trong đó, ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu là 79.905,9 tỷ đồng, nguồn vốn cân đối ngân sách địa phương là 114.061,251 tỷ đồng. Riêng đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, thiên tai, BĐKH, bố trí vốn kế hoạch đầu tư giai đoạn 2016-2020 đạt 28.200 tỷ đồng (chiếm 29% tổng
vốn toàn ngành) thông qua Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT. Bên cạnh đó, còn có nguồn vốn bổ sung ngoài kế hoạch trung hạn 2016-2020, trong đó đã bố trí xử lý sạt
lở cấp bách nguy hiểm từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương năm 2018 là
1.500 tỷ đồng. Ngoài ra, Bộ KH&ĐT đang tiếp tục làm việc với các đối tác phát
triển, các nhà tài trợ để đề xuất một số dự án mới triển khai trong giai đoạn 2021- 2025 cho vùng TNB [11].
Vùng TNB bao gồm 13 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương với dân số với 17,5 triệu người, diện tích tự nhiên khoảng 4.0604.6km2, trong đó có khoảng 64%
diện tích đất được dùng để sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản (2017). Là
khu vực có ba mặt giáp biển, mặt Đông, Nam giáp Biển Đông và Tây Nam giáp
vịnh Thái Lan [126]. Vùng TNB là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu nhất
Đông Nam Á và thế giới. Là vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, nuôi trồng thủy
hải sản và trồng cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất của Việt Nam. Thế mạnh kinh tế của
TNB là ngành nông nghiệp, chiếm 34,6% GDP toàn ngành nông nhiệp cả nước và
chiếm 33,5 % GDP chung của vùng TNB [19]. Đến năm 2018, vùng TNB đứng đầu
cả nước về sản lượng lúa, tôm, cá tra và trái cây (sản lượng lúa 24,5 triệu tấn, chiếm
56% sản lượng cả nước; sản lượng tôm 0,623 triệu tấn, chiếm 70%; sản lượng cá tra
1,41 triệu tấn, chiếm 95%; sản lượng trái cây 4,3 triệu tấn, chiếm 60%). Kim ngạch
xuất khẩu các nông sản chủ lực của vùng (gạo, cá tra, tôm, trái cây) đạt 8,43 tỷ
USD, chiếm 73,34% kim ngạch xuất khẩu các nông sản của cả nước [19]. Vùng
TNB có mức tăng trưởng tổng sản phẩm của vùng (GRDP) tăng trưởng liên tục từ
1995 đến nay với tốc độ tăng trưởng luôn trên 6%. Tổng sản phẩm trong nước
(GRDP) của vùng TNB năm 2010 là 335.696 tỷ đồng, năm 2015 là 494.115 tỷ đồng
và năm 2017 là 561.639 tỷ đồng, tương ứng tốc độ tăng trưởng bình quân năm giai
đoạn 2010 - 2015 là 8,22% và giai đoạn 2010-2017 là 6,79%. Trong giai đoạn
2012-2017 thì GRDP vùng đạt ở mức ổn định, trung bình trên 6,5%, xấp xỉ mức
tăng trưởng GDP chung của cả nước [108]. Đây là yếu tố quan trọng để đảm bảo
một phần nguồn ngân sách địa phương dành cho ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên,
hiện 12/13 tỉnh, thành phố ở vùng TNB không cân đối được thu - chi ngân sách và
phải nhận trợ cấp hàng năm từ Trung ương. Do vậy, các chương trình, dự án đầu tư
công hàng năm và trung hạn cho BĐKH ở các địa phương đều dựa vào nguồn ngân
sách Trung ương. Vì thế, việc triển khai thực thi các dự án, nhiệm vụ về BĐKH ở
các địa phương khá bị động, do phụ thuộc vào nguồn lực từ Trung ương, nhất là
88
ngân sách cho các dự án BĐKH cấp bách.
Mặt khác, với 75% dân cư tập trung sinh sống ở nông thôn, những bứt phá
trong phát triển nông nghiệp của vùng thời gian qua đã góp phần tạo việc làm, nâng
cao thu nhập, giảm tỷ lệ nghèo. Tỷ lệ nghèo của vùng TNB đã giảm tương đối ấn
tượng từ khoảng 15% xuống còn dưới 10% trong giai đoạn 2006-2016 [17]. Tuy
nhiên, kinh tế vùng TNB vẫn chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp thuần tuý phụ
thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và TNTN. Với cơ cấu kinh tế như hiện nay vùng
sẽ dễ bị tổn thương do tác động của BĐKH [17].
3.1.3.2. Cam kết hỗ trợ của các tổ chức quốc tế
Việt Nam đã tham gia tích cực trong cuộc chiến ứng phó với BĐKH toàn cầu,
đặc biệt, chúng ta đã thể hiện trách với cộng đồng quốc tế khi ký Thoả thuận Paris
về BĐKH. Do vậy, Việt Nam có nhiều cơ hội để tiếp cận các nguồn lực tài chính,
kỹ thuật, tín dụng ưu đãi cho ứng phó với BĐKH: Quỹ Khí hậu xanh, Quỹ Môi
trường toàn cầu... Trong giai đoạn 2009-2017, Chính phủ cũng đã tích cực huy động
được nguồn vốn viện trợ ODA khoảng 1,6 tỷ USD từ các tổ chức quốc tế, như:
Ngân hàng ADB; Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật
Bản (JICA), Ngân hàng Thế giới (WB), Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
(UNDP), Cơ quan Hợp tác phát triển Đức (GIZ)... để hỗ trợ các bộ/ngành và địa phương vùng TNB thực hiện các dự án về ứng phó với BĐKH.6Cùng với thành tựu
tăng trưởng kinh tế ấn tượng và giảm nghèo nhanh chóng, Việt Nam đã chính thức
bước vào nhóm các quốc giá có mức thu nhập trung bình. Do vậy, đến sau năm
2020 các khoản viện trợ, khoản vay ưu đãi dành cho ứng phó với BĐKH ở Việt
Nam sẽ ít đi và chuyển sang cơ chế vay thương mại. Đa số các chương trình, dự án
đầu tư công trung hạn cho tăng trưởng xanh, ứng phó với thiên tai, BĐKH ở các địa
phương được Chính phủ cân đối từ nguồn viện trợ, nguồn ODA. Vì thế, khi nguồn
viện trợ ODA bị cắt giảm, mà nguồn vốn từ nội lực chưa đáp ứng được, sẽ gây khó
khăn về nguồn tài chính để thực thi chính sách BĐKH cho các địa phương trong cả
nước nói chung và vùng TNB nói riêng.
3.1.3.3. Sự phát triển KH&CN hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu
Sự phát triển vượt bậc KH&CN của nhân loại, nhất là ảnh hưởng của cuộc
Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã và đang chi phối rất lớn đến công tác thích ứng với
89
BĐKH ở vùng TNB, thông qua các kênh sau: 6 Số liệu được NCS tính toán dựa trên Cơ sở dữ liệu thống kê tình hình thực hiện các dự án liên quan đến BĐKH ở Việt Nam giai đoạn 2011-2017, Cục Khí tượng thuỷ văn và Biến đổi khí hậu, 2017.
- Cùng với sự tăng tốc của cuộc cách mạng số, sự kết nối giữa thế giới thực
(bao gồm con người và các vật thể) với không gian sốngày càng trở nên mạnh mẽ
[104]. Với 3 trụ cột chính là: (i) Internet tốc độ cao (băng thông rộng hữu tuyến và
4G, 5G phi tuyến); (ii) điện toán có công suất cao (máy tính lớn, máy tính cá nhân,
máy tính bảng, điện thoại thông minh và các phần mềm); (iii) sử dụng trí tuệ nhân
tạo. Điều này đã giúp cho công nghệ dự báo, cảnh báo sớm thời tiết, thiên tai và
BĐKH trở nên chính xác hơn [75].
- Với sự phát triển của KH&CN đã nghiên cứu ra các loại giống cây, con thích
ứng tốt hơn với sự thay đổi của thời tiết, khí hậu; hay các mô hình sản xuất thông
minh ít phụ thuộc vào tài nguyên và khí hậu.
3.1.3.4. Văn hóa, phong tục tập quán
Văn hoá, phong tục tập quán người dân vùng TNB, là vấn đề có vai trò cốt yếu
trong việc hình thành nên tính đặc thù vùng đất, con người, văn hóa ứng xử với
nước, ứng xử với môi trường tự nhiên của cư dân Nam Bộ. Mặt khác, do sinh kế
của đa số cư dân vùng TNB là nông nghiệp, thủy sản gắn với sông nước, nên cộng
đồng cư dân vùng nông thôn ở vùng TNB thường có thói quen sinh sống ven bờ
sông, bờ biển. Do đó, cư dân rất dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai hạn hán, xâm nhập
mặn, sạt lở bờ sông, bờ biển. Bên cạnh đó, do điều kiện tự nhiên để canh tác sản
xuất, mưu sinh thuận lợi hàng trăm năm nay, nên dân cư sinh sống ở các vùng nông
thôn TNB không có thói quen tích lũy, tiết kiệm, hình thành vốn tài chính. Nên khi
có các cú sốc do biến động KT-XH hay do thiên tai, BĐKH gây ra, thì khả năng
phục hồi sinh kế của người dân là rất kém [95]. Do đó, văn hóa tổ chức sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt của vùng TNB phải phù hợp đặc trưng của nước, của
hệ sinh thái của từng tiểu vùng. Dựa vào lợi thế, quy luật biến đổi điều kiện tự
nhiên, tài nguyên, duy trì dòng chảy, hoạt động, cân bằng tự nhiên của nước, chỉ
can thiệp trong tình hướng bắt buộc để đảm bảo an ninh, sinh tồn. Chú trọng hồi
phục tính tự nhiên của nước- tái xây dựng và phát triển hạ tầng tự nhiên góp phần
đảm bảo an ninh nguồn nước. Duy trì và phát triển văn minh, văn hoá của TNB theo
hướng thông minh với nước và khí hậu để PTBV [95].
3.1.3.5. Sự thay đổi của yếu tố bên ngoài
Vùng TNB nằm ở vị trí hết sức mẫn cảm, trong đó nguồn nước và phù sa của
đồng bằng phụ thuộc phần lớn ở bên ngoài lãnh thổ. Vì vậy, sự thay đổi tích cực
90
hay tiêu cực từ khu vực thượng nguồn châu thổ đều ảnh hưởng trực tiếp đến sự
PTBV của vùng. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước một cách có trách nhiệm
ở các quốc gia khu vực sông Mê Kông có ảnh hưởng rất lớn đến vùng TNB. Trong
giai đoạn 2015-2018, việc chuyển nước sông Mê Kông sang lưu vực sông khác và
nhất là việc ngăn dòng để khai thác thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông đã
làm cho vùng TNB phải đối mặt với các đợt hạn hán và xâm nhập mặn, sạt lở sông
biển nghiêm trọng nhất trong lịch sử phát triển của đồng bằng. Do đó, sự thay đổi
của vùng Thượng nguồn Mê Kông có ảnh hưởng rất lớn đến công tác thực thi chính
sách BĐKH. Và để ứng phó với sự thay đổi đó, thì phụ thuộc chủ yếu vào chính
sách liên kết vùng và khả năng đàm phán để giải quyết vấn đề có trách nhiệm theo
thông lệ quốc tế ở cấp quốc gia, khu vực.
3.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến vùng Tây Nam Bộ
3.2.1. Vùng sinh thái - xã hội ở khu vực Tây Nam Bộ 3.2.1.1. Cơ sở của việc lựa chọn vùng sinh thái xã hội trong ứng phó với biến đổi
khí hậu ở vùng TNB
Hiện nay, ở vùng TNB có nhiều cách tiếp cận phân vùng, tuỳ thuộc vào mục
tiêu của chủ thể quản lý mà có các tiếp cận cho phù hợp. Để chính sách ứng phó với
BĐKH hiệu quả trong thực tiễn thực hiện ở vùng TNB, luận án tiếp cận vùng sinh
thái - xã hội.
Cơ sở khoa học của các tiếp cận vùng sinh thái - xã hội. Cách tiếp cận này đã
từng bước được cụ thế hoá trong Quyết định số 593/QĐ-TTg ngày 6/4/2016, về
việc Ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển KT-XH vùng ĐBSCL giai đoạn
2016-2020. Và Nghị quyết 120/NQ-CP, ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững
vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Đặc biệt, là Quyết
định 417/QĐ-TTg, ngày 13/4/2019 về việc ban hành Chương trình hành động tổng
thể thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP, ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững vùng
đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong đó, Chương trình đã nhấn mạnh nội dung xây dựng đề án liên kết 4 tiểu vùng sinh thái - xã hội (tiểu
91
vùng DHPĐ, tiểu vùng ĐTM, tiểu vùng TGLX, tiểu vùng BĐCM) của vùng TNB để góp phần triển khai Quyết định số 593/QĐ-TTg ngày 6/2/2016. Theo đó, trong ứng phó với BĐKH thì tiếp cận vùng sinh thái - xã hội là cách phù hợp vì dựa trên nền tảng khai thác, sử dụng các hệ sinh thái, vốn tự nhiên trong thích ứng với BĐKH sao cho vừa đạt được lợi ích về mặt KT-XH, vừa duy trì sức khoẻ của các hệ sinh thái, đồng thời điều chỉnh hệ thống KT-XH theo hướng chủ động thích ứng với BĐKH, mà không xung đột với vốn tự nhiên, hệ sinh thái.
3.2.1.2. Các vùng sinh thái - xã hội ở vùng
Theo đó vùng TNB có 4 vùng sinh thái - xã hội như sau:
a. Tiểu vùng Duyên hải phía Đông
Tiểu vùng DHPĐ có ranh giới hành chính, gồm 04 tỉnh: Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long và Trà Vinh, vùng có tổng diện tích khoảng 8.788,9km2, chiếm 21,5% tổng diện tích vùng TNB, với dân số 5 triệu người. Vùng DHPĐ nằm ở vùng Duyên
hải cửa sông của hệ thống sông Cửu Long đổ ra biển Đông và là vùng có đặc trưng
về sinh thái ven biển cửa sông. Với đặc trưng về sinh thái ven biển, cửa sông nên vùng có nhiều tiềm năng phát triển các chuỗi giá trị trái cây đặc sản để xuất khẩu;
du lịch sinh thái sông nước gắn miệt vườn; dịch vụ logistics; trung tâm nghiên cứu.
Hiện nay, tiểu vùng DHPĐ đang bị ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt, sạt lở bờ sông, bờ biển.
b. Tiểu vùng Đồng Tháp Mười
Về mặt ranh giới hành chính tiểu vùng ĐTM thuộc địa phận 3 tỉnh: Đồng
Tháp, Tiền Giang và một phần diện tích của tỉnh Long An với 22 huyện, thị xã,
thành phố; diện tích tiểu vùng khoảng 730.000ha, chiếm 70% diện tích tự nhiên của
3 tỉnh và chiếm 18% diện tích của TNB. Tiểu vùng ĐTM là vùng đất trũng hay
đồng lũ kín, với 42% diện tích là đất phèn, đất nông nghiệp chiếm 78%, trong đó
chủ yếu là đất lúa chiếm 85%. Tiềm năng phát triển chuỗi giá trị lúa về lúa gạo,
xoài, cá tra, sen, cây dược liệu, nâng cao chất lượng trái thanh long, khóm, vú sữa
đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu và du lịch sinh thái. Trong bối cảnh BĐKH toàn cầu
vùng bị ảnh hưởng hưởng nặng nề bởi sạt lở bờ sông, lũ, xâm ngập mặn...
c. Tiểu vùng Tứ giác Long Xuyên
Ranh giới tiểu vùng gồm 4 tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang
với tổng diện tích hơn 550.000ha, dân số khoảng 1,6 triệu người. Là vùng sản xuất
nông nghiệp quan trọng của TNB, chủ yếu là lúa, gạo, cá, hoa màu, với sản lượng
lúa gạo đứng đầu cả nước (khoảng 5 triệu tấn/năm). Đây là vùng trũng tự nhiên ở đầu nguồn ĐBSCL, cùng với ĐTM, TGLX có chức năng điều tiết thủy văn quan
92
trọng cho cả vùng TNB. Vào mùa lũ, vùng này ngập tự nhiên đến 3 mét nên hấp thu lượng lớn nước lũ, phù sa, tài nguyên thủy sản, giúp giảm ngập lụt cho các vùng phía hạ lưu. Đến mùa khô, nước lũ trong vùng trũng này bổ sung cho dòng chảy giúp cân bằng ranh giới mặn - ngọt cho các tỉnh ven biển. Vùng TGLX đang đứng trước hàng loạt thách thức như BĐKH, NBD gây hạn hán, xâm nhập mặn, mưa nắng thất thường. Những tác động do hệ thống các đập thủy điện trên sông Mê Kông mà theo dự báo, sẽ làm tổn thất nguồn thủy sản nước ngọt, ảnh hưởng lớn đến
dinh dưỡng của người dân và các loài thuộc hệ sinh thái đất ngập nước; ngoài ra còn làm giảm phù sa, gây hạn vào mùa khô ở TGLX. Bên cạnh đó, việc thâm canh
lúa, tăng lúa vụ 3 làm tăng chi phí, bạc màu đất, ô nhiễm môi trường vì sử dụng
phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Trong giai đoạn 2016-2019, vùng đứng trước
tình trạng suy giảm nước ngầm và sụt lún đất…
d. Tiểu vùng bán đảo Cà Mau
Tiểu vùng BĐCM rộng 1,6 triệu ha, bao gồm các địa phương Sóc Trăng, Bạc
Liêu, Cà Mau và một phần của tỉnh Kiên Giang, tỉnh Hậu Giang. Tiểu vùng có hệ
sinh thái đa dạng, là vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp và thủy sản nước lợ của
cả nước. Thế mạnh của vùng là tôm - lúa, thuỷ sản và năng lượng tái tạo, du lịch
sinh thái. Hiện nay, có 3 nhóm thách thức cơ bản, về: toàn cầu, khu vực và địa bàn.
Từ những thách thức trên đã làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển KT-XH, nhất là
hoạt động sản xuất nông nghiệp của Tiểu vùng BĐCM nói chung cũng như từng địa
phương nói riêng. Vì vậy, nhu cầu liên kết hợp tác để phát triển giữa các tỉnh trong
tiểu vùng là tất yếu và cần thiết. Trong giai đoạn 2011-2018 tiểu vùng chịu tác động
của BĐKH và NBD: hạn hán và xâm nhập mặn, sạt lở bờ biển, sụt lún… ngày càng
có chiều hướng gia tăng.
Hình 3.3. Các tiểu vùng sinh thái - xã hội vùng Tây Nam Bộ
93
Nguồn: Đặng Kiều Nhân, 2018.
3.2.2. Một số biểu hiện của biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ
Theo kịch bản BĐKH và NBD Việt Nam năm 2016 [24], với kịch bản đường
phân bố nồng độ KNK đại diện (Representative Concentration Pathways - RCP), sự
thay đổi các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa và mực nước biển được tóm tắt như sau:
3.2.2.1. Về nhiệt độ trung bình
Theo kịch bản trung bình RCP4.5, nhiệt độ trung bình năm khu vực TNB có
xu thế tăng so với trung bình thời kỳ cơ sở (1986-2005), giữa thế kỷ tăng khoảng
1,40C (0,9÷2,1), đến cuối thế kỷ tăng khoảng 1,80C (1,2÷2,7). Theo kịch bản cao
RCP8.5, giữa thế kỷ tăng khoảng 1,90C (1,3÷2,7); đến cuối thế kỷ tăng khoảng
3,40C (2,6÷4,6).
3.2.2.2. Lũ ở vùng Tây Nam Bộ
TNB chịu tác động của mưa trên lưu vực các quốc gia thượng nguồn nhất là
Lào và Campuchia (chiếm khoảng 50% diện tích lưu vực). Ngoài ra, còn do các
hình thái thời tiết gây mưa lớn ngay tại đồng bằng và tác động của thủy triều từ biển
Đông. Các yếu tố trên ngày càng diễn biến phức tạp do tác động của BĐKH, dẫn
đến diễn biến ngập lũ ngày càng trở nên phức tạp hơn. “Theo chu kỳ, từ tháng 5 trở
đi, mực nước ở khu vực trung và hạ lưu sông Mê Kông bắt đầu gia tăng và đạt đỉnh
lũ đầu vụ vào khoảng giữa tháng 8, sau đó lũ xuống chậm, tiếp theo lũ lên lại và đạt
đỉnh lũ chính vụ vào khoảng cuối tháng 9, tháng 10 hằng năm.
- 4 trận lũ lớn, trong đó có 3 năm lũ lớn7 liên tiếp là các năm 2000, năm 2001
và năm 2002, sau đó đến năm 2011.
- 6 năm xảy ra lũ vừa8 là 2004, 2005, 2006, 2009, 2013, 2014 và 2018.
- 7 năm là lũ nhỏ9, đặc biệt năm 2015 là năm lũ quá nhỏ (tại Tân Châu: 2,55m,
Châu Đốc: 2,35m, thấp hơn trung bình nhiều nămlần lượt là 1,45m và 1,22m).
- Về đỉnh lũ chính vụ:
+ Thời gian xuất hiện: những năm gần đây, lũ có xu hướng đến muộn hơn so
94
với trước đây, từ năm 2010 trở về trước, đỉnh lũ chính vụ hầu hết xuất hiện vào cuối 7 Lũ lớn được tính khi mực nước cao nhất đầu nguồn sông Cửu Long vượt mức báo động 3 (mực nước tại Tân Châu 4,5m, tại Châu Đốc 4,0m). Lũ lớn sẽ gây ngập lụt trên diện rộng, uy hiếp đến an toàn của hệ thống đê bao, bờ bao nội đồng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và dân sinh. 8 Lũ vừa được tính khi mực nước cao nhất đầu nguồn sông Cửu Long từ mức báo động 2 (Tân Châu 4,0m, tại Châu Đốc 3,5m) đến dưới báo động 3. Lũ đẹp không ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, dân sinh và mang lại nguồn lợi lớn về thủy sản, bồi đắp phù sa và vệ sinh đồng ruộng (nên được coi là lũ đẹp). 9 Lũ nhỏ nếu mực nước cao nhất tại đầu nguồn sông Cửu Long ở mức dưới báo động 2. Lũ nhỏ không mang lại nguồn lợi và nguy cơ xảy ra xâm nhập mặn vào mùa khô kế tiếp, đặc biệt khi lũ quá nhỏ.
tháng 9, đầu tháng 10 (từ năm 2000 đến 2010, chỉ có 3 trận có đỉnh lũ xuất hiện vào
giữa tháng 10). Từ năm 2010 trở lại đây, các trận lũ hầu hết xuất hiện vào giữa
tháng 10 (chậm hơn so với giai đoạn trước khoảng 10 ngày).
+ Độ lớn đỉnh lũ: Từ năm 2010 đến nay, số trận lũ lớn giảm so với trước kia,
chủ yếu xuất hiện các lũ vừa và lũ nhỏ (chiếm đến khoảng 90%), lũ đầu vụ (tháng
8) cũng suy giảm nghiêm trọng” [19].
Nhìn chung, lũ ở vùng TNB đã thay đổi đặc tính tự nhiên do tác động của vận
hành hồ chứa ở thượng nguồn châu thổ và qua đó cũng tiềm ẩn nguy cơ lũ cao bất
thường nếu xảy ra sự cố hồ chứa hoặc xả lũ đồng loạt [19].
3.2.2.3. Hạn hán, xâm nhập mặn
Vào các tháng mùa khô, TNB chịu tác động mạnh bởi xâm nhập mặn, đây là
đặc tính của vùng. Mức độ xâm nhập hàng năm có tính quy luật tương đối rõ rệt,
tuy nhiên trong những năm gần đây, nguồn nước thượng lưu sông Mê Kông về
đồng bằng đã thay đổi quy luật tự nhiên bởi việc xây dựng, vận hành các hồ chứa
thủy điện thượng lưu, dẫn đến xâm nhập mặn có những thay đổi lớn, gây khó khăn
lớn trong việc cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, cụ thể:
- “Thời gian xâm nhập mặn: Có xu hướng xuất hiện sớm hơn trước đây từ 1-
1,5 tháng. Giai đoạn trước năm 2012, mặn thường xâm nhập đáng kể từ tháng 2 đến
tháng 4, đỉnh mặn xuất hiện vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4. Những năm gần đây
dòng chảy thượng nguồn đầu mùa khô về thấp, xâm nhập mặn xuất hiện từ cuối
tháng 12 năm trước, đỉnh mặn xuất hiện vào tháng 2; hoặc đầu tháng 3.” [19]
- “Phạm vi xâm nhập mặn: Giai đoạn trước năm 2012, ranh mặn 4g/l chỉ vào
từ 35÷45 km, năm sâu nhất đến 60 km. Từ năm 2012 đến nay, xâm nhập mặn với
ranh mặn 4g/l thường xuyên vào sâu hơn, ở mức 50÷60 km, điển hình đợt xâm nhập
mặn kỷ lục năm 2016, chiều sâu xâm nhập mặn cao nhất lên tới 90 km. Việc này
dẫn đến hàng loạt cửa lấy nước được xây dựng trước đây ở khoảng cách cách cửa
sông 35-50 km không thể lấy nước ngọt; ngoài ra, các cửa cống này thường có cửa
van tự động đóng mở theo chênh lệnh mực nước thượng/hạ lưu, nên đã gây tác
95
động không nhỏ đến việc chủ động vận hành” [19].
Hình 3.4. Diễn biến mặn tại trạm điển hình trên sông Cửa Tiểu,
sông Cửa Đại giai đoạn sau năm 2012 so với trước đây
Nguồn: Bộ NN&PTNT, 2019.
Hình 3.5. Diễn biến mặn tại trạm điển hình trên sông Cổ Chiên,
sông Hậu giai đoạn sau sau năm 2012 so với trước đây
Nguồn: Bộ NN&PTNT, 2019.
3.2.2.4. Về mực nước biển dâng
Các kịch bản NBD được xây dựng cho các tỉnh ven biển TNB và được tổng hợp thành 2 khu vực: (i) khu vực ven biển phía đông TNB (từ nam Bình Thuận đến
96
mũi Cà Mau); và (ii) khu vực ven biển phía tây TNB (từ Mũi Cà Mau đến Kiên Giang). Nhìn chung, trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, xu thế tăng của mực nước biển trong các kịch bản RCP không có sự sai khác. Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể từ năm 2040 trở đi với sự tăng lên rõ rệt về mực nước biển trung bình của kịch bản RCP8,5 so với các kịch bản khác. Kịch bản mực nước biển dâng tại khu vực ven biển phía tây TNB cao hơn một ít so với khu vực phía đông.Nếu mực nước biển dâng 100cm sẽ ảnh hưởng 38,9% diện tích đất của TNB, các tỉnh bị ảnh
hưởng nhiều nhất là Hậu Giang (80,62%), Kiên Giang (76,9%) [24]. 3.2.2.5. Về bão và các biểu hiện thời tiết cực đoan khác
Vùng Nam Bộ (bao gồm TNB và Tp Hồ Chí Minh) có số cơn bão trung bình
năm ít nhất so với các vùng trên cả nước, mùa bão tập trung vào các tháng 10 đến
tháng 12. Tổng số cơn bão trong 55 năm (1960-2014) là 17 cơn. Tốc độ gió mạnh nhất trong bão quan trắc được đạt 28m/s (cấp 10). Lượng mưa trung bình trong một
đợt bão khoảng 50-100mm, lượng mưa lớn nhất trong 24h đã quan trắc được 273mm.
Theo kịch bản BĐKH, ở khu vực biển Đông, số lượng bão yếu và trung bình có xu
thế giảm trong khi số lượng bão mạnh đến rất mạnh lại có xu thế tăng rõ rệt. Hoạt
động của bão và áp thấp nhiệt đới có xu hướng dịch chuyển về phía nam và có thể sẽ
có nhiều ảnh hưởng đến khu vực TNB. Nguy cơ mưa lớn, gió mạnh khi bão mạnh,
siêu bão đổ bộ đối với vùng TNB như sau: lượng mưa một ngày lớn nhất trong bão
khoảng 300-350 mm; lượng mưa ba ngày lớn nhất trong bão khoảng 400-450mm; tốc
độ gió mạnh nhất trong bão từ45-50m/s (cấp 12-15). Riêng khu vực nam Nam Bộ
(Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang,…) có thể có nguy cơ gió mạnh hơn các khu vực
khác trong vùng. Khu vực từ Tp Hồ Chí Minh đến Cà Mau, nước dâng do bão cao
nhất đã xảy ra tới 2,0m, trong tương lai, khi bão có khả năng mạnh thêm, nước dâng
do bão có thể lên đến trên 2,7m [175].
3.2.3. Một số ảnh hưởng của BĐKH đến vùng Tây Nam Bộ
Từ cuối năm 2015 đến tháng 6-2016, các tỉnh vùng TNB đã hứng chịu các đợt
thiên tai là hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng. Tính đến tháng 6-2016, 13/13
tỉnh, thành tại vùng đã ban hành quyết định công bố bị thiên tai, hạn hán, xâm nhập
mặn trên địa bàn. Hạn hán, xâm nhập mặn đã làm cho khoảng 139.000ha lúa của
vùng bị thiệt hại, trong đó có hơn 50% diện tích bị mất trắng gây thiệt hại khoảng
khoảng 215 tỷ đồng. Đồng thời làm cho khoảng 400.000 hộ (1,5 triệu nhân khẩu) bị
thiếu nước sinh hoạt…[16]. Ước tính tổng thiệt hại trong đợt hạn - mặn 2015-2016
toàn vùng TNB khoảng 7.520 tỷ đồng, trong đó tỉnh Kiên Giang và Cà Mau, Bạc Liêu là những địa phương bị thiệt hại lớn nhất, khoảng 4.350 tỷ đồng10. Hạn hán,
xâm nhập mặn 2019-2020 tương đương và có thời điểm còn khốc liệt hơn đợt hạn
hán, xâm nhập mặn kỷ lục 2015-2016. Hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL năm
2019 đến sớm hơn, bắt đầu từ xuất hiện từ cuối tháng 11, trong điều kiện bình
10 Tính toán của Luận án (2017), dựa trên Báo cáo của Ban Chỉ đạo trung ương về phòng chống thiên tai, về tình hình thiệt hại do thiên tai gây ra năm 2016.
97
thường là vào tháng 1/2020. Tính đến tháng 1/2020, có những chỗ xâm nhập mặn
đã vào sâu tới 70km, như ở tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, một phần của Sóc Trăng và
Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Trà Vinh…Trong mùa hạn-mặn 2019-2020, đã làm
cho khoảng 100.000ha lúa, 130.000ha cây ăn trái của vùng ĐBSCL bị ảnh hưởng.
Ngoài ra, có khoảng 100.000 hộ dân có nguy cơ thiếu nước sinh hoạt, ước tính thiệt
hại về kinh tế sẽ hơn đợt hạn, mặn 2015-2016 [21].
Cũng trong năm 2017 và đến tháng 12-2019 khu vực TNB lại tiếp tục phải
hứng chịu những đợt sạt lở bờ sông, bờ biển với tần suất và quy mô lớn chưa từng
có trong lịch sử phát triển của đồng bằng [18].
Hộp 3.1: Tình hình sạt lở ở vùng TNB giai đoạn 2010-2019
- Giai đoạn trước năm 2010: Vùng TNB thường xuyên xảy ra hiện tượng sạt
lở, tại một số khu vực đã ghi nhận những thiệt hại do sạt lở gây ra, nhất là những
khu vực tập trung dân cư như: TX Tân Châu, Tp Long Xuyên (An Giang); TX
Hồng Ngự; Tp Sa Đéc (Đồng Tháp); Tp Vĩnh Long (Vĩnh Long). Tuy nhiên, xu thế
chung là ổn định, không gia tăng quá mức; vùng ven biển có xu thế bồi là chính.
- Từ năm 2010 - 2019: Sạt lở diễn biến ngày càng phức tạp và có mức độ gia
tăng cả về phạm vi và mức độ nghiêm trọng, uy hiếp trực tiếp đến tính mạng, tài sản
của nhân dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn các công trình phòng chống
thiên tai, cơ sở hạ tầng vùng ven biển và làm suy thoái rừng ngập mặn ven biển.
Trung bình hàng năm, xói lở dã làm mất khoảng 300ha đất, rừng ngập mặn ven
biển. Theo số liệu thống kê, đến hết 2018 khu vực TNB có 564 điểm sạt lở với tổng
chiều dài trên 834 km. Trong đó, sạt lở bờ sông 512 điểm với tổng chiều dài khoảng
566 km (chủ yếu diễn ra dọc theo sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Cỏ Đông, Vàm
Cỏ Tây và các nhánh chính của hệ thống kênh, rạch); sạt lở bờ biển 52 điểm với
tổng chiều dài 268 km.
Trong số các điểm sạt lở nêu trên, theo tiêu chí về phân loại sạt lở bờ sông, bờ
biển quy định tại Quyết định số 01/2011/QĐ-TTg ngày 04/01/2011 của Thủ tướng
Chính phủ, hiện có 57 điểm sạt lở đặc biệt nguy hiểm (sạt lở gây nguy hiểm trực
tiếp đến khu tập trung dân cư và cơ sở hạ tầng quan trọng), tổng chiều dài 170 km.
Bao gồm, bờ sông 39 điểm với tổng chiều dài 85 km, bờ biển 18 điểm với tổng
chiều dài 85 km (biển Đông 15 điểm/69 km, biển Tây 03 điểm/16 km). Tổng thiệt
hại do sạt lở bờ sông, bờ biển ở các tỉnh ĐBSCL đến tháng 12/2019 vào hơn
khoảng 2.955,3 tỷ đồng.
98
Nguồn: Bộ NN&PTNT, 2019.
Hình 3.6. Tổng thiệt hại do sạt lở bờ sông, bờ biển TNB giai đoạn 2010-2019
Nguồn: Tổng cục Thuỷ lợi, 2019.
Nhìn vào Hình 3.7, cho thấy tổng thiệt hại do thiên tai và BĐKH ở vùng TNB
ngày càng gia tăng ở mức nghiêm trọng, thiệt hại nặng nhất là năm 2007-2018 với
7.990 tỷ đồng. Tính chung trong giai đoạn 2010-2018, tổng thiệt hại do thiên tai và
BĐKH ở TNB là khoảng 20.945 tỷ đồng.
Hình 3.7. Ước tính thiệt hại do thiên tai và BĐKH ở vùng Tây Nam Bộ
giai đoạn 2010-2018
Nguồn: Tổng cục Phòng chống thiên tai, 2018.
Qua điều tra của luận án cũng cho thấy những kết quả tương tự, những năm
gần đây BĐKH đã dẫn đến những tác động tiêu cực ở vùngTNB. Trong 7 tác động
tiêu cực mà BĐKH thường ảnh hưởng đến KT-XH và môi trường ở các địa phương,
99
thì ảnh hưởng mạnh nhất là tới hoạt động nuôi trồng thủy sản và tác động đến sinh
kế bền vữngcộng đồng (đều 4,6 điểm). Tiếp đến là ảnh hưởng tới hoạt động trồng
trọt và suy giảm diện tích rừng ngập mặn.
Hình 3.8. Đánh giá về ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH đến một số ngành/lĩnh vực
Xét theo các tiểu vùng, DHPĐ, BĐCM, ĐTM là ba khu vực chịu ảnh hưởng
mạnh nhất của BĐKH khi có tới 7/8 tác động được đề cập ảnh hưởng, hoặc ảnh
hưởng mạnh tới tình hình KT-XH và môi trường địa phương. Khu vực TGLX người
dân ít cảm nhận thấy tác động tiêu cực của BĐKH hơn so với ba khu vực còn lại.
Hình 3.9. Đánh giá về ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH đến các tiểu vùng
3.3. Các bước thực hiện chính sách ứng phó biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ 3.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Ngay sau khi Chính phủ ban hành Quyết định 158/QĐ-TTg, ngày 2/12/2008
về việc Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH, các
100
tỉnh/thành phố ở vùng TNB đã ban hành các văn bản nhằm hướng dẫn, tổ chức,
triển khai cho các sở/ngành và địa phương thực hiện chính sách và đã đạt được một
số kết quả như sau:
Dựa vào Quyết định 158/2008/QĐ-TTg ngày 2/12/2008; Quyết định số
2148/QĐ-BTNMT, ngày 20/12/2010 của Bộ trưởng Bộ TN&MT Ban hành Kế
hoạch hành động ứng phó với BĐKH của Bộ TN&MT giai đoạn 2011-2015; Công
văn 3815/BTNMT-KTTVBĐKH, 13/10/2009 của Bộ TN&MT về Hướng dẫn Xây
dựng kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH. Các địa phương vùng TNB đã xây
dựng kịch bản BĐKH và NBD, đồng thời ban hành Kế hoạch hành động ứng phó
BĐKH và NBD giai đoạn 2011-2015. Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của
các tỉnh/ thành gồm các nội dung như sau: (i) xác định rõ mục tiêu của kế hoạch;
(ii) nội dung của kế hoạch ứng phó với BĐKH; (iii) nguồn lực tài chính thực hiện
kế hoạch: từ nguồn CTMTQG ứng phó BĐKH, ngân sách địa phương, nguồn vốn
từ các tổ chức quốc tế, tư nhân, lồng ghép từ các chương trình, dự án khác; và (iv)
tổ chức thực hiện chương trình; ban hành danh mục nhiệm vụ, dự án ưu tiên thực
hiện giai đoạn 2011-2015. Từ khung kế hoạch hành động chung đã nêu trên thì một
số bộ/ngành đã xây dựng hành động ứng phó với BĐKH của ngành: TN&MT,
NN&PTNT, GTVT, Xây dựng, Công thương, Y tế, TT&TT, VHTT&DL, Tài
chính…[115, tr.3-16].
Hiện nay, lồng ghép vấn đề BĐKH trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
phát triển của địa phương được coi là cách tiếp cận khôn ngoan nhằm đạt được mục
tiêu PTBV và xây dựng các biện pháp ứng phó với BĐKH một cách hiệu quả.
Thông qua việc lồng ghép các biện pháp ứng phó với BĐKH trong các chiến lược,
quy hoạch tổng thể KT-XH của địa phương nhằm đảm bảo sự ổn định đối với các
hoạt động đầu tư và giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của các lĩnh vực do tác động
của BĐKH. Trong đó, các biện pháp thích ứng và giảm nhẹ được coi là một phần
không thể tách rời của chính sách phát triển. Các biện pháp thích ứng và giảm nhẹ
đó sẽ phát huy hiệu quả nếu lồng ghép được vào các chính sách, chiến lược phát
triển [153]. Do đó, yêu cầu về lồng ghép BĐKH vào quy hoạch phát triển KT-XH
đã được đề cập đến trong Chiến lược quốc gia về ứng phó với BĐKH được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2139/2011/QĐ-TTg ngày 5/12/2011.
Để thực hiện Quyết định này, Bộ KH&ĐT đã ra Quyết định số 1485/QĐ-BKHĐT
về Ban hành Khung hướng dẫn lựa chọn ưu tiên thích ứng BĐKH trong lập kế
101
hoạch phát triển KT-XH. Từ khi ban hành Quyết định 1485/QĐ-BKHĐT đến nay
đã có một số địa phương vùng TNB, như: Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp bước
đầu đã thực hiện việc lồng ghép vấn đề BĐKH vào trong Chiến lược phát triển tổng
thể KT-XH giai đoạn 2011-2020, Kế hoạch phát triển KT-XH của địa phương giai
đoạn 2011-2015; Kế hoạch phát triển cách ngành: NN&PTNT, TN&MT, KH&ĐT,
GTVT, xây dựng… các quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH của địa phương,
nhất là cấp huyện và cấp xã. Việc lồng ghép đã mang lại một số hiệu quả tích cực
trong việc ứng phó với các tác động của BĐKH. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới
không chỉ đối với Việt Nam nói chung và vùng TNB nói riêng, nên các nhà hoạch
định chính sách gặp không ít khó khăn trong việc thực hiện công việc này. Nên việc
thực hiện nhiệm vụ trên, còn gặp những khó khăn, rào cản như sau: (i) Trong giai
đoạn 2011-2015 việc xây dựng ban hành khung hướng dẫn lồng ghép BĐKH trong
quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH còn chậm, chưa mang tính chất bắt buộc các
địa phương thực hiện; (ii) Bên cạnh đó, các bộ/ngành chưa ban hành kế hoạch
hướng dẫn lồng ghép BĐKH trong quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, do đó
các sở ở các địa phương vùng TNB cũng gặp khó khăn trong việc thực hiện lồng
ghép. Hầu hết các sở/ngành và cấp huyện đều gặp khó khăn, lúng túng vì thiếu
hướng dẫn, chỉ báo cụ thể về việc lồng ghép vấn đề BĐKH; (iii) Vai trò, trách
nhiệm của các sở/ngành và địa phương về thực hiện lồng ghép BĐKH trong quy
hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH cũng còn chưa rõ ràng (ví dụ, như lồng ghép
theo các bước nào, việc sắp xếp ưu tiên các hoạt động khi lồng ghép sẽ như thế nào,
cơ chế giám sát kiểm tra ra sao,...); (iv) Thiếu các nguồn lực để thực hiện các hoạt
động lồng ghép. Cho nên, việc lồng ghép BĐKH ở tỉnh/thành vùng TNB trong giai
đoạn vừa qua không đạt kết quả như kỳ vọng.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1670/QĐ-TTg ngày 31/10/2017
về việc Phê duyệt Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng
trưởng xanh giai đoạn 2016-2020. Để thực hiện Quyết định trên, các địa phương
vùng TNB đã ban hành Kế hoạch Khung mục tiêu, nhiệm vụ và danh mục dự án
ứng phó với BĐKH của địa phương giai đoạn 2017-2020. Với các nội dung như
sau: (i) quan điểm và mục tiêu của chính sách; (ii) khung nhiệm vụ và thời gian
thực hiện của các sở/ngành; (iii) đề xuất danh mục dự án và nhiệm vụ ưu tiên về
ứng phó với BĐKH giai đoạn 2017-2020; (iv) các giải pháp tổ chức thực hiện chính
sách. Kể từ khi Quyết định số 593/QĐ-TTg ngày 6/4/2016 của Thủ tướng Chính
phủ ra đời, thì một số địa phương trong vùng đã tích cực xây dựng các đề án liên
102
kết PTBV dựa trên các tiểu vùng sinh thái - xã hội, điển hình là:
Đề án Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng Đồng Tháp Mười đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 203013 (gồm 3 tỉnh Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang).
Trong đó, bên cạnh các nội dung liên kết nhằm phát triển tiểu vùng ĐTM thành
một trong những vùng sản xuất, xuất khẩu nông sản trọng điểm của cả nước, thì
đề án cũng nhấn mạnh: liên kết để xây dựng các chương trình, dự án chung của
tiểu vùng liên quan đến ứng phó BĐKH, phòng chống sạt lở bờ sông, bảo vệ
nguồn nước… đặt trong tổng thể cả vùng TNB để thu hút các nguồn tài trợ quốc tế
và các nguồn vốn khác.
Đề án Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng duyên hải phía Đông đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 203011 (gồm 4 tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà
Vinh). Đề án nhấn mạnh các nội dung liên kết liên quan đến BĐKH và BVMT như
sau: (i) liên kết về bảo vệ, quản lý, khai thác hiệu quả tài nguyên cát, tài nguyên
nước (nước ngọt phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp); (ii) liên kết xây
dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về PTBV tiểu vùng; (iii) liên kết để xây dựng
các chương trình, dự án chung của tiểu vùng liên quan đến ứng phó BĐKH, phòng
chống sạt lở bờ sông, bờ biển, bảo vệ nguồn nước…
Đề án Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng tứ giác Long Xuyên đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 203012(gồm 4 tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, Kiên
Giang). Đề án đã đề xuất các tuyến lĩnh vực mà các địa phương có thể liên kết: (i)
liên kết về quy hoạch, kế hoạch (bố trí không gian phát triển); (ii) liên kết về sản
xuất, xúc tiến thương mại nông nghiệp, thủy sản; (iii) liên kết về phát triển du lịch;
(iv) liên kết về quản lý nguồn nước, BVMT, đáp ứng đa mục tiêu và thích ứng với
BĐKH; (v) liên kết thiết lập hệ thống thông tin vùng; (vi) liên kết xây dựng thể chế
chính sách cho tiểu vùng [115, tr.3,16].
Đề án Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng bán đảo Cà Mau đến năm 2020,
tầm nhìn đến năm 2030. Với mục tiêu xây dựng tiểu vùng BĐCM trở thành vùng
trọng điểm quốc gia về sản xuất nông nghiệp, tiến tới hình thành cụm liên kết
chuyên ngành về thủy sản và lúa gạo. Đồng thời, quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên
bền vững, nhất là bảo vệ và phát triển hệ thống đai rừng phòng hộ ven biển của Tiểu
vùng bán đảo Cà Mau trong điều kiện ứng phó, thích nghi với BĐKH. Theo đó
13 Đề án được giao cho Trường đại học Cần Thơ xây dựng, 2018. 11 Đề án được giao cho Trường đại học Khoa học xã hội Nhân văn Tp Hồ Chí Minh xây dựng, 2018. 12 Đề án được giao cho Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL, Trường đại học Cần Thơ xây dựng, 2018.
103
khung đề án các lĩnh vực được liên kết liên quan đến BĐKH, gồm: (i) phòng chống
thiên tai, thích ứng với BĐKH, NBD; (ii) bảo vệ và phát triển tài nguyên nước, tài
nguyên rừng và đa dạng sinh học; (iii) đầu tư, nâng cấp, quản lý và sử dụng hợp lý
kết cấu hạ tầng thủy lợi, phục vụ sản xuất nông nghiệp, phòng chống thiên tai, xâm
nhập mặn, ứng phó với BĐKH.
Để PTBV vùng TNB trong bối cảnh BĐKH và ứng phó với các thách thức từ
sự phát triển nội tại của vùng và khu vực thượng nguồn, Chính phủ đã ban hành
Nghị quyết 120/NQ-CP, ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững vùng đồng bằng
sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghị quyết đã đề ra các chủ trương
mang tính chiến lược như sau: (i) mô hình phát triển phải lấy con người làm trung
tâm; (ii) xác định BĐKH và NBD là xu hướng tất yếu, phải sống chung và thích
nghi, lấy tài nguyên nước là cốt lõi là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát
triển vùng; (iii) việc chuyển đổi mô hình phải dựa trên hệ sinh thái, tôn trọng các
quy luật tự nhiên; (iv) tiếp cận tổng hợp, theo hướng tích hợp tổng thể KT-XH toàn
vùng, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng; (v) mọi hoạt động đầu tư
phải được điều phối thống nhất, đảm bảo tính liên vùng, liên ngành, có trọng tâm,
trọng điểm. Với sự ra đời của Nghị quyết đã góp phần kiến tạo một tầm nhìn phát
triển dài hạn, bền vững vùng TNB, dựa trên nguyên tắc tôn trọng các giá trị sinh
thái tự nhiên, con người của vùng.
Đồng thời, để hiện thực hoá Nghị quyết 120/NQ-CP một số bộ cũng ban hành
kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết. Điển hình là Bộ TN&MT ban hành
Quyết định 2878/QĐ-BTNMT, ngày 28 tháng 8 năm 2018 về Ban hành Kế hoạch
hành động của Bộ TN&MT thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về
Phát triển bền vững vùng TNB thích ứng với BĐKH với 7 nhiệm vụ chính: (i) cập
nhật, hệ thống hóa số liệu dữ liệu liên ngành vùng TNB; (ii) rà soát hoàn thiện bổ
sung cơ chế chính sách về tài nguyên và môi trường; (iii) rà soát hoàn thiện phương
án quy hoạch lĩnh vực tài nguyên và môi trường; (iv) tuyên truyền nâng cao nhận
thức; (v) phát triển ứng dụng khoa học công nghệ; (vi) huy động và quản lý tài
chính; và (vii) tăng cường hợp tác quốc tế. Dựa trên 7 nhiệm vụ trọng tâm, Bộ
TN&MT đã xây dựng 21 đề án, dự án với các hoạt động cụ thể để thực hiện tại vùng
TNB. Bộ NN&PTNT nông thôn ban hành Quyết định 816/QĐ-BNNPTNT, ngày 7
tháng 3 năm 2018 về Ban hành Kế hoạch hành động của Bộ NN&PTNT thực hiện
Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về Phát triển bền vững vùng TNB thích ứng với
104
BĐKH với 38 nhiệm vụ, dự án được thực hiện ở các địa phương vùng TNB.
Tiếp đến, tính đến tháng 6/2019 để thực hiện Chương trình hành động tổng thể
thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững vùng
ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, thì 13/13 tỉnh, thành phố vùng TNB đã xây
dựng các kế hoạch, đề xuất danh mục các nhiệm vụ của địa phương gửi cho Bộ
TN&MT, để Bộ tổng hợp đưa vào Chương trình hành động tổng thể. Trong đó có
13/13 tỉnh/thành phố đã ban hành Kế hoạch hành động của địa phương thực hiện
Nghị quyết 120/NQ-CP.
Để thúc đẩy các bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền các cấp ở địa phương trong
vùng theo chức năng và nhiệm vụ được giao tiếp tục quán triệt và tổ chức triển khai
thực hiện quyết liệt Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg, ngày
5/9/2019 về Đẩy mạnh Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền
vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó tập trung
triển khai thực hiện các nội dung chính sau: (i) Khẩn trương xây dựng thể chế điều
phối vùng, tạo cơ chế phát triển bền vững ĐBSCL; đẩy mạnh vai trò liên kết vùng
trong việc hoạch định các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng,
kết nối sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. (ii) Tăng cường nguồn lực và thu hút các
nguồn vốn hợp pháp (gồm cả nguồn vốn xã hội hóa) trong đầu tư, đề xuất cơ chế tài
chính phù hợp cho phát triển bền vững ĐBSCL; (iii) Đẩy mạnh đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực và đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ phục vụ
phát triển bền vững vùng ĐBSCL; (v) Mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế về
PTBV vùng BĐSCL.
Trên cơ sở danh mục các nhiệm vụ do các bộ/ngành và địa phương vùng TNB
đề xuất, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 417/QĐ-TTg ngày13/4/2019
về việc Ban hành Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết 120/NQ-
CP ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi
khí hậu. Chương trình được thiết kế gồm 6 nội dung chính: (i) rà soát, hoàn thiện và
bổ sung hệ thống cơ chế, chính sách; (ii) cập nhật hệ thống hóa số liệu, dữ liệu liên
ngành; (iii) xây dựng quy hoạch, tổ chức không gian lãnh thổ; (iv) xây dựng cơ cấu
kinh tế hợp lý phục vụ nền nông nghiệp thị trường đa dạng, thích ứng với BĐKH;
(v) xây dựng các dự án hạ tầng gắn với thích ứng BĐKH; và (vi) phát triển nguồn
nhân lực, khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã xây
dựng 55 đề án, chương trình, dự án, nhiệm vụ ưu tiên, cấp bách cần thực hiện ở 13
105
tỉnh vùng TNB.
Đồng thời, để triển khai thực hiện Quyết định số 2053/QĐ-TTg ngày
28/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa
thuận Paris về biến đổi khí hậu; Công văn số 199/TTg-QHQT ngày 8/2/2017 của
Thủ tướng Chính phủ về Triển khai kết quả Hội nghị COP 22; Công văn số
4126/BTNMT-BĐKH ngày 11/8/2017 của Bộ TN&MT về Xây dựng Kế hoạch
triển khai các nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 2053/QĐ-TTg ngày
28/10/2016, UBND các tỉnh/ thành vùng TNB đã xây dựng và ban hành Kế hoạch
thực hiện Thoả thuận Paris về biến đổi hậu trên địa bàn tỉnh/thành phố giai đoạn
2017-2020 và giai đoạn 2021-2025. Theo đó các Kế hoạch của địa phương được
thiết kế dựa trên khung hướng dẫn thống nhất gồm: (i) mục tiêu kế hoạch; (ii) nội
dung thực hiện: nhiệm vụ giảm nhẹ KNK và nhiệm vụ thích ứng với BĐKH trong
cả hai giai đoạn 2017-2020 và 2021-2025; nhiệm vụ chuẩn bị nguồn lực; nhiệm vụ
xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách; (iii) tổ chức thưc hiện, giao cho Sở
TN&MT làm đầu mối chủ trì, phối hợp với các sở liên quan và UBND huyện, thị
xã, thành phố thực hiện kế hoạch theo thẩm quyền được giao.
Để thực hiện CTMTQG về ứng phó với BĐKH tại địa phương thì Tỉnh ủy,
UBND các tỉnh/thành đã ban hành 325 văn bản quy phạm pháp luật dưới các hình
thức khác nhau: Nghị quyết của Tỉnh ủy; Kế hoạch hành động của Tỉnh ủy và
UBND; Quyết định; Công văn chỉ đạo để thực hiện chính sách ứng phó BĐKH tại
các địa phương [115, tr.10].
Bảng 3.5. Các văn bản được ban hành nhằm thực hiện chính sách BĐKH
ở vùng TNB giai đoạn 2008-2018
Nguồn lực thực hiện
TT
Loại hình văn bản
Số lượng
Có Không
1 Nghị quyết của tỉnh ủy/thành ủy liên quan đến BĐKH
7
X
2 Kế hoạch hành động của Tỉnh ủy và UBND
35
X
3 Chương trình hành động của UBND
26
X
4 Quyết định của UBND
128
X
5 Công văn chỉ đạo điều hành của UBND
129
X
Tổng
325
106
Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu, 2017.
Bảng 3.6. Phân loại văn bản thực hiện chính chính ứng phó với BĐKH ở vùng TNB
TT
Loại hình văn bản chính sách
Số lượng Tỷ lệ (%)
1
Chính sách liên quan đến lĩnh vực thích ứng BĐKH
221
68
2
Chính sách liên quan đến lĩnh vực giảm nhẹ BĐKH
59
18,2
3
45
13,8
Chính sách mang tính tích hợp các hoạt động (thích ứng, giảm nhẹ)
Tổng
325
100
Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2019.
Xét trên lĩnh vực chính sách ứng phó với BĐKH được các địa phương ở vùng
TNB ban hành trong giai đoạn 2008-2018 cho thấy, các chính sách chủ yếu tập trung
vào nội dung thích ứng BĐKH (chiếm 68%), chính sách liên quan đến nội dung giảm
nhẹ BĐKH chỉ chiếm khoảng 18,2%, còn các chính sách liên quan đến vấn đề tích
hợp các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ, chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn 13,8%.
Bên cạnh đó, dưới sự hỗ trợ của Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển
và bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn vùng TNB nhằm thích nghi với BĐKH giai
đoạn 2015-2018, các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau đã
cùng ký kết ban hành “Thỏa thuận thực hiện quy chế phối hợp liên tỉnh”. Với mục
đích nhằm: thiết lập cơ chế phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các bên liên quan trong
triển khai Chương trình Quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP), giai đoạn 2015-
2018. Tăng cường hiệu quả công tác quy hoạch, xây dựng cơ sở dữ liệu vùng TNB,
bảo vệ các hệ sinh thái ven biển. Quản lý tổng hợp hệ sinh thái rừng ngập mặn ven
biển. Quản lý hiệu quả nguồn nước lưu vực sông liên tỉnh phục vụ phát triển KT-
XH các tỉnh và vùng TNB, thích ứng với BĐKH. Tăng cường liên kết, hợp tác nội
vùng, liên vùng, giữa vùng TNB với các Bộ, ngành Trung ương, tổ chức quốc tế.
Nhằm đẩy mạnh phát triển KT-XH, phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng địa
phương và vùng TNB.
Mặt khác, xuất phát từ yêu cầu phát triển và giải quyết các vấn đề nảy sinh
trong thực tiễn, các địa phương trong vùng cũng đã ký kết song phương với nhau
107
các cam kết về chia sẻ tài nguyên nước và BVMT.
Hộp 3.2: Thỏa thuận hợp tác về quản lý nước ở vùng tứ giác Long Xuyên giữa
An Giang và Kiên Giang, Kiên Giang và tỉnh Campot (Campuchia)
- Xuất phát từ nhu cầu cấp bách của thực tế cần phải phối hợp giữa 2 tỉnh
trong vùng TGLX, cần tối đa hóa hiệu quả thủy lợi trong khi quản lý các vấn đề về
lũ lớn và theo mùa, xâm nhập mặn và các nhu cầu cạnh tranh về nước, trong đó có
các yêu cầu của vùng đất ngập nước. Một mối lo ngại lớn của tỉnh ven biển Kiên
Giang là sự gia tăng xâm nhập mặn từ phía biển. Hiện tượng này có thể được ngăn
chặn nếu có nhiều nước ngọt hơn chảy vào các kênh từ An Giang, theo đó lượng
nước ngọt này có thể đẩy nước mặn trở lại và tràn vào các kênh. Ngoài ra, Kiên
Giang cần có thêm thông tin về thời điểm và lượng nước chảy đến từ An Giang, đặc
biệt là vào thời điểm xả lũ thông qua hệ thống đập Trà Sư để theo đó điều chỉnh lịch
gieo trồng tại địa phương. Ngược lại, phía An Giang là một tỉnh đầu nguồn sông Mê
Kông, phần của Việt Nam cũng cần phối hợp với Kiên Giang để xả lũ thông qua hệ
thống thủy lợi thoát lũ ra biển Tây. Thỏa thuận phối hợp giữa 2 tỉnh này là một
bước đi quan trọng hướng tới một phương pháp tiếp cận chung trong quản lý nước
liên tỉnh. Theo đó, 2 tỉnh đã thỏa thuận quản lý nước có tính chất ràng buộc về mặt
pháp lý nhằm chia sẻ thông tin, phối hợp liên tỉnh trong điều tiết nước, tiến tới thực
hiện quy trình quản lý nước vùng TGLX.
- Tiếp nối các nỗ lực thúc đẩy hợp tác liên tỉnh, UBND tỉnh Kiên Giang đã có
sáng kiến hợp tác xuyên biên giới với tỉnh Kampot (Campuchia) trong lĩnh vực thủy
sản với thỏa thuận xây dựng chi tiết kế hoạch hợp tác nhằm nâng cao quản lý về
đánh bắt và bảo vệ nguồn lợi thủy sản của hai tỉnh trong vịnh Thái Lan.
Nguồn: Trần Hữu Hiệp, 2015 và Tổng hợp của Luận án, 2018.
3.3.2. Tuyên truyền thực hiện chính sách
Tuyên truyền chính sách có ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi chính sách
108
ở các địa phương. Qua kết quả khảo sát của luận án, trong giai đoạn 2011-2018, để góp phần thực hiện CTMTQG về BĐKH, thì hoạt động tuyên truyền chính sách ứng phó BĐKH được các địa phương vùng TNB triển khai khá đa dạng về loại hình và hình thức truyên truyền. Trong đó, tập trung chủ yếu vào các hình thức nâng cao nhận thức bằng cách xây dựng các chương trình phóng sự, phát thanh truyền hình về thiên tai; truyền thông, tập huấn về BĐKH và các mô hình ứng phó BĐKH; hội thi tìm hiểu về BĐKH. (Hình 3.10)
Hình 3.10. Số lượng hoạt động tuyên truyền BĐKH theo loại hình
giai đoạn 2011-2018
Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2011-2015 của 13 tỉnh/thành TNB, 2018.
Vấn đề tuyên truyền chính sách ứng phó với BĐKH được luận án phân tích,
đánh giá dưới các tiêu chí như sau. 3.3.2.1. Về các nội dung tuyên truyền, tập huấn
Hình 3.11. Các nội dung tuyên truyền, tập huấn về ứng phó với BĐKH
Nội dung tuyên truyền và tập huấn về ứng phó BĐKH là một trong những hoạt
động quan trọng trong chiến lược ứng phó với BĐKH của các địa phương. Kết quả
khảo sát của tác giả cho thấy, hoạt động tuyên truyền thực sự làm rất tốt ở nội dung
về các biểu hiện và tác động của BĐKH tới tình hình KT-XH và môi trường. Các mô
hình ứng phó và các chính sách hỗ trợ ứng phó cũng đã được tuyên truyền khá tốt tới
các cấp chính quyền địa phương. Tuy nhiên, các hình thức hỗ trợ trực tiếp thì lại chưa
có nhiều. Điều này cho thấy, hoạt động tuyên truyền mới tập trung vào các hoạt động
nhằm thay đổi nhận thức của cộng đồng chứ chưa thực sự có nhiều hình thức tuyên
109
truyền về mô hình sản xuất thích ứng với BĐKH ở cấp địa phương [88]
Hình 3.12. Đánh giá về các nội dung tuyên truyền ứng phó BĐKH đã được tập
huấn tại các tiểu vùng
Xét ở cấp độ tiểu vùng, ngoài xu thế chung như đã nêu trên thì nội dung tuyên truyền ở các tiểu vùng có sự khác nhau nhất định. Ở hai vùng ĐTM và TGLX hoạt động tập huấn về các mô hình ứng phó dựa vào cộng đồng được triển khai rộng rãi hơn cả khi có tới hơn 80% cán bộ sở và địa phương đã tham gia tập huấn về nội dung này. Trong khi đó, tiểu vùng DHPĐ kém hơn với 63,4%. Một nội dung khác cũng có sự khác biệt lớn giữa các khu vực là các hình thức hỗ trợ ứng phó BĐKH. Mặc dù, còn khá hạn chế với tỷ lệ rất thấp cán bộ đã được tập huấn nhưng BĐCM là tiểu vùng tuyên truyền tốt nhất về nội dung này. [88] 3.3.2.2. Về các hình thức tuyên truyền, tập huấn
Cũng theo kết quả điều tra của luận án cho thấy, hoạt động tuyên truyền, tập huấn vẫn chủ yếu tập trung vào các kênh truyền thống như: tổ chức các lớp tập huấn và các hội thảo có nội dung về ứng phó BĐKH với tỷ lệ tương ứng là 89 % và 86% người tham gia khảo sát đã trải nghiệm hoạt động này. Điều này, cũng có thể được lý giải bằng việc các hình thức này khá dễ tổ chức và có thể cho một số lượng lớn người tham dự. Ở chiều ngược lại, các hoạt động đi thực tế tham quan các mô hình ứng phó hay tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về BĐKH ít được tổ chức hơn [88].
110
Hình 3.13. Các hình thức tuyên truyền về BĐKH
Hình 3.14. Đánh giá về các hình thức tuyên truyền ứng phó BĐKH
đã được tập huấn
Hình 3.15. Đánh giá chung về mức độ hiệu quả của chương trình tuyên truyền,
tập huấn kiến thức về BĐKH
Các chương trình tuyên truyền, tập huấn kiến thức nhìn chung được đánh giá
tốt từ phía người tham gia. Có tới gần 70% người tham gia khảo sát đánh giá các
chương trình này là hiệu quả và rất hiệu quả. Trong đó, các chương trình tuyên
truyền và tập huấn của ĐTM là hiệu quả nhất với 71,66% đánh giá hiệu quả và
1,4% đánh giá rất hiệu quả. Ở chiều ngược lại, DHPĐ là tiểu vùng có các hoạt động
kém hiệu quả nhất khi chỉ có gần 61% cán bộ đã tham gia các hoạt động đánh giá là
hiệu quả [88].
111
Hình 3.16. Đánh giá về mức độ hiệu quả ứng phó BĐKH đã được tập huấn
Bên cạnh đó, Bộ TN&MT, Bộ TT&TT đã phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam và Đài tiếng nói Việt Nam, để xây dựng và triển khai Đề án tuyên truyền thực
hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP. Chủ động triển khai các hoạt động tuyên truyền về
PTBV TNB thích ứng với BĐKH, từ năm 2017 đến tháng 12/2019, các cơ quan
thông tấn báo chí đã đăng tải khoảng trên 150.000 tin, bài, hình ảnh phản ánh về chủ đề PTBV vùng TNB thích ứng với BĐKH.
Hộp 3.3: Tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP
Trong năm 2018, Bộ TT&TT đã tổ chức sản xuất và phát sóng 08 chương
trình truyền hình (30 phút/chương trình) trên Kênh truyền hình phủ sóng toàn quốc;
tổ chức sản xuất và phát sóng 25 chương trình phát thanh (10 phút/chương trình)
trên Đài Tiếng nói Việt Nam; Bộ NN&PTNT xây dựng phim và bài báo tuyên
truyền; xây dựng, phổ biến tài liệu nâng cao nhận thức cộng đồng về phát triển rừng
ngập mặn, bảo vệ bãi tại một số tỉnh TNB; Bộ Công Thương tổ chức các chương
trình đào tạo, tập huấn, hội thảo cung cấp thông tin thị trường và nâng cao năng lực
doanh nghiệp; các hội thảo về xúc tiến đầu tư nhằm nâng cao chuỗi giá trị ngành
chế biến nông sản, thực phẩm...
Nguồn: Bộ TN&MT, 2019.
3.3.3. Triển khai thực hiện chính sách
3.3.3.1. Hình thành tổ chức thực hiện chính sách
Để triển khai thực thi chính sách, căn cứ vào những văn bản Quyết định
158/2008/QĐ-TTg ngày 2/12/2008; Quyết định1183/QĐ-TTg ngày 30/8/2012;
Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương. UBND các tỉnh/thành
phố trực thuộc Trung ương ở vùng TNB thành lập BCĐ cấp tỉnh về thực hiện
CTMTQG ứng phó BĐKH và NBD (BCĐ 158). Xây dựng và ban hành Quy chế
hoạt động của BCĐ, thành viên của BCĐ bao gồm lãnh đạo UBND tỉnh làm trưởng
ban, Giám đốc Sở TN&MT làm phó ban thường trực, thành viên là lãnh đạo các
sở/ngành và một số lãnh đạo UBND huyện, thị xã, thành phố (thuộc tỉnh). Để giúp
việc cho BCĐ 158 các địa phương đã hình thành Văn phòng thường trực BCĐ đặt
tại Sở TN&MT. Cơ cấu của Văn phòng có Tổ giúp việc cho BCĐ, tổ giúp việc hoạt
động theo chế độ kiêm nhiệm. Ngoài ra còn có Tổ chuyên gia kỹ thuật ở các ngành
liên quan cùng phối hợp làm việc. Nhiệm vụ của BCĐ là phối hợp hành động với
112
các địa phương cùng với các viện, trường, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức
Chính phủ các nước và tổ chức quốc tế xây dựng một Chương trình hành động ứng
phó với BĐKH ở các cấp tỉnh/thành, tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền về
BĐKH và thực hiện các dự án liên quan với BĐKH. Và hướng dẫn lồng ghép
BĐKH vào Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH địa phương.
Bảng 3.7. Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BĐKH ở các địa phương
TT
Cơ cấu tổ chức
Cán bộ biên chế
Tỉnh/thành phố
1
Long An
Văn phòng BCĐ 158 Phòng Khoáng sản, TNN và KTTV
Kiêm nhiệm, thuộc sở TN&MT
2
Tiền Giang Phòng TNN, KS và
Biển
Kiêm nhiệm, thuộc sở TN&MT
3
Bến Tre
4
Trà Vinh
Phòng KTTV&BĐKH Văn phòng BĐKH tỉnh Trà Vinh
5 Đồng Tháp
Chi
1 cán bộ chuyên trách về KTTV và BĐKH 1 cán bộ chuyên trách về KTTV và BĐKH 1 cán bộ kiêm nhiệm về BĐKH 8 cán bộ, trong đó có 5 cán bộ chuyên trách. 1 cán bộ kiêm nhiệm - 2 Cán bộ chuyên trách
Kiêm nhiệm, thuộc sở TN&MT Chuyên trách Thuộc Sở TN&MT, có con dấu tài khoản - Kiêm nhiệm, thuộc Sở TN&MT - Chi Cục thuỷ lợi-Sở NN&PTNT, có con dấu, tài khoản
6
Cần Thơ
5 cán bộ chuyên trách
- Giai đoạn 2011- 2015, cục BVMT - Năm 2016 Ban Chỉ đạo Ứng phó với BĐKH, PCTT và TKCN tỉnh Văn phòng Công tác Biến đổi khí hậu thành phố Cần Thơ
7 Hậu Giang Phòng KTTV và
1 cán bộ
8 An Giang
và
BĐKH Phòng TNN BĐKH
9 Kiên Giang Phòng KTTV và
BĐKH 11 Sóc Trăng Phòng
TNN, và
sản
Chuyên trách, trực thuộc Sở TN&MT, có con dấu, tài khoản Kiêm nhiệm, thuộc Sở TNMT Kiêm nhiệm thuộc Sở NT&MT Kiêm nhiệm, thuộc Sở TN&MT Kiêm nhiệm, thuộc Sở TN&MT
1 cán bộ kiêm nhiệm 01 cán bộ kiêm nhiệm 01 cán bộ kiêm nhiệm
12 Bạc Liêu
13 Cà Mau
Khoáng KTTV Phòng TNN, BĐKH và Biển Phòng KTTV và BĐKH
Kiêm nhiệm, thuộc Sở TN&MT Kiêm nhiệm, thuộc Sở TN&MT
01 cán bộ kiêm nhiệm 01 cán bộ kiêm nhiệm
113
Nguồn: Tổng hợp của Luận án, 2019.
Nhìn vào bảng 3.7. trên cho thấy cấu trúc phối hợp theo chiều ngang và cấu
trúc quản trị, thể chế điều phối về BĐKH ở các địa phương vùng TNB hiện nay
đang là vấn đề cần phải cải thiện trong giai đoạn thực hiện Chiến lược quốc gia về
BĐKH và Tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020. Năm 2014, Bộ Nội vụ và Bộ TN&MT đã thông qua Thông tư liên tịch liên Bộ,13nhằm bổ sung BĐKH vào trách
nhiệm của Sở TN&MT cấp tỉnh. Quy chế ra đời đã tạo một thể chế chính thức quan
trọng cho BĐKH ở cấp tỉnh, có thể được cấp thêm biên chế và ngân sách từ Trung
ương. Tuy nhiên, việc giao nhiệm vụ này cho duy nhất Sở TNMT, dẫn đến những
hạn chế lớn trong việc lập kế hoạch và hành động ứng phó với BĐKH của nhiều
bên liên quan. Trong đó, sở TN&MT không có cơ chế để can thiệp vào việc lựa
chọn kế hoạch và đầu tư cho các dự án, nhiệm vụ BĐKH do các sở khác chủ trì.
Đồng thời có đến 10/13 tỉnh, thành phố, Văn phòng giúp việc cho BCĐ 158,
được giao cho 1 phòng thuộc Sở TN&MT, hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm,
không có địa vị pháp lý rõ ràng, không có tài khoản kho bạc, con dấu. Có 3 địa
phương thành lập Văn phòng giúp việc cho BCĐ theo hình thức chuyên trách, có
địa vị pháp lý, có con dấu, tài khoản riêng, trong đó, Văn phòng ở tỉnh Trà Vinh, Tp
Cần Thơ trực thuộc Sở TN&MT, Đồng Tháp trực thuộc Sở NN&PTNT. Các Văn
phòng có nhiệm vụ: (i) Giúp BCĐ 158 trong việc điều phối và triển khai các dự án
liên quan đến BĐKH trong và ngoài nước, thực hiện hợp tác trong nước và quốc tế
trong lĩnh vực BĐKH, tìm kiếm nguồn tài trợ để nâng cao năng lực quản lý và ứng
phó với BĐKH; (ii) Tham mưu, đề xuất trình BCĐ 158 trong việc triển khai thực
hiện các chính sách, hoạt động, kế hoạch điều phối, quản lý ngân sách liên quan đến
các hoạt động ứng phó BĐKH; (iii) Soạn thảo, trình Trưởng BCĐ 158 phê duyệt
thực hiện các đề tài, dự án và giới thiệu lựa chọn các cơ quan, đơn vị phù hợp chức
năng, nhiệm vụ và đủ năng lực thực hiện các đề tài, dự án ứng phó BĐKH tại
tỉnh/thành phố; (iv) Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để thực hiện
nhiệm vụ liên quan đến hoạt động ứng phó BĐKH; (v) Thực hiện các dự án,
chương trình truyền thông, nâng cao nhận thức về BĐKH. Dù có địa vị pháp lý,
nhưng cả 3 Văn phòng đang gặp phải thách thức rất lớn đó là, cơ cấu tổ chức chỉ
13 Thông tư số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV, ngày 28/8/2014, Hướng dẫn chức năng, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở TN&MT thuộc UBND tỉnh/thành phố, Phòng TN&MT thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
114
tương đương với 1 Phòng trực thuộc sở, nên không đủ năng lực và thẩm quyền để
phối hợp với các sở/ngành trong triển khai thực hiện chính sách về BĐKH tại địa
phương vùng TNB.
3.3.3.2. Thực hiện các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu
a. Các hoạt động thích ứng với BĐKH
BCĐ 158 cấp tỉnh/thành phố đã xây dựng và thực hiện các chương trình, dự
án, nhiệm vụ ứng phó với BĐKH ở vùng TNB. Trong giai đoạn 2011-2015,
CTMTQG về ứng phó với BĐKH đã có 18 dự án do Trung ương chủ trì được thực
hiện trên địa bàn vùng TNB với kinh phí tương ứng là hơn 3.476 tỷ đồng; và có 37
dự án do địa phương chủ trì với tổng kinh phí thực hiện là 2.560 tỷ đồng. Bên cạnh
đó, Chương trình hỗ trợ ứng phó với BĐKH (SP-RCC) đã có 7/16 dự án được thực
hiện ở TNB với số vốn được cấp là hơn 2.301 tỷ đồng14 [146]. Trong đó, các dự án
tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thích ứng BĐKH chiếm khoảng 2.221 tỷ, hầu hết là
các dự án xây dựng công trình hạ tầng ứng phó BĐKH. Trong khi đó nguồn lực tài
chính dành cho dự án liên quan đến giảm nhẹ BĐKH là rất hạn chế, chỉ khoảng 80
tỷ đồng (chủ yếu tập trung vào xây dựng chính sách, nghiên cứu khoa học, truyền
thông cho tiết kiệm năng lực, mô hình NLTT quy mô cấp hộ gia đình...). Từ các số
liệu về phân bổ nguồn lực cho ứng phó với BĐKH ở vùng TNB, cho thấy hoàn toàn
tương thích với nhận định ở chương II, ở các nước đang phát triển như Việt Nam,
thì các hoạt động ứng phó với BĐKH tập trung vào các hoạt động thích ứng với
BĐKH là chủ yếu.
Bảng 3.8. Các dự án thuộc CTMTQG ứng phó với BĐKH ở vùng TNB trong
giai đoạn 2011 - 2017
Vùng Tây Nam Bộ
Lĩnh vực dự án (tỷ đồng)
Danh mục các dự án
Số lượng
Số lượng
Thích ứng BĐKH
Giảm nhẹ BĐKH
Tổng tiền (tỷ đồng)
Các bộ, ngành
122
18
3.476
3.198
278
Các địa phương
101
37
2.560,0
2.475
85
14 Bao gồm các Tổ chức quốc tế sau: cơ quan phát triển Pháp (AFD), Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Ngân hàng Thế giới (WB), Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Cơ quan Hợp tác phát triển Đức (GIZ), Cơ quan phát triển quốc tế Úc USAID…
115
Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu, 2018.
Bảng 3.9. Các dự án thuộc Chương trình hỗ trợ ứng phó với BĐKH vùng TNB giai đoạn 2011-2017
Vùng TNB
Lĩnh vực dự án (tỷ đồng)
Danh mục dự án
Số lượng
Thích ứng BĐKH
Giảm nhẹ BĐKH
Tổng tiền (tỷ đồng)
Các dự án ưu tiên
17
6.605
Các dự án đã được bố trí vốn
7
2.301
2.221
80
Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu, 2018.
Tính tổng trong giai đoạn 2011-2018 vùng TNB đã huy động được 12.879 tỷ
đồng15cho các chương trình, dự án, nhiệm vụ ứng phó với BĐKH. Trong đó nguồn
vốn cho các hoạt động ứng phó với BĐKH là 11.923 tỷ đồng, còn nguồn lực tài
chính cho các hoạt động giảm nhẹ BĐKH khoảng 956 tỷ đồng. Phân chia nguồn lực
ứng phó với BĐKH theo các tiểu vùng ST-XH cũng cho thấy: tiểu vùng DHPĐ là
2.078 tỷ, tiểu vùng TGLX 7.145 tỷ đồng, tiểu vùng ĐTM là 1.729 tỷ đồng, còn tiểu
vùng BĐCM là 1.927 tỷ đồng. Xét trên khía cạnh đầu tư cho BĐKH tại các tiểu
vùng có thể nhận thấy bức tranh chung hiện nay, các nguồn lực vẫn chủ yếu đầu tư
cho các hạng mục về xây dựng CSHT phục vụ ứng phó với BĐKH. Tiểu vùng
DHPĐ chiếm 65,5%, tiểu vùng TGLX chiếm 93,9%, tiểu vùng ĐTM chiếm 81,9%,
15 Kể cả huy động các nguồn lực đóng góp từ các tổ chức NGOs.
116
tiểu vùng BĐCM chiếm 76% [88].
Hình 3.17. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH ở tiểu vùng DHPĐ
Hình 3.18. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH ở tiểu vùng TGLX
Hình 3.19. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH ở tiểu vùng ĐTM
Hình 3.20. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH ở tiểu vùng BĐCM
b. Hoạt động giảm nhẹ tác động BĐKH
Hiện nay song hành với các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về
117
ứng phó với BĐKH, đã có nhiều sáng kiến, dự án, mô hình thích ứng với BĐKH đã
được triển khai. Các sáng kiến chương trình, dự án này này có thể được hiện bởi
Chính phủ, cộng đồng người dân, doanh nghiệp tư nhân và từ các tổ chức quốc tế,
tổ chức phi chính phủ... Nhằm mục đích chia sẻ lợi ích từ tài nguyên thiên nhiên,
cùng quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên giữa các nhóm đối tượng, như: Nhà
nước, doanh nghiệp, người dân, nhà khoa học, các nhóm cộng đồng bị ảnh hưởng
bởi BĐKH. Để nhằm giúp cho các nhóm cộng đồng bị ảnh hưởng có sinh kế bền
vững nhằm ứng phó tốt hơn với BĐKH. Thực tế trong thời gian qua những mô hình
ứng phó với BĐKH dựa vào cộng đồng, bước đầu đã mang lại những thành công
nhất định: Ví dụ: trong lĩnh vực trồng trọt, năng lượng tái tạo…
Để giảm thiểu phát thải KNK trong sản xuất lúa ở ĐBSCL, nhiều mô hình
canh tác tiên tiến đang được thử nghiệm như, mô hình canh tác lúa theo quy trình “1
phải - 6 giảm” (1P-6G), do Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL xây dựng năm
2010. “1 phải” là phải sử dụng hạt giống chất lượng cao được cơ quan có thẩm
quyền chứng nhận, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng; “6 giảm” là (i) giảm lượng hạt
giống, (ii) giảm lượng phân đạm, (iii) giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, (iv) giảm
lượng nước tưới, (v) giảm thất thoát sau thu hoạch, (vi) giảm phát thải KNK. Mô
hình được các hộ nông dân ở một số địa phương vùng TNB đưa vào canh tác, như:
(An Giang, Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên Giang). Sau khi áp dụng mô
hình đã nâng cao chất lượng lúa gạo, tăng giá trị, tiết kiệm nguồn nước, giảm phát
thải KNK. Đến nay, ở vùng TNB đã có khoảng hơn 6.800 hộ nông dân với diện tích
khoảng 64.000 ha, áp dụng mô ứng dụng kỹ thuật trong canh tác lúa, tăng năng
suất, và giảm phát thải. Đặc biệt, giảm phát thải KNK, khí CO và CH [95]. Trong
sản xuất lúa, lượng phát thải được kiểm kê là CH4 và NO2 thay đổi theo thời kỳ
sinh trưởng và các vùng sinh thái. Khi áp dụng mô hình “1 phải-6 giảm”giảm phát
thải CH trung bình 11,3 tấn COe/ha/vụ và giảm được 11 tấn CO e/ha/vụ [95].
Theo nghiên cứu của Viện Năng lượng cho thấy, tiềm năng năng lượng gió
ven biển vùng TNB ở độ cao 80 m mạnh khoảng 5,5 - 6m/s. Tiềm năng khai thác
năng lượng gió ven bờ biển có thể đạt từ 1.200 - 1.500 MW. Năng lượng sinh khối
dồi dào từ nguồn phụ phẩm nông nghiệp khoảng trên 23 triệu tấn/năm, trong đó
khoảng trên 3,8 triệu tấn trấu, gần 17 triệu tấn rơm rạ, hơn 372.000 tấn bắp và gần
1,4 triệu tấn bã mía [177]. Do đó, việc quy hoạch và đi vào xây dựng, vận hành của
một số dự án điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, nhằm phát triển nguồn năng
118
lượng xanh ở vùng TNB, đã được các địa phương triển khai tức cực. Hiện có 4 dự
án đã và đang hoạt động với tổng công suất gần 185 MW tại Bạc Liêu 1,2 và Trà
Vinh, Sóc Trăng, đã được đưa vào quy hoạch: Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà
Mau. Có 3 dự án điện gió đang xây dựng điện gió Khai Long 1,2 ở tỉnh Cà Mau. Và
gần 40 dự án điện gió, mặt trời được đưa vào quy hoạch ở các tỉnh vùng TNB. Bên
cạnh, các dự án điện gió, thì vùng TNB cũng có một số nhà máy điện sinh khối
đang hoạt động: Nhà máy đốt vỏ trấu Hậu Giang; Nhà máy điện KCN Trà Nóc 2-
Cần Thơ; Nhà máy đốt trấu Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, An Giang [177]. (xem
thêm phụ lục 8)
3.2.3.3. Nguồn lực từ ODA cho ứng phó với biến đối khí hậu
Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2011-2018, nguồn vốn viện trợ ODA từ các tổ
chức Ngân hàng Thế giới (WB), Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP),
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Tổ chức phát triển quốc tế Đức (GIZ), Cơ
quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Cơ quan phát triển Quốc tế Úc (Aus
AID), Quỹ Phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD)...hỗ trợ cho các dự án liên quan đến ứng phó với BĐKH cho vùng TNB là khoảng hơn 764 triệu USD.16Xét trên
khía cạnh các lĩnh vực hoạt động các dự án, có thể phân loại như sau:
a. Hoạt động thích ứng với BĐKH
Dự án Phát triển thành phố Cần Thơ và tăng cường khả năng thích ứng của đô
thị, với số vốn 250 triệu USD vay từ Ngân hàng Thế giới (World Bank). Với mục
tiêu chính của dự án là nhằm phát triển đô thị bền vững, tăng cường khả năng thích
ứng với BĐKH cho thành phố Cần Thơ, hỗ trợ thành phố Cần Thơ trở thành trung
tâm và động lực phát triển KT-XH cho vùng TNB; giảm sự tổn thương do ngập lụt
tại trung tâm thành phố Cần Thơ và cải thiện hệ thống giao thông kết nối giữa các
khu vực nội vùng và liên vùng [146].
Dự án Nông nghiệp thích ứng BĐKH vùng ĐBSCL tại Trà Vinh và Bến Tre
được thực hiện trong giai đoạn 2014-2020, do Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế
tài trợ, với tổng nguồn vốn đầu tư của dự án là 1.034 tỷ đồng. Mục tiêu củadự án là
xây dựng sinh kế bền vững cho người nghèo ở nông thôn trong điều kiện BĐKH;
nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng để tăng cường khả năng ứng phó với
BĐKH [146].
Kế đến là dự án Chống chịu khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững vùng đồng
119
bằng sông Cửu Long, với tổng số vốn 310 triệu USD từ nguồn vốn vay của Ngân 16 Số liệu tính toán của NCS (2018), Tổng hợp từ các nguồn: Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT, Bộ Xây dựng, Bộ KH&ĐT và các Bộ/ngành khác.
hàng Thế giới, được thực hiện trong giai đoạn (2016-2021). Với mục tiêu: Tăng
cường các công cụ lập quy hoạch, kế hoạch thích ứng với BĐKH, nâng cao khả
năng chống chịu với BĐKH cho các hoạt động quản lý tài nguyên đất và nước tại
khu vực TNB. Dự án gồm 05 hợp phần: (i) tăng cường công tác giám sát, phân tích
và hệ thống cơ sở dữ liệu; (ii) quản lý lũ vùng thượng nguồn; (iii) thích ứng với
chuyển đổi độ mặn ở vùng cửa sông; (iv) bảo vệ khu vực bờ biển vùng bán đảo; (v)
và hỗ trợ quản lý và thực hiện dự án.
b. Hoạt động giảm nhẹ ảnh hưởng của BĐKH
- Chương trình Kế hoạch đồng bằng sông Cửu Long: Tầm nhìn và chiến lược dài hạn,17Chính phủ Hà Lan và Chính phủ Việt Nam đã tổ chức Hội nghị cấp cao về
phối hợp hỗ trợ phát triển tổng hợp TNB tháng 6/2014, đã thống nhất một số tuyến
vấn đề quan trọng sau:
i) Chủ trương ứng phó với BĐKH và phát triển KT-XH của khu vực TNB
gồm: phát huy cao nhất, tiềm năng, lợi thế so sánh của các địa phương trong vùng,
đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, ứng dụng khoa học công nghệ; chuyển đổi mô hình
tăng trưởng theo hướng phát triển theo chiều sâu gắn với đảm bảo an ninh lương
thực quốc gia…
ii) Phát triển đồng bộ hệ thống các đô thị, khu dân cư và hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo hướng thân thiện với môi trường sinh thái gắn với
đồng ruộng, miệt vườn, sông nước và biển đảo.
iii) PTBV, gắn phát triển KT-XH với sử dụng tiết kiệm tài nguyên, BVMT
sinh thái; có các giải pháp chủ động phòng tránh và ứng phó với BĐKH và NBD;
kết hợp chặt chẽ giữa phát triển KT-XH với bảo đảm quốc phòng an ninh, an ninh
nguồn nước và an ninh lương thực.
iv) Tiếp cận tổng thể mang tính chất liên vùng và liên ngành trong phát triển
KT-XH toàn vùng TNB, hình thành cơ chế phối hợp đồng bộ theo chiều ngang giữa
các địa phương và theo chiều dọc giữa các cơ quan Trung ương và địa phương [60].
Nổi bật là Chương trình ICMP/CCCEP được thực hiện trong 2 giai đoạn giai
đoạn 1 (2011-2014), giai đoạn 2 (2015-2018) có tổng vốn thực hiện hơn 25 triệu
17 Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Hà Lan đã ký Thỏa thuận Đối tác chiến lược về thích ứng với biến đổi khí hậu và quản lý nước (tháng 10/2010). Kế hoạch đồng bằng sông Cửu Long đã được xây dựng theo Thỏa thuận này.
120
triệu Euro được Chính phủ Cộng hòa liên bang Đức và Chính phủ Australia đồng
tài trợ, cùng nguồn vốn đối ứng trong nước. Bộ NN&PTNT là cơ quan chủ quản
vàđược thực hiện tại 5 tỉnh: An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà
Mau. Căn cứ vào nhu cầu cụ thể của từng tỉnh, Chương trình thực hiện các hoạt
động ưu tiên như: quy hoạch và quản lý các hệ sinh thái ven biển; tăng cường quản
lý tổng hợp hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển có lồng ghép thích ứng BĐKH,
NBD; bảo vệ sông ngòi, quản lý nguồn nước; bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần
nâng cao nhận thức về môi trường, BĐKH và NBD. Từ kết quả của các dự án hợp
phần cấp tỉnh được dự án hợp phần cấp Trung ương sử dụng để xây dựng đề xuất
khung chính sách, thể chế và pháp lý cho công tác quản lý liên ngành, đồng bộ về
rừng ngập mặn, các khu đất ngập nước và hệ sinh thái vùng ven biển nói chung
nhằm thích ứng với BĐKH ở vùng TNB.
Trong giai đoạn 1 (2011-2014): nhiều hoạt động phong phú đã được Chương
trình triển khai thực hiện, bao gồm: hỗ trợ hoạch định và xây dựng chính sách cho
ngành nông lâm nghiệp, thủy lợi trong việc thích nghi và ứng phó với BĐKH; xây
dựng các mô hình điểm về các giải pháp kỹ thuật bảo vệ bờ biển, phục hồi rừng ngập
mặn ven biển, quản lý rừng cộng đồng; các mô hình cải thiện sinh kế, các hỗ trợ về
điều tra khảo sát nghiên cứu [34], [35], [36]… đã mang lại hiệu quả thiết thực.
Chương trình hỗ trợ các tỉnh trong việc thiết lập và cải thiện các lĩnh vực quản lý mang tính đa ngành trong quá trình thực tế về phục hồi các hệ sinh thái ven biển.18
Giai đoạn 2 (2015-2018): dự án mở rộng tập trung vào bảo vệ, phục hồi hệ
sinh thái rừng ngập mặn đặc trưng ở các tỉnh ven biển, gồm: Tiền Giang, Bến Tre,
Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang, trong đó, chú trọng tập
trung hình thành thể chế vượt ra ngoài ranh giới hành chính của một tỉnh. Tương tự,
nguồn tài nguyên thiên nhiên, mạng lưới sông ngòi, CSHT thủy lợi, giao thông đều
mang tính kết nối vùng. Trong bối cảnh như vậy, việc thực hiện các can thiệp kỹ
thuật, thể chế chính sách hay sinh kế… ở một tỉnh sẽ phụ thuộc rất nhiều (thậm chí
mang tính quyết định) vào sự phối kết hợp của các tỉnh liên quan.
3.3.3.4. Các hoạt động triển khai thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP
Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về
18 Kết quả đã có hơn 600ha rừng ngập mặn ven biển mang tính tiếp nối, liên tỉnh được phục hồi và trồng mới. Hơn 10 km hàng rào bảo vệ và ổn định bờ biển chi phí thấp tại những khu vực xung yếu được xây dựng tại An Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Kiên Giang; 22 mô hình sinh kế được hỗ trợ và tác động tới hơn 3.500 nông dân.…
121
Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, các
bộ/ngành, địa phương vùng TNB đã cùng với các đối tác phát triển, tổ chức quốc tế
chung tay thực hiện được một số hoạt động như sau:
a. Tháo gỡ khó khăn về vốn
Điểm nghẽn về nguồn vốn bước đầu đã được Chính phủ quan tâm giải quyết
cho vùng TNB. Tổng số vốn đầu tư qua địa phương trong kế hoạch đầu tư công
trung hạn giai đoạn 2016-2020 (chưa bao gồm 10% dự phòng) là 193.967,151 tỷ
đồng chiếm 16,53% so với cả nước. Vốn bổ sung cho các dự án xử lý sạt lở cấp
bách nguy hiểm là 2.500 tỷ đồng. Đồng thời trong khuôn khổ Chương trình mục
tiêu BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020, đã giao 3.700 tỷ đồng từ
nguồn ngân sách Trung ương cho 20 dự án tại vùng TNB [11].
b. Đầu tư cho hoạt động thích ứng với BĐKH trên quan điểm Nghị quyết
120/NQ-CP
- Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, điều chỉnh, bổ sung một số cơ chế, chính
sách thuộc Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ
ĐBSCL giai đoạn 2018-2020, tiếp tục đầu tư xây dựng bổ sung các cụm, tuyến dân
cư, đắp bờ bao khu dân cư có sẵn cho các địa phương: Đồng Tháp, An Giang, Kiên
Giang, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang và thành phố Cần Thơ.
- Hoàn thành Dự án Điều tra, đánh giá hiện trạng dự báo tai biến xói, sạt lở
phục vụ công tác quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường dải ven biển từ Tiền
Giang đến Kiên Giang.
- Các chương trình ứng phó với BĐKH, phòng chống thiên tai, khắc phục sụt
lún, sạt lở bờ sông bờ biển, đang được triển khai thực hiện tập trung vào những vấn
đề cấp bách. Đã hoàn thành việc khảo sát xác định 564 điểm sạt lở với tổng chiều
dài trên 834km, trong đó, 57 điểm sạt lở đặc biệt nguy hiểm (sạt lở gây nguy hiểm
trực tiếp đến khu tập trung dân cư và cơ sở hạ tầng quan trọng) tổng chiều dài
170km. Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH và Chương trình Hỗ
trợ ứng phó với BĐKH hỗ trợ 28 dự án. Chương trình mục tiêu ứng phó với BĐKH
và tăng trưởng xanh hỗ trợ 20 dự án. Xử lý sạt lở cấp bách bờ sông, bờ biển, đoạn
sụt lún, sạt lở trọng điểm; xây dựng bản đồ sạt lở, bố trí ngân sách xây dựng công
trình phòng chống sạt lở, ưu tiên 36 dự án cấp bách. Các địa phương vùng TNB
cũng triển khai các dự án đầu tư nâng cấp đê biển kết hợp xây dựng hệ thống ngăn
mặn, trữ ngọt...
- Đối với các công trình, dự án thủy lợi, Chính phủ đã đầu tư xây dựng nhiều
122
dự án như: dự án Quản lý nước tỉnh Bến Tre; dự án Hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre
giai đoạn 1; dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé - giai đoạn 1; dự án Hệ thống
thủy lợi tiểu vùng II, III, V Cà Mau; dự án Cống âu thuyền Ninh Quới; dự án Tha
La, cống Trà Sư; các dự án hạ tầng thủy sản, cảng cá, khu neo đậu tránh bão cho
khu vực TNB. Bước đầu chuyển đổi nền nông nghiệp thích ứng BĐKH qua việc
hình thành hệ thống đê ngăn mặn, kiểm soát triều cường, sóng cao và đang nâng
dần lên khả năng chống chọi với nước dâng do bão, lũ, phát huy tốt hiệu quả trong
kiểm soát mặn [19].
- Các địa phương vùng TNB cũng triển khai các dự án đầu tư hạ tầng có quy mô lớn như: nâng cấp đê biển kết hợp xây dựng hệ thống ngăn mặn từ cầu Mỹ Thanh 2, thuộc tỉnh Sóc Trăng đến tỉnh Bạc Liêu với tổng kinh phí 263,564 tỷ đồng; xây dựng hệ thống cống ngăn mặn và kênh trục thủy lợi tạo nguồn, trữ ngọt các địa bàn xung yếu, tỉnh Sóc Trăng với tổng kinh phí 152,865 tỷ đồng. Tỉnh Vĩnh Long đã đầu tư hơn 2.000 tỷ đồng để xây dựng hơn 1.300 công trình kết cấu hạ tầng thủy lợi để ứng phó BĐKH…[19].
- Việc xây dựng bổ sung các cụm, tuyến dân cư, đắp bờ bao khu dân cư có sẵn vùng ngập lũ ĐBSCL được Chính phủ tiếp tục cho phép đầu tư để đảm bảo người dân vùng ngập lũ ĐBSCL được sống an toàn, ổn định. Hiện nay, 4 tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Hậu Giang đang triển khai thủ tục đầu tư xây dựng bổ sung 49 cụm tuyến dân cư để di dời khoảng 13.000 hộ, với kinh phí 3.000 tỷ đồng từ ngân sách địa phương; Tiền Giang triển khai xây dựng bổ sung 10 bờ bao khu dân cư có sẵn với tổng chiều dài 56,5 km, kinh phí dự kiến 87,8 tỷ đồng [19].
c. Đầu tư cho hoạt động giảm nhẹ BĐKH Hiện nay, mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn phục vụ dự báo, cảnh báo thiên tai, điều tra cơ bản tài nguyên môi trường do Đài KTTV khu vực Nam Bộ quản lý có 29 trạm khí tượng thủy văn, 182 trạm thủy văn, 131 điểm đo mưa tự động, được đầu tư các trang thiết bị quan trắc hiện đại, phục vụ đắc lực công tác dự báo, cảnh báo thiên tai, cung cấp thông tin dữ liệu khí tượng thủy văn cho các sở, ban ngành thuộc khu vực ĐBSCL. Thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ, Tổng cục KTTV xây dựng kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ, dự án nhằm tăng cường công tác dự báo, cảnh báo, giám sát thiên tai tại ĐBSCL như:
- Xây dựng, đưa vào hoạt động trạm Radar thời tiết Nhà Bè, góp phần quan trọng trong công các dự báo, cảnh báo sớm các hiện tượng thiên tai như mưa lớn, dông, lốc ở khu vực Nam Bộ.
- Dụ án Phát triển mạng lưới trạm, điểm đo mưa, đo mặn phục vụ dự báo khí
123
tượng thủy văn, đã lắp đặt tăng cường 49 điểm đo mưa cho khu vực Nam Bộ.
- Dự án Tăng cường năm lực cảnh báo, giám sát lũ lụt ĐBSCL thuộc dự án
“Quản lý rủi ro thiên tai” sử dụng vốn ODA của Ngân hàng Thế giới, đầu tư 12
trạm quan trắc khí tượng tự động và 89 trạm quan trắc thủy văn tự động; 13 trạm
truyền sóng trung gian đảm bảo thu thập đầy đủ dữ liệu truyền tức thời, liên tục
phục vụ kịp thời công tác dự báo khí tượng thủy văn, phòng tránh và giảm nhẹ thiên
tai ở ĐBSCL.
- Xây dựng hệ thống giám sát nguồn nước dự báo, cảnh báo hạn hán và xâm
nhập mặn vùng ĐBSCL thuộc đề án Điều tra, đánh giá tổng thể nguồn nước, dự
báo, cảnh báo phòng chống khô hạn, xâm nhập mặn thích ứng với biến đổi khí hậu
khu vực ĐBSCL.
- Rà soát và cập nhật số liệu, dữ liệu khí tượng, thủy văn, hải văn và bùn cát
vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
- Nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống quan trắc, giám sát, cảnh báo và dự báo khí
tượng thủy văn, bùn cát, hải văn [120].
Tuy nhiên, sau gần hai năm Nghị quyết 120/NQ-CP được ban hành, việc hiểu
và triển khai Nghị quyết này vào thực tiễn vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập ở cấp
quản lý chính quyền lẫn các bộ/ngành ở Trung ương và địa phương.
(i) Phần lớn cộng đồng, người dân và doanh nghiệp chưa biết hoặc chưa hiểu
rõ tinh thần của Nghị quyết. Tư duy ưu tiên chọn giải pháp công trình ở các
bộ/ngành và các địa phương vẫn nặng hơn các chọn lựa giải pháp phi công trình.
(ii) Dù Nghị quyết đã xác định xoay trục ba trụ cột ưu tiên trong sản xuất nông
nghiệp ở TNB là thủy sản - trái cây - lúa gạo thì nguồn lực tài chính vẫn tập trung
nhiều cho các hệ thống công trình thủy lợi cho mục tiêu thoát lũ, ngăn mặn, duy trì
canh tác lúa.
(iii) Ngoài ra, Nghị quyết chưa có văn bản hướng dẫn những luận giải cụ thể
khái niệm “chủ động thích ứng”, do đó, phải có công trình thì mới chủ động thích
ứng được.
(iv) Hơn nữa, Nghị quyết ra đời khi danh mục các dự án đầu tư công trung hạn
2016-2020 cho vùng TNB đã được Quốc hội thông qua. Do đó, rất khó khăn trong
việc bố trí nguồn vốn để thực hiện Nghị quyết tại vùng, nên chủ yếu hiện nay vẫn là
lồng ghép, tích hợp vào các chương trình mục tiêu khác đang triển khai trên địa bàn.
(v) Mặc khác, một số cán bộ địa phương xem Nghị quyết chỉ là một định
hướng phát triển, chưa phải là một quy định pháp lý ràng buộc phải thực hiện, nên
124
tất cả các địa phương chỉ xây dựng kế hoạch thực hiện mang tính hình thức [136].
3.3.4. Phối hợp giữa các chủ thể trong việc thực hiện chính sách
Sau khi được thành lập BCĐ 158 đã xây dựng và ban hành quy chế thực hiện
Chương trình 158. Trong đó, Sở TN&MT được giao là cơ quan thường trực của
BCĐ 158, có vai trò chủ trì phối hợp với các sở/ngành và địa phương liên quan
trong việc triển khai các dự án, nhiệm vụ BĐKH ở trên địa bàn. Để thực hiện
CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2011-2015 và xây dựng kế hoạch giai
đoạn 2016-2020, BCĐ 158 đã gửi Công văn yêu cầu các sở/ngành và cấp huyện, thị
xã, thành phố đề xuất các dự án, nhiệm vụ cấp bách cần thực hiện, về ứng phó với
BĐKH thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của mình. Trên cơ sở đó, Sở TN&MT sẽ
tổng hợp lại đề xuất của các sở/ngành và địa phương, để tham mưu cho BCĐ 158
thành lập Hội đồng đánh giá, lựa chọn ra các danh mục dự án, nhiệm vụ cấp bách
và đề xuất kinh phí dự kiến trong giai đoạn 2011-2015. Trên cơ sở danh mục dự án,
nhiệm vụ, kinh phí đề xuất do BCĐ 158 lựa chọn để thực hiện trong giai đoạn
2011-2015, Sở KH&ĐT sẽ phối hợp với Sở Tài chính, sẽ đưa vào danh mục dự án
đầu tư công trung hạn, kế hoạch đầu tư công hàng năm. Đồng thời, cân đối nguồn
lực tài chính để phân bổ cho các nhiệm vụ, dự án cấp bách cần thực hiện: nguồn từ
CTMTQG ứng phó vớiBĐKH, nguồn ngân sách Trung ường, nguồn ngân sách địa
phương, nguồn viện trợ…
Sự phối hợp giữa các bên liên quan trong quá trình thực hiện chính sách
BĐKH, dù đã được đưa vào trong các Quyết định và Chiến lược quốc gia về
BĐKH. Tuy nhiên, từ thực tiễn thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB trong giai
đoạn 2008-2018 cho thấy: sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cấp bộ/ngành và
địa phương; giữa địa phương với địa phương; giữa các sở/ngành với nhau trong quá
trình triển khai chính sáchdù đã được đề cập nhưng vẫn còn rất mờ nhạt, lỏng lẻo, vì
chưa có cơ chế pháp lý ràng buộc và do liên quan đến lợi ích của các bên. Để chính
sách thích ứng với BĐKH trở nên hiệu quả hơn thì các bên tham gia vào chính sách
cần cải thiện hơn nữa cơ chế phân công, phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các bên
liên quan trong quá trình thực hiện.
Qua kết quả khảo sát của luận án cho thấy, hoạt động phân công, phối hợp ở
cấp tỉnh và cấp huyện chỉ đạt ở mức thang điểm trung bình. Điều này, cho thấy một
thực tế hiện nay ở Việt Nam nói chung và vùng TNB nói riêng là sự phối hợp, chia
sẻ thông tin giữa các cơ quan liên quan trong quá trình thực hiện chính sách là rất
kém. Đây cũng là một bất cập trong quá trình thực hiện chính sách cần phải có giải
125
pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả cho các hoạt động ứng phó BĐKH.
Hình 3.21. Đánh giá sự phân công nhiệm vụ giữa chính quyền các cấp
Nhìn dưới góc độ tiểu vùng, ĐTM là khu vực có sự phối hợp tốt nhất trong
khi ở chiều ngược lại là khu vực DHPĐ.
Hình 3.22. Đánh giá sự phối hợp giữa chính quyền các cấp ở các tiểu vùng vùng
TNB
3.3.5. Kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách
Hiện nay, quá trình đánh giá, kiểm tra thực hiện chính sách BĐKH ở vùng
TNB được thực hiện dưới các hình thức như sau: (i) Kiểm tra, giám sát thực hiện
chính sách, thông qua báo cáo của UBND tỉnh gửi cho Bộ TN&MT về tình hình
thực hiện chính sách BĐKH hàng năm, đánh giá thực hiện chính sách giai đoạn
2011-2015; (ii) Chính phủ, bộ/ngành tổ chức các đoàn công tác liên ngành đánh giá,
kiểm tra thực hiện các chương trình, dựa án về BĐKH ở các địa phương vùng TNB;
(iii) Thường vụ Quốc hội và Ủy ban KHCN&MT của Quốc hội tổ chức các đoàn
liên ngành giám sát, đánh giá tình hình thực hiện chính sách pháp luật về BĐKH ở
các địa phương; (iv) UBND tỉnh tổ chức đoàn đánh giá, kiểm tra tình hình thực hiện
126
các dự án BĐKH ở các sở/ngành và huyện.
3.3.5.1. Kiểm tra, giám sát thông qua báo cáo của UBND tỉnh gửi cho Chính phủ
và bộ/ngành
Để thực hiện CTMTQG ứng phó vớiBĐKH và Chương trình hỗ trợ thực hiện
CTMTQG ứng phó vớiBĐKH giai đoạn 2011-2015, thì vào tháng 10 hàng năm Bộ
TN&MT có công văn (kèm theo mẫu báo cáo) gửi UBND các tỉnh/thành vùng TNB
về đánh giá tình hình ban hành chính sách, thực hiện chương trình, dự án về BĐKH
ở các địa phương. Trong đó, chú trọng vào những tồn tại, hạn chế và đề xuất kiến
nghị của địa phương đối Chính phủ, Bộ TN&MT và các bộ/ngành liên quan thực
hiện chính sách BĐKH. Để tổng kết đánh giá việc thực hiện chính sách sách BĐKH
giai đoạn 2011-2015, Bộ TN&MT đã yêu cầu các địa phương vùng TNB gửi báo
cáo đánh giá tình hình thực hiện CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2011-
2015, bao gồm: những kết quả đạt được về xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện
chính sách; thực hiện các chương trình, dự án về BĐKH; những bất cập, hạn chế;
các kiến nghị và đề xuất khung chương trình ứng phó BĐKH giai đoạn 2016-20120.
3.3.5.2. Chính phủ kiểm tra, giám sát thực hiện các dựa án, nhiệm vụ về BĐKH ở
các địa phương vùng TNB
Bên cạnh việc kiểm tra chính sách thông qua hình thức gửi báo cáo của các địa
phương, thì Chính phủ, bộ/ngành còn tổ chức các đoàn công tác liên ngành về kiểm
tra việc thực hiện chính sách BĐKH tại các địa phương. Đoàn công tác của Trung
ương do lãnh đạo Bộ TN&MT làm trưởng đoàn, có đại diện của Bộ NN&PTNT, Bộ
KH&ĐT, Bộ Tài chính… sẽ làm việc với UBND tỉnh và các sở/ngành liên quan để
nghe báo về tình hình thực hiện các chương trình dự án BĐKH; trao đổi với đoàn
công tác Trung ương những bất cập, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực
hiện; các kiến nghị của địa phương đối với Chính phủ, bộ/ngành liên quan để tháo
gỡ những khó khăn của các địa phương. Trên cơ sở các kiến nghị của địa phương,
đoàn công tác Trung ương sẽ tiếp thu và gửi các kiến nghị chính sách đến Lãnh đạo
Chính phủ, bộ/ngành theo thẩm quyền để giải quyết. Tiếp đó, đoàn công tác Trung
ương sẽ đi khảo sát thực tế để nắm bắt thực tiễn ảnh hưởng của BĐKH đến địa
phương; kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án do CTMTQG ứng phó với BĐKH,
127
hoặc Chương trình hỗ trợ CTMTQG ứng phó với BĐKH đang triển khai ở các địa
phương. Theo kết quả tổng hợp của NCS, tính đến tháng 8/2017, Bộ TN&MT đã tổ
chức khoảng hơn 40 đoàn công tác liên bộ để kiểm tra việc thực hiện CTMTQG về
BĐKH giai đoạn 2011-2015 tại 13 tỉnh/thành vùng TNB. Đặc biệt, để thực hiện
Nghị quyết 120/NQ-CP về Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long
thích ứng với biến đổi khí hậu, Chính phủ đã đôn đốc Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT,
Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính, xây dựng Chương trình hành động tổng thể thực hiện
Nghị quyết. Mặt khác, Chính phủ còn thành lập các đoàn công tác liên ngành do Bộ
trưởng Bộ TN&MT dẫn đầu kiểm tra việc xây dựng Chương trình hành động thực
hiện Nghị quyết 120/NQ-CP tại các địa phương vùng TNB.
3.3.5.3. Kiểm tra, giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách pháp luật
BĐKH ở vùng TNB
Ngoài việc kiểm tra việc thực hiện chính sách BĐKH, thì Quốc hội cũng tổ
chức các đoàn giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật, CTMTQG về BĐKH
giai đoạn 2011-2015 tại các địa phương trong cả nước. Theo kết quả thống kê của
luận án, tính đến 10/2017, Quốc hội đã thành lập được 15 đoàn công tác do Lãnh
đạo Quốc hội và Lãnh đạo Ủy ban KHCN&MT Quốc hội dẫn đầu, tiến hành giám
sát, đánh giá thực hiện chính sách pháp luật, CTMTQG về BĐKH tại 13/13 tỉnh,
thành TNB. Trên cơ sở kết quả của các đoàn giám sát, Quốc hội sẽ gửi báo cáo kiến
nghị để hoàn thiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB đến Chính phủ và
bộ/ngành có liên quan.
3.3.5.4. Kiểm tra, giám sát UBND tỉnh đối với tình hình thực hiện các dự án BĐKH
trên địa bàn
Song song với hoạt động kiểm tra của Chính phủ, bộ/ngành và sự giám sát
việc thực hiện chính sách, pháp luật về BĐKH của Quốc hội ở các địa phương, thì
UBND tỉnh cũng tổ chức các đoàn công tác do Lãnh đạo UBND tỉnh làm trưởng
đoàn, thành viên là Lãnh đạo Sở TN&MT, Sở NN&PTNT, Sở KH&ĐT, Sở Tài
chính… Đoàn công tác sẽ kiểm tra việc thực hiện chương trình, dự án về BĐKH do
các sở/ngành, UBND huyện chủ trì thực hiện. Trên cơ sở kết quả kiểm tra việc triển
khai thực hiện các chương trình, dự án BĐKH tại các sở/ngành và cấp huyện, BCĐ
cấp tỉnh về thực hiện CTMTQG ứng phó BĐKH và NBD sẽ điều chỉnh việc thực
hiện chính sách theo thẩm quyền được giao và gửi báo cáo kiến nghị chính sách cho
128
Chính phủ, bộ/ngành giải quyết theo quy định.
3.4. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ 3.4.1. Đánh giá các bước thực hiện chính sách 3.4.1.1. Đánh giá về mục tiêu, đối tượng chính sách
Về đối tượng áp dụng của chính sách ứng phó BĐKH ở vùng TNB chỉ được đánh giá đạt ở mức khá (3,2 điểm). Còn mục tiêu chính sách so với nhu cầu thực tế
của các địa phương và nguồn lực thực hiện đạt chỉ đạt ở mức thang điểm mức trung
bình (3 điểm). Kém nhất là các quy định về mức độ hỗ trợ nguồn lực của chính sách là thiếu sự rõ ràng, cụ thể, tiêu chí hỗ trợ đối với từng đối tượng chính sách (chỉ đạt
ở mức 2,9 điểm). Điều này, cho thấy thực tế hiện này việc hỗ trợ, bố trí nguồn lực
thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH vẫn chủ yếu theo cơ chế xin - cho.
Hình 3.23. Đánh giá về nội dung chính sách ứng phó với BĐKH
Tương tự ở bình diện tiểu vùng, mặc dù không có nhiều sự khác biệt so với cả vùng TNB, nhưng kết quả khảo sát vẫn cho thấy đôi chút thay đổi. Ở vùng ĐTM
các nội dung chính sách ứng phó BĐKH được đánh giá tốt hơn cả (tất cả các tiêu
chí đều trên trung bình).
129
Hình 3.24. Đánh giá về nội dung chính sách ứng phó với BĐKH ở các tiểu vùng
3.4.1.2. Đánh giá quy trình thực hiện chính sách
Kết quả điều tra của luận án cho thấy việc thực hiện các chính sách ứng phó
BĐKH ở TNB diễn ra ở mức độ trung bình. Các hoạt động lựa chọn dự án, tính
hiệu quả của các dự án hay mức độ lồng ghép các chính sách ứng phó BĐKH vào
quy hoạch, kế hoạch phát triển chỉ ở mức bình thường, cần có nhiều nỗ lực cải thiện
hơn nữa.
Trong khi đó, các vấn đề liên quan tới ngân sách cho các hoạt động ứng phó với
BĐKH đang vướng mắc ở nhiều khâu trong quy trình lập dự án theo Luật Đầu tư
công hiện nay. Mặc dù, theo đánh giá của người tham gia khảo sát, chính quyền các
địa phương đảm bảo được ngân sách cho các hoạt động ứng phó BĐKH, nhưng các
thủ tục giải ngân về đầu tư công cho BĐKH vẫn còn quá phức tạp, nhiều trình tự thủ
tục giải ngân rườm ra, khiến ngân sách cho các hoạt động ứng phó với BĐKH luôn bị
chậm trễ so với kế hoạch. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả, kết quả thực
hiện các chính sách ứng phó BĐKH của các địa phương vùng TNB. Bên cạnh đó,
hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách tại các địa phương của vùng
cũng không được quan tâm thường xuyên, chỉ đạt ở trên mức độ trung bình 2,8 điểm.
Hình 3.25. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó BĐKH
Ở cấp độ tiểu vùng, ĐTM và TGLX là hai vùng được đánh giá là thực hiện
các chính sách ứng phó BĐKH tốt hơn. Trong khi đó, DHPĐ là tiểu vùng được
130
đánh giá là kém hiệu quả nhất.
Hình 3.26. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó BĐKH ở các tiểu vùng
3.4.1.3. Đánh giá về mối quan hệ giữa năng lực thực hiện và hiệu quả ứng phó BĐKH
Kết quả điều tra của luận án cho thấy phần lớn cán bộ ở TNB đều nhận thức
được về mức độ và tần suất xuất hiện ngày càng tăng lên của BĐKH, cũng như ảnh
hưởng tới KT-XH và môi trường ở địa phương. Tuy nhiên, mức độ tương quan (với
mức ý nghĩa 95%) (đường thẳng trong đồ thị dưới) cho thấy rằng đánh giá mức độ
ảnh hưởng của BĐKH tới KT-XH và môi trường khá độc lập với đánh giá về mức độ
và tần suất BĐKH - điều này là khá bất thường về mặt logic. Tuy nhiên, trong quá
trình khảo sát ở địa phương, NCS phát hiện ra rằng hầu hết số người được hỏi có thể
dễ dàng nhận thức được các biểu hiện về BĐKH thông qua tần suất xuất hiện các
hiện tượng của thiên tai, thời tiết cực đoan, nhưng lại gặp khó khăn khi đánh giá thiệt
hại về KT-XH mà các thiên tai đó gây ra là do tính chu kỳ của thời tiết ở nơi họ sinh
sống, hay là do BĐKH gây ra. Thực tế trên có thể là nguyên nhân chính lý giải cho
việc đường tương quan nằm ngang.
131
Hình 3.27. Tương quan giữa BĐKH và tác động tới tình hình KT-XH
Hình 3.28. Chỉ số Năng lực ứng phó BĐKH và các thành phần ở các tiểu vùng
Chỉ số năng lực ứng phó BĐKH không có sự chênh lệch đáng kể giữa các tiểu
vùng. ĐTM là tiểu vùng có năng lực ứng phó với BĐKH tốt nhất vùng TNB (3,63
điểm). Ở chiều ngược lại, DHPĐ là khu vực có năng lực ứng phó thấp nhất (3,34
điểm). Trong ba thành phần của năng lực ứng phó thì tuyên truyền là năng lực mà các địa phương làm tốt nhất, tiếp đến là năng lực ban hành văn bản thực hiện chính sách. Năng lực yếu kém nhất là năng lực phối hợp giữa các bên liên quan trong việc
triển khai thực hiện chính sách.
Hình 3.29. Tương quan giữa năng lực và hiệu quả ứng phó BĐKH
Tương quan giữa chỉ số năng lực ứng phó BĐKH và chỉ số hiệu quả thực hiện
chính sách có chiều dốc lên mang ý nghĩa rằng năng lực ứng phó của chính quyền
địa phương có ý nghĩa quan trọng với hiệu quả ứng phó BĐKH của các địa phương.
Kết quả này một lần nữa khẳng định để ứng phó với BĐKH có hiệu quả thì cần
chuẩn bị tốt năng lực ứng phó cho các cấp chính quyền địa phương.
3.4.2. Những kết quả đạt được của việc thực hiện chính sách
Trong thời gian vừa qua, công tác thực hiện chính sách về BĐKH ở vùng TNB
đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng, góp phần vào việc ứng phó với các
132
tác động tiêu tực của BĐKH ở vùng TNB.
- Một loạt các văn bản quy định về chính sách ứng phó với BĐKH của Chính
phủ và UBND các tỉnh/thành phố vùng TNB đã được ban hành.
- Tổ chức bộ máy thực hiện chính sách về BĐKH đã được thiết lập đồng bộ từ
cấp Trung ương đến các địa phương vùng TNB và ngày càng được kiện toàn. Năm
2002, Bộ TN&MT được thành lập, Bộ thành lập Cục KTTV&BĐKH (nay là Cục
BĐKH) là cơ quan giúp Bộ QLNN về lĩnh vực BĐKH. Ở các bộ/ngành đã hình
thành các đơn vị trực thuộc chuyên trách công tác BĐKH.
- Tại các địa phương thành lập Sở TN&MT ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương vùng TNB; Phòng TN&MT ở các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc
tỉnh và có cán bộ kiêm nhiệm về BĐKH. Sau khi Cục BĐKH được thành lập, tại
các địa phương vùng TNB, chưa thành lập phòng BĐKH, mà Sở TN&MT các địa
phương giao cho Phòng Tài nguyên nước, khoáng sản và KTTV làm đầu mối, đồng
thời cử cán bộ làm công tác kiêm nhiệm.
- Các hoạt động tuyên truyền chính sách BĐKH, chia sẻ thông tin và các cơ
chế phối hợp thực hiện chính sách bước đầu đã được các lãnh đạo chính quyền địa
phương vùng TNB đưa vào các chương trình nghị sự.
- Trong những năm qua, đầu tư công cho thực hiện các chương trình, dự án về
BĐKH ở vùng TNB đã có những chuyển biến tích cực và góp phần hiệu quả trong
việc ứng phó với các tác động tiêu cực của BĐKH, giảm thiểu rủi ro và hỗ trợ sinh
kế bền vững cho cộng đồng dân cư.
Cụ thể những kết quả đạt được của thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở
vùng TNB được đánh giá với 4 tiêu chí: hiệu lực, hiệu quả, phù hợp, đồng bộ và
đồng hướng của chính sách, thể hiện ở (bảng 3.10).
Bảng 3.10. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách ứng phó BĐKH ở vùng TNB
Chỉ tiêu 1. Hiệu lực
Kết quả - Ban hành văn bản thực hiện chính sách: + Trung ương đã ban hành 315 văn bản thực hiện chính sách ứng phó BĐKH, trong đó có những chính sách đặc thù cho vùng TNB. + Các địa phương vùng TNB ban hành 325 văn bản thực hiện chính sách.
Hạn chế - Ban hành văn bản thực hiện chính sách. + Các văn bản thực hiện chính sách được ban hành tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thích ứng BĐKH. + Các chính sách được ban hành theo thể thức tùy nghi là chủ yếu, không bắt buộc các địa phương phải thực hiện.
133
- Về xác định mục tiêu chính sách: + Các mục tiêu chủ yếu là định tính, định lượng rất ít. + Sự phối hợp liên ngành, liên vùng trong thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH chưa được quan tâm đúng mức. - Về triển khai thực hiện chính sách + Việc lập dự án và quy trình phân bổ ngân sách còn phức tạp, qua nhiều bước, cơ chế xin cho. - Công tác đánh giá, giám sát thực hiện: chồng chéo nhiều cơ quan chức năng khác nhau: Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT, Bộ KH&ĐT, Bộ TC, Ủy ban TC&NS, Kiểm toán Nhà nước.
Hiệu quả
- Nguồn ngân sách hiện nay chỉ đáp ứng được 15-20% nhu cầu đầu tư cho ứng phó với BĐKH ở các tỉnh vùng TNB. - Đa số chi phí cho ứng phó với BĐKH là từ nguồn đầu tư từ NSTW và vay ODA có điều kiện. - Bộ NN&PTNT chủ đầu tư phần lớn trong tổng chi cho BĐKH ở TNB (80%). Trong đó chủ yếu là dành cho các hoạt động đầu tư hạ tầng thuỷ lợi ở vùng TNB. - Sự phối hợp của các cơ quan chức năng trong quá trình bố trí nguồn lực và sử dụng vốn chưa thực sự chặt chẽ và có hiệu quả.
- Về xác định mục tiêu chính sách: + Các chính sách đã xác định mục tiêu tương đối rõ ràng. + Chính sách đã chỉ rõ được vai trò của các bên tham gia, cơ quan chủ trì, các đơn vị phối hợp thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB. - Tổ chức tuyên truyền chính sách với nhiều hình thức, nhiều đối tượng khác nhau. - Về triển khai thực thiện chính sách + Hình thành bộ máy tổ chức thực hiện chính sách. + Chính sách hướng tới huy động đa dạng hoá các nguồn lực từ nguồn ngân sách và nguồn quốc tế, tư nhân, cộng đồng cho BĐKH ở TNB. + Xây dựng tiêu chí xét duyệt các nhiệm vụ, dự án ứng phó BĐKH, Đồng thời triển khai, giám sát thực thi chính sách BĐKH. - Mức độ đạt được các mục tiêu ban đầu đặt ra cơ bản đáp ứng được yêu cầu. + CTMTQG ứng phó với BĐKH trong giai đoạn 2011-2017, đã huy động được 2.594 tỷ đồng cho các nhiệm vụ, dự án BĐKH ở vùng TNB. + Chương trình NTP-RCC giai đoạn 2011-2017 đã huy động 2.301 tỷ đồng cho các dự án BĐKH ở vùng TNB. + Chương trình KH&CN phục vụ NTP-RCC: Chương trình đã triển khai qua 2 giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020; Giai đoạn 2011-2015: Tổng mức kinh phí năm 2011-2015 là 231,8 tỷ đồng. Trong 5 năm có 48 đề tài đã được phê duyệt, trong đó nhiều đề tài liên quan đến các giải pháp thích
134
ứng với BĐKH ở vùng TNB. Giai đoạn 2016-2020, đã có 38 đề tài được mở mới, tập trung xây dựng các mô hình thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng và hệ sinh thái để chuyển giao cho vùng TNB. + ODA trong gian đoạn 2011-2017, Chính phủ đã huy động hơn 17.500 tỷ nguồn vay viện trợ ODA cho các dự án thích ứng với BĐKH ở vùng TNB. - Hiệu quả kinh tế + Tăng cường năng lực cho các ngành, các địa phương, các cộng đồng dân cư ở vùng TNB chủ động thích ứng với BĐKH và hạn chế thiệt hại kinh tế do BĐKH gây ra. + Khi thực hiện Chương trình, nhiệm vụ, dự án, các ngành, các địa phương ở TNB có cơ hội nâng cao được năng lực quản lý, trình độ công nghệ của địa phương. + Tiết kiệm đáng kể chi phí khắc phục hậu quả các tác động của BĐKH đến các công trình kiến trúc, văn hoá. - Hiệu quả về xã hội + Góp phần nâng cao chất lượng sống, an ninh và an toàn cho người dân, đặc biệt là nhóm người nghèo ở vùng TNB trước thiên tai, BĐKH. + Xây dựng nếp sống văn minh, có ý thức sẵn sàng ứng phó, tương thân, tương ái, khắc phục khó khăn và hậu quả của BĐKH ở vùng TNB. - Hiệu quả về môi trường + Kiểm soát được tốc độ tăng phát thải KNK, giảm nhẹ tác động của BĐKH đến môi trường sống của con người. + Giảm nhẹ tác động của BĐKH
135
Phù hợp
- Chính sách, về ứng phó với BĐKH đã được hình thành, nhưng còn thiếu tính hệ thống, thiếu đồng bộ. - Chính sách ứng phó với BĐKH được xây dựng chưa tính đến điều kiện, đặc thù của các vùng miền khác nhau. - Các quy định về giảm nhẹ phát thải KNK còn phân tán; các quy
đến các hệ sinh thái, duy trì và bảo tồn được vốn tự nhiên. + Việc xanh hóa ngành năng lượng đã thực hiện ở các địa phương vùng TNB, hiện có 4 dự án điện gió đã đưa vào vận hành thương mại, hơn 40 dự án điện gió, điện mặt trời đưa vào quy hoạch, gó phần giảm phát thải KNK. - Nhất quán so với nhu cầu của xã hội, của vùng và địa phương. - Chính sách BĐKH bước đầu được lồng ghép, tích hợp vào trong quy hoạch, chiến lược một số ngành, lĩnh vực, như: tài nguyên nước, đa dạng sinh học, nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng, thuỷ lợi, giao thông, năng lượng, công nghiệp, y tế, môi trường... - Phù hợp với năng lực, điều kiện của vùng và địa phương.
định về thích ứng chủ yếu về phòng chống và giảm nhẹ thiên tai.
- Tổ chức bộ máy QLNN về BĐKH mới được thiết lập ở Trung
ương, ở các địa phương vùng TNB đa số là chưa có Văn phòng chuyên
trách để giúp việc cho BCĐ 158 cấp tỉnh; Với đội ngũ cán bộ còn
mỏng, chưa đáp ứng về chuyên môn, nghiệp vụ.
Khi Chính phủ ban hành Quyết định 158 về CTMTQG về BĐKH,
- Nhiều chính sách có mục tiêu trùng lặp nhau, chồng chéo nhau.
Tính đồng bộ và đồng
hướng
thì các địa phương đã thành lập BCĐ 158 cấp tỉnh và ban hành hàng
- Có một số chính sách còn xung đột mục tiêu lẫn nhau.
loạt văn bản chính sách tương ứng để thực thi chính sách ở vùng TNB.
- Các chính sách hiện nay vẫn chủ yếu tập trung vào huy động và
phân bổ nguồn lực cho CSHT ứng phó với BĐKH.
136
Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2020
3.4.3. Những tồn tại, hạn chế của việc thực hiện chính sách
Việc thực hiện chính sách ứng phó BĐKH ở vùng TNB đã góp phần mang lại
hiệu quả trong việc tạo sinh kế bền vững và thích ứng tốt với BĐKH. Tuy nhiên,
thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB trong thời gian qua vẫn còn
những bất cập, hạn chế như sau:
3.4.3.1. Văn bản thực hiện chính sách còn chống chéo, mâu thuẫn
- Văn bản về chính sách BĐKH được ban hành nhiều, nhưng khi xây dựng chưa tuân thủ quy trình chính sách và chưa lấy ý kiến từ các địa phương vùng TNB.
Chính vì vậy, chính sách được ban hành không phù hợp với đối tượng, địa phương,
không rõ mục tiêu chính sách và không kèm theo nguồn lực để thực hiện. Do đó
hiệu lực và hiệu quả trong thực hiện không cao. Ví dụ, trong giai đoạn 2011-2018,
các cơ quan Trung ương đã ban hành hơn 315 văn bản chính sách BĐKH áp dụng chung cho cả nước và vùng TNB. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 10 văn bản là có nguồn
lực thực hiện chính sách, còn các chính sách khác chỉ mang tính chất thống kê và
báo cáo tình hình của địa phương cho cơ quan Trung ương.
- Phần lớn các chính sách liên quan đến BĐKH trong thời gian qua do nhiều
cơ quan ở cấp Trung ương ban hành, nên dẫn đến quá trình thực hiện ở địa phương
còn lúng túng, khó khăn, chưa rõ chính sách nào ưu tiên thực hiện trước, chính sách
nào thực hiện sau.
- Các chính sách ứng phó với BĐKH hiện hành có nhiều mục tiêu chính sách
chồng chéo mâu thuẫn, thiếu đồng bộ và đồng hướng.
Hộp 3.4: Trùng lặp mục tiêu và thiếu đồng bộ của chính sách BĐKH
- Hiện các Chương trình MTQG BĐKH và Chương trình giảm nhẹ và phòng chống thiên tai, Chiến lược tăng trưởng xanh, Chiến lược BVMT, Chiến lược PTBV… Các văn bản nói trên có nhiều điểm chưa thống nhất, mục tiêu mục tiêu trùng nhau, làm cho địa phương khó khăn trong thực hiện và báo cáo. Quan điểm, mục tiêu chính sách là hướng đến thích ứng BĐKH nhưng trên thực tế là triển khai lại tập trung vào giảm nhẹ.
137
- Nghị quyết 120/NQ-CP đã xác định quan điểm chủ đạo trong phát triển của TNB là: Tôn trọng quy luật tự nhiên, phù hợp với điều kiện thực tế, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên; chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thân thiện với môi trường và PTBV... Tuy nhiên, Quyết định 498/TTg ngày 14/07/2017 về Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé lại đưa ra chủ trương xây dựng cụm công trình thủy lợi Cái Lớn - Cái Bè, giai đoạn 1, gồm các hạng mục: cống Cái Lớn, cống Cái Bé;
đê nối hai cống Cái Lớn, Cái Bé với Quốc lộ 61; kênh nối sông Cái Lớn - Cái Bé; sửa chữa cống âu Tắc Thủ với tổng vốn đầu tư 3.309,5 tỷ đồng. Đây là chủ trương chưa thật sự phù hợp với nguyên tắc chủ đạo của Nghị quyết 120/NQ-CP.
Nguồn: Tổng hợp của Luận án. - Hệ thống các chính sách được thiết kế chưa dựa trên các đặc trưng sinh thái -
xã hội của từng tiểu vùng và thiếu sự gắn kết lâu dài với các quy hoạch, chương
trình, kế hoạch ưu tiên của Chính phủ, bộ/ngành ở vùng TNB [91, tr.29-39].
3.4.3.2. Truyền thông chính sách
BĐKH là một trong những vấn đề quan trọng nhận được nhiều sự quan tâm
của các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương, nhưng việc xây dựng các kế
hoạch triển khai, thực hiện các chính sách ứng phó ở địa phương chưa thực sự hiệu
quả. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền chính sách ứng phó BĐKH ở vùng TNB đang
còn nhiều hạn chế. Hình thức và nội dung tuyên truyền chưa đa dạng, chủ yếu tập
trung vào các nội dung và hình thức truyền thống, và chủ yếu tập trung vào đối
tượng cán bộ sở ngành, cấp huyện, cấp xã. Còn các đối tượng bị tác động người
dân, nhóm cộng đồng bị tổn thương dù đã được BCĐ 158 xây dựng đề án tuyên
truyền nâng cao nhận thức, nhưng hình thức truyền thông chưa thật sát với các đối
tượng. Công tác nâng cao nhận thức về BĐKH, về bảo vệ rừng, đa dạng sinh học,
chuyển đổi mô hình sinh kế bền vững thích ứng bền vững với BĐKH được các tổ
chức NGOs quốc tế và trong nước thực hiện tốt hơn.
3.4.3.3. Năng lực tổ chức bộ máy thực hiện chính sách còn nhiều yếu kém
- Trong khi diễn biến và tác động tiêu cực của BĐKH đến KT-XH và môi
trường các địa phương ngày càng lớn, nhưng cán bộ thực hiện chính sách ngày càng
giảm do chính sách tinh giản biên chế và tinh gọn bộ máy, hệ thống chính trị. Cán
bộ chuyên trách BĐKH ở cấp tỉnh không được tăng thêm chỉ tiêu biên chế; cán bộ
kiêm nhiệm về môi trường và BĐKH cấp huyện, ngày càng phải kiêm nhiệm nhiều
công việc khác nhau; cán bộ hợp đồng địa chính-môi trường ở cấp xã thì bị cắt giảm
do ngân sách khó khăn.
- Trình độ và chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo của cán bộ chuyên trách cấp tỉnh, cán bộ kiêm nhiệm cấp huyện/thị xã và cán bộ hợp đồng cấp xã/thị trấn chủ yếu được tạo thuộc lĩnh vực quản lý môi trường, địa chính, quản lý đất đai, quản lý tài nguyên...Số cán bộ được đào tạo về khí tượng thuỷ văn hay BĐKH còn
138
rất ít. Bên cạnh đó, việc tham gia các khoá tập huấn ngắn hạn và dài hạn để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cũng rất hạn chế.
- Phân công, phối hợp giữa các chủ thể và địa phương trong việc thực hiện chính sách ứng phó BĐKH chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Mức độ lan tỏa của
việc thực thi chính sách vẫn đang hạn chế trong phạm vi các cơ quan Nhà nước và
chưa kích thích được sự tham gia của các chủ thể khác trong xã hội (cộng đồng,
doanh nghiệp). Đồng thời, việc triển khai các chính sách ứng phó BĐKH ở TNB chưa thực sự hiệu quả. Việc thiếu kinh phí để triển khai các hoạt động ứng phó ảnh
hưởng tới hiệu quả và mức độ lan tỏa của các chính sách ứng phó BĐKH.
Hộp 3.5: Hoạt động phối hợp của BCĐ 158
Qua kết quả khảo sát của luận án cho thấy kinh phí cho BCĐ 158 và Văn phòng giúp việc cho BCĐ 158 của các địa phương vùng TNB, trừ 4 tỉnh (Tp. Cần Thơ, Trà Vinh, Bến Tre, Đồng Tháp) một năm ngân sách tỉnh bố trí khoảng 20-50 triệu đồng/năm. Với kinh phí ít như vậy, không đủ để Văn phòng BCĐ158mtổ chức triển khai các hoạt động chỉ đạo thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở trên địa bàn. Vì thế, các hoạt động phối hợp thực hiện giữa Sở TN&MT với các sở/ngành là thành viên BCĐ 158 chủ yếu qua trao đổi báo cáo, văn bản giữa các bên; chứ chưa tổ chức được các cuộc họp giao ban theo quý/6 tháng/năm, hay họp đột xuất để thực hiện nhiệm vụ. Do đó, trên thực tế thì các hoạt động phối hợp thực hiện của các thành viên, tổ chức trong BCĐ 158 chưa thực sự có kết quả.
Nguồn: Tổng hợp của Luận án.
- Các tỉnh vùng TNB có sự gắn kết chặt chẽ, mật thiết giữa các địa phương với nhau về tài nguyên nước, đất. Từ sự gắn kết về sinh thái, tự nhiên sẽ dẫn đến sự gắn kết, phụ thuộc nhau về phát triển KT-XH. Ví dụ, việc tích nước, làm đê quai để sản xuất lúa vụ 3 ở tỉnh An Giang, sẽ dẫn đến xâm ngập mặn sâu vào nội đồng ở tỉnh Kiên Giang và Sóc Trăng,…Tuy nhiên, các kế hoạch hành động ứng phó BĐKH lại được xây dựng riêng lẻ trong phạm vi từng tỉnh, thiếu sự phối hợp và chia sẻ thông tin giữa các địa phương trong cùng tiểu vùng. Mặt khác, chất lượng của kế hoạch hành động còn chung chung và tính khả thi thấp. Nguyên nhân là do chưa được chuẩn bị trên cơ sở nghiên cứu, sàng lọc, đánh giá tính dễ bị tổn thương để từ đó đề ra các biện pháp cụ thể. Bên cạnh đó, số liệu quan trắc khí tượng, thời tiết, hạn mặn, hải văn, thủy văn, các lưu vực sông còn nhiều hạn chế nên việc đánh giá tính dễ bị tổn thương có độ chính xác không cao.
139
- BĐKH có ảnh hưởng trên diện rộng, ảnh hưởng mang tính liên tỉnh, lên vùng ST-XH. Tuy nhiên, các nhiệm vụ, dự án ứng phó với BĐKH trong thời gian qua chủ yếu được xây dựng và thực hiện trong cục bộ, manh mún, cát cứ thuộc ranh giới của từng địa phương trong vùng. Ví dụ, trong 7 dự án được Chính phủ ưu tiên phân bổ vốn để thực hiện trong chương trình SP-RCC giai đoạn 2011-2017, được
triển khai riêng biệt trong nội bộ 7 tỉnh (Bến Tre, Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Đồng Tháp, An Giang). Ngay trong giai đoạn xin chủ trương lập dự án
đầu tư công trung hạn, hay đề xuất dự án cấp bách thực hiện trong Chương trình
mục tiêu quốc gia BĐKH, các địa phương chưa có sự liên kiết, chia sẻ về mặt thông
tin về nhu cầu nhiệm vụ đề xuất. Chưa kể, các dự án về xây dựng công trình hạ tầng, thuỷ lợi trong ứng phó với BĐKH, sẽ tác động tiêu cực đối với tỉnh hay vùng
lân cận, nếu như không được thực hiện một cách đồng bộ, và chia sẻ về thông tin
giữa các địa phương. Điều này, dẫn đến công tác ứng phó với BĐKH kém hiệu quả,
gây lãng phí nguồn lực.
3.4.3.4. Nguồn lực chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế
- Trong giai đoạn 2011-2018 dù Trung ương và địa phương đã phân bổ nhiều
nguồn vốn để thực hiện chính BĐKH ở vùng TNB, từ các nguồn: đầu tư công trung
hạn của Trung hạn, ngân sách địa phương, nguồn viện trợ ODA, nguồn chi đột xuất
của ngân sách Trung ương. Tuy nhiên, nguồn vốn cho ứng phó với BĐKH hiện nay
mới chỉ đáp ứng từ 15-20% nhu cầu của các địa phương vùng TNB.
- Các chương trình, dự án về ứng phó với BĐKH thời gian qua hầu hết được
thiết kế tập trung vào lĩnh vực giải pháp công trình thuỷ lợi, chiếm khoảng 89% nguồn vốn đầu tư cho BĐKH ở vùng TNB trong giai đoạn 2011-201719. Trong đó, tập trung vào xây dựng đê biển, đê sông, hồ chứa, đập, kênh rạch thoát lũ, cống ngăn mặn… Mà chưa chú trọng dành nguồn lực cho giải pháp phi công trình, bán
công trình, giải pháp công nghệ (thống quan trắc và cảnh báo sớm thiên tai; NLTT;
thích ứng với BĐKH dựa vào hệ sinh thái, bảo vệ, trồng rừng ngập mặn; mô hình
sinh kế bền vững cho cộng đồng...).
Qua kết quả khảo sát của luận án, các địa phương vùng TNB, chi ngân sách
vẫn ưu tiên cho các lĩnh vực giáo dục, y tế, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo
bền vững. BĐKH chưa nằm trong nhiệm vụ ưu tiên phải chi ngân sách địa phương.
Do vậy, các địa phương chưa có nguồn nhân sách riêng, và cơ chế tài chính cho dự án BĐKH, vẫn phụ thuộc vào nguồn lực được phân bổ từ CTMTQG ứng phó với
BĐKH, và chi đột xuất từ nguồn dự phòng của Trung ương. Ví dụ, Để ứng phó với tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển các địa phương vùng TNB đã đề xuất nguồn ngân sách cấp bách từ Trung ương là 7.078 tỷ đồng. Tuy nhiên, tại Quyết định 795/QĐ- TTg ngày 29/6/2018 về Hỗ trợ vốn cho các địa phương thuộc vùng ĐBSCL xử lý
19 Tính toán của luận án năm 2017 dựa trên số liệu về tình hình thực hiện các dự án thuộc CTMTQG về BĐKH, Cục Biến đổi khí hậu, năm 2017.
140
sạt lở cấp bách bờ sông, bờ biển, Chính phủ chỉ bố trí được 1.500 tỷ đồng.
- Dù đã bố trí nhiều nguồn lực cho việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH, nhưng chính sách vẫn chưa đáp ứng được như kỳ vọng. Trong thời gian
qua, thiên tai, và thời tiết cực đoan vẫn gây thiệt hại nghiêm trọng đối với KT-XH
và sinh kế người dân ở vùng TNB. 3.4.2.5. Phân bổ đầu tư công cho BĐKH vẫn theo hình thức kế hoạch hoá tập trung
- Hiện nay, việc phân bổ ngân sách cho các dự án BĐKH cho các địa phương
vùng ĐBSCL vẫn theo hình thức kế hoạch hoá, chứ chưa dựa vào các nguyên tắc
của thị trường, địa phương lập kế hoạch nhu cầu dự án và ngân sách, gửi Chính phủ
tổng hợp, cân đối nguồn và trình Quốc hội phê chuẩn kế hoạch đầu tư công trung
hạn của địa phương. Với hình thức phân bổ kế hoạch hoá như vậy sẽ dẫn đến: (i) để
một sự án BĐKH cấp bách được phân bổ vốn, phải tuân thủ một quy trình lập kế
hoạch mất rất nhiều thời gian (khoảng 2 năm); (ii) việc phân bổ nguồn lực đầu tư
công cho BĐKH không tuân thủ dựa trên các nguyên tắc của thị trường và thực tế
cấp bách của địa phương, dẫn đến hiện phân bổ dự án theo cơ chế bao cấp, xin -
cho, cào bằng giữa các địa phương.
- Với việc siết chặt kỷ luật tài khoá ngân sách và giám sát đầu tư công, cùng
với sự thay đổi của Luật đầu tư, Luật đấu thầu và Nghị định về ngân sách đối ứng
của địa phương đối với các dự án ODA. Dẫn đến tốc độ giải ngân các dự án đầu tư
công, trong đó có dự án BĐKH ở tỉnh/thành vùng ĐBSCL đang ở mức độ giải ngân
rất thấp, không đạt tiến độ kế hoạch đặt ra.
- Do chưa có nguồn ngân sách và chương trình riêng như Chương trình quốc gia Nông thôn mới, nên quy trình dự án BĐKH khá phức tạp và mất nhiều thời gian (mất
từ 1-2 năm); lại chưa có cơ chế tài chính đặc thù cho các dự án BĐKH, nên thủ tục
giải ngân các dự án BĐKH ở địa phương khá rườm ra (do phải tuân thủ các bước quy
định của Luật Đầu tư công). Các dự án BĐKH đều là danh mục những đề xuất cấp
bách, cần phải thực hiện, do vậy khó khăn trong việc bố trí nguồn vốn kịp thời. 3.4.3.6. Chưa thu hút được sự tham gia của khu vực tư nhân trong thực hiện chính
sách ứng phó với biến đổi khí hậu
Các văn bản pháp lý đã đề cập đến vai trò của khu vực tư nhân và thúc đẩy sự tham gia của giới doanh nghiệp trong nhiệm vụ thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH, song lại thiếu cơ chế hỗ trợ cho khu vực tư nhân, cộng đồng nhằm khuyến khích họ tham gia xây dựng cho đến thực hiện chính sách. Trong quá trình xây
141
dựng những kế hoạch hành động liên quan đến BĐKH gần đây, Chính phủ không chú trọng dành cho khu vực tư nhân những chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích
họ tham gia thực hiện những hoạt động ứng phó với BĐKH. Theo Nghị định số 57/2018/NĐ-CP quy định về Cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp, nông thôn. Nghị định này quy định một số cơ chế, chính sách ưu
đãi, hỗ trợ đầu tư bổ sung của Nhà nước và quy định trình tự, thủ tục thực hiện ưu
đãi, hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, lại không quy định những hoạt động khuyến khích nào liên quan đến nông
nghiệp thông minh hoặc ứng dụng kỹ thuật sản xuất nông nghiệp giúp giảm lượng
KNK phát thải ra môi trường và đồng thời nâng cao khả năng ứng phó với BĐKH.
3.4.4. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế
Thực trạng những bất cập trong thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở
vùng TNB trong thời gian qua nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.
Về nguyên nhân khách quan
- BĐKH diễn biến nhanh hơn so với dự báo, và vùng TNB được dự báo là sẽ bị thiệt hại nặng nhất.Trong giai đoạn 2008-2018, BĐKH đã làm gia tăng về cường
độ, tính bất thường khó đoán định, cũng như thiệt hại của các hiện tượng thời tiết
cực đoan ở vùng TNB.
- Các thay đổi đến từ bên ngoài và gia tăng yếu tố bất định từ khu vực Thượng
nguồn sông Mê Kông đều ảnh hưởng trực tiếp đến PTBV vùng TNB. Các chính
sách và vấn đề thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở TNB trong thời gian qua
đã không lường trước hết được những thay đổi đến từ khu vực thượng nguồnchâu
thổ. Để giải quyết căn cơ vấn đề trên thì các chính sách trong nội vùng TNB không
thể giải quyết được, mà cần phải các quyết sách mang tính chính trị ở cấp độ quốc
gia và khu vực.
Về nguyên nhân chủ quan
- Chất lượng, hiệu lực, hiệu quả các công cụ, biện pháp thực hiện chính sách
BĐKH còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu; hiệu lực, hiệu quả của công tác thích
ứng với BĐKH chưa cao, đặc biệt trong phòng ngừa, kiểm soát các nguồn gây ô
nhiễm môi trường.
- Trong khi đó, còn thiếu các cơ chế, tiêu chí để sàng lọc, xây dựng các dự án
mang tính hiệu quả trong thích ứng với BĐKH.
- Đầu tư cho BĐKH ở vùng TNB còn rất hạn chế, chỉ đáp ứng một phần nhu
cầu; còn thiếu các cơ chế huy động nguồn lực trong xã hội đầu tư cho thích ứng với
BĐKH. Do thiếu nguồn lực đầu tư nên hạ tầng kỹ thuật về quan trắc thời tiết, dự
142
báo, cảnh báo sớm thiên tai, BĐKH ở vùng TNB còn yếu kém, lạc hậu. Năng lực
quan trắc, cảnh báo, phát hiện sớm các sự cố về thiên tai, còn nhiều hạn chế, chưa
đáp ứng được yêu cầu.
- Nhận thức, ý thức trách nhiệm về ứng phó với BĐKH của doanh nghiệp, cấp
chính quyền, tổ chức kinh tế, cộng đồng dân cư còn hạn chế.
- Chưa phát huy được vai trò của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội nghề nghiệp và các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực ứng phó với
BĐKH, và giám sát chặt chẽ công tác quản lý thực hiện chính sách BĐKH của các
cơ quan, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và cộng đồng.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Chương 3 đã nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB,
và phát hiện ra rằng: Chính phủ, bộ/ngành và đã ban hành số lượng rất lớn chính
sách, chương trình, kế hoạch hành động, dự án, nhiệm vụ ứng phó với BĐKH. Tuy
nhiên, số lượng chính sách về BĐKH đã ban hành không có mối quan hệ thuận
chiều với hiệu quả thực hiện chính sách. Kết quả này, giúp hiểu rõ vai trò của khâu
hoạch định chính sách BĐKH, và thực tế chất lượng của công việc hoạch định
chính sách BĐKH hiện nay.
Đồng thời, để thực thi chính sách BĐKH ở vùng TNB, các địa phương đã hình
thành BCĐ 158 và ban hành các văn bản nhằm triển khai thực hiện chính sách. Tuy
nhiên, dấu ấn, vai trò, hoạt động của BCĐ 158 chưa thật sự rõ ràng và tính hiệu quả
trong giai đoạn 2011-2015. Đồng thời, trong giai đoạn 2011-2017, Nhà nước đã
dành một lượng ngân sách từ nguồn đầu tư công trung hạn khá lớn cho thực hiện
các nhiệm vụ, dự án ở vùng TNB, trong đó tập trung chủ yếu vào lĩnh vực CSHT
liên quan đến ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, so với nhu cầu vốn cho hoạt động
ứng phó với BĐKH do các địa phương đề xuất thì chỉ mới được khoảng 10-15%.
Mặt khác, từ kết quả khảo sát, đi tham vấn các bộ, sở, ngành địa phương tại bốn
tiểu vùng (tiểu vùng DHPĐ, tiểu vùng ĐTM, tiểu vùng TGLX, tiểu vùng BĐCM)
cho thấy những cảm nhận của các cán bộ, công chức, viên chức của các sở về biểu
hiện và tác động của BĐKH đến các tiểu vùng cho ra các chỉ số khá tốt. Tuy nhiên,
về chất lượng thực hiện chính sách BĐKH ở mỗi tiểu vùng lại có các chỉ số đánh giá
khác nhau. Một điều dễ nhận thấy từ kết quả điều tra là hiệu quả của thực hiện chính
sách phụ thuộc rất nhiều vào năng lực thực hiện của cán bộ và tính chuyên nghiệp
của bộ máy tổ chức. Do đó, hiệu quả của thực hiện chính sách ở bốn tiểu vùng là có
143
sự chênh lệch khá lớn về chỉ số tương quan giữa năng lực và hiệu quả.
Cuối cùng, các chính sách và nguồn lực để thực hiện các chương trình dự án
ứng phó BĐKH vẫn chủ yếu là từ ngân sách đầu tư công trung hạn và hàng năm, và
từ nguồn sự nghiệp kinh tế của Trung ương và địa phương vùng TNB. Một phần
được huy động từ nguồn vay, viện trợ từ các tổ chức quốc tế, các nước dưới dạng
ODA, hoặc là hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ. Còn sự đóng góp và tham gia
của khu vực tư nhân, doanh nghiệp (nhóm phát thải KNK) là vắng bóng. Hay sự
tham gia của các nhóm cộng đồng bị tác động bởi BĐKH trong thực hiện chính
sách là rất khiêm tốn. Chính sách ứng phó với BĐKH trong giai đoạn mới cần khắc
144
phục những hạn chế này.
CHƯƠNG 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VÙNG TÂY NAM BỘ
4.1. Bối cảnh mới và các vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện chính sách ứng phó
với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ 4.1.1. Biến đổi khí hậu toàn cầu và các vấn đề đặt ra cho hoàn thiện chính sách
BĐKH ở vùng Tây Nam Bộ
Theo Kịch bản BĐKH và NBD 2015, nếu NBD cao 1m thì vùng TNB là khu
vực có nguy cơ ngập cao nhất 38,9% diện tích [24]. Điều này sẽ tác động lớn đến
sản xuất nông nghiệp, an ninh việc làm của phần lớn lao động nông thôn. Diện tích
đất của khu vực này có nguy cơ bị nhiễm mặn nặng, mùa màng bị thiệt hại nghiêm
trọng do lũ lụt và úng. Nếu như mực NBD trên 1m, mà không có các hoạt động ứng
phó, phần lớn diện tích TNB sẽ hoàn toàn bị ngập thời gian dài trong năm và thiệt
hại tài sản ước tính lên tới 17 tỷ USD [176].
Sau khi Thỏa thuận Paris được thông qua tại Hội nghị các bên liên quan lần
thứ 21 (COP21) tháng 12/2014, Việt Nam đã ký Thỏa thuận Paris cùng hơn 170
quốc gia khác. Trong đó, Việt Nam đã cam kết cắt giảm 8% KNK vào năm 2030 so
với mức kinh doanh bình thường (BAU) và sẽ giảm 25% nếu có sự hỗ trợ của cộng
đồng quốc tế [134]. Để thực hiện thỏa thuận này, Việt Nam đã ban hành Quyết định
số 2053/QĐ-TTg ngày 28/10/2016 Phê duyệt Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH,20 với 68 danh mục nhiệm vụ cần thực hiện trong giai đoạn 2016-203021. Theo kết quả kiểm kê KNK của Bộ TN&MT (2018), lượng khí phát thải KNK của
ngành nông nghiệp là 89.751,8 nghìn tấn CO2, chiếm khoảng 27,9% tổng lượng
KNK. Trong đó, hoạt động canh tác lúa và đốt phụ phẩm nông nghiệp ngoài đồng
ruộng thải ra khoảng 46.731,3 nghìn tấn CO2, chiếm 52% lượng KNK của ngành
nông nghiệp. Dự báo đến năm 2020 lượng phát thải KNK của ngành nông nghiệp sẽ
giảm xuống còn 20,67%, năm 2030 sẽ giảm còn 12,6 % [26]. Đây là thách thức rất
lớn cho vùng TNB khi tiến hành các hoạt động triển khai NDC nhằm giảm KNK
trong hoạt sản xuất nông nghiệp, vì là khu vực chuyên canh lúa lớn nhất của cả
20 Tính đến tháng 4/2018 đã có 12/13 tỉnh/thành phố ở vùng Tây Nam Bộ, đã xây dựng và ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH ở cấp địa phương. 21 Các nhóm trụ cột chính của Kế hoạch này là: giảm phát thải KNK; thích ứng với BĐKH; chuẩn bị nguồn lực; thiết lập hệ thống công khai minh bạch; xây dựng hoàn thiện chính sách, thể chế.
145
nước, với 1,7 triệu ha đất trồng lúa [124].
4.1.2. Ảnh hưởng của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đến ứng phó với biến đổi khí hậu ở cấp độ toàn cầu, quốc gia và vùng, địa phương
“Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đã bắt đầu từ những năm 2000, đặc
trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ
thuật số và sinh học. Đây là xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn
vật kết nối Internet (IoT) và các hệ thống kết nối Internet (IoS). Cuộc Cách mạng
Công nghệ lần thứ tư này đang làm thay đổi cách thức sản xuất, chế tạo. Trong các
“nhà máy thông minh”, các máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau qua
một hệ thống có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất, rồi đưa ra quyết định
sẽ thay thế dần các dây chuyền sản xuất trước đây. Nhờ khả năng kết nối của hàng
tỷ người trên thế giới thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận được với
cơ sở dữ liệu lớn, những tính năng xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột
phá công nghệ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ người máy,
Internet kết nối vạn vật, xe tự lái, công nghệ in 3 chiều, công nghệ nano, công nghệ
sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử. Tốc độ phát
triển của những đột phá trong Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư này là không có
tiền lệ trong lịch sử. Nếu như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây diễn ra
với tốc độ theo cấp số cộng (hay tuyến tính), thì tốc độ phát triển của Cách mạng
Công nghiệp lần thứ tư này là theo cấp số nhân” [174]. Thời gian từ khi các ý tưởng
về công nghệ và đổi mới sáng tạo được phôi thai, hiện thực hóa các ý tưởng đó
trong các phòng thí nghiệm và thương mại hóa ở quy mô lớn các sản phẩm và quy
trình mới được tạo ra trên phạm vi toàn cầu được rút ngắn đáng kể. Những đột phá
công nghệ diễn ra trong nhiều lĩnh vực như kể trên với tốc độ rất nhanh và tương
tác thúc đẩy nhau đang tạo ra một thế giới được số hóa, tự động hóa và ngày càng
trở nên hiệu quả và thông minh hơn [174].
Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư có những tác động to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp độ toàn cầu, khu vực và quốc gia, Việt Nam
và vùng TNB. Các tác động này mang tính rất tích cực trong dài hạn, song cũng tạo ra nhiều thách thức điều chỉnh trong ngắn đến trung hạn. Đối với vấn đề ứng phó với BĐKH, cuộc cách mạng sẽ tác động trên các khía cạnh sau [174]:
(i) Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 với những đột phá về công nghệ, đang
mở ra cơ hội rất lớn cho vùng TNB để có thể đuổi kịp, đi cùng và vượt trước các
vùng khác trong việc thu hẹp khoảng cách công nghệ và năng suất lao động.
146
Chuyển giao ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cảm biến... Đồng thời ứng dụng
các phương thức kinh doanh mới, dựa trên nền tảng sáng tạo trí tuệ, trong việc gắn
kết lĩnh vực nông nghiệp và du lịch sinh thái và NLTT ở vùng TNB. Những mô
hình sản xuất kinh doanh mới sẽ ít phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên, giảm phát thải
KNK, đồng thời góp phần ứng phó hiệu quả với các tác động bất lợi của BĐKH.
Đặc biệt, với sự tiến bộ vượt bậc và hỗ trợ của công nghệ hiện đại, các tỉnh vùng
TNB có cơ hội để thử nghiệm các mô hình phát triển mới: thành phố thông minh,
nông nghiệp thông minh, làng xã thông minh.
(ii) Ảnh hưởng đến công tác ứng phó với BĐKH ở vùng TNB là tích cực trong
ngắn hạn và trung, dài hạn nhờ các công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên vật liệu
và thân thiện với khí hậu, giảm nhẹ KNK. Nhờ đó các địa phương vùng đồng bằng
Châu thổ sẽ có cơ hội để tiếp cận công nghệ giám sát giám sát, quan trắc thời tiết,
khí hậu và cảnh báo sớm thiên tai, khí hậu đang phát triển nhanh chóng, đồng thời
còn được hỗ trợ bởi Internet kết nối vạn vật, giúp thu thập và xử lý thông tin liên
tục 24/7, độ chính xác cao theo thời gian ở vùng.
(iii) Ngành năng lượng của vùng TNB có thể tận dụng các thành tựu của cách
mạng công nghiệp để xanh hoá năng lượng, được hưởng lợi khá nhiều nhờ những
đột phá trong công nghệ NLTT, trước hết là công nghệ ứng dụng năng lượng mặt
trời, năng lượng gió cũng đã tiến bộ rất nhiều ở một số nước tiên tiến như Mỹ, Đức,
Hàn Quốc… với tiềm năng phổ biến nhanh trên toàn cầu nhờ giá sản xuất giảm
đáng kể. Cùng với các chính sách hỗ trợ về điện gió và điện mặt trời vừa được
Chính phủ ban hành. Thì các các địa phương vùng TNB có nhiều cơ hội để phát
triển năng lượng gió, năng lượng mặt trời, đặc biệt là điện mặt trời áp mái hộ gia
đình, trang trại, gia trại. Để thay thế năng lượng nhiệt điện, loại bỏ dần các nhà máy nhiệt điện than ở vùng TNB ra khỏi quy hoạch điện quốc gia [115].
4.1.3. Hội nhập quốc tế sâu rộng và các vấn đề đặt ra đối với chuyển dịch cơ cấu
kinh tế vùng TNB theo hướng bền vững thích ứng với BĐKH.
Các Hiệp định tự do thế hệ mới mở ra những cơ hội rất lớn cho TNB trong việc
tiếp cận thị trường và phát huy các lợi thế so sánh, cũng như tham gia vào chuỗi giá
trị toàn cầu, nhất là mức thuế xuất đối với các mặt hàng nông sản giảm về 0%. Tuy
nhiên, cũng đi kèm với thách thức đó là vượt qua hàng rào kỹ thuật, vấn đề vệ sinh
thực phẩm. Do đó, để tận dụng những cơ hội do FTA thế hệ mới mang lại, trong giai
đoạn tới TNB sẽ lựa chọn những công nghệ mới để chuyển giao ứng dụng vào sản
xuất nông nghiệp, tạo ra những chuỗi giá trị sản phẩm trái cây, thủy sản có giá trị cao
147
phục vụ xuất khẩu, đồng thời giảm KNK góp phần giảm nhẹ BĐKH.
4.1.4. Bối cảnh phát triển ở khu vực thượng nguồn châu thổ
Việc khai thác tài nguyên nước trên Thượng nguồn châu thổ, trong đó việc chuyển nước sông Mê Kông sang lưu vực sông khác và nhất là việc khai thác thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông từ cao nguyên Tây Tạng trở xuống, trong khi nhu cầu về nước ngày càng tăng trước sức ép gia tăng dân số và phát triển nông nghiệp. Nằm ở phía cuối của lưu vực Mê Kông, TNB chịu tác động rất lớn của sự phát triển của 11 nhà máy thủy điện ở lưu vực Mê Kông. Các tác động chính của thủy điện Mê Kông đối với TNB trong trước mắt và dài hạn như sau [107].
(i) Giảm phù sa mịn: Gây bạc màu đất, ảnh hưởng nông nghiệp; gây ra hiện tượng “nước đói phù sa” dẫn đến sạt lở bờ sông, bờ biển; giảm lượng dinh dưỡng mang ra biển, ảnh hưởn năng suất thủy sản ven biển trong vùng. Thiếu phù sa trong vùng nước biển ven bờ, giảm bồi đắp và gia tăng sạt lở bờ biển, nhất là đoạn bờ biển bùn phía Biển Đông từ Sóc Trăng đến Mũi Cà Mau và phía Biển Tây từ Mũi Cà Mau đến Hà Tiên. Thiếu dinh dưỡng cho hệ sinh thái thủy sinh, ảnh hưởng đến năng suất thủy sản nước ngọt. Các số liệu của Ủy hội Mê Kông quốc tế cho thấy, so giữa 1992 và 2014, tải lượng phù sa mịn sông Mê Kông đã giảm 50% từ 160 triệu tấn/năm còn 85 triệu tấn/năm. Số liệu phù sa nói trên chưa bao gồm thành phần cát, sỏi di chuyển ở đáy sông, ước lượng khoảng 30 triệu tấn/năm [191]. Dự báo sau khi 11 đập ở Hạ lưu vực xây dựng xong, lượng phù sa mịn còn lại sẽ bị giảm 50% một lần nữa xuống còn 42 triệu tấn/năm.
(ii) Chặn hầu hết lượng cát, sỏi về vùng TNB: các nghiên cứu đều thống nhất
rằng hiện nay toàn bộ cát sỏi từ phía Thượng lưu vực đã bị chặn, sau khi 11 đập ở Hạ
lưu vực hoàn tất, 100% cát, sỏi sẽ bị chặn. Khi đó sạt lở sẽ diễn ra dữ dội đối với bờ
Sông Tiền, Sông Hậu, và bờ biển, nhất là đoạn bờ biển cát dài 250km ở vùng cửa
sông Cửu Long từ Tiền Giang qua Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, đến Bạc Liêu.
(iii) Thiệt hại về nguồn lợi thuỷ sản nước lợ: Nhiều nghiên cứu cho thấy khi
11 đập thủy điện ở Hạ lưu vực hoàn tất, 100% lượng cá trắng, tức các loài cá phải di
cư ngược dòng hàng năm để sinh sản, sẽ hoàn toàn biến mất. Sự tổn thất cá trắng sẽ
ảnh hưởng lớn đến dinh dưỡng và thu nhập của người dân TNB, nhất là người
nghèo nông thôn và ảnh hưởng đến các loài ăn cá và tác động dây chuyền đến toàn
bộ hệ sinh thái TNB.
(iv) Ảnh hưởng thủy sản biển: Trong 160 triệu tấn tải lượng phù sa mịn sông Mê Kông vận chuyển hàng năm, một phần được bồi lắng ở các cánh đồng ngập lũ ở
148
Campuchia và ở TNB, còn lại ước lượng khoảng 100 triệu tấn phù sa và 16.000 tấn dinh dưỡng bám vào phù sa được mang ra vùng nước ven biển TNB. Khi lượng phù
sa và dinh dưỡng này giảm sẽ ảnh hưởng lớn đến năng suất thủy sản vùng ven biển TNB trong vùng ven biển.
(vi) Ảnh hưởng dòng chảy: Đối với ảnh hưởng dòng chảy của các đập thủy
điện Mê Kông, cần phân biệt giữa các đập đã và đang xây dựng ở Trung Quốc và
11 đập ở Hạ lưu vực, và phân biệt giữa những năm bình thường và những năm đặc biệt khô hạn. Các đập ở phần Trung Quốc là các đập có hồ chứa lớn, có khả năng
tích nước trong mùa lũ, xả ra để phát điện trong mùa khô. Theo lý thuyết, các đập
này sẽ làm tăng dòng chảy mùa khô đối với TNBtrong những năm bình thường
[232]. Do lượng nước đóng góp vào lưu vực của phần Trung Quốc là nhỏ, chỉ 16%
nên các đập này ảnh hưởng không lớn về lượng nước đối với TNB. Tuy nhiên,
trong những năm đặc biệt khô hạn, như năm 2016, các đập này có thể gia tăng trữ
nước và làm cho tình hình khô hạn trầm trọng và xâm nhập mặn ở vùng TNB càng
trầm trọng hơn. Với việc xây dựng 11 đập ở phía Hạ lưu vực, về lý thuyết cho nước
chảy qua trong ngày (trung bình đóng đập 8 giờ và xả ra phát điện 16 giờ), trong
những năm bình thường, các đập này sẽ không ảnh hưởng lớn về lượng nước và
mực nước ở TNB. Nhưng trong những năm đặc biệt khô hạn, mỗi đập có khả năng
lưu nước từ 1,55 ngày đến 18 ngày, làm chậm đáng kể dòng chảy đi qua chuỗi đập,
làm cho tình trạng hạn-mặn ở TNB càng trở nên trầm trọng, ảnh hưởng đến sản xuất
nông nghiệp và thiếu nước sinh hoạt [226].
4.1.5. Vấn đề phát triển nội tại của đồng bằng châu thổ
Thách thức từ quá trình công nghiệp hoá - đô thị hoá và di dân, dự báo dân số
của vùng TNB có thể tăng từ 17 triệu lên 30 triệu dân năm 2050, đồng thời ảnh
hưởng của BĐKH sẽ dẫn đến ngập lụt tại các đô thị. Công nghiệp hoá - đô thị hoá
sẽ ngày càng phát triển và thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đồng thời làm tăng nhu cầu về nước sạch cũng như phát sinh nhiều nước thải, rác thải sinh hoạt22 [25].
149
Thách thức về an ninh năng lượng, theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh được Thủ tướng phê duyệt vào ngày 18/3/2016, thì một loạt các nhà máy nhiệt điện than sẽ được xây ở vùng TNB. Dọc theo tuyến sông Hậu từ thành phố Cần Thơ, xuống tỉnh Hậu Giang và tiếp đến cửa biển giữa hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh đã và đang hình thành 15 nhà máy nhiệt điện. Với quy mô phát triển công nghiệp năng lượng như vậy đến năm 2030, vùng sẽ trở thành một trong những khu vực có mật độ nhiệt điện cao nhất cả nước. Các nhà máy nhiệt điện ở vùng TNB sẽ sử dụng khoảng 170.000 tấn than/ngày, thải ra lượng nước thải khoảng 70 triệu m3/ngày 22 Mỗi năm có khoảng 100 triệu m3 nước thải sinh hoạt, 600.000m3 chất thải rắn không xử lý đã được xả thẳng ra môi trường nước. Bên cạnh đó, nhiều nhà máy công nghiệp cũng xả thẳng nước thải và chất thải rắn ra sông ngòi, gây ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng.
đêm. Vì vậy, việc phát triển nhiệt điện than vùng sẽ phải đối mặt với nhiều hệ luỵ về cạnh tranh nguồn nước với các ngành khác, ô nhiễm nguồn nước ngọt, phá huỷ hệ sinh thái dưới nước, ảnh hưởngsức khoẻ con người của vùng TNB. Đồng thời gây áp lực cho việc cắt giảm KNK theo Thỏa thuận Paris [53].
Mặt khác, sự phát triển nội tại ở vùng, ngoài việc suy giảm nghiêm trọng rừng ngập mặn, rừng tràm do phát triển diện tích nuôi trồng thuỷ sản23; còn là việc khai thác cát quá mức trên sông Tiền, sông Hậu làm trầm trọng thêm sự thiếu hụt trầm tích; khai thác kiệt quệ nước ngầm làm mặt đất sụt lún24. 4.2. Một số quan điểm nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách ứng phó với
biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ
Để hoàn thiện vấn đề thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB
trong giai đoạn tới cần phải quán triệt vào các quan điểm chủ đạo sau đây:
Thứ nhất, phải quán triệt nguyên tắc xây dựng chính sách phải dựa trên quan
điểm chủ động thích ứng với BĐKH.
Theo đó phải tăng cường nhận thức theo hướng tiếp cận để thích nghi với
BĐKH là “thích nghi và chuyển đổi dần theo thời gian trong bối cảnh có nhiều yếu
tố bất định”. Đặc biệt, trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản, cần theo trình tự ưu
tiên: (i) ứng dụng các giải pháp khoa học - kỹ thuật sản xuất và hệ thống canh tác
thích nghi; (ii) kết hợp với giải pháp công trình mang tính đa mục tiêu để giảm đầu
tư và quản lý linh hoạt; (iii) chuyển đổi mục đích sử dụng đất phù hợp, chuyển diện
tích đất lúa sang nuôi trồng thuỷ sản, giảm lúa vụ ba; và (iv) tăng cường thích ứng với
BĐKH dựa vào hệ sinh thái, vốn tự nhiên.
Thứ hai, các mục tiêu chính sách cần phải làm rõ vai trò, trách nhiệm của các
chủ thể và các bên liên quan. Đồng thời các dự án, nhiệm vụ giải pháp thực hiện
chính sách phải gắn với các nguồn lực tương ứng để thực hiện; phù hợp với năng
lực của các chủ thể tham gia và đặc trưng sinh thái - xã hội của địa phương. Phù hợp với nhu cầu của người dân, nhóm cộng đồng chịu tác động của BĐKH...
Thứ ba, quá trình thực hiện chính sách phải huy động được sự tham gia của các
23 Theo báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp (2017) trong giai đoạn 2011-2016, diện tích rừng ngập mặn vùng ĐBSCL đã bị suy giảm nghiêm trọng, diện tích rừng ngập mặn đã giảm gần 10%, từ 194.723ha năm 2011 xuống còn 179.384ha vào năm 2016 (tức là đã giảm khoảng 15.339ha). Nguyên nhân chủ yếu do vùng bãi bị sạt lở và việc giao rừng để nuôi trồng thủy, hải sản. 24 Báo cáo của Đại học Utrectch, Hà Lan (2017) cho biết sự sụt lún liên quan đến khai thác nước ngầm đã tăng dần trong các thập niên vừa qua. Trong 25 năm qua giai đoạn 1991-2016, TNB đã sụt lún trung bình 18cm do khai thác nước ngầm. Tốc độ sụt lúntrung bình hiện nay do khai thác nước ngầm là 1,1cm/năm, cónhững nơi sụt lún 2,5cm/năm, cao hơn 10 lần so với tốc độ NBD.
150
chủ thể khác nhau, cần phải phát huy vai trò, sự tham gia của khu vực tư nhân, cộng
đồng, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ. Có như vậy, họ mới thể hiện vai trò,
trách nhiệm của mình trong công tác thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH.
Thứ tư, vấn đề thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH phải được thực hiện
từng bước, đảm bảo tính đồng bộ, đồng hướng với tổng thể các chính sách liên quan
khác: Chiến lược quốc gia về BĐKH (2011); Chương trình mục tiêu ứng phó với
BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận
Paris về BĐKH; Nghị quyết số 120/NQ-CP về Phát triển bền vững vùng ĐBSCL
thích ứng với biến đổi khí hậu; và Quy hoạch tổng thể về PTBV vùng giai đoạn
2021-2030…
4.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách ứng phó với
biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ
Trên cơ sở các quan điểm đã nêu trên và kết quả phân tích SWOT trong thực
hiện chính sách ở vùng TNB (bảng 4.1). Để khắc phục được những bất cập nảy sinh
trong thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB, luận án đề xuất một số
giải pháp như sau:
Bảng 4.1. Kết quả phân tích SWOT trong thực hiện chính sách BĐKH
ở vùng TNB
CƠ HỘI (O)
THÁCH THỨC (T)
BÊN TRONG
- Nghị quyết 120 sẽ theo
- Cắt giảm đầu tư công trung
thuận
thiên,
tôn hướng trọng quy luật tự nhiên của
hạn đối với vùng TNB giai đoạn 2016-2020, ngân sách
đồng bằng. - Áp lực của hội nhập quốc
cho BĐKH giảm trong khi nhu cầu lớn.
BÊN NGOÀI
tế, buộc kinh tế của vùng TNB phải tái cơ cấu theo
- Quá nhiều chính sách BĐKH được ban hành, vùng TNB
hướng bền vững, ứng phó với BĐKH.
đang “bội thực” về thực hiện chính sách.
- Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ hỗ trợ
- Thách thức từ các yếu tố Thượng nguồn châu thổ.
vùng TNB trong việc ứng dụng công nghệ trong cảnh
- Phát triển nội tại của đồng bằng thiếu bền vững.
báo, dự báo sớm thiên tai, BĐKH.
- Độ trễ của chính sách BĐKH lớn.
- Thử nghiệm các mô hình thông minh: đô thị thông
- Tác động của BĐKH và thiên tai ngày càng lớn, quá khả
151
năng chống đỡ vật lý của vùng.
minh, nông nghiệp thông minh, làng xã thông minh,
NLTT.
ĐIỂM MẠNH (S)
KẾT HỢP: S-O
KẾT HỢP: S-T
- Có bộ máy và lực lượng cán bộ thực hiện chính sách
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách BĐKH.
- Định vị lại nhiệm vụ của khu vực công trong ứng phó với
từ TW- địa phương. - Tất cả hệ thống chính trị
- Kiện toàn lại tổ chức thực hiện chính sách ở TW
BĐKH. - Nâng cao năng lực tổ chức
cùng vào cuộc để ứng phó với BĐKH.
và địa phương vùng TNB. - Đa dạng hóa nguồn lực,
và cán bộ thực hiện chính sách để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
- Có sự hỗ trợ về ngân sách của Nhà nước.
đặc biệt là nguồn lực từ tư nhân cho khu vực
trong bối cảnh mới. - Chuyển sang thu phí thủy lợi,
BĐKH. - Thí điểm cơ chế thu phí,
thí điểm phương thức PPP trong xây dựng các hồ thủy lợi
và mô hình PPP trong BĐKH.
đa mục tiêu, đê sông, đê biển xung yếu ở một số địa phương.
ĐIỂM YẾU (W)
KẾT HỢP: W-O
KẾT HỢP: W-T
- Chất lượng của chính sách BĐKH chưa tốt.
- Đổi mới cơ chế tiền lương đối với cán bộ thực
- Đổi mới cơ chế xét chọn các dự án, nhiệm vụ ưu tiên thực
- Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách ở các địa phương
hiện chính sách BĐKH. - Đổi mới mô hình tổ chức
hiện các dự án liên kết vùng. - Xây dựng cơ chế điều phối
chính
vùng TNB còn kiêm nhiệm. - Chất lượng cán bộ thực
sách thực hiện BĐKH ở vùng TNB theo
thực hiện chính sách BĐKH. - Thu hút sự tham gia của khu
trách và
hiện chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.
hướng chuyên chuyên nghiệp.
vực tư nhân vào ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.
- Mức thu nhập và chế độ đãi ngộ của cán bộ còn thấp.
- Hình thành tổ chức điều phối vùng.
- Sự phối hợp của các chủ thể chưa được chặt chẽ.
- Hình thành tổ chuyên môn về BĐKH và PTBV ở
- Chia sẻ về các thông tin chính sách giữa các bộ,
vùng TNB. - Hình thành cơ chế tài
ngành và địa phương còn yếu.
chính linh hoạt bền vững cho ứng phó với BĐKH ở
- Sự tham gia của khu vực tư nhân, cộng đồng trong ứng phó với BĐKH còn hạn chế.
đồng bằng. - Thu hút vai trò của tư nhân vào ứng phó với BĐKH.
152
Nguồn: Tổng hợp của Luận án, 2020.
4.3.1. Giải pháp chung 4.3.1.1. Giải pháp nâng cao năng lực tổ chức bộ máy
a. Ủy ban Quốc gia về BĐKH
Như đã phân tích ở Chương 3, Văn phòng UBQG về BĐKH là cơ quan quản
lý liên bộ cao nhất về BĐKH, do đó về mặt lý thuyết, cơ quan này có quyền lực để điều phối các ngành và hài hoà các chiến lược về BĐKH [183]. Tuy nhiên, trong
thực tế hoạt động vai trò của Văn phòng Uỷ ban bị hạn chế (cho đến năm 2018, tổ
chức này mới chỉ tổ chức được chín cuộc họp chính thức kể từ khi thành lập năm 2012). Mặt khác, qua kết quả tham vấn của luận án với một số chuyên gia, thành
viên của Hội đồng tư vấn của UBQG về BĐKH lại cho rằng quyền triệu tập của Ủy
ban không được công nhận bởi một số bộ/ngành. Do vậy, hiện nay Văn phòng
UBQG về BĐKH là cơ đại diện mang tính biểu tượng tạo điều kiện cho thảo luận
và điều phối, nhưng không chủ động chỉ đạo được các bộ/ngành và địa phương
trong phân bổ nguồn lực cho BĐKH. Vì vậy, trong giai đoạn 2020-2025, cần phải
nâng cao hiệu quả trong công tác hoạt động chỉ đạo, điều hành của Văn phòng
UBQG về BĐKH.
- Đứng đầu Văn phòng UBQG về BĐKH là lãnh đạo Bộ TN&MT thì mới có
đủ quyền lực và thẩm quyền để triệu tập các cuộc họp có sự tham gia lãnh đạo của
bộ ngành là thành viên của UBQG về BĐKH.
- Nghiên cứu việc sát nhập Ban điều phối Chiến lược tăng trưởng xanh quốc
gia về Văn phòng UBQG về BĐKH, và đổi thành Văn phòng UBQG về BĐKH và
Tăng trưởng xanh, để thống nhất đầu mối thực hiện Chiến lược quốc gia về BĐKH
và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020 và những giai đoạn tiếp theo.
- Trên cơ sở đó xây dựng quy chế tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm và cơ chế
hoạt động của Văn phòng UBQG về BĐKH và tăng trưởng xanh.
- Tăng cường vai trò của UBQG về BĐKH trong phân bổ nguồn lực cho các
chương trình, nhiệm vụ, dự án về BĐKH ở các bộ/ngành và địa phương; xây dựng chế độ báo cáo định kỳ, thường xuyên, đột xuất về thực hiện nhiệm vụ.
b. Hình thành tổ chức điều phối vùng
25 Trước đây có Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ (BCĐ TNB) - tổ chức chỉ đạo điều phối vùng, được thành lập theo Quyết định số 56-QĐ/TW ngày 09/12/2002, tiếp theo là Quy định số 89-QĐ/TW ngày 03/10/2007 và Quy định số 96-QĐ/TW ngày 28/5/2012 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy,
153
- Nhằm thống nhất trong chỉ đạo, điều hành, giám sát thực thi chính sách ứng phó với BĐKH và PTBV, cần nghiên cứu thành lập Hội đồng điều phối vùng, để thay cho mô hình BCĐ TNB trước đây.25 Mô hình quản lý này sẽ có chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn, kinh phí để nắm vai trò ra quyết định quá trình phát triển của khu vực TNB [67].
+ Cơ cấu tổ chức: Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Vùng đồng bằng sông
Cửu Long là một Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách khối kinh tế tổng hợp; các
Phó Chủ tịch Hội đồng gồm: Bộ trưởng Bộ KH&ĐT, Bộ trưởng Bộ TN&MT và 01 Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố trong vùng ĐBSCL.
+ Thành viên Hội đồng: gồm 13 Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố trong vùng;
đại diện lãnh đạo các Bộ: KH&ĐT, TN&MT, NN&PTNT, GTVT, Tài chính, Công
Thương, Xây dựng, Y tế, GD&ĐT, Văn phòng Chính phủ.
+ Các cơ quan giúp việc của Hội đồng: văn phòng, tổ tư vấn, trong đó có tư
vấn về BĐKH và PTBV và nhóm công tác (được thành lập theo nhiệm vụ và tự giải
thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ).
+ Chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền chủ yếu sau:
(i) Phối hợp với các địa phương thực hiện Quy hoạch vùng ĐBSCL giai đoạn
2021-2030, tầm nhìn 2050; giám sát việc triển khai thực hiện quy hoạch theo đúng
quy định của Luật Quy hoạch.
(ii) Thông qua kế hoạch điều phối liên kết hàng năm; thống nhất kế hoạch liên
kết các địa phương trong vùng, xây dựng nội dung, quy mô, mức độ tính chất thực
hiện các liên kết, phương thức tổ chức thực hiện các liên kết, trong đó có liên kết
ứng phó với BĐKH.
(iii) Thông qua danh mục đầu tư các chương trình, dự án liên kết vùng và các
dự án mang tính liên kết vùng, trong đó có liên kết ứng phó với BĐKH; tổ chức
giám sát và kiểm tra thực hiện [11].
- Sau khi thành lập Hội đồng vùng, Hội đồng sẽ thành lập Tổ tư vấn về PTBV
và BĐKH vùng TNB: đây sẽ là nơi quy tụ các nhà khoa học, nhà quản lý, doanh
địa bàn hoạt động, quan hệ công tác của các ban chỉ đạo: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Theo đó, BCĐ Tây Nam Bộ là cơ quan trực thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ: Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương; nghiên cứu, tham mưu, đề xuất cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội….liên kết vùng, ứng phó biến đổi khí hậu ở vùng TNB. Từ khi thành lập năm 2002, BCĐ TNB đã triển khai các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ; đặc biệt là phát triển kinh tế vùng, đầu mối đề xuất nhiều cơ chế, chính sách phát triển vùng, ứng phó BĐKH, NBD. Tuy nhiên, hoạt động thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề đối với mô hình tổ chức chỉ đạo điều phối vùng này, đặc biệt là cần có cơ chế pháp lí về ứng phó với BĐKH ở cấp vùng hiệu quả, thiết thực và hình thành tổ chức có thực quyền điều phối thực hiện. Tại Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 6 (tháng 10/2017), Trung ương đã quyết định kết thúc hoạt động của ba Ban Chỉ đạo: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và chính thức kết thúc hoạt động vào 31/3/2018.
154
nhân… thuộc các lĩnh vực liên ngành khác nhau và am hiểu về TNB. Đồng thời, tổ tư
vấn sẽ là cơ quan tham mưu tư vấn cho Hội đồng vùng về các chiến lược phát triển
của đồng bằng, các dự án BĐKH có quy mô lớn, mang tính tổng hợp, liên vùng [82].
c. Hình thành tổ chức bộ máy chuyên trách về biến đổi khí hậu
Nghiên cứu thành lập Văn phòng điều phối Chương trình BĐKH, Tăng trưởng
xanh và Giảm nhẹ rủi ro thiên tai cấp tỉnh/thành ở vùng TNB.
- Văn phòng là cơ quan thường trực và giúp việc cho Ban chỉ đạo cấp tỉnh thực hiện Chương trình BĐKH và tăng trưởng xanh; Chương trình giảm nhẹ rủi ro thiên tai trên địa bàn các tỉnh/thành vùng TNB.
- Văn phòng điều phối Chương trình BĐKH, Tăng trưởng xanh và Giảm nhẹ
rủi ro thiên tai cấp tỉnh/thành có con dấu riêng; được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà
nước và Ngân hàng theo quy định của pháp luật.
- Văn phòng Điều phối Chương trình BĐKH, Tăng trưởng xanh và Giảm nhẹ
rủi ro thiên tai thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điểm b, Khoản 2,
Điều 1 Quyết định 1996/QĐ-TTg ngày 04/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ, cụ
thể như sau:
i) Xây dựng kế hoạch, tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chương trình
BĐKH và tăng trưởng xanh; Chương trình giảm nhẹ thiên tai cấp tỉnh/thành.
ii) Chủ trì, phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở NN&PTN
tham mưu xây dựng kế hoạch vốn, phân bổ và giám sát tình hình thực hiện vốn
ngân sách và các nguồn vốn huy động khác để thực hiện các nhiệm vụ, dự án ứng
phó với BĐKH và giảm nhẹ thiên tai trên địa bàn tỉnh/thành.
iii) Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách và cơ chế phối hợp hoạt động liên
ngành để thực hiện có hiệu quả Chương trình BĐKH và tăng trưởng xanh, giảm nhẹ
thiên tai trên địa bàn tỉnh/thành.
iv) Theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện Chương trình BĐKH và tăng
trưởng xanh, giảm nhẹ thiên tai trên địa bàn tỉnh/thành; kiến nghị những vấn đề mới phát sinh trong từng giai đoạn cụ thể, đề xuất giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn để
thực hiện có hiệu quả chương trình.
v) Chuẩn bị nội dung, chương trình cho các cuộc họp, hội nghị, hội thảo của Ban Chỉ đạo tỉnh/thành và báo cáo theo yêu cầu của Trưởng ban Chỉ đạo tỉnh/thành.
vi) Tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền về Chương trình Chương trình
BĐKH và tăng trưởng xanh, giảm nhẹ thiên tai; tổ chức đào tạo, tập huấn, bồi
155
dưỡng công tác ứng phó với BĐKH và giảm nhẹ rủi ro thiên tai cho đội ngũ cán bộ các cấp.
vii) Xây dựng phương án xã hội hóa huy động các nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng có trách nhiệm chung tai ứng phó với BĐKH, giảm nhẹ rủi ro thiên tai.
- Tổ chức bộ máy của Văn phòng Điều phối Chương trình BĐKH, tăng
trưởng xanh và Giảm nhẹ thiên tai tỉnh/thành, có Chánh Văn phòng, các Phó
Chánh Văn phòng.
i) Chánh Văn phòng Điều phối Chương trình do Giám đốc Sở TN&MT kiêm nhiệm; chịu trách nhiệm trước Trưởng ban Chỉ đạo tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh và
trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Văn phòng.
ii) Phó Chánh Văn phòng Điều phối Chương trình tỉnh là người giúp Chánh Văn phòng, phụ trách một hoặc một số lĩnh vực công tác do Chánh Văn phòng phân
công, chịu trách nhiệm trước Chánh Văn phòng và trước pháp luật về nhiệm vụ
được phân công. Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn phòng Điều phối Chương trình
do Chủ tịch UBND tỉnh quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm theo quy định của Đảng
và Nhà nước về công tác quản lý cán bộ.
iii) Tổ chức của Văn phòng điều phối Chương trình có một số phòng chuyên
môn nghiệp vụ.
iv) Biên chế của Văn phòng Điều phối Chương trình tỉnh/thành là biên chế
công chức, viên chức hành chính được điều động từ các sở: Sở TN&MT, Sở
NN&PTNT, Sở KH&ĐT.
- Kinh phí hoạt động của Văn phòng điều phối Chương trình do ngân sách
tỉnh/thành bố trí hàng năm. 4.3.1.2. Hoàn thiện khâu xây dựng và ban hành chính sách
Hiện nay, chính sách ứng phó với BĐKH có nhiều nội dung còn quy định
chung chung, cần phải tham chiếu vào các quy định trong nhiều chính sách khác
hoặc phải ban hành quyết định hướng dẫn mới áp dụng được ở các địa phương.
Điều này gây khó khăn không chỉ cho cơ quan tổ chức triển khai chính sách, mà
còn cho đối tượng thụ hưởng chính sách, đặc biệt là các đơn vị, cá nhân muốn tham
gia vào hoạt động ứng phó với BĐKH. Vì thế, kiến nghị với Bộ TN&MT nghiên
cứu sửa đổi Quyết định triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu ứng phó với
BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020. Trong đó, cách thức xây dựng
Quyết định nên chuyển từ quy định khung sang quy định cụ thể và chi tiết cho từng
nội dung cụ thể của Chương trình. Nếu xây dựng chi tiết đến mức không cần phải
tham chiếu văn bản chính sách khác, hoặc không phải ban hành các quy định hướng
156
dẫn nữa thì càng tốt, ban hành là thực hiện được ngay.
Trong quá trình hoạch định các chính sách BĐKH, kiến nghị với Bộ TN&MT trong quá trình hoạch định chính sách cần phối hợp với Bộ NN&PTNT, Bộ
KH&ĐT, Bộ Tài chính cũng như các Bộ liên quan, cần tăng cường tham vấn nhiều
hơn nữa ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, các địa phương, bên thụ hưởng
chính sách, đặc biệt là nhóm đối tượng chịu sự tác động của BĐKH. Nếu thực hiện tốt các hoạt động tham vấn trong quá trình hoạch định sẽ là mấu chốt làm cho chính
sách khi ban hành sẽ sát với thực tiễn, đi vào cuộc sống, tạo nên tính ổn định và
hiệu quả lâu dài của chính sách BĐKH.
4.3.1.3. Nguồn kinh phí cho ứng phó với biến đổi khí hậu
Chính phủ cần ưu tiên ngân sách cho ứng phó với BĐKH như dòng ngân sách
của Chương trình Nông thôn mới đưa quy định ngân sách chi cho BĐKH vào Luật
Đầu tư công, để Trung ương và địa phương chủ động được nguồn ngân sách cho
BĐKH. Đồng thời, cần thể chế hoá quy định tỷ lệ chi cho BĐKH trong dòng chi
ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương.
4.3.1.4. Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ
Trên cơ sở quy hoạch quốc gia, sẽ rà soát, điều chỉnh, xây dựng mới các quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, các chương trình, dự án mang tính tổng thể, liên ngành, liên vùng.26Với quan điểm chủ đạo là quy hoạch vùng TNB sẽ được lập theo nguyên tắc tôn trọng sự vận hành tự nhiên của hệ sinh thái và chủ động thích ứng với BĐKH; thay thế cho quan điểm ứng phó, chống chọi, can thiệp sâu vào hệ thống điều hòa tự nhiên, làm hủy hoại môi trường và hệ sinh thái. Do vậy, quy hoạch mới sẽ dựa vào các trụ cột chính như sau:
- Lập quy hoạch tích hợp không chỉ xem xét các tiềm năng, nhu cầu và vấn đề
của một ngành, mà xem xét tất cả các ngành và các nhóm lợi ích liên quan.
- Phương pháp lập quy hoạch tích hợp cho phép kết nối thống nhất giữa định
hướng phát triển KT-XH, BVMT và thích ứng BĐKH với phương án tổ chức không
gian phát triển.
- Sự tích hợp không chỉ về chiều ngang mà cả theo chiều dọc dựa trên sự
tham gia và đồng thuận của các bên có liên quan đến quy hoạch. Do đó, lập quy hoạch tích hợp giúp giải quyết các vấn đề về cạnh tranh hoặc xung đột lợi ích. Đối với cấp vùng, quy hoạch vùng tích hợp giúp giải quyết các vấn đề có tính liên tỉnh,
26 Cần điều chỉnh, hoạch xây dựng mới các quy hoạch sau đây phù hợp với quy hoạch chung: quy hoạch sử dụng đất đai; quy hoạch tổng thể KT-XH vùng; quy hoạch du lịch, giao thông, xây dựng, năng lượng phù hợp với quy hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên nước; quy hoạch nông nghiệp, quy hoạch thủy sản, quy hoạch thủy lợi; quy hoạch lâm nghiệp và rừng ngập mặn vùng TNB…
157
liên ngành, liên vùng và các vấn đề chung của toàn vùng.
- Lập quy hoạch tích hợp là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để thống nhất và hài hòa 3 trụ cột chính của PTBV là: kinh tế - xã hội - môi trường;
đảm bảo sự kết nối và điều phối về lợi ích và cơ chế chính sách giữa các ngành,
lĩnh vực [10].
4.3.2. Giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu 4.3.2.1. Hoàn thiện cơ chế thực hiện chính sách thích ứng BĐKH
- Xây dựng cơ chế phối hợp, giám sát nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết
12/NQ-CP. Trước mắt, cần xây dựng ban hành các tiêu chí kiểm tra, giám sát, đánh
giá hiệu quả thực hiện của các dự án thuộc Chương trình hành động tổng thể thực
hiện Nghị quyết 120/NQ-CP.
- Xây dựng các tiêu chí cứng để lựa chọn các dự án thuộc Chương trình ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020; Chương trình thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP, như sau: (i) dự án thật sự cấp bách; (ii) dự án mang tính liên tỉnh, liên vùng; (iii) ưu tiên những giải pháp bán công trình, phi công trình; (iv) trong trường hợp xây dựng những giải pháp công trình thuỷ lợi lớn (đê biển, kè sông…) có quy lớn, liên tỉnh thì phải công bố công khai dự án và tham vấn ý kiến của cộng đồng, chuyên gia và nhà khoa học trong giai đoạn lập dự án đầu tư.
- Chính phủ cần giao Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT phối hợp với Bộ Tài chính, xây dựng quy chế tài chính giải ngân vốn của dự án thuộc Chương trình BĐKH và tăng trưởng xanh, Chương trình thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP ở TNB để các địa phương chủ động và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn cho các dự án cấp bách thực hiện. Nếu theo quy định thủ tục giải ngân vốn theo Luật Đầu tư công hiện nay thì tiến độ xây dựng dự án, cấp vốn và quy trình giải ngân tại vùng rất chậm và phức tạp.
- Rà soát, đánh giá cơ chế thí điểm về điều phối vùng theo Quyết định 593/QĐ-TTg ngày 4/6/2016, trình Thủ tướng Chính phủ các giải pháp hoàn thiện cơ chế điều phối phát triển vùng TNB.
- Các địa phương được giao chủ trì thực hiện Đề án liên kết PTBV tiểu vùng, sớm hoàn thiện và gửi Bộ KH&ĐT thẩm định và trình Chính phủ phê duyệt 4 đề án liên kết PTBV các tiểu vùng ST-XH: tiểu vùng DHPĐ, tiểu vùng ĐTM, tiểu vùng TGLX, tiểu vùng BĐCM. 4.3.2.2. Hoàn thiện phương thức huy động các nguồn lực cho thích ứng với biến đổi khí hậu
a. Xây dựng cơ chế huy động nguồn lực tài chính linh hoạt PTBV và ứng phó
với BĐKH
- Xây dựng cơ chế, chính sách huy động, quản lý sử dụng hiệu quả các nguồn
158
lực để triển khai các chương trình, dự án PTBV TNB thích ứng với BĐKH.
- Cần phải nghiên cứu thành lập Quỹ Phát triển bền vững vùng ĐBSCL, có cơ chế quản lý hoạt động rõ ràng, để huy động những nguồn vốn cấp bách, dành riêng cho các dự án ứng phó với BĐKH và PTBV.
(i) Nguyên tắc tài chính: đóng góp tự nguyện; đóng góp theo lợi ích của bên tham gia; đóng góp theo pháp luật về ngân sách; có hỗ trợ và khuyến khích từ ngân sách Trung ương.
(ii) Hình thức tổ chức: Trên cơ sở thoả thuận đóp góp, các bên chuyển tiền vào tài
khoản chung do Ủy ban điều phối liên kết vùng quản lý theo pháp luật ngân sách.
(iii) Nguồn hình thành: Huy động vốn tư nhân; các tỉnh đóng góp; Trung ương hỗ trợ; tổ chức quốc tế và NGO; huy động vốn thông qua đổi mới, nghiên cứu, nhằm tạo chuyển biến về sinh kế, thay đổi các tập quán sử dụng tiết kiệm nguồn nước, có lợi cho môi trường, tăng cường quản lý khu vực ven biển nhờ công nghệ mới [141].
- Rà soát, điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn; các dự án thuộc chương trình MTQG về tăng trưởng xanh và BĐKH, và các dự án sử dụng ODA liên quan đến BĐKH ở vùng TNB giai đoạn 2016-2020. Trong đó, cần chú trọng tập trung rà soát lại để lựa chọn các dự án ưu tiên, cấp bách thực hiện, trên cơ sở: tổng hợp, liên vùng, liên tỉnh, liên ngành [146].
b. Cơ chế, chính sách huy động nguồn lực KH&CN hỗ trợ thích với BĐKH Cần hoàn thiện việc xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình, nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN trọng điểm hỗ trợ ứng phó với BĐKH ở vùng TNB, trong đó tập trung vào các lĩnh vực sau:
- Tiếp tục triển khai các chương trình, nhiệm vụ KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước về phòng chống thiên tai; BVMT và ứng phó với BĐKH; KHCN phục vụ PTBV vùng TNB giai đoạn 2020-2025 [12].
- Đẩy mạnh nghiên cứu chọn tạo, phát triển các giống cây trồng, vật nuôi, và
giống thủy sản có tiềm năng, lợi thế thích ứng với BĐKH ở vùng TNB.
- Ưu tiên nguồn lực cho các nghiên cứu có tính ứng dụng cao trong các ngành công nghệ mũi nhọn phục vụ các ngành hàng chủ lực trong vùng TNB như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, vật liệu mới, để chọn, tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình nuôi trồng, bảo quản, chế biến nông sản, tạo đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, khả năng chống chịu với BĐKH,... [12].
- Nghiên cứu kỹ thuật canh tác hữu cơ, vững bền, thân thiện với môi trường
trong các hệ thống canh tác luận canh, xen canh, sinh thái.
159
- Tăng cường đầu tư phát triển năng lực của Viện Lúa ĐBSCL, Viện Cây ăn quả, Viện Thủy sản tại vùng TNB. Khuyến khích phát triển các Viện theo hướng liên doanh với doanh nghiệp, nông dân [17].
c. Hoàn thiện cơ chế huy động vốn cho hạ tầng thích ứng với BĐKH Phải đưa ra tiêu chí quan trọng khi xây dựng các dự án đầu tư và phát triển hạ tầng tại vùng TNB là phải được điều phối, thống nhất, đảm bảo tính liên tỉnh, liên vùng vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình hợp lý. Trước mắt ưu tiên các công trình cấp bách, các công trình có tính chất động lực, thúc đẩy phát triển KT-XH toàn vùng.
- Thực hiện chính sách hiện đại hóa thủy lợi phục vụ chuyển đổi, phát triển nông nghiệp bền vững tại vùng sinh thái theo hướng đa dạng hóa nguồn lực và phương thức thực hiện theo hình thức PPP tại vùng TNB.
- Đầu tư, xây dựng hệ thống thủy lợi phòng chống khô hạn, điều hòa khí hậu,
phát triển sinh kế tại các tỉnh TNB.
- Đầu tư xây dựng mở rộng hệ thống cấp nước; các hồ chứa nước ngọt nhằm thích ứng với điều kiện xâm nhập mặn vùng TNB, các hồ chức tạo nguồn nước ngọt đa mục tiêu tại các địa bàn xung yếu.
- Đầu tư bảo vệ bờ biển, cũng cố nâng cấp hệ thống đê biển, phòng chống xói lở bờ biển; tập trung xử lý ngay những đoán xói lở, sạt lở bờ sông, bờ biển nghiêm trọng. - Bộ NN&PTNT và các tỉnh ven biển ở TNB cần sớm đưa ra các chính sách ưu tiên thực hiện công nghệ hạ tầng mềm, bán công trình - đê trụ rỗng để ngăn sạt lở ven biển. Mô hình công nghệ đê trụ rỗng tiêu giảm sóng được các nhà khoa học Viện Thủy công, nghiên cứu và thử nghiệm thành công ở tỉnh Cà Mau. (Xem phụ lục 1)
- Ngoài ra cần tập trung đầu tư nguồn lực cho trồng cây, trồng rừng, nhất là rừng ngập mặn ven biển để giữ đất, bảo vệ đê điều; nghiên cứu xây dựng các công trình phát triển kinh tế xã hội vùng ven biển, kết hợp với việc lấn biển, phòng chống sạt lở. 4.3.2.3. Chuyển đổi các mô hình sinh kế theo hướng bền vững thích ứng biến đổi
khí hậu phù hợp với từng tiểu vùng
a. Mô hình vùng chuyên canh thủy, hải sản: ở tiểu vùng BĐCM, tiểu vùng TGLX
- Đối với các vùng rừng ngập mặn, bãi bồi, mặt biển, chính quyền địa phương giao khoán và giao quyền cho cộng đồng đồng để phát triển các mô hình tôm, cua - rừng sinh thái; tôm - lúa hữu cơ. Đồng thời hỗ trợ kết nối với doanh nghiệp theo hình thức hợp đồng với nông dân, hình thành chuỗi giá trị.
160
- Liên kết các doanh nghiệp với nhau theo cơ chế hoạt động minh bạch, cạnh tranh công bằng, hành động thống nhất để có đủ năng lực và vị thế để đàm phán và đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật từ nước nhập khẩu, đặc biệt trong trường hợp cá tra, tôm sinh thái [17]. (xem phụ lục 4)
b. Nghiên cứu xây dựng mô hình “Làng thông minh” ở tiểu vùng ĐTM, DHPĐ
Nghiên cứu xây dựng mô hình “Làng thông minh” trên cơ sở phát triển từ
“Hội quán nông dân” ở tỉnh Đồng Tháp, phù hợp với xu hướng phát triển của thế
giới và điều kiện KTY-XH trong nước, vùng, địa phương. Phát triển một số ứng
dụng điển hình của Làng thông minh dựa trên nền tảng IoT, trí tuệ nhân tạo và
NLTT phục vụ phát triển KT-XH, văn hóa địa phương. Từ đó, ứng dụng thử
nghiệm mô hình Làng thông minh cho một địa bàn cụ thể của tỉnh Đồng Tháp, vùng
ĐTM, và DHPĐ.
Trước mắt cần tập trung nghiên cứu:
- Bộ tiêu chí và cấu trúc mô hình Làng thông minh phù hợp với xu hướng phát
triển của thế giới đặc trưng sinh thái - xã hội của địa phương.
- Thiết kế cổng thông tin điện tử về làng thông minh: Platform phục vụ các
yêu cầu giao tiếp cần thiết giữa nông dân, chính quyền và doanh nghiệp. Kết nối
internet, hệ tri thức Việt số hóa, chính quyền điện tử và các cơ sở dữ liệu khác phục
vụ sản xuất, du lịch của địa phương và quốc gia. Giám sát các thông tin chất lượng
môi trường, năng lượng, an ninh của làng. Kết nối từ điện thoại thông minh, máy
tính trung tâm, cây thông tin Hội quán.
- Cây thông tin Làng thông minh: Bộ quy chế hoạt động của cây thông tin
Làng thông minh. Hệ thống năng lượng mặt trời cung cấp cho Làng thông minh. Hệ
thống wifi trong hội quán, kết nối internet. Hệ thống chiếu sáng đèn LED cảnh
quan; Màn hình cho phép truy cập Cổng thông tin điện tử của Làng.
- Hệ thống lưu trữ, phân tích dữ liệu trung tâm: máy chủ và màn hình giám sát.
- Hệ thống chiếu sáng công cộng thông minh: Sử dụng năng lượng hybrid;
Chiếu sáng đèn LED tùy biến theo cường độ sáng tự nhiên và cảm biến.
- Mô hình hệ thống quan trắc môi trường, quan trắc khí hậu: Giám sát các
thông số cơ bản về chất lượng môi trường không khí, đất, nước thông qua mạng
cảm biến không dây. Kết nổi với công thông tin và lưu trữ dữ liệu tại máy chủ, cảnh
báo khi vượt ngưỡng cho phép.
c. Mô hình vùng chuyên canh gạo lúa gạo dựa trên liên kết chuỗi giá trị nông
nghiệp bền vững: tiểu vùng ĐTM, tiểu vùng TGLX
- Xây dựng chương trình hỗ trợ nông dân sản xuất giỏi tích tụ đất đai: hỗ trợ
tín dụng dài hạn để mua, thuê đất; miễn hoặc giảm phí chuyển nhượng đất đai giữa
các hộ nông dân trong vùng chuyên canh đã được quy hoạch, đơn giản hóa thủ tục
161
đối với chuyển nhượng đất đai giữa các hộ nông dân trong vùng chuyên canh.
- Tổ chức nông dân liên kết sản xuất theo mô hình HTX kiểu mới và liên
hiệp HTX.
- Liên kết hộ nông dân quy mô lớn/HTX kiểu mới với các doanh nghiệp đầu
vào và đầu ra lớn, có thể phát triển các mô hình liên doanh với các doanh nghiệp
xuất khẩu ở các thị trường lớn để gắn chặt với thị trường [17]. (xem phụ lục 5)
4.3.2.4. Xây dựng trung tâm thông tin, dữ liệu liên ngành hỗ trợ thích biến đổi khí hậu
Trong đó, tập trung vào những vấn đề sau đây:
- Rà soát và cập nhật số liệu phục vụ công tác quy hoạch không gian lãnh thổ,
chuyển đổi cơ cấu kinh tế và quy hoạch tổng thể PTBV thích ứng với BĐKH vùng
ĐBSCL. Trong đó, tập trung rà soát và cập nhật dữ liệu về nông nghiệp, thủy lợi,
thủy sản, rừng, phòng chống thiên tai; số liệu về KT-XH; công nghiệp; GTVT; xây
dựng; văn hóa, dân tộc, tôn giáo…
- Nâng cấp và hiện đại hóa hệ thống quan trắc, giám sát, cảnh báo và dự báo
về TN&MT. Tập trung vào các vấn đề sau đây: (i) nâng cấp và hiện đại hóa hệ
thống quan trắc, giám sát, cảnh báo và dự báo khí tượng thủy văn; (ii) nâng cấp và
hiện đại hóa hệ thống quan trắc, giám sát, cảnh báo và dự báo môi trường, bao gồm:
môi trường, biển đảo, tài nguyên nước, sụt lún, xói lở, bồi đắp vùng đồng bằng.
- Xây dựng hệ thống giám sát nguồn nước cảnh báo, dự báo hạn hán và xâm
nhập mặn vùng ĐBSCL; Xây dựng mạng lưới giám sát BĐKH, NBD cho vùng
ĐBSCL.
- Xây dựng, hoàn thiện, tích hợp hệ thống cơ sở dữ liệu liên ngành về ĐBSCL
phục vụ PTBV và thích ứng với BĐKH; đồng thời thành lập Trung tâm Dữ liệu
vùng ĐBSCL. Kết nối với cơ sở dữ liệu của Uỷ hội sông Mê Kông quốc tế; khai
thác, sử dụng có hiệu quả phục vụ đa mục tiêu, chia sẻ và tổ chức công bố cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân liên quan.
- Đặc biệt, những thông tin này cần được tích hợp vào trong quá trình quy
hoạch, trong đó, chú trọng vào phát triển không gian, lồng ghép, liên địa phương.
Đồng thời, cần áp dụng cách tiếp cận dựa trên bằng chứng trong thiết kế, lựa chọn
địa điểm, quy mô ưu tiên đầu tư, để thông tin hiệu quả. [146].
4.3.2.5. Giải pháp tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân trong việc thực hiện chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu
162
- Cần mạnh dạn xây dựng cơ chế thí điểm mô hình “dịch vụ thủy lợi” ở một số vùng chuyên canh lúa và thủy sản có quy mô lớn phục vụ xuất khẩu tại một số tỉnh TNB, bởi nó: (i) thể hiện trách nhiệm sử dụng nước ngọt của người dân và
doanh nghiệp; (ii) để xây dựng duy tu, bảo dưỡng, vận hành hệ thống thủy lợi nội đồng ở TNB; (iii) thu hút sự đầu tư của tư nhân vào xây dựng các hồ thủy lợi, hồ chứa nước đa mục tiêu ở một số khu vực xung yếu khi mà nguồn lực của Nhà nước không đủ để đầu tư [115].
- Xây dựng cơ chế để thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân vào chương
trình hỗ trợ hiện đại hóa trang thiết bị, dịch vụ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp. Tăng cường phối hợp giữa các định chế tài chính và doanh nghiệp để phát triển
mạnh mẽ các công cụ cho thuê tài chính cho nông dân.
- Ở các vùng tập trung sản xuất có quy mô lớn, các địa phương cần lựa chọn danh mục các công trình hồ chứa thuỷ lợi quy lớn, hồ chứa đa mục tiêu, tuyến đê biển, đê
sông xung yếu, để thí điểm mô hình đầu tư theo phương thức PPP [115, tr.3-16].
4.3.3. Giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách giảm nhẹ biến đổi
khí hậu 4.3.3.1. Giải pháp tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân tham gia giảm
nhẹ BĐKH
Cơ chế huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào giảm nhẹ BĐKH.
Chính phủ cần xây dựng chế tài nhằm thúc đẩy doanh nghiệp thay đổi phương thức
hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng nông nghiệp thông minh, đồng thời cắt
giảm lượng KNK phát thải ra ngoài môi trường [260]. Theo đó, những chế tài này
áp dụng đối với những doanh nghiệp không tuân thủ việc đảm bảo mức phát thải
KNK dưới một tiêu chuẩn nhất định; yêu cầu doanh nghiệp vi phạm phải áp dụng
các kỹ thuật thông minh về BĐKH trong một lộ trình thời gian xác định, bị tạm
dừng các hoạt động sản xuất kinh doanh gây hại đến môi trường, và có một cơ chế
xử phạt cho các hành vi vi phạm. Để thúc đẩy điều đó, cần tạo ra một hành lang
pháp lý và cơ chế khích lệ tốt hơn để thu hút các dự án đầu tư của khu vực tư nhân.
Đây sẽ là nguồn động viên cho người nông dân, các doanh nghiệp và các bên liên
quan khác tham gia triển khai kế hoạch hoạt động cắt giảm lượng KNK phát thải ra môi trường. Một khi hành lang pháp lý được cải thiện và xây dựng chi tiết hơn, đây
sẽ là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu, phát triển và đầu tư nhằm ứng dụng các công nghệ và kỹ thuật phù hợp được đề xuất [134]. 4.3.3.2. Giải pháp giảm phát thải trong ngành trồng trọt
- Vùng TNB là vùng chuyên canh lúa lớn nhất cả nước, sản xuất lúa nước
chiếm tỷ trọng phát thải KNK lớn nhất trong ngành nông nghiệp, để giảm thiểu phát
thải KNK, trong giai đoạn 2019-2025, vùng TNB cần giảm diện tích lúa, chuyển sang
163
nuôi trồng thủy sản và cây ăn trái; giảm diện tích lúa vụ ba ở một số địa phương.
- Nhân rộng nhiều mô hình canh tác tiên tiến đang được thử nghiệm như, mô hình canh tác lúa theo quy trình “1 phải - 6 giảm” (1P-6G)27, do Viện Nghiên cứu
Phát triển ĐBSCL xây dựng mô hình từ năm 2010 và được thử nghiệm thí điểm ở
một số địa phương từ năm 2010 (An Giang, Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên
Giang). Mô hình đã góp phần nâng cao chất lượng lúa gạo, tăng giá trị, tiết kiệm
nguồn nước, giảm phát thải KNK và PTBV [95].
4.3.3.3. Giải pháp thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo nhằm giải phát thải KNK
Về dài hạn cần phải thiết kế các chính sách góp phần giảm nhẹ tác động của
BĐKH, bằng cách phát triển các dự án NLTT thay thế cho năng lượng hóa thạch truyền thống, góp phần giảm phát thải KNK, giảm nhẹ tác động BĐKH28 [26]. Để
đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia Quy hoạch điện VII điều chỉnh đã phải tăng
mạnh công suất nhiệt điện than từ 33% năm 2015 lên 43% năm 2030 (từ 12,9GW
lên 55,3GW). Trong vòng 15 năm tới nhiệt điện than vẫn rất quan trọng, trong
nguồn cung điện năng cho nhu cầu điện để phát triển KT-XH. Việc tập trung phát
triển điện than trong quy hoạch này sẽ đưa Việt Nam nói riêng và TNB nói chung
vào tình thế bất lợi trong bối cảnh áp lực giảm phát thải KNK của toàn cầu tăng lên,
đặc biệt là đối với ngành năng lượng [54]. Mặt khác, ước tính năng lượng Mặt trời
và năng lượng gió của khu vực miền Nam là 3.9279MW (chiếm khoảng 47,2%)
tổng tiềm năng của cả nước, như vậy tiềm năng NLTT của miền Nam gấp 3 lần
miền Bắc [177]. Do đó, để phát triển NLTT ở vùng TNB thì cần có những giải pháp
đột phá như sau:
- Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra những cơ hội để chuyển
đổi xanh trong ngành năng lượng ở vùng TNB. Cùng với những đột phá trong lĩnh
vực NLTT, cơ cấu kinh tế của vùng TNB có thể sẽ có những thay đổi lớn. Những
tỉnh nghèo, vùng nghèo ở đồng bằng Châu thổ không có lợi thế về sản xuất nông
nghiệp hay công nghiệp truyền thống mà chỉ có nắng, gió thì đang đứng trước những cơ hội lớn để rút gọn khoảng cách với các tỉnh phát triển. Nếu đi đúng hướng
164
và bắt đúng nhịp để đẩy mạnh việc phát triển năng lượng gió, Mặt trời, để giúp các địa phương này có thể giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền, địa phương, tỉnh… [114]. 27 “1 phải” là phải sử dụng hạt giống chất lượng cao được cơ quan có thẩm quyền chứng nhận, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. “6 giảm” là (i) giảm lượng hạt giống, (ii) giảm lượng phân đạm, (iii) giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, (iv) giảm lượng nước tưới, (v) giảm thất thoát sau thu hoạch, (vi) giảm phát thải khí nhà kính. 28 Theo Bộ TN&MT (2018) thì ước lượng phát thải KNK trong ngành năng lượng sẽ tăng lên 320,5 triệu tấn CO2 td vào năm 2020 (chiếm 63,4% tổng lượng phát thải KNK), năm 2030 tăng lên 643,2 triệu tấn CO 2 td (chiếm 72,4% tổng lượng phát thải KNK).
- Sử dụng năng lượng TKNL&HQ cần phải được lựa chọn là phương án ưu tiên đầu tiên trước khi tính đến nhu cầu phát triển nguồn điện mới, bởi đây sẽ là
phương án tiết kiệm nhất và phù hợp với điều kiện của TNB hiện nay. Sử dụng
TKNL&HQ cần được quy định thực hiện bắt buộc, thay vì chỉ dừng lại ở khuyến
khích như hiện tại đồng thời Chính phủ cần đưa ra các chính sách ưu đãi để thúc đẩy các giải pháp sử dụng TKNL&HQ.
- Cần phải xây dựng quy hoạch NLTT giai đoan 2021-2030 cho vùng TNB.
- Cần phát triển mạnh điện Mặt trời trên mái nhà ở các trang trại, gia trại, doanh
nghiệp… vì nó có thể làm giảm nhu cầu phụ tải đỉnh, nhất là ở các tỉnh TNB [170].
- Cần khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa đầu tư vào năng lượng tái tạo như năng
lượng gió, năng lượng Mặt trời ở TNB bằng cách cần tiếp tục phát triển giá bán
điện năng sản xuất ra từ nguồn năng lượng tái tạo hấp dẫn đối với năng lượng gió,
năng lượng Mặt trời và sinh khối hoặc các cơ chế tài chính khác (chẳng hạn như
đấu giá). Những biện pháp này tạo ra sự khuyến khích đối với các doanh nghiệp tư
nhân đầu tư vào năng lượng tái tạo tại vùng TNB.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4
Từ kết quả phân tích dự báo bối cảnh mới quốc tế, khu vực và tại TNB có thể
khái quát lại thành những vấn đề sau: ảnh hưởng của Cách mạng Công nghiệp 4.0;
xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng, gia nhập các Hiệp định thương mại tự do thế
hệ mới; tác động của BĐKH toàn cầu; tính bất định của những vấn đề xuất phát từ
khu vực Thượng nguồn Mê Kông; và sự phát triển thiếu bền vững từ bản thân nội
tại của đồng bằng; đặc biệt, là xu hướng liên kết vùng (nội vùng và liên vùng) đang
nổi lên trong những năm gần đây. Tất cả những vấn đề nêu trên đều mang lại những
cơ hội, nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức cho TNB trong trung và dài
hạn. Những chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng trong giai đoạn tới cần phải đặt
trong bối cảnh mới nói trên.
Đồng thời, hoàn thiện việc thực hiện chính sách BĐKH không chỉ nằm ở nội
dung các bước của quy trình thực hiện chính sách mà còn cả ở các khâu khác của
chu trình chính sách BĐKH, bởi nhiều chính sách đã bộc lộ những bất cập ở khâu
hoạch định và xây dựng chính sách. Cũng dựa trên cơ sở đó, các giải pháp về nâng
cao hiệu quả thực thi chính sách BĐKH đã được nghiên cứu đề xuất vừa đảm bảo
165
tính tổng thể, dài hạn và cụ thể, vi mô để giải quyết những vấn đề cấp bách trước
mắt. Đồng thời, giải pháp ngắn hạn phải đảm bảo là yếu tố tiền đề để thực thi những
giải pháp dài hạn.
Mặt khác, dựa trên thực trạng đã phân tích ở Chương 3 và các quan điểm chủ
đạo luận án đã đưa ra các nhóm giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính
sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB trong giai đoạn tới như sau: giải pháp chung;
giải pháp nhằm hoàn thiện thực hiện chính sách thích ứng với BĐKH; giải pháp
166
hoàn thiện việc thực hiện chính sách giảm nhẹ BĐKH.
KẾT LUẬN
Với những nội dung đã phân tích ở bốn chương nêu trên, luận án đưa ra một
số kết luận quan trọng sau đây:
1. Luận án đã hệ thống hóa được khái niệm về thực hiện chính sách ứng phó
với BĐKH. Xây dựng được khung khổ lý luận về thực hiện chính sách ứng phó với
BĐKH. Trong đó xây dựng được quy trình cơ bản của thực hiện chính sách ứng phó
với BĐKH bao gồm: (i) xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về
BĐKH; (ii) về phổ biến, tuyên truyền chính sách về biến đổi hậu; (iii) về phân công
phối hợp thực hiện chính sách về BĐKH; (iv) triển khai thực thi chính sách; (v)
kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chương trình, dự án về BĐKH. Luận án đã nhấn
mạnh để chính sách ứng phó với BĐKH thực thi có hiệu quả thì phải đảm bảo các
nhân tố sau đây: (i) nhân tố liên quan đến bản thân chính sách về BĐKH; (ii) nhân
tố chủ quan; (iii) nhân tố khách quan. Đồng thời luận án đã xây dựng được khung lý
thuyết tiếp cận vùng ST-SH trong ứng phó với BĐKH.
2. Từ nghiên cứu, phân tích, so sánh kinh nghiệm về thực hiện chính sách ứng
phó với BĐKH của Banglades, Thái Lan và Hà Lan, đã rút ra được sáu bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam nói chung và vùng TNB nói riêng. Trong đó có những bài
học quan trọng, đó là: Hình thành tổ chức điều phối về ứng phó với BĐKH; sự tham
gia của khu vực doanh nghiệp, tư nhân trong ứng phó với BĐKH; chú trọng vào các
biện pháp giảm nhẹ khí hậu thông qua các công cụ thuế các bon, TKNL, NLTT…
3. Qua các nội dung đã phân tích của luận án, cho thấy hiện tại và tương lai
vùng TNB đang phải đối mặt với những thách thức lớn nhất do thiên tai và BĐKH
gây ra. BĐKH và thiên tai đang gây ra những tổn thất nặng nề về KT-XH, MT sinh
thái và sinh kế cộng đồng ở vùng TNB. Do vậy, việc hoạch định và thực thi chính
sách BĐKH có vai trò rất lớn trong việc hạn chế những rủi ro, thảm hoạ do BĐKH
gây ra cho vùng.
Đồng thời luận án đã phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thực
hiện chính sách ở vùng TNB, trong đó nhấn mạnh vai trò của nhân tố bản thân chính
sách BĐKH. Để ứng phó với BĐKH trong thời gian qua, khung chính sách ứng phó
với BĐKH của Việt Nam đã được hình thành ở các cấp độ khác nhau, từ Trung ương
đến địa phương. Đồng thời, để thực hiện CTMTQG về ứng phó với BĐKH tại địa
167
phương các tỉnh/thành vùng TNB đã ban hành khoảng hơn 300 văn bản quy pháp
pháp luật dưới các hình thức khác nhau, để thực hiện chính sách ứng phó BĐKH tại
các địa phương. Đặc biệt, Chính phủ ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP ngày
17/11/2017 về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi
khí hậu. Tiếp đến là nhân tố năng lực của bộ máy tổ chức thực hiện chính sách và
nhân tố các yếu tố đặc thù về văn hóa, con người, lối sống của vùng TNB.
4. Luận án đã phân tích, tổng hợp được năm bước thực hiện chính sách ứng
phó ở vùng TNB, trong đó nhấn mạnh khâu triển khai thực thi chính sách. Luận án
đã luận chứng được rằng, Chính phủ đã ưu tiên phân bổ vốn đầu tư rất lớn cho thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB. Trong giai đoạn 2011-2017 vùng
đã được Trung ương phân bổ khoảng 12.879 tỷ đồng cho các dự án, nhiệm vụ
BĐKH. Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2011-2017, nguồn vốn viện trợ ODA từ các tổ
chức quốc tế và Chính phủ các nước hỗ trợ cho các dự án liên quan đến ứng phó với
BĐKH cho vùng TNB khoảng hơn 764 triệu USD. Mặt khác, Chương trình ứng phó
với BĐKH và Tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020, vùng TNB được Chính phủ
ưu tiên phân bổ vốn đầu tư công trung hạn với tổng vốn đầu tư 11.000 tỷ đồng. Các
nguồn lực trên đã góp phần hỗ trợ các địa phương vùng TNB trong ứng phó với
BĐKH. Tuy nhiên, qua đó chúng ta có thể thấy nguồn lực để thực thi chính sách
BĐKH hiện nay vẫn chủ yếu lấy từ nguồn đầu tư công trung hạn, hoặc dự phòng
đột xuất của Trung ương; viện trợ, vay ODA của nước ngoài; mà chưa huy động,
hay đóng góp từ khu vực tư nhân (nhóm gây phát thải KNK).
Hơn nữa, việc thực hiện sách BĐKH cũng như các chính sách khác, cho thấy hầu hết các chính sách về BĐKH đều có độ trễ nhất định. Bên cạnh đó, tác động của
BĐKH và thiên tai ngày càng lớn, bất thường và trái với quy luật, vượt qua khả
năng phòng và chống vật lý của con người. Vì vậy, việc triển khai thực hiện chính
sách BĐKH, nhiều khi đầu tư chi phí nguồn lực rất lớn, nhưng kết quả ứng phó lại
không được như kỳ vọng ban đầu.
Luận án cũng đã chứng minh được rằng trong quá trình thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB đã bộc lộ những bất cập, hạn chế như sau: các chính sách ứng
phó với BĐKH hiện hành còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ và đồng hướng; năng lực tổ chức bộ máy thực hiện chính sách còn nhiều yếu kém; nguồn lực cho ứng phó với BĐKH chưa đáp được nhu cầu thực tế của các địa phương; phân bổ đầu tư công cho BĐKH vẫn theo hình thức kế hoạch hoá tập trung; chưa thu hút được sự tham gia của khu vực tư nhân trong thực hiện chính sách ứng phó
168
với biến đổi khí hậu. Các hạn chế nói bắt nguồn từ các nguyên nhân khách quan và chủ quan.
5. Luận án đã xác định các quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BĐKH vùng TNB, như sau: giải pháp chung; giải pháp nhằm hoàn
thiện thực hiện chính sách thích ứng với BĐKH; Tuy nhiên, về dài hạn cần tập
trung vào việc hoàn thiện thực các chính sách giảm nhẹ ảnh hưởng của BĐKH.
Tóm lại, trong bối cảnh phát triển mới, vùng TNB cũng đang đối diện với
nhiều thách thức và nguy cơ bất định. Do đó, để đảm bảo cho sự PTBV và thịnh
vượng, trù phú của đồng bằng, trong giai đoạn 2021-2030, Nhà nước vẫn đóng vai
trò quan trọng trong việc kiến tạo các chính sách ứng phó với BĐKH và cần phải
chuyển sang hướng “chủ động thích ứng với BĐKH” phù hợp với từng vùng sinh
thái xã hội theo tinh thần “thuận thiên” của Nghị quyết 120/NQ-CP.
Mặc dù vậy, luận án còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế và khiếm khuyết, do thiếu
thời gian và các nguồn lực nên phạm vi địa bàn nghiên cứu của luận án mới chỉ
được thực hiện ở 8/13 tỉnh vùng TNB. Đối tượng điều tra chủ yếu là các cán bộ
thực thi chính sách BĐKH ở cấp tỉnh, chưa điều tra được nhóm doanh nghiệp,
người dân, để đối chứng. Việc đánh giá tác động của việc thực thi chính sách, chưa
được đánh giá bằng các tiêu chí định lượng, đo lường và đưa vào bảng hỏi. Và
những khoảng trống đó của luận án, cũng là hướng nghiên cứu mà NCS sẽ tiếp tục
169
theo đuổi nghiên cứu trong tương lai, để hoàn thiện chủ đề nghiên cứu nói trên.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN CỦA TÁC GIẢ 1. Hà Huy Ngọc. 2019. “Thực hiện chính sách tài chính cho biến đổi khí hậu ở một
số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển bền vững
Vùng, quyển 9, số 3, tháng 9-2019.
2. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc. 2019. “Mô hình điều phối liên kết vùng: Kinh
nghiệm quốc tế và và bài học kinh nghiệm cho vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp
chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, số 9(281), trang 60-70.
3. Bùi Nhật Quang, Hà Huy Ngọc. 2019. “Thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP về
phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu: Sau
hai năm nhìn lại”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 9 (496)/09-2019.
4. Nguyễn Quang Thuấn, Hà Huy Ngọc, Phạm Sỹ An. 2019. “Giải pháp thích ứng
với biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh mới”, Tạp chí
Khoa học xã hội Việt Nam, số 3, tr.3-16.
5. Hà Huy Ngọc. 2018. “Thực hiện chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Phát triển bền vững Vùng, số 4, trang 60-
73.
6. Hà Huy Ngọc, Bùi Quang Tuấn. 2018. “Ứng phó với tác động của biến đổi khí
hậu ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7, tr.29-39.
7. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc. 2018. “Thực hiện chính sách liên kết vùng nhằm
ứng phó với BĐKH ở vùng Tây Nam Bộ trong bối cảnh mới”, Tạp chí Nghiên cứu
kinh tế, số 7 (482), tr.52-64.
8. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc. 2018. “Tăng trưởng xanh con đường thực hiện
tăng trưởng bền vững và ứng phó với BĐKH ở Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề
Kinh tế và Chính trị thế giới, số 8 (268).
9. Nguyễn Song Tùng, Hà Huy Ngọc và nhóm tác giả. 2017. Cơ chế, chính sách
170
liên kết vùng trong ứng phó với BĐKH ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Ngọc Anh. 2016. Nghiên cứu mô hình cộng đồng quản lý tài nguyên
nước bền vững tại đồng bằng sông Cửu Long (nghiên cứu trường hợp hai
tỉnh: Cà Mau và Hậu Giang), Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ TN&MT, mã số
TNMT.2015.02.13.
2. Nguyễn Ngọc Anh. 2016. “Hạn - mặn lịch sử 2016 ở đồng bằng sông Cửu
Long: bài học kinh nghiệm và những giải pháp ứng phó”, Tạp chí Khoa học
và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội.
3. Nguyễn Tuấn Anh. 2018. Nghiên cứu đánh giá tác động của biến đổi khí hậu,
thiên tai, hoạt động nhân sinh nhằm đề xuất giải pháp, mô hình phát triển bền
vững khu vực ven sông Hậu, Thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc gia
“KH&CN ứng phó với BĐKH, quản lý TN&MT giai đoạn 2016-2020”, mã số
BÐKH.26/16-20.
4. Lê Huy Bá, Nguyễn Xuân Hoàn. 2017. Khô hạn, xâm ngập mặn ở đồng bằng
Sông Cửu Long, Nxb Đại học Quốc gia, Tp Hồ Chí Minh.
5. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai. 2016. Báo cáo về tình hình
thiệt hại do thiên tai gây ra năm 2016, Hà Nội.
6. Bộ Chính trị. 2003. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/01/2003 về Phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh
quốc phòng vùng ĐBSCL thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.
7. Bộ Công Thương. 2016. Bản tin ngành hàng và Thị trường xuất khẩu, Hà Nội.
8. Bộ KH&ĐT. 2012. “Việt Nam một số điển hình phát triển bền vững”, Báo cáo
tại Hội nghị cao cấp về Phát triển bền vững (Rio + 20), Hà Nội.
9. Bộ KH&ĐT. 2015. Ngân sách cho ứng phó biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Đầu
tư thông minh vì tương lai bền vững, Báo cáo nghiên cứu chính sách, Hà Nội.
10. Bộ KH&ĐT. 2017. “Báo cáo tham luận Lập quy hoạch tổng thể đồng bằng
sông Cửu Long”, Báo cáo tại Hội nghị Phát triển bền vững vùng đồng bằng
sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu, Cần Thơ.
11. Bộ KH&ĐT. 2019. “Tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP
của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí
171
hậu”, Báo cáo tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển khai thực
hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng
bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.
12. Bộ KH&CN. 2017. “Báo cáo Kết quả NCKH và CN ứng phó biến đổi khí hậu
vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2011-2015 thuộc Chương trình
khoa học, công nghệ cấp Quốc gia mã số KHCN- BĐKH/11-15”, Báo cáo tại
Hội nghị Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến
đổi khí hậu, Cần Thơ.
13. Bộ NN&PTNT và Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ. 2014. Báo cáo Kỷ yếu Hội thảo
MDEC Sóc Trăng năm 2014: Tái cơ cấu phát triển nông nghiệp gắn với xây
dựng nông thôn mới thích ứng với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng song Cửu
Long, Sóc Trăng.
14. Bộ NN&PTNT, GIZ. 2014. Báo cáo Tổng kết Chương ICMP/CCCEP Giai
đoạn I (2011-2014), GIZ, Hà Nội.
15. Bộ NN&PTNT. 2014. Quyết định số 639/QĐ-BNN-KH ngày 02/4/2014 Phê
duyệt Quy hoạch nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong điều kiện biến đổi khí hậu, Hà Nội.
16. Bộ NN&PTNT. 2016. Báo cáo tình hình thiệt hại do hạn hán và xâm nhập
mặn ở Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.
17. Bộ NN&PTNT. 2017. “Giải pháp chuyển đổi nông nghiệp bền vững cho các
tiểu vùng ở đồng bằng sông Cửu Long”, Báo cáo tại Hội nghị Phát triển bền
vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu, Cần Thơ.
18. Bộ NN&PTNT. 2017a. “Sạt lở bờ sông biển đồng bằng sông Cửu Long, giải
pháp thích ứng với BĐKH”, Báo cáo tại Hội nghị Phát triển bền vững vùng
đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu, Cần Thơ.
19. Bộ NN&PTNT. 2019. “Lũ lụt, xâm nhập mặn, ứng phó với sạt lở vùng đồng
bằng sông Cửu LongTrung tâm Quy hoạch và Điều tra TNN quốc gia (2019),
Nguy cơ suy giảm mực nước, xâm nhập mặn, sụt lún nền đất và các giải pháp
giảm thiểu Vùng ĐBSCL”, Báo cáo tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai
năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát
triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp
Hồ Chí Minh.
20. Bộ NN&PTNT. 2019b. “Định hướng nghiên cứu và chuyển giao ứng dụng
công nghệ nông nghiệp cho vùng ĐBSCL nhằm thích ứng với BĐKH”, Báo
172
cáo tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển khai thực hiện Nghị
quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông
Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.
21. Bộ NN&PTNN (2020), “Thực trạng hạn hán, xâm nhập mặn vùng ĐBSCL
năm 2019-2020”, Báo cáo tại Hội nghị "Phòng chống hạn hán, xâm nhập
mặn, bảo đảm sản xuất nông nghiệp và dân sinh khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long mùa khô 2019-2020", Bến Tre 3/1/2020.
22. Bộ TN&MT. 2008. Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí
hậu, Hà Nội.
23. Bộ TN&MT. 2016. Dự án Chống chịu khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững
đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.
24. Bộ TN&MT. 2016. Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt
Nam, Nxb Tài nguyên môi trường và Bản đồ, Hà Nội.
25. Bộ TN&MT. 2017. “Tổng quan về thách thức và cơ hội, giải pháp chuyển đổi
mô hình phát triển cho vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Báo cáo tại Hội nghị
Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí
hậu, Cần Thơ.
26. Bộ TN&MT. 2018. Thống báo quốc gia lần thứ ba của Việt Nam cho công
ước Khung của Liệp Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, Hà Nội.
27. Bộ TN&MT. 2019. “Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của
Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với
biến đổi khí hậu”, Báo cáo tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển
khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền
vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí
Minh.
28. Bộ TN&MT. 2019b. “Báo cáo Tài nguyên nước và giải pháp ứng phó với sụt
lún đất khu vực thành phố Hồ Chí Minh và vùng đồng bằng sông Cửu Long”,
Báo cáo tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển khai thực hiện
Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng
sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.
29. Bộ TN&MT. 2019c. “Báo cáo về quản lý tài nguyên nước, tình hình lũ lụt,
xâm nhập mặn, ứng phó với sụt lún, sạt lở vùng Đồng bằng sông Cửu Long”,
Báo cáo tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển khai thực hiện
Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng
173
sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.
30. Lê Ngọc Cầu. 2017. Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng bộ tiêu chí đánh giá
hiệu quả các mô hình kinh tế cấp huyện thích ứng với biến đổi khí hậu vùng
đồng bằng sông Cửu Long, thí điểm tại một huyện điển hình, Đề tài khoa học
cấp Bộ, Đề Bộ TN&MT, mã số TNMT. 2017.05.22.
31. Chính phủ Việt Nam, Vương quốc Hà Lan. 2013. Kế hoạch đồng bằng sông
Cửu Long.
32. Lê Thanh Chương. 2017. Nghiên cứu giải pháp hợp lý và công nghệ thích hợp
phòng chống xói lở, ổn định bờ biển đoạn từ Sóc Trăng đến Mũi Cà Mau, Mã
số ĐTĐL.CN-08/17.
33. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2012. Công tác lập kế
hoạch ngân sách và quản trị sự ứng phó với biến đổi khí hậu tại tỉnh Cà Mau.
34. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2013. Phân tích các
danh mục đầu tư ứng phó với BĐKH và sự phản ánh các danh mục đầu tư đó
vào kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh Cà Mau và ngân sách hàng năm.
35. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2013b. Xếp loại các
dịch vụ và khoản đầu tư công cấp tỉnh có liên quan đến công tác thích ứng với
biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long.
36. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2014. Đánh giá
chương trình thí điểm bảo hiểm của Chính phủ tại tỉnh Cà Mau, giai đoạn
2011-2013.
37. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2016a. Lập kế hoạch
và ngân sách ứng phó với biến đổi khí hậu tại đồng bằng sông Cửu Long.
38. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2016b. Nông nghiệp
thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu tại ĐBSCL.
39. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2017. Phát triển kinh
tế hợp tác và tổ hợp tác phục vụ liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa gắn với cánh
đồng mẫu lớn tại 4 tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, An Giang.
40. Lê Khắc Côi. 2013. Rà soát các khung khổ chính sách nhằm thích ứng với
thiên tai và biến đổi khí hậu ở cấp Trung ương và 5 tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu,
Kiên Giang, An Giang, Sóc Trăng, nghiên cứu trong khuôn khổ dự án “Biến
đổi khí hậu và hệ sinh thái ven biển (CCCEP)”, Bộ NN &PTNTvà GIZ.
41. Cục Biến đổi khí hậu. 2017. Báo cáo tình hình thực hiện các dự án biến đổi
174
khí hậu ở Việt Nam, Hà Nội.
42. Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu. 2014. Báo cáo tình hình thực
hiện các dự án biến đổi khí hậu, Hà Nội.
43. Cục Khí tượng thuỷ văn và Biến đổi khí hậu. 2017. Cơ sở dữ liệu thống kê
tình hình thực hiện các dự án liên quan đến BĐKH ở Việt Nam giai đoạn
2011-2017, Hà Nội.
44. Cục Quản lý Tài nguyên nước. 2017. Tài nguyên nước thực trạng - thách thức
và định hướng quản lý, sử dụng tài nguyên nước nhằm phát triển bền vững
đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.
45. Lê Vinh Danh. 2001. Chính sách công của Hoa Kỳ: Giai đoạn 1935-2001,
Nxb Thống Kê, Hà Nội, tr.287-293.
46. Delta Programme. 2017. “Chương trình đồng bằng, Chiến lược của chính phủ
Hà Lan”,
ngày 20 tháng 2 năm 2018).
47. Lê Việt Dũng. 2018. “Vai trò của Trường Đại học Cần Thơ trong việc tham
gia thực hiện Nghị quyết 120/CP”,Kỷ yếu Hội thảo Sau một năm thực hiện NQ
120/NQ-CP cửa Chính phủ về PTBV ĐBSCL thích ứng với BĐKH, Đại học
Cần Thơ.
48. Vũ Cao Đàm. 1996. Khoa học quản lý đại cương, Bài giảng, Đại học đại
cương, ĐHQG Hà Nội.
49. Vũ Cao Đàm. 2011. Kỹ năng phân tích và hoạch định chính sách, Trung tâm
Nghiên cứu và phân tích chính sách, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.13.
50. Vũ Cao Đàm, Trịnh Ngọc Thạch và Đào Thanh Trường. 2017. Kỹ năng đánh
giá chính sách, Nxb Thế giới, Hà Nội.
51. Trần Thọ Đạt và Nguyễn Thị Hoài Thu. 2012. Biến đổi khí hậu và sinh kế ven
biển, Nxb Giao thông vận tải.
52. GIZ. 2013. Hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện
quốc gia (NAMA).
53. GreenID. 2016. Phát triển nhiệt điện than ở đồng bằng sông Cửu Long:
Những điều cần làm rõ, Báo cáo nghiên cứu, Hà Nội.
54. GreenID. 2018b. Báo cáo nghiên cứu kịch bản phát triển nguồn điện tại Việt
Nam, Hà Nội.
55. Trần Thanh Hà. 2012. “Một số vấn đề về phân vùng kinh tế Việt Nam”, Bài
tham luận trong kỷ yếu Hội thảo Cơ sở khoa học cho phát triển vùng trong bối
175
cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
56. Đỗ Phú Hải. 2017. Tổng quan về chính sách công, Nxb Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội.
57. Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa.2013. Đại cương về chính sách công, Nxb
Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, tr.337-341.
58. Trương Quang Hải. 2012. “Cấp vùng trong hệ thống các đơn vị tổ chức lãnh
thổ phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam”, Bài tham luận trong kỷ yếu Hội
thảo Cơ sở khoa học cho phát triển vùng trong bối cảnh hội nhập quốc tế của
Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.
59. Hồ Việt Hạnh. 2018. Thực thi chính sách Khoa học và Công nghệ, Bài giảng
Tài liệu bồi dưỡng chức danh nghiên cứu viên chính, Học viện Khoa học
Công nghệ và Đổi mới sáng tạo.
60. Trần Hữu Hiệp, Hà Huy Ngọc, Nguyễn Song Tùng. 2015. “Liên kết vùng
trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam (Qua nghiên cứu trường hợp
đồng bằng sông Cửu Long)”, Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(8),
tr.17-24.
61. Nguyễn Trung Hiếu và các tác giả. 2012. “Phân vùng sinh thái nông nghiệp ở
ĐBSCL: Hiện trạng và xu hướng thay đổi trong tương lai dưới tác động của
biến đổi khí hậu”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ IV, Viện Hàn
lâm KHXH Việt Nam và Đại học QGHN tổ chức, Hà Nội.
62. Lê Văn Hòa. 2016. Quản lý thực thi chính sách công theo kết quả, Nxb Chính
trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
63. Hoàng Văn Hoan. 2015. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính nhằm huy
động, quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính trong ứng phó với
tác động của biến đổi khí hậu tại Việt Nam, Đề tài cấp Nhà nước KH&CN
phục vụ Chương trình MTQG BĐKH của Bộ TN&MT, mã số BÐKH.2014.59.
64. Trương Quang Học, Hoàng Thị Ngọc Hà. 2016. Cơ sở sinh thái học cho phát
triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu, Trung tâm Nghiên cứu Tài
nguyên và Môi trường, Hà Nội.
65. Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 2008. Khoa học chính sách công, Nxb
Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.65.
66. Hội đồng Khoa học các cơ quan của Đảng Trung ương. 2013. Chủ động ứng
phó biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường: Một
176
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
67. Tanya Huizer. 2018. “Tăng cường liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long:
cân nhắc từ các nghiên cứu điển hình quốc tế”, Báo cáo tham luận Hội thảo
Tăng cường liên kết vùng ở đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.
68. IMHEN. 2018. “Chống chịu với khí hậu và phát triển cácbon thấp”, Báo cáo
đánh giá giữa kỳ dự án Xây dựng thị trường các bon ở Việt Nam, Hà Nội.
69. Nguyễn Duy Khang. 2017. Nghiên cứu giải pháp hợp lý và công nghệ thích
hợp phòng chống xói lở, ổn định dải bờ biển và các cửa sông Cửu Long, đoạn
từ Tiền Giang đến Sóc Trăng, mã số ĐTĐL.CN-07/17.
70. Nguyễn Phong Lan. 2018. Nghiên cứu đề xuất mô hình, giải pháp phát triển
bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu phù hợp cho các tiểu vùng sinh thái ở
đồng bằng sông Cửu Long, Thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc gia
“KH&CN ứng phó với BĐKH, quản lý TN&MT giai đoạn 2016-2020”, mã số
BÐKH.42/16-20, Bộ TN&MT chủ trì thực hiện.
71. Liên Hợp Quốc. 1992. Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu.
72. Nguyễn Thị Liễu. 2018. Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây
dựng thị trường Các bon tại Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ TN&MT,
mã số TNMT.2018.05.01.
73. Phạm Thanh Long. 2018. Nghiên cứu xây dựng hệ thống cung cấp thông tin
dự báo, cảnh báo thời tiết ứng dụng phục vụ phát triển kinh tế xã hội và ứng
phó hiệu quả với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đề tài
khoa học cấp Bộ, Bộ TN&MT, mã số TNMT.2018.05.02.
74. Vũ Thị Mai. 2016. Nghiên cứu xây dựng mô hình phát triển kinh tế ứng phó
với xâm nhập mặn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; Thí điểm tại một huyện
điển hình, Thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc gia “KH&CN ứng phó với
BĐKH, quản lý TN&MT giai đoạn 2016-2020”, Bộ TN&MT chủ trì thực
hiện, mã số BĐKH.05/16-20.
75. MOIT-VASS-UNDP. 2018. Đánh giá sự sẵn sàng tiếp cận Cuộc Cách mạng
Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) của các doanh nghiệp thuộc các ngành
công nghiệp ở Việt Nam: Kết quả phân tích số liệu điều tra khảo sát, Báo cáo
nghiên cứu, Hà Nội.
76. NAWAP. 2019. “Nguy cơ suy giảm mực nước, xâm nhập mặn, sụt lún nền đất
và các giải pháp giảm thiểu Vùng ĐBSL”, Báo cáo tham luận Hội nghị đánh
177
giá kết quả hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính
phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi
khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.
77. Koos Neefjes. 2003. Môi trường và sinh kế bền vững, Nxb Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
78. Ngân hàng Thế giới. 2010. Báo cáo phát triển thế giới năm 2010: Phát triển
và biến đổi khí hậu, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
79. Ngân hàng Thế giới. 2016. Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2016: Chuyển
đổi nông nghiệp Việt Nam, tăng giá trị giảm đầu vào, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
80. Ngân hàng Thế giới. 2016a. Báo cáo ảnh hưởng của thiên tai đến tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam, Hà Nội.
81. Ngân hàng Thế giới. 2017. Bài phát biểu tại Hội nghị Phát triển bền vững
vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu, Cần Thơ.
82. Ngân hàng Thế giới. 2018. “Liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Báo
cáo tham luận Hội thảo Tăng cường liên kết vùng ở đồng bằng sông Cửu
Long, Hà Nội.
83. Vũ Văn Nghị. 2016. Nghiên cứu giải pháp quy hoạch vùng Đồng Tháp Mười
trở thành vùng trữ nước ngọt cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long thích
ứng với biến đổi khí hậu, Thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc gia
“KH&CN ứng phó với BĐKH, quản lý TN&MT giai đoạn 2016-2020”, mã số
BÐKH.26/16-20, Bộ TN&MT chủ trì thực hiện.
84. Phạm Hữu Nghị. 2016. Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện
pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay, Đề tài cấp Bộ,
Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
85. Đặng Kiều Nhân. 2018. “Khái quát một năm thực hiện Nghị quyết 120/NQ-
CP”, Kỷ yếu Hội thảo Sau một năm thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP của
Chính phủ về PTBV ĐBSCL thích ứng với BĐKH, Đại học Cần Thơ.
86. Mai Trọng Nhuận. 2018. “Tiêu chí phân vùng theo định hướng quy hoạch KT-
XH theo hướng tích hợp giai đoạn 2021-2030”,Kỷ yếu Hội thảo Định hướng
quy hoạch PTBV các tiểu vùng Tây Bắc, do trường Đại học Tài nguyên và môi
trường Hà Nội tổ chức, Tp Bắc Cạn.
87. Hà Huy Ngọc. 2015. “Cơ chế, chính sách liên kết vùng trong việc ứng phó với
biến đổi khí hậu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long”,Báo cáo chuyên đề Đề tài
khoa học cấp Nhà nước: Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách liên kết
178
vùng trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam, mã số BĐKH.30.
88. Hà Huy Ngọc. 2018. “Thực hiện hính sách thích ứng với biến đổi khí hậu ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Phát triển bền vững Vùng, số 4,
tr.60-73.
89. Hà Huy Ngọc. 2019. Một số vấn đề về thực hiện chính sách ứng phó với
BĐKH ở vùng ĐBSCL, Nhiệm vụ cấp cơ sở, Viện Địa lí nhân văn.
90. Hà Huy Ngọc, Ngô Vĩnh Bạch Dương. 2013. “Rà soát các hệ thống chia sẻ lợi
ích nhằm thích ứng với thiên tai và biến đổi khí hậu ở 5 tỉnh: Cà Mau, Bạc
Liêu, Kiên Giang, An Giang, Sóc Trăng”, Nghiên cứu trong khuôn khổ dự án
“Biến đổi khí hậu và hệ sinh thái ven biển (CCCEP)”, Bộ NN&PTNT và GIZ.
91. Hà Huy Ngọc, Bùi Quang Tuấn. 2018. “Ứng phó với tác động của biến đổi khí
hậu ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7, tr.29-39.
92. Hà Huy Ngọc, Bùi Thị Cẩm Tú. 2018. “Chính sách về ứng phó với BĐKH ở
Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị”, Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Địa lý
toàn quốc lần thứ 10 “Khoa học địa lý với liên kết vùng cho PTBV”, quyển 2,
Nxb KHTN&CN Quốc gia.
93. Oxfam. 2008.Việt Nam Biến đổi khí hậu, sự thích ứng và người nghèo, Báo
cáo nghiên cứu chính sách, Hà Nội.
94. Quốc hội khóa 14, Luật số 21/2017/QH14, Luật Quy hoạch.
95. Nguyễn Văn Sánh và Đặng Kiều Nhân. 2016. Phát triển bền vững nông
nghiệp và phát triển nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Đại học
Cần Thơ.
96. Adam Smith. 1997. Của cải của các dân tộc, bản dịch, Nxb Giáo dục, 914 trang.
97. Mai Thanh Sơn, Lê Đình Phùng, Lê Đức Thịnh. 2011. Biến đổi khí hậu: Tác
động, khả năng ứng phó và một số vấn đề về chính sách (Nghiên cứu trường
hợp đồng bào các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc),
98. Nguyễn Đăng Tính. 2016. Nghiên cứu các giải pháp giảm thiểu tác động,
thích ứng với thiên tai hạn hán và xâm nhập mặn vùng Bán đảo Cà Mau, mã
số KC.08.08/16-20.
99. Nguyễn Ngọc Thanh. 2019. Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để xây
dựng định hướng quy hoạch phát triển bền vững các tiểu vùng Tây Bắc,
Chương KH&CN cấp Nhà nước phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc,
179
mã số KHCN-TB.04T/13-18, Hà Nội.
100. Trần Hồng Thái. 2011. Xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia ứng phó với
biến đổi khí hậu, Đề tài phục vụ Chương trình MTQG BĐKH của Bộ
TN&MT.
101. Trần Hồng Thái. 2015. Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự
biến đổi tài nguyên nước đồng bằng sông Cửu Long, mã số BĐKH-08, đề tài
thuộc Khoa học và công nghệ phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia ứng
phó với biến đổi khí hậu.
102. Trần Văn Thái. 2016. Dự án thiết kê công nghệ Mô hình đê trụ rỗng tiêu giảm
sóng thí điểm ven biển Cà Mau, Viện Thủy công, Hà Nội.
103. Lê Bá Thảo. 1998. Việt Nam: lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới, Hà Nội.
104. Nguyễn Thắng. 2018. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Việt Nam:
Cơ hội và thách thức, Trung tâm Phân tích và Dự báo.
105. Phan Tất Thắng. 2017. Nghiên cứu sử dụng và phát huy tri thức địa phương
trong chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu ở các vùng, miền nước ta, Thuộc
Chương trình KH&CN cấp quốc gia “KH&CN ứng phó với BĐKH, quản lý
TN&MT giai đoạn 2016-2020”, mã số BÐKH.26/16-20, Bộ TN&MT chủ trì
thực hiện.
106. Nguyễn Hữu Thiện. 2016a. Báo cáo Biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học đất
ngập nước vùng ĐBSCL: sự thiếu hụt trong thích ứng, Cần Thơ.
107. Nguyễn Hữu Thiện. 2017. “Ba thách thức đối với phát triển bền vững vùng
đồng bằng sông Cửu Long: Kiến nghị chiến lược ứng phó và phát triển”, Báo
cáo tại Hội nghị Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích
ứng biến đổi khí hậu, Cần Thơ.
108. Phạm Xuân Thu. 2019. “Đô thị hóa vùng ĐBSCL dưới góc độ dân số và
nguồn nhân lực”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia: Kết cấu hạ tầng và liên kết vùng
phục vụ PTBV vùng Tây Nam Bộ, Nxb Đại học Cần thơ.
109. Thủ tướng Chính phủ. 2008. Quyết định số 158/2008/QĐ-TTgngày
02/12/2008 về Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi
khí hậu.
110. Thủ tướng Chính phủ. 2012. Quyết định số 939/QĐ-TTg ngày 19/7/2012 về
việc Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bằng sông
180
Cửu Long đến năm 2020, Hà Nội.
111. Thủ tướng Chính phủ, 2012, Quyết định 43/2012/QĐ-TTg ngày 9/1/2012 về
việc Thành lập Ủy ban Quốc gia về biến đổi khí hậu.
112. Thủ tướng Chính phủ, 2017, Nghị quyết 120/NQ-CP về việc Phát triển bền
vững Đồng bằng Sông Cửu Long thích ứng với Biến đổi Khí hậu, Hà Nội.
113. Thủ tướng Chính phủ, 2017, Quyết định số 1670/QĐ-TTg ngày 31/10/2017 về
việc Phê duyệt Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng
trưởng xanh giai đoạn 2016-2020.
114. Nguyễn Quang Thuấn, 2017, Kinh tế thế giới và Việt Nam 2016-2017: Thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển trong bối cảnh có nhiều thay đổi, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
115. Nguyễn Quang Thuấn, Hà Huy Ngọc, Phạm Sỹ An, 2019, “Giải pháp thích
ứng với biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh mới”,
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3, tr.3-16.
116. Trần Thục, Huỳnh Thị Lan Hương, Đào Minh Trang, 2012, Tích hợp vấn đề
biến đổi khí hậu vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, Nxb Tài nguyên môi
trường và bản đồ Việt Nam.
117. Tổ chức Di cư Quốc tế, 2015, Thích nghi với biến đổi khí hậu thông qua di cư:
Một nghiên cứu về trường hợp đồng bằng sông Cửu Long.
118. Hà Thanh Toàn, 2018, “Nghị quyết 120/NQ-CP về Phát triển bền vững đồng
bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu: sau một năm thực hiện”,
Kỷ yếu Hội thảo Sau một năm thực hiện NQ 120/NQ-CP của Chính phủ về
PTBV ĐBSCL thích ứng với BĐKH, Đại học Cần Thơ.
119. Nguyễn Đức Toàn, 2015, Nghiên cứu thiết kế mô hình làng sinh thái thích ứng
với biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng cho khu vực đồng bằng sông Cửu
Long, mã số BĐKH-13, đề tài thuộc Khoa học và công nghệ phục vụ Chương
trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.
120. Tổng cục KTTV, 2019, “Vai trò của công tác Khí tượng thủy văn trong dự
báo, cảnh báo thiên tai, đặc biệt là lũ lụt, xâm ngập mặn, ứng phó với sụt lún,
sạt lở phục vụ phát triển kinh tế xã hội bền vững vùng ĐBSCL”, Báo cáo
tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết
số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu
Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.
121. Tổng cục Môi trường, 2017, “Đầu tư vào vốn tự nhiên và cơ sở hạ tầng tự
181
nhiên, mô hình PTBV thích ứng với BĐKH tại vùng ĐBSCL”, Báo cáo tại
Hội nghị Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến
đổi khí hậu, Cần Thơ.
122. Tổng cục Phòng chống thiên tai. 2017, Báo cáo tình hình thiệt hại do thiên tai
năm 2017, Hà Nội.
123. Tổng cục Phòng Chống thiên tai. 2018, Báo cáo tình hình phòng chống thiên
tai năm 2018, Hà Nội.
124. Tổng cục Thống kê. 2016, 2017, Niên giám Thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội.
125. Phạm Thị Trầm, Nguyễn Thị Bích Hà, 2013, Các giải pháp cơ bản nhằm nâng
cao năng lực thích ứng và chủ động ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu
ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Đề tài khoa học cấp bộ Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam.
126. Phạm Thị Trầm, Nguyễn Song Tùng, 2010, Nghiên cứu dự báo tác động
BĐKH giai đoạn 2011-2020 và đề ra giải pháp ứng phó nhằm PTBV ở Việt
Nam, Báo cáo đề tài cấp Bộ.
127. Nguyễn Ngọc Trân. 2016, “Nguyên nhân sạt lở bờ sông biển vùng ĐBSCL:
Chiến lược ứng phó dài hạn”, Báo cáo chính sách, Tp Hồ Chí Minh.
128. Lưu Ngọc Trịnh, 2015, Tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu phản ứng
chính sách của một số nước và bài học cho Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
129. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, 1995, Từ điển Bách khoa
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.475.
130. Trung tâm Chính sách và Kỹ thuật phòng chống thiên tai, 2018, Cơ sở dữ liệu
thiên tai, Hà Nội.
131. Trung tâm Khí tượng thuỷ văn Quốc gia, 2017, Báo cáo công tác dự báo mưa, lũ
quét, bão năm 2017 và nhận định tình hình thiên tai trong thời gian tới, Hà Nội.
132. Trung tâm phát triển Nông thôn bền vững (SRD), 2012, Tổng hợp một số hoạt
động ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
133. Trung tâm Phát triển Nông thôn bền vững (SRD), Nhóm làm việc về BĐKH
(CCWG), Mạng lưới các tổ chức phi chính phủ Việt Nam và BĐKH
(VNGO&CC). 2014. Hỗ trợ nông dân phát triển sinh kế ứng phó với với
BĐKH, Một số điển hình thành công của SRD.
134. Trung, N.D., Anh, L.H., Thang, N.T., and L.S. Sebastian. 2017, “Những thách
thức trong việc triển khai Đóng góp do Quốc gia tự Quyết định (NDC) trong
182
lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh pháp lý và chính sách hiện
tại”, Báo cáo kỹ thuật CCAFS, số 21,Wageningen, Hà Lan: Chương trình
Nghiên cứu của CGIAR về Biến đổi Khí hậu, Nông nghiệp và An ninh Lương
thực (CCAFS).
135. Lê Anh Tuấn, 2018. “Phát triển đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến
đổi khí hậu”, Kỷ yếu Hội thảo Sau một năm thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP
của Chính phủ về PTBV ĐBSCL thích ứng với BĐKH, Đại học Cần Thơ.
136. Lê Anh Tuấn, 2019, “Quản lý tài nguyên nước, ứng phó với biến đổi khí hậu
theo tinh thần Nghị quyết 120 ở vùng ĐBSCL”, Báo cáo tham luận Hội nghị
đánh giá kết quả hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của
Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với
biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.
137. Lê Anh Tuấn, Nguyễn Trung Hiếu, 2018, “Phát triển ĐBSCL thích ứng với
BĐKH”, Báo cáp tham luận, Kỷ yếu Hội thảo Sau một năm thực hiện Nghị
quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về PTBV ĐBSCL thích ứng với BĐKH, Đại
học Cần Thơ.
138. Lê Anh Tuấn, Hoàng Thị Thuỷ, 2014, “Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến
sinh kế của người dân đồng bằng sông Cửu Long”, Kỷ yếu Hội thảo Diễn đàn
Bảo tồn Thiên nhiên và Văn hoá vì sự phát triển bền vững vùng đồng bằng
sông Cửu Long lần thứ 6, Cần Thơ.
139. Nguyễn Đình Tuấn, 2015, Xây dựng hệ hỗ trợ ra quyết định trong quản lý tài
nguyên đất và nước đồng bằng sông Cửu Long ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đề tài thuộc Khoa học và công nghệ phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia
ứng phó với biến đổi khí hậu.
140. Trần Minh Tuấn, 2016, Nghiên cứu biến động nguồn nước thượng lưu, điều
kiện khí hậu cực đoan ở ĐBSCL và đề xuất các giải pháp chuyển đổi cơ cấu
sản xuất, KC.08.04/16-20.
141. Bùi Quang Tuấn, 2018, “Khuyến nghị về cơ chế điều phối và tài chính cho
liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Báo cáo tham luận Hội thảo Tăng
cường liên kết vùng ở đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.
142. Bùi Quang Tuấn, 2018, “Phác thảo khung lý thuyết phát triển bền vững vùng”,
Tạp chí Phát triển bền vũng Vùng, quyển 8, số 3, tr.3-15.
143. Bùi Quang Tuấn, 2019, “Đánh giá mô hình tăng trưởng của Việt Nam giai
183
đoạn 2011-2018”, Hội thảo khoa học “Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam
giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến 2045”, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam, Học viện Chính trị Quốc gia, và Ngân hàng Thế giới tổ chức, Hà Nội.
144. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc, 2017, Đổi mới phân cấp QLNN về bảo vệ môi
trường ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
145. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc, 2018, “Tăng trưởng xanh con đường thực
hiện tăng trưởng bền vững và ứng phó với BĐKH ở Việt Nam”, Tạp chí
Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, số 8 (268), trang 47-63.
146. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc, 2018, “Thực hiện chính sách liên kết vùng
nhằm ứng phó với BĐKH ở vùng Tây Nam Bộ trong bối cảnh mới”, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế, số 7 (482), tr.52-64.
147. Võ Văn Tuấn, Lê Cảnh Dũng. 2015a. “Ảnh hưởng của nguồn lực đến đa dạng
sinh kế của nông hộ ở Đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, số10.
148. Võ Văn Tuấn, Lê Cảnh Dũng, 2015b, “Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả sinh
kế của nông hộ ở đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Khoa học, Đại học Cần
Thơ, số 38d, tr.120-129.
149. Võ Văn Tuấn, Lê Cảnh Dũng, 2015c, Phân tích Sinh kế: Lý thuyết và Thực
tiễn, Nxb Đại học Cần Thơ.
150. Võ Văn Tuấn, Lê Cảnh Dũng, 2016, Tổn thương và chiến lược sinh kế thích
nghi của nông dân vùng đông bằng sông Cửu Long trong bối cảnh biến đổi
khí hậu, Viện Nghiên cứu phát triển đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ.
151. Võ Văn Tuấn, Lê Cảnh Dũng, Võ Văn Hà và Đặng Kiều Nhân, 2014, “Khả
năng thích ứng với biến đổi khí hậu ở ĐBSCL”, Tạp chí Khoa học, Đại học
Cần Thơ, số 31d, tr.63-72.
152. Nguyễn Song Tùng, 2015, Nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách liên kết
vùng trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam, Đề tài cấp Nhà nước
KH&CN phục vụ Chương trình MTQG BĐKH, Bộ TN&MT.
153. Nguyễn Song Tùng, 2019, Giải pháp lồng ghép vấn đề biến đổi khí hậu trong
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Quảng Trị, Đề tài Khoa học
cấp Bộ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
154. Nguyễn Song Tùng và các cộng sự, 2017, Cơ chế chính sách liên kết vùng
trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự
184
thật, Hà Nội.
155. UBND tỉnh An Giang. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện
CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh An Giang.
156. UBND tỉnh Bạc Đồng Tháp. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực
hiện CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh
Đồng Tháp.
157. UBND tỉnh Bạc Liêu. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện
CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.
158. UBND tỉnh Bến Tre. 2018. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện
CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
159. UBND tỉnh Cà Mau. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện
CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
160. UBND tỉnh Hậu Giang. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện
CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang.
161. UBND tỉnh Kiên Giang. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình tình hình thực
hiện CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang.
162. UBND tỉnh Long An. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giátình hình thực hiện
CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Long An.
163. UBND tỉnh Sóc Trăng. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện
CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
164. UBND tỉnh Tiền Giang. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực
hiện CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh
Tiền Giang.
165. UBND tỉnh Trà Vinh. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện
CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.
166. UBND tỉnh Vĩnh Long. 2018. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện
CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long.
167. UBND Tp Cần Thơ. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện
CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn Tp Cần Thơ.
168. UNDP. 2008. Báo cáo phát triển con người 2007/2008, Cuộc chiến chống
biến đổi khí hậu: Đoàn kết nhân loại trong một thế giới phân cách, bản dịch,
185
New York, USA.
169. UNDP. 2011. “Báo cáo phát triển con người châu Á - Thái Bình Dương năm
2011”, Một hành tinh để chia sẻ: Duy trì vững chắc tiến bộ về con người trong
khí hậu đang biến đổi.
170. UNDP. 2016. Xanh hoá gói điện năng: Các chính sách mở rộng điện Mặt trời
ở Việt Nam, Hà Nội.
171. Phó Hoàng Uyên. 2016. Nghiên cứu ứng dụng và hoàn thiện công nghệ tiêu
tán và giảm năng lượng sóng chống xói lở bờ biển đồng bằng sông Cửu Long,
mã số KC.09.08/16-20.
172. Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và Môi trường. 2017. “Định hướng
chuyển đổi quy mô lớn mô hình phát triển ĐBSCL”, Báo cáo tại Hội nghị
Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí
hậu, Cần Thơ.
173. Viện Chiến lược phát triển. 2018. Báo cáo nghiên cứu phân vùng phục vụ quy
hoạch kinh tế xã hội giai đoạn 2021-2030, Hà Nội.
174. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 2016. Báo cáo nghiên cứu Cách
mạng Công nghiệp lần thứ tư: Một số đặc trưng, tác động và hàm ý chính
sách đối với Việt Nam, Hà Nội.
175. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và BĐKH. 2016. Báo cáo cập nhật phân
vùng bão, xác định nguy cơ bão, nước dâng do bão, trong đó có phân vùng
mưa lớn, gió mạnh ở sâu trong đất liền khi bão mạnh, siêu bão đổ bộ, Báo cáo
Dự án cấp Bộ, Hà Nội.
176. Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu, Chương trình phát
triển Liên hợp quốc. 2015. Báo cáo đặc biệt của Việt Nam về quản lý rủi ro
thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan nhằm thúc đẩy thích ứng với
BĐKH, Nxb Tài nguyên môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội, tr.399-400.
177. Viện Năng lượng. 2017. Tiềm năng NLTT ở Việt Nam xét theo vùng, Hà Nội.
178. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM). 2016. Tái cơ cấu
nông nghiệp nhằm nâng cao khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng
chống thiên tai vùng đồng bằng sông Cửu Long, Báo cáo nghiên cứu chuyên
đề, Hà Nội.
179. Viện Quản lý và Phát triển châu Á. 2016. Hiện trạng phát triển tôm - lúa vùng
186
đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.
180. Viện Quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam. 2013. Thích ứng với biến đổi khí hậu
cho phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn vùng ven biển đồng bằng
sông Cửu Long, Tp Hồ Chí Minh.
181. Lê Danh Vĩnh. 2001. Chính sách công của Hoa Kỳ: Giai đoạn 1935-2001,
Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.287-293.
182. Ngô Doãn Vịnh. 2003. Nghiên cứu chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế
- xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
183. V-LED. 2018. Quản trị khí hậu đa cấp độ tại Việt Nam: Kết nối lập kế hoạch
quốc gia và hành động khí hậu ở địa phương, Hà Nội.
184. Vụ Kinh tế Nông nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2016. Báo cáo tình hình thiệt
hại do hạn hán và xâm ngập mặn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.
185. Lâm Thái Xuyên. 2011. Đánh giá thực trạng ứng dụng các tiêu chuẩn nuôi
tôm sú (Penaeus monodon) bền vững ở Đồng bằng sông Cửu Long, Luận văn
tốt nghiệp cao học ngành Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.
186. Lâm Thái Xuyên. 2018. Tiêu chuẩn tôm hữu cơ Mangrove Shirimp, Cà Mau.
187. Lâm Thái Xuyên. 2018. Kinh nghiệm phát triển tôm hữu cơ theo chuỗi giá trị
của Tập đoàn thủy sản Minh Phú, Cà Mau.
Tài liệu tiếng Anh 188. ADB. 1994. Climate Change in Asia: Vietnam Country Report, pg.27.
189. Millicent Addo. 2011. Externally Assisted Development Projects in Africa:
Implementation and Public Policy, Dissertation for the Degree of Philosophy
in Nelson Mandela School of Public Policy and Urban Affairs, pg.1.
190. James E. Anderson. 1984. Public Policymaking, Holt, Rinehart and
Winston, 329 pages.
191. E.J Anthony, G. Brunnier, M. Besset, M. Goichot, P. Doussouillez, Lap Van
Nguyen. 2015.Linking Rapid Erosion of the Mekong River Delta to Human
Activities, Scientific Report 5, 14745.
192. ARCAB. 2012a. Action Research for Community Adaptation in Bangladesh:
Monitoring and Evaluation Framework Paper, Draft for feedback.
193. S.A. Beichler. 2017. Understanding Social-Ecological Systems Under Climate
Change - Exploring the Ecosystem Service Concept Towards an Integrated
Vulnerability Assessment, Dissertation, Hafencity Universitat Hamburg, German.
194. Thomas Beloe and Paul Steele. 2011. Thailand Climate Public Expenditure
187
and Institutional Review, UNDP Asia Pacific Regional Office in Bangkok.
195. Simon Benedikter. 2014. “Extending the Hydraulic Paradigm: Reunification,
State Consolidation, and Water Control in the Vietnamese Mekong Delta after
1975”, Southeast Asian Studies, Vol. 3, No. 3, pg.547-587.
196. Ida Bjorkum. 2005. “China in the International Politics of Climate Change: A
Foreign Policy Analysis”, (FNI Report 12/2005), R1205.pdf>, (6April 2008). 197. Merrilee Bonney. 2000. Climate Change Policies in the Netherlands: Analysis and Selection, orkshop on Best Practices in Policies and Measures, Copenhagen. 198. Ian Burton, Elizabeth Malone and Saleemul Huq. 2004. Adaptation Policy Frameworks for Climate Change: Developing Strategies, Policies and Measures, UNDP. 199. Diana Carney. 2003. Sustainable Livelihoods Approaches: Progress and Possibilities for Change. 200. China’s National Development and Reform Commission. 2017. China’s Policies and Actions for Addressing Climate Change. 201. Chmutia, K., Zhu, J., Riffat, S. 2012. “An Analysis of Climate Change Policy- making and Implementation in China”, International Journal of Climate Change Strategies and Management, Vol.4, No.2, pg.138-151. 202. Matthew J. Colloff et al. 2017. “An Integrative Research Framework for Enabling Transformative Adaptation”, Journal of Environmental Science & Policy, No.68, pg.87-96. 203. Daniel G., et al. 2013. Ecosystem-based Adaptation (EbA), Deutsche Gesellschaft für Internationale Zusammenarbeit (GIZ) GmbH. 204. Amy DeGroff, Margaret Cargo. 2009. Policy Implementation: Implications for Evaluation, New Directions for Evaluation, No.124, pg.47-49. 205. Jos Delbeke and Peter vis. 2016. EU Climate Policy Explained. 206. Deltares. 2012. “Economically Efficient Flood Protection Standards for the Netherlands”, Journal of Flood Risk Management, Vol.7(2014), pg.103-117, April 2013). 207. N. Doswald, et al. 2014. “Effectiveness of Ecosystem-based Approaches for Adaptation: Review of the Evidence-base”, Journal of Climate and Development, 188 Vol. 6, Issue 2. 208. William N. Dunn. 2007. Public Policy Analysis: An Introduction, Fourth Edition, Prentice Hall, pg.227-278. 209. Thomas Dye. 1972. Understanding Public Policy, Hardcover, 12th Edition, 368 pages, Published December 1st 2006 by Prentice Hall. 210. David Easton. 1953. “The Political System: An Inquiry into the State of Political Science”, The Journal of Politics, Vol.15, No.4, pg.544-547. 211. Ellis F. 1992. Agricultural Policies in Developing Countries, Cambridge University Press, New York, USA, 356 pages. 212. Estrella, M. & Saalismaa, N. 2013. “Ecosystem-based Disaster Risk Reduction (Eco-DRR): An Overview”, In: Renaud, F., Sudmeier-Rieux, K.and M. Estrella (eds.), The Role of Ecosystem Management in Disaster Risk Reduction, Tokyo: UNU Press. 213. Glaser, M. , Krause, G. , Ratter, B. M. and Welp, M. 2008. “Human/Nature Interaction in the Anthropocene: Potential of Social-Ecological Systems Analysis”, Gaia-Ecological Perspectives for Science and Society, 17 (1), pg.77-80. 214. Russell Gorddard et al. 2016. “Values, Rules and Knowledge: Adaptation as Change in the Decision Context”, Journal of Environmental Science & Policy, No.57, pg.60-69. 215. Gorddard, R., Colloff, M. J., Wise, R. M., and Dunlop, M. 2017. “Keys to Transformation: Interactions of Values, Rules and Knowledge”, (20 March 2018). 216. Lawrence W. Green. 1988. Promoting the One-child Policy in China, Journal of Public Health Policy, No. 9(2), pg.273-283. 217. Ben Groom. 2012. Climate Change Adaptation: The Bangladesh Experience, World Wide Fund for Nature Report, Pakistan. 218. Godefroy Grosijean and William Acworth. 2014. After Monetary Policy, Climate Policy: Is Delegation the Key to EU ETS Reform. 219. Pham Thi Thuy Hanh, Masahide Furukawa. 2007. “Impact of Sea Level Rise on Coastal Zone of Vietnam”, Bull. Fac. ScL, Univ. Ryukyus, No.84, pg.45-59. 189 220. Wayne Hayes. 2011. The Public Policy Web, pg.1. 221. H. Hugh Heclo. 1972. “Policy Analysis”, British Journal of Political Science, Vol.2, No.1, pg.83-108. 222. Hoover E. M. and Frank Giaratani. 1984. An Introduction to Regional Economics, Knopf Publishing House, New York. 223. Hortle K.G. 2007. Consumption and the Yield of Fish and Other Aquatic Animals from the Lower Mekong Basin, MRC Technical Paper No.16, Mekong River Commission. 224. Jung Huicheul, Sungwoo Jeon and Dong Kun Lee. 2012. “Climate Change and Local Adaptation in Korea,” paper presented at the 18th AIM International Workshop, Ohyama Memorial Hall, NIES, Japan. 225. Saleemul Huq and Jessica Ayers. 2008. Climate Change Impacts and Responses in Bangladesh, Note by the European Parliament's temporary committee on climate change in view of a delegation visit that will take place in February 2008 (Ref. to contract IP/A/CLIM/IC/2007-106). 226. ICEM. 2010. MRC Strategic Environmental Assessment (SEA) of Hydropower on the Mekong Mainstream: Summary of the Final Report, Hanoi, Viet Nam. 227. IPCC. 2012. Managing the Risks of Extreme Events and Disasters to Advance Climate Change Adaptation, A Special Report of Working Groups I and II of the Intergovernmental Panel on Climate Change [Field, C. B., V. Barros, T. F. Stocker, D. Qin, D. J. Dokken, K. L. Ebi, M. D. Mastrandrea, K. J. Mach, G. - K. Plattner, S. K. Allen, M. Tignor, and P. M. Midgley (eds.)], Cambridge. 228. Willian Jenkins. 1978. Policy Analysis: A Political and Organisational Perspective, Publisher: Martin Robertson, 288 pages. 229. Kim Jong-Jin. 2013. Climate Change and Adaptation Strategies in the Republic of Korea’s Agricultural Sector, Asian Development Bank Institute. 230. Trịnh Thị Long, WWF Việt Nam. 2017. WWF Vietnam Mekong Delta Landscape Overview. 231. Daniel A. Mazmanian, Paul A. Sabatier. 1984. “Implementation and Public Policy”, Policy Sciences, Vol.17, No.1, pg.95-97. 232. Mekong River Commission Technical Paper 29. 2009. Impacts of Climate 190 Change and Development on Mekong Flow Regimes First Assessment. 233. P. S. J. Minderhoud, L. Coumou, G. Erkens, H. Middelkoop, E. Stouthamer. 2019. “Mekong Delta Much Lower Than Previously Assumed in Sea-level Rise Impact Assessments”, Nature Communications, Vol. 10, Article number: 3847. 234. Richard Munang et al. 2013. “Climate Change and Ecosystem-based Adaptation: ANew Pragmatic Approach to Buffering Climate Change Impacts”, Journal of Current Opinion in Environmental Sustainability, Vol.5, Issue 1, pg.67-71. 235. NAS. 2016. “National Climate Adaptation Strategy 2016”, Report for Dutch government, 236. Sandra Naumann, et al. 2013. The Social Dimension of Ecosystem-based Adaptation, UNEP Policy Series. 237. Netherlands’s Minister for the Environment. 2016. National Climate Adaptation Strategy 2016 (NAS). 238. Nicholls, R.J. and Tol, R.S.J. 2006. Impacts and Responses to Sealevel Rise: A Global Analysis of the SRES Scenarios over the Twenty-first century, Philos. Trans. R. Soc. Lond. A, 364: 1073-1095. 239. Norwegian Geotechnical Institute. 2012. Phase 1 Research - Land Subsidence in Ca Mau Peninsula. 240. Norton Rose Fulbright. 2011. Asia Pacific ClimateChange Policy Series: Republic of Korea, Issue 3, May. 241. Elinor Ostrom. 2009. “A General Framework for Analyzing Sustainability of Social-Ecological Systems”, Science, 24 Jul 2009:Vol. 325, Issue 5939, pg.419-422 DOI: 10.1126/science.1172133. 242. Pan‑Canadian framework on Clean Growth and Climate Change. 2016. Canada's Plan to Address Climate Change and Grow the Economy. 243. Paula S. C. et al. 2015. “Ecosystem-based Adaptation for Improving Coastal Planning for Sea-level Rise: A Systematic Review for Mangrove Coasts”, Journal of Marine Policy, Vol.51, pg.385-393. 244. Peng S., J. Huang, John E.S., Rebecca C.L., Romeo M.V., X. Zhong, Grace S.C., Gurdev S.K., and Kenneth G.C. 2004. Rice Yields Decline with Higher Night Temperature from Global Warming, Proceedings of the National 191 Academy of Sciences, 101(27):9971-9975. 245. B. Guy Perters. 1990. “Administrative Culture and Analysis of Public Organisations”, Indian Journal of Public Adimunistration, Vol.36, Issue 3, pg.420-428. 246. Jeffrey Presman and Aaron Wildavsky. 2011. Policy, Performance and Management in Governance and Intergovernmental Relations, Edward Elgar Publishing, pg.8. 247. Hannah Reid. 2016. “Ecosystem- and Community-based Adaptation: Learning from Community-based Natural Resource Management”, Climate and Development, 8:1, 4-9, DOI: 10.1080/17565529.2015.1034233. 248. Nicholls Robert, J. and Lowe, J.A. 2006. “Climate Stabilisation and Impacts of Sea Level Rise”, In Avoiding Dangerous Climate Change (eds. H.J. Schellnhuber, W. Cramer, N. Nakicenovic, T.M.L. Wigley, and G. Yohe), Cambridge University Press, Cambridge. 249. Paul A. Sabatier. 1999. “Toward Better Theories of the Policy Process”, Political Science and Politics, Vol.24, No.2, pg.8. 250. Fabio Rubio Scarano. 2017. “Ecosystem-based Adaptation to Climate Change: Concept, Scalability and a Role for Conservation Science”, Perspectives in Ecology and Conservation, (15,2), pg.65-73. 251. S. Shephard, A. Shaw and T. Krisit. 2010. Technical Report on Local Climate Change Visioning for Delta: Findings and Recommendations, Vancouver. 252. Niederhafner, Stefan. 2014. The Korean Energy and GHG Target Management System: An Alternative to Kyoto-Protocol Emissions Trading Systems?, TEMEP Discussion, Paper No. 2014:118, Technology Management, Economics, and Policy Program, College of Engineering, Seoul National University. 253. Dasgupta Susmita, Benoit Laplante, Craig Meisner, David Wheeler and Jianping Yan. 2007. The Impact of Sea Level Rise on Developing Countries: A Comparative Analysis, World Bank Policy Research, pg.4136. 254. Notomo, Takuya. 2013. "Measures to Produce National Adaptation Plan for Climate Change in Japan", ISAP, 192 first_half/ISAP_PL9_A3_TakuyaNomoto.pdf>, (24 July 2017). 255. Klein Tank, A. M. G. and G. Lenderink (eds). 2009. Climate Change in the Netherlands, Supplements to the KNMI’06 scenarios, KNMI, De Bilt, The Netherlands. 256. Fei Teng & Alun Gu. 2007. “Climate Change: National and Local Policy Opportunities in China”, Environmental Sciences, Vol.4, No.3, pg.183-194, DOI: 10.1080/15693430701742735. 257. The Ministry of Environment, Science, Technology and Innovation (MESTI). 2013. Ghana National Climate Change Policy. 258. Thorne, C., Annandale, G., Jensen, K., Jensen, E., Green, A. and Koponen, J. 2011. Review of Sediment Transport, Morphology, and Nutrient Balance, Technical report to MRC Secretariat prepared as part of the Xayaburi MRCS Prior Consultation Project Review Report, Nottingham University, UK, February 2011, 82p. MRC, Vientiane, Lao PDR. 259. Okazumi, Toshio. 2008. “Adaptation Strategy for Climate Change in Japan”, 2010). 260. Trinh, N. D. 2016. Policy Gaps Analysis for Promoting Investment in Low Emission Rice Production. Hanoi. 261. Le Anh Tuan and Suppakorn Chinvanno. 2011. “Climate Change in the Mekong River Delta and Key Concerns on Future Climate Threats”, In: M.A. Stewart and P.A. Coclanis (eds.), Environmental Change and Agricultural Sustainability in the Mekong Delta, Advances in Global Change Research 45, DOI 10.1007/978-94-007-0934-8_12, © Springer Science+Business Media B.V. 2011, pg.205-217. 262. Reiner Wassmann, Nguyen Xuan Hien, Chu Thai Hoanh, and To Phuc Tuong. 2004. “Sea Level Rise Affecting the Vietnamese Mekong Delta: Water Elevation in the Flood Season and Implications for Rice Production”, Climatic Change, No.66, pg.89-107. 263. Kame Westerman, et al. 2012. “Building Socio-ecological Resilience to Climate Change Through Community-Based Coastal Conservation and Development: Experiences in Southern Madagascar”, Western Indian Ocean 193 J. Mar. Sci, Vol.11, No.1, pg.87-97. 264. World Economic Forum. 2016. The Future of Jobs: Employment, Skills, and Workforce Strategy for the Fourth Industrial Revolution. 265. Lain Wright and Richard Fuller. 2016. Leaving the EU: Negotiation Priorities for Energy and Climate Change Policy. 266. Alexander, J. Wulf. 2014. Institutional Competition between Optional Codes in European Contract Law: A Theoretical and Empirical Analysis, Springer Gabler. ISBN: 978-3-658-05800-5, DOI 10.1007/978-3-658-05801-2, pg.198. 267. Vo Tong Xuan and Matsui, S. 1998. Development of Farming Systems in the Mekong Delta: JIRCAS, CTU, CLRRI, Vietnam. 268. Bingxin Yu, Tingju Zhu, Clemens Breisinger, Nguyen Manh Hai. 2013. How are Farmers Adapting to Climate Change in Vietnam?, IFPRI Discussion 194 Paper 01248. Phụ lục 1: Mô hình hạ tầng mềm ứng phó với biến đổi khí hậu Bộ NN&PTNT và các tỉnh ven biển ở ĐBSCL bước đầu đưa công nghệ Đê trụ rỗng để ngăn sạt lở ven biển ở một số tỉnh ven biển ĐBSCL: Cà Mau, Bạc Liêu…. Mô hình công nghệ đê trụ rỗng tiêu giảm sóng được các nhà khoa học Viện Thủy công, nghiên cứu và thử nghiệm ở tỉnh Cà Mau. Vào cuối năm 2015, Viện thủy công đã phối hợp với Công ty Cổ phần Hồng Lâm nghiên triển khai thiết kế thi công thử nghiệm 200m đê trụ rỗng tại Cà Mau. Nhiệm vụ của đoạn đê này là giảm sóng, tiêu sóng, gây bồi tạo bãi để cây rừng tái sinh. Đê trụ rỗng có mặt cắt gần giống hình trụ (một phần hình trụ, một phần mặt phẳng), ở mặt tiếp sóng và mặt sau có đục lỗ để tiêu giảm sóng. Vì có khả năng tiêu giảm sóng cao nhất, phản xạ sóng thấp nhất trong các loại kết cấu đã biết (hệ số tiêu sóng có thể đạt 80%, phản xạ 20%) nên có thể cắt sóng từ bên ngoài, vận chuyển nước phù sa vào bên trong để gây bồi, tạo bãi trồng rừng. Nguyên lý tiêu giảm sóng của đê trụ rỗng là khi sóng đến đê trụ rỗng thì các đường dòng hướng tâm va đập vào nhau, sóng bị tiêu năng ngay trong bụng đê nên giảm chiều cao leo, giảm sóngphản xạ, giảm lực tác động vào công trình do năng lượng đã bị tiêu hao. Tải trọng tác dụng vào đê trụ rỗng hướng tâm, lực ngang chuyển thành lực nén. Vì giảm áp lực sóng tác động lên công trình nên đê trụ rỗng giảm tải trọng tác dụng lên kết cấu. Ngoài phá sóng, giảm tác động của sóng biển và gây bồi, tạo bãi bên trong, đê trụ rỗng còn có ưu điểm là chi phí rẻ, độ ổn định được nâng cao. Toàn bộ cấu kiện đê trụ rỗng được đúc sẵn trong nhà máy đưa ra lắp đặt nên kiểm soát được toàn bộ chất lượng. Khi cần, có thể di chuyển chúng đến vị trí mới để tái sinh rừng phòng hộ. Đến năm 2016, Viện Thủy công cùng với doanh nghiệp Hồng Lâm xin UBND tỉnh Cà Mau, thử nghiệm đê trụ rỗng ngăn sạt lở bờ biển và được chấp thuận triển khai thử nghiệm 180 m tại bờ biển tây tỉnh Cà Mau, đoạn từ Vàm Đá Bạc đến Vàm Kênh Mới (thuộc xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời). Kết quả cho thấy công trình đã phát huy hiệu quả tốt. Năm 2017, nhóm nghiên cứu tiếp tục hoàn thiện công nghệ đê trụ rỗng bằng cách cải tiến công nghệ sử dụng bê-tông M50 Mpa, cốt thanh composite, sợi thủy tinh nhằm chống xâm thực, đồng thời. Thử nghiệm các mẫu đê trụ rỗng mới có chất lượng cao hơn nhưng giá thành rẻ hơn (còn 195 khoảng 19 tỷ đồng/km so với mức 22 tỷ đồng/km như hiện tại) để chuẩn bị kỹ trước khi triển khai rộng rãi. Hiệu quả của mô hình này là sóng biển tác động vào mặt đê bị hấp thụ qua các lỗ rỗng và tiêu tán năng lượng khoảng 70% trong bụng đê, chiều cao sóng leo qua mặt đê giảm, không hình thành sóng mới sau đê. Ngoài ra, kết quả thử nghiệm còn cho thấy lượng phù sa lắng đọng bên trong đê trụ rỗng khá dày, tạo nên bãi bồi. Tốc độ bồi lắng trung bình 15cm/tháng, khoảng 120cm/năm. Để tiếp tục hoàn thiện công nghệ đê trụ rỗng nói trên Viện Thủy công được Bộ KH&CN giao thực hiện đề tài: Nghiên cứu ứng dụng và hoàn thiện công nghệ tiêu tán và giảm năng lượng sóng chống xói lở bờ biển đồng bằng sông Cửu Long, Thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Quốc gia giai đoạn 2016 - 2020: “Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ quản lý biển, hải đảo và phát triển kinh tế biển”, mã số: KC.09/16-20. Thời gian thực hiện đề tài là 36 tháng từ tháng 9/2017 đến tháng 8/2020, trong đó sản phẩm quan trọng của đề tài là lựa chọn và thử nghiệm mô hình công trình tiêu tán giảm năng lượng sóng cho biển Đông và biển Tây. Chỉ sau hơn 1 năm triển khai nghiên cứu hoàn thiện lý thuyết và tiến hành thí nghiệm trên mô hình vật lý, nhóm Ban chủ nhiệm đề tài đã đề xuất và lựa chọn được các kết cấu tiêu sóng sóng hợp lý để xây dựng mô hình công trình thực tế. Cấu kiện tiêu giảm sóng được đề nghị áp dụng cho khu vực biển Đông là Đê trụ rỗng được đặt tên ĐTR304F. ĐTR304F là cấu kiện bằng bê tông cốt thép M50 có bố trí lỗ tiêu sóng trên bề mặt. Mặt tiếp sóng được bố trí 20 lỗ, mặt khuất sóng bố trí 8 lỗ, đường kính lỗ tiêu sóng là 30cm. Đỉnh cấu kiện bố trí 2 lỗ tròn đường kính D40cm để thả đá hộc, hai bên đáy cấu kiện thiết kế chân khay cao 50cm để chống trượt. Bề rộng cấu kiện là 4,5m, chiều dài đơn nguyên là 3m, trọng lượng 1 cấu kiện khoảng 16T (tương đương 6,5m3 bê tông). Nguyên lý giảm sóng của loại kết cấu này là sử dụng các lỗ trên bề mặt của hình trụ rỗng để hấp thụ và phân tán năng lượng sóng, các đường dòng của sóng khi lọt qua các lỗ rỗng có hướng tâm nên chúng sẽ va đập vào nhau triệt tiêu năng lượng ở ngay trong bụng đê trụ rỗng. Do vậy phần năng lượng còn lại để hình thành sóng truyền bị giảm đi đáng kể, tạo ra vùng nước lặng phía sau công trình để gây bồi. Đồng thời, để đưa sản phẩm nghiên cứu ra thử nghiệm trên mô hình thực tế, Viện tiếp tục phối hợp cùng Công ty cổ phần xây dựng công trình Hồng Lâm thi công mô hình thử nghiệm này. Vào tháng 10/2018, Công ty Cổ phần xây dựng Hồng Lâm đã đầu tư dây chuyền trạm 196 trộn hiện đại, hệ thống cổng trục và gia công chế tạo ván khuôn, tập kết vật tư vật liệu để chế tạo và sớm đưa sản phẩm này ra ngoài thực tế. Ngay trong nửa đầu tháng 11/2018, các cấu kiện ĐTR304F đầu tiên đã được chế tạo thành công tại nhà máy Hồng Lâm Farich đặt tại khu công nghiệp Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau. Các cấu kiện sau khi được kiểm tra đảm bảo cường độ, sai số kích thước cho phép được tập kết lên xà lan vận chuyển đến vị trí lắp đặt tại khu vực cửa biển phường Nhà Mát - Thành phố Bạc Liêu. Do đặc điểm thủy triều tại biển Đông diễn biến phức tạp, biên độ triều thay đổi lớn và thời gian triều lên xuống nhanh đòi hỏi công tác lắp đặt phải được thực hiện đồng bộ và khẩn trương, lợi dụng con nước lớn để đưa xà lan và thiết bị vào thi công. Sự quyết tâm đưa sản phẩm nghiên cứu sớm ra thực nghiệm đã được thể hiện bằng sự cố gắng của tập thể cán bộ thi công lắp đặt, ngay trong tháng 11, đoạn công trình thử nghiệm tại biển Đông đã được lắp đặt hoàn thành, an toàn và đảm bảo kĩ thuật. Sau quá trình hoàn thiện công trình đê trụ rỗng đã hoàn thiện và đáp ứng các tiêu chí đặt ra: (i) công trình bền vững của công trình; (ii) bảo vệ được bờ biển, chống sạt lở, thì việc kè đê biển còn có tác dụng tích phù sa và tái sinh rừng tự nhiên; (iii) giảm được giá thành so với các công nghệ khác. Với những hiệu quả mô hình này mang lại, Bộ NN&PTNT nên nghiên cứu cho triển khai nhân rộng mô 197 hình để ứng phó với tình trạng sạt lở ven biển ngày càng phức tạp hiện nay. Phụ lục 2: Giải pháp ứng xử thông minh với nước ở ĐBSCL Nguyên nhân biến đổi và thách thức đối với PTBV ĐBSCL, đối với tài nguyên nước là do BĐKH, biến đổi tự nhiên nhưng chủ yếu là hoạt động nhân sinh bất hợp lý, nhất là sử dụng TNN chưa phù hợp chứ chưa nói đến thông minh ở nội vùng ĐBSCLvà thượng nguồn sông Mê Kông. Do vậy, để chuyển hoá thách thức, tận dụng cơ hội cho PTBV thì phải ứng xử thông minh với nước. Việc ứng xử thông minh với nước không chỉ có vai trò rất quan trọng đối với PTBV, ứng phó BĐKH ĐBSCL, sử dụng bền vững tài nguyên nước bảo tồn giá trị sống còn của sông Mê Kông mà còn có đóng góp tích cực đối với BVMT và bảo tồn đa dạng sinh học Biển Đông. Vì vậy, các giải pháp PTBV ĐBSCL thịnh vượng, thích ứng BĐKH thông qua ứng xử thông minh với nước, khí hậu, phải quán triệt các nguyên tắc sau: (1) Tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt phù hợp đặc trưng của nước, của hệ sinh thái các tiểu vùng; dựa vào lợi thế, quy luật biến đổi điều kiện tự nhiên, tài nguyên, duy trì dòng chảy, hoạt động, cân bằng tự nhiên của nước, chỉ can thiệp trong tình huống bắt buộc để đảm bảo an ninh, sinh tồn. (ii) Tăng thủy lợi, giảm thuỷ tai: Khai thác tài nguyên của nước phải tính đến hạn chế thuỷ tai (lũ lụt, hạn hán, nhiễm mặn, sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển, ...), ô nhiễm môi trường nước bằng cơ sở hạ tầng tự nhiên, công trình thuỷ lợi thông minh với nước và khí hậu, ... (iii) Hồi phục tính tự nhiên của nước - tái xây dựng và phát triển hạ tầng tự nhiên góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước, an ninh sinh thái theo mô hình phụ hội đất ngập nước Đồng Tháp Mười và các mô hình phù hợp khác. (iv) Sử dụng hiệu quả, an toàn tài nguyên nước, bảo vệ môi trường nước, duy trì giá trị sống còn tài nguyên nước thông qua phát triển nhân lực và khoa học công nghệ, thông minh với nước và khí hậu, tận dụng Cách mạng Công nghiệp 4.0. (v) Duy trì và phát triển văn minh, văn hoá của ĐBSCL theo hướng thông minh với nước và khí hậu để PTBV. (vi) Quản trị thông minh với nước và khí hậu. Nguồn: Trao đổi của NCS với GS.TS. Mai Trọng Nhuận, Phó chủ tịch Uỷ 198 ban Quốc gia về Biến đổi khí hậu, Hà Nội, tháng 9/2018. Chỉ số sự hiện diện của BĐKH được xây dựng dựa trên hai nhân tố: thứ nhất, tần suất xuất hiện của các hiện tượng thiên tai ở địa phương, và thứ hai là mức độ tác động của thiên tai tới tình hình KT-XH địa phương. Tần suất xuất hiện các hiện tượng thiên tai (sub1) được tính bằng trung bình không trọng số của các hiện tượng thiên nhiên tiêu cực ở các tỉnh ĐBSCL như: NBD; hạn hán; xâm nhập mặn; lũ, ngập lụt; thay đổi nhiệt độ bất thường; bão, áp thấp nhiệt đới; Sạt lở sông, biển; nắng nóng bất thường; mưa lớn cục bộ. Mức độ tác động của BĐKH tới tình hình KT-XH và môi trường ở địa phương (sub2) được đo lường bằng cách lấy trung bình không trọng số mức độ ảnh hưởng của bảy biểu hiện tác hại của BĐKH ở ĐBSCL: suy giảm diện tích và sản lượng cây trồng; ảnh hưởng đến nuôi trồng thuỷ sản; suy giảm diện tích rừng; làm gia tăng sinh vật ngoại lai; tác động đến sinh kế bền vững người dân; tác động đến các khu công nghiệp - cụm công nghiệp; ảnh hưởng đến du lịch. Cuối cùng, chỉ số sự hiện diện của BĐKH có giá trị bằng trung bình cộng của hai chỉ số phụ nêu trên. Chỉ số năng lực ứng phó BĐKH Chỉ số năng lực ứng phó BĐKH được tính toán theo công thức sau: [Năng lực ứng phó] = {[NL tuyên truyền] + [NL xây dựng chính sách] + [NL phân
công, phối hợp]}/3 Trong đó: - Năng lực tuyên truyền ứng phó BĐKH được tính toán bằng cách lấy trung bình cộng của hai chỉ số phụ là chỉ số nội dung tuyên truyền và chỉ số hình thức tuyên truyền. Chỉ số phụ nội dung tuyên truyền được tính bằng trung bình số lượng nội dung về BĐKH mà mỗi người được tuyên truyền. Còn chỉ số hình thức tuyên truyền được tính bằng cách lấy trung bình số biện pháp tuyên truyền về ứng phó 199 BĐKH mà người trả lời phỏng vấn đã được tuyên truyền. - Năng lực xây dựng chính sách: được tính dựa trên đánh giá của người trả lời về hai nội dung: (i) quy trình, cách thức xây dựng chính sách ứng phó; và (ii) chất lượng nội dung của các chính sách. - Năng lực phân công phối hợp được đánh giá dựa trên 04 chỉ số phụ là: (i) năng lực phối hợp giữa các cơ quan ngang cấp; (ii) năng lực phối hợp giữa cấp trên và cấp dưới; (iii) năng lực của cán bộ chuyên trách; và (iv) năng lực của các đối tượng chịu tác động (đại diện là người dân và doanh nghiệp). Chỉ số hiệu quả thực hiện chính sách ứng phó BĐKH Chỉ số hiệu quả thực hiện chính sách ứng phó được tính toán dựa trên mức độ đánh giá của người trả lời với 8 tiêu chí mà phiếu khảo sát đưa ra: Quy trình, cách thức lồng ghép ứng phó với BĐKH vào quy hoạch, kế hoạch q1 KT-XH q2 Quy trình lựa chọn các dự án, hoạt động ứng phó với BĐKH ở địa phương
q3 Mức độ đảm bảo của ngân sách cho hoạt động ứng phó với BĐKH q4 Tính kịp thời trong bố trí ngân sách các cấp cho hoạt động ứng phó với BĐKH q5 Thủ tục thanh quyết toán khi sử dụng ngân sách cho hoạt động ứng phó với
BĐKH Công tác kiểm tra của cấp trên xuống cấp dưới trong thực hiện các hoạt động q6 ứng phó với BĐKH Mức độ hiệu quả của các hoạt động ứng phó với BĐKH đối với tình trạng/diễn q7 biến của BĐKH ở địa phương Mức độ đạt được giữa thực tế triển khai với mục tiêu chính sách ứng phó với q8 BĐKH mà địa phương đã đề ra 200 Công thức: Phụ lục 4: Mô hình tôm - rừng hữu cơ theo chuỗi giá trị Theo Hội nghề cá Việt Nam (2007), Nuôi thủy sản hữu cơ (Organic Aquaculture) là xây dựng một hệ thống sản xuất sản phẩm thuỷ sản, sử dụng hình
thái và công năng của môi trường tự nhiên mà nó phụ thuộc, tái sử dụng lại vật phế
thải và tận dụng nguồn lợi có thể tái sinh trong hệ thống này mà không phá hoại hệ
thống hữu cơ tự nhiên. Về cơ bản, nuôi thủy sản hữu cơ có các tiêu chí như nuôi
không dùng phân tổng hợp, không sử dụng các loại hoá chất, kháng sinh, thuốc diệt
cỏ và các chất bảo quản nhằm bảo vệ hệ hữu cơ biển và khôi phục lại các khu vực
đầm lầy và cửa sông. Ngoài ra, nguồn thức ăn bổ sung cho nuôi hữu cơ cũng phải
tuân thủ các quy tắc quốc tế về hợp chất hữu cơ, tính an toàn, chất lượng và tính bền
vững. Mục đích của nuôi thủy sản hữu là nhằm chọn lựa một loại phương pháp nuôi
thích hợp mang tính bền vững, tức là bảo vệ môi trường hữu cơ, giảm bớt tỷ lệ phát
sinh bệnh tật, giảm bớt sự tiêu hao thức ăn … tăng độ an toàn thực phẩm, nâng cao
chất lượng sản phẩm mô hình nuôi bền vững và thân thiện với môi trường. Đồng
thời là một phương thức gia tăng giá trị đặc biệt, vì người tiêu dùng sản phẩm thuỷ
sản hữu cơ bằng lòng bỏ tiền ra mua sản phẩm này với giá cao [185]. Ở Cà Mau,
khái niệm “Tôm sinh thái” được dùng phổ biến từ năm 2002 đến nay để chỉ một
loài tôm sú nuôi trong rừng đước đạt chứng nhận quốc tế. Cụm từ “Tôm sinh thái”
được dịch theo nghĩa tiếng Anh là Organic Shrimp thì đó là “tôm hữu cơ”. Cách gọi “tôm sinh thái” dưới đây (nếu có, theo địa phương) chính là “tôm hữu cơ”. Từ năm
2002 - 2005, Cà Mau đã xuất khẩu được 476 tấn tôm hữu cơ, đạt doanh thu 8,7 triệu
USD, giá bán tôm hữu cơ tăng 20% so với tôm thông thường. Tôm hữu cơ Cà Mau
bán nhiều ở thị trường EU và có khả năng xâm nhập và cạnh tranh được ở các thị
trường khó tính khác như Mỹ, Nhật Bản, Úc ...Đến năm 2010, tổng diện tích tôm hữu cơ được chứng nhận Naturland là 5.348 ha với 1.086 hộ tại Lâm Ngư Trường
184 và Ban quản lý rừng phòng hộ Kiến Vàng với sự liên kết và hỗ trợ kinh phí từ 2
công ty chế biến thủy sản Camimex và Seanamico [186]. Năm 2013, xuất phát từ nhu cầu của khách hàng quốc tế, Tập đoàn Thủy sản Minh Phú thực hiện Dự án Tôm hữu cơ tại Ban Quản lý rừng phòng hộ Nhưng Miên. Tháng 11/2014, đạt chứng nhận Naturland với diện tích 2.893ha và 741 hộ. Sau đó, năm 2015, thực hiện dự án tại Ban Quản lý rừng phòng hộ Kiến Vàng, đạt chứng nhận Selva Shrimp năm 2016 với diện tích 2.600ha và 387 hộ. Năm 2017, cả 2 dự án của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú đạt 03 chứng nhận Organic EU, Bio 201 Suisse và Selva Shrimp với tổng diện tích là 4.679 ha với 915 hộ dân trong tổng diện tích Dự án là 21.000ha đất rừng và khoảng 3.000 hộ dân. Tính tới thời điểm này, Minh Phú được cho là có vùng nuôi tôm hữu cơ lớn nhất Cà Mau và Việt Nam. Tháng 01/2017, Tập đoàn Thủy sản Minh Phú thành lập công ty con là Công ty CP Xã hội Chuỗi tôm rừng Minh Phú (gọi tắt là DNXH Minh Phú). Đây là doanh nghiệp đầu tiên của ngành tôm Việt Nam hoạt động theo mô hình DNXH. DNXH Minh Phú cam kết dành 60% (Chính Phủ quy định 51%) lợi nhuận hàng năm đầu tư lại cho hoạt động xã hội và môi trường, vì lợi ích cộng đồng. Đây là điểm khác biệt lớn của DNXH Minh Phú so với mô hình doanh nghiệp truyền thống. Đến tháng 7/2017, đã có 89 hộ nuôi tôm hữu cơ trở thành cổ đông DNXH Minh Phú. Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam, có nhiều nông dân được sở hữu cổ phần ở một doanh nghiệp thủy sản [187]. Về môi trường: Minh Phú cũng là đơn vị tiên phong thực hiện chi trả phí dịch vụ môi trường rừng theo Quyết định số 111/QĐ-UBBND, ngày 21/1/2016 của UBND tỉnh Cà Mau về việc Thí điểm nuôi tôm - rừng đạt chứng nhận quốc tế trên địa bàn tỉnh Cà Mau. Theo đó năm 2016 và 2017 tổng chi trả dịch vụ môi trường rừng là hơn 2,3 tỷ đồng. Các hoạt động tổ chức liên kết sản xuất, tập huấn kỹ thuật nuôi tôm, tập huấn các tiêu chí chứng nhận tôm sinh thái, nâng cao ý thức bảo vệ rừng, hỗ trợ, cung cấp tôm giống đạt chứng nhận hữu cơ... cho người dân là việc làm thường xuyên của Minh Phú. Các chi phí trên, chi phí vận hành dự án và chi phí đánh giá chứng nhận tôm hữu cơ được Minh Phú chi trả thay hộ dân. Ngoài ra, Minh Phú xây dựng Trạm thu mua tôm sinh thái tại vùng nuôi nhằm phục nhu cầu mua bán sản phẩm của người dân với giá mua tôm hữu cơ cao hơn giá thị trường. Với đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên trực tiếp, DNXH Minh Phú có thể thực hiện tất cả các chứng nhận tôm hữu cơ của khách hàng, tổ chức một cách hiệu quả và tiết kiệm mà không cần phải tốn chi phí tư vấn thực hiện. Chi phí tư vấn thường ngang bằng với chi phí đánh giá chứng nhận (thường khoảng 15.000 USD/dự án khoảng 2.500ha và 500 hộ dân). Với chiến lược vì cộng đồng, xã hội, Minh Phú đã góp phần thúc đẩy ý thức bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn ứng phó với BĐKH, giải được bài toán giữa “sinh kế cho người dân” và “phát triển rừng và bảo vệ rừng” từng bước hình thành và phát triển chuỗi giá trị tôm hữu cơ Cà Mau và Việt Nam, xứng tầm tiềm năng phát triển so với các nước trên thế giới. Trong năm 2018, Minh Phú tiếp tục mở rộng vùng chứng nhận tôm hữu cơ. Kế hoạch năm 2019 diện tích chứng nhận tăng lên 7.000ha với 1.500 hộ dân. Và tiếp tục mở rộng 202 thêm vào các năm tiếp theo. Phụ lục 5: Mô hình liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp bền vững thông qua Trong giai đoạn 2014-2019, Tập đoàn Lộc Trời và Tập đoàn Vinacam đã thí điểm mô hình liên kết giữa Doanh nghiệp - Hợp tác xã - Viện/trường - Tổ chức quốc tế - Nông dân trong việc hình thành chuỗi giá trị lúa gạo từ giống, phân thuốc và bao tiêu quy mô lớn thông qua HTX thành viên (HTX kiểu mới do công ty thành lập). Vai trò của mô hình liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp bền vững: tận dụng tốt nguồn lực của các bên; thúc đẩy lợi ích nông dân; nâng tầm giá trị sản phẩm; tăng quy mô hoạt động; hài hòa lợi ích; kiểm soát rủi ro. Với việc quản lý đồng ruộng, vùng nguyên liệu bằng mô hình công nghệ 4.0 và quản lý quy trình chất lượng từ các khâu: vùng nguyên liệu - sản xuất - kiểm soát côn trùng - đóng gói xuất khẩu - xúc tiến thương mại. Kết quả mô hình chuỗi mang lại: nông dân áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; chất lượng sản phẩm gạo đảm bảo tiêu chuẩn an toàn; tăng sức mạnh cạnh tranh cho thương hiệu sản phẩm gạo; góp phần giảm chi phí, tăng năng suất, thu nhập cho nông dân; bảo vệ môi trường, giảm phát thải KNK trong sản xuất lúa; tăng tính bền vững trong sản xuất lúa32. HTX nông nghiệp Vinacam Hòn Đất, thuộc Công ty Cổ phần nông sản Vinacam, được thành lập vào tháng 8/2017 tại xã Nam Thái Sơn (huyện Hòn Đất). Đây là mô hình hợp tác xã (HTX) kiểu mới đầu tiên có sự tham gia của doanh nghiệp ở Kiên Giang nhằm tận dụng trình độ quản trị, giúp nông dân ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Với tổng số vốn đầu tư của Nhà nước là 1, 695 tỷ đồng hạng mục trạm điện hạ thế, cống máng bơm và vốn đầu tư cơ sở vật chất của HTX, quy mô cánh đồng của HTX hiện là 430 ha với 56 xã viên tham gia. HTX thực hiện các khâu: (i) cung ứng giống, vật tư sản xuất; (ii) các dịch vụ sản xuất-kinh doanh; (iii) dịch vụ vận chuyển khi thu hoạch lúa; (iv) thu mua bao tiêu sản phẩm cho các xã viên. HTX được sự hỗ trợ của cán bộ kỹ thuật Công ty Cổ phần nông sản Vinacam hỗ trợ cho xã viên HXT trong quá trình canh tác mỗi khi dịch bệnh xảy 32 Kết quả khảo sát của NCS tại Tập đoàn Lộc Trời và Tập đoàn Vinacam, tháng 7/2019
33 Theo báo cáo của HTX, trong vụ Đông xuân năm 2018 (mùa vụ đầu tiên của HTX), doanh thu đạt
296.632.620đ, trừ đi chi phí 148.910.766 đ, HTX lợi nhuận được 147.721.854 đ. 203 ra33. Đối với công ty Cổ phần Nông sản Vinacam, đã hỗ trợ chi trả tiền lương cho Ban giám đốc HTX trong thời gian đầu 6 tháng đầu với số tiền 84.000.000 đồng (từ tháng 10/2017 đến cuối tháng 3/2018). Từ tháng thứ 6/2018 đến nay thì HTX tự cân đối kinh phí để chi trả lương cho Ban Giám đốc và Ban kiểm soát. Điểm khác biệt của mô hình này là HTX có đất đai và trụ sở riêng: HTX mua
đất thổ cư với diện tích 1.500m2 (chiều ngang 20m, chiều dài 75m, thuộc tuyến dân cư 165 xã Nam Thái Sơn) để xây trụ sở làm việc của HTX với số tiền là 205.000.000đ. Nguồn vốn do Công ty Cổ phần Nông sản Vinacam đầu tư mua đất (theo hình thức cho vay lãi suất thấp, không thế chấp) cho HTX trả dần theo từng năm cho công ty theo hợp đồng thảo thuận, lãi suất là 0,65%/năm. Từ năm 2018, HTX sẽ tổ chức thêm dịch vụ bơm tát cho thành viên, dùng vốn điều lệ hiện đã thu được 180.600.000đ để ký hợp đồng với đơn vị thi công dàn bơm, ống bơm gắn motor giá là 116.700.000đ/cái; công suất là 37KW (50 HP)/1 motor. Hiện nay, HTX sẽ phối hợp công ty Agricam tập huấn trồng lúa theo chương trình "1 phải 6 giảm", áp dụng theo tiêu chuẩn VietGap cho thành viên HTX và các hộ hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Đồng thời, có chính sách tăng giá thu mua lúa Nhật đối với những cánh đồng lúa đạt tiêu chuẩn VietGAP, theo đó giá mua dự kiến cao hơn 10% so với lúa canh tác thông thường. Bên cạnh đó, HTX cũng phối hợp với công ty Agricam hướng dẫn nông dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hiệu quả, canh tác giảm phát thải KNK, đáp ứng yêu cầu về dư lượng của các thị trường xuất khẩu.… Từ điển hình thành công này, đến đầu năm 2019 công ty đã thành lập thêm HTX 34 Nguồn: Công ty Cổng phần Nông sản Vinacam, 2019. 204 Lương An Trà (Kiên Giang) với quy mô khoảng 400 ha, HTX Vinacam Giồng
Riềng (Kiên Giang) khoảng 350 ha34. Phụ lục 6: Các dự án đầu tư hạ tầng 2011-2020 do Bộ NN&PTNT chủ trì đã được bố trí vốn 1 Nạo vét kênh Mây Phốp - Ngã Hậu, Vĩnh Long, Trà Vinh 458,00 Quản lý nước Bến Tre thích ứng BĐKH, ODA Chính phủ Nhật Bản 2 6.191,34 (JICA3) Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sinh kế bền vững 3 cho người dân vùng ven biển Ba Tri, tỉnh Bến Tre nhằm thích ứng với 310,45 BĐKH Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cải thiện sinh kế người dân huyện Bắc 4 529,51 Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre nhằm thích ứng với BĐKH Kiểm soát nguồn nước thích ứng với BĐKH vùng Nam Măng Thít, 5 746,05 tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long 6 Hệ thống thủy lợi Nam, tỉnh Bến Tre 215,40 1 Cống Tha La, cống Trà Sư, An Giang 233,00 Nâng cao khả năng thoát lũ và thích ứng BĐKH cho vùng Tứ giác 2 943,27 Long Xuyên Tăng cường khả năng thích ứng và quản lý nước cho vùng thượng 3 650,38 nguồn sông Cửu Long huyện An Phú tỉnh An Giang 1 Hệ thống thủy lợi trạm bơm cống Xuân Hòa, Tiền Giang 250,00 Nâng cao khả năng thoát lũ và phát triển sinh kế bền vững, thích ứng 2 với BĐKH cho vùng Đồng Tháp Mười (các huyện phía Bắc tỉnh Đồng 664,30 Tháp) 1 Cống âu thuyền Ninh Quới, Bạc Liêu 400,00 Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ chuyển đổi sản xuất phù hợp 2 với điều kiện sinh thái nâng cao sinh kế thích ứng BĐKH vùng Cù 799,63 Lao Dung, Sóc Trăng 205 Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để phòng chống xói lở bờ biển cung 3 cấp nước ngọt và phục vụ nuôi tôm - rừng nhằm thích ứng BĐKH ở 780,38 vùng ven biển tỉnh Cà Mau Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phòng chống xói lở bờ biển và hỗ trợ 4 727,11 nuôi trồng thủy sản ở huyện An Minh, An Biên tỉnh An Giang Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ bảo vệ và phát triển rừng, 4 nâng cao sinh kế thích ứng BĐKH ở huyện Hòa Bình, Đông Hải và Tp 736,40 Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu 6 Hệ thống thủy lợi tiểu vùng II, III, V (Cà Mau) 500,00 7 Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1, tỉnh Kiên Giang 3.309,50 206 Nguồn: Tính toán của Luận án dựa trên Báo cáo của Bộ NN&PTNT, 2019. Phụ lục 8: Mô hình tư nhân đầu tư vào năng lượng tái tạo Ở Việt Nam ngành năng lượng là ngành có phát thải KNK khá lớn trong các
ngành kinh tế, chiếm khoảng 53,38%, đặc biệt là năng lượng hoá thạch [26]. Để từng bước thực hiện xanh hóa đối với ngành năng lượng, ngày 25/11/2015 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2068/QĐ-TTg về Phê duyệt Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quyết định 2068 nói trên đã hình thành cơ chế, chính sách NLTT: thị trường; chính sách giá điện, cơ chế đầu tư; cơ chế thanh toán; chính sách ưu đãi về thuế, đất đai.... nhằm thu hút đầu tư vào 4 lĩnh vực năng lược tái tạo (thuỷ điện nhỏ, năng lượng sinh khối, năng lượng gió, năng lượng mặt trời). Để góp phần cụ thể hóa chính sách cho từng loại hình NLTT ngành Công thương, Chính phủ, đã xây dựng và ban hành từng cơ chế riêng cho mỗi loại năng lượng, đặc biết là như: điện điện gió, điện mặt trời. Chính phủ và Bộ Công thương, các địa phương đã phê duyệt Quy hoạch phát triển điện gió ở các địa phương đến năm 2020 và tầm nhìn 2030: Thái Bình, Quảng Trị, Bình Định, Bình Thuận, Ninh Thuận, Bạc Liêu, Trà Vinh, Cà Mau, Sóc Trăng, Bến Tre, Bà Rịa-Vũng Tàu….Ngày 18/3/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 428/QĐ- TTg về Phê duyệt Đề án Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 (gọi tắt là Quy hoạch điện VII điều chỉnh). Trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh, thì năng lượng tái tạo được quy hoạch với tổng công suất là khoảng 27.000 MW, sản xuất khoảng 61 tỷ kWh, chiếm khoảng 10,7% trong cơ cấu điện sản xuất. Đặc biệt, Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg, ngày 14/1/2017 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời ở Việt Nam. Trong đó đề cập đến các cơ chế sau: quy hoạch dự án điện mặt trời, cơ chế đấu nối điện mặt trời vào hệ thống điện, trách nhiệm mua điện từ các dự án điện mặt trời, ưu đãi về vốn đầu tư và thuế, ưu đãi về đất đai, giá của dự án điện mặt trời. Từ sau khi có Quyết định 11/2017, đã diễn ra một làn sóng bùng nổ các dự án điện mặt trời được đăng ký với tổng công suất đăng ký lên tới hơn 17.000 MW, cao hơn cả mục tiêu phát triển điện mặt trời tính đến năm 2030 của Qui hoạch điện VII (QHĐ VII) điều chỉnh. Để cụ góp phần hiện thực hóa Quyết định 11/2017, ngày 12/9/2017, Bộ Công thương đã ban hành Thông tư 11/2017, nhằm hướng dẫn về các quy định 207 trong phát triển dự án và hợp đồng mua bán điện mẫu dự án điện mặt trời. Đây được hy vọng là một bước ngoặt trong việc kích nổ thị trường lượng giàu tiềm năng này của Việt Nam. Thông tư Thông tư 16/2017/TT-BCT ngày 12/9/2017 quy định về phát triển dự án và hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt trời. Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/6/2011 về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam Quyết định số 02/2019/QĐ-TTg ngày 8/1/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam. Thông tư số 05/2019/TT-BCT ngày 11/3/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 16/2017/TT-BCT ngày 12/9/2017 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về phát triển dự án và Hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt. Các cơ chế, chính sách nói trên là cú hích để các địa phương vùng ĐBSCL phát triển năng lượng gió, năng lượng mặt trời ở những nơi có tiềm năng. - Ngày 17/1/2014 tại xã Vĩnh Trạch Đông, Thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại và Du lịch Công Lý (Cty Công Lý) tổ chức lễ khánh thành Nhà máy Điện gió Bạc Liêu 1. Dự án Điện gió tỉnh Bạc Liêu giai đoạn 1 được xây dựng có quy mô công suất là 99,2 MW, điện năng sản xuất khoảng 320 triệu KWh/năm. Tổng mức đầu tư của dự án là 5.600 tỉ đồng, với diện tích đất 1.300ha, dự án được đầu tư bằng nguồn vốn tự có của Chủ đầu tư và nguồn vốn vay tín dụng đầu tư của Nhà Nước. - Đồng thời tháng 11/2013, giai đoạn 2 dự án điện gió Bạc Liêu được Công ty Công Lý khởi động, với tổng vốn đầu tư hơn 4.200 tỷ đồng, gồm 52 trụ turbine gió. Và vào quý 2/2016 dự án đã hoàn thành với 3 đợt đóng điện. Trong đó, đóng điện đợt 1 vào ngày 29/5/2015, gồm 20 turbine gió, nâng công suất phát điện lên 48 MW, tăng thêm 28 triệu KWh điện so với giai đoạn 1; đợt 2 vào ngày 2/9/2015, gồm 16 turbine gió, nâng công suất phát điện lên 73,6 MW và đợt 3 vào ngày 30/4/2016, gồm 16 turbine gió, nâng công suất phát điện dự án là 99,2 MW. - Ngày 30/1/2018, Công ty cổ phần Super Wind Energy Công Lý (công ty Công Lý) đã tổ chức lễ khởi công Dự án Nhà máy điện gió Bạc Liêu giai đoạn III, tại xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu. Dự án Nhà máy điện gió Bạc Liêu giai đoạn III, có công suất 142MW, gồm 71 trụ turbine gió. Mỗi trụ turbine có công suất khoảng 2.5MW - 3.5MW. Sản lượng điện dự kiến phát hàng năm là 373 triệu 208 kWh. Tổng mức đầu tư dự án là hơn 8.900 tỷ đồng. Khi Giai đoạn III của dự án hoàn thành, Nhà máy điện gió Bạc Liêu sẽ có 133 trụ turbine với tổng công suất là 241,2 MW. Sau khi hoàn thành cả 3 giai đoạn của nhà máy dự án đưa vào khai thác vận hành dự kiến sẽ cung cấp hàng năm khoảng 373 triệu KWh điện hòa vào điện lưới quốc gia, góp phần ổn định an ninh năng lượng quốc gia, tạo ra công ăn việc làm cho hơn 1.200 lao động, góp phần tích cực vào sự ổn định an sinh xã hội và phát triển KT-XH trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu. Cũng như tỉnh Bạc Liêu, để huy động doanh nghiệp đầu tư vào năng lượng tái tạo, nhằm xanh hóa ngành năng lượng, giảm phát thải KNK, thích ứng với BĐKH, vào cuối năm 2015 UBND tỉnh Cà Mau đã trình Chính phủ phê duyệt để Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại - Du lịch Công Lý đầu tư phát triển Dự án Nhà máy điện gió tại bãi biển Khai Long thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Dự án được triên khai với 3 giai đoạn, có tổng kinh phí ước tính trên 70.000 tỷ đồng với quy mô 150 trụ tuabin, công suất thiết kế 300MW, được xây dựng trên diện tích hơn 7.000 ha. Dự án đã được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt quy hoạch phát triển điện lực Quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030 và Thủ tướng Chính Phủ chấp thuận chủ trương đầu tư ngày 14-1-2016. Tháng 9-2016, dự án được khởi công tại giai đoạn 1, có quy mô công suất là 100 MW, bao gồm 50 trụ turbine gió, công suất mỗi turbine gió là 2 MW, điện năng sản xuất dự án khoảng 280 triệu KWh/năm. Tổng mức đầu tư của dự án là 6.320 tỷ đồng. Đến nay, Công ty Công Lý đã triển khai thi công xong một số hạng mục hạ tầng như: Cầu dẫn cáp chính dài 500m, san lắp bãi tập kết vật tư, thiết bị, nhà văn phòng Ban Quản lý dự án, riêng đường dây 110kV đấu nối vào dự án do Tổng công ty Điện lực Miền Nam thực hiện thi công. Đến hết tháng 8/2019, công ty đã thi công một số hạng mục chính như: Móng trụ turbine gió ngoài biển, trạm biến áp 22/110 kV và đấu thầu mua sắm thiết bị turbine gió. Dự án được xây dựng trên vùng bãi bồi ven biển thuộc tỉnh Cà Mau, với mục tiêu đầu tư xây dựng và quản lý một Nhà máy điện độc lập, sử dụng năng lượng gió để phát điện, hòa với lưới điện quốc gia thông qua hợp đồng mua bán điện dài hạn với Tập đoàn Điện lực Việt Nam; dự án còn kết hợp phục vụ du lịch sinh thái và nuôi trồng lâm, thủy sản, giải quyết về an sinh xã hội, tạo thêm công ăn việc làm 35 Tổng hợp từ kết quả làm việc của NCS với Công ty THHH Công Lý ở Tp. Cà Mau tháng 8/2019. 209 cho người lao động, góp phần tăng thu ngân sách của địa phương và thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau35. Phụ lục 9: Phiếu điều tra BẢNG HỎI KHẢO SÁT CÁN BỘ Đề tài: “Một số vấn đề về thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long” THÔNG TIN CHUNG:
1. Họ và tên cán bộ: ...................................................... 2. Số ĐT: ............................... 3. Đơn vị công tác: ....................................................... 4. Tỉnh: .................................. 1. Cà Mau 2. TP Cần Thơ 3. Long An 4. Bến Tre 5. Tiền Giang 6. Đồng Tháp 7. Sóc Trăng 8. An Giang PHẦN I. ĐÁNH GIÁ VỀ BIỂU HIỆN CỦA BĐKH VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
BĐKH ĐẾN PHÁT TRIỂN KT-XH Ở ĐỊA PHƯƠNG 1.1. Ông/bà vui lòng cho biết các biểu hiện, tần suất của BĐKH ở địa phương
Trong 5 năm vừa qua: Mức độ/tần suất/cường độ TT Biểu hiện của BĐKH Tăng Bình Giảm Tăng Giảm mạnh thường mạnh 1 Nước biển dâng 2 Hạn hán 3 Xâm ngập mặn 4 Lũ, ngập lụt 5 Tăng/giảm nhiệt độ bất thường 6 Bão, áp thấp nhiệt đới 7 Sạt lở sông, biển 8 Nắng nóng bất thường 9 Mưa lớn cục bộ 210 10 Khác:………………………….. 1.2. Ông/bà vui lòng cho biết các ảnh hưởng tiêu cực sau đối với KT-XH và môi
trường của BĐKH ở địa phương: Mức độ ảnh hưởng TT Biểu hiện của BĐKH Ảnh
hưởng Bình
thường 1 Suy giảm diện tích và sản Không
AH
lắm Không
ảnh
hưởng Ảnh
hưởng
mạnh lượng cây trồng 2 Ảnh hưởng đến nuôi trồng thuỷ sản 3 Suy giảm diện tích rừng
4 Làm gia sinh vật ngoại lai
5 Tác động đến sinh kế bền vững người dân 6 Tác động đến các KCN-CCN
7 Ảnh hưởng đến du lịch
8 Khác:………………………….. PHẦN 2. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI, THỰC HIỆN CÁC CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ BĐKH Ở VÙNG KHẢO SÁT 2.1. Về quy trình, cách thức xây dựng chính sách ứng phó với BĐKH, ông/bà vui lòng cho nhận xét về một số chỉ tiêu sau: Đánh giá TT Chỉ tiêu Tốt Rất
tốt Bình
thường Chưa
tốt lắm Chưa
tốt 1 Quy trình xây dựng chính sách BĐKH hiện nay 2 Mức độ tuân thủ theo quy trình xây
dựng chính sách khi tổ chức chính
sách ứng phó với BĐKH 3 Sự phối hợp giữa Trung ương và địa
phương, tổ chức xã hội trong xây
dựng chính sách ứng phó với BĐKH 4 Sự tham gia của chuyên gia, các nhà
khoa học vào quá trình xây dựng
chính sách ứng phó với BĐKH 211 5 Xây dựng kế hoạch triển khai chính sách 6 Sự tham gia của đối tượng thụ
hưởng chính sách ứng phó với
BĐKH vào quá trình XD chính sách 7 Lượng ngân sách được bố trí cho
việc tổ chức xây dựng chính sách
ứng phó với BĐKH 8 Tính kịp thời trong bố trí ngân sách
cho xây dựng chính sách ứng phó
với BĐKH 10 Mức độ kịp thời trong sửa đổi, bổ
sung các chính sách trong hệ thống
chính sách ứng phó với BĐKH 2.2. Về nội dung chính sách ứng phó với BĐKH, ông/bà vui lòng cho nhận xét về một số chỉ tiêu sau: Đánh giá Chưa TT Chỉ tiêu Rất Bình Chưa Tốt tốt tốt thường tốt lắm 1 Đối tượng áp dụng của chính sách ứng phó với BĐKH 2 Mục tiêu chính sách ứng phó với BĐKH so với nguồn lực thực hiện trong thực tế 3 Mục tiêu của chính sách ứng phó với BĐKH so với nhu cầu thực tiễn 4 Các quy định về nội dung hoạt động của chính sách ứng phó với BĐKH so với thực tế ở địa phương Các quy định về định mức hộ trợ ứng phó với BĐKH trong chính sách ứng 5 phó với BĐKH so với thực tế ở địa phương 212 6 Khác: ………………………………... PHẦN 3. TUYÊN TRUYỀN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ BĐKH Ở VÙNG KHẢO
SÁT 3.1. Ông/bà đã được tuyên truyền, tập huấn những kiến thức cụ thể nào sau đây? (Có thể chọn nhiều phương án) Nội dung Đánh
dấu (X) 1. Các biểu hiện và tác động của BĐKH đến địa phương 2. Chính sách hỗ trợ ứng phó BĐKH 3. Các mô hình ứng phó với BĐKH dựa vào cộng đồng 4. Các hình thức hỗ trợ cho từng nhóm đối tượng (người dân, doanh nghiệp...) 5. Khác: ...................................................................................... 3.2. Về hình thức tuyên truyền các kiến thức về BĐKH và chính sách ứng phó với BĐKH, ông/bà đã được tham gia các hình thức tuyên truyền/tập huấn cụ thể nào sau đây? (Có thể chọn nhiều phương án) Hình thức 1. Các lớp tập huấn
2. Hội thảo
3. Tham quan mô hình Hình thức
4. Các cuộc thi tìm hiểu
5. Các cuộc họp
6. Khác: ........................ Đánh dấu (X) Đánh dấu (X) 3.3. Ông/bà đánh giá chung về mức độ hiệu quả của những chương trình tuyên 1. Rất hiệu quả 2. Hiệu quả 3. Bình thường 4. Không hiệu quả lắm 5. Không hiệu quả truyền/tập huấn kiến thức về BĐKH và chính sách ứng phó với BĐKH như thế nào? PHẦN 4. PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP GIỮA CÁC CHỦ THỂ VÀ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ BĐKH Ở VÙNG KHẢO SÁT 4. Về sự phân công, phối hợp giữa các chủ thể và địa phương trong việc thực hiện Đánh giá TT Chỉ tiêu đánh giá Tốt Rất
tốt Bình
thường Chưa
tốt lắm Chưa
tốt A. Sự phân công giữa chính quyền các cấp 1 Sự phân công nhiệm vụ cho các
sở/ban/ngành liên quan trong tỉnh để
để quản lý, tổ chức triển khai chính
sách ứng phó với BĐKH 213 chính sách ứng phó với BĐKH, ông/bà vui lòng cho nhận xét về một số chỉ tiêu sau: 2 Sự phân công nhiệm vụ cho các
phòng/ban liên quan trong huyện để
quản lý và tổ chức các hoạt động ứng
phó với BĐKH B. Sự phối hợp giữa chính quyền các cấp 3 Sự phối hợp giữa các đơn vị cùng cấp
(trong UBND) để quản lý, tổ chức triển
khai chính sách ứng phó với BĐKH 4 Sự phối hợp giữa các đơn vị cấp dưới và
cấp trên để quản lý và tổ chức các hoạt
động ứng phó với BĐKH 5 Sự phối hợp giữa các tỉnh trong vùng
ĐBSCL để quản lý, tổ chức triển khai
các hoạt động ứng phó với BĐKH C. Cán bộ chuyên trách 6 Số lượng cán bộ chuyên trách về xây
dựng và triển khai chính sách ứng phó
với BĐKH so với nhu cầu thực tế của
địa phương 7 Chuyên môn đào tạo của các cán bộ
chuyên trách so với nhu cầu thực tế
của địa phương 8 Thu nhập cho cán bộ chuyên môn về
xây dựng và triển khai chính sách ứng
phó với BĐKH hiện nay 9 Việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn
và nghiệp vụ cho cán bộ chuyên môn về
xây dựng và triển khai chính sách ứng phó
với BĐKH D. Cá nhân, doanh nghiệp 10 Sự hỗ trợ về vật chất của khu vực tư nhân
(cá nhân, doanh nghiệp) cho các hoạt
động ứng phó với BĐKH 11 Sự tham gia của khu vực tư nhân (cá
nhân, doanh nghiệp) trong việc thực hiện
các hoạt động ứng phó với BĐKH 12 Sự chủ động ứng phó với ảnh hưởng 214 BĐKH của doanh nghiệp 13 Khác: …………………………. PHẦN 5. ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BĐKH Ở CÁC ĐỊA PHƯƠNG KHẢO SÁT 5. Về việc đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH, ông/bà vui lòng Rất Bình Chưa Chưa TT Chỉ tiêu đánh giá Tốt tốt thường tốt lắm tốt 1 Quy trình, cách thức lồng ghép ứng phó với BĐKH vào quy hoạch, kế hoạch KT-XH 2 Quy trình lựa chọn các dự án, hoạt động ứng phó với BĐKH ở địa phương 3 Mức độ đảm bảo của ngân sách cho hoạt động ứng phó với BĐKH 4 Tính kịp thời trong bố trí ngân sách các cấp cho hoạt động ứng phó với BĐKH 5 Thủ tục thanh quyết toán khi sử dụng ngân sách cho hoạt động ứng phó với BĐKH 6 Công tác kiểm tra của cấp trên xuống cấp dưới trong thực hiện các hoạt động ứng phó với BĐKH 7 Mức độ hiệu quả của các hoạt động ứng phó với BĐKH đối với tình trạng/diễn biến của BĐKH ở địa phương 8 Mức độ đạt được giữa thực tế triển khai với mục tiêu chính sách ứng phó với BĐKH mà địa phương đã đề ra 9 Khác: ………………………………. 215 cho nhận xét về một số chỉ tiêu sau: PHẦN 6. HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH 6.1. Ông/bà vui lòng cho biết, để hoàn thiện chính sách ứng phó với BĐKH ở trong thời gian tới, mức độ cần thiết của việc thực hiện các vấn đề sau: Đánh giá Rất Không Không TT Vấn đề Cần Bình cần cần cần thiết thường thiết lắm thiết 1 Các chính sách cần phải lấy ý kiến của địa phương và cộng đồng 2 Chính sách ban hành cần gắn với nguồn lực tương ứng 3 Cần tích hợp 2 ban chỉ đạo BĐKH và PCTTTKCN 4 Cần xây dựng các chính sách dự án mang tính liên vùng, liên tỉnh 5 Tập trung vào giải pháp bán công trình và phi công trình 6 Đầu tư hệ thống quan trắc, cảnh báo sớm thiên tai, BĐKH 7 Hình thành trung tâm dữ liệu vùng 8 Tập trung nguồn nghiên cứu các loại giống thích ứng với hạn, mặn, ngập lụt… 9 Nhân rộng các mô hình sinh kế thích ứng bền vững với BĐKH 10 Cần có các giải pháp huy động các nguồn lực từ khu vực tư nhân, cộng đồng cho BĐKH 216 11 Khác: ……………………………. 6.2. Ông/bà có đề xuất thêm ý kiến hoặc góp ý gì để hoàn thiện và tăng cường hiệu
quả thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH không? ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... ....................................................................................................................................... 217 Xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của ông/bà!PHỤ LỤC
ở tiểu vùng ven biển
Phụ lục 3: Chỉ số đánh giá thực hiện chính sách biến đổi khí hậu
Chỉ số đánh giá biểu hiện của BĐKH ở TNB
HTX kiểu mới
Đơn vị
TT
Tên dự án
(tỷ đồng)
I Tiểu vùng Duyên hải phía Đông
8.450,65
II Tiểu vùng Tứ giác Long Xuyên
1.826,65
III Tiểu vùng Đồng Tháp Mười
914,3
IV Tiểu vùng Bán đảo Cà Mau
7.253,02
Đơn vị
TT
Tên dự án
(tỷ đồng)
V
Tổng
18.444,62