VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ HUY NGỌC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỪ THỰC TIỄN VÙNG TÂY NAM BỘ

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HÀ HUY NGỌC

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU TỪ THỰC TIỄN VÙNG TÂY NAM BỘ

Ngành: Chính sách công

Mã số: 9340402

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. Bùi Nhật Quang

HÀ NỘI - năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả

nghiên cứu trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng dùng để bảo vệ lấy

bất kỳ học vị nào.

Tôi xin cam đoan các thông tin và số liệu trích dẫn trong luận án đều đã được

chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày……tháng…….năm 2020

i

Tác giả luận án Hà Huy Ngọc

LỜI CẢM ƠN

Trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án, tôi đã nhận được

sự giúp đỡ của nhiều cơ quan và cá nhân trong cũng như ngoài cơ sở đào tạo. Nhân

dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới:

- Ban Giám đốc Học viện và Phòng Quản lý đào tạo, Học viện Khoa học xã hội.

- Lãnh đạo và thầy cô giáo Khoa Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội.

- Các cán bộ của Cục Biến đổi khí hậu, Bộ TN&MT; Tổng cục Thủy lợi,

Tổng cục PCTT; các chuyên gia, nhà khoa học thuộc Hội đồng tư vấn của UBQG

về BĐKH; cán bộ đang công tác ở sở TN&MT của một số địa phương vùng TNB.

- Ban chủ nhiệm 2 đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Cơ chế, chính sách liên kết

kinh tế nội vùng và liên vùng đối với vùng Tây Nam Bộ theo hướng phát triển bền

vững”, mã số TNB.ĐT/14-19/X1; “Các giải pháp cơ bản nhằm phát triển bền vững

vùng Tây Nam Bộ trong bối cảnh mới”, mã số KHCN-TNB.ĐT/14-19/X19. Đã hỗ

trợ, tạo điều kiện cho NCS tham gia khảo sát, điều tra thực tế tại các địa phương

vùng TNB và tham khảo một số kết quả nghiên cứu.

- Lãnh đạo Viện Địa lí Nhân văn, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình.

Đặc biệt, tôi bày tỏ lòng kính trọng tới giáo viên hướng dẫn khoa học PGS.TS.

Bùi Nhật Quang, thầy đã luôn động viên, tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong

suốt quá trình nghiên cứu thực hiện luận án.

Do tiếp cận BĐKH dưới góc độ khoa học chính sách công có phạm vi nghiên

cứu rộng và có nhiều vấn đề mới nẩy sinh, đồng thời có nhiều ý kiến chưa đồng

thuận, vì vậy luận án không thể trách khỏi những thiếu sót nhất định. Tác giả rất

mong nhận được sự lượng thứ và những ý kiến đóng góp của quý thầy, cô giáo và

độc giả.

Hà Nội, ngày……tháng……năm 2020

Nghiên cứu sinh

ii

Hà Huy Ngọc

LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ ii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................................................. v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG NƯỚC NGOÀI .................................................... vii

DANH MỤC BẢNG ............................................................................................................ ix

DANH MỤC HÌNH ............................................................................................................... x

DANH MỤC HỘP ............................................................................................................... xii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

1.1. Các công trình nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài về thực hiện chính sách

ứng phó với biến đổi khí hậu ............................................................................................... 12

1.2. Các nghiên cứu đã công bố trong nước liên quan đến luận án ..................................... 21

1.3. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề

thuộc đề tài luận án chưa được các công trình công bố nghiên cứu giải quyết ................... 35

CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ

VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

2.1. Chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ..................................................................... 37

2.2. Thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ..................................................... 51

2.4. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về thực hiện chính sách

ứng phó biến đổi khí hậu ..................................................................................................... 64

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...................................................................................................... 75

CHƯƠNG 3

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

Ở VÙNG TÂY NAM BỘ

3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách ứng phó biến đổi khí hậu

ở vùng Tây Nam Bộ ............................................................................................................. 77

iii

MỤC LỤC

3.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến vùng Tây Nam Bộ ............................................. 91

3.3. Các bước thực hiện chính sách ứng phó biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ.............. 100

3.4. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu

ở vùng Tây Nam Bộ ........................................................................................................... 129

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................................... 143

CHƯƠNG 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VÙNG TÂY NAM BỘ

4.1. Bối cảnh mới và các vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện chính sách

ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ ........................................................... 145

4.2. Một số quan điểm nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách

ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ ........................................................... 150

4.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách

ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ ........................................................... 151

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4 .................................................................................................... 165

KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 167

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 171

PHỤ LỤC .......................................................................................................................... 195

iv

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Danh mục chữ viết tắt Tiếng việt

AN-QP An ninh - Quốc phòng

BC&TT Báo chí và Tuyên truyền

BCĐ Ban Chỉ đạo

BĐCM Bán đảo Cà Mau

BĐKH Biến đổi khí hậu

BTB Bắc Trung Bộ

BVMT Bảo vệ môi trường

CSHT Cơ sở hạ tầng

CTMTQG Chương trình Mục tiêu Quốc gia

ĐBSCL Đồng bằng sông Cửu Long

ĐBSH Đồng bằng sông Hồng

DHNTB Duyên hải Nam Trung Bộ

DHPĐ Duyên hải phía Đông

ĐNB Đông Nam Bộ

DNXH Doanh nghiệp xã hội

ĐTM Đồng Tháp Mười

GTVT Giao thông vận tải

HĐND Hội đồng nhân dân

HLKHXH Hàn lâm Khoa học xã hội

HTX Hợp tác xã

KH&CN Khoa học và Công nghệ

KH&ĐT Kế hoạch và Đầu tư

KHCN&MT Khoa học công nghệ và Môi trường

KHKTTV Khoa học Khí tượng thuỷ văn

KHKTTV&BĐKH Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu

KNK Khí nhà kính

KT-XH Kinh tế - xã hội

v

LĐTB&XH Lao động thương binh và Xã hội

NBD Nước biển dâng

NCS Nghiên cứu sinh

NLTK&HQ Tiết kiệm năng lượng và hiệu quả

NLTT Năng lượng tái tạo

NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

PTBV Phát triển bền vững

QHTL Quy hoạch thủy lợi

QLNN Quản lý Nhà nước

TGLX Tứ giác Long Xuyên

TN&MT Tài nguyên và Môi trường

TNB Tây Nam Bộ

TNTN Tài nguyên thiên nhiên

vi

UBND Ủy ban nhân dân

Danh mục chữ viết tắt tiếng nước ngoài

Cụm từ tiếng Anh Cụm từ tiếng Việt

ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển Châu Á

AFD Cơ quan Phát triển Pháp Agence Française de Développement

Aus AID Cơ quan Phát triển Quốc tế Úc Australian Agency for International Development

BCRF Quỹ Phục hồi khí hậu Bangladesh

Bangladesh Climate Resilience

BUR1 The First Biennial Update Report Báo cáo cập nhật hai năm một lần lần thứ nhất

CBA Community-based Adaptation Thích ứng dựa vào cộng đồng

CCCEP

Climate Change and Coastal Ecosystems in Mekong Delta Vietnam Program Biến đổi khí hậu và các hệ sinh thái ven biển vùng đồng bằng sông Cửu Long

CDM Cơ chế phát triển sạch Clean Development Mechanism

CIEM Central Institute for Economic Management Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương

COP Conference of Parties Hội nghị Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu

CTF Climate Trust Fund Quỹ Ủy nhiệm khí hậu

EbA Ecosystem-based Adaptation Thích ứng dựa vào hệ sinh thái

ETS Emission Trading Scheme Cơ chế buôn bán phát thải

EU European Union Liên minh châu Âu

FTA Free Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do

GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội

GIZ Tổ chức Phát triển quốc tế Đức Gesellschaft für Internationale Zusammenarbeit

GRDP Tổng sản phẩm trên địa bàn Gross Regional Domestic Product

vii

GreenID Trung tâm Phát triển sáng tạo xanh Green Innovation and Development Centre

ICMP Integrate Coastal Management Programme Chương trình Quản lý tổng hợp vùng ven biển

Quỹ Phát triển nông nghiệp quốc tế IFAD International Fund For Agricultural Development

IMHEN Insitute of Meteorology - Hydrology and Environment Viện Khoa học Khí tượng - Thuỷ văn và Môi trường

IPCC Intergovernmental Panel on Climate Change Uỷ ban Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu

Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản JICA

Japan International Cooperation Agency

KACCC Korea Adaption Center for Climate Change Trung tâm Thích ứng với biến đổi khí hậu của Hàn Quốc

NAS National climate Adaptation Strategy Chiến lược Quốc gia về thích ứng với biến đổi khí hậu

NDC Nationally Determined Contribution Đối tác Đóng góp quốc gia tự quyết định

Tổ chức phi Chính phủ NGO Non-governmental Organization

Hỗ trợ phát triển chính thức ODA

Official Development Assistance

SP-RCC Support Program to Respond to Climate Change Chương trình Hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu

SRD The Centre for Sustainable Rural Development Trung tâm Phát triển nông thôn bền vững

TARA Transformative Adaptation Research Alliance Nghiên cứu khung thích ứng biến đổi

UNDP United Nations Development Programme Chương trình Phát triển Liên hợp quốc

UNFCCC United Nations Framework Công ước Khung về Biến đổi Khí hậu của Liên hợp quốc Convention on Climate Change

World Bank Ngân hàng Thế giới WB

viii

World Wide Fund For Nature Quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên WWF

Bảng 1. Số lượng mẫu phiếu điều tra theo tỉnh ..................................................................... 8

Bảng 2.1. Mức độ nghiêm trọng của BĐKH, thiên tai theo vùng ở Việt Nam ................... 50

Bảng 3.1. Số lượng văn bản có liên quan đến BĐKH được ban hành trong giai đoạn 2008-

2017 ..................................................................................................................................... 78

Bảng 3.2. Phân loại văn bản chính chính sách ứng phó với BĐKH .................................... 79

Bảng 3.3. Số lượng văn bản có liên quan đến BĐKH được ban hành ở vùng TNB trong

giai đoạn 2008-2018 ............................................................................................................ 82

Bảng 3.4. Phân loại văn bản chính sách đặc thù ứng phó với BĐKH ở vùng TNB ............ 82

Bảng 3.5. Các văn bản được ban hành nhằm thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB giai

đoạn 2008-2018 ................................................................................................................. 106

Bảng 3.6. Phân loại văn bản thực hiện chính chính ứng phó với BĐKH ở vùng TNB ..... 107

Bảng 3.7. Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BĐKH ở các địa phương ....................... 113

Bảng 3.8. Các dự án thuộc CTMTQG ứng phó với BĐKH ở vùng TNB trong giai đoạn

2011 - 2017 ........................................................................................................................ 115

Bảng 3.9. Các dự án thuộc Chương trình hỗ trợ ứng phó với BĐKH vùng TNB giai đoạn

2011-2017 .......................................................................................................................... 116

Bảng 3.10. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách ứng phó BĐKH ở vùng TNB ............ 133

Bảng 4.1. Kết quả phân tích SWOT trong thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB...... 151

ix

DANH MỤC BẢNG

Hình 3.1. Năng lực cán bộ thực hiện chính sách BĐKH ..................................................... 86

Hình 3.2. Sự tham gia của các bên trong thực hiện chính sách BĐKH ............................... 87

Hình 3.3. Các tiểu vùng sinh thái - xã hội vùng Tây Nam Bộ ............................................. 93

Hình 3.4. Diễn biến mặn tại trạm điển hình trên sông Cửa Tiểu,

sông Cửa Đại giai đoạn sau năm 2012 so với trước đây ..................................................... 96

Hình 3.5. Diễn biến mặn tại trạm điển hình trên sông Cổ Chiên,

sông Hậu giai đoạn sau sau năm 2012 so với trước đây ...................................................... 96

Hình 3.6. Tổng thiệt hại do sạt lở bờ sông, bờ biển TNB giai đoạn 2010-2018.................. 99

Hình 3.7. Ước tính thiệt hại do thiên tai và BĐKH ở vùng Tây Nam Bộ

giai đoạn 2010-2018 ............................................................................................................ 99

Hình 3.8. Đánh giá về ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH đến một số ngành/lĩnh vực .......... 100

Hình 3.9. Đánh giá về ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH đến các tiểu vùng ........................ 100

Hình 3.10. Số lượng hoạt động tuyên truyền BĐKH theo loại hình

giai đoạn 2011-2017 .......................................................................................................... 109

Hình 3.11. Các nội dung tuyên truyền, tập huấn về ứng phó với BĐKH .......................... 109

Hình 3.12. Đánh giá về các nội dung tuyên truyền ứng phó BĐKH

đã được tập huấn tại các tiểu vùng ..................................................................................... 110

Hình 3.13. Các hình thức tuyên truyền về BĐKH ............................................................. 110

Hình 3.14. Đánh giá về các hình thức tuyên truyền ứng phó BĐKH đã được tập huấn ... 111

Hình 3.15. Đánh giá chung về mức độ hiệu quả của chương trình tuyên truyền,

tập huấn kiến thức về BĐKH ............................................................................................. 111

Hình 3.16. Đánh giá về mức độ hiệu quả ứng phó BĐKH đã được tập huấn ................... 111

Hình 3.17. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH

ở tiểu vùng Duyên hải phía Đông ...................................................................................... 117

Hình 3.18. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH

ở tiểu vùng Tứ giác Long Xuyên ....................................................................................... 117

Hình 3.19. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH

ở tiểu vùng Đồng Tháp Mười ............................................................................................ 117

x

DANH MỤC HÌNH Hình 2.1. Khung lý thuyết về vùng sinh thái - xã hội .......... Error! Bookmark not defined.

Hình 3.20. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH

ở tiểu vùng Bán đảo Cà Mau ............................................................................................. 117

Hình 3.21. Đánh giá sự phân công nhiệm vụ giữa chính quyền các cấp ........................... 126

Hình 3.22. Đánh giá sự phối hợp giữa chính quyền các cấp ở các tiểu vùng vùng TNB .. 126

Hình 3.24. Đánh giá về nội dung chính sách ứng phó với BĐKH ở các tiểu vùng ........... 129

Hình 3.25. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó BĐKH ....................................... 130

Hình 3.26. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó BĐKH ở các tiểu vùng ............. 131

Hình 3.27. Tương quan giữa BĐKH và tác động tới tình hình KT-XH ............................ 131

Hình 3.28. Chỉ số Năng lực ứng phó BĐKH và các thành phần ở các tiểu vùng .............. 132

Hình 3.29. Tương quan giữa năng lực và hiệu quả ứng phó BĐKH ................................. 132

xi

Hộp 3.1: Tình hình sạt lở ở vùng TNB giai đoạn 2010-2018 .............................................. 98

Hộp 3.2: Thỏa thuận hợp tác về quản lý nước ở vùng tứ giác Long Xuyên

giữa An Giang và Kiên Giang, Kiên Giang và tỉnh Campot (Campuchia) ....................... 108

Hộp 3.3: Tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP ................................................ 112

Hộp 3.4: Trùng lặp mục tiêu và thiếu đồng bộ của chính sách BĐKH ............................. 137

Hộp 3.5: Hoạt động phối hợp của BCĐ 158 ...................................................................... 139

xii

DANH MỤC HỘP

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của nghiên cứu đề tài luận án

Nhiều nghiên cứu và báo cáo phát triển toàn cầu đã đưa ra thông điệp BĐKH

là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại trong thế kỷ XXI. BĐKH

tác động nghiêm trọng đến KT-XH và an ninh môi trường thế giới. Việt Nam được

xếp vào nhóm 10 quốc gia đã, đang và sẽ chịu tác động nặng nề nhất bởi BĐKH

[253]. BĐKH đang tác động xấu đến tất cả các ngành, lĩnh vực và vùng miền ở Việt

Nam, trong đó điển hình là lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng và đánh bắt

thuỷ, hải sản và các vùng đồng bằng, ven biển. Những vùng ĐBSH, ĐBSCL, BTB

và DHTNB được dự báo sẽ chịu những rủi ro cao nhất do BĐKH gây ra [91, tr.29,

39]. Trong thời gian qua, BĐKH đã ảnh hưởng rất lớn đến KT-XH-MT và sinh kế

người dân trong vùng ĐBSCL (hay còn gọi là vùng TNB). Theo kịch bản BĐKH và

NBD nếu mực NBD 100cm, sẽ có khoảng 38,9% diện tích có nguy cơ bị ngập.

Trong đó, các tỉnh có nguy cơ ngập cao nhất là Hậu Giang (80,62%), Kiên Giang

(76,86%) và Cà Mau (57,69%) [24]. Nếu như kịch bản NBD cao nhất xảy ra, mà

không có các hoạt động ứng phó thì toàn bộ diện tích vùng TNB sẽ hoàn toàn bị

ngập thời gian dài trong năm và thiệt hại tài sản ước tính lên tới 17 tỷ USD [176].

Để ứng phó với những tác động bất lợi của BĐKH, Chính phủ đã xây dựng

và cải cách một loạt thể chế, chính sách từ Trung ương đến địa phương. Đầu tiên,

để thực hiện nghĩa vụ của một quốc gia thành viên tham gia UNFCCC, Việt Nam

đã hoàn thành xây dựng và đệ trình đến Ban Thư ký UNFCCC Thông báo quốc

gia lần thứ nhất vào tháng 12/2003, Thông báo quốc gia lần thứ hai vào tháng

12/2010 và Báo cáo cập nhật hai năm một lần lần thứ nhất vào năm 2014, lần thứ

2 năm 2018. Sau khi Thỏa thuận Paris được thông qua tại Hội nghị các bên liên

quan lần thứ 21 (COP21) tháng 12/2014, Việt Nam đã ký Thỏa thuận Paris cùng

hơn 170 quốc gia khác vào ngày 22/4/2016 tại trụ sở của Liên hiệp quốc ở New

York, Hoa Kỳ. Để thực hiện thỏa thuận này, Việt Nam đã ban hành Quyết định số

2053/QĐ-TTg ngày 28 tháng 10 năm 2016 Phê duyệt Kế hoạch thực hiện Thỏa

thuận Paris về BĐKH. Bên cạnh đó, hệ thống khung pháp luật, chính sách ứng

phó với BĐKH của Việt Nam đã được hình thành một cách nhất quán ở các cấp

độ từ cao tới thấp. Cụ thể, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XI Ban chấp hành

Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 về chủ

1

động ứng phó với BĐKH, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.

Ngoài ra, trong số các luật được Quốc hội thông qua, vấn đề ứng phó với BĐKH

cũng được đề cập (như: Luật Bảo vệ môi trường, 2014; Luật Sử dụng năng lượng

tiết kiệm và hiệu quả, 2010; Luật Đa dạng sinh học; Luật Tài nguyên nước, 2012;

Luật Phòng tránh thiên tai, 2013; Luật Khí tượng thủy văn, 2016…). Ngoài ra,

Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành một số văn bản liên quan đến BĐKH như:

Chỉ thị 35/2005/CT-TTg về việc Tổ chức thực hiện Nghị định thư Kyoto thuộc

Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH cùng Kế hoạch tổ chức thực hiện

Nghị định thư giai đoạn 2007-2010; Chương trình MTQG ứng phó với BĐKH,

2008; Chiến lược quốc gia về BĐKH, 2011; Kế hoạch hành động quốc gia về

BĐKH giai đoạn 2012-2020; Chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia, 2012... và

một số quyết định khác thuộc các lĩnh vực liên quan… [91, tr.29-39].

Riêng đối với vùng TNB ngoài việc thực hiện những chính sách của Trung

ương, trong thời gian qua Chính phủ, bộ/ngành đã xây dựng, ban hành nhiều chính

sách đặc thù gắn với ứng phó với BĐKH cho vùng như ban hành các quy hoạch

vùng, quy hoạch ngành có tính đến yếu tố ứng phó với BĐKH: quy hoạch tổng thể

phát triển KT-XH vùng ĐBSCL đến năm 2020; quy hoạch nông nghiệp, nông thôn;

quy hoạch thủy lợi, quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn đến

năm 2030 trong điều kiện BĐKH. Đặc biệt, Chính phủ ban hành Nghị quyết

120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long

thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghị quyết nhằm mục đích kiến tạo một tầm nhìn

phát triển dài hạn, bền vững vùng TNB, dựa trên nguyên tắc tôn trọng các giá trị

sinh thái tự nhiên, con người của vùng. Đồng thời, ưu tiên phân bổ vốn đầu tư cho

các chương trình, nhiệm vụ, dự án cấp bách về ứng phó với BĐKH ở các địa

phương vùng TNB. Nhờ quá trình triển khai thực hiện các chính sách ứng phó với

BĐKH ở các địa phương và đã góp phần mang lại hiệu quả trong việc thích ứng và

giảm nhẹ ảnh hưởng của BĐKH ở vùng TNB. Tuy nhiên, bên cạnh một số thành

tựu đã đạt được, trong quá trình triển khai thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH

ở vùng TNB, đang gặp một số khó khăn, bất cập như sau: (i) các chính sách BĐKH

chủ yếu do cấp Trung ương hoạch định, ban hành nên trong thực tiễn thực thi ở

vùng TNB đã xuất hiện nhiều điểm chưa phù hợp; (ii) quy trình thực hiện chính

sách BĐKH còn gặp nhiều hạn chế (ban hành văn bản thực hiện chính sách; tuyên

truyền chính sách; phối hợp thực hiện chính sách; năng lực thực hiện chính sách của

2

các chủ thể ở địa phương); (iii) các nhiệm vụ, dự án để thực hiện chính sách được

thiết kế chưa dựa trên các đặc trưng sinh thái - xã hội của vùng ở TNB và thiếu sự

gắn kết lâu dài với các chương trình, quy hoạch, kế hoạch ưu tiên của Chính phủ,

bộ/ngành. Bên cạnh đó, trong bối cảnh phát triển mới, vùng TNB cũng đang đứng

trước những cơ hội và đối diện với nhiều thách thức từ sự phát triển thiếu bền vững

ở nội tại, các thách thức đến từ bên ngoài.

Mặt khác, từ tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước, cũng cho thấy đã có rất nhiều nghiên cứu công bố về ứng phó với BĐKH ở vùng TNB. Tuy nhiên, các vấn đề về thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH vẫn còn nhiều khoảng trống về: lý thuyết, phương pháp, nội dung…để luận án nghiên cứu.

Do vậy, để có cơ sở khoa học nhằm đề xuất những giải pháp để hoàn thiện việc thực hiện các chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB, nghiên cứu sinh lựa chọn nghiên cứu thực hiện luận án: “Thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu từ thực tiễn vùng Tây Nam Bộ”. 2. Mục đích và nhiệm vụ, giả thuyết nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án

Luận án có mục tiêu tổng quát là nghiên cứu được luận cứ khoa học cho việc

đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung thực hiện những nhiệm vụ cơ bản

sau đây:

- Phân tích làm rõ được một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm quốc tế về thực

hiện chính sách ứng phó với BĐKH.

- Đánh giá được thực trạng thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.

- Trên cơ sở đó, đề xuất được các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện

việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.

2.3. Giả thuyết nghiên cứu

Từ việc khái quát thực tiễn và đánh giá sơ lược một số công trình nghiên cứu

liên quan, một số câu hỏi nghiên cứu được đặt ra:

1) Cơ sở lý luận và thực tiễn cho nghiên cứu cho nghiên cứu thực hiện chính

sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB là gì?

2) Kết quả của việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB hiện

nay như thế nào?

3) Những yếu tố ảnh hưởng và các bất cập nảy sinh trong thực hiện chính sách

3

ứng phó với BĐKH ở vùng TNB hiện nay là gì?

4) Để hoàn thiện việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB

trong giai đoạn tới cần những giải pháp gì?

Xuất phát từ những câu hỏi nghiên cứu đã nêu, việc nghiên cứu thực hiện đề

tài luận án là có ý nghĩa. Kết quả của luận án không chỉ góp phần hoàn thiện thực

hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB. Mà còn là cơ sở, là kinh nghiệm

cho nghiên cứu chính sách ứng phó BĐKH ở các vùng khác trong cả nước.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH

ở vùng TNB.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi về nội dung nghiên cứu của luận án: luận án tập trung nghiên cứu

việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH (chính sách thích ứng và chính sách

giảm nhẹ) với các khâu: ban hành văn bản thực hiện chính sách; thông tin, tuyên

truyền chính sách; phối hợp giữa các chủ thể để thực hiện; triển khai thực thi chính

sách; kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách).

- Phạm vi về không gian: luận án sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề thực hiện

chính sách ứng phó với BĐKH ở 13 tỉnh/thành phố vùng TNB. Trong đó tập trung

nghiên cứu sâu, điều tra, khảo sát ở 8 tỉnh/thành phố: Bến Tre, Tiền Giang, Long

An, Đồng Tháp, Tp Cần Thơ, An Giang, Cà Mau, Sóc Trăng.

- Phạm vi thời gian: luận án sẽ nghiên cứu việc thực hiện chính ứng phó với

BĐKH hậu từ năm 2008 trở lại đây (Chính phủ ban hành Chương trình mục tiêu quốc

gia về BĐKH năm 2008). Các quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực

hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB được đề xuất cho giai đoạn 2020-2030.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Phương pháp luận

- Luận án sử dụng phương pháp luận nghiên cứu chính sách để nghiên cứu vấn

đề thực hiện chính sách BĐKH. Với phương pháp tiếp cận này, nó chỉ ra 2 định

hướng chủ đạo khi nghiên cứu về chính sách, đó là:

+ Khi đánh giá thực hiện chính sách cần phải đặt trong điều kiện tham chiếu

với cả chu kỳ chính sách, từ khâu hoạch định đến tổ chức triển khai chính sách. Nếu

chỉ bó hẹp đánh giá một khâu nào đó trong chu kỳ sẽ không thấy hết được những

4

mặt mạnh, những bất cập và nguyên nhân của những bất cập trong chính sách.

Trong đó: i) đối với khâu hoạch định chính sách, khi đánh giá cần phải tổng hợp

được các văn bản chính sách ứng phó BĐKH đã ban hành, từ đó xác định được mục

tiêu, đối tượng và nội dung chính sách; phân tích, ghi nhận những mặt được và bất

cập trong từng nội dung. ii) Đối với khâu triển khai thực hiện chính sách, cần đánh

giá cách thức tổ chức triển khai chính sách, kết quả triển khai và những tác động

của chính sách đến đối tượng thụ hưởng chính sách từ đó đánh giá được những mặt

được, bất cấp và nguyên nhân của những bất cập.

+ Những mặt được và bất cập trong quá trình thực hiện chính sách có thể bắt

nguồn ở cả khâu hoạch định chính sách, giải quyết đơn lẻ sẽ không hiệu quả. Vì thế,

cần phải có sự đánh giá tổng hợp để có được cái nhìn tổng thể về những mặt được

và những bất cấp nảy sinh, cũng như nguyên nhân của những bất cấp để làm cơ sở

đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách cho chu kỳ mới.

- Luận án còn sử dụng cách tiếp cận liên vùng: TNB là một vùng lãnh thổ rộng

lớn gồm 13 tỉnh, có đường biên giới với Campuchia và tiếp giáp với ĐNB. Việc

nghiên cứu tổng thể về vùng TNB hướng tới PTBV vừa phải chú ý đến tính tổng thể

của toàn vùng hoặc phân vùng, cũng như lưu ý tới việc làm sáng tỏ những đặc điểm

riêng của mỗi tiểu vùng, trên cơ sở đó đề xuất các định hướng giải pháp, mô hình

PTBV phù hợp với từng tiểu vùng. Mặt khác, trong cách tiếp cận liên vùng, cần đặc

biệt chú ý đến các loại tương tác trong từng tiểu vùng và giữa các tiểu vùng, đồng

thời vừa chú ý đến tính khu biệt, tính chồng lắp của các tiểu vùng. Bên cạnh đó,

việc nghiên cứu vùng TNB cũng cần phải đặt trong mối liên hệ với ĐNB và vùng

Tây Nguyên, cũng như Campuchia - nước có chung đường biên giới với Việt Nam.

- Luận án sử dụng cách tiếp cận vùng dựa trên hệ thống hệ sinh thái - xã hội.

Phân vùng chức năng sinh thái-xã hội là công việc quan trọng góp phần PTBV

vùng. Mục đích của việc phân chia tiểu vùng chức năng sinh thái - xã hội trong

nghiên cứu này là xác định vùng tương đồng quan trọng về sinh thái, KT-XH, nhận

diện những biểu hiện và tác động của BĐKH.

- Ngoài ra luận án còn sử dụng cách tiếp cận kết hợp từ trên xuống - dưới

lên: thường gọi là phương pháp tiếp cận “top - down, bottom - up”, hay gọi là tương tác cộng đồng - cơ quan chức năng.

5

+ Cách tiếp cận từ dưới lên: tập trung vào cấp độ địa phương, cộng đồng, tình huống cụ thể và những ảnh hưởng ngắn hạn; thường được đánh giá định tính và có sự tham gia của cộng đồng. Đánh giá tính dễ bị tổn thương cần đầy đủ thông tin

về KT-XH, phản ánh mức độ phơi bày và tính dễ bị tổn thương cũng như những lựa chọn địa phương, các mục tiêu và khả năng thích ứng với BĐKH.

+ Tiếp cận từ trên xuống: là phân tích các quan điểm, chủ trương và chính

sách BĐKH xuất phát từ chính quyền trung ương, cơ quan QLNN ở địa phương được vận dụng một cách hợp lý và hiệu quả, sát với thực tế như thế nào.

- Do lĩnh vực nghiên cứu chính sách BĐKH mang tính hệ thống, liên ngành,

liên lĩnh vực, nên luận án sẽ sử dụng cách tiếp cận tích hợp của nhiều ngành khoa học khác nhau như kinh tế học, xã hội học, văn hóa học, dân tộc học, luật học,

chính sách công, khoa học môi trường, khí hậu học, địa lý học, khu vực học…Việc

sử dụng phương pháp tiếp cận tích hợp hệ thống và kiến thức liên ngành nhằm nhận

diện, phân tích, đánh giá hiện trạng hệ thống chính sách BĐKH, cũng như đề xuất

quan điểm và giải pháp bổ sung và hoàn thiện chính sách ứng phó với BĐKH ở

vùng TNB.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

4.2.1. Phương pháp thu thập, xử lý thông tin thứ cấp

Luận án sẽ tổng hợp và phân tích các nguồn tài liệu trong và ngoài nước:

- Tập trung phân tích các quan điểm về chính sách và thực hiện chính sách

ứng phó với BĐKH.

- Thu thập thông tin và phân tích kinh nghiệm thực hiện chính sách BĐKH của một số quốc gia, lãnh thổ có điều kiện tương đồng với Việt Nam và rút ra bài

học cho vùng TNB.

- Thu thập các văn bản chính sách về BĐKH từ các cơ quan ban hành cơ chế

chính sách liên quan đến ứng phó với BĐKH: Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT, Bộ Tài

chính, Bộ KH&ĐT.

- Thu thập thông tin, tài liệu thống kê, báo cáo của các sở, ban, ngành tại các

tỉnh về luận án tiến hành khảo sát.

- Đồng thời, nghiên cứu sẽ thừa kế các kết quả nghiên cứu trước đây đã đề cập

trong tổng quan nghiên cứu đề tài...

4.2.2. Phương pháp nghiên cứu đánh giá chính sách

Nghiên cứu chính sách là một quá trình mang tính hệ thống thường gồm các

hoạt động sau: (i) Phân tích và đánh giá các điểm bất hợp lý, hiệu quả và tính khả

thi của các chính sách nhằm đạt được các mục tiêu đề ra; (ii) Đánh giá và phân tích

ảnh hưởng của chính sách; (iii) Đưa ra các khuyến nghị và đề xuất các lựa chọn

6

nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra.

Đề tài sẽ rà soát các chính sách liên quan đến ứng phó với BĐKH ở trung ương và địa phương, từ đó xác định những bất cập, thiếu hụt của chính sách. Đề tài

sẽ đánh giá những ảnh hưởng và bất cập, thiếu hụt của chính sách theo chu kỳ thực

hiện: trước - trong và sau thực hiện chính sách [211].

4.2.3. Phương pháp thu thập, xử lý thông tin sơ cấp 4.2.3.1. Khảo sát thực tế

Chính sách ứng phó với BĐKH được thực hiện ở 13 tỉnh/thành phố vùng

TNB. Do đặc thù về sinh thái - tự nhiên và KT-XH ở mỗi địa phương, mỗi tiểu

vùng ST-XH khác nhau, dẫn đến việc thực hiện chính sách cũng có những điều

khác nhau. Do hạn chế về các nguồn lực thực hiện, nên luận án lựa chọn 8 địa

phương để tiến hành khảo sát: Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp, Tp Cần

Thơ, An Giang, Cà Mau, và Sóc Trăng. Tại mỗi địa phương khảo sát, các thông tin

thu thập chung bao gồm: tình hình KT-XH, các văn bản ban hành của địa phương

nhằm thực hiện chính sách về BĐKH của địa phương.

4.2.3.2. Phương pháp phỏng vấn sâu

Luận án sẽ lựa chọn một số chuyên gia sâu về BĐKH (cán bộ hoặch định

chính sách, nghiên cứu, giảng dạy, tư vấn chính sách BĐKH; một số nhà quản lý ở

địa phương tiến hành khảo sát, để trao đổi và phỏng vấn về: (i) thực hiện chính sách

ứng phó với BĐKH hiện nay; (ii) các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện

chính sách BĐKH; (iii) các bất cập, hạn chế trong quá trình thực hiện chính sách;

và (iv) các đề xuất kiến nghị nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách BĐKH.

4.2.3.3. Phương pháp điều tra theo bảng hỏi

- Cách chọn mẫu khảo sát

+ Để đảm bảo tính đại diện cho các địa phương mẫu khảo sát trải rộng trên

phạm vi 8/13 tỉnh/thành phố: Bến Tre, Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp, Tp Cần

Thơ, An Giang, Cà Mau, Sóc Trăng.

+ Do một trong những mục tiêu chính của khảo sát là tập trung vào vấn đề phân

tích thực hiện chính sách ứng phó BĐKH nên người trả lời phỏng vấn được lựa chọn

là các cán bộ công chức của các sở/ngành của 8 địa phương vùng TNB. Luận án sử

dụng phương pháp chọn mẫu có chủ đích ở 7 sở/ngành (Sở TN&MT, KH&ĐT, NN&PTNT, GTVT, Xây dựng, Công thương, LĐ&TBXH1) và ngẫu nhiên người trả

1 Sở TN&MT là cơ quan chủ trì và thực trực của BCĐ 158 cấp tỉnh/thành, 6 sở còn lại có vai trò chính trong Ban Chỉ đạo thực hiện Kế hoạch hành động ứng phó BĐKH tại các tỉnh/thành vùng TNB.

7

lời phiếu từ danh sách cán bộ, công chức của 7 sở thuộc 8 tỉnh vùng TNB.

+ Quy mô mẫu được lựa chọn là 305 phiếu. Một quy mô mẫu hợp lý vừa đảm

bảo mức độ ý nghĩa thống kê của số liệu vừa phù hợp với phạm vi, quy mô và của

luận án.

Bảng 1. Số lượng mẫu phiếu điều tra theo tỉnh

Sở

Cà Mau 7 7 7 5 5 5 5

Tp Cần Thơ 8 5 6 5 6 5 6

Long An 5 4 10 5 5 5 5

Bến Tre 5 5 8 5 5 3 4

Tiền Giang 5 6 5 4 6 5 5

Đồng Tháp 7 3 5 5 9 1 5

Sóc Trăng 7 6 5 3 5 5 6

An Giang 7 8 9 5 5 2 5

Sở TN&MT Sở KH&ĐT Sở NN&PTNT Sở GTVT Sở Xây dựng Sở Công thương Sở LĐ-TBXH Tổng

305

- Nội dung điều tra mẫu

Để có thể thu được một bức tranh toàn diện nhất về thực trạng thực hiện chính

sách ứng phó với BĐKH của vùng TNB, nội dung của khảo sát sẽ bao hàm từ các

biểu hiện của BĐKH cho tới các giải pháp ứng phó, và các vấn đề về thực hiện

chính sách. Nội dung chính của khảo sát được chia thành các vấn đề được liệt kê cụ

thể dưới đây: Đánh giá về biểu hiện và ảnh hưởng của BĐKH đến phát triển KT-

XH. Đánh giá về thực trạng xây dựng kế hoạch triển khai, thực hiện các chính sách

ứng phó BĐKH. Đánh giá về các hoạt động tuyên truyền chính sách ứng phó

BĐKH. Đánh giá về phân công, phối hợp giữa các chủ thể có liên quan trong việc

thực hiện chính sách ứng phó BĐKH. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó

BĐKH. Các kiến nghị nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách ứng phó BĐKH.

4.2.4. Phương pháp phân tích SWOT

Đây là phương pháp đánh giá tổng hợp các yếu tố định lượng và định tính có

ảnh hưởng đến thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB, trên cơ sở phân tích tổng

hợp cả 4 mặt: điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và nguy cơ của vùng để xem xét tiềm

nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện chính sách BĐKH ở vùng trong giai đoạn tới

dựa trên cơ sở phân tích lợi thế so sánh vùng.

4.2.5. Phương pháp xây dựng bộ chỉ số đánh giá

Để phân tích sâu hơn các vấn đề về BĐKH, luận án xây dựng một số chỉ số

tổng hợp, để đánh giá như: chỉ số đánh giá biểu hiện; chỉ số năng lực ứng phó

8

BĐKH; chỉ số hiệu quả ứng phó BĐKH. (xem phụ lục 3)

4.2.6. Kỹ thuật sử dụng

- Ngoài các phương pháp phân tích định tính, đề tài sẽ sử dụng một số kỹ thuật

toán và kinh tế lượng để phân tích số liệu.

- Phần mềm chính được sử dụng cho các thống kê là STATA.

4.2.7. Khung phân tích của luận án

Từ mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi, cách tiếp cận và phương pháp

Khung khổ lý luận về thực hiện chính sách BĐKH

H K Đ B h c á s

Thực hiện chính sách BĐKH

h n í h c n ệ i h c ự h t n ế đ

g n ở ư h h n ả ố t n â h n c á C

Chỉ tiêu kỳ vọng của thực hiện chính sách

Ban hành văn bản thực hiện chính sách

Truyền thông chính sách BĐKH

Phối hợp tổ chức thực hiện chính sách

Tổ chức triển khai thực thi chính sách

Kiểm tra, giám sát thực hiện chích sách

á i g h n á đ , h n á s o S

Đánh giá và kết quả của việc thực hiện chính sách BĐKH

Chỉ tiêu thực tế đạt được

Bất cập, hạn chế trong thực hiện chính sách BĐKH

Bối cảnh phát triển mới

Quan điểm và giải pháp - Quan điểm - Nhóm giải pháp chung - Nhóm giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách thích ứng BĐKH - Nhóm giải pháp hoàn thiện thực hiện chính sách giảm nhẹ ảnh hưởng BĐKH

nghiên cứu, luận án xây dựng khung phân tích như sau:

9

Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2020

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 5.1. Những đóng góp mới của luận án về học thuật và lý luận

Việc thực hiện luận án sẽ có những đóng góp mới sau đây về lý luận và học thuật: - Hệ thống hóa được các quan điểm về chính sách công và đưa ra được khái niệm

về chính sách ứng phó với BĐKH và thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH.

- Phân tích, làm rõ được các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách BĐKH (nhân tố bản thân chính sách, nhân tố khách quan, nhân tố chủ quan), 4 tiêu chí đánh giá chính sách và quy trình thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH, bao gồm 5 bước thực hiện.

- Xây dựng được phương pháp đánh giá quá trình thực hiện chính sách ứng phó BĐKH, để từ đó chỉ ra rằng, hoàn thiện thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH không chỉ nhằm để giải quyết những bất cập trước mắt mà còn định hướng cho việc thực hiện chính sách theo hướng chủ động thích ứng với BĐKH phù hợp với đặc điểm của từng vùng, miền, địa phương trong điều kiện bối cảnh mới. 5.2. Những đóng góp mới của luận án về thực tiễn

Bên cạnh các đóng góp mới về phương diện lý luận và học thuật, luận án còn

có những đóng góp mới về thực tiễn, như sau:

- Việc nghiên cứu của luận án đã góp phần làm rõ vấn đền thực hiện chính sách đối với một lĩnh vực cụ thể là BĐKH: từ xây dựng kế hoạch triển khai chính sách; tuyên truyền quá trình triển khai chính sách; tổ chức thực hiện chính sách; phân công, phối hợp giữa các chủ thể trong việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH; kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách.

- Luận án đã góp phần cụ thể hóa việc thực hiện chính sách ứng phó với

BĐKH cho một vùng, địa phương cụ thể - ở đây là vùng TNB.

- Đồng thời luận án đã hình thành nguồn thông tin mới về thực trạng chính sách ứng phó với BĐKH và kết quả triển khai thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH vùng TNB để các cơ quan QLNN về BĐKH ở Trung ương, địa phương và các nhà nghiên cứu, giảng dạy có thêm nguồn thông tin hữu ích để tham khảo. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận

- Luận án đã hệ thống hoá, làm rõ hơn về mặt lý thuyết về chính sách công, các biểu hiện của chính sách, thực hiện chính sách; vai trò của thực hiện chính sách trong quy chu trình chính sách; phân tích các chủ thể của thực hiện chính sách.

10

- Luận án đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống khung lý luận về thực hiện chính sách thích ứng với BĐKH, bao gồm các khái niệm, nội hàm, các nội dung quy trìn thực hiện chính sách.

- Luận án xây dựng và hoàn thiện hệ thống khung lý luận về các yếu tố tác

động đến thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH.

- Trên cơ sở phân tích, hệ thống hoá thực tiễn kinh nghiệm thực hiện chính

sách ứng phó với BĐKH ở một số quốc gia, luận án cũng hé mở nhiều hàm ý cho

việc hoàn thiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Dựa trên những phân tích, đánh giá thực trạng và tác động của việc thực hiện

chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB, luận án có những đóng góp thực tiễn

như sau:

- Việc luận án nghiên cứu một cách hệ thống về thực hiện chính sách ứng phó

với BĐKH, lại nghiên cứu ở một khu vực cụ thể là vùng TNB sẽ góp phần làm rõ

các vấn đề mang tính thực tiễn về chính sách BĐKH. Trong bối cảnh vùng đang hội

nhập quốc tế, xu hướng liên kết vùng và ảnh hưởng của cuộc cách mạng công

nghiệp lần thứ tư.

- Luận án làm rõ được các yếu tố mang tính đặc thù ảnh hưởng đến thực hiện

chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.

- Luận án góp phần nâng cao nhận thức, hiểu biết của các cơ quan quản lý Nhà

nước về BĐKH ở cấp Trung ương và các địa phương vùng TNB hiện nay, và vai trò

của việc thực hiện chính sách trong ứng phó với BĐKH.

- Cuối cùng luận án đưa ra cơ sở khoa học để các nhà hoạch định chính sách

về BĐKH tham khảo cho quá trình hoàn thiện chính sách BĐKH ở Việt Nam nói

chung và vùng TNB nói riêng.

7. Cơ cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội

dung luận án sẽ bao gồm các chương cụ thể như sau:

Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu về thực hiện chính sách ứng phó với

biến đổi khí hậu

Chương 2: Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu

Chương 3: Thực trạng thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ở

vùng Tây Nam Bộ

Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách ứng

11

phó với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ.

CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

1.1. Các công trình nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài về thực hiện chính

sách ứng phó với biến đổi khí hậu

Chính sách và thực hiện chính sách về BĐKH đã được các nhà khoa học, và

các tổ chức quốc tế quan tâm nghiên cứu từ rất sớm, sau đây là một số công trình

nghiên cứu tiêu biểu:

Các nghiên cứu về tác động của BĐKH ở vùng Tây Nam Bộ Báo cáo của ADB (1994) đưa ra nhận định vùng ĐBSCL của Việt Nam nằm

trong nhóm có nguy cơ tổn thương cao do tác động của hiện tượng BĐKH và NBD

[188]. Tiếp đến báo cáo của UNFCCC (2003) đã đưa ra những bằng chứng cho thấy

trong suốt 30 năm vừa qua, mực nước quan trắc dọc theo bờ biển Việt Nam có dấu

hiệu gia tăng, ước tính đến năm 2050 mực nước biển sẽ gia tăng thêm 33cm và đến

năm 2100 sẽ tăng thêm 1m. Với nguy cơ này, vùng ĐBSCL của Việt Nam sẽ chịu

tổn thất mỗi năm chừng 17 tỉ USD (chiếm 80% tổng sản phẩm nội địa GDP).

Nghiên cứu của Reiner và các cộng sự (2004) dựa trên mô hình toán thuỷ lực đã đưa ra phỏng đoán các diễn biến ngập lũ ở TNB trong thời đoạn tháng 8 đến tháng 11 với kịch bản mực NBD 20 cm và 50 cm. Kết quả cho thấy đường đồng mức ngập lũ sẽ mở rộng tương ứng với mức nước dâng 20 cm và 50 cm sẽ là 25 km và 50 km về phía hạ lưu. Ở giai đoạn đầu của lũ (tháng 8), mực nước trung bình vùng Đồng bằng sẽ gia tăng thêm 14,1cm (khi NBD 20cm) và 32,2 cm (khi NBD 50 cm). Đến kỳ đỉnh lũ (tháng 10), mức gia tăng mức ngập tương ứng này sẽ là 11,9 cm và 27,4 cm. Và nếu như Chính phủ và chính quyền các địa phương vùng TNB không có những chính sách nhằm ứng phó thì BĐKH sẽ ảnh hưởng rất lớn đến KT-XH, sinh kế cộng đồng dân cư [262, tr.89-107]. Báo cáo của Nicholls và Lowe (2006) đã tính toán khi mực nước biển dâng cao 40 cm, số nạn nhân của lũ trên thế giới hiện nay là 13 triệu người sẽ tăng lên 94 triệu người. Khoảng 20% trong số họ sống ở vùng Đông Nam Á, trong đó vùng bị ảnh hưởng nặng nhất là vùng TNB và tiếp đến là vùng ĐBSH [238, tr.1073, 1095].

12

Cũng theo kết quả phỏng đoán các BĐKH ở TNB từ các mô hình toán của Peng và cộng sự (2004) cho thấy, trong khoảng thập niên 2030-2040, nhiệt độ trung bình cũng như nhiệt độ lớn nhất và nhỏ nhất trong vùng TNB đều gia tăng, phổ biến tăng khoảng 2C. Khi nhiệt độ thấp không khí tăng lên 1C, năng suất lúa sẽ giảm đi khoảng 10% [244, tr.9971, 9975].

Nổi bật là các nghiên cứu của IPCC (2007, 2012, 2013) bên cạnh dự báo và

cập nhật các kịch bản về BĐKH và NBD trên toàn cầu, và các vùng ở Việt

Nam,Nghiên cứu cũng đã tập trung phân tích những tác động, tác động tiềm tàng

của BĐKH, NBD đến kinh tế, xã hội, môi trường, đặc biệt là sinh kế người dân.

Chuỗi các báo cáo của IPCC đã đưa ra khuyến cáo ba vùng châu thổ được xếp trong

nhóm cực kỳ nguy cơ do sự BĐKH là vùng hạ lưu sông Mê Kông (Việt Nam), sông

Ganges - Brahmaputra (Bangladesh) và sông Nile (Ai Cập) [227].

Dựa trên những kết quả dự báo của IPCC, nghiên cứu của Dasgupta và các

cộng sự (2007) cũng cho thấy những kết quả tương tự [253, tr.4136]. Việt Nam nằm

trong nhóm 5 quốc gia chịu ảnh hưởng cao nhất do BĐKH, và hai đồng bằng,

ĐBSH và ĐBSCL bị chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Khi NBD cao 1m, ước chừng

5,3% diện tích tự nhiên, 10,8% dân số, 10,2% GDP, 10,9% vùng đô thị, 7,2% diện

tích nông nghiệp và 28,9% vùng đất thấp sẽ bị ảnh hưởng. Rủi ro kép ở vùng TNB

(bao gồm cả hạn hán và lũ lụt) sẽ làm gia tăng với các trận mưa có cường độ cao và

các ngày hạn kéo dài [219, tr.45-59]. Dựa vào kết quả ghi lại ở trạm đo thuỷ triều ở

Việt Nam cho thấy trung bình mỗi năm mực nước biển ở Việt Nam đã tăng trong

khoảng 1,75-2,56mm/năm.

Báo cáo phát triển con người của UNDP (2008) đã chỉ ra rằng BĐKH là thách

thức lớn nhất của nhân loại trong thế kỷ XXI và những tác động của BĐKH đang

gây tổn thương trong một thế giới bất bình đẳng, như: các tổn thương về sản xuất

nông nghiệp và an ninh lương thực; tổn thương nguồn nước; tổn thương hệ sinh

thái; gia tăng nghèo đói và di cư, gây tổn thương sức khoẻ. Đồng thời, trên cơ sở

đó, báo cáo đưa ra những biện pháp về thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH

như: xác định các tiêu chí giảm nhẹ, đánh giá các bon, vai trò quản trị của Chính

phủ và tầm quan trọng của hợp tác quốc tế [168].

Nghiên cứu của Susmita Dasgupta (2007) cũng cho chúng ta thấy tác động của BĐKH và NBD. Các kết quả nghiên cứu cho thấy 0,31% (194.309 km2) vùng lãnh

thổ của 84 nước đang phát triển bị ảnh hưởng khi mực NBD cao 1m. Việt Nam

đứng đầu danh sách 10 nước bị ảnh hưởng về dân số, khu vực đô thị và đất ngập

nước (khoảng 10%) [253, tr.4136].

Tiếp đó UNDP (2011) một lần nữa tổ chức này đã khẳng định các hoạt động của con người với nhịp độ và quy mô chưa từng thấy, đã và đang biến đổi môi

13

trường tự nhiên và góp phần làm BĐKH. Báo cáo cũng đã chỉ rõ các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương dưới tác động của BĐKH, gồm: cư dân miền núi, cộng đồng

ở châu thổ, người dân đảo, các dân tộc bản địa, người nghèo thành thị. BĐKH sẽ ảnh hưởng đến nhóm đối tượng này gây tổn thương kinh tế, sức khoẻ, sinh kế bị đe

doạ và đặc biệt là tạo nên luồng di cư [169]. Hay nghiên cứu của Bingxin Yu,

Tingju Zhu, Clemens Breisinger, Nguyen Manh Hai (2013) đã đánh giá ảnh hưởng

của BĐKH đến sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam và các ứng phó chính sách của ngành nông nghiệp để giảm thiểu tác động bất lợi của thiên tai và BĐKH [268].

Nghiên cứu của Lê Anh Tuấn và Suppakorn Chinvanno (2011), đã cho thấy

các tác động và tác động tiềm tảng của BĐKH đến tài nguyên đất, tài nguyên nước,

đe doạ an ninh lương thực ở vùng TNB [261, tr.205-217]. Đồng thời, các tác giả

cũng đề xuất những biện pháp ứng phó hiệu quả ở khu vực này đó là: tập trung ứng

phó dựa vào cộng đồng và hệ sinh thái, tập trung vào các giải pháp phi công trình.

Và tổ chức IMHEN và UNDP (2015) đã xuất bản ấn phẩm đánh giá, phân tích một

cách đầy đủ các biểu hiện, tác động của thời tiết cực đoan đến môi trường tự nhiện,

KT-XH và PTBV đến các vùng ở Việt Nam. Sự biến đổi các hiện tượng thời tiết

cực đoan trong tương lai do BĐKH và quản lý rủi ro thiên tai ở Việt Nam [176].

Trước diễn biến và ảnh hưởng ngày càng nghiêm trọng của BĐKH đến vùng

TNB, đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tổ chức quốc tế về vấn đề này,

dưới các cách tiếp cận khác nhau: an ninh nguồn nước, ANLT, sụt lún... Trong

nhiều năm qua, nguồn nước sông Mê Kông vừa mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế nông nghiệp và thuỷ sản vùng TNB nhưng cũng là yếu tố hạn chế cho vấn đề dân

sinh trong khu vực. Nhờ nguồn nước dồi dào, khối lượng phù sa lớn và điều kiện

khí hậu tương đối thuận lợi, trong hàng thập niên vừa qua, vùng đồng bằng này là

nơi sản xuất sản lượng lương thực và thực phẩm lớn nhất nước. Mỗi năm sông Mê Kông chuyển về vùng đồng bằng này từ 450-475 tỷ m3 nước và tải khoảng 160 triệu tấn phù sa (Thorne et al., 2011). Mặt khác, nếu đem chia khối lượng nước và phù sa

trung bình của sông Mê Kông cho 18 triệu người dân sống ở đây thì mỗi năm, mỗi người dân có thể nhận từ 25.000-30.000m3 nước (gấp 5-6 lần lượng nước nội địa trung bình cho mỗi đầu người Việt Nam, vào khoảng là 4.500m3) và gần 8,5 tấn phù sa. Sông Mê Kông cũng mang lại một nguồn lợi cá tự nhiên rất lớn cho người dân Việt Nam, có thể cung cấp khoảng 35kg cá tự nhiên/năm cho mỗi người trong vùng [223]. Hay nghiên cứu của Simon Benedikter (2014) phân tích về vai trò của nước và sự thay đổi trong cách thức quản lý nguồn nước ở vùng TNB từ năm 1975 trở lại

đây [195, tr.547-587].

14

Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả do nhà địa chất P. S. J. Minderhoud đứng đầu, đến từ trường Đại học Utrech Hà Lan (2019) đã sử dụng phương pháp

mô hình số và mô hình 3D trên toàn ĐBSCL đã tính toán lún đất dựa trên phương pháp InSAR và đánh giá tương quan sụt lún đất với khai thác nước dưới đất.

ĐBSCL hiện có độ cao trung bình cực thấp, cao hơn mực nước biển khoảng 0,8m.

Mức cảnh báo này thấp hơn nhiều so với giả định trước đó khoảng 2,6m. Nguyên

nhân của hiện tượng trên là do khai thác nước ngầm quá mức, kết hợp với sự gia tăng mực nước biển do BĐKH, đã làm cho nền đất bị sụt lún, giảm trầm tích trên bề

mặt, gây gia tăng tính dễ bị tổn thương do lũ lụt và nước biển dâng do bão và cuối

cùng ĐBSCL có thể phải đối diện với nguy cơ bị ngập lụt toàn bộ [233].

Các công trình nghiên cứu về chính sách và thực hiện chính sách ứng phó

với BĐKH

Các vấn đề nghiên cứu về chính sách ứng phó với BĐKH đã được các nhà

khoa học quan tâm nghiên cứu từ rất sớm, tập trung vào các lĩnh vực giảm khí thải

KNK, chính sách tài chính, chính sách năng lượng, xây dựng chiến lược giảm nhẹ

rủi ro khí hậu. Sau đây là các công trình tiêu biểu:

Trong nghiên cứu của (Ian Burton, Elizabeth Malone, Saleemul Huq, 2004) đã

đưa ra khung chính sách thích ứng được xây dựng trên 4 nguyên tắc chính, làm nền

tảng để có thể phát triển các hành động tích hợp thích ứng với BĐKH: (i) sự thích

ứng với BĐKH ngắn hạn và các hiện tượng cực đoan đóng vai trò là điểm xuất phát

để giảm tính dễ bị tổn thương đối với sự thay đổi khí hậu lâu dài; (ii) sự thích nghi xảy ra ở các cấp khác nhau trong xã hội, bao gồm cả cấp địa phương; (iii) chính

sách thích ứng và các biện pháp cần được đánh giá trong một bối cảnh phát triển; và

(iv) chiến lược thích ứng và quá trình thực hiện của các bên liên quan cũng quan

trọng không kém [198].

Nghiên cứu của (Godefroy Grosijean, 2014) đã tập trungphân tích các cuộc

tranh luận nên hay không nên cải cách Hệ thống thương mại phát thải giữa các quốc

gia ở EU [218]. Để làm rõ hơn nhận định trên nghiên cứu của (Jos Delbeke và Peter

vis, 2016) đã giải thích các chính sách về khí hậu của EU, phương pháp tiếp cận, đánh giá cũng như cách lựa chọn các công cụ, mức độ hiệu quả của chính sách để

thích ứng với những thách thức phía trước [205]. Các tác giả cuốn sách chia sẻ không có một chính sách duy nhất nào có thể giảm phát thải KNK, mà phải kết hợp các chính sách lại với nhau một cách chặt chẽ - đây là một thách thức lớn đặt ra cho EU trong giai đoạn tới. Bên cạnh đó, cuốn sách cũng đề cập đến những nỗ lực của

EU để giảm phát thải KNK và đưa ra những chính sách đầy tham vọng khi muốn

15

tách rời phát thải và tăng trưởng kinh tế. BĐKH không phải là vấn đề của riêng EU, mà là của tất cả các quốc gia, các khu vực. Chính vì vậy, cần sự chung tay góp sức

của tất cả các nước; hiệu quả và chi phí của các chính sách sẽ là chìa khóa để xác định tốc độ tiến bộ của mỗi nước.

Trong kỳ đàm phán thứ 4 về việc Anh rời khỏi Liên minh châu Âu giai đoạn

2016-2017, Ủy ban Chiến lược Kinh doanh, công nghiệp và năng lượng của Hạ

viện Anh đã đưa ra báo cáo [265]. Báo cáo đã đề cập đến những bất lợi và khó khăn về chính sách năng lượng và BĐKH, đặc biệt là Hệ thống Thương mại Phát thải của

EU (ETS) khi Anh rời khỏi liên minh. Ông Greg Clark Clark - Bộ trưởng Ngoại

giao cũng đã thừa nhận Anh có lợi khi hợp tác với các đối tác của EU, và khuyến

nghị Chính phủ nên tìm cách tránh gây gián đoạn cho ngành năng lượng và chương

trình nghị sự về BĐKH trong nước. Chính phủ nên duy trì tư cách thành viên của

EU ETS cho đến ít nhất là năm 2020. Cuối cùng nghiên cứu đưa ra những lo ngại

trong tương lai các tiêu chuẩn của Anh sẽ khác xa với các nước châu Âu… Báo cáo

cũng đề cập đến nhiều chính sách quan trọng liên quan đến chính sách năng lượng

và BĐKH là chiến lược dài hạn và không phụ thuộc vào các cuộc đàm phán Brexit.

Đề cập đến chính sách quốc gia nghiên cứu của MESTI (2013) đã nhấn mạnh

chính sách ứng phó với BĐKH của Chính phủ Ghana trong bối cảnh ưu tiên PTBV,

hướng tới những cơ hội và lợi ích của một nền kinh tế xanh để đối phó với những

thách thức của BĐKH. Chính sách của Ghana được chia làm 3 giai đoạn: (i) trình

bày chính sách BĐKH quốc gia, phân tích tình hình hiện tại và đưa ra mục tiêu và tầm nhìn rõ ràng; (ii) giai đoạn hai trình bày chi tiết hơn các sáng kiến và chương

trình được xác định trong Chính sách biến đổi khí hậu quốc gia dưới hình thức

Chương trình hành động để thực hiện; và (iii) giai đoạn ba sẽ trình bày chi tiết các

chương trình và hành động về BĐKH được xác định trong giai đoạn hai, có thể

được lồng ghép và gắn với thời hạn và ngân sách theo kế hoạch hoạt động hàng

năm của các đơn vị thực hiện. Ba mục tiêu của chính sách là thích ứng có hiệu quả,

xã hội phát triển và giảm nhẹ. Để giải quyết các vấn đề thích ứng, bốn lĩnh vực

thích ứng đã được Ghana xác định, đó là (i) vấn đề năng lượng và cơ sở hạ tầng, (ii) quản lý tài nguyên thiên nhiên, (iii) nông nghiệp và an ninh lương thực, và (iv)

phòng ngừa thảm hoạ và phản ứng với thảm họa [257].

Bên cạnh đó, các nghiên cứu của các tác giả Jung, Huicheul & Sungwoo Jeon & Dong Kun Lee (2012), Kim Jong-Jin (2013), Norton Rose Fulbright (2011), và Niederhafner, Stefan (2014) tựu chung lại, cho thấy nhận thức rõ về mối đe dọa của

BĐKH cũng như trách nhiệm của mình đối với vấn đề này [224], [229], [240],

16

[252]. Chính phủ Hàn Quốc đã triển khai thực hiện các chính sách theo cách tiếp cận từ trên xuống (top-down) đối với ứng phó với BĐKH. Bộ máy điều hành công

tác ứng phó với BĐKH được thành lập, bao gồm các cơ quan: Ủy ban Chính phủ ứng phó với biến đổi khí hậu được thành lập vào tháng 4/1998; Trung tâm Thích

ứng với Biến đổi Khí hậu của Hàn Quốc (KACCC) được thành lập vào tháng

7/1999; Ủy ban đặc biệt về biến đổi khí hậu trực thuộc Quốc hội được thành lập vào

tháng 3/2001; Lực lượng đặc nhiệm của các doanh nghiệp sử dụng nhiều năng lượng được thành lập vào tháng 11/2004 để tìm cách giảm phát thải KNK. Để tạo

cơ sở pháp lý cho các cơ quan điều hành hoạt động, tháng 4/2010, Hàn Quốc ban

hành Luật khung về các bon thấp và tăng trưởng xanh. Luật này quy định chế độ bắt

buộc báo cáo về lượng khí thải, đồng thời đưa ra một khung khổ cho quy trình pháp

lý cần thiết để đạt được cam kết theo Thỏa thuận Cophenhagen. Luật khung này

được xếp vị trí cao hơn các luật khác liên quan đến các bon thấp và là đạo luật toàn

diện đề cập đến tất cả các vấn đề có liên quan đến năng lượng, BĐKH và PTBV.

Bên cạnh đó, Chính phủ Hàn Quốc bắt đầu các biện pháp ứng phó với BĐKH vào

năm 1999. Kế hoạch Ứng phó toàn diện đã được điều chỉnh 3 lần trong thập niên

2000 và đến này đã có kế hoạch thứ năm.

Hay các nghiên cứu của Okazumi, Toshio (2008), và Notomo, Takuya

(2013), những báo cáo trên đã tập trung phân tích vào thực hiện chính sách ứng phó

với BĐKH của Nhật Bản, trong đó, Chính phủ Nhật đã chú trọng vào xây dựng một

xã hội các bon thấp, giảm phát thải trong lĩnh vực giao thông, xây dựng toà nhà xanh, năng lượng tái tạo, năng lượng xanh [259], [254].

Công trình của Diana Carney (2003) đã tập trung tóm tắt các quan điểm tranh luận dựa trên nhiều cách tiếp cận về sinh kế bền vững và hàm ý cách tối đa hóa đóng góp của nó trong việc giảm nghèo. Khi đánh giá về giá trị của sinh kế bền vững, tác giả cho rằng việc sử dụng mô hình sinh kế bền vững có thể mở ra nhiều cơ hội cho người nghèo để bàn luận về các vấn đề cơ sở của sự nghèo nàn [199].

Hay các nghiên cứu thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH của Hà Lan, là

quốc gia có phần rất lớn diện tích lãnh thổ thấp hơn mực nước biển, nên rất dễ chịu

ảnh hưởng tiêu cực với các hiệu ứng do BĐKH gây ra. Để PTBV, người Hà Lan

luôn phải tìm cách đương đầu với các thách thức ngày càng hiện hữu của BĐKH và

NBD. Thống kê cho thấy tổn thất tài chính của Hà Lan do lũ lụt, hạn hán và đuối

nhiệt trong giai đoạn đến năm 2050 sẽ vào khoảng 71 tỷ euro [206]. Để giảm thiểu

tác động của BĐKH, chính sách của chính phủ Hà Lan tập trung vào giải quyết các

vấn đề sau đây: thích ứng với BĐKH (bằng cách thực hiện các biện pháp ngăn ngừa

lũ lụt và bảo vệ nguồn cung cấp nước ngọt, sản xuất nông nghiệp, môi trường và

17

sức khoẻ…); giảm phát thải KNK (bằng cách chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch

sang các nguồn năng lượng bền vững, như: năng lượng mặt trời và năng lượng gió,

chăn nuôi gia súc...) [255]. Tháng 12/2016, Chính phủ Hà Lan cho ra mắt Chiến

lược Quốc gia về thích ứng với BĐKH (NAS). Chiến lược dựa trên nghiên cứu mới

nhất trong nhiều lĩnh vực và so sánh các kịch bản khác nhau này giới thiệu nhiều

sáng kiến mới giúp thúc đẩy những kế hoạch đang thực hiện. Chiến lược cho thấy,

BĐKH mang lại những thách thức nhưng cũng tạo ra nhiều cơ hội, cần khai thác

chúng ở mức độ cao nhất có thể [235]. Bên cạnh đó, chính phủ Hà Lan cũng đánh

giá BĐKH cũng có thể tạo ra những cơ hội mới, có thể nhiều quốc gia có nhiều nhu

cầu về chuyên môn của Hà Lan trong quản lý nước, an toàn lũ, hệ thống phân phối

nước, NLTT và nông nghiệp sáng tạo. Ảnh hưởng của BĐKH ở khu vực phía Nam

và phía Đông có thể tạo ra những lợi thế cạnh tranh cho nông nghiệp Hà Lan [235].

Ngoài một chiến lược ứng phó BĐKH chi tiết nêu trên, Hà Lan còn có một chiến

lược PTBV dành riêng cho khu vực đồng bằng có tên gọi Chương trình phát triển

Đồng bằng (Delta Programme). Chương trình này tập trung vào xử lý các vấn đề (i)

an toàn nước, (ii) nước ngọt và (iii) sử dụng không gian nước [46]. Có thể thấy

những kinh nghiệm của Hà Lan trong thực hiện chính sách ứng phó với tác động

BĐKH đặc biệt rất hữu ích cho kinh nghiệm ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.

Canada là một trong những quốc gia đi đầu thế giới về duy trì PTBV đồng

thời đối phó hiệu quả với BĐKH. Nhiều khu vực Canada đã và đang phải đối phó

với tình trạng xâm nhập mặn, NBD và lũ lụt nghiêm trọng, khá tương đồng với khu

vực vùng ĐBSCL của Việt Nam. Lấy ví dụ, thành phố Vancouver kể từ năm 2005

trở lại đây, đã liên tục gặp tình trạng NBD cao dẫn đến lũ lụt, với tần suất nhiều

bằng cả 40 năm trở về trước [251]. Đặc trưng về thực hiện PTBV và ứng phó với

BĐKH ở Canada được thể hiện trong các báo cáo hàng năm với một bộ chỉ tiêu

PTBV và thích ứng với BĐKH, dựa vào các chỉ tiêu sau: (i) Sự thay đổi về khí hậu,

được đánh giá dựa vào lượng KNK (lượng KNK chủ yếu do các hoạt động của con

người tạo ra như carbon dioxide, nitrous oxide, và khí methane) trong bầu khí

quyển của Trái Đất; (ii) Chất lượng không khí, được đánh giá dựa vào tỷ lệ phần

trăm các chất gây ô nhiễm trong bầu khí quyển so với mức tối đa cho phép; (iii)

Chất lượng nước, được đánh giá dựa vào tỷ lệ phần trăm dân số ở đô thị liên quan

đến các nhà máy xử lý nước thải công cộng; (iv) Sự đa dạng sinh học, vốn tự nhiên

được đánh giá dựa vào sự thay đổi về tình trạng các loài đang gặp nguy hiểm.

18

Đề cập đến vai trò của chính quyền địa phương, vùng trong thực hiện chính sách BĐKH, các nghiên cứu của Bjorkum, I. (2005), Fei Teng & Alun Gu (2007),

và Chmutia, K., Zhu, J., Riffat, S. (2012) đã cho thấy, ở Trung Quốc chính quyền địa phương trở thành một chủ thể không thể thiếu trong quá trình thực hiện chính

sách này. Trong đó, Trung Quốc đã hình thành được bộ máy quản lý và thực thi

chính sách đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Chính quyền có vai trò quan

trong đối với việc xử lý xung đột trong quá trình thực hiện chính sách BĐKH ở Trung Quốc. Bên cạnh đó để các chính sách đi vào thực tiễn một cách nhanh chóng

và phát huy hiệu lực, chính quyền sử dụng nhiều biện pháp khuyến khích, khen

thưởng xử phạt đối với cán bộ thực thi chính sách. Chính quyền Trung ương phân

cấp, tăng nhiều quyền hơn cho chính quyền địa phương trong việc xử lý những

công ty thuộc sở hữu của nhà nước Trung ương đang hoạt động ở địa phương có

phát thải KNK vượt quy định. Đồng thời, đẩy mạnh sự tham gia của khu vực tư

nhân và tạo điều kiện cho tổ chức xã hội dân sự tham gia tích cực vào việc tương

tác với chính quyền các cấp trong suốt quá trình chính sách ứng phó BĐKH [196],

[256], [201, tr.138, 151].

BĐKH thường mang tính phức tạp, đa chiều, qui mô lớn là thách thức lớn đối

với xã hội, đòi hỏi các nhà quản lý, các nhà khoa học cần có những tiếp cận mới,

mang tính tổng thể, liên ngành để đánh giá, quản lý khung thích ứng phù hợp. Tiếp

cận hệ tri thức, giá trị được xem là hướng nghiên cứu mang tính hệ thống, tổng hợp

để giải quyết vấn đề thách thức sẽ hạn chế được rủi ro, phát huy được nguồn lực lãnh thổ, nhất là đảm bảo tính bền vững trong tiến trình phát triển của xã hội. Trong

đó, việc xây dựng các hình thức quản trị thích ứng phù hợp với các hệ thống xã hội

(giá trị, qui tắc, tri thức) có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định của các cá

nhân, tổ chức [214, tr.60, 69], [202, tr.87, 96], [193]. Theo đó, một hệ thống sinh

thái xã hội được quan niệm là một thực thể địa vật lý kết hợp với các tác nhân và tổ

chức xã hội, có tính chất phức tạp, thích ứng và các mối quan hệ tương hỗ. Sự

chuyển đổi của hệ sinh thái xã hội có thể bắt đầu từ những thay đổi của nhân tố sinh

thái do tác động của BĐKH hoặc tác nhân khác, sau đó là thay đổi hệ sinh thái dẫn đến các thích nghi các tác nhân xã hội, gồm thay đổi sử dụng các dịch vụ hệ sinh

thái, sinh kế và quản trị tài nguyên [202, tr.87, 96].

Bên cạnh đó, Matthew J. Colloff et al. (2017) còn nhấn mạnh tác động của BĐKH đối với bảo tồn đa dạng sinh học tập trung nhiều vào hệ sinh thái, loài và duy trì tính toàn vẹn sinh thái, ít tập trung vào bối cảnh thể chế, các mối quan hệ với

xã hội, con người. Tuy nhiên, trong thập kỷ qua đã có những thay đổi trong tiếp cận

19

giải quyết tác động, đó là tập trung nhiều hơn vào khả năng thích ứng với biến đổi của các hệ sinh thái xã hội trên cơ sở tiếp cận khung thích ứng biến đổi TARA (the

Transformative Adaptation Research Alliance). Cách tiếp cận này cung cấp cách thức và cấu trúc để dự báo, xây dựng tiến trình thích ứng, nhất là giải quyết tính

không chắc chắn trong việc ra quyết định thích ứng theo quan điểm tổng hợp, hệ

thống về các giá trị, qui tắc, tri thức; hay nói cách khác, các tác nhân của xã hội

tham gia vào thực hiện khung thích ứng với những thay đổi mang tính toàn cầu. Có 3 nhân tố hình thành khung tiếp cận, đó là: hệ thống giá trị, qui tắc và tri thức; lộ

trình thích ứng và các dịch vụ thích ứng [202, tr.87, 96].

Đối với vùng ven biển, tác động của BĐKH đang trở thành thách thức cho các

cộng đồng sống dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Để ứng phó với những biến

đổi này, các lãnh thổ đã đề xuất các giải pháp mang tính vĩ mô, ở tầm quốc gia,

vùng, phần lớn các lãnh thổ trực tiếp bị ảnh hưởng ít được tham vấn nên việc thực

thi chính sách thường kém hiệu quả. Vì vậy, để giải quyết khó khăn này cần thúc

đẩy sự tham gia của địa phương trong xây dựng khả năng phục hồi và khả năng

thích ứng với các tác động trước mắt và lâu dài của BĐKH. Điển hình tại vùng eo

biển Madagascar, cách tiếp cận dựa vào cộng đồng trong can thiệp hỗ trợ khả năng

phục hồi và thích ứng sinh thái xã hội, dựa trên kết quả nghiên cứu tổng thể hệ

thống con người và hệ sinh thái trong lãnh thổ có cộng đồng dễ bị tổn thương bởi

các tác động của BĐKH, qua đó đã đề xuất khung thích ứng hợp lý. Các giải pháp

này đảm bảo tính khả thi bởi phù hợp với tình hình thực tế, chi phí thấp, khả năng thích ứng nhanh và khả năng chấp nhận của xã hội, do đó làm giảm tính dễ bị ảnh

hưởng của BĐKH ở các cộng đồng phụ thuộc vào tài nguyên [263, tr.87, 97].

Đặc biệt, các nghiên cứu về thích ứng với BĐKH dựa vào hệ sinh thái và dựa

vào cộng đồng là những hướng tiếp cận được nhiều học giả và tổ chức nghiên cứu

trong những năm gần đây, và được xem là phương pháp tiếp cận thích ứng nhằm

đảm bảo: (i) Cộng đồng là trung tâm của kế hoạch phát triển; (ii) Khung chính sách

thích ứng mang tính tổng thể phù hợp với bối cảnh thể chế, quản trị; (iii) Khuyến

khích phát triển và nhân rộng các giải pháp hiệu quả, nhất là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương [255].

Thích ứng dựa vào hệ sinh thái (EbA) được định nghĩa là làm giảm tính dễ bị tổn thương trước BĐKH của con người thông qua việc sử dụng và bảo tồn bền vững các hệ sinh thái, đặc biệt sử dụng năng lực của hệ sinh thái để cung cấp dịch vụ. Đây được xem là cơ sở hạ tầng xanh và có thể bổ sung hoặc thay thế cho các biện

pháp cơ sở hạ tầng cứng. Khung thích ứng được đề xuất thông qua phân tích mối

20

quan hệ tương hỗ, phụ thuộc lẫn nhau giữa các hệ sinh thái, dịch vụ hệ sinh thái và cộng đồng phụ thuộc theo nguyên tắc: thúc đẩy khả năng thích ứng của hệ sinh thái

dựa vào điều chỉnh các chương trình, hành động quản lý và cộng đồng; duy trì các dịch vụ hệ sinh thái, được xem là chìa khóa đo lường tính hiệu quả được cung cấp

[203], [234, tr.67-71], [207]. Một trong những thế mạnh của EbA là khả năng tối đa

hóa sự phối hợp giữa nhiều mục tiêu môi trường, kinh tế, xã hội; liên quan đến lợi

ích xã hội, các dự án EbA hợp lý có tiềm năng mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phương; là công cụ giúp các nhà hoạch định chính sách và quản lý giải quyết mối

nguy cơ từ BĐKH ảnh hưởng đến cuộc sống và sinh kế người dân [236], [234].

Thích ứng dựa vào cộng đồng (CbA) được phát triển bởi Action Research

trong công trình nghiên cứu về hành động thích ứng cộng đồng ở Bangladesh, với

mục tiêu chuyển đổi khả năng phục hồi trên cơ sở tập trung vào tăng cường 3 lĩnh

vực: tri thức, năng lực và thực tiễn cho các cá nhân, tổ chức; đồng thời, lồng ghép

và xây dựng các giải pháp thích ứng trong khung phát triển, dịch vụ của địa

phương. Cộng đồng được trao quyền, tham vấn trong qui trình lập kế hoạch, chính

sách phát triển theo hướng hỗ trợ từ dưới lên. Từ cách tiếp cận này có thể cung cấp

một khung thích ứng mang tính linh hoạt, hiệu quả, tiết kiệm chi phí thông qua phân

tích, áp dụng các tri thức, kinh nghiệm của cộng đồng [203], [247], [192], [243,

tr.385, 393]. Các tác giả đã nhấn mạnh vai trò của hệ sinh thái trong thích ứng với

BĐKH, xây dựng các bước nhằm hướng dẫn lồng ghép hệ sinh thái trong các kế

hoạch, chương trình thích ứng với BĐKH ở cấp quốc gia, vùng và địa phương.

1.2. Các nghiên cứu đã công bố trong nước liên quan đến luận án

Ở Việt Nam cho đến nay đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu được công

bố về BĐKH ở vùng TNB, dưới nhiều hình thức thực hiện khác nhau: Chương trình

nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp Nhà nước, Chương trình khoa học cấp Bộ,

Chương trình khoa học cấp Tỉnh, các nghiên cứu của trường Đại học, đặc biệt là

Trường Đại học Cần Thơ, các chương trình hợp tác quốc tế… Các nghiên cứu nói

trên được thực hiện theo các chiều cạnh như sau:

Các nghiên cứu về tác động của BĐKH và các hoạt động thích ứng với

BĐKH ở vùng TNB

Báo cáo của Viện QHTL miền Nam (2013) cho thấy Chính phủ Việt Nam đã

xây dựng và triển khai các quy hoạch trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông

thôn nhằm thích ứng với BĐKH. Công tác thích ứng với BĐKH được đưa ra thảo

luận cho từng lĩnh vực, trong đó có ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng khung quy hoạch hành động bao gồm lĩnh vực nông

nghiệp và phát triển nông thôn, và yêu cầu các cơ quan chức năng của ngành này

21

triển khai quy hoạch phát triển để ứng phó hoặc thích ứng với BĐKH. Nghiên cứu

trên cũng đã tập trung làm rõ các vấn đề: dự báo và đánh giá các tác động của

BĐKH giai đoạn trung và dài hạn 2020-2050; lập quy hoạch tổng thể thích ứng với

BĐKH và đề xuất các dự án ưu tiên. Và thông qua các hoạt động của dự án, khả

năng lập quy hoạch và thực hiện dự án về thích ứng BĐKH cho lĩnh vực nông

nghiệp và phát triển nông thôn [180].

Bên cạnh đó các nghiên cứu của Lê Anh Tuấn, Hoàng Thị Thuỷ (2014), Viện

Quản lý và Phát triển châu Á (2016) cũng đã cho thấy ĐBSCL được xác định là một

trong những vùng nhạy cảm và dễ phơi lộ với hiện tượng BĐKH và NBD [138]. Với

giả thiết rằng sinh kế của người dân địa phương đang bị ảnh hưởng mạnh do các thay

đổi bất thường của các điều kiện khí hậu tự nhiên. Nhiều khảo sát dựa vào phỏng vấn

bán cấu trúc và thảo luận ở cộng đồng về tác động của thiên tai và BĐKH lên sinh kế

được thực hiện trên ba vùng sinh thái thủy văn khác nhau đã được thực hiện ở vùng

đồng bằng. Kết quả khảo sát chỉ ra rằng những thông tin thu nhận được là hiện thực

và liên quan đến các mong ước cuộc sống của cư dân địa phương. Người dân sống

vùng nông thôn ven biển gặp khó khăn hơn người dân sống ở vùng lũ. Người nghèo,

trẻ em, người già, người khuyết tập, phụ nữ đơn thân và người dân tộc thiểu số thuộc

nhóm người dễ bị tổn thương. Các nghiên cứu trên đã đề xuất những mô hình sinh kế

bền vững thích ứng với khí hậu như mô hình: tôm - lúa, mô hình lúa - cá… Trái với

quan điểm của các nghiên cứu trên, Tổ chức (IOM, 2015) đã đưa ra các tiếp cận thích

ứng với BĐKH ở vùng này thông qua di cư. Do đó, Chính phủ, các địa phương tiếp

nhận dân di cư phải tạo các điều về cơ sở hạ tầng để tái định cư, cũng như các dịch vụ

xã hội cơ bản khác cho các lao động này [179].

Nghiên cứu của nhóm tác giả Nguyễn Đức Toàn (2015), Nguyễn Đình Tuấn

(2015) đã đánh giá tác động của BĐKH tới khu vực ĐBSCL; xây dựng bộ tiêu chí

để xây dựng làng sinh thái thích ứng với BĐKH sử dụng năng lượng sạch phục vụ

cho nhu cầu sinh hoạt trong điều kiện BĐKH và NBD. Đồng thời, đánh giá tác

động BĐKH đến tài nguyên nước và đất vùng nghiên cứu ứng với các kịch bản đã

xác định, phục vụ xây dựng khung hỗ trợ ra quyết định; nghiên cứu và thiết kế kiến

trúc hệ thống chính sách hỗ trợ ra quyết định phục vụ công tác quản lý và khai thác

tài nguyên nước và tài nguyên đất phù hợp với đồng bằng này [119], [139]. Và các

nghiên cứu khác của tác giả Trần Hồng Thái (2011, 2015) đã làm sáng tỏ hơn các

nhận định của 2 tác giả nói trên. Báo cáo cho thấy, các tác động và tác động tiềm

tàng của BĐKH ở vùng ĐBSCL: nước cho sinh hoạt, nước cho trồng trọt, nuôi

22

trường thuỷ sản và nước cho các hoạt động công nghiệp, và nếu không có những

giải pháp đồng bộ và kịp thời thì sẽ dẫn đến mất an ninh nguồn nước ở khu vực này

[100], [101]. Lê Ngọc Cầu (2017) đã xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá hiệu quả

các mô hình kinh tế cấp huyện thích ứng với BĐKH cho vùng ĐBSCL, và đãáp

dụng thử nghiệm bộ tiêu chí này cho huyện điển hình ở vùng ĐBSCL [30].

Bắt đầu từ năm 2015 vùng TNB phải đối mặt với những thách thức mới do

thiên tai, BĐKH gây ra. Do đó, vùng càng nhận được sự quan tâm nghiên cứu của các tổ chức và học giả, các nghiên cứu trong thời kỳ này chủ yếu xoay quanh các

vấn đề hạn hán và sạt lở sông, biển. Điển hình là báo cáo của Bộ NN&PTNT

(2016), nghiên cứu đã chỉ ra rằng, từ năm 2015 đến tháng 4/2016, các tỉnh vùng

TNB đã hứng chịu các đợt hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng nhất trong lịch sử. Hạn hán, xâm nhập mặn đã làm cho khoảng 160.000ha lúa của vùng TNB bị thiệt

hại, trong đó có hơn 50% diện tích bị mất trắng, làm cho khoảng 400.000 hộ thiếu nước sinh hoạt [16]. Tiếp đến, khu vực TNB liên tục phải hứng chịu những đợt sạt

lở bờ sông, bờ biển với tần suất và quy mô lớn chưa từng có trong hơn 300 năm qua

[17], [107]. Theo số liệu thống kê, hiện khu vực TNB có 564 điểm sạt lở với tổng

chiều dài trên 834km. Trong đó, sạt lở bờ sông 512 điểm với tổng chiều dài khoảng

566km (chủ yếu diễn ra dọc theo sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Cỏ Đông, Vàm

Cỏ Tây và các nhánh chính của hệ thống kênh, rạch); sạt lở bờ biển 52 điểm với

tổng chiều dài 268km [19]. Hay Báo cáo của Bộ TN&MT (2019) [29] cho thấy

BĐKH đã làm cho các hiện tượng thiên tai ở vùng TNB ngày càng diễn biến dị

thường và phức tạp, điển hình là lũ lụt. Theo công bố của nghiên cứu, từ năm 2000

đến nay có 4 năm xảy ra lũ lớn, 6 năm lũ vừa và 7 năm lũ nhỏ (lũ nhỏ không mang

lại nguồn lợi và nguy cơ xảy ra xâm nhập mặn sâu vào mùa khô kế tiếp). Lũ có xu

hướng đến muộn hơn so với trước đây, từ năm 2010 trở về trước, đỉnh lũ chính vụ

hầu hết xuất hiện vào cuối tháng 9, đầu tháng 10; từ năm 2010 trở lại đây, các trận

lũ hầu hết xuất hiện vào giữa tháng 10.

Hay nghiên cứu IMHEN (2018) đã cho thấy, hạn hán, lũ lụt, các hiện tượng khí hậu thời tiết cực đoan gia tăng, lượng mưa, phân bố mưa thay đổi làm tăng nguy cơ thiếu lương thực, xung đột tài nguyên, gia tăng ô nhiễm môi trường, tạo ra bất ổn xã hội do di dân, mất đất canh tác do xói lở, xâm nhập mặn là các thách thức được tạo ra từ tính chất làm gia tăng mức độ tác động của nhiều vấn đề hiện hữu khác của BĐKH [68]. Việt Nam được đánh giá là một trong những nước bị ảnh hưởng

nghiêm trọng của BĐKH, đặc biệt là khu vực ĐBSCL. Hiện nay, hầu hết các cửa

23

sông ở ĐBSCL bị xâm nhập mặn từ 50-70km. Đặc biệt, trên sông Vàm Cỏ, xâm nhập mặn vào sâu hơn 90km. Hàng loạt hậu quả nặng nề đã và đang ảnh hưởng trực

tiếp tới người dân. Diễn biến sạt lở bờ sông, bờ biển có xu thế ngày càng gia tăng. Tốc độ xói mòn đã vượt tốc độ bồi tích làm diện tích ĐBSCL giảm khoảng

300ha/năm, chưa kể đến diện tích bị ngập do NBD. Nghiên cứu cũng chia sẻ các nỗ

lực của Việt Nam trong quá trình chuyển đổi mô hình PTBV tại ĐBSCL; các mô

hình tốt trong ứng phó với BĐKH; cách tiếp cận hài hòa và đồng lợi ích giữa các phương án thích ứng và giảm nhẹ BĐKH, nhằm thực hiện các mục tiêu PTBV tại

các địa phương…

Nghiên cứu của Phạm Thanh Long (2018) đã xây dựng được bản tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn ứng dụng phục vụ các ngành/lĩnh vực trọng điểm ở vùng ĐBSCL như: quản lý tài nguyên nước; sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp; giao thông vận tải; xây dựng; y tế; thể thao và du lịch. Nghiên cứu cũng xây dựng được hệ thống cung cấp thông tin dự báo, cảnh báo khí tượng thủy văn ứng dụng bằng công nghệ WebGIS cho vùng ĐBSCL [73].

Các nghiên cứu về chính sách và thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH

ở Việt Nam

BĐKH là vấn đề mang tính toàn cầu, do vậy các hành động ứng phó với BĐKH của Việt Nam, hiện nay đều được thực hiện thống nhất cùng cộng đồng quốc tế theo khuôn khổ Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH (UNFCCC). Ngay sau khi Việt Nam chính thức phê chuẩn Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH năm 1994 và đến năm 2002 tiếp tục phê chuẩn Nghị định thư Kyoto về BĐKH thì vấn đề chính sách ứng phó với BĐKH đã bắt đầu được các học giả và tổ chức quan tâm nghiên cứu. Theo quan sát của nghiên cứu sinh thì các nghiên cứu thường tập trung vào các vấn đề: hoàn thiện thể chế, chính sách, cơ chế phối hợp; tích hợp, lồng ghép chính sách BĐKH vào quy hoạch kế hoạch phát triển KT-XH; chính sách liên kết vùng; chính sách tài chính; chính sách hỗ trợ mô hình sinh kế thích ứng; chính sách đàm phán và hội nhập quốc tế về BĐKH... Sau đây là các nghiên cứu tiêu biểu:

24

Bước đầu những nghiên cứu về thể chế để thực hiện giảm nhẹ phát thải KNK (NAMA) ở Việt Nam đang trong giai đoạn hoàn thiện. Một số nghiên cứu tập trung vào hoạt động như: tăng cường năng lực, hỗ trợ kỹ thuật để xây dựng các kịch bản cơ sở, kịch bản giảm phát thải, hình thành hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm tra (MRV)... đang được tiến hành. Bên cạnh đó, các nghiên cứu đề xuất NAMA trong các lĩnh vực năng lượng (phát triển điện gió, điện mặt trời, khí sinh học, hình thành Quỹ phát triển năng lượng tái tạo), công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, lâm nghiệp và quản lý chất thải ở Việt Nam đã được xây dựng nhưng chưa tiếp cận được các nguồn hỗ trợ tài chính quốc tế [42], [52].

Nghiên cứu của Phạm Thị Trầm và Nguyễn Song Tùng (2010) đã nhận diện

các tác động của thiên tai trên các vùng lãnh thổ ở Việt Nam, trên cơ sở đó, rà soát

các cơ chế chính sách hỗ trợ cho các cộng đồng bị ảnh hưởng và đề xuất các chính

sách cơ bản nhằm nâng cao năng lực thích ứng và chủ động ứng phó với thiên tai và

BĐKH cho các vùng, lãnh thổ ở Việt Nam [126]. Một nghiên cứu khác của Phạm

Thị Trầm và Nguyễn Thị Bích Hà (2013), các tác giả đã chỉ ra rõ, để ứng phó hiệu

quả với BĐKH thì cần nâng cao nhận thức, khả năng thích ứng và chủ động ứng

phó với thiên tai và BĐKH của các chủ thể: người dân, các cấp chính quyền từ

trung ương, địa phương, các doanh nghiệp,…[125].

Báo cáo của Mai Thanh Sơn, Phùng Đình Tùng, Lê Đức Thịnh (2011). Nghiên

cứu đã tập trung đánh giá một số biểu hiện của biến đổi thời tiết và thiên tai ở khu

vực miền núi phía Bắc, và những ảnh hưởng của thiên tai đến các hoạt động sản

xuất, đến đồng bào dân tộc thiểu số, vàcác nhóm xã hội dễ bị tổn thương. Mặt khác,

nghiên cứu cũng phân tích các sáng kiến của cộng đồng, các tri thức bản địa để ứng

phó với thiên tai. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đi sâu vào đánh giá các chính sách

hỗ trợ cho dân tộc thiểu số và phát hiện những “lỗ hổng” của các chính sách. Từ đó,

đưa ra một số khuyến nghị cho việc sửa đổi các chính sách phù hợp hơn cho các

nhóm đối tượng [97].

Nghiên cứu của Trần Thục, Huỳnh Thị Lan Hương và Đào Mai Trang (2012)

lần đầu tiên đã làm rõ khái niệm về tích hợp BĐKH (định nghĩa tích hợp, sự cần

thiết phải tích hợp BĐKH, thực trạng tích hợp BĐKH ở Việt Nam, những lợi ích và

rào cản trong tích hợp vấn đề BĐKH trong lập quy hoạch kế hoạch phát triển); một

số vấn đề cơ bản khi tiến hành tích hợp BĐKH vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch

phát triển KT-XH (các nguyên tắc khi tiến hành tích hợp; các hoạt động hỗ trợ tích

hợp như: tăng cường năng lực thể chế và nguồn lực, tăng cường sự hợp tác giữa các

bộ/ngành, xác định cơ quan tích hợp, chia sẽ thông tin, mối quan hệ cam kết); các

bước tích hợp vấn đề BĐKH; Góp phần thiết kế quy trình tích hợp vấn đề BĐKH

trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH [116].

Trên cơ sở đó, Báo cáo của Bộ KH&ĐT (2015) đã tập trung vào tình hình tài chính cho ứng phó với BĐKH của Việt Nam và đề xuất những sáng kiến trong ngắn hạn và dài hạn để tiếp tục lồng ghép vấn đề BĐKH vào các chính sách, quy trình lập kế hoạch và dự toán ngân sách của Việt Nam, và để xác định các khoản đầu tư

25

và hoạt động ưu tiên nhằm tăng cường ứng phó với BĐKH của đất nước. Đặc biệt, các sáng kiến tập trung vào những hành động trước mắt để xác định các ưu tiên

chiến lược trong kế hoạch phát triển KT-XH và chu trình lập kế hoạch, dự toán ngân sách cũng như cách thức để xây dựng chính sách tốt hơn, tăng cường thể chế

và phối hợp thực hiện nhằm hỗ trợ những hoạt động ứng phó với BĐKH và đầu tư

cụ thể. Với mục tiêu lồng ghép BĐKH vào ngân sách, điều này sẽ nâng cao khả

năng thích ứng của Việt Nam đối với những tác động của tình trạng khí hậu ấm lên trên toàn cầu, giúp các cộng đồng ít bị tổn thương hơn, và giải quyết những thách

thức về phát thải trong khi Việt Nam tiến bước trên hành trình tiến tới một tương lai

xanh hơn, thích ứng tốt hơn và thịnh vượng hơn [9]. Để làm rõ hơn nhận định trên,

nghiên cứu của Hoàng Văn Hoan (2015), đã tập trung phân tích làm rõ hệ thống hóa

cơ sở lý luận và thực tiễn về cơ chế chính sách tài chính cho ứng phó với BĐKH;

phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế, hệ thống chính sách tài chính huy động, quản

lý và sử dụng nguồn lực tài chính ứng phó với BĐKH ở Việt Nam. Từ đó, chỉ ra

những ưu điểm và tồn tại, hạn chế; nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế của cơ

chế, hệ thống chính sách hiện tại; và xác định yêu cầu về nguồn lực tài chính để ứng

phó với các kịch bản của BĐKH giai đoạn sau 2020; đánh giá nhu cầu cần hoàn

thiện, bổ sung các cơ chế, chính sách, hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính ứng phó

với BĐKH. Trên cơ sở đó, đề xuất cơ chế, chính sách và các giải pháp vừa đảm bảo

huy động tối đa nguồn lực trong và ngoài nước, vừa đảm bảo sử dụng hợp lý, vừa

nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính trong ứng phó và giảm thiểu tác động của BĐKH ở nước ta trong thời gian tới [63].

Nghiên cứu của Nguyễn Song Tùng (2015), trong nghiên cứu nói trên tác giả

cũng đã phân tích đánh giá, nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của việc lồng ghép vấn

đề BĐKH trong các quy hoạch vùng, quy hoạch KT-XH của địa phương, đồng thời

đưa ra một số kiến nghị cho vấn đề trên. Với quy mô khảo sát ở 20 tỉnh/thành thuộc

6 vùng KT-XH của cả nước, nghiên cứu trên đã chỉ ra rằng,với đặc điểm địa lý - xã

hội của Việt Nam, tác động của BĐKH đối với nước ta cũng rất đa dạng theo từng

khu vực, vùng, miền. Trong khi đó, quy mô, phạm vi ảnh hưởng của BĐKH dường như vượt quá khả năng ứng phó độc lập của từng địa phương riêng lẻ... Điều đó cho

thấy, sự liên kết, phối hợp giữa các địa phương và vùng miền là rất cần thiết trong việc ứng phó với BĐKH ở Việt Nam. Vì vậy, tác giả đã nhấn mạnh vấn đề chính sách quy hoạch vùng chính là công cụ liên kết giữa các địa phương trong quá trình phát triển và ứng phó với BĐKH nhằm đảm bảo tính thống nhất và sự phù hợp

trong phát triển của toàn vùng [152].

26

Một nghiên cứu khác của Lưu Ngọc Trịnh (2015) đã đề cập đến các phản ứng chính sách ở tầm vĩ mô của Chính phủ các nước Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn

Quốc, trong đó, tập trung và các biện pháp thích ứng, giảm nhẹ và trách nhiệm toàn cầu. Trên cơ sở đó đưa ra những khuyến nghị chính sách cho ứng phó với BĐKH ở

Việt Nam [128]. Để bổ sung cho nhận định nói trên báo cáo của Hội đồng Khoa học

các cơ quan của Đảng Trung ương (2013) cho thấy nổ lực chung cùng với cộng

đồng quốc tế, Chính phủ Việt Nam cũng đã có những hành động chính sách cụ thể để nhằm thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH [66]. Đề cập đến khía cạnh

hẹp, cụ thể hơn nghiên cứu của Phạm Hữu Nghị (2016) đã đánh giá chính sách pháp

luật về ứng phó với BĐKH góp phần làm rõ vấn đề chính sách pháp luật về ứng phó

với BĐKH ở Việt Nam hiện nay. Quá trình thực thi chính sách pháp luật về thích

ứng với BĐKH. Các bất cập thiếu hụt và giải pháp hoàn thiện chính sách pháp luật

về ứng phó với BĐKH ở Việt Nam [84].

Bên cạnh đó còn có các nghiên cứu về chính sách phát triển các mô hình sinh

kế thích ứng bền vững với khí hậu, tiêu biểu như: (Bộ KH&ĐT, 2012), báo cáo này

là tổng hợp và đánh giá một số điển hình PTBV được thực hiện ở Việt Nam thời

gian qua, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm và khuyến nghị để tiếp tục

thực hiện các mô hình, sáng kiến điển hình, góp phần thúc đẩy tiến trình PTBV ở

Việt Nam [8]. Bên cạnh đó, báo cáo của SRD (2014) cũng đã góp phần tổng hợp,

phân tích và làm rõ thêm một số điển hình tốt về thích ứng và giảm nhẹ BĐKH dựa

vào cộng đồng ở các địa phương nghèo (chủ yếu ở miền Bắc và miền Trung), nhằm

chia sẻ rộng rãi thông tin và các bài học kinh nghiệm đến các bên liên quan với hy

vọng nhân rộng các điển hình này ra các địa phương trong cả nước [133].

Công trình của các tác giả Trần Thọ Đạt và Nguyễn Thị Hoài Thu (2012),

cuốn sách đã tổng hợp các kinh nghiệm của các quốc gia về gắn kết giữa BĐKH và

sinh kế ven biển. Trong đó nhấn mạnh tập trung vào phân tích sinh kế của nhóm

cộng động nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản, từ đó đưa ra một số gợi ý chính sách về

hỗ trợ sinh kế để thích ứng với BĐKH [51]. Một nghiên cứu khác của Trương

Quang Học và Hoàng Thị Ngọc Hà (2016), theo đó nhóm tác trong bối cảnh BĐKH

hiện nay, nông nghiệp được xem là lĩnh vực rất dễ bị tổn thương. Đa dạng sinh học

và BĐKH có mối tương tác lẫn nhau và đều có ảnh hưởng tới phát triển sinh kế

nông nghiệp [64]. Hay tác giả Nguyễn Thị Liễu (2018), đã bước đầu xây dựng cơ sở

lý luận cho việc xây dựng và vận hành thị trường cácbon ở Việt Nam, góp phần xác

định được các ngành/lĩnh vực có tiềm năng tham gia vào thị trường các bon tại Việt

Nam, và đề xuất được các giải pháp kỹ thuật và chính sách xây dựng thị trường các

27

bon tại Việt Nam cùng với một lộ trình triển khai khả thi [72].

Các nghiên cứu về thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB Trong thời gian qua, bên cạnh các công trình nghiên cứu về biểu hiện, kịch bản và dự báo tác động của BĐKH đến PTBV, thì các tác giả cũng bắt đầu quan

tâm đề cập đến các vấn đề cơ chế, chính sách, thể chế ứng phó với BĐKH ở vùng

TNB. Các công trình đề cập đến các khía cạnh: quy hoạch vùng, liên kết vùng; đầu

tư công, chu trình ngân sách trung hạn cho ứng phó BĐKH ở cấp địa phương; thiết

lập cơ chế chia sẻ thông tin; xây dựng hệ thống an sinh xã hội; hỗ trợ sinh kế cộng đồng thích ứng với BĐKH...

ĐBSCL là một trong năm đồng bằng trên thế giới có khả năng bị ảnh hưởng

nghiêm trọng do BĐKH. Do đó, việc xây dựng một chiến lược thích hợp để giảm

thiểu và thích ứng với những biến đổi này là vô cùng cần thiết cho các thế hệ tương lai ở khu vực này. Kế hoạch ĐBSCL là cốt lõi của chương trình hợp tác giữa Việt Nam và Hà Lan cho ĐBSCL. Dựa trên những kinh nghiệm của Hà Lan, Chính phủ

Việt Nam quyết tâm lập Kế hoạch ĐBSCL nhằm phát triển một cách an toàn, trù

phú và bền vững cả về mặt kinh tế và môi trường và ứng phó với BĐKH cho

ĐBSCL. Kế hoạch ĐBSCL nhằm xây dựng một tầm nhìn chiến lược lâu dài cho

một ĐBSCL an toàn, bền vững và trù phú, bao gồm cả các đề xuất về chính sách và

các giải pháp. Kế hoạch ĐBSCL là một tài liệu tham khảo để hỗ trợ Chính phủ Việt

nam trong việc xem xét và sửa đổi lại các quy hoạch phát triển KT-XH, quy hoạch

không gian và quy hoạch tổng thể ngành cho vùng ĐBSCL cũng như định hướng

trong việc đưa ra các quyết định, ban hành luật và định hướng đầu tư tại khu vực

ĐBSCL trong tương lai [31].

Đồng quan điểm với các tiếp cận của Kế hoạch nói trên, Trần Hữu Hiệp,

Nguyễn Song Tùng và Hà Huy Ngọc (2015) cũng đã nhấn mạnh: để tồn tại, phát

triển an toàn, trù phú và bền vững trong tương lai, phải có hành động khẩn cấp,

nhưng trên cơ sở định hướng, tầm nhìn dài hạn, tiếp cận đa ngành, tiếp cận vùng,

liên vùng và quốc gia. Trong đó, cần nghiên cứu một các kỹ lưỡng trong việc thực thi các giải pháp công trình, ưu tiên các biện pháp phi công trình, để đảm bảo

nguyên tắc “không hối tiếc” trước một tương lai không chắc chắc [60, tr.17-24]. Để tiếp tục củng cố nhận định trên Hà Huy Ngọc (2015) đã phát hiện ra những bất cập trong các kế hoạch ứng phó BĐKH của các địa phương ở vùng TNB, đó là: mỗi địa phương xây dựng một kế hoạch ứng phó BĐKH cấp tỉnh và kèm theo nhu cầu ngân sách, nhưng lại thiếu sự chia sẻ thông tin và hợp tác xây dựng kế hoạch ứng phó

28

BĐKH với các địa phương lân cận. Điều này dẫn tới, hiệu quả ứng phó thấp, nguồn lực phân tán, chồng chéo, lãng phí [87].

Cùng tiếp nối quan điểm trên, các nghiên cứu của Bùi Quang Tuấn, Hà Huy

Ngọc (2018); Hà Huy Ngọc, Bùi Quang Tuấn (2018); và Nguyễn Quang Thuấn, Hà

Huy Ngọc, Phạm Sỹ An (2019) trong các báo cáo nói trên, các tác giả đã đề cập đến

vấn đề chính sách ứng phó với BĐKH ở cấp quốc gia, cấp vùng và địa phương.

Đồng thời nhấn mạnh vai trò của thực hiện chính sách liên kết vùng, thực hiện các

chương trình, dự án mang tính tổng hợp, liên vùng trong ứng phó với BĐKH ở

vùng ĐBSCL [146, tr.52-64], [91, tr.29-39], [115, tr.3-16].

Chuỗi các nghiên cứu của ICMP (2012, 2013, 2016a) đã đưa ra nhiều phát

hiện khá thú vị, đó là: hiện nay, thực hiện phân bổ các nguồn lực đầu tư cho BĐKH,

đặc biệt là dự án đầu tư cho bảo vệ bờ biển và đê điều cũng như gia cố hệ thống kè

cống sông ngòi, chống xói mòn trong vùng nội đồng và các dự án thuỷ lợi lớn hay

ngăn ngừa xâm nhập mặn, chủ yếu phụ thuộc vào nguồn ngân sách Trung ương

[33], [34], [37]. Do đó, khi các tỉnh ĐBSCL đề xuất các dự án ưu tiên thực hiện

trong Chương trình ứng phó với biến đổi khí hậu, đều phụ thuộc vào khả năng cân

đối của ngân sách Trung ương và thường là vượt quá khả năng hỗ trợ. Do các dự án

đầu tư ứng phó với BĐKH ở cấp tỉnh phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn do Chính

phủ cấp, và quy trình phân cấp dự án đầu tư công rất phức tạp, qua nhiều giai đoạn

và mất nhiều thời gian, điều này dẫn đến một hệ luỵ xấu trong phân cấp ngân sách

theo cơ chế xin - cho, bao cấp, hoặc là bình quân giữa các địa phương.

Bên cạnh đó, các nghiên cứu khác của IPMC (2013b, 2014, 2017) cũng đã đề

cập đến vai trò của Chính phủ trong việc thực hiện chính sách phân bổ đầu tư theo

cách có lựa chọn hơn, tập trung vào các dịch vụ, và hàng hóa công cơ bản, như: tiếp

tục đầu tư cho hạ tầng nông thôn, các hệ thống cảnh báo sớm về thời tiết, giám sát

về sâu bệnh và dịch hại; tăng cường năng lực thể chế để thực thi hiệu lực các quy

định về môi trường... Đồng thời, cần thu hút doanh nghiệp đầu tư vào các sản phẩm

nông nghiệp thông minh thích ứng với BĐKH. Để chuyển đổi và phát triển các

chuỗi giá trị mới hướng đến các thị trường mới đòi hỏi thời gian, các chính sách hỗ

trợ và nhất là thu hút sự tham gia của doanh nghiệp và thúc đẩy liên kết doanh

nghiệp với nông dân [35], [36], [39].

29

Mặt khác, nghiên cứu của Lê Khắc Côi (2013) đã rà soát các hệ thống chính sách ứng phó với BĐKH ở cấp Trung ương và 5 tỉnh vùng TNB (An Giang, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau). Theo đó, hệ thống tổ chức từ cấp Trung ương đến cấp tỉnh cần phải xây dựng được kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH từ cấp quốc gia đến cấp tỉnh gắn với lập kế hoạch ngân sách cho ứng phó với

BĐKH ở các cấp; thiết lập cơ chế điều phối và phối hợp, chia sẻ thông tin giữa quốc gia và tỉnh, giữa 5 tỉnh trong thích ứng BĐKH [40].

Vùng TNB có hai trụ cột kinh tế chính là nông nghiệp và thủy sản (gồm: thủy sản nuôi và thủy sản tự nhiên, nước ngọt, nước lợ và nước mặn). Tất cả những hợp phần kinh tế khác ở TNB như: công nghiệp, xây dựng và dịch vụ đều từ 2 trụ cột kinh tế này xây lên. Cả 2 lĩnh vực này hiện nay đều bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi tác động của BĐKH, chính vì vậy, đã có nhiều nghiên cứu về tác động cũng như chính sách giảm nhẹ thiệt hại trong 2 lĩnh vực nông nghiệp và thuỷ sản. Điển hình là các nghiên cứu của [178], [95], [13], [79]. Qua phân tích các báo cáo nói trên cho thấy, các tác giả rút ra những thông điệp chủ đạo là BĐKH đang đe dọa nghiêm trọng đến phát triển nông nghiệp vùng ĐBSCL trên tất cả các mặt: (i) thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt là vùng đất thấp ven biển; (ii) tác động lớn đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng; (iii) ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng, tăng khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia cầm; và (iv) ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống nhiều mặt của nông dân như: thu nhập, sinh kế, tình trạng nghèo, tình trạng bất bình đẳng thu nhập, tính dễ bị tổn thương, sức khỏe, dinh dưỡng... Trong bối cảnh đó, việc đẩy mạnh tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp để nâng cao khả năng ứng phó với BĐKH, giảm thiểu những tác động tiêu cực của BĐKH có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nông nghiệp Việt Nam nói chung, đặc biệt là đối với ĐBSCL - nơi chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH.

Nghiên cứu của Hà Huy Ngọc và Ngô Vĩnh Bạch Dương (2013) cũng đã cho

thấy rằng, trong giai đoạn 2008-2013 ảnh hưởng của thiên tai và BĐKH đến đời

sống, KT-XH của người dân các tỉnh vùng TNB rất lớn, nhưng các giải pháp ứng

phó với thiên tai, BĐKH hiện nay chỉ được tiến hành đơn lẻ, trong nội bộ của từng

địa phương. Trên cơ sở đó, các tác giả đưa ra kiến nghị UBND và sở của các địa

phương cần đưa ra những sáng kiến về xây dựng các mô hình sinh kế bền vững

trong chia sẻ rủi ro và phân bổ lợi tích để ứng phó với thiên tai, BĐKH (mô hình

bảo hiểm nông nghiệp, tín dụng vĩ mô thôn bản, nhà vượt lũ, tôm sinh thái, bảo vệ

rừng ngập mặn....) [90].

30

Bên cạnh đó, còn có những nghiên cứu về các mô hình hình sinh kế bền vững, phát huy vai trò của tổ chức xã hội dân sự trong nỗ lực ứng phó với BĐKH ở vùng này. Tiêu biểu là nghiên cứu của SRD (2012) và ICMP (2016b), qua đó cho thấy ĐBSCL giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với an ninh lương thực của Việt Nam cũng như với nguồn cung lương thực toàn cầu [132], [38]. Những tác động của

BĐKH tới ĐBSCL và các giải pháp ứng phó ở khu vực này đang nhận được sự quan tâm rất lớn của các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia, các tổ chức xã hội và các nhà tài trợ. Chính phủ đã ban hành nhiều chương trình, chính sách, định hướng cho các hoạt động ứng phó của các địa phương, nhưng việc đưa những định hướng, chính sách vào thực tế cộng đồng còn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Trong những năm qua, các tổ chức phi chính phủ (NGOs), các tổ chức xã hội dân sự đã rất tích cực trong nỗ lực ứng phó với BĐKH, nhất là trong việc triển khai các hoạt động ứng phó với BĐKH dựa vào cộng đồng. Những kinh nghiệm, sáng kiến thành công trong hoạt động của các NGOs là một nguồn thông tin rất quan trọng để xây dựng và triển khai các chương trình hành động ứng phó BĐKH ở các địa phương vùng TNB.

Nghiên cứu của Võ Văn Tuấn và Lê Cảnh Dũng (2015a, 2015b, 2015c). Các

nghiên cứu nói trên đã chỉ ra rằng: ở những vùng lũ của khu vực TNB, các hộ sống

trong đồng lũ không có đất hoặc ít đất, và phải đi làm thuê nông nghiệp, khai thác

tài nguyên thiên nhiên,... có tính dễ bị tổn thương cao hơn các nhóm cộng đồng

khác. Do đó, đa dạng nguồn sinh kế là một trong các giải pháp quan trọng để thích

ứng với BĐKH của các hộ nông dân ở vùng chuyên canh lúa, cây ăn trái và tôm

nước nước lợ. Đồng thời, chính quyền địa phương cần tránh lựa chọn các biện pháp

“không hối tiếc” xây dựng cơ sở hạ tầng (xây dựng đê bao, tái định cư) có thể giúp

giảm ảnh hưởng trực tiếp bởi các hiểm họa, nhưng cũng gây ra các hệ lụy tiêu cực

đến hệ sinh thái-xã hội và vốn tự nhiên [147], [148, tr.120-129], [149].

Bênh cạnh đó, nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Anh (2016), lại tập trung đánh

giá hiện trạng và xu hướng phát triển cùng các vấn đề liên quan đến các hình thức,

mô hình cộng đồng tham gia vào quản lý và bảo vệ tài nguyên nước ở vùng TNB

(tập trung hai tỉnh Cà Mau và Hậu Giang). Đồng thời, đề xuất được cơ chế, chính

sách và các hình thức, mô hình cộng đồng quản lý tài nguyên nước bền vững ở hai

tỉnh nói trên [1]. Nghiên cứu của Nguyễn Phong Lan (2018) đã góp phần xác lập

được cơ sở khoa học cho PTBV trong bối cảnh ứng phó với BĐKH phù hợp cho

các tiểu vùng sinh thái ở TNB. Đồng thời, nghiên cứu đánh giá được thực trạng ứng

phó với BĐKH tại các tiểu vùng sinh thái ở đồng bằng, trên cơ sở đó, đề xuất mô

hình và giải pháp PTBV cho các tiểu vùng sinh thái ở TNB [70].

Tiếp nối cách tiếp cận nói trên, nguyên cứu của Nguyễn Tuấn Anh (2018), đã

chi tiết hơn trong việc xác lập được luận cứ khoa học cho PTBV ở khu vực ven

31

sông dưới tác động của BĐKH, thiên tai, hoạt động nhân sinh. Đánh giá và dự báo

được các tác động của BĐKH, thiên tai, hoạt động nhân sinh khu vực ven sông Hậu

nhằm đề xuất các cơ chế, chính sách và mô hình PTBV phù hợp với tiểu vùng khu

vực ven sông Hậu [3]. Vũ Văn Nghị (2016), khác với nghiên cứu nói trên, công

trình này tập trung phân tích xác lập cơ sở khoa học về đặc điểm và quy luật tự

nhiên của tiểu vùng ngập lũ vùng ĐTM, nhằm làm tiền đề cho quy hoạch vùng

ĐTM trở thành vùng trữ nước ngọt. Báo cáo cũng đã đánh giá tác động của con

người và ảnh hưởng của BĐKH đến cân bằng tài nguyên nước, hệ sinh thái tiểu

vùng vùng ĐTM. Trên cơ sở đó, đề xuất mô hình, giải pháp quy hoạch vùng ĐTM

trở thành vùng trữ nước ngọt nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước cho khu vực

ĐBSCL thích ứng với BĐKH [83]. Với cách tiếp cận ứng phó BĐKH dựa vào cộng

đồng, nghiên cứu của Phan Tất Thắng (2017) đã phân tích vai trò của tri thức địa

phương trong ứng phó với BĐKH; mô tả được thực trạng sử dụng tri thức địa

phương trong ứng phó với BĐKH ở một số tỉnh vùng TNB; và xây dựng được một

số mô hình sử dụng và phát huy tri thức địa phương trong chủ động ứng phó với

BĐKH ở vùng TNB [105].

Trong bối cảnh vùng TNB đang phải đối mặt với xâm nhập mặn, thì nghiên

cứu của Vũ Thị Mai (2016) đã xác lập được cơ sở khoa học về mặt lý luận xây dựng mô hình kinh tế thích ứng với BĐKH, trong đó, xác định rõ: bộ tiêu chí mô

hình kinh tế thích ứng xâm nhập mặn; phân tích các mô hình kinh tế thích ứng với

xâm nhập mặn trong bối cảnh BĐKH; đánh giá, dự báo tác động xâm nhập mặn ở

vùng TNB, nhấn mạnh các cơ hội và thách thức từ xâm nhập mặn để phát triển KT-

XH. Khẳng định tính cấp thiết phải chuyển đổi sang mô hình kinh tế thích ứng với

xâm nhập mặn ở TNB. Nghiên cứu cũng đã thiết kế được một số mô hình trình diễn

về phát triển kinh tế thích ứng với xâm nhập mặn, phù hợp với các đặc trưng sinh

thái - xã hội vùng TNB. Đồng thời, xác định điều kiện, giải pháp, quy trình thực

hiện và chuyển giao mô hình kinh tế xanh cho các huyện bị xâm nhập mặn tương tự ở các tiểu vùng TNB [74]. Bên cạnh đó, còn có nhiều nghiên cứu về công nghệ thủy

lợi nhằm giảm tiêu sóng, hạn chế xói lở bờ sông, bờ biển, giải pháp bán công trình

32

đa mục tiêu được nghiên cứu và đưa vào chuyển giao cho một số địa phương vùng TNB, tiêu biểu là công trình của Nguyễn Duy Khang (2017), Lê Thanh Chương (2017), Phó Hoàng Uyên (2016), Trần Văn Thái (2016) [69], [30], [171], [102]. Hay các nghiên cứu về giải pháp ứng dụng công nghệ thủy lợi để trị thủy, chuyển nước, nằm ứng phó với các hiện tượng khí hậu cực đoan ở vùng TNB của Trần Minh Tuấn (2016), Nguyễn Đăng Tính (2016) [140], [98].

Ngoài ra, nghiên cứu của Bộ NN&PTNT (2016) cho thấy địa phương ở TNB

còn đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên địa bàn. Nhiều mô hình

phát triển kinh tế hiệu quả đem lại giá trị sản lượng gấp nhiều lần so với phương

thức canh tác khác. Đồng thời, các địa phương cũng giảm dần diện tích lúa hè - thu,

chuyển đổi sang trồng các cây rau màu ít sử dụng nước tưới, có khả năng chịu hạn.

Vào mùa nước lũ, thay thế cây lúa bằng các loại cây sử dụng nhiều nước, chịu ngập

úng, như: sen, ấu… hoặc kết hợp nuôi trồng thủy, hải sản. Chuyển đổi cơ cấu cây

trồng, vật nuôi không chỉ đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp, tăng hiệu quả kinh tế

cho nông dân mà còn góp phần hiệu quả trong bảo vệ môi trường và ứng phó với

BĐKH. Do vậy, để phát triển TNB, rất cần những nguồn lực mới, những mô hình

phát triển mới với hiệu quả cao hơn, năng suất lao động cao hơn [16].

Đồng thời, trong báo cáo của Bộ NN&PTNT (2017) đã nhấn mạnh việc phân

vùng TNB dựa theo Kế hoạch châu thổ Mê Kông do Chính phủ Hà Lan và Việt

Nam xây dựng năm 2013, theo đó, đồng bằng sẽ được chia thành ba tiểu vùng: tiểu

vùng thượng nguồn, tiểu vùng giữa và tiểu vùng ven biển. Tiểu vùng thượng nguồn

với chiến lược sinh kế chính là phải chuyển từ sinh kế dựa chính vào lúa 3 vụ sang

sinh kế đa dạng hòa hợp với lũ. Tiểu vùng giữa, sinh kế chính gắn với chuyển từ

diện tích lúa 3 vụ sang chuyên canh trái cây, chuyên canh cây công nghiệp và

chuyên canh rau màu, bên cạnh phát triển thủy sản nước lợ ở mức độ vừa phải. Tiểu

vùng ven biển với sinh kế là chuyển đổi sang thủy sản chuyên canh bền vững thông

minh chống chịu với BĐKH kết hợp với phục hồi rừng ngập mặn. Cách phân vùng

này cho phép việc phân tích và thiết kế các định hướng chuyển đổi sinh kế trong

nông nghiệp phù hợp hơn với tình hình BĐKH và phát triển theo lưu vực sông [17].

Năm 2017, trước những thách thức to lớn do BĐKH và NBD, nhiều hiện

tượng thời tiết cực đoan, việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu

thổ,… tác động tiêu cực đến phát triển KT-XH của vùng ĐBSCL, Thủ tướng Chính

phủ đã tổ chức Hội nghị Diên Hồng về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu

Long thích ứng với biến đổi khí hậu với sự tham gia có trách nhiệm của các

bộ/ngành, địa phương, cơ quan quản lý và tham gia tích cực, tâm huyết của đông

đảo các chuyên gia, nhà khoa học, các đối tác quốc tế, các doanh nghiệp để thảo

luận, tìm các giải pháp toàn diện, căn cơ, đồng bộ cho sự PTBV, thịnh vượng của

vùng. Sau gần 2 năm thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP, đã có một số báo cáo đánh

33

giá các kết quả bước đầu ở một số bộ/ngành và địa phương vùng TNB. Báo cáo của

Bộ TN&MT (2019) đã cho thấy trong gần hai năm qua, việc triển khai các nhiệm

vụ, giải pháp PTBV ĐBSCL đã đạt được một số kết quả quan trọng, một số cơ chế

chính sách đã được rà soát, bổ sung; quy hoạch tổng thể PTBV vùng ĐBSCL đang

được khẩn trương xây dựng; sinh kế của người dân từng bước được chuyển đổi theo

hướng thích ứng bền vững với BĐKH. Hạ tầng cơ sở được quan tâm đầu tư, xây

dựng, tăng cường kết nối liên vùng, nhất là hệ thống giao thông đường bộ, đường

thủy, các cụm tuyến dân cư vượt lũ [27]. Nghiên cứu của Đặng Kiều Nhân (2018),

Lê Việt Dũng (2018), Lê Anh Tuấn (2018) và Hà Thanh Toàn (2018) đã khái quát

hóa những công việc đã làm được sau một năm thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP,

trên các khía cạnh truyền thông, tuyên truyền chính sách; xây dựng quy hoạch; xây

dựng các cơ chế liên kết, điều phối vùng; xây dựng các dự án thực hiện chung của

bộ/ngành và một số địa phương vùng TNB [85], [47], [135], [118].

Các nghiên cứu của Bộ TN&MT (2019b, 2019c), Bộ NN&PTNT (2019),

NAWAP (2019) và Lê Anh Tuấn (2019) đã nhấn mạnh hiện trạng sử dụng tài

nguyên nước, và các giải pháp ứng phó với sụt lún, xâm nhập mặn, sạt lở bờ sông,

bờ biển ở các địa phương bằng các biện pháp công trình và phi công trình [28],

[29], [19], [76], [136]. Bộ KH&ĐT (2019), nghiên cứu đã cho thấy sự khẩn trương

của Bộ trong việc tổ chức lập quy hoạch vùng ĐBSCL giai đoạn 2021-2030 tầm

nhìn đến năm 2050 theo phương pháp tích hợp đa ngành theo quy định của Luật

Quy hoạch. Quy hoạch vùng ĐBSCL mới hứa hẹn sẽ tạo ra một khung chiến lược

toàn diện cho vùng ĐBSCL, làm cơ sở để triển khai các chương trình, dự án đầu tư

phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, hạ tầng sản

xuất cũng như việc khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực trên cơ sở phát huy

những tiềm năng, lợi thế của vùng ĐBSCL trong điều kiện BĐKH, xâm nhập mặn

để thúc đẩy phát triển KT-XH nhanh, bền vững. Bên cạnh đó, báo cáo còn rà soát,

đánh giá cơ chế thí điểm điều phối vùng theo Quyết định số 593/QĐ-TTg ngày

6/4/2016, các giải pháp hoàn thiện cơ chế điều phối vùng ĐBSCL [11]. Hay nghiên

cứu của Bộ NN&PTNT (2019b), báo cáo đã tổng kết các chương trình nghiên cứu,

lựa chọn, tạo giống cây trồng, vật nuôi thích ứng với BĐKH ở ĐBSCL do Bộ triển

khai [20]. Một nghiên cứu khác của Tổng cục KTTV (2019), cũng cho thấy quá

trình thực hiện các nhiệm vụ, dự án nhằm tăng cường công tác dự báo, cảnh báo,

giám sát thiên tai tại ĐBSCL như: xây dựng hệ thống giám sát nguồn nước dự báo,

cảnh báo hạn hán và xâm nhập mặn vùng ĐBSCL; nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống

34

quan trắc, giám sát, cảnh báo và dự báo khí tượng thủy văn, bùn cát, hải văn [120].

1.3. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu đã đạt được và những vấn đề thuộc đề tài luận án chưa được các công trình công bố nghiên cứu giải quyết 1.3.1. Những kết quả đã đạt được

Qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy,

vấn đề BĐKH ở vùng TNB đã được các học giả và tổ chức trong nước và ngoài nước đặc biệt quan tâm nghiên cứu trong những năm gần đây.

- Điểm chung trong các công trình nêu trên là đối tượng nghiên cứu đều tập

trung vào vấn đề khắc hoạ rõ nét diễn biến BĐKH và tính dị thường của thiên tai:

hạn hạn, xâm nhập mặn, lũ lụt, bão, áp thấp nhiệt đới… và các tác động đến KT-

XH, môi trường, hệ sinh thái và sinh kế người dân vùng TNB. Trên cơ sở phân tích,

đánh giá thực trạng, các tác giả đề xuất các giải pháp chính sách (nâng cao chất

lượng quy hoạch, đầu tư vào cơ sở hạ tầng ứng phó với BĐKH, dự án liên kết

vùng...) mang tính nguyên tắc, định hướng. Một số giải pháp chính sách cụ thể cũng

được đề xuất ứng dụng vào thực tiễn.

- Các công trình nghiên cứu về tác động của BĐKH, chính sách thích ứng với

BĐKH đã được tiến hành tương đối đa dạng cả về nội dung và phạm vi nghiên cứu

với các tiếp cận phong phú, như: tiếp cận ứng phó với các giải pháp can thiệp vật lý,

hạ tầng; tiếp cận dựa vào vốn tự nhiên, cộng đồng; tiếp cận theo hướng phân vùng

sinh thái xã hội và phân vùng chức năng đã bước đầu làm sáng tỏ về tác động của

BĐKH, tiềm năng chống chịu và tính dễ bị tổn thương của lãnh thổ nhất định.

- Các nghiên cứu về chính sách ứng phó với BĐKH đã được tiến hành tương

đối đa dạng cả về nội dung và phạm vi: thể chế, quy hoạch, cơ sở hạ tầng, huy động

tài chính cho BĐKH, KH&CN, mô hình sinh kế cộng đồng bền vững…

- Các công trình đã công bố đều là những tài liệu nghiên cứu có giá trị tham

khảo hữu ích cho luận án trên các khía cạnh lý luận và thực tiễn.

1.3.2. Những vấn đề thuộc luận án chưa được các công trình công bố nghiên cứu giải quyết

- Các công trình đã công bố trước đó có đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên

cứu riêng. Nên vấn đề về thực hiện chính sách BĐKH chỉ được đề cập với chừng

mực nhất định, nên còn nhiều khoảng trống về mà luận án tiếp tục nghiên cứu, như

sau: cơ sở lý luận về thực hiện chính sách BĐKH; nhóm các nhân tố ảnh hưởng và

tiêu chí đánh giá thực hiện chính sách BĐKH; Việc thực hiện chính sách BĐKH ở

các vùng, địa phương hiện nay, thì chính sách đã và đang có các mặt tích cực và bộc

35

lộ những hạn chế gì; và cần phải thiết kế các giải pháp như thế nào để nhằm khắc

phục những hạn chế, bất cập của việc thực hiện chính sách BĐKH trong điều kiện

bối cảnh mới ở vùng TNB.

- Các công trình nghiên cứu trong thời kỳ gần đây cho thấy đã chú trọng tập

trung cho hoạt động đánh giá diễn biến, biểu hiện, tác động và giải pháp ứng phó

với BĐKH vùng TNB. Đồng thời có nhiều nghiên cứu cũng đã tập trung vào đánh

giá chính sách ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, chính sách ứng phó với BĐKH có

nhiều quy trình khác nhau, trong đó giai đoạn thực hiện chính sách ứng phó BĐKH

ở vùng TNB sẽ còn nghiều không gian và nội dung để luận án tiếp tục nghiên cứu,

làm sáng tỏ thêm.

- Về phương pháp nghiên cứu đánh giá thực hiện chính sách: các công trình

nghiên cứu trước đó đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu và kỹ thuật đánh giá

khác nhau để thực hiện các nội dung và làm sáng tỏ mục tiêu nghiên cứu. Tuy

nhiên, việc đánh giá thực hiện chính sách ứng phó BĐKH dựa trên các bằng chứng

thực nghiệm, dựa trên các tiêu chí đánh giá kết quả; các phương pháp theo dõi,

giám sát thực hiện chính sách, cũng là những vấn đề mà luận án cần tiếp tục làm

sáng tỏ.

- Nhìn chung nội dung của các công trình, khảo nghiệm về thực hiện chính

sách BĐKH đã nêu trên rất phong phú, bao quát khá nhiều nội dung vấn đề của

chính sách, thể hiện trên nhiều khía cạnh và bình diện khác nhau, tùy thuộc vào mục

tiêu nghiên cứu của các tác giả. Tuy nhiên, việc nghiên cứu vấn đề thực hiện chính

sách ứng phó với BĐKH theo logic tuần tự, từ vấn đề khung lý luận, đến thực tiễn

quá trình thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB, trên cơ sở đó đề xuất các quan

điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng

TNB. Còn rất nhiều khoảng trống để luận án tiến tiếp tục nghiên cứu để bổ sung,

36

hoàn thiện thêm vấn đề này.

CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU

2.1. Chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu

2.1.1. Một số khái niệm then chốt 2.1.1.1. Khái niệm về chính sách công

Hiện nay, có rất nhiều khái niệm về chính sách công, tùy thuộc vào các cách

tiếp cận mà các học giả đưa ra các quan niệm khác nhau, sau đây là một số quan

điểm tiếp cận phổ biến:

a. Tiếp cận khoa học chính trị

Trên nền tảng của khoa học chính trị, chính sách không đơn thuần chỉ là một

quyết định để giải quyết một vấn đề cụ thể, mà nó là đường lối hay quan điểm hành

động của chủ thể. Theo Hugh Heclo (1972) đưa ra định nghĩa một chính sách có thể

được xem như là một đường lối hành động hoặc không hành động thay vì những

quyết định hoặc các hành động cụ thể [221 tr.83-108]. Còn David Easton (1953) lại

cho rằng, chính sách bao gồm một chuỗi các quyết định và các hành động mà trong

đó phân phối thực hiện các giá trị trong xã hội [210, tr.544-547]. Tác giả Adam

Smith (1976) lại quam niệm rằng, chính sách bao hàm sự lựa chọn có chủ định hành động hoặc không hành động, thay vì những tác động của các lực lượng có quan hệ

với nhau [96].

Tiếp nối quan điểm trên, Thomas Dye (1972) lại đưa ra một định nghĩa khá cô

đọng về chính sách công như sau: chính sách công là bất kỳ những gì Nhà nước lựa

chọn làm hoặc không làm. Định nghĩa này tuy ngắn gọn, những lại chỉ ra những dấu

hiệu nhận biết nhất định về chính sách công, đó là, chủ thể ban hành là Nhà nước.

Tuy nhiên, lại không cung cấp những hiểu biết sâu sắc về chính sách công bởi nó

không đưa ra được những phân định những hoạt động của Nhà nước [209]. Tác giả William Jenkins (1978) đã đưa ra định nghĩa cụ thể hơn, chính sách công là một tập

hợp các quyết định liên quan với nhau được ban hành bởi một hoặc một nhóm các nhà chính trị gia cùng hướng đến lựa chọn mục tiêu và các phương thức để đạt mục tiêu trong một môi trường xác định thuộc phạm vi thẩm quyền. Theo đó, chính sách công là một quá trình chứ không đơn giản chỉ là một sự lựa chọn; đồng thời, định

nghĩa này cũng cho thấy một cách rõ ràng rằng chính sách công là một tập hợp các

37

quyết định có liên quan mật thiết với nhau. Vì trên thực tế, hiếm khi Nhà nước giải quyết một vấn đề công bằng một quyết định đơn lẻ mà hầu hết đều phải bao gồm

hàng loạt các quyết định khác nhau [228]. Còn Jame Anderson (1984) đưa ra định nghĩa khái quát hơn về chính sách công. Ông cho rằng, chính sách công là đường

lối hành động có mục đích được ban hành bởi một hoặc một tập hợp các nhà hoạt

động chính trị để giải quyết các vấn đề trong xã hội [190]. Định nghĩa này bổ sung

thêm hai thành tố cho các định nghĩa của William Jenkins và Thomas Dye. Bởi, định nghĩa này chỉ ra rằng, các quyết định chính sách thường được ban hành bởi

một tập thể các nhà hoạt động chính trị, thay vì một nhóm hoặc một nhà hoạt động

duy nhất trong bộ máy Nhà nước.

b. Cách tiếp cận khoa học hành chính

Theo trường phái khoa học hành chính, tác giả B. Guy Peters (1990) đưa ra khái niệm: chính sách công là toàn bộ các hoạt động của Nhà nước có ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân trong xã hội. Quan niệm này của B. Guy Peters đã bổ sung thêm một khía cạnh quan trọng của chính sách công, đó là tác động của chính sách công đến đời sống của mọi người dân hay cộng đồng xã hội, thay vì tác động lên một cá nhân hoặc một tổ chức cụ thể [245, tr.420-428].

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…” [49, tr.475]. Theo định nghĩa này thì mục đích của chính sách công là thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng chứ không đơn giản chỉ dừng lại ở việc giải quyết vấn đề công. Nói cách khác, chính sách công là công cụ để thực hiện mục tiêu chính trị của Nhà nước.

c. Tiếp cận khoa học chính sách

Còn dưới góc độ khoa học chính sách, theo Vũ Cao Đàm, “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra trong đó tạo sự ưu đãi một hoặc một số nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ, định hướng hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội.” [48]. Khái niệm “hệ thống xã hội” ở đây được hiểu theo một ý nghĩa khái quát. Đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành chính, một doanh nghiệp, một nhà trường… [50].

Từ nhiều định nghĩa khác nhau, luận án đi đến tổng tích hợp một định nghĩa

có tính hệ thống tổng quát như sau: Chính sách công là tập hợp các biện pháp được

thể chế hóa của Nhà nước, nhằm giải quyết các vấn đề chính sách theo mục tiêu ưu

38

tiên đã được xác định trong môi trường luôn biến động.

Khái niệm trên cho thấy nội hàm của của chính sách bao gồm các vấn đề sau:

(i) Chính sách công là chính sách do Nhà nước ban hành.

(ii) Do Nhà nước chủ động xây dựng để tác động trực tiếp lên các đối tượng

quản lý một cách tương đối ổn định, cho thấy bản chất của chính sách công là là

hoạt động mang tính định hướng của Nhà nước, để giải quyết những vấn đề phát

sinh trong đời sống xã hội.

(iii) Chính sách luôn xác định mục tiêu cần đạt tới và điều kiện bảo đảm bảo

thực hiện mục tiêu thì cần phải đảm bảo các nguồn lực tương ứng: con người,

nguồn lực tài chính, môi trường chính trị, pháp lý, văn hóa xã hội.

(iv) Do môi trường thực hiện chính sách luôn biến động nên các chủ thể tham

gia của chính sách cũng phải luôn chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong quá trình thực

hiện các chính sách.

2.1.1.2. Khái niệm liên quan đến biến đổi khí hậu

Theo Công ước Khung của Liên Hiệp Quốc về BĐKH năm 1992, “BĐKH là

sự biến đổi của khí hậu do hoạt động của con người gây ra một cách trực tiếp hoặc

gián tiếp làm thay đổi thành phần của khí quyển toàn cầu và do sự biển động tự

nhiên của khí hậu quan sát được trong những thời kỳ có thể so sánh được.” [71].

Theo Bộ TN&MT (2008) “BĐKH là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với

trung bình và/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài,

thường là vài thập kỷ, hàng trăm năm hoặc dài hơn. BĐKH có thể là do các quá

trình tự nhiên bên trong hoặc các tác động bên ngoài, hoặc do hoạt động của con

người làm thay đổi thành phần của khí quyển hay trong khai thác sử dụng đất” [22].

- Thiên tai: các thay đổi nghiêm trọng trong chức năng bình thường của một

cộng đồng hay một xã hội do các hiểm họa tự nhiên tương tác với các điều kiện dễ

bị tổn thương của xã hội, dẫn đến các ảnh hưởng bất lợi rộng khắp đối với con

người, vật chất, kinh tế hay môi trường, đòi hỏi phải ứng phó khẩn cấp để đáp ứng

các nhu cầu cấp bách của con người và có thể phải cần đến sự hỗ trợ từ bên ngoài.

- Giảm nhẹ rủi ro thiên tai: là làm giảm bớt các tác động tiêu cực tiềm ẩn

của các nguy cơ vật lý (bao gồm cả những nguy cơ con người gây ra) thông qua

các hành động làm giảm mức độ nguy hiểm, mức độ phơi nhiễm và khả năng bị

39

tổn thương.

2.1.1.3. Khái niệm ứng phó với biến đổi khí hậu

Ứng phó với BĐKH: là các hoạt động của con người nhằm thích ứng với

BĐKH và giảm phát thải KNK (giảm nhẹ BĐKH). Vậy ứng phó với BĐKH có 2

nội dung là thích ứng với BĐKH và giảm nhẹ tác động của BĐKH.

- Thích ứng với BĐKH: là sự điều chỉnh trong hệ thống tự nhiên hoặc nhân

tạo để ứng phó với các tác nhân khí hậu hiện tại và tương lai, như: làm giảm những

thiệt hại hoặc tận dụng các cơ hội có lợi của BĐKH mang lại; đồng thời, tạo cho

con người có sự chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện tinh thần, vật chất, kỹ năng và tập

quán, thói quen sinh sống, ổn định sinh kế để họ có thể sống chungvới sự thay đổi

do các yếu tố khí hậu gây nên. Nói một cách khác, mục đích của thích ứng với

BĐKH là giảm sự tổn thương, tăng cường năng lực thích ứng, quản lý và giảm rủi

ro do tác động của khí hậu tới cuộc sống cũng như sinh kế của người dân [154].

Do đó, thích ứng là quá trình điều chỉnh được các hoạt động của con người,

đòi hỏi sự tham gia của nhiều đối tượng, nhiều thành phần và được thực hiện ở

nhiều cấp độ khác nhau từ Trung ương tới địa phương theo từng bước trong một

quy trình thống nhất, được thực hiện lâu dài. Thích ứng cần được thực hiện sao cho

hiệu quả nhất và phù hợp nhất, không gây xáo trộn lớn đến cuộc sống của người

dân cũng như không ảnh hưởng đến hoạt động KT-XH của khu vực [154].

- Giảm nhẹ BĐKH: là sự can thiệp của con người làm giảm nguồn và cải thiện bể

chứa các KNK. Giảm nhẹ là việc giảm tốc độ của BĐKH thông qua việc quản lý các tác

nhân của nó (phát thải KNK từ quá trình đốt cháy nhiên liệu hóa thạch, từ nông nghiệp,

từ thay đổi sử dụng đất, từ sản xuất xi măng,…) [176, tr.399-400].

Việc giảm nhẹ BĐKH cần được tập trung vào các hoạt động đồng có lợi, vừa

giảm nhẹ được phát thải KNK vừa mang lợi ích KT-XH. Giảm nhẹ BĐKH thể hiện

sự tích cực của Việt Nam trong thực hiện trách nhiệm chung bảo vệ hệ thống khí

hậu trái đất. Giảm nhẹ BĐKH cũng là điều kiện để tiếp nhận hỗ trợ quốc tế về tài

chính và chuyển giao công nghệ hiện đại. Đây cũng là cơ hội để đổi mới công nghệ

trong nước nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất và tính cạnh tranh trên

trường quốc tế.

Thích ứng và giảm nhẹ là hai mặt của một nhiệm vụ chung là ứng phó với

BĐKH và có quan hệ chặt chẽ, bổ trợ cho nhau. Nếu làm tốt công tác giảm nhẹ, đặc

biệt là nếu các nước công nghiệp giảm bớt việc sử dụng nhiên liệu hoá thạch, giảm

bớt phát thải KNK ở nhiều lĩnh vực khác, có thể hạn chế được sự nóng lên của trái

40

đất, khí hậu và thiên tai sẽ bớt khắc nghiệt, dị thường trái với quy luật và tình trạng

tổn thương của các khu vực sẽ được giảm nhẹ. Điều này đồng nghĩa với công tác

thích ứng dễ dàng hơn và chi phí cho thích ứng có thể giảm xuống.

2.1.2. Những biểu hiện và điều khoản của chính sách 2.1.2.1. Những biểu hiện của chính sách

Những người làm chính sách cần có kỹ thuật (và nghệ thuật) sử dụng kết hợp các loại thiết chế này trong một văn bản chính sách, hoặc trong một số văn bản

chính sách có liên quan. Hơn nữa, chủ thể chính sách cũng phải biết dự kiến tối đa

những thiết chế ngầm định ngoài mong muốn, dẫn đến hạn chế hiệu quả của một

chính sách [65, tr.65].

Mặt khác, chính sách của Nhà nước không thể chỉ tuyên bố bằng lời, mà phải thể hiện trên một loại văn bản của Nhà nước gọi chung là văn bản quy phạm pháp

luật. Chẳng hạn, chính sách BVMT được công bố dưới dạng một Bộ luật BVMT.

Văn bản quy phạm pháp luật được công bố dưới nhiều hình thức đa dạng, tùy tính chất của chính sách cần khẳng định đến mức độ nào trong hệ thống chính sách. Gọi

chung các văn bản quy phạm pháp luật là phương tiện thể hiện chính sách của một

chủ thể quản lý. Cũng có thể gọi một cách đơn giản là “vật mang chính sách” ở đây là

vật mang pháp lý của chính sách. Ngoài ra, còn tồn tại nhiều loại vật mang đa dạng

khác nhau, như: xuất bản phẩm, bao bì hàng hóa, các phương tiện truyền thông…

- Luật: Luật là một văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất sau Hiến pháp, do

Quốc hội ban hành. Chính sách được công bố dưới dạng một luật của Quốc hội là

chính sách ở tầm một văn bản có giá trị pháp lý cấp cao nhất, có hiệu lực trong một

thời gian dài. Tất cả các chính sách có liên quan đều không được trái với những

chính sách quy định trong đạo luật này. Về lý thuyết, luật là văn bản pháp lý có giá

trị hiệu lực cao nhất, nhưng ở Việt Nam, một đạo luật không có giá trị thực thi nếu

chưa có các văn bản hướng dẫn của cấp dưới, ví dụ, Nghị định của Chính phủ và

các Thông tư hướng dẫn cấp bộ và liên bộ.

- Nghị định: Nghị định là một văn kiện chính sách cấp Chính phủ. Nghị định có chức năng tuyên bố về một chính sách của Nhà nước, có giá trị trong toàn xã hội.

Chính sách được công bố dưới dạng một văn kiện cấp Chính phủ có giá trị pháp lý thấp hơn một đạo luật của Quốc hội và không được trái với những quy định trong các đạo luật của Quốc hội. Trong một số trường hợp, Chính phủ cũng ban hành chính sách dưới dạng những quyết định, nghị quyết, chỉ thị và có thể được hiểu như sau:

- Quyết định: Quyết định là tuyên bố của một chủ thể quản lý có thể dưới dạng

thành văn hoặc bất thành văn, hướng tới đối tượng quản lý có giá trị trong toàn hệ

41

thống quản lý. Cấp nào cũng có thể ra văn bản quyết định.

- Chỉ thị: Chỉ thị là tuyên bố của một chủ thể quản lý hướng tới các đối tượng

quản lý thuộc quyền quản lý của mình. Chỉ thị là một phương tiện mà một cấp quản

lý sử dụng để buộc cấp dưới thực hiện đúng đòi hỏi của mình. Theo Luật thì các

UBND cũng có thể ban hành các chỉ thị.

- Nghị quyết: Nghị quyết là thỏa thuận bằng văn bản của một tổ chức về hệ

thống biện pháp chính sách. Các tổ chức xã hội luôn có những nghị quyết về mọi

hoạt động của mình. Trong thực tế chính sách ở Việt Nam, chúng ta từng gặp nhiều

chính sách có vật mang là nghị quyết. Ở các nước xã hội chủ nghĩa, với vai trò của

đảng cầm quyền, cấp ủy đảng các cấp cũng có thẩm quyền ban hành các nghị quyết

và chỉ thị tới các tổ chức đảng cấp dưới, qua đó, thực hiện sự lãnh đạo của đảng với

chính quyền. Thông thường, một chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy đảng cũng có hiệu

lực chỉ đạo thực hiện đối với chính quyền cùng cấp.

- Thông tư: Thông tư là một văn bản được ban hành bởi các bộ hoặc liên bộ

nhằm hướng dẫn thực hiện một nghị định (hoặc quyết định/nghị quyết/chỉ thị) của

Chính phủ [50].

2.1.2.2. Các loại điều khoản trong văn bản chính sách

Trong bất kì văn bản chính sách thuộc cấp nào cũng luôn tồn tại 3 loại điều

khoản: điều khoản cưỡng chế, điều khoản hướng dẫn và điều khoản tùy nghi.

(i) Điều khoản cưỡng chế là loại điều khoản bắt buộc, không được phép làm trái.

(ii) Điều khoản hướng dẫn là loại điều khoản chỉ dẫn cách thức thực hiện một

hoạt động nào đó.

(iii) Điều khoản tùy nghi là loại điều khoản được vận dụng tùy tình huống cụ

thể, không cưỡng chế, bắt buộc ai phải thực hiện cũng không hướng dẫn ai mà tùy

nghi, ai cần thì áp dụng [49, tr.24, 26].

Do vậy, khi chuẩn bị quyết định chính sách, chủ thể chính sách cần xác định

rõ từng loại điều khoản sẽ được quy định trong chính sách.

2.1.3. Ứng phó với biến đổi khí hậu 2.1.3.1. Các biểu hiện biến đổi khí hậu

BĐKH và NBD có những biểu hiện chính như sau: - Nhiệt độ trung bình, tính biến động và dị thường của thời tiết và khí hậu

tăng lên.

- Lượng mưa thay đổi bất thường trong năm, mưa trái mùa, mưa bất thường,

mưa lớn cục bộ diễn ra trên diện rộng.

42

- Mực NBD lên do sự tan băng ở các Cực và các đỉnh núi cao.

- Các thiên tai và hiện tượng thời tiết cực đoan (nắng nóng, giá rét, bão, lũ lụt, lũ quét, lũ ống, hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở đất...) xảy ra với tần suất, độ bất thường [154, tr.25]. 2.1.3.2. Các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu

Có nhiều biện pháp thích ứng với BĐKH. Báo cáo đánh giá lần thứ 2 của

Ban liên chính phủ về BĐKH (IPCC) đã đề cập và miêu tả 228 phương pháp thích

ứng khác nhau. Cách phân loại phổ biến là chia các phương pháp thích ứng ra

thành các nhóm:

- Chấp nhận tổn thất: Phản ứng cơ bản là không làm gì cả, ngoại trừ chịu đựng

hay chấp nhận những tổn thất. Trên lý thuyết, chấp nhận tổn thất xảy ra khi bên chịu

tác động không có khả năng chống chọi lại bằng bất kỳ cách nào (ví dụ như ở những

cộng đồng nghèo vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, hay ở nơi mà giá phải trả

cho các hoạt động thích ứng là cao so với sự rủi ro hay là các thiệt hại có thể).

- Chia sẻ tổn thất: Loại phản ứng thích ứng này liên quan đến việc chia sẻ

những tổn thất giữa một cộng đồng dân cư. Cách thích ứng này thường xảy ra trong

một cộng đồng truyền thống và trong xã hội hiện đại. Trong xã hội truyền thống,

nhiều cơ chế phi chính thức tồn tại để chia sẻ những tổn thất giữa các cộng đồng,

như: giữa các hộ gia đình, họ hàng, làng mạc hay các cộng đồng nhỏ tương tự. Mặt

khác, các cộng đồng lớn của xã hội hiện đại phát triển cao, thì các hình thức chia sẻ

những tổn thất thông qua cứu trợ cộng đồng, phục hồi và tái thiết bằng các quỹ hỗ

trợ công cộng, mạng lưới an sinh xã hội. Chia sẻ tổn thất cũng có thể được thực

hiện thông qua bảo hiểm nông nghiệp hoặc bảo hiểm rủi ro thiên tai.

- Làm thay đổi nguy cơ: Ở một mức độ nào đó, người ta có thể kiểm soát được

những mối nguy hiểm do BĐKH. Đối với một số hiện tượng thiên tai, như: lũ lụt

hay hạn hán, những biện pháp thích hợp là công tác kiểm soát lũ lụt, là đầu tư cho

hệ thống thủy lợi (xây đập, đê, kè). Đối với BĐKH, có thể điều chỉnh thích hợp làm

chậm tốc độ BĐKH bằng cách giảm phát thải KNK và cuối cùng là ổn định nồng độ

KNK trong khí quyển.

- Ngăn ngừa các tác động: Là một hệ thống các biện pháp thường dùng để

thích ứng từng bước và ngăn chặn các tác động và rủi ro tiềm tàng do BĐKH. Ví

dụ, trong lĩnh vực nông nghiệp, thay đổi phương thức canh tác, quản lý mùa vụ để

thích ứng với sự thay đổi của thời tiết cực đoan.

43

-Thay đổi cách sử dụng: Khi những rủi ro của BĐKH làm cho không thể tiếp tục các hoạt động sản xuất, kinh doanh, người ta có thể thay đổi cách sử dụng. Ví

dụ, để ứng phó với hạn hán, xâm nhập mặn người nông dân có thể chuyển sang sử dụng những giống cây chịu hạn, mặn tốt hơn.

- Di chuyển địa điểm cư trú, sản xuất: Trong trường hợp một số hiện tượng

thời tiết cực đoan đe dọa sự an toàn của một nhóm cộng đồng, thì cần sử dụng biện

pháp là thay đổi/chuyển địa điểm của các hoạt động cứ trú, kinh tế. Ví dụ, việc di chuyển một nhóm cộng đồng dân cư ở khu vực sạt lở bờ sông, bờ biển đến nơi ở

mới an toàn hơn. Tuy nhiên, việc lựa chọn giải pháp này thường rất tốn kém về mặt

kinh phí, và sự đồng thuận của nhóm đối tượng cộng đồng bị di chuyển địa điểm.

- Nghiên cứu: Quá trình thích ứng được thực hiện dựa vào các nghiên cứu và

ứng dụng triển khai công nghệ trong các lĩnh vực khác nhau (hạ tầng, giao thông,

năng lượng, nông nghiệp). Thích ứng thông qua nghiên cứu thì Nhà nước phải đầu

tư cho mạng lưới nghiên cứu và tổ chức khoa học công nghệ.

- Giáo dục, truyền thông nhằm thay đổi hành vi: Hoạt động thích ứng dựa vào phổ

biến kiến thức thông qua các chiến dịch thông tin công cộng và giáo dục, dẫn đến việc

thay đổi hành vi. Ví dụ, giải pháp truyền thông hưởng ứng giờ trái đất, để giúp cộng

đồng có ý thức tiết kiệm điện, giảm phát thải KNK bảo vệ trái đất [154].

Nghiên cứu về thích ứng với BĐKH hiện tại đã chỉ rõ rằng các hoạt động

thích ứng hiện nay của con người nhiều khi không mang lại kết quả tốt như kỳ

vọng. Bởi, những thiệt hại nặng nề ngày càng gia tăng do các thiên tai lớn, các thảm hoạ thiên nhiên gây ra, vượt qua khả năng phòng vệ của con người. Tuy nhiên,

không thể quy kết những thiệt hại này chỉ do các hiện tượng đó, mà còn do sự thiếu

sót trong hoạch định và thực thi các chính sách thích ứng với BĐKH ở phạm vi toàn

cầu, khu vực và quốc gia. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, thì chính sách

ứng phó với BĐKH vẫn tập trung chủ yếu vào hoạt động thích ứng với BĐKH. Bởi,

thích ứng là một quá trình điều chỉnh được các hoạt động của con người, đòi hỏi sự

tham gia của nhiều đối tượng, nhiều thành phần và được thực hiện ở nhiều cấp độ

khác nhau theo từng bước trong một quy trình thống nhất, được thực hiện lâu dài. Thích ứng cần được thực hiện sao cho hiệu quả nhất và phù hợp nhất, không gây

xáo trộn lớn đến cuộc sống của người dân, cũng như không ảnh hưởng đến hoạt động KT-XH của địa phương [154, tr.43-44]. 2.1.3.3. Các biện pháp giảm nhẹ ảnh hưởng của BĐKH

Đối với việc giảm nhẹ BĐKH, bao gồm các hoạt động cụ thể nhằm giảm phát

thải khí nhà kính trong các lĩnh vực/ngành kinh tế chủ yếu như:

44

- Trong lĩnh vực năng lượng thông qua việc nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo tồn năng lượng chiếu sáng; chương trình tiết kiệm năng lượng và nâng cao hiệu quả

sử dụng năng lượng trong các doanh nghiệp, hộ gia đình; tiết kiệm năng lượng trong giao thông vận tải. Ngoài ra, còn thúc đẩy nghiên cứu, triển khai và tăng

cường sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo: năng lượng mặt trời, điện gió, năng

lượng sinh khối, địa nhiệt…

- Trong ngành lâm nghiệp, tập trung thực hiện Chương trình trồng rừng nhằm tăng độ che phủ của rừng; Chương trình RED, RED+; xây dựng chương trình hành

động nhằm ngăn chặn tình trạng giảm sút tài nguyên rừng và phục hồi rừng thông

qua bảo vệ rừng hiện có hay khoanh nuôi phục hồi và trồng mới rừng... Bên cạnh

đó, cần thu hút sự tham gia của các hộ gia đình và cá nhân trong bảo vệ rừng và

trồng rừng.

- Trong ngành nông nghiệp có tính đến yêu cầu ứng phó với BĐKH, các

phương thức canh tác bền vững được sử dụng như xây dựng các biện pháp kỹ thuật

canh tác nông nghiệp mới vừa tăng sản lượng và năng suất nông nghiệp, vừa giảm

nhẹ phát thải KNK (chọn giống lúa ngắn ngày có năng suất và chất lượng cao, chọn

biện pháp gieo thẳng thay cho cấy, chuyển đổi cơ cấu cây trồng độc canh sang lúa -

màu, bón phân dạng viên thích hợp cho việc bón phân đơn, cải thiện nước tưới tiêu

ruộng lúa...

2.1.3.4. Năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu

Để ứng phó hiệu quả với ảnh hưởng của BĐKH phụ thuộc rất nhiều vào năng lực ứng phó của các chủ thể liên quan (năng lực tổ chức Nhà nước, năng lực của

doanh nghiệp, năng lực của cộng đồng…). Năng lực là tổng hợp các nguồn lực,

điểm mạnh và đặc tính sẵn có trong từng cá nhân, cộng đồng, xã hội và tổ chức có

thể được sử dụng nhằm đạt được các mục tiêu chung [227, tr.33]. Năng lực có tính

động và thay đổi tùy theo hoàn cảnh cụ thể. Nâng cao năng lực thường được xác

định như là mục tiêu của các chính sách và các dự án, dựa trên quan điểm cho rằng

tăng cường năng lực cuối cùng sẽ dẫn đến giảm nguy cơ rủi ro. Năng lực đóng vai

trò quan trọng trong việc hạn chế các tác động của BĐKH [227, tr.72].

Năng lực thích ứng: là sự kết hợp của tất cả các điểm mạnh, thuộc tính và

nguồn lực sẵn có cho một cá nhân, cộng đồng, xã hội, hoặc tổ chức có thể được sử

dụng để chuẩn bị và thực hiện các hành động để giảm tác động xấu, giảm thiệt hại

hoặc tận dụng các cơ hội có lợi. Năng lực thích ứng đề cập đến khả năng dự đoán

và thay đổi cơ cấu, chức năng, hoặc tổ chức để tồn tại tốt hơn trước các hiểm họa.

Nhu cầu năng lực trong mỗi giai đoạn ứng phó với BĐKH là khác nhau, phụ

thuộc vào khả năng dự báo và phòng tránh trước khi rủi ro xảy ra, khả năng đối

45

phó khi hiểm họa xảy ra, và khả năng phục hồi và thay đổi sau khi xảy ra thiên

tai và BĐKH. Ngoài ra, khi nghiên cứu về năng lực ứng phó với BĐKH thì cần tính

đến khả năng chống chịu. Khả năng chống chịu của một hệ thống được định nghĩa

là khả năng phán đoán, tiếp nhận, điều chỉnh và phục hồi từ những ảnh hưởng của

một hiện tượng nguy hiểm một cách kịp thời và hiệu quả. Khả năng chống chịu bao

gồm khả năng giữ gìn, hồi phục và tăng cường các cấu trúc và chức năng cơ bản,

quan trọng của hệ thống đó [227, tr.34].

2.1.4. Chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu

Từ khái niệm chính sách công, BĐKH, ứng phó với BĐKH, luận án khái quát

hóa lại khái niệm chính sách ứng phó với BĐKH như sau: là tập hợp các biện pháp

ứng phó được thể chế hóa, bao gồm mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách của

Nhà nước, nhằm thực hiện mục tiêu ưu tiên thích ứng với tác động bất lợi và giảm

nhẹ các ảnh hưởng của BĐKH, đồng thời tận dụng các cơ hội có lợi do BĐKH

mang lại.

Như đã phân tích ở trên thì chính sách ứng phó với BĐKH có nội dung rất

rộng, tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau mà giới hạn nội hàm, cách phân loại

chính sách ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, sự phân loại này cũng chỉ mang tính

chất tương đối.

a. Phân loại theo nội hàm chính sách

- Chính sách thích ứng với BĐKH: các chính sách tập trung vào các giải pháp

để khuyến khích góp phần điều chỉnh, chuyển đổi hệ thống KT-XH, ngành/lĩnh vực

kinh tế, chuyển đổi các mô hình sản xuất nhằm phù hợp với sự thay đổi của khí hậu.

- Chính sách giảm nhẹ BĐKH: tập trung vào các chính sách nhằm chuyển đổi

sang nền kinh tế xanh, các-bon thấp nhằm giảm phát thải KNK.

b. Phân loại theo tính chất của chính sách

- Chính sách công trình: là tập trung vào các chính sách khuyến khích các giải

pháp công trình nhằm ứng phó với BĐKH (tập trung vào làm đê biển, đê sông, kè

sông, hệ thống thuỷ lợi, đường giao thông, hạ tầng đô thị…) có tính đến yếu tố thích

ứng với BĐKH.

- Chính sách phi công trình: các chính sách nhằm các giải pháp phi công trình,

bán công trình có tính đến thích ứng với BĐKH: chính sách chuyển đổi mô hình

sinh kế sản xuất của cộng đồng; chính sách trồng rừng ngập mặn, rừng ven biển;

chính sách thúc đẩy ứng dụng KH&CN nhằm ứng phó với BĐKH; chính sách ứng

46

phó với BĐKH dựa vào tri thức bản địa, văn hoá cộng đồng…

c. Phân loại theo nhóm nguồn lực chính sách

- Chính sách nâng cao năng lực bộ máy: tập trung vào nâng cao năng lực của

bộ máy thực hiện chính sách từ Trung ương đến địa phương.

- Chính sách hạ tầng: tập trung vào các chính sách về hạ tầng thuỷ lợi, giao

thông… nhằm ứng phó với BĐKH.

- Chính sách tài chính cho BĐKH: tập trung thực hiện các chính sách nhằm

huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính cho BĐKH.

- Chính sách KH&CN: chính sách thúc đẩy đầu tư cho nghiên cứu, ứng dụng

và triển khai công nghệ nhằm ứng phó với BĐKH.

- Chính sách hội nhập và hợp tác quốc tế về BĐKH: tận dụng sự hỗ trợ về kỹ

thuật, kỹ năng và tài chính cho các mô hình ứng phó với BĐKH của các tổ chức

quốc tế, tổ chức NGOS ở nước ngoài.

2.1.5. Vùng sinh thái - xã hội trong ứng phó với biến đổi khí hậu

2.1.5.1. Khái niệm vùng sinh thái - xã hội

Phân vùng lãnh thổ đối với bất kỳ lãnh thổ nào đều có ý nghĩa đặc biệt quan

trọng cho công tác quản lý tổng hợp lãnh thổ theo vùng. Phân vùng lãnh thổ là sự

phân chia lãnh thổ thành các khu vực riêng biệt dựa vào tính không lặp lại trong

không gian, có cấu trúc riêng biệt, bao gồm một tập hợp có quy luật các đơn vị lãnh

thổ theo kiểu loại. Tùy thuộc vào từng quy mô, cách tiếp cận và mục đích nghiên

cứu lãnh thổ sẽ có các cấp và tiêu chí phân loại khác nhau, đối với cấp phân loại

tiểu vùng - được xem là cấp phân vùng cơ sở, mỗi tiểu vùng đều có chức năng đặc

thù và có thể thay đổi tùy thuộc vào sự thay đổi đặc điểm cấu trúc lãnh thổ.

Khái niệm “vùng” được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu và văn bản

nhà nước. Tuy nhiên, chưa có sự thống nhất cao về nội hàm của khái niệm này. Các

khác biệt xuất phát từ các góc độ xem xét và cách tiếp cận như theo phương diện

địa lý và điều kiện tự nhiên, hành chính, tài nguyên sinh thái, lưu vực sông, phát

triển KT-XH,… Từ định nghĩa về vùng của Hoover E. M. (1984) và Lê Bá Thảo

(1998) thì “vùng là một bộ phận lãnh thổ của một hay nhiều quốc gia với các đặc

điểm khác biệt về địa lý tự nhiên và xã hội, có trình độ phát triển khác biệt, có cấu

trúc và hoạt động như một hệ thống trong mối quan hệ tương hỗ với quốc gia và với

vùng khác” [222], [103] [142]. Theo định nghĩa này, vùng có thể là vùng liên quốc gia,

vùng liên bang trong một quốc gia, vùng độc lập trong một quốc gia và có sự phân biệt

47

rõ về lãnh thổ giữa vùng này và vùng khác. Các vùng này có sự phát triển khác nhau

nên đòi hỏi phải có những can thiệp để phát triển đồng đều và phát triển toàn diện. Về

hình thức, vùng có nhiều hình thức khác nhau như: vùng thủ đô, vùng tam giác hay tứ

giác phát triển, vùng liên bang, vùng KT-XH, vùng hành lang kinh tế, vùng hành chính

kinh tế đặc biệt, vùng kinh tế động lực, vùng kinh tế trọng điểm…

Theo định nghĩa đã nêu ở trên, vùng là một bộ phận lãnh thổ với các đặc điểm

khác biệt về địa lý tự nhiên và xã hội, có trình độ phát triển khác biệt, điều này hàm

ý, vùng là một khu vực lãnh thổ có những đặc thù để phân biệt với các vùng khác.

Chính tính chất đặc thù này cấu thành nên sự khác biệt của các vùng khác nhau.

Theo đó, có thể có vùng có đặc thù về địa lý tự nhiên như ở vùng núi cao hay vùng

biển, có vùng có đặc thù về kinh tế như vùng động lực kinh tế hay vùng nghèo và

kém phát triển về kinh tế, có vùng có đặc thù về xã hội như vùng tập trung dân tộc

thiểu số và bất bình đẳng xã hội trầm trọng, có vùng có tầm quan trọng đặc thù về

an ninh, quốc phòng…Các đặc thù càng nhiều càng làm cho các vùng dễ phân biệt

với nhau hơn và càng làm cho vùng đa dạng hơn. Theo cách nhìn như vậy, đặc thù

của vùng có ý nghĩa rộng hơn và bao trùm lên cả nội dung về cơ cấu kinh tế và cơ cấu xã hội như quan niệm của Ngô Doãn Vịnh (2003)2 [142].

Đặc thù vùng - thể chế: Đặc thù vùng là những yếu tố khách quan quy định thể chế vùng và do đó quy định quản trị vùng là yếu tố chủ quan. Thể chế vùng là thể chế ở cấp độ vùng, chỉ tồn tại để phục vụ cho việc quản trị vùng đó. Ví dụ vùng TNB là vùng phải dựa chủ yếu vào tài nguyên nước của sông Cửu Long nên đòi hỏi phải có sự liên kết thể chế với nhau để quản trị, chia sẻ hiệu quả nguồn tài nguyên nước [142].

Đặc thù vùng - kinh tế: Mỗi vùng đều có các điều kiện để phát triển kinh tế khác nhau. Với hệ thống sông nước và hệ sinh thái đa dạng, vùng TNB còn có nhiều tiềm năng và lợi thế để phát triển kinh tế thuỷ sản, trái cây, lúa gạo...

2 Ngô Doãn Vịnh (2003, tr.184) cho rằng: vùng kinh tế là một hệ thống KT-XH lãnh thổ, bao gồm các mối liên hệ tương tác nhiều chiều giữa các bộ phận cấu thành: liên hệ địa lý, liên hệ về kỹ thuật, liên hệ về kinh tế và liên hệ về các mặt xã hội trong hệ thống cũng như với ngoài hệ thống. Mỗi vùng là một tập hợp các thành tố tự nhiên, KT-XH. Đặc tính và trình độ phát triển của nó được phản ánh bởi cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội của nó (trong đó có cả cơ cấu các yếu tố tự nhiên bền vững). Nói cách khác, cơ cấu là thuộc tính quan trọng nhất của vùng. Vùng này khác vùng kia là bởi cơ cấu của nó [182].

48

Đặc thù vùng - văn hoá: Văn hoá, phong tục tập quán cũng có vai trò quan trọng trong việc tạo nên tính đặc thù vùng, và ứng xử với môi trường tự nhiên. Ví dụ, do sinh kế nông nghiệp gắn với sông nước, nên cư dân vùng nông thôn ở vùng TNB thường sinh sống ven bờ sông, bờ biển; nên dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai hạn hán, xâm nhập mặn, sạt lở bờ sông, bờ biển.

Đặc thù vùng - môi trường: Các đặc thù vùng sinh thái có những tác động trực tiếp và gián tiếp đến môi trường nơi con người sinh sống. Ví dụ, như môi trường

vùng TNB gắn với sông nước, cư dân bám biển, bãi bồi. Tuy nhiên, BĐKH và thiên

tai, thời tiết cực đoan đã làm thay đổi môi trường sinh sống, di cư và thay đổi sinh

kế của một số nhóm cộng đồng dân cư vùng TNB.

Theo Luật Quy hoạch 2017, thì “vùng là một bộ phận quốc gia bao gồm một

số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lân cận gắn với lưu vực sông hoặc có sự

tương đồng về điều kiện tự nhiên, KT-XH, lịch sử, dân cư, kết cấu hạ tầng và có mối quan hệ tương tác tạo ra sự liên kết bền vững với nhau”.3Theo quan điểm của Trương Quang Hải (2012), tiểu vùng là cấp dưới vùng, được phân chia dựa trên

những đặc thù về điều kiện tự nhiên, tài nguyên, dân cư, KT-XH các vùng phân hoá

thành các tiểu vùng [58]. Dựa trên quan điểm đó Trần Thanh Hà (2012), đã đưa ra

cách tiếp cận vùng theo hướng chuyên môn hoá, theo hướng tiếp cận tiểu vùng chức

năng [55]. Theo đó, tiểu vùng chức năng là cách tiếp cận không theo các tiếp cận

truyền thống về vùng là không bị giới hạn theo địa giới hành chính, lãnh thổ. Tiểu

vùng là cách tiếp cận theo các đặc thù hệ thống sinh thái - xã hội của từng khu vực

trong các địa phương khác nhau, xuất phát từ nhu cầu phát triển KT-XH. Tuy nhiên,

hiện nay chưa có văn bản pháp lý nào công nhận tính pháp lý của các phân chia tiểu

vùng này.

Tiếp cận vùng sinh thái - xã hội là hướng tiếp cận liên ngành được đề cập từ những năm 70 - 80 của thế kỷ XX nhằm vượt qua rào cản của sự tách biệt giữa KT- XH, văn hóa, với vốn tự nhiên, HST để hướng tới khả năng thích ứng được tổ chức tốt về mặt thể chế cho quản lý tài nguyên, môi trường một cách bền vững. Theo đó, khái niệm “hệ sinh thái xã hội” (social ecological system) ban đầu được coi la hệ thống các đơn vị địa lý - sinh học - tự nhiên (bio - geo - physical units) và các tác nhân tổ chức xã hội liên quan trong các hệ thống đó [213, tr.77-80]. Hay (Elinor Ostrom, 2009) và các cộng sự đã xây dựng lý thuyết và khung phân tích hệ sinh thái - xã hội (SES) toàn diện hơn, phục vụ quản lý tài nguyên, PTBV lãnh thổ và được

ứng dụng rộng rãi trên thế giới [241]. Còn theo Trương Quang Học (2016), vùng chức năng theo các tiếp cận sinh thái - xã hội là một biến thể của hệ sinh thái nhân văn, nhấn mạnh yếu tố xã hội với nội hàm là một hệ thống phức tạp và thống nhất bao gồm cả con người và tự nhiên cấu thành với một đơn vị sinh - vật - địa và các

3 Điều 3, khoản Luật Quy hoạch được Quốc hội khóa 14 thông qua vào tháng 11/2017 và có hiệu lực vào ngày 1/1/2019.

49

yếu tố xã hội, thể chế kèm theo [64]. Tuỳ theo các đặc trưng cơ bản về sinh thái - xã

hội để phục vụ mục đích quy hoạch sản xuất và phát triển KT-XH. Tiếp nối cách tiếp cận trên, Mai Trọng Nhuận (2017) lại đưa ra khái niệm vùng sinh thái - xã hội dưới góc

độ PTBV, thì vùng sinh thái - xã hội là không gian có thể thuộc địa phận hành chính

của nhiều địa phương [86]. Quan niệm này đã đảm bảo cho việc lập quy hoạch vùng

không dựa vào tư duy nhiệm kỳ, lợi ích cục bộ của từng bộ/ngành và địa phương; và không gian quy hoạch không bị hạn chế bởi địa giới hành chính và ý chí chính trị của

các chủ thể lập quy hoạch. Có thể thấy, phân chia các vùng ở ĐBSCL theo tiếp cận

sinh thái - xã hội tuy không phải là vấn đề mới trên thế giới, nhưng đây là vấn đề

liên ngành mới được ứng dụng trong nghiên cứu vùng ở Việt Nam cho các mục tiêu

PTBV, ứng phó với thiên tai, BĐKH.

nét tương đồng về điều kiện môi trường sinh thái (địa lý, tài nguyên, môi trường) và đặc điểm KT-XH, văn hóa, cùng với hệ thống thể chế, quản trị vùng. Đồng

thời có mối quan hệ tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau giữa hệ thống tự nhiên và hệ thống KT-XH, nhân văn, thể chế, tạo nên đặc trưng riêng biệt của lãnh thổ. Dựa vào các quan điểm, có thể nhận thấy vùng sinh thái - xã hội thường được

Từ các khái niệm ở trên có thể hiểu, vùng sinh thái - xã hội là một khu vực có

xem xét trên các yếu tố: (i) các địa phương có điều kiện tương đồng về điều kiện tự

nhiên, sinh thái, lịch sử; (ii) các địa phương có mối quan hệ, liên kết tương đối chặt

chẽ; (iii) quy mô của vùng phù hợp để xác định các định hướng phát triển theo tiềm

năng, lợi thế của các địa phương trong vùng, mang lại hiệu quả tổng thể cao nhất

[99]. Với đặc điểm địa lý - xã hội của Việt Nam, tác động của BĐKH ở nước ta

mang tính chất từng khu vực, vùng, miền rất rõ nét. Và quy mô, phạm vi ảnh hưởng

của BĐKH dường như sẽ vượt quá khả năng ứng phó độc lập, vật lý của từng địa

phương riêng lẻ... Điều đó cho thấy, cần phải có sự liên kết, tích hợp giữa các địa

phương và vùng miền là rất cần thiết trong việc ứng phó với BĐKH. Trong

CTMTQG ứng phó với BĐKH đã nhấn mạnh quan điểm “ứng phó với BĐKH được tiến hành trên nguyên tắc PTBV, bảo đảm tính hệ thống, tổng hợp, ngành, liên

ngành, vùng, liên vùng” [109].

Bảng 2.1. Mức độ nghiêm trọng của BĐKH, thiên tai theo vùng ở Việt Nam4

Thiên tai

Tây Bắc Đông Bắc ĐBSH BTB NTB TN ĐNB ĐBSCL

1 Bão 2 Áp thấp nhiệt đới 3 Lũ

4 4 4

4 4 4

4 4 4

3 4 4

2 - 4

1 1 3

1 1 2

4 4 4

4 (4) Rất nghiêm trọng, (3) Nghiêm trọng, (2) Trung bình; (1) Nhẹ, (-) Không ảnh hưởng

50

4 Lũ quét 5 Lốc, tố 6 Hạn hán 7 Xâm nhập mặn 8 Lụt Sạt lở đất 9 10 Sạt lở sông, biển 11 Nước biển dâng 12 Cháy rừng

4 4 3 - - 4 1 - 4

3 2 4 3 4 2 2 2 3

- 3 3 1 3 2 2 2 1

2 2 3 1 2 2 2 1 2

- 1 4 4 2 - 4 4 2

4 4 3 - - 4 1 - 4

3 2 4 - - 2 - 2

3 2 4 2 3 2 3 2 4 Nguồn: CTMTQG BĐKH, 2008; Viện KHKHTV&BĐKT,

Chương trình Phát triển Liên hợp quốc, 2015; và cập nhật của Luận án, 2018.

Về mặt nguyên tắc, bản thân mỗi địa phương/vùng đều có tính đặc thù nhất

định, sức chịu tải môi trường nhất định, tính chống chịu với BĐKH nhất định,

nhưng hiện nay ứng phó với BĐKH, đang được quản lý theo lãnh thổ hành chính,

chứ chưa tính đến vấn đề tính chống chịu với BĐKH liên tỉnh, liên vùng [154].

2.1.5.2. Lợi ích của tiếp cận vùng sinh thái-xã hội trong ứng phó với biến đổi khí hậu

Luận án lựa chọn vùng sinh thái - xã hội bởi những lợi ích như sau:

- Mức độ phù hợp về điều kiện KT-XHvà tài nguyên thiên nhiên, môi trường

sinh thái với từng tiểu vùng.

- Khả năng phát huy được lợi thế so sánh, tiềm năng, thế mạnh của tiểu vùng.

- Phát huy các giá trị lịch sử, tri thức bản địa và giá trị văn hoá của cộng đồng

trong thích ứng với thiên tai và BĐKH.

- Duy trì được tính bền vững của hệ thống vốn tự nhiên và ứng phó linh hoạt

với các rủi ro về KT-XH và BĐKH.

- Tăng cường khả năng về liên kết giữa các địa phương và giữa các địa

phương với các trung tâm (hạt nhân - đầu tàu kinh tế) và sự phát triển hạ tầng kết

nối các địa phương trong vùng [173].

- Quy mô vùng sẽ phù hợp với năng lực tổ chức và quản lý của chính quyền

địa phương, liên kết vùng trong ứng phó với BĐKH giữa các địa phương.

2.2. Thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu 2.2.1. Các khái niệm liên quan 2.2.1.1. Thực hiện chính sách công

Thực hiện chính sách được xem xét, phân tích là một giai đoạn của chu trình

chính sách công: hoạch định chính sách; xây dựng chính sách; thực hiện chính sách;

51

đánh giá chính sách.

Hiện nay, định nghĩa về thực hiện chính sách có nhiều cách khác nhau, theo

Mazmanian và Sabatier (1989): “là thực hiện một quyết định chính sách cơ sở,

thường được thể hiện trong một đạo luật, nhưng cũng có thể được thể hiện dưới

hình thức các quyết định quan trọng của cơ quan hành pháp hoặc các quyết định của

tòa án. Theo quyết định đó xác định vấn đề cần được giải quyết, quy định các mục

tiêu cần theo đuổi, và rất nhiều cách thức, định hình quá trình thực thi”. Thông

thường, quá trình này trải qua nhiều giai đoạn, bắt đầu với việc thông qua đạo

luật cơ bản, tiếp theo là các quyết định của các cơ quan thực thi chính sách, sự

tuân thủ của các nhóm lợi ích với các quyết định đó, các tác động thực tế - cả

chủ định và không chủ định - của các đầu ra đó, những tác động nhận thức được

của các quyết định, và cuối cùng là những sửa đổi quan trọng trong đạo luật cơ

bản [231, tr.95-97].

Theo Jeffrey Presman và Aaron Wildavsky, thì một quyết định chính sách

công đưa đến một giả thuyết liên kết các mục tiêu với mục đích hoặc những kết quả

mong đợi. Tác giả, Paul Berman đã thay thế giả thuyết này bằng chuỗi ít nhất hai

mối quan hệ: (i) Hiệu lực thực hiện: nếu P, thì I (một lựa chọn chính sách công P

dẫn đến một chương trình thực hiện cụ thể I); (ii) Hiệu lực kỹ thuật: nếu I, thì O

(chương trình được thực hiện dẫn đến kết quả O). Paul Berman cho rằng, hiệu lực

thực hiện và hiệu lực kỹ thuật không thể tách rời nhau, chúng gắn liền với nhau.

Mối quan hệ (nếu P, thì I) giải quyết những thứ còn thiếu giữa chính sách công và

kết quả là một chương trình được thực hiện. Tuy nhiên, cũng cần thừa nhận, sự thực

hiện chương trình phụ thuộc vào sự tác động lẫn nhau phức tạp giữa chính sách

công và môi trường thực hiện [246, tr.8].

Theo Amy DeGroff, Margaret Cargo, thực hiện chính sách công phản ánh một

quá trình thay đổi phức tạp mà các quyết định của Nhà nước được chuyển thành các

chương trình, các quy định, hoặc các hoạt động nhằm đạt được những cải thiện xã

hội [204, tr.47-49]. Còn Lawrence W Green (1988) với góc nhìn thuyết hành vi lại

cho rằng “thực hiện là một quá trình lặp đi lặp lại, trong đó các ý tưởng được thể

hiện trong chính sách công được biến đổi thành hành vi, được thể hiện thành hành

động xã hội. Thông thường hành động xã hội được biến đổi từ chính sách nhằm đạt

được sự cải thiện xã hội; và thường được thể hiện phổ biến nhất dưới dạng các

chương trình, quy định và hành động” [216]. Theo Thomas Dye, thực hiện bao gồm

tất cả các hoạt động được thiết kế để thực hiện các chính sách công đã được thông

52

qua bởi cơ quan lập pháp. Vì chính sách công có những tác động mong muốn hoặc

có chủ định, nên chúng phải được chuyển thành các chương trình và các dự án mà

sau đó được thực hiện để đạt được các mục tiêu của chính sách [209]. Còn theo tác

giả William N. Dunn lại quan niệm thực hiện chính sách là cơ quan hành pháp, các

hành động chính sách có hai mục đích chính là điều chỉnh và phân bổ nguồn lực

theo các nguyên tắc thị trường cho cho xã hội thông qua các chương trình dự án

[208, tr.227-228]. Trong đó, các hành động điều chỉnh là những hoạt động được

thiết kế để đảm bảo sự tuân thủ các tiêu chuẩn của chính sách. Còn các hành động

phân bổ nguồn lực là những hoạt động đòi hỏi phải có các đầu vào như nhân lực,

vật lực, tài lực… Như vậy, theo các quan điểm đã nêu trên thì thực hiện chính sách

không đơn giản chỉ là sự tổ chức thực hiện các giải pháp, chính sách cụ thể mà bao

gồm: (i) Ban hành các văn bản quy định chi tiết các biện pháp, các thủ tục thực thi

chính sách công (văn bản thực thi chính sách công) và thi hành các văn bản đó; (ii)

Thiết lập các chương trình, dự án để thực hiện chính sách công, và (iii) Tổ chức

thực hiện các chương trình, dự án đó.

Từ những khái niệm đã có ở trên, luận án khái quát hóa lại một định nghĩa mang tính tổng hợp như sau: Thực hiện chính sách là quá trình mà chủ thể chính sách đưa chính sách vào thực tiễn đời sống xã hội nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách trong môi trường biến động. 2.2.1.2. Thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu

Từ khái niệm thực hiện chính sách công, ứng phó với BĐKH, luận án khái quát hóa lại khái niệm thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH như sau: Là quá trình mà Nhà nước đưa chính sách vào thực tiễn ứng phó với BĐKH nhằm hiện thực hóa các mục tiêu ưu tiên thích ứng với tác động bất lợi và giảm nhẹ các ảnh hưởng của BĐKH, đồng thời tận dụng các cơ hội có lợi do BĐKH mang lại.

Đối với các quốc gia hiện nay, sẽ có thực hiện chính sách thích ứng và thực hiện chính sách giảm nhẹ, trong đó, chính sách giảm nhẹ là chính sách mang tính dài hạn. Đối với những quốc gia đang phát triển như Việt Nam, thì các hoạt động tập trung vào thực hiện chính sách thích ứng là chủ yếu. 2.2.2. Vai trò và chủ thể của thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu 2.2.2.1. Vai trò của thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu

53

Thực hiện chính sách công là một giai đoạn rất quan trọng của chu trình chính sách, bởi sự thành công của một chính sách công phụ thuộc vào kết quả của thực hiện chính sách công. Theo Wayne Hayes (2001) có bốn khả năng xảy ra: (i) chính sách công tốt và thực hiện tốt dẫn đến thành công; (ii) chính sách công tốt, nhưng thực hiện tồi dẫn đến thất bại; (iii) chính sách công tồi, nhưng thực hiện tốt dẫn đến thành công; và (iv) chính sách công tồi và thực hiện tồi dẫn đến thất bại kép [220, tr.24].

Như vậy, thực hiện chính sách BĐKH có vị trí đặc biệt quan trọng trong chu trình chính sách ứng phó với BĐKH, nó là giai đoạn thực hiện hóa mục tiêu chính

sách. Vai trò của thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH trong chu trình chính

sách được thể hiện ở những phương diện sau:

- Từng bước hiện thực hóa mục tiêu của chính sách ứng phó với BĐKH: Các mục tiêu của chính sách ứng phó với BĐKH chỉ có thể đạt được thông qua quá trình

thực hiện chính sách trong thực tiễn. Bởi thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH

do các chủ thể: cơ quan Nhà nước, doanh nghiệp, người dân và các bên liên quan

khác, hướng tới đạt được các mục tiêu và mục đích đã tuyên bố trong chính sách

BĐKH. Trong quá trình thực hiện, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải xây

dựng và ban hành các văn bản, chương trình, nhiệm vụ, dự án để hiện thực hóa các

mục tiêu và mục đích chính sách BĐKH. Và tiến hành các hoạt động để thực hiện

các văn bản, chương trình, dự án đó.

- Khẳng định tính đúng đắn của chính sách BĐKH: Quá trình hoạch định

chính sách cho ra đời một chính sách ứng phó BĐKH. Tuy nhiên, chính sách đó có

thực sự phù hợp với thực tiễn hay không, thì phải trải qua giai đoạn thực hiện chính

sách vào các vùng, địa phương cụ thể. Thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH sẽ

cung cấp những bằng chứng thực tiễn về mục tiêu chính sách BĐKH có thích hợp

hay không, và các giải pháp chính sách ứng phó BĐKH đưa ra có thực sự phù hợp với vấn đề mà nó hướng tới giải quyết hay không. Về phương diện lý thuyết, một

chính sách BĐKH được ban hành phải đáp ứng đầy đủ những tiêu chuẩn của một

chính sách tốt và mới chỉ được thừa nhận bởi các chủ thể ban hành, nhưng khi triển

khai vào thực tiễn tại các vùng và địa phương, thì tính đúng đắn của chính sách

BĐKH mới được khẳng định một cách chắc chắn, bởi xã hội và đối tượng thụ

hưởng chính sách BĐKH.

- Thực hiện chính sách giúp cho chính sách ứng phó với BĐKH ngày càng

hoàn thiện hơn: Chính sách ứng phó với BĐKH được ban hành nhằm định hướng

về mục tiêu và giải pháp để giải quyết vấn đề thích ứng và giảm nhẹ ảnh hưởng của

BĐKH ở phương diện quốc gia, vùng, địa phương. Chính sách ứng phó với BĐKH

này sẽ được cụ thể hóa cho phù hợp với bối cảnh và điều kiện cụ thể trong quá trình

thực hiện của các cơ quan Nhà nước các cấp. Căn cứ vào mục tiêu và giải pháp

chính sách ứng phó với BĐKH ban đầu, thì các cơ quan Nhà nước các cấp theo

thẩm quyền hoạch định và ban hành các chương trình, nhiệm vụ dự án để cụ thể hóa

các mục tiêu và giải pháp cho phù hợp với bối cảnh, điều kiện thực thi chính sách

54

BĐKH cụ thể. Hơn nữa, thông qua thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH, những

người thực hiện đưa ra những đề xuất điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực

tiễn thích ứng tại các vùng và địa phương cụ thể, để ra những bài học kinh nghiệm

cho việc thiết kế chính sách ứng phó với BĐKH trong tương lai [206, tr.13-14].

2.2.2.2. Chủ thể thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu

Tùy thuộc vào thể chế chính trị, những quy định của Hiến pháp, nguyên tắc

thực thi quyền lực Nhà nước, cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, mức độ dân chủ,

công khai, minh bạch trong quản lý Nhà nước, trình độ phát triển KT-XH ở mỗi

quốc gia mà số lượng và loại chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện chính sách ở

các nước là khác nhau.

Theo Lê Vinh Danh (2001), có 5 chủ thể tham gia vào thực hiện chính sách và

cùng tác động lẫn nhau trong tiến trình thực hiện, bao gồm: (i) Các cơ quan chuyên

trách của Chính phủ - các cơ quan chuyên trách và viên chức của họ là lực lượng

nòng cốt trong việc thực hiện chính sách; (ii) Các thành viên của Quốc hội- nhiều

nghị sĩ quốc hội và các ủy ban, như: Ủy ban đường lối và chính sách, Ủy ban Ngân

sách… quản lý một cách chặt chẽ việc thực hiện chương trình; (iii) Hệ thống tòa án-

trực tiếp thực hiện một số chính sách và tham gia thi hành chính sách với các cơ

quan chuyên trách của chính phủ; (iv) Các tổ chức lợi ích - gây ảnh hưởng đối với

các cơ quan chuyên trách của Chính phủ và tham gia vào cung ứng các đầu ra chính

sách; (v) Đối tượng thụ hưởng chính sách-là tác nhân thụ động nhưng góp phần vào

sự thành công hay thất bại của chính sách [181, tr.287-293].

Còn theo tác giả Đỗ Đức Minh những người thực hiện chính sách là những tổ

chức, nhóm xã hội hoặc cá nhân mà những hành động cụ thể của họ có tác dụng đưa

chính sách từ lý thuyết trở thành hiện thực, từ đó tạo ra những biến đổi trong thực tế

đời sống xã hội. Lực lượng tham gia thực hiện chính sách rất đông đảo, gồm các cơ

quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân hoặc các đối tượng chính

sách; trong đó, chủ thể triển khai trước hết và quan trọng nhất là các cơ quan hành

chính nhà nước cùng với các công chức của các cơ quan đó [65, tr.65].

55

Qua các cách tiếp cận ở trên cho thấy, có rất nhiều chủ thể tham gia vào quá trình thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH, và các chủ thể này có mối quan hệ tương tác với nhau trong quá trình thực hiện chính sách ở các vùng và địa phương. Số lượng chủ thể và vai trò của từng chủ thể tham gia tùy thuộc vào từng chính sách ứng phó với BĐKH cụ thể và bối cảnh của từng quốc gia. Tuy nhiên, có thể nhóm các chủ thể tham gia vào thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH thành các nhóm sau: (i) chủ thể thực hiện là các cơ quan Nhà nước - đây là chủ thể chịu trách nhiệm

thực hiện chính sách ứng phó BĐKH; (ii) chủ thể tham gia là các đối tác phi nhà nước (các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cá nhân trong và ngoài nước); (iii) chủ thể tham gia với tư cách là đối tượng thụ hưởng chính sách (người dân, các cộng đồng dân cư…).

2.2.3. Quy trình thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu

Thực hiện chính sách về BĐKH là quá trình đưa chính sách vào thực tiễn tại

các địa phương, nhằm hiện thực hóa các mục tiêu chính sách. Quá trình thực hiện

chính sách được triển khai thông qua hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước từ Trung

ương đến địa phương, với sự tham gia của nhiều chủ thể và các bên liên quan khác

nhau. Tùy thuộc vào từng chính sách BĐKH cụ thể, mà các chủ thể thực hiện chính

sách xác định các nhiệm vụ cụ thể để triển khai thực thi chính sách đó.

2.2.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về biến đổi khí hậu

Căn cứ vào các quy định trong chính sách được công bố để hướng dẫn cơ

quan có thẩm quyền xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về BĐKH ở

địa phương. Trong kế hoạch cần phải nêu rõ các nội dung:

- Kế hoạch tổ chức điều hành về ứng phó với BĐKH; kế hoạch cung cấp các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài chính, thông tin, công nghệ…) cho ứng phó với BĐKH.

- Kế hoạch và thời gian triển khai thực hiện các chương trình, dự án ứng phó

với BĐKH.

- Dự kiến nội quy, quy chế về tổ chức điều hành; quy chế phối hợp giữa các tổ

chức có liên quan đến ứng phó với BĐKH.

- Quy định về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của cá nhân, tổ chức tham gia

thực hiện chính sách BĐKH.

Hiện nay, các bộ/ngành và chính quyền địa phương đều quan tâm đến việc xây

dựng kế hoạch thực hiện chính sách về BĐKH thuộc thẩm quyền một cách cụ thể.

Tại các địa phương, kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về BĐKH đều có sự

tham gia của các sở, ban ngành của tỉnh và được lãnh đạo UBND tỉnh thay mặt ký

phê duyệt kế hoạch hành động thực hiện Chương trình MTQG về BĐKH theo từng

giai đoạn cụ thể, để tạo cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện chính sách về BĐKH.

2.2.3.2. Tuyên truyền chính sách về biến đổi hậu hậu

Hiện nay, có nhiều hình thức khác nhau để phổ biến, tuyên truyền chính sách

về BĐKH: tuyên truyền, phổ biến trên các phương tiện truyền thông như đài truyền

56

hình, đài phát thanh; trên các phương tiện báo chi (báo giấy, báo mạng); tổ chức hội

nghị, cuộc họp; các lớp tập huấn, đào tạo về BĐKH… Tùy thuộc các đối tượng

tuyên truyền chính sách khác nhau mà chủ thể chính sách có thể lựa chọn các hình

thức tuyên truyền phù hợp, để mang lại hiệu quả cao nhất.

2.2.3.3. Phân công phối hợp thực hiện chính sách biến đổi khí hậu

Để đảm bảo cho sự thành công của thực hiện chính sách BĐKH, thì sự phân

công, phối hợp giữa các bên trong thực hiện có vai trò hết sức quan trọng. Sự phối

hợp trong việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH diễn ra ở nhiều cấp độ

(phối hợp theo chiều dọc, và phối hợp theo chiều ngang).

- Phối hợp theo chiều dọc: là sự phối hợp giữa các bộ/ngành với địa phương

trong việc triển khai thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH.

- Phối hợp theo chiều ngang: là sự phối hợp giữa các bộ và cơ quan ngang bộ;

sự phối hợp giữa các sở/ngành của địa phương trong việc triển khai thực thi chính

sách BĐKH ở tại các địa phương.

Để đảm bảo cho sự phân công phối hợp được thực hiện tốt, cần ban hành quy

chế phối hợp thực hiện chính sách BĐKH. Trong quy chế cần nêu rõ cơ quan chịu

trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ liên quan của các đơn vị phối hợp để làm tăng

hiệu quả của việc thực hiện chính sách BĐKH.

2.2.3.4. Triển khai thực hiện chính sách

Là quá trình các chủ thể chính sách BĐKH tổ chức triển khai thực hiện các dự án, nhiệm vụ về BĐKH tại các bộ/ngành và địa phương, đồng thời, phải đảm bảo đúng tiến độ và chất lượng của các nhiệm vụ, dự án. Để quá trình này diễn ra thuận lợi thì phải đảm bảo các yếu tố cơ bản như sau:

- Bộ máy tổ chức thực thi phải có có năng lực: phụ thuộc vào năng lực thực thi của các cơ quan QLNN về BĐKH từ cấp trung ương đến địa phương; năng lực của các cán bộ thực hiện chính sách BĐKH; năng lực giám sát, phản biện chính sách của các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội và cộng đồng.

- Cơ chế tổ chức thực thi rõ ràng: phải xây dựng được cơ chế thực hiện chính sách BĐKH rõ ràng, minh bạch trách nhiệm, nguyền lợi, nghĩa vụ của các chủ thể và các bên liên quan đến chính sách ứng phó với BĐKH.

- Nguồn lực thực thi phải đầy đủ: chính sách phải được hoạch định và thực thi dựa vào các nguồn lực sẵn có, và phải đáp ứng đầy đủ, phù hợp với thực tiễn của vùng và địa phương [59]. 2.2.3.5. Kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách biến đổi khí hậu

57

Định kỳ các chủ thể thực thiện chính sách về BĐKH tiến hành đánh giá, kiểm tra kết quả thực hiện chính sách. Việc đánh giá, kiểm tra, giám sát thực hiện chính

sách được tiến hành theo nhiều cấp độ khác nhau: kiểm tra, đánh giá đầu kỳ; kiểm tra, đánh giá giữa kỳ; kiểm tra, đánh giá cuối kỳ; kiểm tra, đánh giá đột xuất.

Có nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá thực hiện chính sách khác nhau: (i)

thông qua các báo cáo tình hình thực hiện chính sách BĐKH cấp dưới gửi lên cho

cấp trên; (ii) qua việc tổ chức các đoàn công tác xuống tại các địa phương thực hiện chính sách.

- Hàng năm, các cơ quan, tổ chức được giao thực thi chính sách về BĐKH nào

thì tiến hành báo cáo, đánh giá việc thi hành chính sách đó và báo cáo lên cơ quan,

tổ chức cấp cao hơn. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh được giao thực

hiện các chương trình, dự án BĐKH thuộc thẩm quyền, thì tiến hành đánh giá giữa

kỳ và đánh giá kết thúc chương trình, dự án đó và báo cáo lên Chính phủ, các

bộ/ngành liên quan. Trong đó, báo cáo đánh giá giữa kỳ, báo cáo đánh giá kết thúc

chính sách BĐKH cần thể hiện rõ quá trình triển khai thực hiện; những kết quả đạt

được; những hạn chế, bất cập của chính sách; nguyên nhân và đề xuất những kiến

nghị đối với cấp trên để xử lý những vướng mắc trong tổ chức thực hiện chính sách

ứng phó với BĐKH [62, tr.20].

- Tiếp theo, trên cơ sở các báo cáo của các cơ quan, tổ chức thực hiện chính

sách BĐKH ở địa phương gửi lên Chính phủ, bộ/ngành lập các đoàn công tác liên

ngành xuống các địa phương kiểm tra đánh giá thực thi chính sách BĐKH. Hoặc

nhiều khi Thường vụ Quốc hội, và các ủy ban của Quốc hội cũng lập các đoàn giám

sát quá trình thực thi pháp luật, chính sách về BĐKH tại các địa phương.

2.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách biến đổi khí hậu

Để đạt được các mục tiêu chính sách về BĐKH thì cần thực hiện một chuỗi

các bước liên quan đến nhau, có nhiều chủ thể tham gia, đòi hỏi những nguồn lực

nhất định, bị chi phối bởi nhiều nhân tố ảnh hưởng lên chính sách. Thực hiện chính

sách về BĐKH được xem là thành công hay hiệu lực khi nó đạt được mục tiêu của

chính sách một cách đầy đủ [57, tr.338]. Tuy nhiên, để thực hiện chính sách về

BĐKH đòi hỏi phải đảm bảo các nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách, có

thể chia hai nhóm nhân tố như sau: nhóm các nhân tố chủ quan và nhóm các nhân tố

khách quan.

2.2.4.1. Nhóm các nhân tố thuộc về bản thân chính sách

a. Yếu tố chính sách

Bản thân chính sách công là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến việc thực hiện

58

chính sách BĐKH, ở những khía cạnh sau.

- Chính sách BĐKH được ban hành phải có chất lượng, nghĩa là chính sách

ban hành phải dựa trên các căn cứ khoa học và thực tiễn.

- Mục tiêu chính sách về BĐKH phải được xác định rõ ràng, cụ thể và nhất

quán về chủ trương, đồng bộ và đồng hướng về chính sách.

- Trong quá trình xây dựng chính sách BĐKH phải đảm bảo tính chủ động,

sáng tạo, để thu hút được nhiều chủ thể tham gia chính sách.

- Các mục tiêu chính sách BĐKH không mâu thuẫn, không bị triệt tiêu bởi các

chính sách khác.

Tuy nhiên, trên thực tế một chính sách về BĐKH được ban hành thỏa mãn tất

cả các điều kiện trên là khó đạt được, bởi: (i) để một chính sách về BĐKH dễ dàng

được thông qua thì mục tiêu và giải pháp chính sách công cần chung chung và trừu

tượng thay vì cụ thể; (ii) các chính sách về BĐKH do Chính phủ hoặc các bộ/ngành

ban hành, do đó, khó có thể xác định được mục tiêu và giải pháp cụ thể mà có thể

áp dụng cho mọi địa phương, vùng, miền bởi mỗi địa phương, vùng miền bị ảnh

hưởng bởi tác động của BĐKH khác nhau; (iii) chính sách về BĐKH được ban

hành để giải quyết những vấn đề thực tiễn, trong đó có những vấn đề gắn liền với

những nhóm dân cư, cộng đồng ở những vùng, miền và địa bàn cư trú khác nhau.

Do đó, nếu mục tiêu và giải pháp chính sách về BĐKH được xác định chi tiết và cụ

thể ngay từ ở cấp cao nhất thì có thể sẽ không phù hợp tất cả các đối tượng mà bản

thân chính sách hướng tới. Do vậy, thực hiện chính sách về BĐKH không chỉ đơn

giản là tổ chức thực hiện các giải pháp chính sách về BĐKH cụ thể, mà là sự tiếp

nối những gì còn thiếu trong giai đoạn hoạch định chính sách về BĐKH.

b. Chủ thể thực hiện chính sách

Một chính sách về BĐKH chỉ có thể có hiệu lực trong thực tế khi quá trình

thực hiện chủ thể thực hiện chính sách hội tụ đầy đủ các yếu tố sau:

- Năng lực của chủ thể thực hiện chính sách BĐKH: các chủ thể của chính

sách cần phải có đủ những năng lực và kỹ năng cần thiết để thực hiện thành công

các mục tiêu của chính sách BĐKH (năng lực của các cơ quan thực hiện, năng lực

của cán bộ thực hiện, năng lực của người dân).

- Bộ máy tổ chức thực hiện: xây dựng cơ quan chuyên trách, tổ chức chủ trì

việc thực hiện chính sách một cách độc lập, có đủ năng lực để thực hiện chính sách

thành công.

- Cơ chế, phối hợp giữa các bên tham gia: trong quá trình thực hiện chính sách

59

tổ chức chủ trì chính sách phải có cơ chế huy động được sự tham gia một cách thực

chất của các bên liên quan (Nhà nước - nhóm cộng đồng, người dân - khu vực tư

nhân - các tổ chức xã hội), trong quá trình thực hiện chính sách BĐKH. Đồng thời,

chủ thể chính sách sách phải tính đến lợi ích và động lực của các bên tham gia thực

hiện chính sách BĐKH.

Lợi ích của các bên liên quan trong quá trình thực hiện chính sách về BĐKH

như: những người thụ hưởng chính sách, các đối tác tham gia thực hiện, những

người liên quan khác có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thực hiện chính sách về

BĐKH [62, tr.27-30].

- Hình thành được cơ chế phối hợp và chia sẻ thông tin và liên lạc giữa các

chủ thể và các bên liên quan trong quá trình thực hiện chính sách BĐKKH.

2.2.4.2. Nhóm các nhân tố chủ quan

a. Các nguồn lực thực hiện chính sách

Việc thực hiện chính sách BĐKH cần phải đảm bảo các điều kiện về nguồn

lực cho việc thực hiện. Nguồn lực về con người cho việc thực hiện chính sách;

nguồn lực tài chính; nguồn lực cơ sở vật chất, hạ tầng; nguồn lực khoa học công

nghệ; nguồn lực về thông tin cho việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH.

b. Bối cảnh chính trị, KT-XH

- Những biến đổi chính trị có tác động lên thực hiện chính sách về BĐKH.

Chính phủ thay đổi có thể dẫn đến những thay đổi trong cách thức thực hiện chính

sách về BĐKH, và cũng có thể thay đổi bản thân chính sách về BĐKH. Chính vì

thế, bối cảnh thực hiện chính sách BĐKH là khác nhau giữa các nước và giữa các

hệ thống chính trị.

- Điều kiện KT-XH. Những thay đổi về các điều kiện KT-XH có tác động lớn

đến việc thực hiện chính sách về BĐKH. Chẳng hạn, khi kinh tế phát triển, Chính

phủ sẽ chú trọng nhiều ngân sách cho vấn đề ứng phó với BĐKH, còn trong giai

đoạn khó khăn thì Chính phủ sẽ cắt giảm chi tiêu công cho BĐKH. Mặt khác,

những thay đổi về các điều kiện xã hội như cơ cấu dân số, trình độ dân trí, cơ cấu

nghề nghiệp, cơ cấu gia đình, dân tộc, tôn giáo… có thể ảnh hưởng đến việc giải

thích một vấn đề chính sách BĐKH, và vì thế tác động đến cách thức thực hiện các

chính sách trong lĩnh vực đó.

2.2.4.3. Nhóm các nhân tố khách quan

a. Bối cảnh khu vực, quốc tế

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì những thay đổi của

60

thế giới (bao gồm cả sự thay đổi chính sách của các nước lớn và chính sách của các

tổ chức quốc tế, các tổ chức khu vực) có thể ảnh hưởng tích cực, hoặc tiêu cực đến

quá trình thực hiện chính sách về BĐKH của từng nước thông qua sự ảnh hưởng

của chính sách đến các môi trường trong nước; đặc biệt là sự thay đổi chính sách

của các nhà tài trợ quốc tế cho ứng phó với BĐKH, như WB, UNDP, ADB,… sẽ

ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện những chính sách về BĐKH của nước nhận tài

trợ. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng lĩnh vực chính sách về BĐKH cụ thể và mức độ

phụ thuộc của từng quốc gia vào môi trường quốc tế, mà mức độ ảnh hưởng của

môi trường quốc tế đối với các chính sách này là khác nhau.

b. Sự phát triển của KH&CN

Sự ra đời những công nghệ mới trên toàn cầu có thể gây ra những thay đổi

trong các chương trình thực hiện chính sách về BĐKH. Ví dụ, nhờ tác động của

cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 mà giá tấm pin năng lượng mặt trời và thiết bị

sản xuất điện gió giảm giá thành. Đó là cơ hội cho các quốc gia có tiềm năng về

NLTT như Việt Nam, có thể lựa chọn phát triển năng lượng gió, mặt trời để thay

thế cho nhiệt điện than, nhằm góp phần giảm nhẹ tác động của BĐKH.

c. Yếu tố văn hóa, phong tục tập quán

Các chính sách về BĐKH hướng tới những đối tượng thụ hưởng, đối tượng

mục tiêu nhất định, đồng thời nó được thực hiện ở những địa phương nhất định. Vì

vậy, văn hóa, phong tục, tập quán, tri thức bản địa của cộng đồng, tín ngưỡng, tôn

giáo của dân cư địa phương có ảnh hưởng rất lớn đến việc hoạch định và thực thi

các dự án, nhiệm vụ BĐKH. Nếu một chương trình được thiết kế không phù hợp

với văn hóa, phong tục tập quán của đối tượng, hoặc địa phương thì nó sẽ không

được chấp nhận bởi người dân địa phương.

2.2.5. Các tiêu chí đánh giá thực hiện chính sách biến đổi khí hậu

Tiêu chí đánh giá thực hiện chính sách BĐKH cũng rất phong phú và đa dạng

tùy thuộc từng nhóm chính sách, thậm chí từng chính sách cụ thể. Trong phạm vi

nghiên cứu luận án đề xuất một số tiêu chí chung trong lĩnh vực đánh giá thực hiện

chính sách BĐKH như sau:

2.2.5.1. Tính hiệu lực của chính sách

Hiểu theo nghĩa rộng, tính hiệu lực của một chính sách là việc xem xét mục

61

tiêu có đúng, hợp lý và thực hiện được không hoặc có đạt mục tiêu đề ra không. Để chính sách có hiệu lực trong thực tế thực hiện thì việc xây dựng và ban hành chính sách phải tuân thủ quy trình chính sách. Các nội dung chính sách phải đạt được sự

đồng thuận của các bên liên quan, nhất là các đối tượng trực tiếp thực thi chính sách. Khâu thực hiện chính sách cần được triển khai và quản lý tốt: truyền thông

chính sách, huy động sự tham gia của các chủ thể, phân công phối hợp thực hiện

chính sách, theo dõi và kiểm tra quá trình thực thi chính sách BĐKH.

2.2.5.2. Tính hiệu quả của chính sách

Là mức độ đạt được các mục tiêu ban đầu đặt ra và thể hiện kết quả đạt được,

nhìn vào dòng vốn đầu vào đến đầu ra. Cụ thể, tính hiệu quả được đánh giá theo các

nội dung sau: mức độ đạt được các mục tiêu đề ra, sự phù hợp của đầu vào và mức

độ đạt được các mục tiêu chính sách. Đây là tiêu chí quan trọng hàng đầu để đánh

giá thực hiện chính sách. Hiệu quả cũng là tiêu chí tổng hợp thể hiện sự phù hợp,

đồng bộ và khả thi của chính sách. Hiệu quả của chính sách có thể đánh giá bằng

tiêu chí chung như kết quả thực hiện, mức độ giảm thiểu thiệt hại ảnh hưởng của

BĐKH, xây dựng được mô hình sinh kế bền vững cải thiện thu nhập cho cộng

đồng,… Một số chính sách có thể đánh giá bằng cách so sánh kết quả lợi ích mang

lại với chi phí đã đầu tư cho BĐKH. Cũng có thể so sánh kết quả đạt được sau khi

thực hiện chính sách với thời kỳ trước khi có chính sách BĐKH… Tùy trường hợp

cụ thể mà áp dụng tiêu chí định tính hay định lượng trong việc đánh giá hiệu quả

của chính sách ứng phó với BĐKH.

Chính sách ứng phó với BĐKH là chính sách của Nhà nước. Chủ thể được hưởng hiệu quả của thực hiện chính sách BĐKH là toàn bộ xã hội mà người đại

diện là Nhà nước. Vì vậy, hiệu quả của thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH là

mối quan hệ giữa các lợi ích mà nền KT-XH thu được so với các đóng góp (các chi

phí) mà nền KT-XH phải bỏ ra khi thực hiện chính sách đó. Trong đó, lợi ích và chi

phí KT-XH được xác định theo nguyên tắc: tất cả những gì làm tăng mục tiêu là lợi

ích và những gì làm giảm mục tiêu là chi phí.

Lợi ích KT-XH của thực hiện chính sách bao gồm lợi ích về kinh tế, lợi ích về

xã hội và lợi ích về môi trường. Vì vậy, tính hiệu quả của thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH phải được thể hiện ở cả ba mặt: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và

hiệu quả về môi trường.

a. Hiệu quả kinh tế của chính sách Đánh giá hiệu quả kinh tế của chính sách ứng phó với BĐKH là đánh giá sự

đóng góp của chính sách vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, đó là:

- Đánh giá sự đóng góp vào thực hiện mục tiêu tăng cường năng lực cho các

62

ngành, các địa phương, các cộng đồng dân cư, chủ động thích ứng với BĐKH và hạn chế thiệt hại kinh tế do BĐKH gây ra.

- Đánh giá sự đóng góp vào thực hiện mục tiêu nâng cao được trình độ công nghệ, nâng cao hiệu quả kinh tế cho các hoạt động của ngành, của địa phương và

của từng người dân.

- Đánh giá sự đóng góp vào thực hiện mục tiêu hạn chế những tác động xấu

đến sức khỏe, lây lan bệnh tật, giảm chi phí cho công tác phòng và chữa trị bệnh tật. - Đánh giá sự đóng góp vào thực hiện mục tiêu tiết kiệm đáng kể chi phí khắc

phục hậu quả các tác động của BĐKH đến các công trình kiến trúc, văn hoá, cuộc

sống của nhân dân, và các giá trị khác của đất nước

b. Hiệu quả xã hội của chính sách

Đánh giá hiệu quả xã hội của chính sách ứng phó với BĐKH là đánh giá sự

đóng góp của chính sách vào việc thực hiện các mục tiêu xã hội, cụ thể là:

- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng sống,

an ninh và an toàn cho người dân.

- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội

được nâng cao do có chính sách ưu tiên đầu tư cho các vùng nghèo dễ bị tổn thương.

- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu đảm bảo an ninh xã hội

cho cộng đồng.

- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu xây dựng nếp sống văn

minh, có ý thức sẵn sàng ứng phó, tương thân, tương ái, hợp tác phòng ngừa, khắc phục khó khăn và hậu quả của BĐKH.

c. Hiệu quả môi trường của chính sách

Đánh giá hiệu quả môi trường của chính sách ứng phó với BĐKH là đánh giá

sự đóng góp của chính sách đối với mục tiêu môi trường, đó là:

- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu góp phần cùng cộng đồng

quốc tế bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất, giảm nhẹ BĐKH, giảm nhẹ các tác hại do

BĐKH gây ra.

- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu kiểm soát được tốc độ tăng

phát thải KNK, giảm nhẹ tác động của BĐKH đến môi trường sống của con người.

- Đánh giá sự đóng góp vào việc thực hiện mục tiêu giảm nhẹ tác động của BĐKH đến các hệ sinh thái, duy trì và bảo tồn các sản phẩm và dịch vụ môi trường của hệ sinh thái. 2.2.5.3. Tính phù hợp, công bằng của chính sách

- Sự phù hợp được xem xét thông qua giá trị pháp lý của các mục đích, mục

63

tiêu tổng thể trong mối tương quan với nhu cầu của đối tượng thụ hưởng. Những chỉ tiêu đánh giá tính phù hợp được quan tâm đến là: nhất quán so với nhu cầu xã hội,

của quốc gia; thích hợp về phương pháp triển khai; thích hợp trong việc lựa chọn mục tiêu; sự phù hợp với năng lực, điều kiện của địa phương, vùng. Ban hành một

chính sách mới BĐKH cần phải xem xét nhiều mặt. Trước hết là phải đánh giá sự

cần thiết cấp bách cần phải có chính sách BĐKH, xuất phát từ những tồn tại và hạn

chế của chính sách BĐKH hiện hành đang thực hiện. Chính sách mới ban hành phải bảo đảm sự phù hợp về nội dung, thời điểm và đối tượng tác động của chính sách.

Nội dung chính sách BĐKH phải phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và

Nhà nước, phù hợp với hệ thống luật pháp và thể chế hiện hành; đồng thời, phù hợp

năng lực quản lý của bộ máy QLNN về BĐKH, phù hợp với năng lực thực thi chính

sách của các đối tượng tác động bởi chính sách. Hơn nữa, thời điểm ban hành chính

sách phải đúng lúc, kịp thời để giải quyết vấn đề thực tế ảnh hưởng của BĐKH

đang đặt ra đối với địa phương, vùng và quốc gia. Bên cạnh đó còn phải tính tới sự

phù hợp với đối tượng thực hiện chính sách, từ cơ quan QLNN đến cộng đồng,

người dân, doanh nghiệp, tổ chức chính trị xã hội.

- Tính công bằng của chính sách thể hiện ở chỗ thông qua chính sách, công

bằng xã hội được nâng cao do có chính sách ưu tiên đầu tư cho các vùng nghèo dễ

bị tổn thương. Tính công bằng của chính sách còn thể hiện ở sự phân bổ hợp lý các

chi phí và lợi ích, các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia hoạch định, thực

thi chính sách và các nhóm đối tượng liên quan đến chính sách. 2.2.5.4. Tính đồng bộ, đồng hướng của chính sách

Chính sách ứng phó với BĐKH chỉ là một bộ phận trong tổng thể hệ thống

các chính sách về phát triển KT-XH của địa phương, vùng. Ngoài việc bảo đảm

tính phù hợp như đã trình bày ở trên, còn phải bảo đảm tính đồng bộ, đồng

hướng, cùng chiều, mỗi chính sách để đảm bảo tính tổng thể của chính sách

BĐKH. Điều quan trọng nhất là bảo đảm tính đồng bộ, đồng hướng và nhất quán

trong mỗi chính sách và giữa các chính sách cụ thể nhằm giải quyết vấn đề

BĐKH, như các chính sách về: truyền thông, cơ chế phối hợp, về tài chính, KH&CN, hạ tầng, nhân lực, đất đai,... Sự đồng bộ và thống nhất của các chính

sách bộ phận này là hết sức quan trọng, đóng góp giải quyết mục tiêu chung là ứng phó hiệu quả với tác động của BĐKH.

2.3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về thực hiện chính sách ứng phó biến đổi khí hậu

Thực tiễn cho thấy việc nghiên cứu những mô hình thực nghiệm về thực hiện

chính sách BĐKH ở một số quốc gia trên thế giới, sẽ góp phần gợi mở những kinh

64

nghiệm quý báu cho việc hoạch định và thực hiện chính sách BĐKH ở Việt Nam.

Trong nghiên cứu này NCS đưa ra một số tiêu chí lựa chọn như sau: (i) Nhóm các

quốc gia, vùng lãnh thổ có vùng đồng bằng ven biển bị ảnh hưởng nặng nề bởi

BĐKH: Bangladesh; (ii) Nhóm quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam

và vùng TNB: Thái Lan (iii) Nhóm quốc gia có nền kinh tế phát triển và bị ảnh

hưởng bởi BĐKH, đồng thời đang hỗ trợ Việt Nam và TNB ứng phó với tác động

của BĐKH: Hà Lan.

2.3.1. Kinh nghiệm của Banglades 2.3.1.1. Biểu hiện và tác động của BĐKH ở Bangladesh

Bangladesh được coi là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất bởi

BĐKH do sự bất lợi về vị trí địa lý; địa hình bằng phẳng và thấp; mật độ dân số

cao; tỷ lệ đói nghèo cao. Sự phụ thuộc nhiều của sinh kế người dân vào tài nguyên

thiên nhiên, đặc biệt là những người làm trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản.

Khoảng 50% dân số Bangladesh hiện đang sinh sống bằng nông nghiệp mà sản

phẩm chính là lúa, đay, chè, mía, khoai tây, thuốc lá, bông, hạt có dầu… [217]. Hơn

50 triệu người dân vẫn sống dưới mức nghèo khổ và phần lớn trong số họ sống ở

vùng sâu, vùng xa, ở những vùng đồng bằng thường xuyên xảy ra lũ lụt, hoặc các

khu vực ven biển nơi lốc xoáy là mối đe dọa lớn tới đời sống dân cư. Có thể thấy,

BĐKH đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới ANLT và các CSHT thiết yếu của

Bangladesh [225].

Theo đánh giá của Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF), Bangladesh đã

và đang phải chịu nhiều tổn thương bởi BĐKH và thiên tai. BĐKH sẽ dẫn tới sự

thay đổi về đặc tính của các tai biến thiên nhiên và sự thay đổi dần về hiện tượng

của các hệ thống vật lý. Báo cáo đánh giá thứ tư của Ủy ban Liên chính phủ về

BĐKH (IPCC) đã dự báo rằng lượng mưa, gió mùa ở khu vực Nam Á sẽ tăng lên

dẫn đến mực nước thủy triều của hệ thống sông cao hơn; mực nước biển sẽ tăng lên

từ 0,8-0,9m dẫn đến xâm nhập mặn và ngập lụt ven biển ở khu vực này; lượng mưa

sẽ trở nên cao hơn và thất thường hơn. Nằm trong khu vực Nam Á, Bangladsh đang

phải chống chịu với tình trạng tần suất và cường độ của thiên tai có khả năng tăng

lên, đặc biệt là ở phía Bắc và Tây Bắc của quốc gia này. Tình trạng hạn hán và lũ

lụt thường xuyên xảy ra. Trong đó, xâm nhập mặn được coi là biểu hiện rõ rệt và có

tác động lớn nhất đến sản xuất nông nghiệp của Bangladesh. Hệ thống sản xuất

nông nghiệp sẽ phải đối mặt với những tác động của BĐKH do sự thay đổi chế độ

65

thủy văn và xâm nhập mặn.

2.3.1.2. Thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở Bangladesh

a. Lồng ghép BĐKH và kế hoạch phát triển KT-XH

Trước bối cảnh BĐKH đang có tác động tiêu cực đến KT-XH và sinh kế

người dân, chính phủ Bangladesh đã đưa BĐKH vào quy hoạch phát triển KT-XH

của đất nước. Trong đó, kế hoạch phát triển đến năm 2021 đã xác định phải thực

hiện đồng bộ các giải pháp về môi trường trước những tác động của BĐKH và sự

nóng lên toàn cầu: giảm ô nhiễm không khí; xử lý chất thải; đảm bảo và duy trì hệ

sinh thái thông qua việc bảo vệ rừng, nguồn nước; và phòng, chống xói mòn, sạt lở

vùng bờ sông, ven biển. Cụ thể như sau:

- Tài nguyên nước: Chính phủ sẽ xây dựng chính sách vùng về bảo vệ tài

nguyên nước cùng với Ấn Độ, Nepal và Buhtan để đảm bảo an ninh nguồn nước

cho cả khu vực

- Nông nghiệp và phát triển nông thôn: Mục đích chính của Chính phủ là đảm

bảo “thực phẩm cho tất cả” bằng cách thực hiện các biện pháp có thể để Bangladesh

có thể tự cung cấp lương thực vào năm 2013 thông qua tăng cường trợ cấp đầu vào

cho hoạt động sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ vay vốn và đơn giản hóa thủ tục cho

vay; mở rộng kho bãi, cho thuê đất sản xuất nông nghiệp; hỗ trợ giá cho các sản

phẩm nông sản; hướng tới xuất khẩu sau khi đáp ứng được nhu cầu về lương thực

và thực phẩm trong nước; tất cả hồ sơ về đất đai sẽ được tin học hóa và tiến hành

cải cách ruộng đất để đảm bảo công bằng xã hội trong phân phối nguồn đất và nước

phục vụ sản xuất nông nghiệp; duy trì sự cân bằng hệ sinh thái; thực hiện dự án đập

Ganges để mở rộng các công trình thủy lợi, ngăn mặn và giải quyết vấn đề khan

hiếm nguồn nước ngọt trong vùng Sundarban.

Vấn đề BĐKH đã được đưa vào trong Kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm lần

thứ 6: nhận thức được hậu quả lâu dài của suy thoái môi trường đối với hệ sinh thái,

đất, nước và phúc lợi của người dân, Chính phủ đã đặt ra một số mục tiêu để đạt

được môi trường bền vững và giải quyết hậu của của BĐKH bao gồm: thúc đẩy các

hệ thống quản lý môi trường để giảm thiểu và thích ứng với BĐKH; bảo tồn, bảo vệ

và phát triển tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học; đảm bảo sự tham gia của

người nghèo, đặc biệt là phụ nữ trong các hoạt động quản lý môi trường và ứng phó

với BĐKH ở mọi cấp độ; tăng cường năng lực của các khu vực công và tư trong

66

quản lý các vấn đề về môi trường; thực hiện các hành động liên quan đến nghĩa vụ

quốc tế và các công ước về giảm thiểu tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế đến

môi trường toàn cầu; thúc đẩy hợp tác với các tổ chức trong khu vực và quốc tế để

giải quyết các vấn đề môi trường địa phương, khu vực và toàn cầu; xây dựng năng

lực hợp tác khu vực công và tư trong BVMT và BĐKH; thực hiện nghiên cứu và

phát triển đổi mới công nghệ, ứng dụng công nghệ hiện đại, trao đổi thông tin và

chia sẻ lợi ích với các quốc gia khác; cải thiện chất lượng không khí thông qua việc

sử dụng nhiên liệu sạch, giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch bằng cách thúc

đẩy và khuyến khích việc sử dụng năng lượng Mặt trời/năng lượng xanh; lồng ghép

mối quan hệ đói nghèo - môi trường - khí hậu - thảm họa trong các dự án phát triển,

thiết kế, quy trình ngân sách, thực hiện dự án và quy trình giám sát.

Đầu tư vào thích ứng với BĐKH ở Bangladesh: theo đánh giá việc thực hiện

Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm lần thứ 6, Chính phủ Bangladesh với sự hỗ

trợ của các đối tác phát triển đã đầu tư vào việc thực hiện một loạt các hoạt động

thích ứng với BĐKH như: quản lý lũ để nâng cao năng suất nông nghiệp, tránh

những hậu quả nghiêm trọng của lũ lụt; xây dựng và thực hiện đề án bảo vệ và thoát

lũ để bảo vệ các khu vực đô thị trong mùa mưa; xây dựng và thực hiện các dự án kè

bờ biển (hơn 6.000km kè) và các công trình cấp nước để nâng cao năng suất nông

nghiệp ở các vùng ven biển khỏi lũ lụt và xâm nhập mặn; lập hơn 2.000 nơi trú ẩn

bão nhiệt đới, 200 nơi trú ẩn lũ cho người tị nạn; thực hiện các dự án quản lý thảm

họa toàn diện dựa vào cộng đồng, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm cho lũ lụt và lốc

xoáy; thực hiện dự án tưới tiêu cho phép người nông dân trồng lúa vào mùa khô ở

những khu vực thường xuyên xảy ra hiện tượng gió mùa, hạn hán, phát triển các

giống lúa và các loại cây trồng có khả năng chịu mặn, hạn hán và thích ứng với lũ

cao, trồng gần 9.000km rừng ngập mặn dọc theo các đường bờ biển.

b. Ban hành văn bản thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở Bangladesh

Trong đó, một số điểm đáng lưu ý của các chính sách này như sau:

- Chương trình hành động thích ứng với BĐKH quốc gia năm 2005 của

Bangladesh đã đưa ra các chiến lược, như: giảm nguy cơ BĐKH thông qua trồng

rừng ven biển cùng với sự tham gia của cộng đồng; cung cấp nguồn nước uống cho

cộng đồng ven biển; tích hợp BĐKH trong phân vùng nước cho các tổ chức quản lý

nguồn nước; phổ biến các biện pháp chuẩn bị khẩn cấp và nâng cao nhận thức về

thảm họa thích ứng BĐKH cho cộng đồng dễ bị tổn thương; lồng ghép thích ứng

67

BĐKH trong các chương trình, chính sách ở những lĩnh vực khác nhau; phát triển

kiến thức thích ứng đặc trưng của từng vùng sinh thái (bao gồm cả kiến thức bản

địa); thúc đẩy nghiên cứu và đưa vào sản xuất các loại cây trồng chịu hạn, lũ, mặn;

tăng cường các giải pháp thích nghi của hệ thống nông nghiệp ở những vùng dễ bị

ngập lụt ở khu vực Đông Bắc và miền Trung; tăng cường các giải pháp thích ứng

của nghề cá ven biển thông qua nuôi cá biển chịu mặn ở những vùng ven biển; đưa

ra các loại hình bảo hiểm với thảm họa khí hậu cho người dân.

- Chiến lược và kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH năm 2009: chiến

lược và kế hoạch này nhằm đưa ra những biện pháp thích ứng và giảm nhẹ BĐKH

tại Bangladesh từ năm 2009-2018 theo những chủ đề chính: (i) an ninh lương thực,

bảo vệ xã hội và sức khỏe; (ii) quản lý thiên tai toàn diện; (iii) cơ sở hạ tầng; (iv)

quản lý nghiên cứu và phổ biến thông tin, kiến thức; (v) giảm thiểu phát thải

cácbon; (vi) tăng cường năng lực và tăng cường thể chế.

c. Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH Bộ Môi trường và Rừng chủ yếu chịu trách nhiệm chính về việc xây dựng

chính sách thích ứng với BĐKH. Đơn vị BĐKH và Sở Môi trường các tỉnh/địa

phương chị trách nhiệm triển khai các dự án và chương trình theo Chương trình

hành động thích ứng với BĐKH quốc gia năm 2005 và Chiến lược và kế hoạch

hành động ứng phó với BĐKH năm 2009 ở cấp độ địa phương. Ngoài ra, các bộ

ngành khác cũng góp phần, hỗ trợ việc đưa ra chính sách và triển khai trên thực tế.

Chính phủ đã thành lập một số ủy ban cấp cao để giám sát quá trình lập kế hoạch và

thực hiện hành động thích ứng với BĐKH ở các địa phương. Ủy ban Liên bộ về

BĐKH, đứng đầu là Bộ trưởng Bộ Môi trường và Rừng và một số ủy ban do các

thành viên thuộc nghị viện đứng đầu được thành lập để thực hiện nhiệm vụ này.

Đơn vị BĐKH được Chính phủ thành lập như một cơ quan quan trọng của Bộ Môi trường và Rừng vào tháng 06/2010 với trách nhiệm quản lý các quỹ liên quan đến khí hậu của Chính phủ, và cung cấp, hỗ trợ kỹ thuật và chuyên môn cho Bộ Môi trường và Rừng. Ngoài ra, Chính phủ Bangladesh cũng thiết lập các đơn vị BĐKH ở tất cả các bộ có liên quan để lập kế hoạch và thực hiện các dự án giải quyết vấn đề BĐKH, quản lý các quỹ liên quan đến BĐKH và thiết lập sự liên kết giữa các bộ/ngành và phối hợp với các đối tác NGOs trong các vấn đề liên quan đến BĐKH.

d. Quỹ tài chính cho ứng phó với BĐKH Chính phủ Bangladesh đã đưa ra 02 quỹ để thực hiện Kế hoạch hành động ứng

phó với BĐKH

68

(i) Quỹ Ủy nhiệm khí hậu (Climate Trust Fund, CTF): hoạt động của quỹ được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Ban Ủy nhiệm và Ủy ban kỹ thuật. Năng

lực tài chính của quỹ chủ yếu là từ sự phân bổ của Chính phủ (40,23% quỹ được phân bổ cho các dự án CSHT quản lý nước, 21,59% quỹ phân bổ cho lĩnh vực bảo vệ rừng).

(ii) Quỹ Phục hồi khí hậu Bangladesh (Bangladesh Climate Resilience, BCRF): được chính phủ tạo ra để hỗ trợ các hành động ứng phó với BĐKH, các đối

tác quốc tế của Bangladesh góp phần vào việc tạo nên quỹ này (hay nói cách khác,

đây là quỹ được xây dựng dưới sự phân bổ ngân sách của Chính phủ và sự kêu gọi

đóng góp của quốc tế).

e. Một số dự án thích ứng với BĐKH điển hình đã được thực hiện Dự án giảm tính dễ bị tổn thương bởi BĐKH cho cộng đồng; Dự án tăng

cường khả năng phục hổi của các cộng đồng dễ bị thiên tai ở Gaibandha; Dự án xây

dựng chiến lược thích ứng với BĐKH cho các khu vực dễ bị hạn hán và lũ lụt ở

Bangladesh; Dự án sinh kế thích ứng với BĐKH trong các khu vực dễ bị hạn hán…

2.3.2. Kinh nghiệm của Thái Lan

2.3.2.1. Biểu hiện và tác động của BĐKH của Thái Lan

Theo Báo cáo Rủi ro khí hậu toàn cầu (GCR) năm 2013, Thái Lan đứng đầu

trong hơn 100 quốc gia được nghiên cứu về mức độ dễ bị tổn thương do BĐKH

trong năm 2011 tiếp theo là Campuchia, Pakistan, El Salvador và Philippines. Thái

Lan cũng như Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói riêng đang hứng chịu nhiều ảnh

hưởng của BĐKH như thiếu nước ngọt, hạn hán, xâm nhập mặn vào mùa khô. Hiện

tại tình trạng nhiễm mặn tại các tỉnh ven biển cuối nguồn sông Chao Phraya - nguồn

cung cấp nước chính của Bangkok, đã trở nên đáng báo động. Cục Cấp thoát nước

đô thị cho các vùng thủ đô Bangkok, Nonthaburi và Samut Prakan, cho biết độ mặn

của sông Chao Phraya đã tăng lên mức cao, có nơi tăng đến 4,5g/l, vượt gấp3 lần so

với tiêu chuẩn. Vì vậy, một số nguồn cung cấp nước phải sử dụng nước từ phía tây

và đông của thủ đô Bangkok.

2.3.2.2. Thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở Thái Lan

a. Ban hành kế hoạch thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH

Chính sách BĐKH của Thái Lan được soạn thảo để đảm bảo các cam kết và

nghĩa vụ của đất nước đối với Công ước Khung của Liên hợp quốc về BĐKH và

Nghị định thư Kyoto được thực hiện trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia.

- Thái Lan đã tích hợp vấn đề BĐKH vào quá trình lập kế hoạch phát triển

quốc gia kể từ Kế hoạch Phát triển KT-XH lần thứ 7 (1992-1996).

69

- Trong Kế hoạch Phát triển KT-XH lần thứ 8 (1997-2001) và Kế hoạch Phát

triển KT-XH lần thứ 9 (2002-2006) đã đưa ra nguyên tắc của “nền kinh tế đầy đủ”,

các vấn đề quan trọng được đưa ra liên quan đến chất lượng giáo dục, phân phối thu

nhập, an ninh xã hội... Những chính sách chung về BĐKH ở Kế hoạch Phát triển

KT-XH lần thứ 8 và thứ 9 vẫn tiếp tục được thực hiện. Theo đó, Thái Lan đã xây

dựng một loạt chính sách ngành có liên quan (năng lượng, lâm nghiệp và tài nguyên

nước) để tăng cường việc giảm thiểu phát thải KNK; nhận thức của cộng đồng

thông qua các chiến dịch thông tin và giáo dục về thích ứng với BĐKH đã được

tăng cường, đặc biệt là các kiến thức về nông nghiệp và tài nguyên nước.

Kế hoạch Phát triển KT-XH lần thứ 10 (2007-2011) đã nhấn mạnh mối quan

hệ giữa sự phát triển KT-XH lên tài nguyên thiên nhiên và môi trường; xác định các

chiến lược cụ thể liên quan đến bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, sự

nóng lên của trái đất, BĐKH và sự suy giảm ozone đã làm suy yếu hệ sinh thái quốc

gia. Những thảm họa thiên nhiên (hạn hán, lũ lụt, bão) đã gây ra những thiệt hại

nghiêm trọng cho CSHT, nền kinh tế và cuộc sống của con người. Do đó, tầm nhìn

phát triển 20 năm của Thái Lan đã xác định cần nâng cao hiệu quả bảo tồn năng

lượng, mở rộng việc sử dụng năng lượng sinh khối và thích ứng với BĐKH để đạt

mục tiêu giảm phát thải các bon.

Theo đó, Bộ Năng lượng đưa ra các giải pháp chính sách (việc sử dụng năng

lượng đầu vào từ sinh khối, khí sinh học, năng lượng Mặt trời và gió) có thể khiến

doanh nghiệp hưởng lợi trên giá bán mỗi đơn vị điện (kWh), với giá năng lượng

thay thế này có thể kết hợp Dự án Cơ chế phát triển sạch với việc sản xuất và bán

cho lưới điện quốc gia. Về mặt tiêu thụ, ghi nhãn các bon được thực hiện để nâng

cao ý thức của người tiêu dùng. Các công ty tư nhân lớn và Chính phủ nỗ lực

nghiên cứu tìm kiếm nhiên liệu sinh học thế hệ thứ 2 và thứ 3. Tuy nhiên, chưa có

chính sách về chuyển giao công nghệ.

Văn phòng Chính sách và Quy hoạch TN&MT thuộc Bộ TN&MT đã công bố

“Chiến lược quốc gia về quản lý biến đổi khí hậu”. Chiến lược đã xác định các vấn

đề sau: BĐKH ảnh hưởng tới an ninh tài nguyên thiên nhiên và chất lượng môi

trường cũng như chất lượng cuộc sống; cần nâng cao năng lực và nhận thức cho

người dân để tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong thích ứng với BĐKH

quốc gia; cần nâng cao năng lực việc tích hợp BĐKH trong các kế hoạch hành động

của các cơ quan chính phủ của các Bộ chủ chốt (Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã, Bộ

TN&MT); xác định cách thức hợp tác với cộng đồng quốc tế và Công ước Khung

70

của Liên Hiệp quốc về BĐKH.

Đồng thời, Văn phòng Chính sách và Quy hoạch TN&MT cũng đã xây dựng Kế hoạch Tổng thể về BĐKH của Thái Lan. Kế hoạch này xác định ba chiến lược:

(i) thích ứng với BĐKH; (ii) giảm thiểu phát thải KNK và tăng cường các bể chứa

các bon; (iii) xây dựng năng lực quản lý rủi ro BĐKH. Để thực hiện mỗi chiến lược,

Văn phòng Chính sách và Quy hoạch TN&MT đã đề xuất các mục tiêu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn được thực hiện bởi chính quyền các cấp.

Bên cạch đó, Ban Phát triển KT-XH Quốc gia Thái Lan đã xây dựng Chiến

lược phát triển “xã hội các bon thấp”: được xây dựng với mục tiêu Thái Lan sẽ có

kinh nghiệm trong việc phát triển kinh tế bền vững với những cải thiện về phúc lợi

xã hội kết hợp việc giảm phát thải các bon.

- Song hành với Nhà nước thì khu vực tư nhân cũng có vai trò quan trọng

trong việc giảm phát thải KNK. Khu vực tư nhân ở Thái Lan đã có những nỗ lực

đáng kể trong việc giảm phát thải KNK, gồm: áp dụng “giá thêm” cho việc phát

điện từ sinh khối, khí sinh học, năng lượng Mặt trời và gió; cấp chứng nhận giảm

phát thải, xây dựng thị trường các bon, tăng cường sử dụng năng lượng sạch, áp

dụng cơ chế sản xuất sạch. Có thể nói khu vực tư nhân Thái Lan đã thực hiện các

chính sách về năng lượng của chính phủ khá hiệu quả [194].

b. Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách ứng với BĐKH

Ủy ban Quốc gia về BĐKH Thái Lan do Thủ tướng Thái Lan làm trưởng ban

có nhiệm vụ chỉ đạo ứng phó với BĐKH quốc gia. Các thành viên của Ủy ban là

các Bộ trưởng các bộ/ngành liên quan. Nhiệm vụ của Ủy ban là đầu mối thực hiện

Chương trình nghị sự BĐKH quốc gia của Văn phòng Chính sách và Quy hoạch

TN&MT, Tổ chức Quản lý KNK Thái Lan, Ban Phát triển KT-XH Quốc gia, với sự hỗ trợ từ Bộ Tài chính, Văn phòng Chính sách tài chính, Cục Ngân sách về vấn đề

chi tiêu tài chính công cho BĐKH. Tiếp đến là Tổ chức Quản lý KNK Thái Lan

cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giảm phát thải KNK ở khu vực tư nhân

nhằm thực hiện Nghị định thư Kyoto, đề nghị thành lập Quỹ các bon Thái Lan.

c. Thực hiện chính sách huy động tài chính cho BĐKH

Để thực hiện được Kế hoạch tổng thể về BĐKH (2010-2019), Thái Lan đã huy động nguồn lực tài chính từ tất cả các ngành, khu vực công và tư, các quỹ khí hậu, các viện nghiên cứu và mọi người dân. Cụ thể như:

- Chính quyền Bangkok lên kế hoạch đến năm 2019, giảm khoảng 15% khí phát

thải nhà kính, nguồn kinh phí 300 triệu USD được hỗ trợ bởi Quỹ Công nghệ sạch.

- Thái Lan định hướng tiếp cận tài chính từ các Quỹ Khí hậu trên thế giới cho

71

các dự án ứng phó với BĐKH.

- Thái Lan hình thành Quỹ Tự nguyện cho việc trồng rừng và bảo vệ rừng theo

ý tưởng giảm phát thải các bon. Các công cụ thị trường thực hiện trong lĩnh vực

đượcchọn xếp thứ tự ưu tiên như sau:

+ Tín dụng giảm phát thải tự nguyện trong nước: Công cụ sẽ được thực hiện

tại các thành phố tự nguyện và các nhà máy phát thải nhiều các bon trên toàn bộ

lãnh thổ Thái Lan, thúc đẩy PTBV.

+ Kinh doanh phát thải trong nước: Công cụ này sẽ được thực hiện tại các nhà

máy ở các khu vực bất động sản công nghiệp.

- Thúc đẩy thành lập cơ chế phát triển sạch và thị trường các bon tại Thái Lan,

tạo động lực cho các doanh nghiệp giảm phát thải khí các bon.

2.3.3. Kinh nghiệm của Hà Lan 2.3.3.1. Biểu hiện và tác động của BĐKH ở Hà Lan

Hà Lan là quốc gia có phần rất lớn diện tích lãnh thổ thấp hơn mực nước

biển, nên rất dễ bịảnh hưởng tiêu cực với các hiệu ứng do BĐKH gây ra. Để

PTBV, người Hà Lan luôn phải tìm cách đương đầu với các thách thức ngày

càng hiện hữu của BĐKH và NBD. Thống kê cho thấy tổn thất tài chính do lũ

lụt, hạn hán và đuối nhiệt trong giai đoạn đến năm 2050 của Hà Lan sẽ vào

khoảng 71 tỷ euro [206], [46].

2.3.3.2. Thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở Hà Lan

Để giảm thiểu tác động của BĐKH, chính sách của chính phủ Hà Lan tập

trung vào: thích ứng với BĐKH (bằng cách thực hiện các biện pháp ngăn ngừa lũ

lụt và bảo vệ nguồn cung cấp nước ngọt, sản xuất nông nghiệp, môi trường và sức

khoẻ…); giảm phát thải KNK (bằng cách chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang

các nguồn năng lượng bền vững, như năng lượng Mặt trời và năng lượng gió, chăn

nuôi gia súc...) [197].

a. Chương trình Đồng bằng

Hà Lan xây dựng chiến lược PTBV dành riêng cho khu vực đồng bằng có tên

gọi Chương trình phát triển Đồng bằng (Delta Programme). Chương trình này tập

trung vào xử lý các vấn đề: (i) an toàn nước, (ii) nước ngọt, và (iii) sử dụng không

gian nước. Hai công cụ quan trọng đã được sử dụng để đạt được mục tiêu này:

một chương trình khích lệ và một kế hoạch giám sát. Kết quả là ô nhiễm nước, an

toàn nước và hạn hán đã được cải thiện, tuy nhiên vấn đề chống nhiệt ở các thành

phố cần sự quan tâm nhiều hơn. Chính phủ đảm bảo rằng các chức năng quan

72

trọng của quốc gia và dễ bị tổn thương (như các nhà máy điện), có khả năng

kháng lũ lụt tốt hơn [46].

b. Chương trình giảm phát thải

Hà Lan đã ban hành quyết định về 61 hành động giảm phát thải từ các lĩnh

vực chủ yếu: tiết kiệm năng lượng, NLTT, nhà máy điện, không phát thải KNK, lưu

trữ Carbon Oxide trong rừng cũng như dưới lòng đất. Mỗi lựa chọn bao gồm giá,

tiềm năng giảm phát thải và công cụ chính sách để thực hiện. Những sự lựa chọn

này sẽ xác định rõ giá trị và cách thức thực hiện của từng biện pháp khác nhau thay

vì nhầm lẫn về giá trị thực sự của các biện pháp đó. Những chính sách hỗ trợ giảm

phát thải bao gồm: thuế năng lượng tiêu thụ quy mô nhỏ (1999), tiêu chuẩn hiệu quả

năng lượng cho các tòa nhà mới, trợ cấp cho các dự án giảm phát thải Carbon Oxide

như sử dụng nhiệt dư và thiết kế chính sách để tăng thị phần NLTT (mục tiêu đạt

10% thị phần sử năm 2020).

- Công cụ chính sách: Áp dụng nguyên tắc tự điều chỉnh trong khuôn khổ đã

cung cấp thúc đẩy các nhóm mục tiêu thực hiện các biện pháp thích ứng với BĐKH

ở Hà Lan. Theo đó, các địa phương, các lĩnh vực, các doanh nghiệp, tổ chức và cá

nhân tự điều chỉnh biện pháp phù hợp với khuôn khổ chung của quốc gia nhằm đạt

được sự năng động và đồng thuận trong thích ứng với BĐKH. Những thỏa thuận

thương lượng được tạo điều kiện bởi những công cụ định hướng thị trường như:

thuế năng lượng, ưu đãi tài chính và được hỗ trợ theo các quy định của Luật Quản

lý môi trường. Các công cụ chính sách được thay đổi theo các nhóm mục tiêu nhằm

đáp ứng nhu cầu và tối đa hóa khả năng thích ứng của các nhóm mục tiêu. Hiện có

hơn 25 công cụ thị trường chính sách BĐKH khác nhau.

- Các giải pháp chính sách bao gồm: gói các giải pháp cơ bản, gói các giải

pháp dự trữ và gói các giải pháp cải tiến.

+ Gói giải pháp cơ bản bao gồm: các giải pháp cơ bản và thích hợp đối với

từng ngành, từng lĩnh vực thích ứng với BĐKH đã được đúc kết từ quá khứ đến

hiện tại.

+ Gói giải pháp dự phòng: biện pháp dự phòng đã được thiết lập sẵn sàng để

thực hiện trong nhưng năm tới trong trường hợp những biện pháp hiện tại không tạo

ra kết quả mong muốn (thuế năng lượng bổ sung, thuế tiêu thụ đặc biệt, cắt giảm

Carbon Oxide và Nito Oxide trong ngành công nghiệp hóa chất...).

+ Gói giải pháp cải tiến: tập trung vào việc cần thực hiện ngay để đề xuất các

73

giải pháp và công cụ chính sách cho tương lai dài.

c. Ban hành Chiến lược Quốc gia thích ứng với BĐKH

Tháng 12/2016, Hà Lan đưa ra Chiến lược Quốc gia về thích ứng với BĐKH

dựa trên kết quả nghiên cứu mới nhất trong nhiều lĩnh vực và giới thiệu nhiều sáng

kiến mới thúc đẩy những kế hoạch đang thực hiện. Chiến lược chỉ ra rằng mọi cộng

đồng xã hội cần nhận thức được trách nhiệm cũng như nắm vững được cách thích

ứng với BĐKH, đoàn kết các bên tham gia sẽ tăng hiệu quả thích ứng với BĐKH.

Theo đó, chiến lược khuyến khích các cơ quan nhà nước, các viện nghiên cứu, các

doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, tổ chức xã hội và cá nhân đóng vai trò của họ

trong giảm nhẹ các tác động của BĐKH gây ra và tận dụng các cơ hội do BĐKH

mang lại. Chiến lược được xây dựng dựa trên một thập kỷ của việc thực hiện các

chính sách BĐKH kết hợp với Chương trình Đồng bằng [237]. Có thể thấy những

kinh nghiệm của Hà Lan trong ứng phó với tác động củaBĐKH đặc biệt rất hữu ích

cho kinh nghiệm ứng phó với BĐKHở vùng TNB.

2.3.4. Một số bài học kinh nghiệm

Từ phân tích thực nghiệm thực hiện chính sách BĐKH của các quốc gia nêu

trên, nghiên cứu rút ra được một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nói chung

và vùng TNB nói riêng như sau:

Thứ nhất, thành lập cơ quan chịu trách nhiệm điều phối và tập trung vào việc

xây dựng cơ chế điều phối, hợp tác ứng phó với BĐKH vùng, ví dụ: Hà Lan thành

lập Ủy ban Đồng bằng có trách nhiệm triển khai các chương trình thích ứng với

BĐKH của vùng đồng bằng và đảm bảo sự gắn kết của các địa phương trong vùng.

Xây dựng cơ chế điều phối vùng cho phép kết hợp quan điểm chính sách, nhu cầu

ứng phó của tỉnh với các tỉnh trong vùng, toàn vùng và quốc gia.

Thứ hai, kêu gọi sự hỗ trợ tài chính từ khu vực tư nhân và cộng đồng quốc tế.

Hiện nay, nguồn ngân sách tài chính phục vụ cho việc ứng phó với BĐKH ở các

tỉnh trên cả nước nói chung và các tỉnh vùng TNB nói riêng còn thiếu, chủ yếu là

nguồn phân bổ từ ngân sách Nhà nước. Do đó, ngoài sự phân bổ từ ngân sách Nhà

nước, cần nâng cao năng lực tài chính thông qua việc kêu gọi sự đóng góp của khu

vực tư nhân và sự hỗ trợ từ quốc tế. Ví dụ: Chính phủ Bangladesh thành lập Quỹ

Phục hồi Khí hậu với sự kêu gọi đóng góp từ các đối tác quốc tế; Thái Lan kêu gọi

hỗ trợ tài chính ở những quỹ hỗ trợ khí hậu quốc tế ở Thái Lan: Quỹ Thích ứng,

Quỹ Công nghệ sạch, Quỹ Sáng kiến khí hậu quốc tế của Chính phủ Đức, Quỹ

74

BĐKH đặc biệt.

Thứ ba, chú trọng đến các biện pháp chính sách nhằm đảm bảo sử dụng an

toàn, hiệu quả và tiết kiệm năng lượng, thực hiện các bon thấp, giảm phát thải KNK

trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.

Thúc đẩy, khuyến khích việc sử dụng năng lượng sinh khối, khí sinh học,

năng lượng Mặt trời, năng lượng gió (như trong kế hoạch phát triển KT-XH lần thứ

10 nhằm đạt mục tiêu giảm phát thải các bon và chiến lược phát triển “xã hội các

bon thấp” của Thái Lan.

Thứ tư, đẩy mạnh các hoạt động phổ biến thông tin về kết quả hoạt động thích

ứng với BĐKH của từng tỉnh và của toàn vùng tới người dân; nâng cao trách nhiệm

của người dân, doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức KT-XH trong việc thực hiện

các giải pháp ứng phó với BĐKH.

Thứ năm, tăng cường việc báo cáo giám sát, kiểm tra thường xuyên việc hoạch

định và thực hiện chính sách ở cấp tỉnh và vùng thông qua việc tự giám sát (của các

tỉnh) và liên kết giám sát (giám sát chéo giữa các tỉnh). Chính phủ Hà Lan thường

xuyên giám sát việc thực hiện Chiến lược Thích ứng khí hậu Quốc gia một cách đầy

đủ, chính xác và chi tiết việc thích ứng có được thực hiện theo đúng kế hoạch

không. Bên cạnh đó, chính phủ Hà Lan cũng khẳng định cần có sự kết nối giữa các

bên tham gia trong việc thực hiện giám sát. Những kết quả giám sát này thể hiện

việc thực hiện nghiêm túc, hiệu quả và tạo cơ sở cho những sửa đổi, cải cách chính

sách trong những giai đoạn tiếp theo.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Chương hai đã mô tả tóm tắt hệ thống các quan điểm khác nhau về chính sách

công, chính sách BĐKH, thực hiện chính sách BĐKH. Các kết quả ở Chương 2 đã

cho thấy, chính sách ứng phó với BĐKH là chính sách khá đặc biệt trong hệ thống

chính sách công của Nhà nước, vì nguyên nhân dẫn đến BĐKH là do con người và

quy luật của tự nhiên. Mặt khác, nó ảnh hưởng đến lợi ích của quốc gia, của nhiều

doanh nghiệp, nhóm gây phát thải KNK. Nên quá trình thực hiện chính sách không

phải lúc nào cũng nhận được sự đồng thuận của các nhóm chủ thể trong xã hội,

nhóm tác nhân gây phát thải KNK. Bên cạnh đó, quá trình thực thi chính sách

BĐKH có vai trò quan trọng trong chu trình chính sách, và có ý nghĩa then chốt đến

75

sự thành bại của các chính sách BĐKH ở cấp quốc gia, vùng, địa phương. Hơn nữa,

việc thực hiện chính sách BĐKH luôn tuân theo các bước và quy trình thực hiện cụ

thể. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào bối cảnh cụ thể của mỗi quốc gia, vùng và địa phương

mà các bước của quy trình thực hiện có thể khác nhau. Đồng thời, để đảm bảo cho

sự thành công của thực hiện chính sách về BĐKH thì cần phải đảm bảo các nhân tố

để cho quá trình thực hiện chính sách được diễn ra. Mặt khác, qua nghiên cứu các

kinh nghiệm, thông lệ quốc tế về thực hiện chính sách BĐKH, những bài học thành

công, các bài học thất của chính sách, cũng rút ra được nhiều hàm ý mang tính

chiến lược cho việc xây dựng và hoàn thiện thực hiện chính sách BĐKH ở Việt

76

Nam nói chung và vùng TNB nói riêng.

CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VÙNG TÂY NAM BỘ

3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách ứng phó biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ

3.1.1. Nhóm các nhân tố thuộc về bản thân chính sách 3.1.1.1. Các chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu hiện hành ở Việt Nam

a. Chính sách ở cấp quốc gia

Vấn đề ứng phó với BĐKH cũng đã trở thành những nội dung quan trọng trong các Luật (Luật Bảo vệ môi trường, 2014; Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, 2010; Luật Đa dạng sinh học; Luật Tài nguyên nước, 2012; Luật

Phòng tránh thiên tai, 2013; Luật Khí tượng thủy văn, 2016…). Ngoài ra, còn có

các văn bản cụ thể ở cấp quốc gia, Thủ tướng Chính thuộc Công ước Khung của

Liên Hiệp Quốc về BĐKH cùng Kế hoạch tổ chức thực hiện Nghị định thư giai

đoạn 2007-2010; Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH; Chiến lược

quốc gia về BĐKH; Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh; Kế hoạch hành động

quốc gia về BĐKH giai đoạn 2012-2020; Đề án quản lý phát thải khí gây hiệu ứng

nhà kính, quản lý các hoạt động kinh doanh tín chỉ các bon ra thị trường thế giới;

Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 23/01/2014 về Ban hành kèm theo Nghị quyết này

Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về Chủ động ứng phó với BĐKH, tăng

cường quản lý tài nguyên và BVMT... và một số quyết định khác thuộc các lĩnh vực

liên quan [91, tr.34, 35].

Trên cơ sở đó, các bộ/ngành ban hành các Kế hoạch hành động ứng phó

vớiBĐKH, đến hết năm 2018 đã có 16 bộ/ngành Ban hành Kế hoạch ứng phó với BĐKH.5 Cùng với việc xây dựng một số Thông tư, Thông tư liên tịch nhằm lồng ghép BĐKH vào các hoạt động chuyên ngành. Trong đó, Thông tư số 29/2014/TT- BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ TN&MT “Quy định chi tiết việc lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất” với yêu cầu khi xây dựng các quy hoạch, kế

77

hoạch sử dụng đất ở các cấp cầnphải phân tích, đánh giá về BĐKH tác động đến việc sử dụng đất theo hai nội dung cụ thể: (i) NBD, xâm nhập mặn và (ii) sa mạc 5 Bộ Tài nguyên và Môi trường; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải; Bộ Xây dựng; Bộ LĐTB&XH; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; Bộ Y tế; Bộ Công thương, Bộ NN và PTNT; Bộ Công An; Bộ Quốc phòng, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Ngoại giao, Ủy ban Dân tộc…

hóa, xói mòn, sạt lở đất [114].

Bên cạnh đó, để triển khai CTMTQG về BĐKH, các tỉnh, thành phố đang tích

cực triển khai các hoạt động phù hợp với đặc điểm bối cảnh của địa phương, như:

(i) khẩn trương đánh giá tác động của BĐKH đến các khu vực, các lĩnh vực nhạy

cảm, dễ bị tổn thương, để từ đó ban hành kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH cho từng tỉnh, thành phố giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm 2020; (ii)

thành lập BCĐ cấp tỉnh, thành phố về ứng phó với BĐKH. Tính tới tháng 12/2016,

đã có 63/63 tỉnh, thành phố đã ban hành Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH

giai đoạn 2011-2015. Và có 62/63 địa phương phê duyệt cập nhật Kế hoạch hành

động ứng phó với BĐKH giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên, mới chỉ có một số địa

phương xây dựng kế hoạch lồng ghép, tích hợp BĐKH trong quy hoạch tổng thể, kế

hoạch phát triển KT-XH, như: Lào Cai, Quảng Ninh, Nam Định, Nghệ An, Quảng

Trị, Tp Đà Nẵng, Bình Định, Đồng Nai, Tp Hồ Chí Minh, Tp Cần Thơ, An Giang,

Cà Mau, Đồng Tháp... [114].

Theo thống kê của luận án, ước tính trong giai đoạn 2008-2018, đã có hơn 315

văn bản được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới nhiều hình thức

khác nhau: Công ước; Luật; Nghị định,Thông tư hướng dẫn thi hành; Nghị quyết;

Chiến lược, quy hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia; Quyết định, Kế hoạch của cơ quan Trung ương, địa phương… và các văn bản khác liên quan đến BĐKH4.

Bảng 3.1. Số lượng văn bản có liên quan đến BĐKH được ban hành

trong giai đoạn 2008-2018

Loại hình văn bản

Công ước quốc tế có liên quan đến BĐKH Luật có liên quan đến BĐKH

TT 1 2 3 Nghị định và Thông tư hướng dẫn thi hành có liên quan đến Số lượng 12 15 32 BĐKH

4 Nghị quyết của Đảng, Chính phủ, Quốc hội có liên quan đến 75

5 35 BĐKH Chiến lược, quy hoạch và Chương trình MTQG có liên quan đến BĐKH

6 Quyết định, kế hoạch có liên quan đến BĐKH

Tổng 146 3155

4 Tổng hợp của NCS năm 2018. 5 Chưa bao gồm thống kê các văn bản liên quan đến lĩnh vực phòng chống và giảm nhẹ thiên tai.

78

Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2019.

Bảng 3.2. Phân loại văn bản chính chính sách ứng phó với BĐKH

TT Loại hình văn bản chính sách Số lượng Tỷ lệ (%)

1 Chính sách liên quan đến lĩnh vực thích ứng BĐKH 180 57,1

2 Chính sách liên quan đến lĩnh vực giảm nhẹ BĐKH 37 31,1

3 Chính sách mang tính tích hợp (thích ứng, giảm nhẹ) 98 11,8

Tổng 315 100

Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2019. Qua thống kê ở bảng 3.2 cho thấy các chính sách hiện hành chủ yếu thuộc lĩnh

vực thích ứng với BĐKH (57,1%), trong đó tập trung vào cơ sở hạ tầng thích ứng

BĐKH, chuyển đổi sản xuất, kinh doanh thích ứng BĐKH. Lĩnh vực chính sách

giảm nhẹ BĐKH chiếm khoảng (31,1%), thuộc các nội dung về SDNLTK&HQ;

năng lượng tái tạo; tăng diện tích trồng rừng gắn với thị trường các bon, REDD+; giảm

phát thải trong trồng trọt, chăn nuôi...Còn lại là nhóm chính sách mang nội dung tích hợp

bao hàm cả nội dung thích ứng và giảm nhẹ ảnh hưởng của BĐKH, chiếm 11,8%.

Theo các kết quả đã phân tích ở trên cho thấy chính sách về BĐKH đã được

Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng tương đối đồng bộ và được ban hành đa

dạng về loại hình văn bản chính sách. Trong đó, có những điều khoản bắt buộc địa

phương phải thực hiện, điều khoản hướng dẫn thực hiện và điều khoản tùy nghi

không cưỡng chế, bắt buộc địa phương phải thực hiện. Điều đó, tạo thuận lợi và cơ

sở pháp lý cho các địa phương vùng TNB thực hiện chính sách, chương trình, dự án

BĐKH.

b. Chính sách đặc thù gắn với ứng phó BĐKH ở vùng TNB

Từ khi Chính phủ ban hành Chương trình MTQG về BĐKH năm 2008 đến

nay, đã có nhiều chính sách trực tiếp và gián tiếp được ban hành liên quan đến ứng

phó với BĐKH ở vùng TNB và được chia thành các nhóm như sau:

- Nhóm chính sách liên quan đến quy hoạch, kế hoạch phát triển vùng có lồng

ghép, tích hợp vấn đề BĐKH.

Tính đến tháng 12/2018, đã có hơn 2.500 quy hoạch được lập cho vùng TNB

có lồng ghép trực tiếp và gián tiếp vấn đề ứng phó với BĐKH. Trong đó, riêng quy

hoạch cấp vùng hiện có tới 22 bản quy hoạch, gồm: 3 quy hoạch về phát triển KT-

XH; 5 quy hoạch về xây dựng; 7 quy hoạch về phát triển nông nghiệp, nông thôn; 7

quy hoạch phát triển một số ngành, lĩnh vực chủ yếu (giao thông, điện lực, thương

79

mại, du lịch, thông tin và truyền thông…). Các quy hoạch cấp vùng cũng được lập

theo phạm vi không gian khác nhau, như: phạm vi toàn vùng TNB (13 tỉnh thành

phố), vùng kinh tế trọng điểm (4 tỉnh, thành phố) và vùng biển, ven biển Việt Nam

thuộc Vịnh Thái Lan [10].

- Nhóm chính sách liên quan đến hạ tầng ứng phó với BĐKH.

Quyết định số 1397/QĐ-TTg ngày 25 tháng 9 năm 2012 của Thủ tướng Chính

phủ Phê duyệt Quy hoạch thủy lợi ĐBSCL giai đoạn 2012-2020 và định hướng đến

năm 2050 trong điều kiện BĐKH, NBD. Quyết định đã nhấn mạnh, quy hoạch thủy

lợi nhằm góp phần khai thác, sử dụng hiệu quả, bảo vệ và phát triển nguồn nước ở

thượng lưu và vùng lân cận. Quy hoạch trên cũng đặc biệt nhấn mạnh, kết hợp hài

hòa giữa giải pháp công trình và phi công trình; hạn chế các tác hại do nước gây ra,

nhất là lũ lụt và xâm nhập mặn trong điều kiện BĐKH, NBD. Do đó, quy hoạch đã

đưa ra các giải pháp như: (i) kiểm soát mặn, giải quyết mâu thuẫn giữa vùng nuôi

trồng thủy sản ven biển và vùng sản xuất nông nghiệp của các tỉnh Kiên Giang, Hậu

Giang và Bạc Liêu thuộc lưu vực sông Cái Lớn - Cái Bé; (ii) chủ động ứng phó với

BĐKH, NBD, tạo nguồn nước ngọt cho vùng ven biển để giải quyết tình trạng thiếu

nước ngọt vào mùa khô, phòng chống cháy rừng; (iii) tăng cường khả năng thoát lũ,

tiêu úng, tiêu chua cải tạo đất phèn; và (iv) kết hợp phát triển giao thông thủy, bộ

trong vùng dự án. Để triển khai Quyết định số 1397/QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ

cũng đã ban hành Quyết định số 498/QĐ/TTg, ngày 17/4/2017 về Phê duyệt chủ

trương đầu tư dự án Hệ thống Thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1.

Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2623/QĐ-TTg,

ngày 31/12/2013 về Phê duyệt dự án Phát triển đô thị ứng phó với BĐKH giai đoạn

2013-2020. Theo đó, vùng TNB có 12 đô thị được Chính phủ hỗ trợ xây dựng kịch

bản đánh giá tác động của NBD, nâng cao năng lực ứng phó với BĐKH, và xây

dựng quy hoạch đô thị ứng phó với BĐKH và NBD. Trên cơ sở đó, Thủ tướng

Chính phủ ban hành Quyết định số 68/QĐ-TTg, ngày 15/1/2018 về việc Phê duyệt

Điều chỉnh quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm

2050. Với mục tiêu phát triển vùng TNB theo hướng tăng trưởng xanh, bền vững và

thích ứng với BĐKH. Phát triển vùng trở thành vùng trọng điểm quốc gia về sản

xuất nông nghiệp và đánh bắt, nuôi trồng thủy sản. Phát triển mạnh kinh tế biển, du

lịch sinh thái. Phát triển không gian vùng với hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã

hội đồng bộ, mang đặc thù của vùng TNB nhằm phát triển kinh tế, nâng cao chất

80

lượng cuộc sống, bảo vệ môi trường [115, tr.3-16].

- Nhóm chính sách liên quan đến liên kết vùng trong việc hình thành các sản

phẩm chủ lực địa phương trong bối cảnh ứng phó với BĐKH.

Quyết định số 639/QĐ-BNN-KH, ngày 2/4/2014 về việc Phê duyệt Quy hoạch

nông nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong

điều kiện BĐKH. Trong đó, nhấn mạnh quy hoạch nông nghiệp, nông thôn vùng

TNB trên cơ sở đổi mới tư duy, cách tiếp cận thị trường; khai thác, phát huy lợi thế

của vùng và địa phương để phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá

trị gia tăng và PTBV; tạo sự liên kết sản xuất, xây dựng các vùng sản xuất chuyên

canh, cánh đồng lớn; ứng dụng nhanh các thành tựu KH&CN trong sản xuất với chế

biến và tiêu thụ sản phẩm, trong bối cảnh ứng phó với tác động của BĐKH.

Để cụ thể hóa cơ chế pháp lý cho liên kết vùng ở ĐBSCL, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 593/QĐ-TTg, ngày 6/4/2016 về việc Ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển KT-XH vùng ĐBSCL giai đoạn 2016-2020. Trong đó, chú trọng đến nội dung liên kết vùng trong ứng phó với BĐKH, như: (i) đầu tư xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu, phòng chống lũ, kiểm soát xâm nhập mặn; (ii) quản lý, khai thác sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước, nâng cao hiệu quả sử dụng nước cho sinh hoạt, sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản trong mùa khô; (iii) xây dựng, nâng cấp hệ thống đê biển, đê bao, cống, đập, vành đai rừng ngập mặn và các dự án bảo vệ môi trường, ứng phó với BĐKH... Nhằm triển khai Quyết định nói trên, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 2220/QĐ-TTg, ngày 17/11/2016 về việc Ban hành Kế hoạch triển khai Quyết định 593/QĐ-TTg. Quyết định 2220 đã đưa ra kế hoạch hành động liên kết vùng nhằm ứng phó với BĐKH, gồm: (i) kế hoạch quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước nhằm mục tiêu kiểm soát lũ, kiểm soát mặn, tăng cường khả năng lưu chứa nước ngọt của vùng; (ii) kế hoạch trồng rừng ngập mặn, bảo vệ môi trường, thích ứng BĐKH, kế hoạch bảo vệ, chăm sóc rừng. Để tiếp tục thúc đẩy thực hiện Quyết định 593 tại các địa phương, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành tiếp Quyết định số 64/QĐ-TTg, ngày 18/1/2017 về việc Thành lập Tổ chỉ đạo liên ngành về liên kết vùng ĐBSCL giai đoạn 2016-2020.

- Nhóm chính sách ứng phó mang tính tổng hợp, liên ngành, đa mục tiêu liên

quan đến thích ứng với BĐKH

81

Để PTBV vùng TNB trong bối cảnh BĐKH và ứng phó với các thách thức từ sự phát triển nội tại của vùng và khu vực thượng nguồn, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP, ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.

Bảng 3.3. Số lượng văn bản có liên quan đến BĐKH được ban hành ở vùng TNB trong giai đoạn 2008-2018

Mức độ liên quan

TT

Loại hình văn bản

Số lượng

1 Hiệp ước quốc tế có liên quan đến BĐKH

4

Trực tiếp X

Gián tiếp

2 Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ có liên

5

X

quan đến BĐKH

3 Nghị định, Thông tư, Chỉ thị của Thủ tướng 4 Quyết định của Chính phủ, Thủ tưởng Chính phủ và

7 28

Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ

5 Quy hoạch vùng, ngành 6 Quy hoạch tỉnh, ngành

22 2500

Tổng

X 66

X 2500

Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2019

Từ số liệu thống kê (bảng 3.3) cho thấy, vùng TNB đã được Đảng và Nhà

nước dành sự quan tâm đặc biệt, trong công tác ứng phó với các thách thức của

BĐKH. Trong giai đoạn 2008-2018, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban

thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan ngang bộ đã ban hành

66 văn bản pháp luật: Hiệp ước, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư, Chỉ thị, Nghị

quyết và quy hoạch có liên quan trực tiếp đến ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.

Bên cạnh đó, còn có khoảng hơn 2.500 quy hoạch tỉnh, ngành có liên quan đến vấn

đề BĐKH ở vùng. Do vậy, việc ban hành các chính sách đặc thù cụ thể trên nhiều

lĩnh vực khác nhau, gắn với ứng phó BĐKH ở vùng TNB đã tạo điều kiện thuận lợi

cho các tỉnh/thành phố trong việc thực thi các chính sách.

Bảng 3.4. Phân loại văn bản chính sách đặc thù ứng phó với BĐKH ở vùng TNB

Loại hình văn bản chính sách

TT

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Chính sách liên quan đến lĩnh vực thích ứng BĐKH

1

32

48,5

Chính sách liên quan đến lĩnh vực giảm nhẹ BĐKH

2

21

31,8

3

13

19,7

Chính sách mang tính tích hợp các hoạt động (thích ứng, giảm nhẹ)

4

66

100

Tổng

82

Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2019.

Xét về khía cạnh lĩnh vực chính sách ứng phó với BĐKH, cũng cho thấy

nhóm chính sách liên quan đến thích ứng BĐKH chiếm ty lệ khá lớn gần 48,5 %,

nhóm chính sách liên quan đến hoạt động giảm nhẹ chiếm 31,8 %, còn lại nhóm

chính sách tích hợp các hoạt động (thích ứng và giảm nhẹ BĐKH) chiếm 19,7 %.

3.1.1.2. Năng lực của các chủ thể thực hiện chính sách

a. Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách

Từ khi Việt Nam ký Công ước Khung của Liên hợp quốc về BĐKH năm

1992, cũng như ký Nghị định thư Kyoto năm 1998, một loạt các hoạt động về tổ

chức đã được xúc tiến, trong đó, liên quan trực tiếp tới CTMTQG là lập Ban chỉ đạo

quốc gia và Văn phòng CTMTQG để triển khai CTMTQG (theo Quyết định của

Thủ tướng Chính phủ số 158//2008/QĐ-TTg ngày 02/12/2008). Bộ máy tổ chức

cũng được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới theo Quyết định số

43/QĐ-TTg về việc thành lập Ủy ban Quốc gia biến đổi khí hậu, ngày 9/1/2012.

(i). Bộ máy thực hiện chính sách ở cấp Trung ương

Theo đó ở cấp Trung ương đã thành lập Ủy ban Quốc gia biến đổi khí hậu, với

chức năng, nhiệm vụ: nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

phương hướng, giải pháp để giải quyết những hoạt động ứng phó với BĐKH quan

trọng, mang tính liên ngành, lĩnh vực. Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, điều hòa,

phối hợp giữa các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong việc giải

quyết những vấn đề quan trọng, liên ngành, các chiến lược (Chương trình quốc gia

về BĐKH, Chiến lược tăng trưởng xanh và các chương trình khác có liên quan đến

ứng phó với BĐKH). Chỉ đạo, điều phối, theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các chiến

lược, chương trình về BĐKH bảo đảm hiệu quả, đồng bộ và thống nhất… [111].

Cơ cấu của Ủy ban Quốc gia biến đổi khí hậu bao gồm có Thủ tướng Chính

phủ, một Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ TN&MT, các Bộ trưởng các Bộ, ngành

khác, đại diện một số cơ quan của Quốc hội, một số Viện khoa học và một số

chuyên gia, nhà khoa học. Hỗ trợ Ủy ban là một Văn phòng thường trực được đặt

tại Bộ TN&MT [111]. Đồng thời để giúp việc cho Ủy ban, đã hình thành cơ quan

giúp việc của Ủy ban Quốc gia, trong đó, Bộ TN&MT là cơ quan thường trực của

Ủy ban. Để triển khai các hoạt động của Ủy ban, Bộ TN&MT đã thành lập Văn

phòng Ủy ban Quốc gia về BĐKH là cơ quan giúp việc cho Ủy ban Quốc gia về

BĐKH đặt tại Bộ TN&MT do Cục trưởng Cục BĐKH làm Chánh văn phòng. Văn

phòng có biên chế riêng, có con dấu và tài khoản theo quy định của pháp luật. Để

83

tư vấn cho cho Ủy ban Quốc gia về BĐKH, Ủy ban đã thành lập Hội đồng tư vấn

Quốc gia về BĐKH, bao gồm các chuyên gia, các nhà khoa học hàng đầu về lĩnh

vực BĐKH và PTBV [111].

(ii). Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB

Để triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu thì 13 tỉnh,

thành phố TNB đã thành lập Ban chỉ đạo cấp tỉnh, thành phố về ứng phó với biến

đổi khí hậu (BCĐ 158. Trong đó, trưởng ban chỉ đạo là Lãnh đạo UBND tỉnh/thành

phố, Phó ban chỉ đạo là Giám đốc Sở TN&MT và thành viên ban chỉ đạo là lãnh

đạo các sở/ngành liên quan.

b. Cán bộ và chế độ chính sách cho cán bộ triển khai thực hiện chính sách

(i) Cán bộ làm công tác triển khai chính sách BĐKH ở các địa phương, vùng

Qua báo cáo của Cục Biến đổi khí hậu, Bộ TN&MT và kết quả thống kê của

NCS, hiện nay cán bộ thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB được chia thành ba

nhóm như sau:

- Cán bộ chuyên trách: chỉ có ở cấp tỉnh/thành phố trực thuộc TW, Sở

TN&MT sẽ bố trí từ 1 chuyên viên của Sở phụ trách mảng BĐKH.

- Cán bộ kiêm nhiệm: ở cấp huyện/thị xã, Phòng TN&MT sẽ bố trí 1 cán bộ

kiêm nhiệm về lĩnh vực môi trường làm công tác BĐKH.

- Cán bộ hợp đồng: ở cấp xã/thị trấn, UBND xã ký hợp đồng lao động với 1

cán bộ làm công tác địa chính - môi trường, kiêm nhiệm làm công việc liên quan

đến BĐKH trên địa bàn xã.

(ii) Chế độ chính sách

Để thúc đẩy sự tận tụy, đam mê và trách nhiệm cao trong công việc, chế độ

chính sách cho cán bộ chuyên trách hoặc kiêm nhiệm về BĐKH là yếu tố rất quan

trọng, có ảnh hưởng lớn đến kết quả của tổ chức triển khai chính sách BĐKH. Theo

báo cáo của Cục Biến đổi khí hậu, Sở TN&MT của 13 tỉnh/thành vùng TNB, chế độ

chính sách cho cán bộ hiện nay chủ yếu là lương, thưởngtheo quy định; hỗ trợ khi

đào tạo tập huấn nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ; và ngân sách tỉnh/thành phố cấp

cho hoạt động của BCĐ 158 cấp tỉnh/thành phố, cụ thể:

- Về lương, đối với cán bộ biên chế (chủ yếu là cán bộ cấp huyện trở lên)

thì được hưởng lương từ ngân sách như cán bộ trong khối hành chính Nhà nước.

Còn đối với cán bộ hợp đồng, địa chính - môi trương cấp xã không có lương, chỉ

được hưởng phụ cấp từ 500.000 đồng đến 1.490.000 đồng/người/tháng, tuỳ thuộc

84

vào điều kiện về nguồn quỹ lương của địa phương.

- Về chế độ thưởng, cán bộ thực hiện chính sách BĐKH cũng được chế độ

khen thưởng theo quy định Luật Thi đua, khen thưởng hiện hành.

- Hỗ trợ tham gia đào tạo tập huấn nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ: cán bộ

làm công tác BĐKH, khi tham gia hội nghị, hội thảo, đào tạo, tập huấn nâng cao

năng lực chuyên môn thì được hưởng chế độ theo quy định hiện hành.

- Phụ thuộc vào điều kiện KT-XH của mỗi địa phương vùng TNB, hằng năm

ngân sách tỉnh sẽ hỗ trợ khoảng 20-50 triệu đồng/năm, cho BCĐ 158 cấp tỉnh/thành

phố. Số tiền này sẽ chuyển về cho Sở TN&MT để chi in ấn tài liệu, hội nghị sơ kết…

Rõ ràng, qua kết quả phân tích ở trên cho thấy, đội ngũ cán bộ là công tác

BĐKH ở các địa phương vùng TNB hiện nay, chủ yếu là kiêm nhiệm nhiều công

việc khác nhau. Tuy nhiên, chế độ hỗ trợ, phụ cấp cho cán bộ đảm trách công tác

BĐKH hiện nay rất thấp, nhất là cán bộ ở cấp xã. Do vậy, rất khó khích lệ sự đam

mê, sáng tạo và tận tụy với việc được giao.

Bên cạnh đó, các vấn đề liên quan tới năng lực của một số chủ thể thực hiện

chính sách, đặc biệt là cán bộ chuyên trách về ứng phó BĐKH có vai trò hết sức

quan trọng trong quá trình thực thi chính sách. Đánh giá về năng lực của chủ thể

thực hiện chính sách được thực hiện, luận án dựa trên 4 chỉ số: (i) số lượng cán bộ

chuyên trách; (ii) thực tế công việc thực hiện so với chuyên môn được đào tạo; (iii)

thu nhập và các chế độ đãi ngộ khác; (iv) vấn đề đào tạo nâng cao năng lực chuyên

môn, nghiệp vụ. Kết quả khảo sát của luận án cho thấy 4 chỉ số về năng lực của chủ

thể thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB hiện chỉ đạt ở mức độ khá và trung

bình: (i) số lượng cán bộ chuyên trách chỉ đạt 3,0 điểm; (ii) thực tế công việc thực

hiện so với chuyên môn được đào tạo chỉ đạt 2,9 điểm; (iii) thu nhập và các chế độ

đãi ngộ khác đối với cán bộ đạt 2,7 điểm; và (iv) kém nhất là chỉ số đào tạo nâng

cao năng lực chuyên môn để đáp ứng nhu cầu công việc ngày càng lớn chỉ đạt 2,6

điểm. Điều đó, cho thấy chất lượng năng lực chuyên môn và chế độ đãi ngộ của các

cán bộ chuyên trách về BĐKH là vấn đề mà các địa phương vùng TNB cần phải cải

thiện. Thực tế cho thấy, chuyên môn của các cán bộ chuyên trách chưa thực sự đáp

ứng được nhu cầu thực tế đặt ra. Trong khi đó các hoạt động và công việc liên quan

85

đến thực hiện chính sách BĐKH ngày càng nhiều (Hình 3.1).

Hình 3.1. Năng lực cán bộ thực hiện chính sách BĐKH

3.1.2. Nhóm các nhân tố chủ quan 3.1.2.1. Nguồn lực thực hiện chính sách

Các nguồn lực để thực hiện các dự án, nhiệm vụ ứng phó với BĐKH, là nhân

tố quan trọng nhất đối với quá trình thực thi chính sách BĐKH. Nguồn lực này phụ

thuộc vào các nguồn đảm bảo thu - chi ngân sách Nhà nước từ Trung ương và địa

phương, huy động nguồn vốn viện trợ ODA, đóng góp của doanh nghiệp, cộng

đồng... Tính đến tháng 6/2017 trong CTMTQG về ứng phó với BĐKH đã có 122 dự

án ứng phó với BĐKH do bộ/ngành chủ trì được triển khai thực hiện với tổng số

kinh phí là hơn 361 tỷ đồng, và 101 dự án do các địa phương chủ trì thực hiện tổng

số kinh phí hơn 4.103 tỷ đồng. Còn đối với chương trình hỗ trợ ứng phó với BĐKH

(SP-RCC), đã có 16/62 dự án được bố trí vốn để thực hiện với tổng số kinh phí là

4.433 tỷ đồng. Trong 16 dự án cấp bách được ưu tiên phân bổ vốn để thực hiện, chủ

yếu tập trung vào lĩnh vực cải tạo và nâng cấp hệ thống hạ tầng thuỷ lợi: hồ chứa

nước, hệ thống đê bao, đê sông, đê biển, kênh thoát lũ... [91, tr.29-39].

3.1.2.2. Sự tham gia của khu vực tư nhân, cộng đồng

Hoạt động ứng phó với BĐKH ở vùng TNB hiện nay, chủ yếu tập trung ở khu

vực công mà chưa phát huy được vai trò và sự đóng góp của khu vực tư nhân

(doanh nghiệp, cộng đồng, người dân), nhóm tác nhân gây phát thải KNK lớn nhất.

Sự tham gia của doanh nghiệp trong việc đóng góp nguồn lực cho ứng phó với

BĐKH, hay đầu tư cho đổi mới công nghệ tiết kiệm năng lượng, thân thiện với môi

trường, giảm phát thải. Sự tham gia của cộng đồng, người dân trong việc chuyển

đổi sang mô hình sản xuất giảm phát thải, xây dựng các làng xã các theo hướng

86

kinh tế xanh, các bon thấp ở vùng TNB chưa thật sự có nhiều điển hình tiêu biểu.

Kết quả khảo sát của NCS cho thấy sự tham gia, đóng góp của khu vực tư nhân

trong việc thực hiện các hoạt động ứng phó với BĐKH thấp (2,5 điểm) và khu vực

doanh nghiệp hiện nay bị động trong ứng phó với BĐKH. Điều này hàm ý rằng,

khu vực tư nhân vẫn chưa thực sự nhận thức được vai trò của mình trong hoạt động

ứng phó với BĐKH và xem đó là nhiệm vụ của cơ quan Nhà nước.

Hình 3.2. Sự tham gia của các bên trong thực hiện chính sách BĐKH

3.1.3. Nhóm các nhân tố khách quan 3.1.3.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô

Sau hơn 30 năm kể từ khi bắt đầu thực hiện công cuộc Đổi mới toàn diện đất

nước vào năm 1986, Việt Nam thành công chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa

tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, và đạt được

những thành tựu đáng kể về phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo. Việt Nam đã

vượt qua thời kỳ khủng hoảng KT-XH, từ một quốc gia có nền nông nghiệp lạc hậu,

kém phát triển, trở thành nước có mức thu nhập trung bình. Theo số liệu của Tổng

cục Thống kê cho thấy năm 2018 quy mô nền kinh tế đạt 5.007,9 nghìn tỷ đồng

tương ứng với 220 tỷ USD, GDP bình quân đầu người ước tính đạt 53,5 triệu đồng,

tương đương 2.385 USD [143]. Đặc biệt, trong công cuộc giảm nghèo, Việt Nam đã

hoàn thành xuất sắc các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ, khi tỷ lệ đói nghèo giảm từ hơn 80% dân số sau 30 năm giảm xuống còn khoảng 8% [124]. Đây là tiền đề

87

quan trọng cho Chính phủ phân bổ nguồn lực cho ứng phó với BĐKH cho các địa phương. Trong kế hoạch phân bổ vốn đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 cho vùng TNB, tổng số vốn đầu tư trong kế hoạch đầu tư công trung hạn của vùnglà 193.967,151 tỷ đồng chiếm 16,53% so với cả. Trong đó, ngân sách Trung ương hỗ trợ có mục tiêu là 79.905,9 tỷ đồng, nguồn vốn cân đối ngân sách địa phương là 114.061,251 tỷ đồng. Riêng đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp, thiên tai, BĐKH, bố trí vốn kế hoạch đầu tư giai đoạn 2016-2020 đạt 28.200 tỷ đồng (chiếm 29% tổng

vốn toàn ngành) thông qua Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT. Bên cạnh đó, còn có nguồn vốn bổ sung ngoài kế hoạch trung hạn 2016-2020, trong đó đã bố trí xử lý sạt

lở cấp bách nguy hiểm từ nguồn dự phòng ngân sách Trung ương năm 2018 là

1.500 tỷ đồng. Ngoài ra, Bộ KH&ĐT đang tiếp tục làm việc với các đối tác phát

triển, các nhà tài trợ để đề xuất một số dự án mới triển khai trong giai đoạn 2021- 2025 cho vùng TNB [11].

Vùng TNB bao gồm 13 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương với dân số với 17,5 triệu người, diện tích tự nhiên khoảng 4.0604.6km2, trong đó có khoảng 64%

diện tích đất được dùng để sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản (2017). Là

khu vực có ba mặt giáp biển, mặt Đông, Nam giáp Biển Đông và Tây Nam giáp

vịnh Thái Lan [126]. Vùng TNB là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu nhất

Đông Nam Á và thế giới. Là vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, nuôi trồng thủy

hải sản và trồng cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất của Việt Nam. Thế mạnh kinh tế của

TNB là ngành nông nghiệp, chiếm 34,6% GDP toàn ngành nông nhiệp cả nước và

chiếm 33,5 % GDP chung của vùng TNB [19]. Đến năm 2018, vùng TNB đứng đầu

cả nước về sản lượng lúa, tôm, cá tra và trái cây (sản lượng lúa 24,5 triệu tấn, chiếm

56% sản lượng cả nước; sản lượng tôm 0,623 triệu tấn, chiếm 70%; sản lượng cá tra

1,41 triệu tấn, chiếm 95%; sản lượng trái cây 4,3 triệu tấn, chiếm 60%). Kim ngạch

xuất khẩu các nông sản chủ lực của vùng (gạo, cá tra, tôm, trái cây) đạt 8,43 tỷ

USD, chiếm 73,34% kim ngạch xuất khẩu các nông sản của cả nước [19]. Vùng

TNB có mức tăng trưởng tổng sản phẩm của vùng (GRDP) tăng trưởng liên tục từ

1995 đến nay với tốc độ tăng trưởng luôn trên 6%. Tổng sản phẩm trong nước

(GRDP) của vùng TNB năm 2010 là 335.696 tỷ đồng, năm 2015 là 494.115 tỷ đồng

và năm 2017 là 561.639 tỷ đồng, tương ứng tốc độ tăng trưởng bình quân năm giai

đoạn 2010 - 2015 là 8,22% và giai đoạn 2010-2017 là 6,79%. Trong giai đoạn

2012-2017 thì GRDP vùng đạt ở mức ổn định, trung bình trên 6,5%, xấp xỉ mức

tăng trưởng GDP chung của cả nước [108]. Đây là yếu tố quan trọng để đảm bảo

một phần nguồn ngân sách địa phương dành cho ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên,

hiện 12/13 tỉnh, thành phố ở vùng TNB không cân đối được thu - chi ngân sách và

phải nhận trợ cấp hàng năm từ Trung ương. Do vậy, các chương trình, dự án đầu tư

công hàng năm và trung hạn cho BĐKH ở các địa phương đều dựa vào nguồn ngân

sách Trung ương. Vì thế, việc triển khai thực thi các dự án, nhiệm vụ về BĐKH ở

các địa phương khá bị động, do phụ thuộc vào nguồn lực từ Trung ương, nhất là

88

ngân sách cho các dự án BĐKH cấp bách.

Mặt khác, với 75% dân cư tập trung sinh sống ở nông thôn, những bứt phá

trong phát triển nông nghiệp của vùng thời gian qua đã góp phần tạo việc làm, nâng

cao thu nhập, giảm tỷ lệ nghèo. Tỷ lệ nghèo của vùng TNB đã giảm tương đối ấn

tượng từ khoảng 15% xuống còn dưới 10% trong giai đoạn 2006-2016 [17]. Tuy

nhiên, kinh tế vùng TNB vẫn chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp thuần tuý phụ

thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và TNTN. Với cơ cấu kinh tế như hiện nay vùng

sẽ dễ bị tổn thương do tác động của BĐKH [17].

3.1.3.2. Cam kết hỗ trợ của các tổ chức quốc tế

Việt Nam đã tham gia tích cực trong cuộc chiến ứng phó với BĐKH toàn cầu,

đặc biệt, chúng ta đã thể hiện trách với cộng đồng quốc tế khi ký Thoả thuận Paris

về BĐKH. Do vậy, Việt Nam có nhiều cơ hội để tiếp cận các nguồn lực tài chính,

kỹ thuật, tín dụng ưu đãi cho ứng phó với BĐKH: Quỹ Khí hậu xanh, Quỹ Môi

trường toàn cầu... Trong giai đoạn 2009-2017, Chính phủ cũng đã tích cực huy động

được nguồn vốn viện trợ ODA khoảng 1,6 tỷ USD từ các tổ chức quốc tế, như:

Ngân hàng ADB; Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật

Bản (JICA), Ngân hàng Thế giới (WB), Chương trình Phát triển Liên hợp quốc

(UNDP), Cơ quan Hợp tác phát triển Đức (GIZ)... để hỗ trợ các bộ/ngành và địa phương vùng TNB thực hiện các dự án về ứng phó với BĐKH.6Cùng với thành tựu

tăng trưởng kinh tế ấn tượng và giảm nghèo nhanh chóng, Việt Nam đã chính thức

bước vào nhóm các quốc giá có mức thu nhập trung bình. Do vậy, đến sau năm

2020 các khoản viện trợ, khoản vay ưu đãi dành cho ứng phó với BĐKH ở Việt

Nam sẽ ít đi và chuyển sang cơ chế vay thương mại. Đa số các chương trình, dự án

đầu tư công trung hạn cho tăng trưởng xanh, ứng phó với thiên tai, BĐKH ở các địa

phương được Chính phủ cân đối từ nguồn viện trợ, nguồn ODA. Vì thế, khi nguồn

viện trợ ODA bị cắt giảm, mà nguồn vốn từ nội lực chưa đáp ứng được, sẽ gây khó

khăn về nguồn tài chính để thực thi chính sách BĐKH cho các địa phương trong cả

nước nói chung và vùng TNB nói riêng.

3.1.3.3. Sự phát triển KH&CN hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu

Sự phát triển vượt bậc KH&CN của nhân loại, nhất là ảnh hưởng của cuộc

Cách mạng Công nghiệp 4.0 đã và đang chi phối rất lớn đến công tác thích ứng với

89

BĐKH ở vùng TNB, thông qua các kênh sau: 6 Số liệu được NCS tính toán dựa trên Cơ sở dữ liệu thống kê tình hình thực hiện các dự án liên quan đến BĐKH ở Việt Nam giai đoạn 2011-2017, Cục Khí tượng thuỷ văn và Biến đổi khí hậu, 2017.

- Cùng với sự tăng tốc của cuộc cách mạng số, sự kết nối giữa thế giới thực

(bao gồm con người và các vật thể) với không gian sốngày càng trở nên mạnh mẽ

[104]. Với 3 trụ cột chính là: (i) Internet tốc độ cao (băng thông rộng hữu tuyến và

4G, 5G phi tuyến); (ii) điện toán có công suất cao (máy tính lớn, máy tính cá nhân,

máy tính bảng, điện thoại thông minh và các phần mềm); (iii) sử dụng trí tuệ nhân

tạo. Điều này đã giúp cho công nghệ dự báo, cảnh báo sớm thời tiết, thiên tai và

BĐKH trở nên chính xác hơn [75].

- Với sự phát triển của KH&CN đã nghiên cứu ra các loại giống cây, con thích

ứng tốt hơn với sự thay đổi của thời tiết, khí hậu; hay các mô hình sản xuất thông

minh ít phụ thuộc vào tài nguyên và khí hậu.

3.1.3.4. Văn hóa, phong tục tập quán

Văn hoá, phong tục tập quán người dân vùng TNB, là vấn đề có vai trò cốt yếu

trong việc hình thành nên tính đặc thù vùng đất, con người, văn hóa ứng xử với

nước, ứng xử với môi trường tự nhiên của cư dân Nam Bộ. Mặt khác, do sinh kế

của đa số cư dân vùng TNB là nông nghiệp, thủy sản gắn với sông nước, nên cộng

đồng cư dân vùng nông thôn ở vùng TNB thường có thói quen sinh sống ven bờ

sông, bờ biển. Do đó, cư dân rất dễ bị ảnh hưởng bởi thiên tai hạn hán, xâm nhập

mặn, sạt lở bờ sông, bờ biển. Bên cạnh đó, do điều kiện tự nhiên để canh tác sản

xuất, mưu sinh thuận lợi hàng trăm năm nay, nên dân cư sinh sống ở các vùng nông

thôn TNB không có thói quen tích lũy, tiết kiệm, hình thành vốn tài chính. Nên khi

có các cú sốc do biến động KT-XH hay do thiên tai, BĐKH gây ra, thì khả năng

phục hồi sinh kế của người dân là rất kém [95]. Do đó, văn hóa tổ chức sản xuất,

kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt của vùng TNB phải phù hợp đặc trưng của nước, của

hệ sinh thái của từng tiểu vùng. Dựa vào lợi thế, quy luật biến đổi điều kiện tự

nhiên, tài nguyên, duy trì dòng chảy, hoạt động, cân bằng tự nhiên của nước, chỉ

can thiệp trong tình hướng bắt buộc để đảm bảo an ninh, sinh tồn. Chú trọng hồi

phục tính tự nhiên của nước- tái xây dựng và phát triển hạ tầng tự nhiên góp phần

đảm bảo an ninh nguồn nước. Duy trì và phát triển văn minh, văn hoá của TNB theo

hướng thông minh với nước và khí hậu để PTBV [95].

3.1.3.5. Sự thay đổi của yếu tố bên ngoài

Vùng TNB nằm ở vị trí hết sức mẫn cảm, trong đó nguồn nước và phù sa của

đồng bằng phụ thuộc phần lớn ở bên ngoài lãnh thổ. Vì vậy, sự thay đổi tích cực

90

hay tiêu cực từ khu vực thượng nguồn châu thổ đều ảnh hưởng trực tiếp đến sự

PTBV của vùng. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước một cách có trách nhiệm

ở các quốc gia khu vực sông Mê Kông có ảnh hưởng rất lớn đến vùng TNB. Trong

giai đoạn 2015-2018, việc chuyển nước sông Mê Kông sang lưu vực sông khác và

nhất là việc ngăn dòng để khai thác thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông đã

làm cho vùng TNB phải đối mặt với các đợt hạn hán và xâm nhập mặn, sạt lở sông

biển nghiêm trọng nhất trong lịch sử phát triển của đồng bằng. Do đó, sự thay đổi

của vùng Thượng nguồn Mê Kông có ảnh hưởng rất lớn đến công tác thực thi chính

sách BĐKH. Và để ứng phó với sự thay đổi đó, thì phụ thuộc chủ yếu vào chính

sách liên kết vùng và khả năng đàm phán để giải quyết vấn đề có trách nhiệm theo

thông lệ quốc tế ở cấp quốc gia, khu vực.

3.2. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến vùng Tây Nam Bộ

3.2.1. Vùng sinh thái - xã hội ở khu vực Tây Nam Bộ 3.2.1.1. Cơ sở của việc lựa chọn vùng sinh thái xã hội trong ứng phó với biến đổi

khí hậu ở vùng TNB

Hiện nay, ở vùng TNB có nhiều cách tiếp cận phân vùng, tuỳ thuộc vào mục

tiêu của chủ thể quản lý mà có các tiếp cận cho phù hợp. Để chính sách ứng phó với

BĐKH hiệu quả trong thực tiễn thực hiện ở vùng TNB, luận án tiếp cận vùng sinh

thái - xã hội.

Cơ sở khoa học của các tiếp cận vùng sinh thái - xã hội. Cách tiếp cận này đã

từng bước được cụ thế hoá trong Quyết định số 593/QĐ-TTg ngày 6/4/2016, về

việc Ban hành Quy chế thí điểm liên kết phát triển KT-XH vùng ĐBSCL giai đoạn

2016-2020. Và Nghị quyết 120/NQ-CP, ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững

vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Đặc biệt, là Quyết

định 417/QĐ-TTg, ngày 13/4/2019 về việc ban hành Chương trình hành động tổng

thể thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP, ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững vùng

đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong đó, Chương trình đã nhấn mạnh nội dung xây dựng đề án liên kết 4 tiểu vùng sinh thái - xã hội (tiểu

91

vùng DHPĐ, tiểu vùng ĐTM, tiểu vùng TGLX, tiểu vùng BĐCM) của vùng TNB để góp phần triển khai Quyết định số 593/QĐ-TTg ngày 6/2/2016. Theo đó, trong ứng phó với BĐKH thì tiếp cận vùng sinh thái - xã hội là cách phù hợp vì dựa trên nền tảng khai thác, sử dụng các hệ sinh thái, vốn tự nhiên trong thích ứng với BĐKH sao cho vừa đạt được lợi ích về mặt KT-XH, vừa duy trì sức khoẻ của các hệ sinh thái, đồng thời điều chỉnh hệ thống KT-XH theo hướng chủ động thích ứng với BĐKH, mà không xung đột với vốn tự nhiên, hệ sinh thái.

3.2.1.2. Các vùng sinh thái - xã hội ở vùng

Theo đó vùng TNB có 4 vùng sinh thái - xã hội như sau:

a. Tiểu vùng Duyên hải phía Đông

Tiểu vùng DHPĐ có ranh giới hành chính, gồm 04 tỉnh: Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long và Trà Vinh, vùng có tổng diện tích khoảng 8.788,9km2, chiếm 21,5% tổng diện tích vùng TNB, với dân số 5 triệu người. Vùng DHPĐ nằm ở vùng Duyên

hải cửa sông của hệ thống sông Cửu Long đổ ra biển Đông và là vùng có đặc trưng

về sinh thái ven biển cửa sông. Với đặc trưng về sinh thái ven biển, cửa sông nên vùng có nhiều tiềm năng phát triển các chuỗi giá trị trái cây đặc sản để xuất khẩu;

du lịch sinh thái sông nước gắn miệt vườn; dịch vụ logistics; trung tâm nghiên cứu.

Hiện nay, tiểu vùng DHPĐ đang bị ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH xâm nhập mặn, thiếu nước ngọt, sạt lở bờ sông, bờ biển.

b. Tiểu vùng Đồng Tháp Mười

Về mặt ranh giới hành chính tiểu vùng ĐTM thuộc địa phận 3 tỉnh: Đồng

Tháp, Tiền Giang và một phần diện tích của tỉnh Long An với 22 huyện, thị xã,

thành phố; diện tích tiểu vùng khoảng 730.000ha, chiếm 70% diện tích tự nhiên của

3 tỉnh và chiếm 18% diện tích của TNB. Tiểu vùng ĐTM là vùng đất trũng hay

đồng lũ kín, với 42% diện tích là đất phèn, đất nông nghiệp chiếm 78%, trong đó

chủ yếu là đất lúa chiếm 85%. Tiềm năng phát triển chuỗi giá trị lúa về lúa gạo,

xoài, cá tra, sen, cây dược liệu, nâng cao chất lượng trái thanh long, khóm, vú sữa

đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu và du lịch sinh thái. Trong bối cảnh BĐKH toàn cầu

vùng bị ảnh hưởng hưởng nặng nề bởi sạt lở bờ sông, lũ, xâm ngập mặn...

c. Tiểu vùng Tứ giác Long Xuyên

Ranh giới tiểu vùng gồm 4 tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, Kiên Giang

với tổng diện tích hơn 550.000ha, dân số khoảng 1,6 triệu người. Là vùng sản xuất

nông nghiệp quan trọng của TNB, chủ yếu là lúa, gạo, cá, hoa màu, với sản lượng

lúa gạo đứng đầu cả nước (khoảng 5 triệu tấn/năm). Đây là vùng trũng tự nhiên ở đầu nguồn ĐBSCL, cùng với ĐTM, TGLX có chức năng điều tiết thủy văn quan

92

trọng cho cả vùng TNB. Vào mùa lũ, vùng này ngập tự nhiên đến 3 mét nên hấp thu lượng lớn nước lũ, phù sa, tài nguyên thủy sản, giúp giảm ngập lụt cho các vùng phía hạ lưu. Đến mùa khô, nước lũ trong vùng trũng này bổ sung cho dòng chảy giúp cân bằng ranh giới mặn - ngọt cho các tỉnh ven biển. Vùng TGLX đang đứng trước hàng loạt thách thức như BĐKH, NBD gây hạn hán, xâm nhập mặn, mưa nắng thất thường. Những tác động do hệ thống các đập thủy điện trên sông Mê Kông mà theo dự báo, sẽ làm tổn thất nguồn thủy sản nước ngọt, ảnh hưởng lớn đến

dinh dưỡng của người dân và các loài thuộc hệ sinh thái đất ngập nước; ngoài ra còn làm giảm phù sa, gây hạn vào mùa khô ở TGLX. Bên cạnh đó, việc thâm canh

lúa, tăng lúa vụ 3 làm tăng chi phí, bạc màu đất, ô nhiễm môi trường vì sử dụng

phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Trong giai đoạn 2016-2019, vùng đứng trước

tình trạng suy giảm nước ngầm và sụt lún đất…

d. Tiểu vùng bán đảo Cà Mau

Tiểu vùng BĐCM rộng 1,6 triệu ha, bao gồm các địa phương Sóc Trăng, Bạc

Liêu, Cà Mau và một phần của tỉnh Kiên Giang, tỉnh Hậu Giang. Tiểu vùng có hệ

sinh thái đa dạng, là vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp và thủy sản nước lợ của

cả nước. Thế mạnh của vùng là tôm - lúa, thuỷ sản và năng lượng tái tạo, du lịch

sinh thái. Hiện nay, có 3 nhóm thách thức cơ bản, về: toàn cầu, khu vực và địa bàn.

Từ những thách thức trên đã làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển KT-XH, nhất là

hoạt động sản xuất nông nghiệp của Tiểu vùng BĐCM nói chung cũng như từng địa

phương nói riêng. Vì vậy, nhu cầu liên kết hợp tác để phát triển giữa các tỉnh trong

tiểu vùng là tất yếu và cần thiết. Trong giai đoạn 2011-2018 tiểu vùng chịu tác động

của BĐKH và NBD: hạn hán và xâm nhập mặn, sạt lở bờ biển, sụt lún… ngày càng

có chiều hướng gia tăng.

Hình 3.3. Các tiểu vùng sinh thái - xã hội vùng Tây Nam Bộ

93

Nguồn: Đặng Kiều Nhân, 2018.

3.2.2. Một số biểu hiện của biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ

Theo kịch bản BĐKH và NBD Việt Nam năm 2016 [24], với kịch bản đường

phân bố nồng độ KNK đại diện (Representative Concentration Pathways - RCP), sự

thay đổi các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa và mực nước biển được tóm tắt như sau:

3.2.2.1. Về nhiệt độ trung bình

Theo kịch bản trung bình RCP4.5, nhiệt độ trung bình năm khu vực TNB có

xu thế tăng so với trung bình thời kỳ cơ sở (1986-2005), giữa thế kỷ tăng khoảng

1,40C (0,9÷2,1), đến cuối thế kỷ tăng khoảng 1,80C (1,2÷2,7). Theo kịch bản cao

RCP8.5, giữa thế kỷ tăng khoảng 1,90C (1,3÷2,7); đến cuối thế kỷ tăng khoảng

3,40C (2,6÷4,6).

3.2.2.2. Lũ ở vùng Tây Nam Bộ

TNB chịu tác động của mưa trên lưu vực các quốc gia thượng nguồn nhất là

Lào và Campuchia (chiếm khoảng 50% diện tích lưu vực). Ngoài ra, còn do các

hình thái thời tiết gây mưa lớn ngay tại đồng bằng và tác động của thủy triều từ biển

Đông. Các yếu tố trên ngày càng diễn biến phức tạp do tác động của BĐKH, dẫn

đến diễn biến ngập lũ ngày càng trở nên phức tạp hơn. “Theo chu kỳ, từ tháng 5 trở

đi, mực nước ở khu vực trung và hạ lưu sông Mê Kông bắt đầu gia tăng và đạt đỉnh

lũ đầu vụ vào khoảng giữa tháng 8, sau đó lũ xuống chậm, tiếp theo lũ lên lại và đạt

đỉnh lũ chính vụ vào khoảng cuối tháng 9, tháng 10 hằng năm.

- 4 trận lũ lớn, trong đó có 3 năm lũ lớn7 liên tiếp là các năm 2000, năm 2001

và năm 2002, sau đó đến năm 2011.

- 6 năm xảy ra lũ vừa8 là 2004, 2005, 2006, 2009, 2013, 2014 và 2018.

- 7 năm là lũ nhỏ9, đặc biệt năm 2015 là năm lũ quá nhỏ (tại Tân Châu: 2,55m,

Châu Đốc: 2,35m, thấp hơn trung bình nhiều nămlần lượt là 1,45m và 1,22m).

- Về đỉnh lũ chính vụ:

+ Thời gian xuất hiện: những năm gần đây, lũ có xu hướng đến muộn hơn so

94

với trước đây, từ năm 2010 trở về trước, đỉnh lũ chính vụ hầu hết xuất hiện vào cuối 7 Lũ lớn được tính khi mực nước cao nhất đầu nguồn sông Cửu Long vượt mức báo động 3 (mực nước tại Tân Châu 4,5m, tại Châu Đốc 4,0m). Lũ lớn sẽ gây ngập lụt trên diện rộng, uy hiếp đến an toàn của hệ thống đê bao, bờ bao nội đồng, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và dân sinh. 8 Lũ vừa được tính khi mực nước cao nhất đầu nguồn sông Cửu Long từ mức báo động 2 (Tân Châu 4,0m, tại Châu Đốc 3,5m) đến dưới báo động 3. Lũ đẹp không ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, dân sinh và mang lại nguồn lợi lớn về thủy sản, bồi đắp phù sa và vệ sinh đồng ruộng (nên được coi là lũ đẹp). 9 Lũ nhỏ nếu mực nước cao nhất tại đầu nguồn sông Cửu Long ở mức dưới báo động 2. Lũ nhỏ không mang lại nguồn lợi và nguy cơ xảy ra xâm nhập mặn vào mùa khô kế tiếp, đặc biệt khi lũ quá nhỏ.

tháng 9, đầu tháng 10 (từ năm 2000 đến 2010, chỉ có 3 trận có đỉnh lũ xuất hiện vào

giữa tháng 10). Từ năm 2010 trở lại đây, các trận lũ hầu hết xuất hiện vào giữa

tháng 10 (chậm hơn so với giai đoạn trước khoảng 10 ngày).

+ Độ lớn đỉnh lũ: Từ năm 2010 đến nay, số trận lũ lớn giảm so với trước kia,

chủ yếu xuất hiện các lũ vừa và lũ nhỏ (chiếm đến khoảng 90%), lũ đầu vụ (tháng

8) cũng suy giảm nghiêm trọng” [19].

Nhìn chung, lũ ở vùng TNB đã thay đổi đặc tính tự nhiên do tác động của vận

hành hồ chứa ở thượng nguồn châu thổ và qua đó cũng tiềm ẩn nguy cơ lũ cao bất

thường nếu xảy ra sự cố hồ chứa hoặc xả lũ đồng loạt [19].

3.2.2.3. Hạn hán, xâm nhập mặn

Vào các tháng mùa khô, TNB chịu tác động mạnh bởi xâm nhập mặn, đây là

đặc tính của vùng. Mức độ xâm nhập hàng năm có tính quy luật tương đối rõ rệt,

tuy nhiên trong những năm gần đây, nguồn nước thượng lưu sông Mê Kông về

đồng bằng đã thay đổi quy luật tự nhiên bởi việc xây dựng, vận hành các hồ chứa

thủy điện thượng lưu, dẫn đến xâm nhập mặn có những thay đổi lớn, gây khó khăn

lớn trong việc cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, cụ thể:

- “Thời gian xâm nhập mặn: Có xu hướng xuất hiện sớm hơn trước đây từ 1-

1,5 tháng. Giai đoạn trước năm 2012, mặn thường xâm nhập đáng kể từ tháng 2 đến

tháng 4, đỉnh mặn xuất hiện vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4. Những năm gần đây

dòng chảy thượng nguồn đầu mùa khô về thấp, xâm nhập mặn xuất hiện từ cuối

tháng 12 năm trước, đỉnh mặn xuất hiện vào tháng 2; hoặc đầu tháng 3.” [19]

- “Phạm vi xâm nhập mặn: Giai đoạn trước năm 2012, ranh mặn 4g/l chỉ vào

từ 35÷45 km, năm sâu nhất đến 60 km. Từ năm 2012 đến nay, xâm nhập mặn với

ranh mặn 4g/l thường xuyên vào sâu hơn, ở mức 50÷60 km, điển hình đợt xâm nhập

mặn kỷ lục năm 2016, chiều sâu xâm nhập mặn cao nhất lên tới 90 km. Việc này

dẫn đến hàng loạt cửa lấy nước được xây dựng trước đây ở khoảng cách cách cửa

sông 35-50 km không thể lấy nước ngọt; ngoài ra, các cửa cống này thường có cửa

van tự động đóng mở theo chênh lệnh mực nước thượng/hạ lưu, nên đã gây tác

95

động không nhỏ đến việc chủ động vận hành” [19].

Hình 3.4. Diễn biến mặn tại trạm điển hình trên sông Cửa Tiểu,

sông Cửa Đại giai đoạn sau năm 2012 so với trước đây

Nguồn: Bộ NN&PTNT, 2019.

Hình 3.5. Diễn biến mặn tại trạm điển hình trên sông Cổ Chiên,

sông Hậu giai đoạn sau sau năm 2012 so với trước đây

Nguồn: Bộ NN&PTNT, 2019.

3.2.2.4. Về mực nước biển dâng

Các kịch bản NBD được xây dựng cho các tỉnh ven biển TNB và được tổng hợp thành 2 khu vực: (i) khu vực ven biển phía đông TNB (từ nam Bình Thuận đến

96

mũi Cà Mau); và (ii) khu vực ven biển phía tây TNB (từ Mũi Cà Mau đến Kiên Giang). Nhìn chung, trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21, xu thế tăng của mực nước biển trong các kịch bản RCP không có sự sai khác. Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể từ năm 2040 trở đi với sự tăng lên rõ rệt về mực nước biển trung bình của kịch bản RCP8,5 so với các kịch bản khác. Kịch bản mực nước biển dâng tại khu vực ven biển phía tây TNB cao hơn một ít so với khu vực phía đông.Nếu mực nước biển dâng 100cm sẽ ảnh hưởng 38,9% diện tích đất của TNB, các tỉnh bị ảnh

hưởng nhiều nhất là Hậu Giang (80,62%), Kiên Giang (76,9%) [24]. 3.2.2.5. Về bão và các biểu hiện thời tiết cực đoan khác

Vùng Nam Bộ (bao gồm TNB và Tp Hồ Chí Minh) có số cơn bão trung bình

năm ít nhất so với các vùng trên cả nước, mùa bão tập trung vào các tháng 10 đến

tháng 12. Tổng số cơn bão trong 55 năm (1960-2014) là 17 cơn. Tốc độ gió mạnh nhất trong bão quan trắc được đạt 28m/s (cấp 10). Lượng mưa trung bình trong một

đợt bão khoảng 50-100mm, lượng mưa lớn nhất trong 24h đã quan trắc được 273mm.

Theo kịch bản BĐKH, ở khu vực biển Đông, số lượng bão yếu và trung bình có xu

thế giảm trong khi số lượng bão mạnh đến rất mạnh lại có xu thế tăng rõ rệt. Hoạt

động của bão và áp thấp nhiệt đới có xu hướng dịch chuyển về phía nam và có thể sẽ

có nhiều ảnh hưởng đến khu vực TNB. Nguy cơ mưa lớn, gió mạnh khi bão mạnh,

siêu bão đổ bộ đối với vùng TNB như sau: lượng mưa một ngày lớn nhất trong bão

khoảng 300-350 mm; lượng mưa ba ngày lớn nhất trong bão khoảng 400-450mm; tốc

độ gió mạnh nhất trong bão từ45-50m/s (cấp 12-15). Riêng khu vực nam Nam Bộ

(Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang,…) có thể có nguy cơ gió mạnh hơn các khu vực

khác trong vùng. Khu vực từ Tp Hồ Chí Minh đến Cà Mau, nước dâng do bão cao

nhất đã xảy ra tới 2,0m, trong tương lai, khi bão có khả năng mạnh thêm, nước dâng

do bão có thể lên đến trên 2,7m [175].

3.2.3. Một số ảnh hưởng của BĐKH đến vùng Tây Nam Bộ

Từ cuối năm 2015 đến tháng 6-2016, các tỉnh vùng TNB đã hứng chịu các đợt

thiên tai là hạn hán, xâm nhập mặn nghiêm trọng. Tính đến tháng 6-2016, 13/13

tỉnh, thành tại vùng đã ban hành quyết định công bố bị thiên tai, hạn hán, xâm nhập

mặn trên địa bàn. Hạn hán, xâm nhập mặn đã làm cho khoảng 139.000ha lúa của

vùng bị thiệt hại, trong đó có hơn 50% diện tích bị mất trắng gây thiệt hại khoảng

khoảng 215 tỷ đồng. Đồng thời làm cho khoảng 400.000 hộ (1,5 triệu nhân khẩu) bị

thiếu nước sinh hoạt…[16]. Ước tính tổng thiệt hại trong đợt hạn - mặn 2015-2016

toàn vùng TNB khoảng 7.520 tỷ đồng, trong đó tỉnh Kiên Giang và Cà Mau, Bạc Liêu là những địa phương bị thiệt hại lớn nhất, khoảng 4.350 tỷ đồng10. Hạn hán,

xâm nhập mặn 2019-2020 tương đương và có thời điểm còn khốc liệt hơn đợt hạn

hán, xâm nhập mặn kỷ lục 2015-2016. Hạn hán và xâm nhập mặn ở ĐBSCL năm

2019 đến sớm hơn, bắt đầu từ xuất hiện từ cuối tháng 11, trong điều kiện bình

10 Tính toán của Luận án (2017), dựa trên Báo cáo của Ban Chỉ đạo trung ương về phòng chống thiên tai, về tình hình thiệt hại do thiên tai gây ra năm 2016.

97

thường là vào tháng 1/2020. Tính đến tháng 1/2020, có những chỗ xâm nhập mặn

đã vào sâu tới 70km, như ở tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, một phần của Sóc Trăng và

Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Trà Vinh…Trong mùa hạn-mặn 2019-2020, đã làm

cho khoảng 100.000ha lúa, 130.000ha cây ăn trái của vùng ĐBSCL bị ảnh hưởng.

Ngoài ra, có khoảng 100.000 hộ dân có nguy cơ thiếu nước sinh hoạt, ước tính thiệt

hại về kinh tế sẽ hơn đợt hạn, mặn 2015-2016 [21].

Cũng trong năm 2017 và đến tháng 12-2019 khu vực TNB lại tiếp tục phải

hứng chịu những đợt sạt lở bờ sông, bờ biển với tần suất và quy mô lớn chưa từng

có trong lịch sử phát triển của đồng bằng [18].

Hộp 3.1: Tình hình sạt lở ở vùng TNB giai đoạn 2010-2019

- Giai đoạn trước năm 2010: Vùng TNB thường xuyên xảy ra hiện tượng sạt

lở, tại một số khu vực đã ghi nhận những thiệt hại do sạt lở gây ra, nhất là những

khu vực tập trung dân cư như: TX Tân Châu, Tp Long Xuyên (An Giang); TX

Hồng Ngự; Tp Sa Đéc (Đồng Tháp); Tp Vĩnh Long (Vĩnh Long). Tuy nhiên, xu thế

chung là ổn định, không gia tăng quá mức; vùng ven biển có xu thế bồi là chính.

- Từ năm 2010 - 2019: Sạt lở diễn biến ngày càng phức tạp và có mức độ gia

tăng cả về phạm vi và mức độ nghiêm trọng, uy hiếp trực tiếp đến tính mạng, tài sản

của nhân dân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn các công trình phòng chống

thiên tai, cơ sở hạ tầng vùng ven biển và làm suy thoái rừng ngập mặn ven biển.

Trung bình hàng năm, xói lở dã làm mất khoảng 300ha đất, rừng ngập mặn ven

biển. Theo số liệu thống kê, đến hết 2018 khu vực TNB có 564 điểm sạt lở với tổng

chiều dài trên 834 km. Trong đó, sạt lở bờ sông 512 điểm với tổng chiều dài khoảng

566 km (chủ yếu diễn ra dọc theo sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Cỏ Đông, Vàm

Cỏ Tây và các nhánh chính của hệ thống kênh, rạch); sạt lở bờ biển 52 điểm với

tổng chiều dài 268 km.

Trong số các điểm sạt lở nêu trên, theo tiêu chí về phân loại sạt lở bờ sông, bờ

biển quy định tại Quyết định số 01/2011/QĐ-TTg ngày 04/01/2011 của Thủ tướng

Chính phủ, hiện có 57 điểm sạt lở đặc biệt nguy hiểm (sạt lở gây nguy hiểm trực

tiếp đến khu tập trung dân cư và cơ sở hạ tầng quan trọng), tổng chiều dài 170 km.

Bao gồm, bờ sông 39 điểm với tổng chiều dài 85 km, bờ biển 18 điểm với tổng

chiều dài 85 km (biển Đông 15 điểm/69 km, biển Tây 03 điểm/16 km). Tổng thiệt

hại do sạt lở bờ sông, bờ biển ở các tỉnh ĐBSCL đến tháng 12/2019 vào hơn

khoảng 2.955,3 tỷ đồng.

98

Nguồn: Bộ NN&PTNT, 2019.

Hình 3.6. Tổng thiệt hại do sạt lở bờ sông, bờ biển TNB giai đoạn 2010-2019

Nguồn: Tổng cục Thuỷ lợi, 2019.

Nhìn vào Hình 3.7, cho thấy tổng thiệt hại do thiên tai và BĐKH ở vùng TNB

ngày càng gia tăng ở mức nghiêm trọng, thiệt hại nặng nhất là năm 2007-2018 với

7.990 tỷ đồng. Tính chung trong giai đoạn 2010-2018, tổng thiệt hại do thiên tai và

BĐKH ở TNB là khoảng 20.945 tỷ đồng.

Hình 3.7. Ước tính thiệt hại do thiên tai và BĐKH ở vùng Tây Nam Bộ

giai đoạn 2010-2018

Nguồn: Tổng cục Phòng chống thiên tai, 2018.

Qua điều tra của luận án cũng cho thấy những kết quả tương tự, những năm

gần đây BĐKH đã dẫn đến những tác động tiêu cực ở vùngTNB. Trong 7 tác động

tiêu cực mà BĐKH thường ảnh hưởng đến KT-XH và môi trường ở các địa phương,

99

thì ảnh hưởng mạnh nhất là tới hoạt động nuôi trồng thủy sản và tác động đến sinh

kế bền vữngcộng đồng (đều 4,6 điểm). Tiếp đến là ảnh hưởng tới hoạt động trồng

trọt và suy giảm diện tích rừng ngập mặn.

Hình 3.8. Đánh giá về ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH đến một số ngành/lĩnh vực

Xét theo các tiểu vùng, DHPĐ, BĐCM, ĐTM là ba khu vực chịu ảnh hưởng

mạnh nhất của BĐKH khi có tới 7/8 tác động được đề cập ảnh hưởng, hoặc ảnh

hưởng mạnh tới tình hình KT-XH và môi trường địa phương. Khu vực TGLX người

dân ít cảm nhận thấy tác động tiêu cực của BĐKH hơn so với ba khu vực còn lại.

Hình 3.9. Đánh giá về ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH đến các tiểu vùng

3.3. Các bước thực hiện chính sách ứng phó biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ 3.3.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách

Ngay sau khi Chính phủ ban hành Quyết định 158/QĐ-TTg, ngày 2/12/2008

về việc Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH, các

100

tỉnh/thành phố ở vùng TNB đã ban hành các văn bản nhằm hướng dẫn, tổ chức,

triển khai cho các sở/ngành và địa phương thực hiện chính sách và đã đạt được một

số kết quả như sau:

Dựa vào Quyết định 158/2008/QĐ-TTg ngày 2/12/2008; Quyết định số

2148/QĐ-BTNMT, ngày 20/12/2010 của Bộ trưởng Bộ TN&MT Ban hành Kế

hoạch hành động ứng phó với BĐKH của Bộ TN&MT giai đoạn 2011-2015; Công

văn 3815/BTNMT-KTTVBĐKH, 13/10/2009 của Bộ TN&MT về Hướng dẫn Xây

dựng kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH. Các địa phương vùng TNB đã xây

dựng kịch bản BĐKH và NBD, đồng thời ban hành Kế hoạch hành động ứng phó

BĐKH và NBD giai đoạn 2011-2015. Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của

các tỉnh/ thành gồm các nội dung như sau: (i) xác định rõ mục tiêu của kế hoạch;

(ii) nội dung của kế hoạch ứng phó với BĐKH; (iii) nguồn lực tài chính thực hiện

kế hoạch: từ nguồn CTMTQG ứng phó BĐKH, ngân sách địa phương, nguồn vốn

từ các tổ chức quốc tế, tư nhân, lồng ghép từ các chương trình, dự án khác; và (iv)

tổ chức thực hiện chương trình; ban hành danh mục nhiệm vụ, dự án ưu tiên thực

hiện giai đoạn 2011-2015. Từ khung kế hoạch hành động chung đã nêu trên thì một

số bộ/ngành đã xây dựng hành động ứng phó với BĐKH của ngành: TN&MT,

NN&PTNT, GTVT, Xây dựng, Công thương, Y tế, TT&TT, VHTT&DL, Tài

chính…[115, tr.3-16].

Hiện nay, lồng ghép vấn đề BĐKH trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch

phát triển của địa phương được coi là cách tiếp cận khôn ngoan nhằm đạt được mục

tiêu PTBV và xây dựng các biện pháp ứng phó với BĐKH một cách hiệu quả.

Thông qua việc lồng ghép các biện pháp ứng phó với BĐKH trong các chiến lược,

quy hoạch tổng thể KT-XH của địa phương nhằm đảm bảo sự ổn định đối với các

hoạt động đầu tư và giảm thiểu tính dễ bị tổn thương của các lĩnh vực do tác động

của BĐKH. Trong đó, các biện pháp thích ứng và giảm nhẹ được coi là một phần

không thể tách rời của chính sách phát triển. Các biện pháp thích ứng và giảm nhẹ

đó sẽ phát huy hiệu quả nếu lồng ghép được vào các chính sách, chiến lược phát

triển [153]. Do đó, yêu cầu về lồng ghép BĐKH vào quy hoạch phát triển KT-XH

đã được đề cập đến trong Chiến lược quốc gia về ứng phó với BĐKH được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2139/2011/QĐ-TTg ngày 5/12/2011.

Để thực hiện Quyết định này, Bộ KH&ĐT đã ra Quyết định số 1485/QĐ-BKHĐT

về Ban hành Khung hướng dẫn lựa chọn ưu tiên thích ứng BĐKH trong lập kế

101

hoạch phát triển KT-XH. Từ khi ban hành Quyết định 1485/QĐ-BKHĐT đến nay

đã có một số địa phương vùng TNB, như: Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp bước

đầu đã thực hiện việc lồng ghép vấn đề BĐKH vào trong Chiến lược phát triển tổng

thể KT-XH giai đoạn 2011-2020, Kế hoạch phát triển KT-XH của địa phương giai

đoạn 2011-2015; Kế hoạch phát triển cách ngành: NN&PTNT, TN&MT, KH&ĐT,

GTVT, xây dựng… các quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH của địa phương,

nhất là cấp huyện và cấp xã. Việc lồng ghép đã mang lại một số hiệu quả tích cực

trong việc ứng phó với các tác động của BĐKH. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới

không chỉ đối với Việt Nam nói chung và vùng TNB nói riêng, nên các nhà hoạch

định chính sách gặp không ít khó khăn trong việc thực hiện công việc này. Nên việc

thực hiện nhiệm vụ trên, còn gặp những khó khăn, rào cản như sau: (i) Trong giai

đoạn 2011-2015 việc xây dựng ban hành khung hướng dẫn lồng ghép BĐKH trong

quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH còn chậm, chưa mang tính chất bắt buộc các

địa phương thực hiện; (ii) Bên cạnh đó, các bộ/ngành chưa ban hành kế hoạch

hướng dẫn lồng ghép BĐKH trong quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành, do đó

các sở ở các địa phương vùng TNB cũng gặp khó khăn trong việc thực hiện lồng

ghép. Hầu hết các sở/ngành và cấp huyện đều gặp khó khăn, lúng túng vì thiếu

hướng dẫn, chỉ báo cụ thể về việc lồng ghép vấn đề BĐKH; (iii) Vai trò, trách

nhiệm của các sở/ngành và địa phương về thực hiện lồng ghép BĐKH trong quy

hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH cũng còn chưa rõ ràng (ví dụ, như lồng ghép

theo các bước nào, việc sắp xếp ưu tiên các hoạt động khi lồng ghép sẽ như thế nào,

cơ chế giám sát kiểm tra ra sao,...); (iv) Thiếu các nguồn lực để thực hiện các hoạt

động lồng ghép. Cho nên, việc lồng ghép BĐKH ở tỉnh/thành vùng TNB trong giai

đoạn vừa qua không đạt kết quả như kỳ vọng.

Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1670/QĐ-TTg ngày 31/10/2017

về việc Phê duyệt Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng

trưởng xanh giai đoạn 2016-2020. Để thực hiện Quyết định trên, các địa phương

vùng TNB đã ban hành Kế hoạch Khung mục tiêu, nhiệm vụ và danh mục dự án

ứng phó với BĐKH của địa phương giai đoạn 2017-2020. Với các nội dung như

sau: (i) quan điểm và mục tiêu của chính sách; (ii) khung nhiệm vụ và thời gian

thực hiện của các sở/ngành; (iii) đề xuất danh mục dự án và nhiệm vụ ưu tiên về

ứng phó với BĐKH giai đoạn 2017-2020; (iv) các giải pháp tổ chức thực hiện chính

sách. Kể từ khi Quyết định số 593/QĐ-TTg ngày 6/4/2016 của Thủ tướng Chính

phủ ra đời, thì một số địa phương trong vùng đã tích cực xây dựng các đề án liên

102

kết PTBV dựa trên các tiểu vùng sinh thái - xã hội, điển hình là:

Đề án Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng Đồng Tháp Mười đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 203013 (gồm 3 tỉnh Đồng Tháp, Long An, Tiền Giang).

Trong đó, bên cạnh các nội dung liên kết nhằm phát triển tiểu vùng ĐTM thành

một trong những vùng sản xuất, xuất khẩu nông sản trọng điểm của cả nước, thì

đề án cũng nhấn mạnh: liên kết để xây dựng các chương trình, dự án chung của

tiểu vùng liên quan đến ứng phó BĐKH, phòng chống sạt lở bờ sông, bảo vệ

nguồn nước… đặt trong tổng thể cả vùng TNB để thu hút các nguồn tài trợ quốc tế

và các nguồn vốn khác.

Đề án Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng duyên hải phía Đông đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 203011 (gồm 4 tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà

Vinh). Đề án nhấn mạnh các nội dung liên kết liên quan đến BĐKH và BVMT như

sau: (i) liên kết về bảo vệ, quản lý, khai thác hiệu quả tài nguyên cát, tài nguyên

nước (nước ngọt phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, công nghiệp); (ii) liên kết xây

dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu về PTBV tiểu vùng; (iii) liên kết để xây dựng

các chương trình, dự án chung của tiểu vùng liên quan đến ứng phó BĐKH, phòng

chống sạt lở bờ sông, bờ biển, bảo vệ nguồn nước…

Đề án Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng tứ giác Long Xuyên đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 203012(gồm 4 tỉnh Cần Thơ, Hậu Giang, An Giang, Kiên

Giang). Đề án đã đề xuất các tuyến lĩnh vực mà các địa phương có thể liên kết: (i)

liên kết về quy hoạch, kế hoạch (bố trí không gian phát triển); (ii) liên kết về sản

xuất, xúc tiến thương mại nông nghiệp, thủy sản; (iii) liên kết về phát triển du lịch;

(iv) liên kết về quản lý nguồn nước, BVMT, đáp ứng đa mục tiêu và thích ứng với

BĐKH; (v) liên kết thiết lập hệ thống thông tin vùng; (vi) liên kết xây dựng thể chế

chính sách cho tiểu vùng [115, tr.3,16].

Đề án Liên kết phát triển bền vững tiểu vùng bán đảo Cà Mau đến năm 2020,

tầm nhìn đến năm 2030. Với mục tiêu xây dựng tiểu vùng BĐCM trở thành vùng

trọng điểm quốc gia về sản xuất nông nghiệp, tiến tới hình thành cụm liên kết

chuyên ngành về thủy sản và lúa gạo. Đồng thời, quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên

bền vững, nhất là bảo vệ và phát triển hệ thống đai rừng phòng hộ ven biển của Tiểu

vùng bán đảo Cà Mau trong điều kiện ứng phó, thích nghi với BĐKH. Theo đó

13 Đề án được giao cho Trường đại học Cần Thơ xây dựng, 2018. 11 Đề án được giao cho Trường đại học Khoa học xã hội Nhân văn Tp Hồ Chí Minh xây dựng, 2018. 12 Đề án được giao cho Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL, Trường đại học Cần Thơ xây dựng, 2018.

103

khung đề án các lĩnh vực được liên kết liên quan đến BĐKH, gồm: (i) phòng chống

thiên tai, thích ứng với BĐKH, NBD; (ii) bảo vệ và phát triển tài nguyên nước, tài

nguyên rừng và đa dạng sinh học; (iii) đầu tư, nâng cấp, quản lý và sử dụng hợp lý

kết cấu hạ tầng thủy lợi, phục vụ sản xuất nông nghiệp, phòng chống thiên tai, xâm

nhập mặn, ứng phó với BĐKH.

Để PTBV vùng TNB trong bối cảnh BĐKH và ứng phó với các thách thức từ

sự phát triển nội tại của vùng và khu vực thượng nguồn, Chính phủ đã ban hành

Nghị quyết 120/NQ-CP, ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững vùng đồng bằng

sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu. Nghị quyết đã đề ra các chủ trương

mang tính chiến lược như sau: (i) mô hình phát triển phải lấy con người làm trung

tâm; (ii) xác định BĐKH và NBD là xu hướng tất yếu, phải sống chung và thích

nghi, lấy tài nguyên nước là cốt lõi là cơ sở cho việc hoạch định chiến lược phát

triển vùng; (iii) việc chuyển đổi mô hình phải dựa trên hệ sinh thái, tôn trọng các

quy luật tự nhiên; (iv) tiếp cận tổng hợp, theo hướng tích hợp tổng thể KT-XH toàn

vùng, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng; (v) mọi hoạt động đầu tư

phải được điều phối thống nhất, đảm bảo tính liên vùng, liên ngành, có trọng tâm,

trọng điểm. Với sự ra đời của Nghị quyết đã góp phần kiến tạo một tầm nhìn phát

triển dài hạn, bền vững vùng TNB, dựa trên nguyên tắc tôn trọng các giá trị sinh

thái tự nhiên, con người của vùng.

Đồng thời, để hiện thực hoá Nghị quyết 120/NQ-CP một số bộ cũng ban hành

kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết. Điển hình là Bộ TN&MT ban hành

Quyết định 2878/QĐ-BTNMT, ngày 28 tháng 8 năm 2018 về Ban hành Kế hoạch

hành động của Bộ TN&MT thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về

Phát triển bền vững vùng TNB thích ứng với BĐKH với 7 nhiệm vụ chính: (i) cập

nhật, hệ thống hóa số liệu dữ liệu liên ngành vùng TNB; (ii) rà soát hoàn thiện bổ

sung cơ chế chính sách về tài nguyên và môi trường; (iii) rà soát hoàn thiện phương

án quy hoạch lĩnh vực tài nguyên và môi trường; (iv) tuyên truyền nâng cao nhận

thức; (v) phát triển ứng dụng khoa học công nghệ; (vi) huy động và quản lý tài

chính; và (vii) tăng cường hợp tác quốc tế. Dựa trên 7 nhiệm vụ trọng tâm, Bộ

TN&MT đã xây dựng 21 đề án, dự án với các hoạt động cụ thể để thực hiện tại vùng

TNB. Bộ NN&PTNT nông thôn ban hành Quyết định 816/QĐ-BNNPTNT, ngày 7

tháng 3 năm 2018 về Ban hành Kế hoạch hành động của Bộ NN&PTNT thực hiện

Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về Phát triển bền vững vùng TNB thích ứng với

104

BĐKH với 38 nhiệm vụ, dự án được thực hiện ở các địa phương vùng TNB.

Tiếp đến, tính đến tháng 6/2019 để thực hiện Chương trình hành động tổng thể

thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững vùng

ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu, thì 13/13 tỉnh, thành phố vùng TNB đã xây

dựng các kế hoạch, đề xuất danh mục các nhiệm vụ của địa phương gửi cho Bộ

TN&MT, để Bộ tổng hợp đưa vào Chương trình hành động tổng thể. Trong đó có

13/13 tỉnh/thành phố đã ban hành Kế hoạch hành động của địa phương thực hiện

Nghị quyết 120/NQ-CP.

Để thúc đẩy các bộ, ngành, cấp ủy, chính quyền các cấp ở địa phương trong

vùng theo chức năng và nhiệm vụ được giao tiếp tục quán triệt và tổ chức triển khai

thực hiện quyết liệt Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg, ngày

5/9/2019 về Đẩy mạnh Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền

vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, trong đó tập trung

triển khai thực hiện các nội dung chính sau: (i) Khẩn trương xây dựng thể chế điều

phối vùng, tạo cơ chế phát triển bền vững ĐBSCL; đẩy mạnh vai trò liên kết vùng

trong việc hoạch định các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế, đầu tư cơ sở hạ tầng,

kết nối sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. (ii) Tăng cường nguồn lực và thu hút các

nguồn vốn hợp pháp (gồm cả nguồn vốn xã hội hóa) trong đầu tư, đề xuất cơ chế tài

chính phù hợp cho phát triển bền vững ĐBSCL; (iii) Đẩy mạnh đào tạo, phát triển

nguồn nhân lực và đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ phục vụ

phát triển bền vững vùng ĐBSCL; (v) Mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế về

PTBV vùng BĐSCL.

Trên cơ sở danh mục các nhiệm vụ do các bộ/ngành và địa phương vùng TNB

đề xuất, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 417/QĐ-TTg ngày13/4/2019

về việc Ban hành Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết 120/NQ-

CP ngày 17/11/2017 về Phát triển bền vững vùng ĐBSCL thích ứng với biến đổi

khí hậu. Chương trình được thiết kế gồm 6 nội dung chính: (i) rà soát, hoàn thiện và

bổ sung hệ thống cơ chế, chính sách; (ii) cập nhật hệ thống hóa số liệu, dữ liệu liên

ngành; (iii) xây dựng quy hoạch, tổ chức không gian lãnh thổ; (iv) xây dựng cơ cấu

kinh tế hợp lý phục vụ nền nông nghiệp thị trường đa dạng, thích ứng với BĐKH;

(v) xây dựng các dự án hạ tầng gắn với thích ứng BĐKH; và (vi) phát triển nguồn

nhân lực, khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế. Trên cơ sở đó, Chính phủ đã xây

dựng 55 đề án, chương trình, dự án, nhiệm vụ ưu tiên, cấp bách cần thực hiện ở 13

105

tỉnh vùng TNB.

Đồng thời, để triển khai thực hiện Quyết định số 2053/QĐ-TTg ngày

28/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa

thuận Paris về biến đổi khí hậu; Công văn số 199/TTg-QHQT ngày 8/2/2017 của

Thủ tướng Chính phủ về Triển khai kết quả Hội nghị COP 22; Công văn số

4126/BTNMT-BĐKH ngày 11/8/2017 của Bộ TN&MT về Xây dựng Kế hoạch

triển khai các nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 2053/QĐ-TTg ngày

28/10/2016, UBND các tỉnh/ thành vùng TNB đã xây dựng và ban hành Kế hoạch

thực hiện Thoả thuận Paris về biến đổi hậu trên địa bàn tỉnh/thành phố giai đoạn

2017-2020 và giai đoạn 2021-2025. Theo đó các Kế hoạch của địa phương được

thiết kế dựa trên khung hướng dẫn thống nhất gồm: (i) mục tiêu kế hoạch; (ii) nội

dung thực hiện: nhiệm vụ giảm nhẹ KNK và nhiệm vụ thích ứng với BĐKH trong

cả hai giai đoạn 2017-2020 và 2021-2025; nhiệm vụ chuẩn bị nguồn lực; nhiệm vụ

xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách; (iii) tổ chức thưc hiện, giao cho Sở

TN&MT làm đầu mối chủ trì, phối hợp với các sở liên quan và UBND huyện, thị

xã, thành phố thực hiện kế hoạch theo thẩm quyền được giao.

Để thực hiện CTMTQG về ứng phó với BĐKH tại địa phương thì Tỉnh ủy,

UBND các tỉnh/thành đã ban hành 325 văn bản quy phạm pháp luật dưới các hình

thức khác nhau: Nghị quyết của Tỉnh ủy; Kế hoạch hành động của Tỉnh ủy và

UBND; Quyết định; Công văn chỉ đạo để thực hiện chính sách ứng phó BĐKH tại

các địa phương [115, tr.10].

Bảng 3.5. Các văn bản được ban hành nhằm thực hiện chính sách BĐKH

ở vùng TNB giai đoạn 2008-2018

Nguồn lực thực hiện

TT

Loại hình văn bản

Số lượng

Có Không

1 Nghị quyết của tỉnh ủy/thành ủy liên quan đến BĐKH

7

X

2 Kế hoạch hành động của Tỉnh ủy và UBND

35

X

3 Chương trình hành động của UBND

26

X

4 Quyết định của UBND

128

X

5 Công văn chỉ đạo điều hành của UBND

129

X

Tổng

325

106

Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu, 2017.

Bảng 3.6. Phân loại văn bản thực hiện chính chính ứng phó với BĐKH ở vùng TNB

TT

Loại hình văn bản chính sách

Số lượng Tỷ lệ (%)

1

Chính sách liên quan đến lĩnh vực thích ứng BĐKH

221

68

2

Chính sách liên quan đến lĩnh vực giảm nhẹ BĐKH

59

18,2

3

45

13,8

Chính sách mang tính tích hợp các hoạt động (thích ứng, giảm nhẹ)

Tổng

325

100

Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2019.

Xét trên lĩnh vực chính sách ứng phó với BĐKH được các địa phương ở vùng

TNB ban hành trong giai đoạn 2008-2018 cho thấy, các chính sách chủ yếu tập trung

vào nội dung thích ứng BĐKH (chiếm 68%), chính sách liên quan đến nội dung giảm

nhẹ BĐKH chỉ chiếm khoảng 18,2%, còn các chính sách liên quan đến vấn đề tích

hợp các hoạt động thích ứng và giảm nhẹ, chiếm tỷ lệ khá khiêm tốn 13,8%.

Bên cạnh đó, dưới sự hỗ trợ của Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển

và bảo vệ hệ sinh thái rừng ngập mặn vùng TNB nhằm thích nghi với BĐKH giai

đoạn 2015-2018, các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau đã

cùng ký kết ban hành “Thỏa thuận thực hiện quy chế phối hợp liên tỉnh”. Với mục

đích nhằm: thiết lập cơ chế phối hợp đồng bộ, hiệu quả giữa các bên liên quan trong

triển khai Chương trình Quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP), giai đoạn 2015-

2018. Tăng cường hiệu quả công tác quy hoạch, xây dựng cơ sở dữ liệu vùng TNB,

bảo vệ các hệ sinh thái ven biển. Quản lý tổng hợp hệ sinh thái rừng ngập mặn ven

biển. Quản lý hiệu quả nguồn nước lưu vực sông liên tỉnh phục vụ phát triển KT-

XH các tỉnh và vùng TNB, thích ứng với BĐKH. Tăng cường liên kết, hợp tác nội

vùng, liên vùng, giữa vùng TNB với các Bộ, ngành Trung ương, tổ chức quốc tế.

Nhằm đẩy mạnh phát triển KT-XH, phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng địa

phương và vùng TNB.

Mặt khác, xuất phát từ yêu cầu phát triển và giải quyết các vấn đề nảy sinh

trong thực tiễn, các địa phương trong vùng cũng đã ký kết song phương với nhau

107

các cam kết về chia sẻ tài nguyên nước và BVMT.

Hộp 3.2: Thỏa thuận hợp tác về quản lý nước ở vùng tứ giác Long Xuyên giữa

An Giang và Kiên Giang, Kiên Giang và tỉnh Campot (Campuchia)

- Xuất phát từ nhu cầu cấp bách của thực tế cần phải phối hợp giữa 2 tỉnh

trong vùng TGLX, cần tối đa hóa hiệu quả thủy lợi trong khi quản lý các vấn đề về

lũ lớn và theo mùa, xâm nhập mặn và các nhu cầu cạnh tranh về nước, trong đó có

các yêu cầu của vùng đất ngập nước. Một mối lo ngại lớn của tỉnh ven biển Kiên

Giang là sự gia tăng xâm nhập mặn từ phía biển. Hiện tượng này có thể được ngăn

chặn nếu có nhiều nước ngọt hơn chảy vào các kênh từ An Giang, theo đó lượng

nước ngọt này có thể đẩy nước mặn trở lại và tràn vào các kênh. Ngoài ra, Kiên

Giang cần có thêm thông tin về thời điểm và lượng nước chảy đến từ An Giang, đặc

biệt là vào thời điểm xả lũ thông qua hệ thống đập Trà Sư để theo đó điều chỉnh lịch

gieo trồng tại địa phương. Ngược lại, phía An Giang là một tỉnh đầu nguồn sông Mê

Kông, phần của Việt Nam cũng cần phối hợp với Kiên Giang để xả lũ thông qua hệ

thống thủy lợi thoát lũ ra biển Tây. Thỏa thuận phối hợp giữa 2 tỉnh này là một

bước đi quan trọng hướng tới một phương pháp tiếp cận chung trong quản lý nước

liên tỉnh. Theo đó, 2 tỉnh đã thỏa thuận quản lý nước có tính chất ràng buộc về mặt

pháp lý nhằm chia sẻ thông tin, phối hợp liên tỉnh trong điều tiết nước, tiến tới thực

hiện quy trình quản lý nước vùng TGLX.

- Tiếp nối các nỗ lực thúc đẩy hợp tác liên tỉnh, UBND tỉnh Kiên Giang đã có

sáng kiến hợp tác xuyên biên giới với tỉnh Kampot (Campuchia) trong lĩnh vực thủy

sản với thỏa thuận xây dựng chi tiết kế hoạch hợp tác nhằm nâng cao quản lý về

đánh bắt và bảo vệ nguồn lợi thủy sản của hai tỉnh trong vịnh Thái Lan.

Nguồn: Trần Hữu Hiệp, 2015 và Tổng hợp của Luận án, 2018.

3.3.2. Tuyên truyền thực hiện chính sách

Tuyên truyền chính sách có ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi chính sách

108

ở các địa phương. Qua kết quả khảo sát của luận án, trong giai đoạn 2011-2018, để góp phần thực hiện CTMTQG về BĐKH, thì hoạt động tuyên truyền chính sách ứng phó BĐKH được các địa phương vùng TNB triển khai khá đa dạng về loại hình và hình thức truyên truyền. Trong đó, tập trung chủ yếu vào các hình thức nâng cao nhận thức bằng cách xây dựng các chương trình phóng sự, phát thanh truyền hình về thiên tai; truyền thông, tập huấn về BĐKH và các mô hình ứng phó BĐKH; hội thi tìm hiểu về BĐKH. (Hình 3.10)

Hình 3.10. Số lượng hoạt động tuyên truyền BĐKH theo loại hình

giai đoạn 2011-2018

Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2011-2015 của 13 tỉnh/thành TNB, 2018.

Vấn đề tuyên truyền chính sách ứng phó với BĐKH được luận án phân tích,

đánh giá dưới các tiêu chí như sau. 3.3.2.1. Về các nội dung tuyên truyền, tập huấn

Hình 3.11. Các nội dung tuyên truyền, tập huấn về ứng phó với BĐKH

Nội dung tuyên truyền và tập huấn về ứng phó BĐKH là một trong những hoạt

động quan trọng trong chiến lược ứng phó với BĐKH của các địa phương. Kết quả

khảo sát của tác giả cho thấy, hoạt động tuyên truyền thực sự làm rất tốt ở nội dung

về các biểu hiện và tác động của BĐKH tới tình hình KT-XH và môi trường. Các mô

hình ứng phó và các chính sách hỗ trợ ứng phó cũng đã được tuyên truyền khá tốt tới

các cấp chính quyền địa phương. Tuy nhiên, các hình thức hỗ trợ trực tiếp thì lại chưa

có nhiều. Điều này cho thấy, hoạt động tuyên truyền mới tập trung vào các hoạt động

nhằm thay đổi nhận thức của cộng đồng chứ chưa thực sự có nhiều hình thức tuyên

109

truyền về mô hình sản xuất thích ứng với BĐKH ở cấp địa phương [88]

Hình 3.12. Đánh giá về các nội dung tuyên truyền ứng phó BĐKH đã được tập

huấn tại các tiểu vùng

Xét ở cấp độ tiểu vùng, ngoài xu thế chung như đã nêu trên thì nội dung tuyên truyền ở các tiểu vùng có sự khác nhau nhất định. Ở hai vùng ĐTM và TGLX hoạt động tập huấn về các mô hình ứng phó dựa vào cộng đồng được triển khai rộng rãi hơn cả khi có tới hơn 80% cán bộ sở và địa phương đã tham gia tập huấn về nội dung này. Trong khi đó, tiểu vùng DHPĐ kém hơn với 63,4%. Một nội dung khác cũng có sự khác biệt lớn giữa các khu vực là các hình thức hỗ trợ ứng phó BĐKH. Mặc dù, còn khá hạn chế với tỷ lệ rất thấp cán bộ đã được tập huấn nhưng BĐCM là tiểu vùng tuyên truyền tốt nhất về nội dung này. [88] 3.3.2.2. Về các hình thức tuyên truyền, tập huấn

Cũng theo kết quả điều tra của luận án cho thấy, hoạt động tuyên truyền, tập huấn vẫn chủ yếu tập trung vào các kênh truyền thống như: tổ chức các lớp tập huấn và các hội thảo có nội dung về ứng phó BĐKH với tỷ lệ tương ứng là 89 % và 86% người tham gia khảo sát đã trải nghiệm hoạt động này. Điều này, cũng có thể được lý giải bằng việc các hình thức này khá dễ tổ chức và có thể cho một số lượng lớn người tham dự. Ở chiều ngược lại, các hoạt động đi thực tế tham quan các mô hình ứng phó hay tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về BĐKH ít được tổ chức hơn [88].

110

Hình 3.13. Các hình thức tuyên truyền về BĐKH

Hình 3.14. Đánh giá về các hình thức tuyên truyền ứng phó BĐKH

đã được tập huấn

Hình 3.15. Đánh giá chung về mức độ hiệu quả của chương trình tuyên truyền,

tập huấn kiến thức về BĐKH

Các chương trình tuyên truyền, tập huấn kiến thức nhìn chung được đánh giá

tốt từ phía người tham gia. Có tới gần 70% người tham gia khảo sát đánh giá các

chương trình này là hiệu quả và rất hiệu quả. Trong đó, các chương trình tuyên

truyền và tập huấn của ĐTM là hiệu quả nhất với 71,66% đánh giá hiệu quả và

1,4% đánh giá rất hiệu quả. Ở chiều ngược lại, DHPĐ là tiểu vùng có các hoạt động

kém hiệu quả nhất khi chỉ có gần 61% cán bộ đã tham gia các hoạt động đánh giá là

hiệu quả [88].

111

Hình 3.16. Đánh giá về mức độ hiệu quả ứng phó BĐKH đã được tập huấn

Bên cạnh đó, Bộ TN&MT, Bộ TT&TT đã phối hợp với Đài truyền hình Việt Nam và Đài tiếng nói Việt Nam, để xây dựng và triển khai Đề án tuyên truyền thực

hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP. Chủ động triển khai các hoạt động tuyên truyền về

PTBV TNB thích ứng với BĐKH, từ năm 2017 đến tháng 12/2019, các cơ quan

thông tấn báo chí đã đăng tải khoảng trên 150.000 tin, bài, hình ảnh phản ánh về chủ đề PTBV vùng TNB thích ứng với BĐKH.

Hộp 3.3: Tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP

Trong năm 2018, Bộ TT&TT đã tổ chức sản xuất và phát sóng 08 chương

trình truyền hình (30 phút/chương trình) trên Kênh truyền hình phủ sóng toàn quốc;

tổ chức sản xuất và phát sóng 25 chương trình phát thanh (10 phút/chương trình)

trên Đài Tiếng nói Việt Nam; Bộ NN&PTNT xây dựng phim và bài báo tuyên

truyền; xây dựng, phổ biến tài liệu nâng cao nhận thức cộng đồng về phát triển rừng

ngập mặn, bảo vệ bãi tại một số tỉnh TNB; Bộ Công Thương tổ chức các chương

trình đào tạo, tập huấn, hội thảo cung cấp thông tin thị trường và nâng cao năng lực

doanh nghiệp; các hội thảo về xúc tiến đầu tư nhằm nâng cao chuỗi giá trị ngành

chế biến nông sản, thực phẩm...

Nguồn: Bộ TN&MT, 2019.

3.3.3. Triển khai thực hiện chính sách

3.3.3.1. Hình thành tổ chức thực hiện chính sách

Để triển khai thực thi chính sách, căn cứ vào những văn bản Quyết định

158/2008/QĐ-TTg ngày 2/12/2008; Quyết định1183/QĐ-TTg ngày 30/8/2012;

Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương. UBND các tỉnh/thành

phố trực thuộc Trung ương ở vùng TNB thành lập BCĐ cấp tỉnh về thực hiện

CTMTQG ứng phó BĐKH và NBD (BCĐ 158). Xây dựng và ban hành Quy chế

hoạt động của BCĐ, thành viên của BCĐ bao gồm lãnh đạo UBND tỉnh làm trưởng

ban, Giám đốc Sở TN&MT làm phó ban thường trực, thành viên là lãnh đạo các

sở/ngành và một số lãnh đạo UBND huyện, thị xã, thành phố (thuộc tỉnh). Để giúp

việc cho BCĐ 158 các địa phương đã hình thành Văn phòng thường trực BCĐ đặt

tại Sở TN&MT. Cơ cấu của Văn phòng có Tổ giúp việc cho BCĐ, tổ giúp việc hoạt

động theo chế độ kiêm nhiệm. Ngoài ra còn có Tổ chuyên gia kỹ thuật ở các ngành

liên quan cùng phối hợp làm việc. Nhiệm vụ của BCĐ là phối hợp hành động với

112

các địa phương cùng với các viện, trường, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức

Chính phủ các nước và tổ chức quốc tế xây dựng một Chương trình hành động ứng

phó với BĐKH ở các cấp tỉnh/thành, tổ chức các lớp tập huấn, tuyên truyền về

BĐKH và thực hiện các dự án liên quan với BĐKH. Và hướng dẫn lồng ghép

BĐKH vào Chiến lược và Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH địa phương.

Bảng 3.7. Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách BĐKH ở các địa phương

TT

Cơ cấu tổ chức

Cán bộ biên chế

Tỉnh/thành phố

1

Long An

Văn phòng BCĐ 158 Phòng Khoáng sản, TNN và KTTV

Kiêm nhiệm, thuộc sở TN&MT

2

Tiền Giang Phòng TNN, KS và

Biển

Kiêm nhiệm, thuộc sở TN&MT

3

Bến Tre

4

Trà Vinh

Phòng KTTV&BĐKH Văn phòng BĐKH tỉnh Trà Vinh

5 Đồng Tháp

Chi

1 cán bộ chuyên trách về KTTV và BĐKH 1 cán bộ chuyên trách về KTTV và BĐKH 1 cán bộ kiêm nhiệm về BĐKH 8 cán bộ, trong đó có 5 cán bộ chuyên trách. 1 cán bộ kiêm nhiệm - 2 Cán bộ chuyên trách

Kiêm nhiệm, thuộc sở TN&MT Chuyên trách Thuộc Sở TN&MT, có con dấu tài khoản - Kiêm nhiệm, thuộc Sở TN&MT - Chi Cục thuỷ lợi-Sở NN&PTNT, có con dấu, tài khoản

6

Cần Thơ

5 cán bộ chuyên trách

- Giai đoạn 2011- 2015, cục BVMT - Năm 2016 Ban Chỉ đạo Ứng phó với BĐKH, PCTT và TKCN tỉnh Văn phòng Công tác Biến đổi khí hậu thành phố Cần Thơ

7 Hậu Giang Phòng KTTV và

1 cán bộ

8 An Giang

BĐKH Phòng TNN BĐKH

9 Kiên Giang Phòng KTTV và

BĐKH 11 Sóc Trăng Phòng

TNN, và

sản

Chuyên trách, trực thuộc Sở TN&MT, có con dấu, tài khoản Kiêm nhiệm, thuộc Sở TNMT Kiêm nhiệm thuộc Sở NT&MT Kiêm nhiệm, thuộc Sở TN&MT Kiêm nhiệm, thuộc Sở TN&MT

1 cán bộ kiêm nhiệm 01 cán bộ kiêm nhiệm 01 cán bộ kiêm nhiệm

12 Bạc Liêu

13 Cà Mau

Khoáng KTTV Phòng TNN, BĐKH và Biển Phòng KTTV và BĐKH

Kiêm nhiệm, thuộc Sở TN&MT Kiêm nhiệm, thuộc Sở TN&MT

01 cán bộ kiêm nhiệm 01 cán bộ kiêm nhiệm

113

Nguồn: Tổng hợp của Luận án, 2019.

Nhìn vào bảng 3.7. trên cho thấy cấu trúc phối hợp theo chiều ngang và cấu

trúc quản trị, thể chế điều phối về BĐKH ở các địa phương vùng TNB hiện nay

đang là vấn đề cần phải cải thiện trong giai đoạn thực hiện Chiến lược quốc gia về

BĐKH và Tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020. Năm 2014, Bộ Nội vụ và Bộ TN&MT đã thông qua Thông tư liên tịch liên Bộ,13nhằm bổ sung BĐKH vào trách

nhiệm của Sở TN&MT cấp tỉnh. Quy chế ra đời đã tạo một thể chế chính thức quan

trọng cho BĐKH ở cấp tỉnh, có thể được cấp thêm biên chế và ngân sách từ Trung

ương. Tuy nhiên, việc giao nhiệm vụ này cho duy nhất Sở TNMT, dẫn đến những

hạn chế lớn trong việc lập kế hoạch và hành động ứng phó với BĐKH của nhiều

bên liên quan. Trong đó, sở TN&MT không có cơ chế để can thiệp vào việc lựa

chọn kế hoạch và đầu tư cho các dự án, nhiệm vụ BĐKH do các sở khác chủ trì.

Đồng thời có đến 10/13 tỉnh, thành phố, Văn phòng giúp việc cho BCĐ 158,

được giao cho 1 phòng thuộc Sở TN&MT, hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm,

không có địa vị pháp lý rõ ràng, không có tài khoản kho bạc, con dấu. Có 3 địa

phương thành lập Văn phòng giúp việc cho BCĐ theo hình thức chuyên trách, có

địa vị pháp lý, có con dấu, tài khoản riêng, trong đó, Văn phòng ở tỉnh Trà Vinh, Tp

Cần Thơ trực thuộc Sở TN&MT, Đồng Tháp trực thuộc Sở NN&PTNT. Các Văn

phòng có nhiệm vụ: (i) Giúp BCĐ 158 trong việc điều phối và triển khai các dự án

liên quan đến BĐKH trong và ngoài nước, thực hiện hợp tác trong nước và quốc tế

trong lĩnh vực BĐKH, tìm kiếm nguồn tài trợ để nâng cao năng lực quản lý và ứng

phó với BĐKH; (ii) Tham mưu, đề xuất trình BCĐ 158 trong việc triển khai thực

hiện các chính sách, hoạt động, kế hoạch điều phối, quản lý ngân sách liên quan đến

các hoạt động ứng phó BĐKH; (iii) Soạn thảo, trình Trưởng BCĐ 158 phê duyệt

thực hiện các đề tài, dự án và giới thiệu lựa chọn các cơ quan, đơn vị phù hợp chức

năng, nhiệm vụ và đủ năng lực thực hiện các đề tài, dự án ứng phó BĐKH tại

tỉnh/thành phố; (iv) Phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan để thực hiện

nhiệm vụ liên quan đến hoạt động ứng phó BĐKH; (v) Thực hiện các dự án,

chương trình truyền thông, nâng cao nhận thức về BĐKH. Dù có địa vị pháp lý,

nhưng cả 3 Văn phòng đang gặp phải thách thức rất lớn đó là, cơ cấu tổ chức chỉ

13 Thông tư số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV, ngày 28/8/2014, Hướng dẫn chức năng, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở TN&MT thuộc UBND tỉnh/thành phố, Phòng TN&MT thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.

114

tương đương với 1 Phòng trực thuộc sở, nên không đủ năng lực và thẩm quyền để

phối hợp với các sở/ngành trong triển khai thực hiện chính sách về BĐKH tại địa

phương vùng TNB.

3.3.3.2. Thực hiện các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu

a. Các hoạt động thích ứng với BĐKH

BCĐ 158 cấp tỉnh/thành phố đã xây dựng và thực hiện các chương trình, dự

án, nhiệm vụ ứng phó với BĐKH ở vùng TNB. Trong giai đoạn 2011-2015,

CTMTQG về ứng phó với BĐKH đã có 18 dự án do Trung ương chủ trì được thực

hiện trên địa bàn vùng TNB với kinh phí tương ứng là hơn 3.476 tỷ đồng; và có 37

dự án do địa phương chủ trì với tổng kinh phí thực hiện là 2.560 tỷ đồng. Bên cạnh

đó, Chương trình hỗ trợ ứng phó với BĐKH (SP-RCC) đã có 7/16 dự án được thực

hiện ở TNB với số vốn được cấp là hơn 2.301 tỷ đồng14 [146]. Trong đó, các dự án

tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thích ứng BĐKH chiếm khoảng 2.221 tỷ, hầu hết là

các dự án xây dựng công trình hạ tầng ứng phó BĐKH. Trong khi đó nguồn lực tài

chính dành cho dự án liên quan đến giảm nhẹ BĐKH là rất hạn chế, chỉ khoảng 80

tỷ đồng (chủ yếu tập trung vào xây dựng chính sách, nghiên cứu khoa học, truyền

thông cho tiết kiệm năng lực, mô hình NLTT quy mô cấp hộ gia đình...). Từ các số

liệu về phân bổ nguồn lực cho ứng phó với BĐKH ở vùng TNB, cho thấy hoàn toàn

tương thích với nhận định ở chương II, ở các nước đang phát triển như Việt Nam,

thì các hoạt động ứng phó với BĐKH tập trung vào các hoạt động thích ứng với

BĐKH là chủ yếu.

Bảng 3.8. Các dự án thuộc CTMTQG ứng phó với BĐKH ở vùng TNB trong

giai đoạn 2011 - 2017

Vùng Tây Nam Bộ

Lĩnh vực dự án (tỷ đồng)

Danh mục các dự án

Số lượng

Số lượng

Thích ứng BĐKH

Giảm nhẹ BĐKH

Tổng tiền (tỷ đồng)

Các bộ, ngành

122

18

3.476

3.198

278

Các địa phương

101

37

2.560,0

2.475

85

14 Bao gồm các Tổ chức quốc tế sau: cơ quan phát triển Pháp (AFD), Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Ngân hàng Thế giới (WB), Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Cơ quan Hợp tác phát triển Đức (GIZ), Cơ quan phát triển quốc tế Úc USAID…

115

Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu, 2018.

Bảng 3.9. Các dự án thuộc Chương trình hỗ trợ ứng phó với BĐKH vùng TNB giai đoạn 2011-2017

Vùng TNB

Lĩnh vực dự án (tỷ đồng)

Danh mục dự án

Số lượng

Thích ứng BĐKH

Giảm nhẹ BĐKH

Tổng tiền (tỷ đồng)

Các dự án ưu tiên

17

6.605

Các dự án đã được bố trí vốn

7

2.301

2.221

80

Nguồn: Cục Biến đổi khí hậu, 2018.

Tính tổng trong giai đoạn 2011-2018 vùng TNB đã huy động được 12.879 tỷ

đồng15cho các chương trình, dự án, nhiệm vụ ứng phó với BĐKH. Trong đó nguồn

vốn cho các hoạt động ứng phó với BĐKH là 11.923 tỷ đồng, còn nguồn lực tài

chính cho các hoạt động giảm nhẹ BĐKH khoảng 956 tỷ đồng. Phân chia nguồn lực

ứng phó với BĐKH theo các tiểu vùng ST-XH cũng cho thấy: tiểu vùng DHPĐ là

2.078 tỷ, tiểu vùng TGLX 7.145 tỷ đồng, tiểu vùng ĐTM là 1.729 tỷ đồng, còn tiểu

vùng BĐCM là 1.927 tỷ đồng. Xét trên khía cạnh đầu tư cho BĐKH tại các tiểu

vùng có thể nhận thấy bức tranh chung hiện nay, các nguồn lực vẫn chủ yếu đầu tư

cho các hạng mục về xây dựng CSHT phục vụ ứng phó với BĐKH. Tiểu vùng

DHPĐ chiếm 65,5%, tiểu vùng TGLX chiếm 93,9%, tiểu vùng ĐTM chiếm 81,9%,

15 Kể cả huy động các nguồn lực đóng góp từ các tổ chức NGOs.

116

tiểu vùng BĐCM chiếm 76% [88].

Hình 3.17. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH ở tiểu vùng DHPĐ

Hình 3.18. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH ở tiểu vùng TGLX

Hình 3.19. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH ở tiểu vùng ĐTM

Hình 3.20. Số lượng và giá trị các dự án ứng phó với BĐKH ở tiểu vùng BĐCM

b. Hoạt động giảm nhẹ tác động BĐKH

Hiện nay song hành với các chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ về

117

ứng phó với BĐKH, đã có nhiều sáng kiến, dự án, mô hình thích ứng với BĐKH đã

được triển khai. Các sáng kiến chương trình, dự án này này có thể được hiện bởi

Chính phủ, cộng đồng người dân, doanh nghiệp tư nhân và từ các tổ chức quốc tế,

tổ chức phi chính phủ... Nhằm mục đích chia sẻ lợi ích từ tài nguyên thiên nhiên,

cùng quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên giữa các nhóm đối tượng, như: Nhà

nước, doanh nghiệp, người dân, nhà khoa học, các nhóm cộng đồng bị ảnh hưởng

bởi BĐKH. Để nhằm giúp cho các nhóm cộng đồng bị ảnh hưởng có sinh kế bền

vững nhằm ứng phó tốt hơn với BĐKH. Thực tế trong thời gian qua những mô hình

ứng phó với BĐKH dựa vào cộng đồng, bước đầu đã mang lại những thành công

nhất định: Ví dụ: trong lĩnh vực trồng trọt, năng lượng tái tạo…

Để giảm thiểu phát thải KNK trong sản xuất lúa ở ĐBSCL, nhiều mô hình

canh tác tiên tiến đang được thử nghiệm như, mô hình canh tác lúa theo quy trình “1

phải - 6 giảm” (1P-6G), do Viện Nghiên cứu Phát triển ĐBSCL xây dựng năm

2010. “1 phải” là phải sử dụng hạt giống chất lượng cao được cơ quan có thẩm

quyền chứng nhận, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng; “6 giảm” là (i) giảm lượng hạt

giống, (ii) giảm lượng phân đạm, (iii) giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, (iv) giảm

lượng nước tưới, (v) giảm thất thoát sau thu hoạch, (vi) giảm phát thải KNK. Mô

hình được các hộ nông dân ở một số địa phương vùng TNB đưa vào canh tác, như:

(An Giang, Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên Giang). Sau khi áp dụng mô

hình đã nâng cao chất lượng lúa gạo, tăng giá trị, tiết kiệm nguồn nước, giảm phát

thải KNK. Đến nay, ở vùng TNB đã có khoảng hơn 6.800 hộ nông dân với diện tích

khoảng 64.000 ha, áp dụng mô ứng dụng kỹ thuật trong canh tác lúa, tăng năng

suất, và giảm phát thải. Đặc biệt, giảm phát thải KNK, khí CO và CH [95]. Trong

sản xuất lúa, lượng phát thải được kiểm kê là CH4 và NO2 thay đổi theo thời kỳ

sinh trưởng và các vùng sinh thái. Khi áp dụng mô hình “1 phải-6 giảm”giảm phát

thải CH trung bình 11,3 tấn COe/ha/vụ và giảm được 11 tấn CO e/ha/vụ [95].

Theo nghiên cứu của Viện Năng lượng cho thấy, tiềm năng năng lượng gió

ven biển vùng TNB ở độ cao 80 m mạnh khoảng 5,5 - 6m/s. Tiềm năng khai thác

năng lượng gió ven bờ biển có thể đạt từ 1.200 - 1.500 MW. Năng lượng sinh khối

dồi dào từ nguồn phụ phẩm nông nghiệp khoảng trên 23 triệu tấn/năm, trong đó

khoảng trên 3,8 triệu tấn trấu, gần 17 triệu tấn rơm rạ, hơn 372.000 tấn bắp và gần

1,4 triệu tấn bã mía [177]. Do đó, việc quy hoạch và đi vào xây dựng, vận hành của

một số dự án điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, nhằm phát triển nguồn năng

118

lượng xanh ở vùng TNB, đã được các địa phương triển khai tức cực. Hiện có 4 dự

án đã và đang hoạt động với tổng công suất gần 185 MW tại Bạc Liêu 1,2 và Trà

Vinh, Sóc Trăng, đã được đưa vào quy hoạch: Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà

Mau. Có 3 dự án điện gió đang xây dựng điện gió Khai Long 1,2 ở tỉnh Cà Mau. Và

gần 40 dự án điện gió, mặt trời được đưa vào quy hoạch ở các tỉnh vùng TNB. Bên

cạnh, các dự án điện gió, thì vùng TNB cũng có một số nhà máy điện sinh khối

đang hoạt động: Nhà máy đốt vỏ trấu Hậu Giang; Nhà máy điện KCN Trà Nóc 2-

Cần Thơ; Nhà máy đốt trấu Vọng Đông, huyện Thoại Sơn, An Giang [177]. (xem

thêm phụ lục 8)

3.2.3.3. Nguồn lực từ ODA cho ứng phó với biến đối khí hậu

Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2011-2018, nguồn vốn viện trợ ODA từ các tổ

chức Ngân hàng Thế giới (WB), Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP),

Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Tổ chức phát triển quốc tế Đức (GIZ), Cơ

quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Cơ quan phát triển Quốc tế Úc (Aus

AID), Quỹ Phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD)...hỗ trợ cho các dự án liên quan đến ứng phó với BĐKH cho vùng TNB là khoảng hơn 764 triệu USD.16Xét trên

khía cạnh các lĩnh vực hoạt động các dự án, có thể phân loại như sau:

a. Hoạt động thích ứng với BĐKH

Dự án Phát triển thành phố Cần Thơ và tăng cường khả năng thích ứng của đô

thị, với số vốn 250 triệu USD vay từ Ngân hàng Thế giới (World Bank). Với mục

tiêu chính của dự án là nhằm phát triển đô thị bền vững, tăng cường khả năng thích

ứng với BĐKH cho thành phố Cần Thơ, hỗ trợ thành phố Cần Thơ trở thành trung

tâm và động lực phát triển KT-XH cho vùng TNB; giảm sự tổn thương do ngập lụt

tại trung tâm thành phố Cần Thơ và cải thiện hệ thống giao thông kết nối giữa các

khu vực nội vùng và liên vùng [146].

Dự án Nông nghiệp thích ứng BĐKH vùng ĐBSCL tại Trà Vinh và Bến Tre

được thực hiện trong giai đoạn 2014-2020, do Quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế

tài trợ, với tổng nguồn vốn đầu tư của dự án là 1.034 tỷ đồng. Mục tiêu củadự án là

xây dựng sinh kế bền vững cho người nghèo ở nông thôn trong điều kiện BĐKH;

nâng cao năng lực thích ứng của cộng đồng để tăng cường khả năng ứng phó với

BĐKH [146].

Kế đến là dự án Chống chịu khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững vùng đồng

119

bằng sông Cửu Long, với tổng số vốn 310 triệu USD từ nguồn vốn vay của Ngân 16 Số liệu tính toán của NCS (2018), Tổng hợp từ các nguồn: Bộ NN&PTNT, Bộ TN&MT, Bộ Xây dựng, Bộ KH&ĐT và các Bộ/ngành khác.

hàng Thế giới, được thực hiện trong giai đoạn (2016-2021). Với mục tiêu: Tăng

cường các công cụ lập quy hoạch, kế hoạch thích ứng với BĐKH, nâng cao khả

năng chống chịu với BĐKH cho các hoạt động quản lý tài nguyên đất và nước tại

khu vực TNB. Dự án gồm 05 hợp phần: (i) tăng cường công tác giám sát, phân tích

và hệ thống cơ sở dữ liệu; (ii) quản lý lũ vùng thượng nguồn; (iii) thích ứng với

chuyển đổi độ mặn ở vùng cửa sông; (iv) bảo vệ khu vực bờ biển vùng bán đảo; (v)

và hỗ trợ quản lý và thực hiện dự án.

b. Hoạt động giảm nhẹ ảnh hưởng của BĐKH

- Chương trình Kế hoạch đồng bằng sông Cửu Long: Tầm nhìn và chiến lược dài hạn,17Chính phủ Hà Lan và Chính phủ Việt Nam đã tổ chức Hội nghị cấp cao về

phối hợp hỗ trợ phát triển tổng hợp TNB tháng 6/2014, đã thống nhất một số tuyến

vấn đề quan trọng sau:

i) Chủ trương ứng phó với BĐKH và phát triển KT-XH của khu vực TNB

gồm: phát huy cao nhất, tiềm năng, lợi thế so sánh của các địa phương trong vùng,

đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, ứng dụng khoa học công nghệ; chuyển đổi mô hình

tăng trưởng theo hướng phát triển theo chiều sâu gắn với đảm bảo an ninh lương

thực quốc gia…

ii) Phát triển đồng bộ hệ thống các đô thị, khu dân cư và hệ thống kết cấu hạ

tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo hướng thân thiện với môi trường sinh thái gắn với

đồng ruộng, miệt vườn, sông nước và biển đảo.

iii) PTBV, gắn phát triển KT-XH với sử dụng tiết kiệm tài nguyên, BVMT

sinh thái; có các giải pháp chủ động phòng tránh và ứng phó với BĐKH và NBD;

kết hợp chặt chẽ giữa phát triển KT-XH với bảo đảm quốc phòng an ninh, an ninh

nguồn nước và an ninh lương thực.

iv) Tiếp cận tổng thể mang tính chất liên vùng và liên ngành trong phát triển

KT-XH toàn vùng TNB, hình thành cơ chế phối hợp đồng bộ theo chiều ngang giữa

các địa phương và theo chiều dọc giữa các cơ quan Trung ương và địa phương [60].

Nổi bật là Chương trình ICMP/CCCEP được thực hiện trong 2 giai đoạn giai

đoạn 1 (2011-2014), giai đoạn 2 (2015-2018) có tổng vốn thực hiện hơn 25 triệu

17 Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Hà Lan đã ký Thỏa thuận Đối tác chiến lược về thích ứng với biến đổi khí hậu và quản lý nước (tháng 10/2010). Kế hoạch đồng bằng sông Cửu Long đã được xây dựng theo Thỏa thuận này.

120

triệu Euro được Chính phủ Cộng hòa liên bang Đức và Chính phủ Australia đồng

tài trợ, cùng nguồn vốn đối ứng trong nước. Bộ NN&PTNT là cơ quan chủ quản

vàđược thực hiện tại 5 tỉnh: An Giang, Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà

Mau. Căn cứ vào nhu cầu cụ thể của từng tỉnh, Chương trình thực hiện các hoạt

động ưu tiên như: quy hoạch và quản lý các hệ sinh thái ven biển; tăng cường quản

lý tổng hợp hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển có lồng ghép thích ứng BĐKH,

NBD; bảo vệ sông ngòi, quản lý nguồn nước; bảo tồn đa dạng sinh học, góp phần

nâng cao nhận thức về môi trường, BĐKH và NBD. Từ kết quả của các dự án hợp

phần cấp tỉnh được dự án hợp phần cấp Trung ương sử dụng để xây dựng đề xuất

khung chính sách, thể chế và pháp lý cho công tác quản lý liên ngành, đồng bộ về

rừng ngập mặn, các khu đất ngập nước và hệ sinh thái vùng ven biển nói chung

nhằm thích ứng với BĐKH ở vùng TNB.

Trong giai đoạn 1 (2011-2014): nhiều hoạt động phong phú đã được Chương

trình triển khai thực hiện, bao gồm: hỗ trợ hoạch định và xây dựng chính sách cho

ngành nông lâm nghiệp, thủy lợi trong việc thích nghi và ứng phó với BĐKH; xây

dựng các mô hình điểm về các giải pháp kỹ thuật bảo vệ bờ biển, phục hồi rừng ngập

mặn ven biển, quản lý rừng cộng đồng; các mô hình cải thiện sinh kế, các hỗ trợ về

điều tra khảo sát nghiên cứu [34], [35], [36]… đã mang lại hiệu quả thiết thực.

Chương trình hỗ trợ các tỉnh trong việc thiết lập và cải thiện các lĩnh vực quản lý mang tính đa ngành trong quá trình thực tế về phục hồi các hệ sinh thái ven biển.18

Giai đoạn 2 (2015-2018): dự án mở rộng tập trung vào bảo vệ, phục hồi hệ

sinh thái rừng ngập mặn đặc trưng ở các tỉnh ven biển, gồm: Tiền Giang, Bến Tre,

Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang, trong đó, chú trọng tập

trung hình thành thể chế vượt ra ngoài ranh giới hành chính của một tỉnh. Tương tự,

nguồn tài nguyên thiên nhiên, mạng lưới sông ngòi, CSHT thủy lợi, giao thông đều

mang tính kết nối vùng. Trong bối cảnh như vậy, việc thực hiện các can thiệp kỹ

thuật, thể chế chính sách hay sinh kế… ở một tỉnh sẽ phụ thuộc rất nhiều (thậm chí

mang tính quyết định) vào sự phối kết hợp của các tỉnh liên quan.

3.3.3.4. Các hoạt động triển khai thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP

Sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 về

18 Kết quả đã có hơn 600ha rừng ngập mặn ven biển mang tính tiếp nối, liên tỉnh được phục hồi và trồng mới. Hơn 10 km hàng rào bảo vệ và ổn định bờ biển chi phí thấp tại những khu vực xung yếu được xây dựng tại An Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Kiên Giang; 22 mô hình sinh kế được hỗ trợ và tác động tới hơn 3.500 nông dân.…

121

Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, các

bộ/ngành, địa phương vùng TNB đã cùng với các đối tác phát triển, tổ chức quốc tế

chung tay thực hiện được một số hoạt động như sau:

a. Tháo gỡ khó khăn về vốn

Điểm nghẽn về nguồn vốn bước đầu đã được Chính phủ quan tâm giải quyết

cho vùng TNB. Tổng số vốn đầu tư qua địa phương trong kế hoạch đầu tư công

trung hạn giai đoạn 2016-2020 (chưa bao gồm 10% dự phòng) là 193.967,151 tỷ

đồng chiếm 16,53% so với cả nước. Vốn bổ sung cho các dự án xử lý sạt lở cấp

bách nguy hiểm là 2.500 tỷ đồng. Đồng thời trong khuôn khổ Chương trình mục

tiêu BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020, đã giao 3.700 tỷ đồng từ

nguồn ngân sách Trung ương cho 20 dự án tại vùng TNB [11].

b. Đầu tư cho hoạt động thích ứng với BĐKH trên quan điểm Nghị quyết

120/NQ-CP

- Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, điều chỉnh, bổ sung một số cơ chế, chính

sách thuộc Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ

ĐBSCL giai đoạn 2018-2020, tiếp tục đầu tư xây dựng bổ sung các cụm, tuyến dân

cư, đắp bờ bao khu dân cư có sẵn cho các địa phương: Đồng Tháp, An Giang, Kiên

Giang, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang và thành phố Cần Thơ.

- Hoàn thành Dự án Điều tra, đánh giá hiện trạng dự báo tai biến xói, sạt lở

phục vụ công tác quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường dải ven biển từ Tiền

Giang đến Kiên Giang.

- Các chương trình ứng phó với BĐKH, phòng chống thiên tai, khắc phục sụt

lún, sạt lở bờ sông bờ biển, đang được triển khai thực hiện tập trung vào những vấn

đề cấp bách. Đã hoàn thành việc khảo sát xác định 564 điểm sạt lở với tổng chiều

dài trên 834km, trong đó, 57 điểm sạt lở đặc biệt nguy hiểm (sạt lở gây nguy hiểm

trực tiếp đến khu tập trung dân cư và cơ sở hạ tầng quan trọng) tổng chiều dài

170km. Chương trình Mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH và Chương trình Hỗ

trợ ứng phó với BĐKH hỗ trợ 28 dự án. Chương trình mục tiêu ứng phó với BĐKH

và tăng trưởng xanh hỗ trợ 20 dự án. Xử lý sạt lở cấp bách bờ sông, bờ biển, đoạn

sụt lún, sạt lở trọng điểm; xây dựng bản đồ sạt lở, bố trí ngân sách xây dựng công

trình phòng chống sạt lở, ưu tiên 36 dự án cấp bách. Các địa phương vùng TNB

cũng triển khai các dự án đầu tư nâng cấp đê biển kết hợp xây dựng hệ thống ngăn

mặn, trữ ngọt...

- Đối với các công trình, dự án thủy lợi, Chính phủ đã đầu tư xây dựng nhiều

122

dự án như: dự án Quản lý nước tỉnh Bến Tre; dự án Hệ thống thủy lợi Bắc Bến Tre

giai đoạn 1; dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé - giai đoạn 1; dự án Hệ thống

thủy lợi tiểu vùng II, III, V Cà Mau; dự án Cống âu thuyền Ninh Quới; dự án Tha

La, cống Trà Sư; các dự án hạ tầng thủy sản, cảng cá, khu neo đậu tránh bão cho

khu vực TNB. Bước đầu chuyển đổi nền nông nghiệp thích ứng BĐKH qua việc

hình thành hệ thống đê ngăn mặn, kiểm soát triều cường, sóng cao và đang nâng

dần lên khả năng chống chọi với nước dâng do bão, lũ, phát huy tốt hiệu quả trong

kiểm soát mặn [19].

- Các địa phương vùng TNB cũng triển khai các dự án đầu tư hạ tầng có quy mô lớn như: nâng cấp đê biển kết hợp xây dựng hệ thống ngăn mặn từ cầu Mỹ Thanh 2, thuộc tỉnh Sóc Trăng đến tỉnh Bạc Liêu với tổng kinh phí 263,564 tỷ đồng; xây dựng hệ thống cống ngăn mặn và kênh trục thủy lợi tạo nguồn, trữ ngọt các địa bàn xung yếu, tỉnh Sóc Trăng với tổng kinh phí 152,865 tỷ đồng. Tỉnh Vĩnh Long đã đầu tư hơn 2.000 tỷ đồng để xây dựng hơn 1.300 công trình kết cấu hạ tầng thủy lợi để ứng phó BĐKH…[19].

- Việc xây dựng bổ sung các cụm, tuyến dân cư, đắp bờ bao khu dân cư có sẵn vùng ngập lũ ĐBSCL được Chính phủ tiếp tục cho phép đầu tư để đảm bảo người dân vùng ngập lũ ĐBSCL được sống an toàn, ổn định. Hiện nay, 4 tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Hậu Giang đang triển khai thủ tục đầu tư xây dựng bổ sung 49 cụm tuyến dân cư để di dời khoảng 13.000 hộ, với kinh phí 3.000 tỷ đồng từ ngân sách địa phương; Tiền Giang triển khai xây dựng bổ sung 10 bờ bao khu dân cư có sẵn với tổng chiều dài 56,5 km, kinh phí dự kiến 87,8 tỷ đồng [19].

c. Đầu tư cho hoạt động giảm nhẹ BĐKH Hiện nay, mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn phục vụ dự báo, cảnh báo thiên tai, điều tra cơ bản tài nguyên môi trường do Đài KTTV khu vực Nam Bộ quản lý có 29 trạm khí tượng thủy văn, 182 trạm thủy văn, 131 điểm đo mưa tự động, được đầu tư các trang thiết bị quan trắc hiện đại, phục vụ đắc lực công tác dự báo, cảnh báo thiên tai, cung cấp thông tin dữ liệu khí tượng thủy văn cho các sở, ban ngành thuộc khu vực ĐBSCL. Thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ, Tổng cục KTTV xây dựng kế hoạch thực hiện các nhiệm vụ, dự án nhằm tăng cường công tác dự báo, cảnh báo, giám sát thiên tai tại ĐBSCL như:

- Xây dựng, đưa vào hoạt động trạm Radar thời tiết Nhà Bè, góp phần quan trọng trong công các dự báo, cảnh báo sớm các hiện tượng thiên tai như mưa lớn, dông, lốc ở khu vực Nam Bộ.

- Dụ án Phát triển mạng lưới trạm, điểm đo mưa, đo mặn phục vụ dự báo khí

123

tượng thủy văn, đã lắp đặt tăng cường 49 điểm đo mưa cho khu vực Nam Bộ.

- Dự án Tăng cường năm lực cảnh báo, giám sát lũ lụt ĐBSCL thuộc dự án

“Quản lý rủi ro thiên tai” sử dụng vốn ODA của Ngân hàng Thế giới, đầu tư 12

trạm quan trắc khí tượng tự động và 89 trạm quan trắc thủy văn tự động; 13 trạm

truyền sóng trung gian đảm bảo thu thập đầy đủ dữ liệu truyền tức thời, liên tục

phục vụ kịp thời công tác dự báo khí tượng thủy văn, phòng tránh và giảm nhẹ thiên

tai ở ĐBSCL.

- Xây dựng hệ thống giám sát nguồn nước dự báo, cảnh báo hạn hán và xâm

nhập mặn vùng ĐBSCL thuộc đề án Điều tra, đánh giá tổng thể nguồn nước, dự

báo, cảnh báo phòng chống khô hạn, xâm nhập mặn thích ứng với biến đổi khí hậu

khu vực ĐBSCL.

- Rà soát và cập nhật số liệu, dữ liệu khí tượng, thủy văn, hải văn và bùn cát

vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

- Nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống quan trắc, giám sát, cảnh báo và dự báo khí

tượng thủy văn, bùn cát, hải văn [120].

Tuy nhiên, sau gần hai năm Nghị quyết 120/NQ-CP được ban hành, việc hiểu

và triển khai Nghị quyết này vào thực tiễn vẫn còn nhiều lúng túng, bất cập ở cấp

quản lý chính quyền lẫn các bộ/ngành ở Trung ương và địa phương.

(i) Phần lớn cộng đồng, người dân và doanh nghiệp chưa biết hoặc chưa hiểu

rõ tinh thần của Nghị quyết. Tư duy ưu tiên chọn giải pháp công trình ở các

bộ/ngành và các địa phương vẫn nặng hơn các chọn lựa giải pháp phi công trình.

(ii) Dù Nghị quyết đã xác định xoay trục ba trụ cột ưu tiên trong sản xuất nông

nghiệp ở TNB là thủy sản - trái cây - lúa gạo thì nguồn lực tài chính vẫn tập trung

nhiều cho các hệ thống công trình thủy lợi cho mục tiêu thoát lũ, ngăn mặn, duy trì

canh tác lúa.

(iii) Ngoài ra, Nghị quyết chưa có văn bản hướng dẫn những luận giải cụ thể

khái niệm “chủ động thích ứng”, do đó, phải có công trình thì mới chủ động thích

ứng được.

(iv) Hơn nữa, Nghị quyết ra đời khi danh mục các dự án đầu tư công trung hạn

2016-2020 cho vùng TNB đã được Quốc hội thông qua. Do đó, rất khó khăn trong

việc bố trí nguồn vốn để thực hiện Nghị quyết tại vùng, nên chủ yếu hiện nay vẫn là

lồng ghép, tích hợp vào các chương trình mục tiêu khác đang triển khai trên địa bàn.

(v) Mặc khác, một số cán bộ địa phương xem Nghị quyết chỉ là một định

hướng phát triển, chưa phải là một quy định pháp lý ràng buộc phải thực hiện, nên

124

tất cả các địa phương chỉ xây dựng kế hoạch thực hiện mang tính hình thức [136].

3.3.4. Phối hợp giữa các chủ thể trong việc thực hiện chính sách

Sau khi được thành lập BCĐ 158 đã xây dựng và ban hành quy chế thực hiện

Chương trình 158. Trong đó, Sở TN&MT được giao là cơ quan thường trực của

BCĐ 158, có vai trò chủ trì phối hợp với các sở/ngành và địa phương liên quan

trong việc triển khai các dự án, nhiệm vụ BĐKH ở trên địa bàn. Để thực hiện

CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2011-2015 và xây dựng kế hoạch giai

đoạn 2016-2020, BCĐ 158 đã gửi Công văn yêu cầu các sở/ngành và cấp huyện, thị

xã, thành phố đề xuất các dự án, nhiệm vụ cấp bách cần thực hiện, về ứng phó với

BĐKH thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của mình. Trên cơ sở đó, Sở TN&MT sẽ

tổng hợp lại đề xuất của các sở/ngành và địa phương, để tham mưu cho BCĐ 158

thành lập Hội đồng đánh giá, lựa chọn ra các danh mục dự án, nhiệm vụ cấp bách

và đề xuất kinh phí dự kiến trong giai đoạn 2011-2015. Trên cơ sở danh mục dự án,

nhiệm vụ, kinh phí đề xuất do BCĐ 158 lựa chọn để thực hiện trong giai đoạn

2011-2015, Sở KH&ĐT sẽ phối hợp với Sở Tài chính, sẽ đưa vào danh mục dự án

đầu tư công trung hạn, kế hoạch đầu tư công hàng năm. Đồng thời, cân đối nguồn

lực tài chính để phân bổ cho các nhiệm vụ, dự án cấp bách cần thực hiện: nguồn từ

CTMTQG ứng phó vớiBĐKH, nguồn ngân sách Trung ường, nguồn ngân sách địa

phương, nguồn viện trợ…

Sự phối hợp giữa các bên liên quan trong quá trình thực hiện chính sách

BĐKH, dù đã được đưa vào trong các Quyết định và Chiến lược quốc gia về

BĐKH. Tuy nhiên, từ thực tiễn thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB trong giai

đoạn 2008-2018 cho thấy: sự phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các cấp bộ/ngành và

địa phương; giữa địa phương với địa phương; giữa các sở/ngành với nhau trong quá

trình triển khai chính sáchdù đã được đề cập nhưng vẫn còn rất mờ nhạt, lỏng lẻo, vì

chưa có cơ chế pháp lý ràng buộc và do liên quan đến lợi ích của các bên. Để chính

sách thích ứng với BĐKH trở nên hiệu quả hơn thì các bên tham gia vào chính sách

cần cải thiện hơn nữa cơ chế phân công, phối hợp, chia sẻ thông tin giữa các bên

liên quan trong quá trình thực hiện.

Qua kết quả khảo sát của luận án cho thấy, hoạt động phân công, phối hợp ở

cấp tỉnh và cấp huyện chỉ đạt ở mức thang điểm trung bình. Điều này, cho thấy một

thực tế hiện nay ở Việt Nam nói chung và vùng TNB nói riêng là sự phối hợp, chia

sẻ thông tin giữa các cơ quan liên quan trong quá trình thực hiện chính sách là rất

kém. Đây cũng là một bất cập trong quá trình thực hiện chính sách cần phải có giải

125

pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả cho các hoạt động ứng phó BĐKH.

Hình 3.21. Đánh giá sự phân công nhiệm vụ giữa chính quyền các cấp

Nhìn dưới góc độ tiểu vùng, ĐTM là khu vực có sự phối hợp tốt nhất trong

khi ở chiều ngược lại là khu vực DHPĐ.

Hình 3.22. Đánh giá sự phối hợp giữa chính quyền các cấp ở các tiểu vùng vùng

TNB

3.3.5. Kiểm tra, giám sát thực hiện chính sách

Hiện nay, quá trình đánh giá, kiểm tra thực hiện chính sách BĐKH ở vùng

TNB được thực hiện dưới các hình thức như sau: (i) Kiểm tra, giám sát thực hiện

chính sách, thông qua báo cáo của UBND tỉnh gửi cho Bộ TN&MT về tình hình

thực hiện chính sách BĐKH hàng năm, đánh giá thực hiện chính sách giai đoạn

2011-2015; (ii) Chính phủ, bộ/ngành tổ chức các đoàn công tác liên ngành đánh giá,

kiểm tra thực hiện các chương trình, dựa án về BĐKH ở các địa phương vùng TNB;

(iii) Thường vụ Quốc hội và Ủy ban KHCN&MT của Quốc hội tổ chức các đoàn

liên ngành giám sát, đánh giá tình hình thực hiện chính sách pháp luật về BĐKH ở

các địa phương; (iv) UBND tỉnh tổ chức đoàn đánh giá, kiểm tra tình hình thực hiện

126

các dự án BĐKH ở các sở/ngành và huyện.

3.3.5.1. Kiểm tra, giám sát thông qua báo cáo của UBND tỉnh gửi cho Chính phủ

và bộ/ngành

Để thực hiện CTMTQG ứng phó vớiBĐKH và Chương trình hỗ trợ thực hiện

CTMTQG ứng phó vớiBĐKH giai đoạn 2011-2015, thì vào tháng 10 hàng năm Bộ

TN&MT có công văn (kèm theo mẫu báo cáo) gửi UBND các tỉnh/thành vùng TNB

về đánh giá tình hình ban hành chính sách, thực hiện chương trình, dự án về BĐKH

ở các địa phương. Trong đó, chú trọng vào những tồn tại, hạn chế và đề xuất kiến

nghị của địa phương đối Chính phủ, Bộ TN&MT và các bộ/ngành liên quan thực

hiện chính sách BĐKH. Để tổng kết đánh giá việc thực hiện chính sách sách BĐKH

giai đoạn 2011-2015, Bộ TN&MT đã yêu cầu các địa phương vùng TNB gửi báo

cáo đánh giá tình hình thực hiện CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2011-

2015, bao gồm: những kết quả đạt được về xây dựng văn bản hướng dẫn thực hiện

chính sách; thực hiện các chương trình, dự án về BĐKH; những bất cập, hạn chế;

các kiến nghị và đề xuất khung chương trình ứng phó BĐKH giai đoạn 2016-20120.

3.3.5.2. Chính phủ kiểm tra, giám sát thực hiện các dựa án, nhiệm vụ về BĐKH ở

các địa phương vùng TNB

Bên cạnh việc kiểm tra chính sách thông qua hình thức gửi báo cáo của các địa

phương, thì Chính phủ, bộ/ngành còn tổ chức các đoàn công tác liên ngành về kiểm

tra việc thực hiện chính sách BĐKH tại các địa phương. Đoàn công tác của Trung

ương do lãnh đạo Bộ TN&MT làm trưởng đoàn, có đại diện của Bộ NN&PTNT, Bộ

KH&ĐT, Bộ Tài chính… sẽ làm việc với UBND tỉnh và các sở/ngành liên quan để

nghe báo về tình hình thực hiện các chương trình dự án BĐKH; trao đổi với đoàn

công tác Trung ương những bất cập, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực

hiện; các kiến nghị của địa phương đối với Chính phủ, bộ/ngành liên quan để tháo

gỡ những khó khăn của các địa phương. Trên cơ sở các kiến nghị của địa phương,

đoàn công tác Trung ương sẽ tiếp thu và gửi các kiến nghị chính sách đến Lãnh đạo

Chính phủ, bộ/ngành theo thẩm quyền để giải quyết. Tiếp đó, đoàn công tác Trung

ương sẽ đi khảo sát thực tế để nắm bắt thực tiễn ảnh hưởng của BĐKH đến địa

phương; kiểm tra tiến độ thực hiện các dự án do CTMTQG ứng phó với BĐKH,

127

hoặc Chương trình hỗ trợ CTMTQG ứng phó với BĐKH đang triển khai ở các địa

phương. Theo kết quả tổng hợp của NCS, tính đến tháng 8/2017, Bộ TN&MT đã tổ

chức khoảng hơn 40 đoàn công tác liên bộ để kiểm tra việc thực hiện CTMTQG về

BĐKH giai đoạn 2011-2015 tại 13 tỉnh/thành vùng TNB. Đặc biệt, để thực hiện

Nghị quyết 120/NQ-CP về Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long

thích ứng với biến đổi khí hậu, Chính phủ đã đôn đốc Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT,

Bộ KH&ĐT, Bộ Tài chính, xây dựng Chương trình hành động tổng thể thực hiện

Nghị quyết. Mặt khác, Chính phủ còn thành lập các đoàn công tác liên ngành do Bộ

trưởng Bộ TN&MT dẫn đầu kiểm tra việc xây dựng Chương trình hành động thực

hiện Nghị quyết 120/NQ-CP tại các địa phương vùng TNB.

3.3.5.3. Kiểm tra, giám sát của Quốc hội về việc thực hiện chính sách pháp luật

BĐKH ở vùng TNB

Ngoài việc kiểm tra việc thực hiện chính sách BĐKH, thì Quốc hội cũng tổ

chức các đoàn giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật, CTMTQG về BĐKH

giai đoạn 2011-2015 tại các địa phương trong cả nước. Theo kết quả thống kê của

luận án, tính đến 10/2017, Quốc hội đã thành lập được 15 đoàn công tác do Lãnh

đạo Quốc hội và Lãnh đạo Ủy ban KHCN&MT Quốc hội dẫn đầu, tiến hành giám

sát, đánh giá thực hiện chính sách pháp luật, CTMTQG về BĐKH tại 13/13 tỉnh,

thành TNB. Trên cơ sở kết quả của các đoàn giám sát, Quốc hội sẽ gửi báo cáo kiến

nghị để hoàn thiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB đến Chính phủ và

bộ/ngành có liên quan.

3.3.5.4. Kiểm tra, giám sát UBND tỉnh đối với tình hình thực hiện các dự án BĐKH

trên địa bàn

Song song với hoạt động kiểm tra của Chính phủ, bộ/ngành và sự giám sát

việc thực hiện chính sách, pháp luật về BĐKH của Quốc hội ở các địa phương, thì

UBND tỉnh cũng tổ chức các đoàn công tác do Lãnh đạo UBND tỉnh làm trưởng

đoàn, thành viên là Lãnh đạo Sở TN&MT, Sở NN&PTNT, Sở KH&ĐT, Sở Tài

chính… Đoàn công tác sẽ kiểm tra việc thực hiện chương trình, dự án về BĐKH do

các sở/ngành, UBND huyện chủ trì thực hiện. Trên cơ sở kết quả kiểm tra việc triển

khai thực hiện các chương trình, dự án BĐKH tại các sở/ngành và cấp huyện, BCĐ

cấp tỉnh về thực hiện CTMTQG ứng phó BĐKH và NBD sẽ điều chỉnh việc thực

hiện chính sách theo thẩm quyền được giao và gửi báo cáo kiến nghị chính sách cho

128

Chính phủ, bộ/ngành giải quyết theo quy định.

3.4. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ 3.4.1. Đánh giá các bước thực hiện chính sách 3.4.1.1. Đánh giá về mục tiêu, đối tượng chính sách

Về đối tượng áp dụng của chính sách ứng phó BĐKH ở vùng TNB chỉ được đánh giá đạt ở mức khá (3,2 điểm). Còn mục tiêu chính sách so với nhu cầu thực tế

của các địa phương và nguồn lực thực hiện đạt chỉ đạt ở mức thang điểm mức trung

bình (3 điểm). Kém nhất là các quy định về mức độ hỗ trợ nguồn lực của chính sách là thiếu sự rõ ràng, cụ thể, tiêu chí hỗ trợ đối với từng đối tượng chính sách (chỉ đạt

ở mức 2,9 điểm). Điều này, cho thấy thực tế hiện này việc hỗ trợ, bố trí nguồn lực

thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH vẫn chủ yếu theo cơ chế xin - cho.

Hình 3.23. Đánh giá về nội dung chính sách ứng phó với BĐKH

Tương tự ở bình diện tiểu vùng, mặc dù không có nhiều sự khác biệt so với cả vùng TNB, nhưng kết quả khảo sát vẫn cho thấy đôi chút thay đổi. Ở vùng ĐTM

các nội dung chính sách ứng phó BĐKH được đánh giá tốt hơn cả (tất cả các tiêu

chí đều trên trung bình).

129

Hình 3.24. Đánh giá về nội dung chính sách ứng phó với BĐKH ở các tiểu vùng

3.4.1.2. Đánh giá quy trình thực hiện chính sách

Kết quả điều tra của luận án cho thấy việc thực hiện các chính sách ứng phó

BĐKH ở TNB diễn ra ở mức độ trung bình. Các hoạt động lựa chọn dự án, tính

hiệu quả của các dự án hay mức độ lồng ghép các chính sách ứng phó BĐKH vào

quy hoạch, kế hoạch phát triển chỉ ở mức bình thường, cần có nhiều nỗ lực cải thiện

hơn nữa.

Trong khi đó, các vấn đề liên quan tới ngân sách cho các hoạt động ứng phó với

BĐKH đang vướng mắc ở nhiều khâu trong quy trình lập dự án theo Luật Đầu tư

công hiện nay. Mặc dù, theo đánh giá của người tham gia khảo sát, chính quyền các

địa phương đảm bảo được ngân sách cho các hoạt động ứng phó BĐKH, nhưng các

thủ tục giải ngân về đầu tư công cho BĐKH vẫn còn quá phức tạp, nhiều trình tự thủ

tục giải ngân rườm ra, khiến ngân sách cho các hoạt động ứng phó với BĐKH luôn bị

chậm trễ so với kế hoạch. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả, kết quả thực

hiện các chính sách ứng phó BĐKH của các địa phương vùng TNB. Bên cạnh đó,

hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách tại các địa phương của vùng

cũng không được quan tâm thường xuyên, chỉ đạt ở trên mức độ trung bình 2,8 điểm.

Hình 3.25. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó BĐKH

Ở cấp độ tiểu vùng, ĐTM và TGLX là hai vùng được đánh giá là thực hiện

các chính sách ứng phó BĐKH tốt hơn. Trong khi đó, DHPĐ là tiểu vùng được

130

đánh giá là kém hiệu quả nhất.

Hình 3.26. Đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó BĐKH ở các tiểu vùng

3.4.1.3. Đánh giá về mối quan hệ giữa năng lực thực hiện và hiệu quả ứng phó BĐKH

Kết quả điều tra của luận án cho thấy phần lớn cán bộ ở TNB đều nhận thức

được về mức độ và tần suất xuất hiện ngày càng tăng lên của BĐKH, cũng như ảnh

hưởng tới KT-XH và môi trường ở địa phương. Tuy nhiên, mức độ tương quan (với

mức ý nghĩa 95%) (đường thẳng trong đồ thị dưới) cho thấy rằng đánh giá mức độ

ảnh hưởng của BĐKH tới KT-XH và môi trường khá độc lập với đánh giá về mức độ

và tần suất BĐKH - điều này là khá bất thường về mặt logic. Tuy nhiên, trong quá

trình khảo sát ở địa phương, NCS phát hiện ra rằng hầu hết số người được hỏi có thể

dễ dàng nhận thức được các biểu hiện về BĐKH thông qua tần suất xuất hiện các

hiện tượng của thiên tai, thời tiết cực đoan, nhưng lại gặp khó khăn khi đánh giá thiệt

hại về KT-XH mà các thiên tai đó gây ra là do tính chu kỳ của thời tiết ở nơi họ sinh

sống, hay là do BĐKH gây ra. Thực tế trên có thể là nguyên nhân chính lý giải cho

việc đường tương quan nằm ngang.

131

Hình 3.27. Tương quan giữa BĐKH và tác động tới tình hình KT-XH

Hình 3.28. Chỉ số Năng lực ứng phó BĐKH và các thành phần ở các tiểu vùng

Chỉ số năng lực ứng phó BĐKH không có sự chênh lệch đáng kể giữa các tiểu

vùng. ĐTM là tiểu vùng có năng lực ứng phó với BĐKH tốt nhất vùng TNB (3,63

điểm). Ở chiều ngược lại, DHPĐ là khu vực có năng lực ứng phó thấp nhất (3,34

điểm). Trong ba thành phần của năng lực ứng phó thì tuyên truyền là năng lực mà các địa phương làm tốt nhất, tiếp đến là năng lực ban hành văn bản thực hiện chính sách. Năng lực yếu kém nhất là năng lực phối hợp giữa các bên liên quan trong việc

triển khai thực hiện chính sách.

Hình 3.29. Tương quan giữa năng lực và hiệu quả ứng phó BĐKH

Tương quan giữa chỉ số năng lực ứng phó BĐKH và chỉ số hiệu quả thực hiện

chính sách có chiều dốc lên mang ý nghĩa rằng năng lực ứng phó của chính quyền

địa phương có ý nghĩa quan trọng với hiệu quả ứng phó BĐKH của các địa phương.

Kết quả này một lần nữa khẳng định để ứng phó với BĐKH có hiệu quả thì cần

chuẩn bị tốt năng lực ứng phó cho các cấp chính quyền địa phương.

3.4.2. Những kết quả đạt được của việc thực hiện chính sách

Trong thời gian vừa qua, công tác thực hiện chính sách về BĐKH ở vùng TNB

đã đạt được những kết quả hết sức quan trọng, góp phần vào việc ứng phó với các

132

tác động tiêu tực của BĐKH ở vùng TNB.

- Một loạt các văn bản quy định về chính sách ứng phó với BĐKH của Chính

phủ và UBND các tỉnh/thành phố vùng TNB đã được ban hành.

- Tổ chức bộ máy thực hiện chính sách về BĐKH đã được thiết lập đồng bộ từ

cấp Trung ương đến các địa phương vùng TNB và ngày càng được kiện toàn. Năm

2002, Bộ TN&MT được thành lập, Bộ thành lập Cục KTTV&BĐKH (nay là Cục

BĐKH) là cơ quan giúp Bộ QLNN về lĩnh vực BĐKH. Ở các bộ/ngành đã hình

thành các đơn vị trực thuộc chuyên trách công tác BĐKH.

- Tại các địa phương thành lập Sở TN&MT ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung

ương vùng TNB; Phòng TN&MT ở các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc

tỉnh và có cán bộ kiêm nhiệm về BĐKH. Sau khi Cục BĐKH được thành lập, tại

các địa phương vùng TNB, chưa thành lập phòng BĐKH, mà Sở TN&MT các địa

phương giao cho Phòng Tài nguyên nước, khoáng sản và KTTV làm đầu mối, đồng

thời cử cán bộ làm công tác kiêm nhiệm.

- Các hoạt động tuyên truyền chính sách BĐKH, chia sẻ thông tin và các cơ

chế phối hợp thực hiện chính sách bước đầu đã được các lãnh đạo chính quyền địa

phương vùng TNB đưa vào các chương trình nghị sự.

- Trong những năm qua, đầu tư công cho thực hiện các chương trình, dự án về

BĐKH ở vùng TNB đã có những chuyển biến tích cực và góp phần hiệu quả trong

việc ứng phó với các tác động tiêu cực của BĐKH, giảm thiểu rủi ro và hỗ trợ sinh

kế bền vững cho cộng đồng dân cư.

Cụ thể những kết quả đạt được của thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở

vùng TNB được đánh giá với 4 tiêu chí: hiệu lực, hiệu quả, phù hợp, đồng bộ và

đồng hướng của chính sách, thể hiện ở (bảng 3.10).

Bảng 3.10. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách ứng phó BĐKH ở vùng TNB

Chỉ tiêu 1. Hiệu lực

Kết quả - Ban hành văn bản thực hiện chính sách: + Trung ương đã ban hành 315 văn bản thực hiện chính sách ứng phó BĐKH, trong đó có những chính sách đặc thù cho vùng TNB. + Các địa phương vùng TNB ban hành 325 văn bản thực hiện chính sách.

Hạn chế - Ban hành văn bản thực hiện chính sách. + Các văn bản thực hiện chính sách được ban hành tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thích ứng BĐKH. + Các chính sách được ban hành theo thể thức tùy nghi là chủ yếu, không bắt buộc các địa phương phải thực hiện.

133

- Về xác định mục tiêu chính sách: + Các mục tiêu chủ yếu là định tính, định lượng rất ít. + Sự phối hợp liên ngành, liên vùng trong thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH chưa được quan tâm đúng mức. - Về triển khai thực hiện chính sách + Việc lập dự án và quy trình phân bổ ngân sách còn phức tạp, qua nhiều bước, cơ chế xin cho. - Công tác đánh giá, giám sát thực hiện: chồng chéo nhiều cơ quan chức năng khác nhau: Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT, Bộ KH&ĐT, Bộ TC, Ủy ban TC&NS, Kiểm toán Nhà nước.

Hiệu quả

- Nguồn ngân sách hiện nay chỉ đáp ứng được 15-20% nhu cầu đầu tư cho ứng phó với BĐKH ở các tỉnh vùng TNB. - Đa số chi phí cho ứng phó với BĐKH là từ nguồn đầu tư từ NSTW và vay ODA có điều kiện. - Bộ NN&PTNT chủ đầu tư phần lớn trong tổng chi cho BĐKH ở TNB (80%). Trong đó chủ yếu là dành cho các hoạt động đầu tư hạ tầng thuỷ lợi ở vùng TNB. - Sự phối hợp của các cơ quan chức năng trong quá trình bố trí nguồn lực và sử dụng vốn chưa thực sự chặt chẽ và có hiệu quả.

- Về xác định mục tiêu chính sách: + Các chính sách đã xác định mục tiêu tương đối rõ ràng. + Chính sách đã chỉ rõ được vai trò của các bên tham gia, cơ quan chủ trì, các đơn vị phối hợp thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB. - Tổ chức tuyên truyền chính sách với nhiều hình thức, nhiều đối tượng khác nhau. - Về triển khai thực thiện chính sách + Hình thành bộ máy tổ chức thực hiện chính sách. + Chính sách hướng tới huy động đa dạng hoá các nguồn lực từ nguồn ngân sách và nguồn quốc tế, tư nhân, cộng đồng cho BĐKH ở TNB. + Xây dựng tiêu chí xét duyệt các nhiệm vụ, dự án ứng phó BĐKH, Đồng thời triển khai, giám sát thực thi chính sách BĐKH. - Mức độ đạt được các mục tiêu ban đầu đặt ra cơ bản đáp ứng được yêu cầu. + CTMTQG ứng phó với BĐKH trong giai đoạn 2011-2017, đã huy động được 2.594 tỷ đồng cho các nhiệm vụ, dự án BĐKH ở vùng TNB. + Chương trình NTP-RCC giai đoạn 2011-2017 đã huy động 2.301 tỷ đồng cho các dự án BĐKH ở vùng TNB. + Chương trình KH&CN phục vụ NTP-RCC: Chương trình đã triển khai qua 2 giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020; Giai đoạn 2011-2015: Tổng mức kinh phí năm 2011-2015 là 231,8 tỷ đồng. Trong 5 năm có 48 đề tài đã được phê duyệt, trong đó nhiều đề tài liên quan đến các giải pháp thích

134

ứng với BĐKH ở vùng TNB. Giai đoạn 2016-2020, đã có 38 đề tài được mở mới, tập trung xây dựng các mô hình thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng và hệ sinh thái để chuyển giao cho vùng TNB. + ODA trong gian đoạn 2011-2017, Chính phủ đã huy động hơn 17.500 tỷ nguồn vay viện trợ ODA cho các dự án thích ứng với BĐKH ở vùng TNB. - Hiệu quả kinh tế + Tăng cường năng lực cho các ngành, các địa phương, các cộng đồng dân cư ở vùng TNB chủ động thích ứng với BĐKH và hạn chế thiệt hại kinh tế do BĐKH gây ra. + Khi thực hiện Chương trình, nhiệm vụ, dự án, các ngành, các địa phương ở TNB có cơ hội nâng cao được năng lực quản lý, trình độ công nghệ của địa phương. + Tiết kiệm đáng kể chi phí khắc phục hậu quả các tác động của BĐKH đến các công trình kiến trúc, văn hoá. - Hiệu quả về xã hội + Góp phần nâng cao chất lượng sống, an ninh và an toàn cho người dân, đặc biệt là nhóm người nghèo ở vùng TNB trước thiên tai, BĐKH. + Xây dựng nếp sống văn minh, có ý thức sẵn sàng ứng phó, tương thân, tương ái, khắc phục khó khăn và hậu quả của BĐKH ở vùng TNB. - Hiệu quả về môi trường + Kiểm soát được tốc độ tăng phát thải KNK, giảm nhẹ tác động của BĐKH đến môi trường sống của con người. + Giảm nhẹ tác động của BĐKH

135

Phù hợp

- Chính sách, về ứng phó với BĐKH đã được hình thành, nhưng còn thiếu tính hệ thống, thiếu đồng bộ. - Chính sách ứng phó với BĐKH được xây dựng chưa tính đến điều kiện, đặc thù của các vùng miền khác nhau. - Các quy định về giảm nhẹ phát thải KNK còn phân tán; các quy

đến các hệ sinh thái, duy trì và bảo tồn được vốn tự nhiên. + Việc xanh hóa ngành năng lượng đã thực hiện ở các địa phương vùng TNB, hiện có 4 dự án điện gió đã đưa vào vận hành thương mại, hơn 40 dự án điện gió, điện mặt trời đưa vào quy hoạch, gó phần giảm phát thải KNK. - Nhất quán so với nhu cầu của xã hội, của vùng và địa phương. - Chính sách BĐKH bước đầu được lồng ghép, tích hợp vào trong quy hoạch, chiến lược một số ngành, lĩnh vực, như: tài nguyên nước, đa dạng sinh học, nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng, thuỷ lợi, giao thông, năng lượng, công nghiệp, y tế, môi trường... - Phù hợp với năng lực, điều kiện của vùng và địa phương.

định về thích ứng chủ yếu về phòng chống và giảm nhẹ thiên tai.

- Tổ chức bộ máy QLNN về BĐKH mới được thiết lập ở Trung

ương, ở các địa phương vùng TNB đa số là chưa có Văn phòng chuyên

trách để giúp việc cho BCĐ 158 cấp tỉnh; Với đội ngũ cán bộ còn

mỏng, chưa đáp ứng về chuyên môn, nghiệp vụ.

Khi Chính phủ ban hành Quyết định 158 về CTMTQG về BĐKH,

- Nhiều chính sách có mục tiêu trùng lặp nhau, chồng chéo nhau.

Tính đồng bộ và đồng

hướng

thì các địa phương đã thành lập BCĐ 158 cấp tỉnh và ban hành hàng

- Có một số chính sách còn xung đột mục tiêu lẫn nhau.

loạt văn bản chính sách tương ứng để thực thi chính sách ở vùng TNB.

- Các chính sách hiện nay vẫn chủ yếu tập trung vào huy động và

phân bổ nguồn lực cho CSHT ứng phó với BĐKH.

136

Nguồn: Tổng hợp của luận án, 2020

3.4.3. Những tồn tại, hạn chế của việc thực hiện chính sách

Việc thực hiện chính sách ứng phó BĐKH ở vùng TNB đã góp phần mang lại

hiệu quả trong việc tạo sinh kế bền vững và thích ứng tốt với BĐKH. Tuy nhiên,

thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB trong thời gian qua vẫn còn

những bất cập, hạn chế như sau:

3.4.3.1. Văn bản thực hiện chính sách còn chống chéo, mâu thuẫn

- Văn bản về chính sách BĐKH được ban hành nhiều, nhưng khi xây dựng chưa tuân thủ quy trình chính sách và chưa lấy ý kiến từ các địa phương vùng TNB.

Chính vì vậy, chính sách được ban hành không phù hợp với đối tượng, địa phương,

không rõ mục tiêu chính sách và không kèm theo nguồn lực để thực hiện. Do đó

hiệu lực và hiệu quả trong thực hiện không cao. Ví dụ, trong giai đoạn 2011-2018,

các cơ quan Trung ương đã ban hành hơn 315 văn bản chính sách BĐKH áp dụng chung cho cả nước và vùng TNB. Tuy nhiên, chỉ có khoảng 10 văn bản là có nguồn

lực thực hiện chính sách, còn các chính sách khác chỉ mang tính chất thống kê và

báo cáo tình hình của địa phương cho cơ quan Trung ương.

- Phần lớn các chính sách liên quan đến BĐKH trong thời gian qua do nhiều

cơ quan ở cấp Trung ương ban hành, nên dẫn đến quá trình thực hiện ở địa phương

còn lúng túng, khó khăn, chưa rõ chính sách nào ưu tiên thực hiện trước, chính sách

nào thực hiện sau.

- Các chính sách ứng phó với BĐKH hiện hành có nhiều mục tiêu chính sách

chồng chéo mâu thuẫn, thiếu đồng bộ và đồng hướng.

Hộp 3.4: Trùng lặp mục tiêu và thiếu đồng bộ của chính sách BĐKH

- Hiện các Chương trình MTQG BĐKH và Chương trình giảm nhẹ và phòng chống thiên tai, Chiến lược tăng trưởng xanh, Chiến lược BVMT, Chiến lược PTBV… Các văn bản nói trên có nhiều điểm chưa thống nhất, mục tiêu mục tiêu trùng nhau, làm cho địa phương khó khăn trong thực hiện và báo cáo. Quan điểm, mục tiêu chính sách là hướng đến thích ứng BĐKH nhưng trên thực tế là triển khai lại tập trung vào giảm nhẹ.

137

- Nghị quyết 120/NQ-CP đã xác định quan điểm chủ đạo trong phát triển của TNB là: Tôn trọng quy luật tự nhiên, phù hợp với điều kiện thực tế, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên; chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thân thiện với môi trường và PTBV... Tuy nhiên, Quyết định 498/TTg ngày 14/07/2017 về Dự án Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé lại đưa ra chủ trương xây dựng cụm công trình thủy lợi Cái Lớn - Cái Bè, giai đoạn 1, gồm các hạng mục: cống Cái Lớn, cống Cái Bé;

đê nối hai cống Cái Lớn, Cái Bé với Quốc lộ 61; kênh nối sông Cái Lớn - Cái Bé; sửa chữa cống âu Tắc Thủ với tổng vốn đầu tư 3.309,5 tỷ đồng. Đây là chủ trương chưa thật sự phù hợp với nguyên tắc chủ đạo của Nghị quyết 120/NQ-CP.

Nguồn: Tổng hợp của Luận án. - Hệ thống các chính sách được thiết kế chưa dựa trên các đặc trưng sinh thái -

xã hội của từng tiểu vùng và thiếu sự gắn kết lâu dài với các quy hoạch, chương

trình, kế hoạch ưu tiên của Chính phủ, bộ/ngành ở vùng TNB [91, tr.29-39].

3.4.3.2. Truyền thông chính sách

BĐKH là một trong những vấn đề quan trọng nhận được nhiều sự quan tâm

của các cấp chính quyền từ Trung ương tới địa phương, nhưng việc xây dựng các kế

hoạch triển khai, thực hiện các chính sách ứng phó ở địa phương chưa thực sự hiệu

quả. Bên cạnh đó, việc tuyên truyền chính sách ứng phó BĐKH ở vùng TNB đang

còn nhiều hạn chế. Hình thức và nội dung tuyên truyền chưa đa dạng, chủ yếu tập

trung vào các nội dung và hình thức truyền thống, và chủ yếu tập trung vào đối

tượng cán bộ sở ngành, cấp huyện, cấp xã. Còn các đối tượng bị tác động người

dân, nhóm cộng đồng bị tổn thương dù đã được BCĐ 158 xây dựng đề án tuyên

truyền nâng cao nhận thức, nhưng hình thức truyền thông chưa thật sát với các đối

tượng. Công tác nâng cao nhận thức về BĐKH, về bảo vệ rừng, đa dạng sinh học,

chuyển đổi mô hình sinh kế bền vững thích ứng bền vững với BĐKH được các tổ

chức NGOs quốc tế và trong nước thực hiện tốt hơn.

3.4.3.3. Năng lực tổ chức bộ máy thực hiện chính sách còn nhiều yếu kém

- Trong khi diễn biến và tác động tiêu cực của BĐKH đến KT-XH và môi

trường các địa phương ngày càng lớn, nhưng cán bộ thực hiện chính sách ngày càng

giảm do chính sách tinh giản biên chế và tinh gọn bộ máy, hệ thống chính trị. Cán

bộ chuyên trách BĐKH ở cấp tỉnh không được tăng thêm chỉ tiêu biên chế; cán bộ

kiêm nhiệm về môi trường và BĐKH cấp huyện, ngày càng phải kiêm nhiệm nhiều

công việc khác nhau; cán bộ hợp đồng địa chính-môi trường ở cấp xã thì bị cắt giảm

do ngân sách khó khăn.

- Trình độ và chuyên môn nghiệp vụ được đào tạo của cán bộ chuyên trách cấp tỉnh, cán bộ kiêm nhiệm cấp huyện/thị xã và cán bộ hợp đồng cấp xã/thị trấn chủ yếu được tạo thuộc lĩnh vực quản lý môi trường, địa chính, quản lý đất đai, quản lý tài nguyên...Số cán bộ được đào tạo về khí tượng thuỷ văn hay BĐKH còn

138

rất ít. Bên cạnh đó, việc tham gia các khoá tập huấn ngắn hạn và dài hạn để nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cũng rất hạn chế.

- Phân công, phối hợp giữa các chủ thể và địa phương trong việc thực hiện chính sách ứng phó BĐKH chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Mức độ lan tỏa của

việc thực thi chính sách vẫn đang hạn chế trong phạm vi các cơ quan Nhà nước và

chưa kích thích được sự tham gia của các chủ thể khác trong xã hội (cộng đồng,

doanh nghiệp). Đồng thời, việc triển khai các chính sách ứng phó BĐKH ở TNB chưa thực sự hiệu quả. Việc thiếu kinh phí để triển khai các hoạt động ứng phó ảnh

hưởng tới hiệu quả và mức độ lan tỏa của các chính sách ứng phó BĐKH.

Hộp 3.5: Hoạt động phối hợp của BCĐ 158

Qua kết quả khảo sát của luận án cho thấy kinh phí cho BCĐ 158 và Văn phòng giúp việc cho BCĐ 158 của các địa phương vùng TNB, trừ 4 tỉnh (Tp. Cần Thơ, Trà Vinh, Bến Tre, Đồng Tháp) một năm ngân sách tỉnh bố trí khoảng 20-50 triệu đồng/năm. Với kinh phí ít như vậy, không đủ để Văn phòng BCĐ158mtổ chức triển khai các hoạt động chỉ đạo thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở trên địa bàn. Vì thế, các hoạt động phối hợp thực hiện giữa Sở TN&MT với các sở/ngành là thành viên BCĐ 158 chủ yếu qua trao đổi báo cáo, văn bản giữa các bên; chứ chưa tổ chức được các cuộc họp giao ban theo quý/6 tháng/năm, hay họp đột xuất để thực hiện nhiệm vụ. Do đó, trên thực tế thì các hoạt động phối hợp thực hiện của các thành viên, tổ chức trong BCĐ 158 chưa thực sự có kết quả.

Nguồn: Tổng hợp của Luận án.

- Các tỉnh vùng TNB có sự gắn kết chặt chẽ, mật thiết giữa các địa phương với nhau về tài nguyên nước, đất. Từ sự gắn kết về sinh thái, tự nhiên sẽ dẫn đến sự gắn kết, phụ thuộc nhau về phát triển KT-XH. Ví dụ, việc tích nước, làm đê quai để sản xuất lúa vụ 3 ở tỉnh An Giang, sẽ dẫn đến xâm ngập mặn sâu vào nội đồng ở tỉnh Kiên Giang và Sóc Trăng,…Tuy nhiên, các kế hoạch hành động ứng phó BĐKH lại được xây dựng riêng lẻ trong phạm vi từng tỉnh, thiếu sự phối hợp và chia sẻ thông tin giữa các địa phương trong cùng tiểu vùng. Mặt khác, chất lượng của kế hoạch hành động còn chung chung và tính khả thi thấp. Nguyên nhân là do chưa được chuẩn bị trên cơ sở nghiên cứu, sàng lọc, đánh giá tính dễ bị tổn thương để từ đó đề ra các biện pháp cụ thể. Bên cạnh đó, số liệu quan trắc khí tượng, thời tiết, hạn mặn, hải văn, thủy văn, các lưu vực sông còn nhiều hạn chế nên việc đánh giá tính dễ bị tổn thương có độ chính xác không cao.

139

- BĐKH có ảnh hưởng trên diện rộng, ảnh hưởng mang tính liên tỉnh, lên vùng ST-XH. Tuy nhiên, các nhiệm vụ, dự án ứng phó với BĐKH trong thời gian qua chủ yếu được xây dựng và thực hiện trong cục bộ, manh mún, cát cứ thuộc ranh giới của từng địa phương trong vùng. Ví dụ, trong 7 dự án được Chính phủ ưu tiên phân bổ vốn để thực hiện trong chương trình SP-RCC giai đoạn 2011-2017, được

triển khai riêng biệt trong nội bộ 7 tỉnh (Bến Tre, Cà Mau, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Đồng Tháp, An Giang). Ngay trong giai đoạn xin chủ trương lập dự án

đầu tư công trung hạn, hay đề xuất dự án cấp bách thực hiện trong Chương trình

mục tiêu quốc gia BĐKH, các địa phương chưa có sự liên kiết, chia sẻ về mặt thông

tin về nhu cầu nhiệm vụ đề xuất. Chưa kể, các dự án về xây dựng công trình hạ tầng, thuỷ lợi trong ứng phó với BĐKH, sẽ tác động tiêu cực đối với tỉnh hay vùng

lân cận, nếu như không được thực hiện một cách đồng bộ, và chia sẻ về thông tin

giữa các địa phương. Điều này, dẫn đến công tác ứng phó với BĐKH kém hiệu quả,

gây lãng phí nguồn lực.

3.4.3.4. Nguồn lực chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế

- Trong giai đoạn 2011-2018 dù Trung ương và địa phương đã phân bổ nhiều

nguồn vốn để thực hiện chính BĐKH ở vùng TNB, từ các nguồn: đầu tư công trung

hạn của Trung hạn, ngân sách địa phương, nguồn viện trợ ODA, nguồn chi đột xuất

của ngân sách Trung ương. Tuy nhiên, nguồn vốn cho ứng phó với BĐKH hiện nay

mới chỉ đáp ứng từ 15-20% nhu cầu của các địa phương vùng TNB.

- Các chương trình, dự án về ứng phó với BĐKH thời gian qua hầu hết được

thiết kế tập trung vào lĩnh vực giải pháp công trình thuỷ lợi, chiếm khoảng 89% nguồn vốn đầu tư cho BĐKH ở vùng TNB trong giai đoạn 2011-201719. Trong đó, tập trung vào xây dựng đê biển, đê sông, hồ chứa, đập, kênh rạch thoát lũ, cống ngăn mặn… Mà chưa chú trọng dành nguồn lực cho giải pháp phi công trình, bán

công trình, giải pháp công nghệ (thống quan trắc và cảnh báo sớm thiên tai; NLTT;

thích ứng với BĐKH dựa vào hệ sinh thái, bảo vệ, trồng rừng ngập mặn; mô hình

sinh kế bền vững cho cộng đồng...).

Qua kết quả khảo sát của luận án, các địa phương vùng TNB, chi ngân sách

vẫn ưu tiên cho các lĩnh vực giáo dục, y tế, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo

bền vững. BĐKH chưa nằm trong nhiệm vụ ưu tiên phải chi ngân sách địa phương.

Do vậy, các địa phương chưa có nguồn nhân sách riêng, và cơ chế tài chính cho dự án BĐKH, vẫn phụ thuộc vào nguồn lực được phân bổ từ CTMTQG ứng phó với

BĐKH, và chi đột xuất từ nguồn dự phòng của Trung ương. Ví dụ, Để ứng phó với tình trạng sạt lở bờ sông, bờ biển các địa phương vùng TNB đã đề xuất nguồn ngân sách cấp bách từ Trung ương là 7.078 tỷ đồng. Tuy nhiên, tại Quyết định 795/QĐ- TTg ngày 29/6/2018 về Hỗ trợ vốn cho các địa phương thuộc vùng ĐBSCL xử lý

19 Tính toán của luận án năm 2017 dựa trên số liệu về tình hình thực hiện các dự án thuộc CTMTQG về BĐKH, Cục Biến đổi khí hậu, năm 2017.

140

sạt lở cấp bách bờ sông, bờ biển, Chính phủ chỉ bố trí được 1.500 tỷ đồng.

- Dù đã bố trí nhiều nguồn lực cho việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH, nhưng chính sách vẫn chưa đáp ứng được như kỳ vọng. Trong thời gian

qua, thiên tai, và thời tiết cực đoan vẫn gây thiệt hại nghiêm trọng đối với KT-XH

và sinh kế người dân ở vùng TNB. 3.4.2.5. Phân bổ đầu tư công cho BĐKH vẫn theo hình thức kế hoạch hoá tập trung

- Hiện nay, việc phân bổ ngân sách cho các dự án BĐKH cho các địa phương

vùng ĐBSCL vẫn theo hình thức kế hoạch hoá, chứ chưa dựa vào các nguyên tắc

của thị trường, địa phương lập kế hoạch nhu cầu dự án và ngân sách, gửi Chính phủ

tổng hợp, cân đối nguồn và trình Quốc hội phê chuẩn kế hoạch đầu tư công trung

hạn của địa phương. Với hình thức phân bổ kế hoạch hoá như vậy sẽ dẫn đến: (i) để

một sự án BĐKH cấp bách được phân bổ vốn, phải tuân thủ một quy trình lập kế

hoạch mất rất nhiều thời gian (khoảng 2 năm); (ii) việc phân bổ nguồn lực đầu tư

công cho BĐKH không tuân thủ dựa trên các nguyên tắc của thị trường và thực tế

cấp bách của địa phương, dẫn đến hiện phân bổ dự án theo cơ chế bao cấp, xin -

cho, cào bằng giữa các địa phương.

- Với việc siết chặt kỷ luật tài khoá ngân sách và giám sát đầu tư công, cùng

với sự thay đổi của Luật đầu tư, Luật đấu thầu và Nghị định về ngân sách đối ứng

của địa phương đối với các dự án ODA. Dẫn đến tốc độ giải ngân các dự án đầu tư

công, trong đó có dự án BĐKH ở tỉnh/thành vùng ĐBSCL đang ở mức độ giải ngân

rất thấp, không đạt tiến độ kế hoạch đặt ra.

- Do chưa có nguồn ngân sách và chương trình riêng như Chương trình quốc gia Nông thôn mới, nên quy trình dự án BĐKH khá phức tạp và mất nhiều thời gian (mất

từ 1-2 năm); lại chưa có cơ chế tài chính đặc thù cho các dự án BĐKH, nên thủ tục

giải ngân các dự án BĐKH ở địa phương khá rườm ra (do phải tuân thủ các bước quy

định của Luật Đầu tư công). Các dự án BĐKH đều là danh mục những đề xuất cấp

bách, cần phải thực hiện, do vậy khó khăn trong việc bố trí nguồn vốn kịp thời. 3.4.3.6. Chưa thu hút được sự tham gia của khu vực tư nhân trong thực hiện chính

sách ứng phó với biến đổi khí hậu

Các văn bản pháp lý đã đề cập đến vai trò của khu vực tư nhân và thúc đẩy sự tham gia của giới doanh nghiệp trong nhiệm vụ thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH, song lại thiếu cơ chế hỗ trợ cho khu vực tư nhân, cộng đồng nhằm khuyến khích họ tham gia xây dựng cho đến thực hiện chính sách. Trong quá trình xây

141

dựng những kế hoạch hành động liên quan đến BĐKH gần đây, Chính phủ không chú trọng dành cho khu vực tư nhân những chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích

họ tham gia thực hiện những hoạt động ứng phó với BĐKH. Theo Nghị định số 57/2018/NĐ-CP quy định về Cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư

vào nông nghiệp, nông thôn. Nghị định này quy định một số cơ chế, chính sách ưu

đãi, hỗ trợ đầu tư bổ sung của Nhà nước và quy định trình tự, thủ tục thực hiện ưu

đãi, hỗ trợ đầu tư cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, lại không quy định những hoạt động khuyến khích nào liên quan đến nông

nghiệp thông minh hoặc ứng dụng kỹ thuật sản xuất nông nghiệp giúp giảm lượng

KNK phát thải ra môi trường và đồng thời nâng cao khả năng ứng phó với BĐKH.

3.4.4. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

Thực trạng những bất cập trong thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở

vùng TNB trong thời gian qua nêu trên có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan.

Về nguyên nhân khách quan

- BĐKH diễn biến nhanh hơn so với dự báo, và vùng TNB được dự báo là sẽ bị thiệt hại nặng nhất.Trong giai đoạn 2008-2018, BĐKH đã làm gia tăng về cường

độ, tính bất thường khó đoán định, cũng như thiệt hại của các hiện tượng thời tiết

cực đoan ở vùng TNB.

- Các thay đổi đến từ bên ngoài và gia tăng yếu tố bất định từ khu vực Thượng

nguồn sông Mê Kông đều ảnh hưởng trực tiếp đến PTBV vùng TNB. Các chính

sách và vấn đề thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở TNB trong thời gian qua

đã không lường trước hết được những thay đổi đến từ khu vực thượng nguồnchâu

thổ. Để giải quyết căn cơ vấn đề trên thì các chính sách trong nội vùng TNB không

thể giải quyết được, mà cần phải các quyết sách mang tính chính trị ở cấp độ quốc

gia và khu vực.

Về nguyên nhân chủ quan

- Chất lượng, hiệu lực, hiệu quả các công cụ, biện pháp thực hiện chính sách

BĐKH còn bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu; hiệu lực, hiệu quả của công tác thích

ứng với BĐKH chưa cao, đặc biệt trong phòng ngừa, kiểm soát các nguồn gây ô

nhiễm môi trường.

- Trong khi đó, còn thiếu các cơ chế, tiêu chí để sàng lọc, xây dựng các dự án

mang tính hiệu quả trong thích ứng với BĐKH.

- Đầu tư cho BĐKH ở vùng TNB còn rất hạn chế, chỉ đáp ứng một phần nhu

cầu; còn thiếu các cơ chế huy động nguồn lực trong xã hội đầu tư cho thích ứng với

BĐKH. Do thiếu nguồn lực đầu tư nên hạ tầng kỹ thuật về quan trắc thời tiết, dự

142

báo, cảnh báo sớm thiên tai, BĐKH ở vùng TNB còn yếu kém, lạc hậu. Năng lực

quan trắc, cảnh báo, phát hiện sớm các sự cố về thiên tai, còn nhiều hạn chế, chưa

đáp ứng được yêu cầu.

- Nhận thức, ý thức trách nhiệm về ứng phó với BĐKH của doanh nghiệp, cấp

chính quyền, tổ chức kinh tế, cộng đồng dân cư còn hạn chế.

- Chưa phát huy được vai trò của các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ

chức xã hội nghề nghiệp và các tầng lớp nhân dân tham gia tích cực ứng phó với

BĐKH, và giám sát chặt chẽ công tác quản lý thực hiện chính sách BĐKH của các

cơ quan, tổ chức xã hội, doanh nghiệp và cộng đồng.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Chương 3 đã nghiên cứu thực trạng thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB,

và phát hiện ra rằng: Chính phủ, bộ/ngành và đã ban hành số lượng rất lớn chính

sách, chương trình, kế hoạch hành động, dự án, nhiệm vụ ứng phó với BĐKH. Tuy

nhiên, số lượng chính sách về BĐKH đã ban hành không có mối quan hệ thuận

chiều với hiệu quả thực hiện chính sách. Kết quả này, giúp hiểu rõ vai trò của khâu

hoạch định chính sách BĐKH, và thực tế chất lượng của công việc hoạch định

chính sách BĐKH hiện nay.

Đồng thời, để thực thi chính sách BĐKH ở vùng TNB, các địa phương đã hình

thành BCĐ 158 và ban hành các văn bản nhằm triển khai thực hiện chính sách. Tuy

nhiên, dấu ấn, vai trò, hoạt động của BCĐ 158 chưa thật sự rõ ràng và tính hiệu quả

trong giai đoạn 2011-2015. Đồng thời, trong giai đoạn 2011-2017, Nhà nước đã

dành một lượng ngân sách từ nguồn đầu tư công trung hạn khá lớn cho thực hiện

các nhiệm vụ, dự án ở vùng TNB, trong đó tập trung chủ yếu vào lĩnh vực CSHT

liên quan đến ứng phó với BĐKH. Tuy nhiên, so với nhu cầu vốn cho hoạt động

ứng phó với BĐKH do các địa phương đề xuất thì chỉ mới được khoảng 10-15%.

Mặt khác, từ kết quả khảo sát, đi tham vấn các bộ, sở, ngành địa phương tại bốn

tiểu vùng (tiểu vùng DHPĐ, tiểu vùng ĐTM, tiểu vùng TGLX, tiểu vùng BĐCM)

cho thấy những cảm nhận của các cán bộ, công chức, viên chức của các sở về biểu

hiện và tác động của BĐKH đến các tiểu vùng cho ra các chỉ số khá tốt. Tuy nhiên,

về chất lượng thực hiện chính sách BĐKH ở mỗi tiểu vùng lại có các chỉ số đánh giá

khác nhau. Một điều dễ nhận thấy từ kết quả điều tra là hiệu quả của thực hiện chính

sách phụ thuộc rất nhiều vào năng lực thực hiện của cán bộ và tính chuyên nghiệp

của bộ máy tổ chức. Do đó, hiệu quả của thực hiện chính sách ở bốn tiểu vùng là có

143

sự chênh lệch khá lớn về chỉ số tương quan giữa năng lực và hiệu quả.

Cuối cùng, các chính sách và nguồn lực để thực hiện các chương trình dự án

ứng phó BĐKH vẫn chủ yếu là từ ngân sách đầu tư công trung hạn và hàng năm, và

từ nguồn sự nghiệp kinh tế của Trung ương và địa phương vùng TNB. Một phần

được huy động từ nguồn vay, viện trợ từ các tổ chức quốc tế, các nước dưới dạng

ODA, hoặc là hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ. Còn sự đóng góp và tham gia

của khu vực tư nhân, doanh nghiệp (nhóm phát thải KNK) là vắng bóng. Hay sự

tham gia của các nhóm cộng đồng bị tác động bởi BĐKH trong thực hiện chính

sách là rất khiêm tốn. Chính sách ứng phó với BĐKH trong giai đoạn mới cần khắc

144

phục những hạn chế này.

CHƯƠNG 4 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU Ở VÙNG TÂY NAM BỘ

4.1. Bối cảnh mới và các vấn đề đặt ra cho việc hoàn thiện chính sách ứng phó

với biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ 4.1.1. Biến đổi khí hậu toàn cầu và các vấn đề đặt ra cho hoàn thiện chính sách

BĐKH ở vùng Tây Nam Bộ

Theo Kịch bản BĐKH và NBD 2015, nếu NBD cao 1m thì vùng TNB là khu

vực có nguy cơ ngập cao nhất 38,9% diện tích [24]. Điều này sẽ tác động lớn đến

sản xuất nông nghiệp, an ninh việc làm của phần lớn lao động nông thôn. Diện tích

đất của khu vực này có nguy cơ bị nhiễm mặn nặng, mùa màng bị thiệt hại nghiêm

trọng do lũ lụt và úng. Nếu như mực NBD trên 1m, mà không có các hoạt động ứng

phó, phần lớn diện tích TNB sẽ hoàn toàn bị ngập thời gian dài trong năm và thiệt

hại tài sản ước tính lên tới 17 tỷ USD [176].

Sau khi Thỏa thuận Paris được thông qua tại Hội nghị các bên liên quan lần

thứ 21 (COP21) tháng 12/2014, Việt Nam đã ký Thỏa thuận Paris cùng hơn 170

quốc gia khác. Trong đó, Việt Nam đã cam kết cắt giảm 8% KNK vào năm 2030 so

với mức kinh doanh bình thường (BAU) và sẽ giảm 25% nếu có sự hỗ trợ của cộng

đồng quốc tế [134]. Để thực hiện thỏa thuận này, Việt Nam đã ban hành Quyết định

số 2053/QĐ-TTg ngày 28/10/2016 Phê duyệt Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH,20 với 68 danh mục nhiệm vụ cần thực hiện trong giai đoạn 2016-203021. Theo kết quả kiểm kê KNK của Bộ TN&MT (2018), lượng khí phát thải KNK của

ngành nông nghiệp là 89.751,8 nghìn tấn CO2, chiếm khoảng 27,9% tổng lượng

KNK. Trong đó, hoạt động canh tác lúa và đốt phụ phẩm nông nghiệp ngoài đồng

ruộng thải ra khoảng 46.731,3 nghìn tấn CO2, chiếm 52% lượng KNK của ngành

nông nghiệp. Dự báo đến năm 2020 lượng phát thải KNK của ngành nông nghiệp sẽ

giảm xuống còn 20,67%, năm 2030 sẽ giảm còn 12,6 % [26]. Đây là thách thức rất

lớn cho vùng TNB khi tiến hành các hoạt động triển khai NDC nhằm giảm KNK

trong hoạt sản xuất nông nghiệp, vì là khu vực chuyên canh lúa lớn nhất của cả

20 Tính đến tháng 4/2018 đã có 12/13 tỉnh/thành phố ở vùng Tây Nam Bộ, đã xây dựng và ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH ở cấp địa phương. 21 Các nhóm trụ cột chính của Kế hoạch này là: giảm phát thải KNK; thích ứng với BĐKH; chuẩn bị nguồn lực; thiết lập hệ thống công khai minh bạch; xây dựng hoàn thiện chính sách, thể chế.

145

nước, với 1,7 triệu ha đất trồng lúa [124].

4.1.2. Ảnh hưởng của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đến ứng phó với biến đổi khí hậu ở cấp độ toàn cầu, quốc gia và vùng, địa phương

“Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đã bắt đầu từ những năm 2000, đặc

trưng bởi sự hợp nhất, không có ranh giới giữa các lĩnh vực công nghệ, vật lý, kỹ

thuật số và sinh học. Đây là xu hướng kết hợp giữa các hệ thống ảo và thực thể, vạn

vật kết nối Internet (IoT) và các hệ thống kết nối Internet (IoS). Cuộc Cách mạng

Công nghệ lần thứ tư này đang làm thay đổi cách thức sản xuất, chế tạo. Trong các

“nhà máy thông minh”, các máy móc được kết nối Internet và liên kết với nhau qua

một hệ thống có thể tự hình dung toàn bộ quy trình sản xuất, rồi đưa ra quyết định

sẽ thay thế dần các dây chuyền sản xuất trước đây. Nhờ khả năng kết nối của hàng

tỷ người trên thế giới thông qua các thiết bị di động và khả năng tiếp cận được với

cơ sở dữ liệu lớn, những tính năng xử lý thông tin sẽ được nhân lên bởi những đột

phá công nghệ trong các lĩnh vực như trí tuệ nhân tạo, công nghệ người máy,

Internet kết nối vạn vật, xe tự lái, công nghệ in 3 chiều, công nghệ nano, công nghệ

sinh học, khoa học vật liệu, lưu trữ năng lượng và tính toán lượng tử. Tốc độ phát

triển của những đột phá trong Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư này là không có

tiền lệ trong lịch sử. Nếu như các cuộc cách mạng công nghiệp trước đây diễn ra

với tốc độ theo cấp số cộng (hay tuyến tính), thì tốc độ phát triển của Cách mạng

Công nghiệp lần thứ tư này là theo cấp số nhân” [174]. Thời gian từ khi các ý tưởng

về công nghệ và đổi mới sáng tạo được phôi thai, hiện thực hóa các ý tưởng đó

trong các phòng thí nghiệm và thương mại hóa ở quy mô lớn các sản phẩm và quy

trình mới được tạo ra trên phạm vi toàn cầu được rút ngắn đáng kể. Những đột phá

công nghệ diễn ra trong nhiều lĩnh vực như kể trên với tốc độ rất nhanh và tương

tác thúc đẩy nhau đang tạo ra một thế giới được số hóa, tự động hóa và ngày càng

trở nên hiệu quả và thông minh hơn [174].

Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư có những tác động to lớn về kinh tế, xã hội và môi trường ở tất cả các cấp độ toàn cầu, khu vực và quốc gia, Việt Nam

và vùng TNB. Các tác động này mang tính rất tích cực trong dài hạn, song cũng tạo ra nhiều thách thức điều chỉnh trong ngắn đến trung hạn. Đối với vấn đề ứng phó với BĐKH, cuộc cách mạng sẽ tác động trên các khía cạnh sau [174]:

(i) Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 với những đột phá về công nghệ, đang

mở ra cơ hội rất lớn cho vùng TNB để có thể đuổi kịp, đi cùng và vượt trước các

vùng khác trong việc thu hẹp khoảng cách công nghệ và năng suất lao động.

146

Chuyển giao ứng dụng công nghệ mới, công nghệ cảm biến... Đồng thời ứng dụng

các phương thức kinh doanh mới, dựa trên nền tảng sáng tạo trí tuệ, trong việc gắn

kết lĩnh vực nông nghiệp và du lịch sinh thái và NLTT ở vùng TNB. Những mô

hình sản xuất kinh doanh mới sẽ ít phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên, giảm phát thải

KNK, đồng thời góp phần ứng phó hiệu quả với các tác động bất lợi của BĐKH.

Đặc biệt, với sự tiến bộ vượt bậc và hỗ trợ của công nghệ hiện đại, các tỉnh vùng

TNB có cơ hội để thử nghiệm các mô hình phát triển mới: thành phố thông minh,

nông nghiệp thông minh, làng xã thông minh.

(ii) Ảnh hưởng đến công tác ứng phó với BĐKH ở vùng TNB là tích cực trong

ngắn hạn và trung, dài hạn nhờ các công nghệ tiết kiệm năng lượng, nguyên vật liệu

và thân thiện với khí hậu, giảm nhẹ KNK. Nhờ đó các địa phương vùng đồng bằng

Châu thổ sẽ có cơ hội để tiếp cận công nghệ giám sát giám sát, quan trắc thời tiết,

khí hậu và cảnh báo sớm thiên tai, khí hậu đang phát triển nhanh chóng, đồng thời

còn được hỗ trợ bởi Internet kết nối vạn vật, giúp thu thập và xử lý thông tin liên

tục 24/7, độ chính xác cao theo thời gian ở vùng.

(iii) Ngành năng lượng của vùng TNB có thể tận dụng các thành tựu của cách

mạng công nghiệp để xanh hoá năng lượng, được hưởng lợi khá nhiều nhờ những

đột phá trong công nghệ NLTT, trước hết là công nghệ ứng dụng năng lượng mặt

trời, năng lượng gió cũng đã tiến bộ rất nhiều ở một số nước tiên tiến như Mỹ, Đức,

Hàn Quốc… với tiềm năng phổ biến nhanh trên toàn cầu nhờ giá sản xuất giảm

đáng kể. Cùng với các chính sách hỗ trợ về điện gió và điện mặt trời vừa được

Chính phủ ban hành. Thì các các địa phương vùng TNB có nhiều cơ hội để phát

triển năng lượng gió, năng lượng mặt trời, đặc biệt là điện mặt trời áp mái hộ gia

đình, trang trại, gia trại. Để thay thế năng lượng nhiệt điện, loại bỏ dần các nhà máy nhiệt điện than ở vùng TNB ra khỏi quy hoạch điện quốc gia [115].

4.1.3. Hội nhập quốc tế sâu rộng và các vấn đề đặt ra đối với chuyển dịch cơ cấu

kinh tế vùng TNB theo hướng bền vững thích ứng với BĐKH.

Các Hiệp định tự do thế hệ mới mở ra những cơ hội rất lớn cho TNB trong việc

tiếp cận thị trường và phát huy các lợi thế so sánh, cũng như tham gia vào chuỗi giá

trị toàn cầu, nhất là mức thuế xuất đối với các mặt hàng nông sản giảm về 0%. Tuy

nhiên, cũng đi kèm với thách thức đó là vượt qua hàng rào kỹ thuật, vấn đề vệ sinh

thực phẩm. Do đó, để tận dụng những cơ hội do FTA thế hệ mới mang lại, trong giai

đoạn tới TNB sẽ lựa chọn những công nghệ mới để chuyển giao ứng dụng vào sản

xuất nông nghiệp, tạo ra những chuỗi giá trị sản phẩm trái cây, thủy sản có giá trị cao

147

phục vụ xuất khẩu, đồng thời giảm KNK góp phần giảm nhẹ BĐKH.

4.1.4. Bối cảnh phát triển ở khu vực thượng nguồn châu thổ

Việc khai thác tài nguyên nước trên Thượng nguồn châu thổ, trong đó việc chuyển nước sông Mê Kông sang lưu vực sông khác và nhất là việc khai thác thủy điện trên dòng chính sông Mê Kông từ cao nguyên Tây Tạng trở xuống, trong khi nhu cầu về nước ngày càng tăng trước sức ép gia tăng dân số và phát triển nông nghiệp. Nằm ở phía cuối của lưu vực Mê Kông, TNB chịu tác động rất lớn của sự phát triển của 11 nhà máy thủy điện ở lưu vực Mê Kông. Các tác động chính của thủy điện Mê Kông đối với TNB trong trước mắt và dài hạn như sau [107].

(i) Giảm phù sa mịn: Gây bạc màu đất, ảnh hưởng nông nghiệp; gây ra hiện tượng “nước đói phù sa” dẫn đến sạt lở bờ sông, bờ biển; giảm lượng dinh dưỡng mang ra biển, ảnh hưởn năng suất thủy sản ven biển trong vùng. Thiếu phù sa trong vùng nước biển ven bờ, giảm bồi đắp và gia tăng sạt lở bờ biển, nhất là đoạn bờ biển bùn phía Biển Đông từ Sóc Trăng đến Mũi Cà Mau và phía Biển Tây từ Mũi Cà Mau đến Hà Tiên. Thiếu dinh dưỡng cho hệ sinh thái thủy sinh, ảnh hưởng đến năng suất thủy sản nước ngọt. Các số liệu của Ủy hội Mê Kông quốc tế cho thấy, so giữa 1992 và 2014, tải lượng phù sa mịn sông Mê Kông đã giảm 50% từ 160 triệu tấn/năm còn 85 triệu tấn/năm. Số liệu phù sa nói trên chưa bao gồm thành phần cát, sỏi di chuyển ở đáy sông, ước lượng khoảng 30 triệu tấn/năm [191]. Dự báo sau khi 11 đập ở Hạ lưu vực xây dựng xong, lượng phù sa mịn còn lại sẽ bị giảm 50% một lần nữa xuống còn 42 triệu tấn/năm.

(ii) Chặn hầu hết lượng cát, sỏi về vùng TNB: các nghiên cứu đều thống nhất

rằng hiện nay toàn bộ cát sỏi từ phía Thượng lưu vực đã bị chặn, sau khi 11 đập ở Hạ

lưu vực hoàn tất, 100% cát, sỏi sẽ bị chặn. Khi đó sạt lở sẽ diễn ra dữ dội đối với bờ

Sông Tiền, Sông Hậu, và bờ biển, nhất là đoạn bờ biển cát dài 250km ở vùng cửa

sông Cửu Long từ Tiền Giang qua Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, đến Bạc Liêu.

(iii) Thiệt hại về nguồn lợi thuỷ sản nước lợ: Nhiều nghiên cứu cho thấy khi

11 đập thủy điện ở Hạ lưu vực hoàn tất, 100% lượng cá trắng, tức các loài cá phải di

cư ngược dòng hàng năm để sinh sản, sẽ hoàn toàn biến mất. Sự tổn thất cá trắng sẽ

ảnh hưởng lớn đến dinh dưỡng và thu nhập của người dân TNB, nhất là người

nghèo nông thôn và ảnh hưởng đến các loài ăn cá và tác động dây chuyền đến toàn

bộ hệ sinh thái TNB.

(iv) Ảnh hưởng thủy sản biển: Trong 160 triệu tấn tải lượng phù sa mịn sông Mê Kông vận chuyển hàng năm, một phần được bồi lắng ở các cánh đồng ngập lũ ở

148

Campuchia và ở TNB, còn lại ước lượng khoảng 100 triệu tấn phù sa và 16.000 tấn dinh dưỡng bám vào phù sa được mang ra vùng nước ven biển TNB. Khi lượng phù

sa và dinh dưỡng này giảm sẽ ảnh hưởng lớn đến năng suất thủy sản vùng ven biển TNB trong vùng ven biển.

(vi) Ảnh hưởng dòng chảy: Đối với ảnh hưởng dòng chảy của các đập thủy

điện Mê Kông, cần phân biệt giữa các đập đã và đang xây dựng ở Trung Quốc và

11 đập ở Hạ lưu vực, và phân biệt giữa những năm bình thường và những năm đặc biệt khô hạn. Các đập ở phần Trung Quốc là các đập có hồ chứa lớn, có khả năng

tích nước trong mùa lũ, xả ra để phát điện trong mùa khô. Theo lý thuyết, các đập

này sẽ làm tăng dòng chảy mùa khô đối với TNBtrong những năm bình thường

[232]. Do lượng nước đóng góp vào lưu vực của phần Trung Quốc là nhỏ, chỉ 16%

nên các đập này ảnh hưởng không lớn về lượng nước đối với TNB. Tuy nhiên,

trong những năm đặc biệt khô hạn, như năm 2016, các đập này có thể gia tăng trữ

nước và làm cho tình hình khô hạn trầm trọng và xâm nhập mặn ở vùng TNB càng

trầm trọng hơn. Với việc xây dựng 11 đập ở phía Hạ lưu vực, về lý thuyết cho nước

chảy qua trong ngày (trung bình đóng đập 8 giờ và xả ra phát điện 16 giờ), trong

những năm bình thường, các đập này sẽ không ảnh hưởng lớn về lượng nước và

mực nước ở TNB. Nhưng trong những năm đặc biệt khô hạn, mỗi đập có khả năng

lưu nước từ 1,55 ngày đến 18 ngày, làm chậm đáng kể dòng chảy đi qua chuỗi đập,

làm cho tình trạng hạn-mặn ở TNB càng trở nên trầm trọng, ảnh hưởng đến sản xuất

nông nghiệp và thiếu nước sinh hoạt [226].

4.1.5. Vấn đề phát triển nội tại của đồng bằng châu thổ

Thách thức từ quá trình công nghiệp hoá - đô thị hoá và di dân, dự báo dân số

của vùng TNB có thể tăng từ 17 triệu lên 30 triệu dân năm 2050, đồng thời ảnh

hưởng của BĐKH sẽ dẫn đến ngập lụt tại các đô thị. Công nghiệp hoá - đô thị hoá

sẽ ngày càng phát triển và thu hẹp diện tích đất nông nghiệp, đồng thời làm tăng nhu cầu về nước sạch cũng như phát sinh nhiều nước thải, rác thải sinh hoạt22 [25].

149

Thách thức về an ninh năng lượng, theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh được Thủ tướng phê duyệt vào ngày 18/3/2016, thì một loạt các nhà máy nhiệt điện than sẽ được xây ở vùng TNB. Dọc theo tuyến sông Hậu từ thành phố Cần Thơ, xuống tỉnh Hậu Giang và tiếp đến cửa biển giữa hai tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh đã và đang hình thành 15 nhà máy nhiệt điện. Với quy mô phát triển công nghiệp năng lượng như vậy đến năm 2030, vùng sẽ trở thành một trong những khu vực có mật độ nhiệt điện cao nhất cả nước. Các nhà máy nhiệt điện ở vùng TNB sẽ sử dụng khoảng 170.000 tấn than/ngày, thải ra lượng nước thải khoảng 70 triệu m3/ngày 22 Mỗi năm có khoảng 100 triệu m3 nước thải sinh hoạt, 600.000m3 chất thải rắn không xử lý đã được xả thẳng ra môi trường nước. Bên cạnh đó, nhiều nhà máy công nghiệp cũng xả thẳng nước thải và chất thải rắn ra sông ngòi, gây ô nhiễm nguồn nước nghiêm trọng.

đêm. Vì vậy, việc phát triển nhiệt điện than vùng sẽ phải đối mặt với nhiều hệ luỵ về cạnh tranh nguồn nước với các ngành khác, ô nhiễm nguồn nước ngọt, phá huỷ hệ sinh thái dưới nước, ảnh hưởngsức khoẻ con người của vùng TNB. Đồng thời gây áp lực cho việc cắt giảm KNK theo Thỏa thuận Paris [53].

Mặt khác, sự phát triển nội tại ở vùng, ngoài việc suy giảm nghiêm trọng rừng ngập mặn, rừng tràm do phát triển diện tích nuôi trồng thuỷ sản23; còn là việc khai thác cát quá mức trên sông Tiền, sông Hậu làm trầm trọng thêm sự thiếu hụt trầm tích; khai thác kiệt quệ nước ngầm làm mặt đất sụt lún24. 4.2. Một số quan điểm nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách ứng phó với

biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ

Để hoàn thiện vấn đề thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB

trong giai đoạn tới cần phải quán triệt vào các quan điểm chủ đạo sau đây:

Thứ nhất, phải quán triệt nguyên tắc xây dựng chính sách phải dựa trên quan

điểm chủ động thích ứng với BĐKH.

Theo đó phải tăng cường nhận thức theo hướng tiếp cận để thích nghi với

BĐKH là “thích nghi và chuyển đổi dần theo thời gian trong bối cảnh có nhiều yếu

tố bất định”. Đặc biệt, trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản, cần theo trình tự ưu

tiên: (i) ứng dụng các giải pháp khoa học - kỹ thuật sản xuất và hệ thống canh tác

thích nghi; (ii) kết hợp với giải pháp công trình mang tính đa mục tiêu để giảm đầu

tư và quản lý linh hoạt; (iii) chuyển đổi mục đích sử dụng đất phù hợp, chuyển diện

tích đất lúa sang nuôi trồng thuỷ sản, giảm lúa vụ ba; và (iv) tăng cường thích ứng với

BĐKH dựa vào hệ sinh thái, vốn tự nhiên.

Thứ hai, các mục tiêu chính sách cần phải làm rõ vai trò, trách nhiệm của các

chủ thể và các bên liên quan. Đồng thời các dự án, nhiệm vụ giải pháp thực hiện

chính sách phải gắn với các nguồn lực tương ứng để thực hiện; phù hợp với năng

lực của các chủ thể tham gia và đặc trưng sinh thái - xã hội của địa phương. Phù hợp với nhu cầu của người dân, nhóm cộng đồng chịu tác động của BĐKH...

Thứ ba, quá trình thực hiện chính sách phải huy động được sự tham gia của các

23 Theo báo cáo của Tổng cục Lâm nghiệp (2017) trong giai đoạn 2011-2016, diện tích rừng ngập mặn vùng ĐBSCL đã bị suy giảm nghiêm trọng, diện tích rừng ngập mặn đã giảm gần 10%, từ 194.723ha năm 2011 xuống còn 179.384ha vào năm 2016 (tức là đã giảm khoảng 15.339ha). Nguyên nhân chủ yếu do vùng bãi bị sạt lở và việc giao rừng để nuôi trồng thủy, hải sản. 24 Báo cáo của Đại học Utrectch, Hà Lan (2017) cho biết sự sụt lún liên quan đến khai thác nước ngầm đã tăng dần trong các thập niên vừa qua. Trong 25 năm qua giai đoạn 1991-2016, TNB đã sụt lún trung bình 18cm do khai thác nước ngầm. Tốc độ sụt lúntrung bình hiện nay do khai thác nước ngầm là 1,1cm/năm, cónhững nơi sụt lún 2,5cm/năm, cao hơn 10 lần so với tốc độ NBD.

150

chủ thể khác nhau, cần phải phát huy vai trò, sự tham gia của khu vực tư nhân, cộng

đồng, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ. Có như vậy, họ mới thể hiện vai trò,

trách nhiệm của mình trong công tác thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH.

Thứ tư, vấn đề thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH phải được thực hiện

từng bước, đảm bảo tính đồng bộ, đồng hướng với tổng thể các chính sách liên quan

khác: Chiến lược quốc gia về BĐKH (2011); Chương trình mục tiêu ứng phó với

BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020; Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận

Paris về BĐKH; Nghị quyết số 120/NQ-CP về Phát triển bền vững vùng ĐBSCL

thích ứng với biến đổi khí hậu; và Quy hoạch tổng thể về PTBV vùng giai đoạn

2021-2030…

4.3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách ứng phó với

biến đổi khí hậu ở vùng Tây Nam Bộ

Trên cơ sở các quan điểm đã nêu trên và kết quả phân tích SWOT trong thực

hiện chính sách ở vùng TNB (bảng 4.1). Để khắc phục được những bất cập nảy sinh

trong thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB, luận án đề xuất một số

giải pháp như sau:

Bảng 4.1. Kết quả phân tích SWOT trong thực hiện chính sách BĐKH

ở vùng TNB

CƠ HỘI (O)

THÁCH THỨC (T)

BÊN TRONG

- Nghị quyết 120 sẽ theo

- Cắt giảm đầu tư công trung

thuận

thiên,

tôn hướng trọng quy luật tự nhiên của

hạn đối với vùng TNB giai đoạn 2016-2020, ngân sách

đồng bằng. - Áp lực của hội nhập quốc

cho BĐKH giảm trong khi nhu cầu lớn.

BÊN NGOÀI

tế, buộc kinh tế của vùng TNB phải tái cơ cấu theo

- Quá nhiều chính sách BĐKH được ban hành, vùng TNB

hướng bền vững, ứng phó với BĐKH.

đang “bội thực” về thực hiện chính sách.

- Tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ hỗ trợ

- Thách thức từ các yếu tố Thượng nguồn châu thổ.

vùng TNB trong việc ứng dụng công nghệ trong cảnh

- Phát triển nội tại của đồng bằng thiếu bền vững.

báo, dự báo sớm thiên tai, BĐKH.

- Độ trễ của chính sách BĐKH lớn.

- Thử nghiệm các mô hình thông minh: đô thị thông

- Tác động của BĐKH và thiên tai ngày càng lớn, quá khả

151

năng chống đỡ vật lý của vùng.

minh, nông nghiệp thông minh, làng xã thông minh,

NLTT.

ĐIỂM MẠNH (S)

KẾT HỢP: S-O

KẾT HỢP: S-T

- Có bộ máy và lực lượng cán bộ thực hiện chính sách

- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách BĐKH.

- Định vị lại nhiệm vụ của khu vực công trong ứng phó với

từ TW- địa phương. - Tất cả hệ thống chính trị

- Kiện toàn lại tổ chức thực hiện chính sách ở TW

BĐKH. - Nâng cao năng lực tổ chức

cùng vào cuộc để ứng phó với BĐKH.

và địa phương vùng TNB. - Đa dạng hóa nguồn lực,

và cán bộ thực hiện chính sách để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ

- Có sự hỗ trợ về ngân sách của Nhà nước.

đặc biệt là nguồn lực từ tư nhân cho khu vực

trong bối cảnh mới. - Chuyển sang thu phí thủy lợi,

BĐKH. - Thí điểm cơ chế thu phí,

thí điểm phương thức PPP trong xây dựng các hồ thủy lợi

và mô hình PPP trong BĐKH.

đa mục tiêu, đê sông, đê biển xung yếu ở một số địa phương.

ĐIỂM YẾU (W)

KẾT HỢP: W-O

KẾT HỢP: W-T

- Chất lượng của chính sách BĐKH chưa tốt.

- Đổi mới cơ chế tiền lương đối với cán bộ thực

- Đổi mới cơ chế xét chọn các dự án, nhiệm vụ ưu tiên thực

- Bộ máy tổ chức thực hiện chính sách ở các địa phương

hiện chính sách BĐKH. - Đổi mới mô hình tổ chức

hiện các dự án liên kết vùng. - Xây dựng cơ chế điều phối

chính

vùng TNB còn kiêm nhiệm. - Chất lượng cán bộ thực

sách thực hiện BĐKH ở vùng TNB theo

thực hiện chính sách BĐKH. - Thu hút sự tham gia của khu

trách và

hiện chưa đáp ứng yêu cầu thực tế.

hướng chuyên chuyên nghiệp.

vực tư nhân vào ứng phó với BĐKH ở vùng TNB.

- Mức thu nhập và chế độ đãi ngộ của cán bộ còn thấp.

- Hình thành tổ chức điều phối vùng.

- Sự phối hợp của các chủ thể chưa được chặt chẽ.

- Hình thành tổ chuyên môn về BĐKH và PTBV ở

- Chia sẻ về các thông tin chính sách giữa các bộ,

vùng TNB. - Hình thành cơ chế tài

ngành và địa phương còn yếu.

chính linh hoạt bền vững cho ứng phó với BĐKH ở

- Sự tham gia của khu vực tư nhân, cộng đồng trong ứng phó với BĐKH còn hạn chế.

đồng bằng. - Thu hút vai trò của tư nhân vào ứng phó với BĐKH.

152

Nguồn: Tổng hợp của Luận án, 2020.

4.3.1. Giải pháp chung 4.3.1.1. Giải pháp nâng cao năng lực tổ chức bộ máy

a. Ủy ban Quốc gia về BĐKH

Như đã phân tích ở Chương 3, Văn phòng UBQG về BĐKH là cơ quan quản

lý liên bộ cao nhất về BĐKH, do đó về mặt lý thuyết, cơ quan này có quyền lực để điều phối các ngành và hài hoà các chiến lược về BĐKH [183]. Tuy nhiên, trong

thực tế hoạt động vai trò của Văn phòng Uỷ ban bị hạn chế (cho đến năm 2018, tổ

chức này mới chỉ tổ chức được chín cuộc họp chính thức kể từ khi thành lập năm 2012). Mặt khác, qua kết quả tham vấn của luận án với một số chuyên gia, thành

viên của Hội đồng tư vấn của UBQG về BĐKH lại cho rằng quyền triệu tập của Ủy

ban không được công nhận bởi một số bộ/ngành. Do vậy, hiện nay Văn phòng

UBQG về BĐKH là cơ đại diện mang tính biểu tượng tạo điều kiện cho thảo luận

và điều phối, nhưng không chủ động chỉ đạo được các bộ/ngành và địa phương

trong phân bổ nguồn lực cho BĐKH. Vì vậy, trong giai đoạn 2020-2025, cần phải

nâng cao hiệu quả trong công tác hoạt động chỉ đạo, điều hành của Văn phòng

UBQG về BĐKH.

- Đứng đầu Văn phòng UBQG về BĐKH là lãnh đạo Bộ TN&MT thì mới có

đủ quyền lực và thẩm quyền để triệu tập các cuộc họp có sự tham gia lãnh đạo của

bộ ngành là thành viên của UBQG về BĐKH.

- Nghiên cứu việc sát nhập Ban điều phối Chiến lược tăng trưởng xanh quốc

gia về Văn phòng UBQG về BĐKH, và đổi thành Văn phòng UBQG về BĐKH và

Tăng trưởng xanh, để thống nhất đầu mối thực hiện Chiến lược quốc gia về BĐKH

và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020 và những giai đoạn tiếp theo.

- Trên cơ sở đó xây dựng quy chế tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm và cơ chế

hoạt động của Văn phòng UBQG về BĐKH và tăng trưởng xanh.

- Tăng cường vai trò của UBQG về BĐKH trong phân bổ nguồn lực cho các

chương trình, nhiệm vụ, dự án về BĐKH ở các bộ/ngành và địa phương; xây dựng chế độ báo cáo định kỳ, thường xuyên, đột xuất về thực hiện nhiệm vụ.

b. Hình thành tổ chức điều phối vùng

25 Trước đây có Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ (BCĐ TNB) - tổ chức chỉ đạo điều phối vùng, được thành lập theo Quyết định số 56-QĐ/TW ngày 09/12/2002, tiếp theo là Quy định số 89-QĐ/TW ngày 03/10/2007 và Quy định số 96-QĐ/TW ngày 28/5/2012 của Bộ Chính trị về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy,

153

- Nhằm thống nhất trong chỉ đạo, điều hành, giám sát thực thi chính sách ứng phó với BĐKH và PTBV, cần nghiên cứu thành lập Hội đồng điều phối vùng, để thay cho mô hình BCĐ TNB trước đây.25 Mô hình quản lý này sẽ có chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn, kinh phí để nắm vai trò ra quyết định quá trình phát triển của khu vực TNB [67].

+ Cơ cấu tổ chức: Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Vùng đồng bằng sông

Cửu Long là một Phó Thủ tướng Chính phủ phụ trách khối kinh tế tổng hợp; các

Phó Chủ tịch Hội đồng gồm: Bộ trưởng Bộ KH&ĐT, Bộ trưởng Bộ TN&MT và 01 Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố trong vùng ĐBSCL.

+ Thành viên Hội đồng: gồm 13 Chủ tịch UBND tỉnh/thành phố trong vùng;

đại diện lãnh đạo các Bộ: KH&ĐT, TN&MT, NN&PTNT, GTVT, Tài chính, Công

Thương, Xây dựng, Y tế, GD&ĐT, Văn phòng Chính phủ.

+ Các cơ quan giúp việc của Hội đồng: văn phòng, tổ tư vấn, trong đó có tư

vấn về BĐKH và PTBV và nhóm công tác (được thành lập theo nhiệm vụ và tự giải

thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ).

+ Chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền chủ yếu sau:

(i) Phối hợp với các địa phương thực hiện Quy hoạch vùng ĐBSCL giai đoạn

2021-2030, tầm nhìn 2050; giám sát việc triển khai thực hiện quy hoạch theo đúng

quy định của Luật Quy hoạch.

(ii) Thông qua kế hoạch điều phối liên kết hàng năm; thống nhất kế hoạch liên

kết các địa phương trong vùng, xây dựng nội dung, quy mô, mức độ tính chất thực

hiện các liên kết, phương thức tổ chức thực hiện các liên kết, trong đó có liên kết

ứng phó với BĐKH.

(iii) Thông qua danh mục đầu tư các chương trình, dự án liên kết vùng và các

dự án mang tính liên kết vùng, trong đó có liên kết ứng phó với BĐKH; tổ chức

giám sát và kiểm tra thực hiện [11].

- Sau khi thành lập Hội đồng vùng, Hội đồng sẽ thành lập Tổ tư vấn về PTBV

và BĐKH vùng TNB: đây sẽ là nơi quy tụ các nhà khoa học, nhà quản lý, doanh

địa bàn hoạt động, quan hệ công tác của các ban chỉ đạo: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Theo đó, BCĐ Tây Nam Bộ là cơ quan trực thuộc Bộ Chính trị, Ban Bí thư, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ: Chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương; nghiên cứu, tham mưu, đề xuất cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội….liên kết vùng, ứng phó biến đổi khí hậu ở vùng TNB. Từ khi thành lập năm 2002, BCĐ TNB đã triển khai các hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ; đặc biệt là phát triển kinh tế vùng, đầu mối đề xuất nhiều cơ chế, chính sách phát triển vùng, ứng phó BĐKH, NBD. Tuy nhiên, hoạt động thực tiễn đặt ra nhiều vấn đề đối với mô hình tổ chức chỉ đạo điều phối vùng này, đặc biệt là cần có cơ chế pháp lí về ứng phó với BĐKH ở cấp vùng hiệu quả, thiết thực và hình thành tổ chức có thực quyền điều phối thực hiện. Tại Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 6 (tháng 10/2017), Trung ương đã quyết định kết thúc hoạt động của ba Ban Chỉ đạo: Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và chính thức kết thúc hoạt động vào 31/3/2018.

154

nhân… thuộc các lĩnh vực liên ngành khác nhau và am hiểu về TNB. Đồng thời, tổ tư

vấn sẽ là cơ quan tham mưu tư vấn cho Hội đồng vùng về các chiến lược phát triển

của đồng bằng, các dự án BĐKH có quy mô lớn, mang tính tổng hợp, liên vùng [82].

c. Hình thành tổ chức bộ máy chuyên trách về biến đổi khí hậu

Nghiên cứu thành lập Văn phòng điều phối Chương trình BĐKH, Tăng trưởng

xanh và Giảm nhẹ rủi ro thiên tai cấp tỉnh/thành ở vùng TNB.

- Văn phòng là cơ quan thường trực và giúp việc cho Ban chỉ đạo cấp tỉnh thực hiện Chương trình BĐKH và tăng trưởng xanh; Chương trình giảm nhẹ rủi ro thiên tai trên địa bàn các tỉnh/thành vùng TNB.

- Văn phòng điều phối Chương trình BĐKH, Tăng trưởng xanh và Giảm nhẹ

rủi ro thiên tai cấp tỉnh/thành có con dấu riêng; được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà

nước và Ngân hàng theo quy định của pháp luật.

- Văn phòng Điều phối Chương trình BĐKH, Tăng trưởng xanh và Giảm nhẹ

rủi ro thiên tai thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điểm b, Khoản 2,

Điều 1 Quyết định 1996/QĐ-TTg ngày 04/11/2014 của Thủ tướng Chính phủ, cụ

thể như sau:

i) Xây dựng kế hoạch, tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chương trình

BĐKH và tăng trưởng xanh; Chương trình giảm nhẹ thiên tai cấp tỉnh/thành.

ii) Chủ trì, phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở NN&PTN

tham mưu xây dựng kế hoạch vốn, phân bổ và giám sát tình hình thực hiện vốn

ngân sách và các nguồn vốn huy động khác để thực hiện các nhiệm vụ, dự án ứng

phó với BĐKH và giảm nhẹ thiên tai trên địa bàn tỉnh/thành.

iii) Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách và cơ chế phối hợp hoạt động liên

ngành để thực hiện có hiệu quả Chương trình BĐKH và tăng trưởng xanh, giảm nhẹ

thiên tai trên địa bàn tỉnh/thành.

iv) Theo dõi, tổng hợp tình hình thực hiện Chương trình BĐKH và tăng

trưởng xanh, giảm nhẹ thiên tai trên địa bàn tỉnh/thành; kiến nghị những vấn đề mới phát sinh trong từng giai đoạn cụ thể, đề xuất giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn để

thực hiện có hiệu quả chương trình.

v) Chuẩn bị nội dung, chương trình cho các cuộc họp, hội nghị, hội thảo của Ban Chỉ đạo tỉnh/thành và báo cáo theo yêu cầu của Trưởng ban Chỉ đạo tỉnh/thành.

vi) Tổ chức công tác thông tin, tuyên truyền về Chương trình Chương trình

BĐKH và tăng trưởng xanh, giảm nhẹ thiên tai; tổ chức đào tạo, tập huấn, bồi

155

dưỡng công tác ứng phó với BĐKH và giảm nhẹ rủi ro thiên tai cho đội ngũ cán bộ các cấp.

vii) Xây dựng phương án xã hội hóa huy động các nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng có trách nhiệm chung tai ứng phó với BĐKH, giảm nhẹ rủi ro thiên tai.

- Tổ chức bộ máy của Văn phòng Điều phối Chương trình BĐKH, tăng

trưởng xanh và Giảm nhẹ thiên tai tỉnh/thành, có Chánh Văn phòng, các Phó

Chánh Văn phòng.

i) Chánh Văn phòng Điều phối Chương trình do Giám đốc Sở TN&MT kiêm nhiệm; chịu trách nhiệm trước Trưởng ban Chỉ đạo tỉnh, Chủ tịch UBND tỉnh và

trước pháp luật về toàn bộ hoạt động của Văn phòng.

ii) Phó Chánh Văn phòng Điều phối Chương trình tỉnh là người giúp Chánh Văn phòng, phụ trách một hoặc một số lĩnh vực công tác do Chánh Văn phòng phân

công, chịu trách nhiệm trước Chánh Văn phòng và trước pháp luật về nhiệm vụ

được phân công. Chánh Văn phòng, Phó Chánh Văn phòng Điều phối Chương trình

do Chủ tịch UBND tỉnh quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm theo quy định của Đảng

và Nhà nước về công tác quản lý cán bộ.

iii) Tổ chức của Văn phòng điều phối Chương trình có một số phòng chuyên

môn nghiệp vụ.

iv) Biên chế của Văn phòng Điều phối Chương trình tỉnh/thành là biên chế

công chức, viên chức hành chính được điều động từ các sở: Sở TN&MT, Sở

NN&PTNT, Sở KH&ĐT.

- Kinh phí hoạt động của Văn phòng điều phối Chương trình do ngân sách

tỉnh/thành bố trí hàng năm. 4.3.1.2. Hoàn thiện khâu xây dựng và ban hành chính sách

Hiện nay, chính sách ứng phó với BĐKH có nhiều nội dung còn quy định

chung chung, cần phải tham chiếu vào các quy định trong nhiều chính sách khác

hoặc phải ban hành quyết định hướng dẫn mới áp dụng được ở các địa phương.

Điều này gây khó khăn không chỉ cho cơ quan tổ chức triển khai chính sách, mà

còn cho đối tượng thụ hưởng chính sách, đặc biệt là các đơn vị, cá nhân muốn tham

gia vào hoạt động ứng phó với BĐKH. Vì thế, kiến nghị với Bộ TN&MT nghiên

cứu sửa đổi Quyết định triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu ứng phó với

BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020. Trong đó, cách thức xây dựng

Quyết định nên chuyển từ quy định khung sang quy định cụ thể và chi tiết cho từng

nội dung cụ thể của Chương trình. Nếu xây dựng chi tiết đến mức không cần phải

tham chiếu văn bản chính sách khác, hoặc không phải ban hành các quy định hướng

156

dẫn nữa thì càng tốt, ban hành là thực hiện được ngay.

Trong quá trình hoạch định các chính sách BĐKH, kiến nghị với Bộ TN&MT trong quá trình hoạch định chính sách cần phối hợp với Bộ NN&PTNT, Bộ

KH&ĐT, Bộ Tài chính cũng như các Bộ liên quan, cần tăng cường tham vấn nhiều

hơn nữa ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học, các địa phương, bên thụ hưởng

chính sách, đặc biệt là nhóm đối tượng chịu sự tác động của BĐKH. Nếu thực hiện tốt các hoạt động tham vấn trong quá trình hoạch định sẽ là mấu chốt làm cho chính

sách khi ban hành sẽ sát với thực tiễn, đi vào cuộc sống, tạo nên tính ổn định và

hiệu quả lâu dài của chính sách BĐKH.

4.3.1.3. Nguồn kinh phí cho ứng phó với biến đổi khí hậu

Chính phủ cần ưu tiên ngân sách cho ứng phó với BĐKH như dòng ngân sách

của Chương trình Nông thôn mới đưa quy định ngân sách chi cho BĐKH vào Luật

Đầu tư công, để Trung ương và địa phương chủ động được nguồn ngân sách cho

BĐKH. Đồng thời, cần thể chế hoá quy định tỷ lệ chi cho BĐKH trong dòng chi

ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương.

4.3.1.4. Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển bền vững vùng Tây Nam Bộ

Trên cơ sở quy hoạch quốc gia, sẽ rà soát, điều chỉnh, xây dựng mới các quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, các chương trình, dự án mang tính tổng thể, liên ngành, liên vùng.26Với quan điểm chủ đạo là quy hoạch vùng TNB sẽ được lập theo nguyên tắc tôn trọng sự vận hành tự nhiên của hệ sinh thái và chủ động thích ứng với BĐKH; thay thế cho quan điểm ứng phó, chống chọi, can thiệp sâu vào hệ thống điều hòa tự nhiên, làm hủy hoại môi trường và hệ sinh thái. Do vậy, quy hoạch mới sẽ dựa vào các trụ cột chính như sau:

- Lập quy hoạch tích hợp không chỉ xem xét các tiềm năng, nhu cầu và vấn đề

của một ngành, mà xem xét tất cả các ngành và các nhóm lợi ích liên quan.

- Phương pháp lập quy hoạch tích hợp cho phép kết nối thống nhất giữa định

hướng phát triển KT-XH, BVMT và thích ứng BĐKH với phương án tổ chức không

gian phát triển.

- Sự tích hợp không chỉ về chiều ngang mà cả theo chiều dọc dựa trên sự

tham gia và đồng thuận của các bên có liên quan đến quy hoạch. Do đó, lập quy hoạch tích hợp giúp giải quyết các vấn đề về cạnh tranh hoặc xung đột lợi ích. Đối với cấp vùng, quy hoạch vùng tích hợp giúp giải quyết các vấn đề có tính liên tỉnh,

26 Cần điều chỉnh, hoạch xây dựng mới các quy hoạch sau đây phù hợp với quy hoạch chung: quy hoạch sử dụng đất đai; quy hoạch tổng thể KT-XH vùng; quy hoạch du lịch, giao thông, xây dựng, năng lượng phù hợp với quy hoạch quản lý tổng hợp tài nguyên nước; quy hoạch nông nghiệp, quy hoạch thủy sản, quy hoạch thủy lợi; quy hoạch lâm nghiệp và rừng ngập mặn vùng TNB…

157

liên ngành, liên vùng và các vấn đề chung của toàn vùng.

- Lập quy hoạch tích hợp là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất để thống nhất và hài hòa 3 trụ cột chính của PTBV là: kinh tế - xã hội - môi trường;

đảm bảo sự kết nối và điều phối về lợi ích và cơ chế chính sách giữa các ngành,

lĩnh vực [10].

4.3.2. Giải pháp hoàn thiện việc thực hiện chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu 4.3.2.1. Hoàn thiện cơ chế thực hiện chính sách thích ứng BĐKH

- Xây dựng cơ chế phối hợp, giám sát nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết

12/NQ-CP. Trước mắt, cần xây dựng ban hành các tiêu chí kiểm tra, giám sát, đánh

giá hiệu quả thực hiện của các dự án thuộc Chương trình hành động tổng thể thực

hiện Nghị quyết 120/NQ-CP.

- Xây dựng các tiêu chí cứng để lựa chọn các dự án thuộc Chương trình ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020; Chương trình thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP, như sau: (i) dự án thật sự cấp bách; (ii) dự án mang tính liên tỉnh, liên vùng; (iii) ưu tiên những giải pháp bán công trình, phi công trình; (iv) trong trường hợp xây dựng những giải pháp công trình thuỷ lợi lớn (đê biển, kè sông…) có quy lớn, liên tỉnh thì phải công bố công khai dự án và tham vấn ý kiến của cộng đồng, chuyên gia và nhà khoa học trong giai đoạn lập dự án đầu tư.

- Chính phủ cần giao Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT phối hợp với Bộ Tài chính, xây dựng quy chế tài chính giải ngân vốn của dự án thuộc Chương trình BĐKH và tăng trưởng xanh, Chương trình thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP ở TNB để các địa phương chủ động và đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn cho các dự án cấp bách thực hiện. Nếu theo quy định thủ tục giải ngân vốn theo Luật Đầu tư công hiện nay thì tiến độ xây dựng dự án, cấp vốn và quy trình giải ngân tại vùng rất chậm và phức tạp.

- Rà soát, đánh giá cơ chế thí điểm về điều phối vùng theo Quyết định 593/QĐ-TTg ngày 4/6/2016, trình Thủ tướng Chính phủ các giải pháp hoàn thiện cơ chế điều phối phát triển vùng TNB.

- Các địa phương được giao chủ trì thực hiện Đề án liên kết PTBV tiểu vùng, sớm hoàn thiện và gửi Bộ KH&ĐT thẩm định và trình Chính phủ phê duyệt 4 đề án liên kết PTBV các tiểu vùng ST-XH: tiểu vùng DHPĐ, tiểu vùng ĐTM, tiểu vùng TGLX, tiểu vùng BĐCM. 4.3.2.2. Hoàn thiện phương thức huy động các nguồn lực cho thích ứng với biến đổi khí hậu

a. Xây dựng cơ chế huy động nguồn lực tài chính linh hoạt PTBV và ứng phó

với BĐKH

- Xây dựng cơ chế, chính sách huy động, quản lý sử dụng hiệu quả các nguồn

158

lực để triển khai các chương trình, dự án PTBV TNB thích ứng với BĐKH.

- Cần phải nghiên cứu thành lập Quỹ Phát triển bền vững vùng ĐBSCL, có cơ chế quản lý hoạt động rõ ràng, để huy động những nguồn vốn cấp bách, dành riêng cho các dự án ứng phó với BĐKH và PTBV.

(i) Nguyên tắc tài chính: đóng góp tự nguyện; đóng góp theo lợi ích của bên tham gia; đóng góp theo pháp luật về ngân sách; có hỗ trợ và khuyến khích từ ngân sách Trung ương.

(ii) Hình thức tổ chức: Trên cơ sở thoả thuận đóp góp, các bên chuyển tiền vào tài

khoản chung do Ủy ban điều phối liên kết vùng quản lý theo pháp luật ngân sách.

(iii) Nguồn hình thành: Huy động vốn tư nhân; các tỉnh đóng góp; Trung ương hỗ trợ; tổ chức quốc tế và NGO; huy động vốn thông qua đổi mới, nghiên cứu, nhằm tạo chuyển biến về sinh kế, thay đổi các tập quán sử dụng tiết kiệm nguồn nước, có lợi cho môi trường, tăng cường quản lý khu vực ven biển nhờ công nghệ mới [141].

- Rà soát, điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn; các dự án thuộc chương trình MTQG về tăng trưởng xanh và BĐKH, và các dự án sử dụng ODA liên quan đến BĐKH ở vùng TNB giai đoạn 2016-2020. Trong đó, cần chú trọng tập trung rà soát lại để lựa chọn các dự án ưu tiên, cấp bách thực hiện, trên cơ sở: tổng hợp, liên vùng, liên tỉnh, liên ngành [146].

b. Cơ chế, chính sách huy động nguồn lực KH&CN hỗ trợ thích với BĐKH Cần hoàn thiện việc xây dựng và triển khai thực hiện các chương trình, nhiệm vụ nghiên cứu KH&CN trọng điểm hỗ trợ ứng phó với BĐKH ở vùng TNB, trong đó tập trung vào các lĩnh vực sau:

- Tiếp tục triển khai các chương trình, nhiệm vụ KH&CN trọng điểm cấp Nhà nước về phòng chống thiên tai; BVMT và ứng phó với BĐKH; KHCN phục vụ PTBV vùng TNB giai đoạn 2020-2025 [12].

- Đẩy mạnh nghiên cứu chọn tạo, phát triển các giống cây trồng, vật nuôi, và

giống thủy sản có tiềm năng, lợi thế thích ứng với BĐKH ở vùng TNB.

- Ưu tiên nguồn lực cho các nghiên cứu có tính ứng dụng cao trong các ngành công nghệ mũi nhọn phục vụ các ngành hàng chủ lực trong vùng TNB như công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, vật liệu mới, để chọn, tạo ra nhiều giống cây trồng, vật nuôi và quy trình nuôi trồng, bảo quản, chế biến nông sản, tạo đột phá về năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, khả năng chống chịu với BĐKH,... [12].

- Nghiên cứu kỹ thuật canh tác hữu cơ, vững bền, thân thiện với môi trường

trong các hệ thống canh tác luận canh, xen canh, sinh thái.

159

- Tăng cường đầu tư phát triển năng lực của Viện Lúa ĐBSCL, Viện Cây ăn quả, Viện Thủy sản tại vùng TNB. Khuyến khích phát triển các Viện theo hướng liên doanh với doanh nghiệp, nông dân [17].

c. Hoàn thiện cơ chế huy động vốn cho hạ tầng thích ứng với BĐKH Phải đưa ra tiêu chí quan trọng khi xây dựng các dự án đầu tư và phát triển hạ tầng tại vùng TNB là phải được điều phối, thống nhất, đảm bảo tính liên tỉnh, liên vùng vùng, liên ngành, có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình hợp lý. Trước mắt ưu tiên các công trình cấp bách, các công trình có tính chất động lực, thúc đẩy phát triển KT-XH toàn vùng.

- Thực hiện chính sách hiện đại hóa thủy lợi phục vụ chuyển đổi, phát triển nông nghiệp bền vững tại vùng sinh thái theo hướng đa dạng hóa nguồn lực và phương thức thực hiện theo hình thức PPP tại vùng TNB.

- Đầu tư, xây dựng hệ thống thủy lợi phòng chống khô hạn, điều hòa khí hậu,

phát triển sinh kế tại các tỉnh TNB.

- Đầu tư xây dựng mở rộng hệ thống cấp nước; các hồ chứa nước ngọt nhằm thích ứng với điều kiện xâm nhập mặn vùng TNB, các hồ chức tạo nguồn nước ngọt đa mục tiêu tại các địa bàn xung yếu.

- Đầu tư bảo vệ bờ biển, cũng cố nâng cấp hệ thống đê biển, phòng chống xói lở bờ biển; tập trung xử lý ngay những đoán xói lở, sạt lở bờ sông, bờ biển nghiêm trọng. - Bộ NN&PTNT và các tỉnh ven biển ở TNB cần sớm đưa ra các chính sách ưu tiên thực hiện công nghệ hạ tầng mềm, bán công trình - đê trụ rỗng để ngăn sạt lở ven biển. Mô hình công nghệ đê trụ rỗng tiêu giảm sóng được các nhà khoa học Viện Thủy công, nghiên cứu và thử nghiệm thành công ở tỉnh Cà Mau. (Xem phụ lục 1)

- Ngoài ra cần tập trung đầu tư nguồn lực cho trồng cây, trồng rừng, nhất là rừng ngập mặn ven biển để giữ đất, bảo vệ đê điều; nghiên cứu xây dựng các công trình phát triển kinh tế xã hội vùng ven biển, kết hợp với việc lấn biển, phòng chống sạt lở. 4.3.2.3. Chuyển đổi các mô hình sinh kế theo hướng bền vững thích ứng biến đổi

khí hậu phù hợp với từng tiểu vùng

a. Mô hình vùng chuyên canh thủy, hải sản: ở tiểu vùng BĐCM, tiểu vùng TGLX

- Đối với các vùng rừng ngập mặn, bãi bồi, mặt biển, chính quyền địa phương giao khoán và giao quyền cho cộng đồng đồng để phát triển các mô hình tôm, cua - rừng sinh thái; tôm - lúa hữu cơ. Đồng thời hỗ trợ kết nối với doanh nghiệp theo hình thức hợp đồng với nông dân, hình thành chuỗi giá trị.

160

- Liên kết các doanh nghiệp với nhau theo cơ chế hoạt động minh bạch, cạnh tranh công bằng, hành động thống nhất để có đủ năng lực và vị thế để đàm phán và đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật từ nước nhập khẩu, đặc biệt trong trường hợp cá tra, tôm sinh thái [17]. (xem phụ lục 4)

b. Nghiên cứu xây dựng mô hình “Làng thông minh” ở tiểu vùng ĐTM, DHPĐ

Nghiên cứu xây dựng mô hình “Làng thông minh” trên cơ sở phát triển từ

“Hội quán nông dân” ở tỉnh Đồng Tháp, phù hợp với xu hướng phát triển của thế

giới và điều kiện KTY-XH trong nước, vùng, địa phương. Phát triển một số ứng

dụng điển hình của Làng thông minh dựa trên nền tảng IoT, trí tuệ nhân tạo và

NLTT phục vụ phát triển KT-XH, văn hóa địa phương. Từ đó, ứng dụng thử

nghiệm mô hình Làng thông minh cho một địa bàn cụ thể của tỉnh Đồng Tháp, vùng

ĐTM, và DHPĐ.

Trước mắt cần tập trung nghiên cứu:

- Bộ tiêu chí và cấu trúc mô hình Làng thông minh phù hợp với xu hướng phát

triển của thế giới đặc trưng sinh thái - xã hội của địa phương.

- Thiết kế cổng thông tin điện tử về làng thông minh: Platform phục vụ các

yêu cầu giao tiếp cần thiết giữa nông dân, chính quyền và doanh nghiệp. Kết nối

internet, hệ tri thức Việt số hóa, chính quyền điện tử và các cơ sở dữ liệu khác phục

vụ sản xuất, du lịch của địa phương và quốc gia. Giám sát các thông tin chất lượng

môi trường, năng lượng, an ninh của làng. Kết nối từ điện thoại thông minh, máy

tính trung tâm, cây thông tin Hội quán.

- Cây thông tin Làng thông minh: Bộ quy chế hoạt động của cây thông tin

Làng thông minh. Hệ thống năng lượng mặt trời cung cấp cho Làng thông minh. Hệ

thống wifi trong hội quán, kết nối internet. Hệ thống chiếu sáng đèn LED cảnh

quan; Màn hình cho phép truy cập Cổng thông tin điện tử của Làng.

- Hệ thống lưu trữ, phân tích dữ liệu trung tâm: máy chủ và màn hình giám sát.

- Hệ thống chiếu sáng công cộng thông minh: Sử dụng năng lượng hybrid;

Chiếu sáng đèn LED tùy biến theo cường độ sáng tự nhiên và cảm biến.

- Mô hình hệ thống quan trắc môi trường, quan trắc khí hậu: Giám sát các

thông số cơ bản về chất lượng môi trường không khí, đất, nước thông qua mạng

cảm biến không dây. Kết nổi với công thông tin và lưu trữ dữ liệu tại máy chủ, cảnh

báo khi vượt ngưỡng cho phép.

c. Mô hình vùng chuyên canh gạo lúa gạo dựa trên liên kết chuỗi giá trị nông

nghiệp bền vững: tiểu vùng ĐTM, tiểu vùng TGLX

- Xây dựng chương trình hỗ trợ nông dân sản xuất giỏi tích tụ đất đai: hỗ trợ

tín dụng dài hạn để mua, thuê đất; miễn hoặc giảm phí chuyển nhượng đất đai giữa

các hộ nông dân trong vùng chuyên canh đã được quy hoạch, đơn giản hóa thủ tục

161

đối với chuyển nhượng đất đai giữa các hộ nông dân trong vùng chuyên canh.

- Tổ chức nông dân liên kết sản xuất theo mô hình HTX kiểu mới và liên

hiệp HTX.

- Liên kết hộ nông dân quy mô lớn/HTX kiểu mới với các doanh nghiệp đầu

vào và đầu ra lớn, có thể phát triển các mô hình liên doanh với các doanh nghiệp

xuất khẩu ở các thị trường lớn để gắn chặt với thị trường [17]. (xem phụ lục 5)

4.3.2.4. Xây dựng trung tâm thông tin, dữ liệu liên ngành hỗ trợ thích biến đổi khí hậu

Trong đó, tập trung vào những vấn đề sau đây:

- Rà soát và cập nhật số liệu phục vụ công tác quy hoạch không gian lãnh thổ,

chuyển đổi cơ cấu kinh tế và quy hoạch tổng thể PTBV thích ứng với BĐKH vùng

ĐBSCL. Trong đó, tập trung rà soát và cập nhật dữ liệu về nông nghiệp, thủy lợi,

thủy sản, rừng, phòng chống thiên tai; số liệu về KT-XH; công nghiệp; GTVT; xây

dựng; văn hóa, dân tộc, tôn giáo…

- Nâng cấp và hiện đại hóa hệ thống quan trắc, giám sát, cảnh báo và dự báo

về TN&MT. Tập trung vào các vấn đề sau đây: (i) nâng cấp và hiện đại hóa hệ

thống quan trắc, giám sát, cảnh báo và dự báo khí tượng thủy văn; (ii) nâng cấp và

hiện đại hóa hệ thống quan trắc, giám sát, cảnh báo và dự báo môi trường, bao gồm:

môi trường, biển đảo, tài nguyên nước, sụt lún, xói lở, bồi đắp vùng đồng bằng.

- Xây dựng hệ thống giám sát nguồn nước cảnh báo, dự báo hạn hán và xâm

nhập mặn vùng ĐBSCL; Xây dựng mạng lưới giám sát BĐKH, NBD cho vùng

ĐBSCL.

- Xây dựng, hoàn thiện, tích hợp hệ thống cơ sở dữ liệu liên ngành về ĐBSCL

phục vụ PTBV và thích ứng với BĐKH; đồng thời thành lập Trung tâm Dữ liệu

vùng ĐBSCL. Kết nối với cơ sở dữ liệu của Uỷ hội sông Mê Kông quốc tế; khai

thác, sử dụng có hiệu quả phục vụ đa mục tiêu, chia sẻ và tổ chức công bố cho cơ

quan, tổ chức, cá nhân liên quan.

- Đặc biệt, những thông tin này cần được tích hợp vào trong quá trình quy

hoạch, trong đó, chú trọng vào phát triển không gian, lồng ghép, liên địa phương.

Đồng thời, cần áp dụng cách tiếp cận dựa trên bằng chứng trong thiết kế, lựa chọn

địa điểm, quy mô ưu tiên đầu tư, để thông tin hiệu quả. [146].

4.3.2.5. Giải pháp tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân trong việc thực hiện chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu

162

- Cần mạnh dạn xây dựng cơ chế thí điểm mô hình “dịch vụ thủy lợi” ở một số vùng chuyên canh lúa và thủy sản có quy mô lớn phục vụ xuất khẩu tại một số tỉnh TNB, bởi nó: (i) thể hiện trách nhiệm sử dụng nước ngọt của người dân và

doanh nghiệp; (ii) để xây dựng duy tu, bảo dưỡng, vận hành hệ thống thủy lợi nội đồng ở TNB; (iii) thu hút sự đầu tư của tư nhân vào xây dựng các hồ thủy lợi, hồ chứa nước đa mục tiêu ở một số khu vực xung yếu khi mà nguồn lực của Nhà nước không đủ để đầu tư [115].

- Xây dựng cơ chế để thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân vào chương

trình hỗ trợ hiện đại hóa trang thiết bị, dịch vụ cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp. Tăng cường phối hợp giữa các định chế tài chính và doanh nghiệp để phát triển

mạnh mẽ các công cụ cho thuê tài chính cho nông dân.

- Ở các vùng tập trung sản xuất có quy mô lớn, các địa phương cần lựa chọn danh mục các công trình hồ chứa thuỷ lợi quy lớn, hồ chứa đa mục tiêu, tuyến đê biển, đê

sông xung yếu, để thí điểm mô hình đầu tư theo phương thức PPP [115, tr.3-16].

4.3.3. Giải pháp nhằm hoàn thiện việc thực hiện chính sách giảm nhẹ biến đổi

khí hậu 4.3.3.1. Giải pháp tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân tham gia giảm

nhẹ BĐKH

Cơ chế huy động sự tham gia của khu vực tư nhân vào giảm nhẹ BĐKH.

Chính phủ cần xây dựng chế tài nhằm thúc đẩy doanh nghiệp thay đổi phương thức

hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng nông nghiệp thông minh, đồng thời cắt

giảm lượng KNK phát thải ra ngoài môi trường [260]. Theo đó, những chế tài này

áp dụng đối với những doanh nghiệp không tuân thủ việc đảm bảo mức phát thải

KNK dưới một tiêu chuẩn nhất định; yêu cầu doanh nghiệp vi phạm phải áp dụng

các kỹ thuật thông minh về BĐKH trong một lộ trình thời gian xác định, bị tạm

dừng các hoạt động sản xuất kinh doanh gây hại đến môi trường, và có một cơ chế

xử phạt cho các hành vi vi phạm. Để thúc đẩy điều đó, cần tạo ra một hành lang

pháp lý và cơ chế khích lệ tốt hơn để thu hút các dự án đầu tư của khu vực tư nhân.

Đây sẽ là nguồn động viên cho người nông dân, các doanh nghiệp và các bên liên

quan khác tham gia triển khai kế hoạch hoạt động cắt giảm lượng KNK phát thải ra môi trường. Một khi hành lang pháp lý được cải thiện và xây dựng chi tiết hơn, đây

sẽ là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nghiên cứu, phát triển và đầu tư nhằm ứng dụng các công nghệ và kỹ thuật phù hợp được đề xuất [134]. 4.3.3.2. Giải pháp giảm phát thải trong ngành trồng trọt

- Vùng TNB là vùng chuyên canh lúa lớn nhất cả nước, sản xuất lúa nước

chiếm tỷ trọng phát thải KNK lớn nhất trong ngành nông nghiệp, để giảm thiểu phát

thải KNK, trong giai đoạn 2019-2025, vùng TNB cần giảm diện tích lúa, chuyển sang

163

nuôi trồng thủy sản và cây ăn trái; giảm diện tích lúa vụ ba ở một số địa phương.

- Nhân rộng nhiều mô hình canh tác tiên tiến đang được thử nghiệm như, mô hình canh tác lúa theo quy trình “1 phải - 6 giảm” (1P-6G)27, do Viện Nghiên cứu

Phát triển ĐBSCL xây dựng mô hình từ năm 2010 và được thử nghiệm thí điểm ở

một số địa phương từ năm 2010 (An Giang, Tiền Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Kiên

Giang). Mô hình đã góp phần nâng cao chất lượng lúa gạo, tăng giá trị, tiết kiệm

nguồn nước, giảm phát thải KNK và PTBV [95].

4.3.3.3. Giải pháp thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo nhằm giải phát thải KNK

Về dài hạn cần phải thiết kế các chính sách góp phần giảm nhẹ tác động của

BĐKH, bằng cách phát triển các dự án NLTT thay thế cho năng lượng hóa thạch truyền thống, góp phần giảm phát thải KNK, giảm nhẹ tác động BĐKH28 [26]. Để

đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia Quy hoạch điện VII điều chỉnh đã phải tăng

mạnh công suất nhiệt điện than từ 33% năm 2015 lên 43% năm 2030 (từ 12,9GW

lên 55,3GW). Trong vòng 15 năm tới nhiệt điện than vẫn rất quan trọng, trong

nguồn cung điện năng cho nhu cầu điện để phát triển KT-XH. Việc tập trung phát

triển điện than trong quy hoạch này sẽ đưa Việt Nam nói riêng và TNB nói chung

vào tình thế bất lợi trong bối cảnh áp lực giảm phát thải KNK của toàn cầu tăng lên,

đặc biệt là đối với ngành năng lượng [54]. Mặt khác, ước tính năng lượng Mặt trời

và năng lượng gió của khu vực miền Nam là 3.9279MW (chiếm khoảng 47,2%)

tổng tiềm năng của cả nước, như vậy tiềm năng NLTT của miền Nam gấp 3 lần

miền Bắc [177]. Do đó, để phát triển NLTT ở vùng TNB thì cần có những giải pháp

đột phá như sau:

- Cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư đang tạo ra những cơ hội để chuyển

đổi xanh trong ngành năng lượng ở vùng TNB. Cùng với những đột phá trong lĩnh

vực NLTT, cơ cấu kinh tế của vùng TNB có thể sẽ có những thay đổi lớn. Những

tỉnh nghèo, vùng nghèo ở đồng bằng Châu thổ không có lợi thế về sản xuất nông

nghiệp hay công nghiệp truyền thống mà chỉ có nắng, gió thì đang đứng trước những cơ hội lớn để rút gọn khoảng cách với các tỉnh phát triển. Nếu đi đúng hướng

164

và bắt đúng nhịp để đẩy mạnh việc phát triển năng lượng gió, Mặt trời, để giúp các địa phương này có thể giảm bớt khoảng cách chênh lệch giữa các vùng miền, địa phương, tỉnh… [114]. 27 “1 phải” là phải sử dụng hạt giống chất lượng cao được cơ quan có thẩm quyền chứng nhận, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. “6 giảm” là (i) giảm lượng hạt giống, (ii) giảm lượng phân đạm, (iii) giảm sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, (iv) giảm lượng nước tưới, (v) giảm thất thoát sau thu hoạch, (vi) giảm phát thải khí nhà kính. 28 Theo Bộ TN&MT (2018) thì ước lượng phát thải KNK trong ngành năng lượng sẽ tăng lên 320,5 triệu tấn CO2 td vào năm 2020 (chiếm 63,4% tổng lượng phát thải KNK), năm 2030 tăng lên 643,2 triệu tấn CO 2 td (chiếm 72,4% tổng lượng phát thải KNK).

- Sử dụng năng lượng TKNL&HQ cần phải được lựa chọn là phương án ưu tiên đầu tiên trước khi tính đến nhu cầu phát triển nguồn điện mới, bởi đây sẽ là

phương án tiết kiệm nhất và phù hợp với điều kiện của TNB hiện nay. Sử dụng

TKNL&HQ cần được quy định thực hiện bắt buộc, thay vì chỉ dừng lại ở khuyến

khích như hiện tại đồng thời Chính phủ cần đưa ra các chính sách ưu đãi để thúc đẩy các giải pháp sử dụng TKNL&HQ.

- Cần phải xây dựng quy hoạch NLTT giai đoan 2021-2030 cho vùng TNB.

- Cần phát triển mạnh điện Mặt trời trên mái nhà ở các trang trại, gia trại, doanh

nghiệp… vì nó có thể làm giảm nhu cầu phụ tải đỉnh, nhất là ở các tỉnh TNB [170].

- Cần khuyến khích mạnh mẽ hơn nữa đầu tư vào năng lượng tái tạo như năng

lượng gió, năng lượng Mặt trời ở TNB bằng cách cần tiếp tục phát triển giá bán

điện năng sản xuất ra từ nguồn năng lượng tái tạo hấp dẫn đối với năng lượng gió,

năng lượng Mặt trời và sinh khối hoặc các cơ chế tài chính khác (chẳng hạn như

đấu giá). Những biện pháp này tạo ra sự khuyến khích đối với các doanh nghiệp tư

nhân đầu tư vào năng lượng tái tạo tại vùng TNB.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

Từ kết quả phân tích dự báo bối cảnh mới quốc tế, khu vực và tại TNB có thể

khái quát lại thành những vấn đề sau: ảnh hưởng của Cách mạng Công nghiệp 4.0;

xu hướng hội nhập quốc tế sâu rộng, gia nhập các Hiệp định thương mại tự do thế

hệ mới; tác động của BĐKH toàn cầu; tính bất định của những vấn đề xuất phát từ

khu vực Thượng nguồn Mê Kông; và sự phát triển thiếu bền vững từ bản thân nội

tại của đồng bằng; đặc biệt, là xu hướng liên kết vùng (nội vùng và liên vùng) đang

nổi lên trong những năm gần đây. Tất cả những vấn đề nêu trên đều mang lại những

cơ hội, nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức cho TNB trong trung và dài

hạn. Những chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng trong giai đoạn tới cần phải đặt

trong bối cảnh mới nói trên.

Đồng thời, hoàn thiện việc thực hiện chính sách BĐKH không chỉ nằm ở nội

dung các bước của quy trình thực hiện chính sách mà còn cả ở các khâu khác của

chu trình chính sách BĐKH, bởi nhiều chính sách đã bộc lộ những bất cập ở khâu

hoạch định và xây dựng chính sách. Cũng dựa trên cơ sở đó, các giải pháp về nâng

cao hiệu quả thực thi chính sách BĐKH đã được nghiên cứu đề xuất vừa đảm bảo

165

tính tổng thể, dài hạn và cụ thể, vi mô để giải quyết những vấn đề cấp bách trước

mắt. Đồng thời, giải pháp ngắn hạn phải đảm bảo là yếu tố tiền đề để thực thi những

giải pháp dài hạn.

Mặt khác, dựa trên thực trạng đã phân tích ở Chương 3 và các quan điểm chủ

đạo luận án đã đưa ra các nhóm giải pháp để nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính

sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB trong giai đoạn tới như sau: giải pháp chung;

giải pháp nhằm hoàn thiện thực hiện chính sách thích ứng với BĐKH; giải pháp

166

hoàn thiện việc thực hiện chính sách giảm nhẹ BĐKH.

KẾT LUẬN

Với những nội dung đã phân tích ở bốn chương nêu trên, luận án đưa ra một

số kết luận quan trọng sau đây:

1. Luận án đã hệ thống hóa được khái niệm về thực hiện chính sách ứng phó

với BĐKH. Xây dựng được khung khổ lý luận về thực hiện chính sách ứng phó với

BĐKH. Trong đó xây dựng được quy trình cơ bản của thực hiện chính sách ứng phó

với BĐKH bao gồm: (i) xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách về

BĐKH; (ii) về phổ biến, tuyên truyền chính sách về biến đổi hậu; (iii) về phân công

phối hợp thực hiện chính sách về BĐKH; (iv) triển khai thực thi chính sách; (v)

kiểm tra, đánh giá việc thực hiện chương trình, dự án về BĐKH. Luận án đã nhấn

mạnh để chính sách ứng phó với BĐKH thực thi có hiệu quả thì phải đảm bảo các

nhân tố sau đây: (i) nhân tố liên quan đến bản thân chính sách về BĐKH; (ii) nhân

tố chủ quan; (iii) nhân tố khách quan. Đồng thời luận án đã xây dựng được khung lý

thuyết tiếp cận vùng ST-SH trong ứng phó với BĐKH.

2. Từ nghiên cứu, phân tích, so sánh kinh nghiệm về thực hiện chính sách ứng

phó với BĐKH của Banglades, Thái Lan và Hà Lan, đã rút ra được sáu bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam nói chung và vùng TNB nói riêng. Trong đó có những bài

học quan trọng, đó là: Hình thành tổ chức điều phối về ứng phó với BĐKH; sự tham

gia của khu vực doanh nghiệp, tư nhân trong ứng phó với BĐKH; chú trọng vào các

biện pháp giảm nhẹ khí hậu thông qua các công cụ thuế các bon, TKNL, NLTT…

3. Qua các nội dung đã phân tích của luận án, cho thấy hiện tại và tương lai

vùng TNB đang phải đối mặt với những thách thức lớn nhất do thiên tai và BĐKH

gây ra. BĐKH và thiên tai đang gây ra những tổn thất nặng nề về KT-XH, MT sinh

thái và sinh kế cộng đồng ở vùng TNB. Do vậy, việc hoạch định và thực thi chính

sách BĐKH có vai trò rất lớn trong việc hạn chế những rủi ro, thảm hoạ do BĐKH

gây ra cho vùng.

Đồng thời luận án đã phân tích được các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thực

hiện chính sách ở vùng TNB, trong đó nhấn mạnh vai trò của nhân tố bản thân chính

sách BĐKH. Để ứng phó với BĐKH trong thời gian qua, khung chính sách ứng phó

với BĐKH của Việt Nam đã được hình thành ở các cấp độ khác nhau, từ Trung ương

đến địa phương. Đồng thời, để thực hiện CTMTQG về ứng phó với BĐKH tại địa

167

phương các tỉnh/thành vùng TNB đã ban hành khoảng hơn 300 văn bản quy pháp

pháp luật dưới các hình thức khác nhau, để thực hiện chính sách ứng phó BĐKH tại

các địa phương. Đặc biệt, Chính phủ ban hành Nghị quyết 120/NQ-CP ngày

17/11/2017 về Phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi

khí hậu. Tiếp đến là nhân tố năng lực của bộ máy tổ chức thực hiện chính sách và

nhân tố các yếu tố đặc thù về văn hóa, con người, lối sống của vùng TNB.

4. Luận án đã phân tích, tổng hợp được năm bước thực hiện chính sách ứng

phó ở vùng TNB, trong đó nhấn mạnh khâu triển khai thực thi chính sách. Luận án

đã luận chứng được rằng, Chính phủ đã ưu tiên phân bổ vốn đầu tư rất lớn cho thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH ở vùng TNB. Trong giai đoạn 2011-2017 vùng

đã được Trung ương phân bổ khoảng 12.879 tỷ đồng cho các dự án, nhiệm vụ

BĐKH. Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2011-2017, nguồn vốn viện trợ ODA từ các tổ

chức quốc tế và Chính phủ các nước hỗ trợ cho các dự án liên quan đến ứng phó với

BĐKH cho vùng TNB khoảng hơn 764 triệu USD. Mặt khác, Chương trình ứng phó

với BĐKH và Tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020, vùng TNB được Chính phủ

ưu tiên phân bổ vốn đầu tư công trung hạn với tổng vốn đầu tư 11.000 tỷ đồng. Các

nguồn lực trên đã góp phần hỗ trợ các địa phương vùng TNB trong ứng phó với

BĐKH. Tuy nhiên, qua đó chúng ta có thể thấy nguồn lực để thực thi chính sách

BĐKH hiện nay vẫn chủ yếu lấy từ nguồn đầu tư công trung hạn, hoặc dự phòng

đột xuất của Trung ương; viện trợ, vay ODA của nước ngoài; mà chưa huy động,

hay đóng góp từ khu vực tư nhân (nhóm gây phát thải KNK).

Hơn nữa, việc thực hiện sách BĐKH cũng như các chính sách khác, cho thấy hầu hết các chính sách về BĐKH đều có độ trễ nhất định. Bên cạnh đó, tác động của

BĐKH và thiên tai ngày càng lớn, bất thường và trái với quy luật, vượt qua khả

năng phòng và chống vật lý của con người. Vì vậy, việc triển khai thực hiện chính

sách BĐKH, nhiều khi đầu tư chi phí nguồn lực rất lớn, nhưng kết quả ứng phó lại

không được như kỳ vọng ban đầu.

Luận án cũng đã chứng minh được rằng trong quá trình thực hiện chính sách BĐKH ở vùng TNB đã bộc lộ những bất cập, hạn chế như sau: các chính sách ứng

phó với BĐKH hiện hành còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ và đồng hướng; năng lực tổ chức bộ máy thực hiện chính sách còn nhiều yếu kém; nguồn lực cho ứng phó với BĐKH chưa đáp được nhu cầu thực tế của các địa phương; phân bổ đầu tư công cho BĐKH vẫn theo hình thức kế hoạch hoá tập trung; chưa thu hút được sự tham gia của khu vực tư nhân trong thực hiện chính sách ứng phó

168

với biến đổi khí hậu. Các hạn chế nói bắt nguồn từ các nguyên nhân khách quan và chủ quan.

5. Luận án đã xác định các quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách BĐKH vùng TNB, như sau: giải pháp chung; giải pháp nhằm hoàn

thiện thực hiện chính sách thích ứng với BĐKH; Tuy nhiên, về dài hạn cần tập

trung vào việc hoàn thiện thực các chính sách giảm nhẹ ảnh hưởng của BĐKH.

Tóm lại, trong bối cảnh phát triển mới, vùng TNB cũng đang đối diện với

nhiều thách thức và nguy cơ bất định. Do đó, để đảm bảo cho sự PTBV và thịnh

vượng, trù phú của đồng bằng, trong giai đoạn 2021-2030, Nhà nước vẫn đóng vai

trò quan trọng trong việc kiến tạo các chính sách ứng phó với BĐKH và cần phải

chuyển sang hướng “chủ động thích ứng với BĐKH” phù hợp với từng vùng sinh

thái xã hội theo tinh thần “thuận thiên” của Nghị quyết 120/NQ-CP.

Mặc dù vậy, luận án còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế và khiếm khuyết, do thiếu

thời gian và các nguồn lực nên phạm vi địa bàn nghiên cứu của luận án mới chỉ

được thực hiện ở 8/13 tỉnh vùng TNB. Đối tượng điều tra chủ yếu là các cán bộ

thực thi chính sách BĐKH ở cấp tỉnh, chưa điều tra được nhóm doanh nghiệp,

người dân, để đối chứng. Việc đánh giá tác động của việc thực thi chính sách, chưa

được đánh giá bằng các tiêu chí định lượng, đo lường và đưa vào bảng hỏi. Và

những khoảng trống đó của luận án, cũng là hướng nghiên cứu mà NCS sẽ tiếp tục

169

theo đuổi nghiên cứu trong tương lai, để hoàn thiện chủ đề nghiên cứu nói trên.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN CỦA TÁC GIẢ 1. Hà Huy Ngọc. 2019. “Thực hiện chính sách tài chính cho biến đổi khí hậu ở một

số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển bền vững

Vùng, quyển 9, số 3, tháng 9-2019.

2. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc. 2019. “Mô hình điều phối liên kết vùng: Kinh

nghiệm quốc tế và và bài học kinh nghiệm cho vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp

chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, số 9(281), trang 60-70.

3. Bùi Nhật Quang, Hà Huy Ngọc. 2019. “Thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP về

phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu: Sau

hai năm nhìn lại”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 9 (496)/09-2019.

4. Nguyễn Quang Thuấn, Hà Huy Ngọc, Phạm Sỹ An. 2019. “Giải pháp thích ứng

với biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh mới”, Tạp chí

Khoa học xã hội Việt Nam, số 3, tr.3-16.

5. Hà Huy Ngọc. 2018. “Thực hiện chính sách thích ứng với biến đổi khí hậu ở

vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Phát triển bền vững Vùng, số 4, trang 60-

73.

6. Hà Huy Ngọc, Bùi Quang Tuấn. 2018. “Ứng phó với tác động của biến đổi khí

hậu ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7, tr.29-39.

7. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc. 2018. “Thực hiện chính sách liên kết vùng nhằm

ứng phó với BĐKH ở vùng Tây Nam Bộ trong bối cảnh mới”, Tạp chí Nghiên cứu

kinh tế, số 7 (482), tr.52-64.

8. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc. 2018. “Tăng trưởng xanh con đường thực hiện

tăng trưởng bền vững và ứng phó với BĐKH ở Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề

Kinh tế và Chính trị thế giới, số 8 (268).

9. Nguyễn Song Tùng, Hà Huy Ngọc và nhóm tác giả. 2017. Cơ chế, chính sách

170

liên kết vùng trong ứng phó với BĐKH ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu tiếng Việt 1. Nguyễn Ngọc Anh. 2016. Nghiên cứu mô hình cộng đồng quản lý tài nguyên

nước bền vững tại đồng bằng sông Cửu Long (nghiên cứu trường hợp hai

tỉnh: Cà Mau và Hậu Giang), Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ TN&MT, mã số

TNMT.2015.02.13.

2. Nguyễn Ngọc Anh. 2016. “Hạn - mặn lịch sử 2016 ở đồng bằng sông Cửu

Long: bài học kinh nghiệm và những giải pháp ứng phó”, Tạp chí Khoa học

và Công nghệ Việt Nam, Hà Nội.

3. Nguyễn Tuấn Anh. 2018. Nghiên cứu đánh giá tác động của biến đổi khí hậu,

thiên tai, hoạt động nhân sinh nhằm đề xuất giải pháp, mô hình phát triển bền

vững khu vực ven sông Hậu, Thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc gia

“KH&CN ứng phó với BĐKH, quản lý TN&MT giai đoạn 2016-2020”, mã số

BÐKH.26/16-20.

4. Lê Huy Bá, Nguyễn Xuân Hoàn. 2017. Khô hạn, xâm ngập mặn ở đồng bằng

Sông Cửu Long, Nxb Đại học Quốc gia, Tp Hồ Chí Minh.

5. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống thiên tai. 2016. Báo cáo về tình hình

thiệt hại do thiên tai gây ra năm 2016, Hà Nội.

6. Bộ Chính trị. 2003. Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/01/2003 về Phương

hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh

quốc phòng vùng ĐBSCL thời kỳ 2001-2010, Hà Nội.

7. Bộ Công Thương. 2016. Bản tin ngành hàng và Thị trường xuất khẩu, Hà Nội.

8. Bộ KH&ĐT. 2012. “Việt Nam một số điển hình phát triển bền vững”, Báo cáo

tại Hội nghị cao cấp về Phát triển bền vững (Rio + 20), Hà Nội.

9. Bộ KH&ĐT. 2015. Ngân sách cho ứng phó biến đổi khí hậu ở Việt Nam: Đầu

tư thông minh vì tương lai bền vững, Báo cáo nghiên cứu chính sách, Hà Nội.

10. Bộ KH&ĐT. 2017. “Báo cáo tham luận Lập quy hoạch tổng thể đồng bằng

sông Cửu Long”, Báo cáo tại Hội nghị Phát triển bền vững vùng đồng bằng

sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu, Cần Thơ.

11. Bộ KH&ĐT. 2019. “Tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP

của Chính phủ về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí

171

hậu”, Báo cáo tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển khai thực

hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng

bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.

12. Bộ KH&CN. 2017. “Báo cáo Kết quả NCKH và CN ứng phó biến đổi khí hậu

vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2011-2015 thuộc Chương trình

khoa học, công nghệ cấp Quốc gia mã số KHCN- BĐKH/11-15”, Báo cáo tại

Hội nghị Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến

đổi khí hậu, Cần Thơ.

13. Bộ NN&PTNT và Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ. 2014. Báo cáo Kỷ yếu Hội thảo

MDEC Sóc Trăng năm 2014: Tái cơ cấu phát triển nông nghiệp gắn với xây

dựng nông thôn mới thích ứng với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng song Cửu

Long, Sóc Trăng.

14. Bộ NN&PTNT, GIZ. 2014. Báo cáo Tổng kết Chương ICMP/CCCEP Giai

đoạn I (2011-2014), GIZ, Hà Nội.

15. Bộ NN&PTNT. 2014. Quyết định số 639/QĐ-BNN-KH ngày 02/4/2014 Phê

duyệt Quy hoạch nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long đến

năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 trong điều kiện biến đổi khí hậu, Hà Nội.

16. Bộ NN&PTNT. 2016. Báo cáo tình hình thiệt hại do hạn hán và xâm nhập

mặn ở Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.

17. Bộ NN&PTNT. 2017. “Giải pháp chuyển đổi nông nghiệp bền vững cho các

tiểu vùng ở đồng bằng sông Cửu Long”, Báo cáo tại Hội nghị Phát triển bền

vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu, Cần Thơ.

18. Bộ NN&PTNT. 2017a. “Sạt lở bờ sông biển đồng bằng sông Cửu Long, giải

pháp thích ứng với BĐKH”, Báo cáo tại Hội nghị Phát triển bền vững vùng

đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu, Cần Thơ.

19. Bộ NN&PTNT. 2019. “Lũ lụt, xâm nhập mặn, ứng phó với sạt lở vùng đồng

bằng sông Cửu LongTrung tâm Quy hoạch và Điều tra TNN quốc gia (2019),

Nguy cơ suy giảm mực nước, xâm nhập mặn, sụt lún nền đất và các giải pháp

giảm thiểu Vùng ĐBSCL”, Báo cáo tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai

năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát

triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp

Hồ Chí Minh.

20. Bộ NN&PTNT. 2019b. “Định hướng nghiên cứu và chuyển giao ứng dụng

công nghệ nông nghiệp cho vùng ĐBSCL nhằm thích ứng với BĐKH”, Báo

172

cáo tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển khai thực hiện Nghị

quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông

Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.

21. Bộ NN&PTNN (2020), “Thực trạng hạn hán, xâm nhập mặn vùng ĐBSCL

năm 2019-2020”, Báo cáo tại Hội nghị "Phòng chống hạn hán, xâm nhập

mặn, bảo đảm sản xuất nông nghiệp và dân sinh khu vực Đồng bằng sông

Cửu Long mùa khô 2019-2020", Bến Tre 3/1/2020.

22. Bộ TN&MT. 2008. Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí

hậu, Hà Nội.

23. Bộ TN&MT. 2016. Dự án Chống chịu khí hậu tổng hợp và sinh kế bền vững

đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.

24. Bộ TN&MT. 2016. Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt

Nam, Nxb Tài nguyên môi trường và Bản đồ, Hà Nội.

25. Bộ TN&MT. 2017. “Tổng quan về thách thức và cơ hội, giải pháp chuyển đổi

mô hình phát triển cho vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Báo cáo tại Hội nghị

Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí

hậu, Cần Thơ.

26. Bộ TN&MT. 2018. Thống báo quốc gia lần thứ ba của Việt Nam cho công

ước Khung của Liệp Hợp Quốc về biến đổi khí hậu, Hà Nội.

27. Bộ TN&MT. 2019. “Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của

Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với

biến đổi khí hậu”, Báo cáo tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển

khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền

vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí

Minh.

28. Bộ TN&MT. 2019b. “Báo cáo Tài nguyên nước và giải pháp ứng phó với sụt

lún đất khu vực thành phố Hồ Chí Minh và vùng đồng bằng sông Cửu Long”,

Báo cáo tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển khai thực hiện

Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng

sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.

29. Bộ TN&MT. 2019c. “Báo cáo về quản lý tài nguyên nước, tình hình lũ lụt,

xâm nhập mặn, ứng phó với sụt lún, sạt lở vùng Đồng bằng sông Cửu Long”,

Báo cáo tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển khai thực hiện

Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững Đồng bằng

173

sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.

30. Lê Ngọc Cầu. 2017. Nghiên cứu cơ sở khoa học xây dựng bộ tiêu chí đánh giá

hiệu quả các mô hình kinh tế cấp huyện thích ứng với biến đổi khí hậu vùng

đồng bằng sông Cửu Long, thí điểm tại một huyện điển hình, Đề tài khoa học

cấp Bộ, Đề Bộ TN&MT, mã số TNMT. 2017.05.22.

31. Chính phủ Việt Nam, Vương quốc Hà Lan. 2013. Kế hoạch đồng bằng sông

Cửu Long.

32. Lê Thanh Chương. 2017. Nghiên cứu giải pháp hợp lý và công nghệ thích hợp

phòng chống xói lở, ổn định bờ biển đoạn từ Sóc Trăng đến Mũi Cà Mau, Mã

số ĐTĐL.CN-08/17.

33. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2012. Công tác lập kế

hoạch ngân sách và quản trị sự ứng phó với biến đổi khí hậu tại tỉnh Cà Mau.

34. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2013. Phân tích các

danh mục đầu tư ứng phó với BĐKH và sự phản ánh các danh mục đầu tư đó

vào kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh Cà Mau và ngân sách hàng năm.

35. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2013b. Xếp loại các

dịch vụ và khoản đầu tư công cấp tỉnh có liên quan đến công tác thích ứng với

biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long.

36. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2014. Đánh giá

chương trình thí điểm bảo hiểm của Chính phủ tại tỉnh Cà Mau, giai đoạn

2011-2013.

37. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2016a. Lập kế hoạch

và ngân sách ứng phó với biến đổi khí hậu tại đồng bằng sông Cửu Long.

38. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2016b. Nông nghiệp

thông minh thích ứng với biến đổi khí hậu tại ĐBSCL.

39. Chương trình quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICMP). 2017. Phát triển kinh

tế hợp tác và tổ hợp tác phục vụ liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa gắn với cánh

đồng mẫu lớn tại 4 tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, An Giang.

40. Lê Khắc Côi. 2013. Rà soát các khung khổ chính sách nhằm thích ứng với

thiên tai và biến đổi khí hậu ở cấp Trung ương và 5 tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu,

Kiên Giang, An Giang, Sóc Trăng, nghiên cứu trong khuôn khổ dự án “Biến

đổi khí hậu và hệ sinh thái ven biển (CCCEP)”, Bộ NN &PTNTvà GIZ.

41. Cục Biến đổi khí hậu. 2017. Báo cáo tình hình thực hiện các dự án biến đổi

174

khí hậu ở Việt Nam, Hà Nội.

42. Cục Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu. 2014. Báo cáo tình hình thực

hiện các dự án biến đổi khí hậu, Hà Nội.

43. Cục Khí tượng thuỷ văn và Biến đổi khí hậu. 2017. Cơ sở dữ liệu thống kê

tình hình thực hiện các dự án liên quan đến BĐKH ở Việt Nam giai đoạn

2011-2017, Hà Nội.

44. Cục Quản lý Tài nguyên nước. 2017. Tài nguyên nước thực trạng - thách thức

và định hướng quản lý, sử dụng tài nguyên nước nhằm phát triển bền vững

đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.

45. Lê Vinh Danh. 2001. Chính sách công của Hoa Kỳ: Giai đoạn 1935-2001,

Nxb Thống Kê, Hà Nội, tr.287-293.

46. Delta Programme. 2017. “Chương trình đồng bằng, Chiến lược của chính phủ

Hà Lan”, , (truy cập

ngày 20 tháng 2 năm 2018).

47. Lê Việt Dũng. 2018. “Vai trò của Trường Đại học Cần Thơ trong việc tham

gia thực hiện Nghị quyết 120/CP”,Kỷ yếu Hội thảo Sau một năm thực hiện NQ

120/NQ-CP cửa Chính phủ về PTBV ĐBSCL thích ứng với BĐKH, Đại học

Cần Thơ.

48. Vũ Cao Đàm. 1996. Khoa học quản lý đại cương, Bài giảng, Đại học đại

cương, ĐHQG Hà Nội.

49. Vũ Cao Đàm. 2011. Kỹ năng phân tích và hoạch định chính sách, Trung tâm

Nghiên cứu và phân tích chính sách, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.13.

50. Vũ Cao Đàm, Trịnh Ngọc Thạch và Đào Thanh Trường. 2017. Kỹ năng đánh

giá chính sách, Nxb Thế giới, Hà Nội.

51. Trần Thọ Đạt và Nguyễn Thị Hoài Thu. 2012. Biến đổi khí hậu và sinh kế ven

biển, Nxb Giao thông vận tải.

52. GIZ. 2013. Hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính phù hợp với điều kiện

quốc gia (NAMA).

53. GreenID. 2016. Phát triển nhiệt điện than ở đồng bằng sông Cửu Long:

Những điều cần làm rõ, Báo cáo nghiên cứu, Hà Nội.

54. GreenID. 2018b. Báo cáo nghiên cứu kịch bản phát triển nguồn điện tại Việt

Nam, Hà Nội.

55. Trần Thanh Hà. 2012. “Một số vấn đề về phân vùng kinh tế Việt Nam”, Bài

tham luận trong kỷ yếu Hội thảo Cơ sở khoa học cho phát triển vùng trong bối

175

cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.

56. Đỗ Phú Hải. 2017. Tổng quan về chính sách công, Nxb Chính trị quốc gia - Sự

thật, Hà Nội.

57. Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa.2013. Đại cương về chính sách công, Nxb

Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, tr.337-341.

58. Trương Quang Hải. 2012. “Cấp vùng trong hệ thống các đơn vị tổ chức lãnh

thổ phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam”, Bài tham luận trong kỷ yếu Hội

thảo Cơ sở khoa học cho phát triển vùng trong bối cảnh hội nhập quốc tế của

Việt Nam, Nxb Thế giới, Hà Nội.

59. Hồ Việt Hạnh. 2018. Thực thi chính sách Khoa học và Công nghệ, Bài giảng

Tài liệu bồi dưỡng chức danh nghiên cứu viên chính, Học viện Khoa học

Công nghệ và Đổi mới sáng tạo.

60. Trần Hữu Hiệp, Hà Huy Ngọc, Nguyễn Song Tùng. 2015. “Liên kết vùng

trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam (Qua nghiên cứu trường hợp

đồng bằng sông Cửu Long)”, Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(8),

tr.17-24.

61. Nguyễn Trung Hiếu và các tác giả. 2012. “Phân vùng sinh thái nông nghiệp ở

ĐBSCL: Hiện trạng và xu hướng thay đổi trong tương lai dưới tác động của

biến đổi khí hậu”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ IV, Viện Hàn

lâm KHXH Việt Nam và Đại học QGHN tổ chức, Hà Nội.

62. Lê Văn Hòa. 2016. Quản lý thực thi chính sách công theo kết quả, Nxb Chính

trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

63. Hoàng Văn Hoan. 2015. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tài chính nhằm huy

động, quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính trong ứng phó với

tác động của biến đổi khí hậu tại Việt Nam, Đề tài cấp Nhà nước KH&CN

phục vụ Chương trình MTQG BĐKH của Bộ TN&MT, mã số BÐKH.2014.59.

64. Trương Quang Học, Hoàng Thị Ngọc Hà. 2016. Cơ sở sinh thái học cho phát

triển bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu, Trung tâm Nghiên cứu Tài

nguyên và Môi trường, Hà Nội.

65. Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 2008. Khoa học chính sách công, Nxb

Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tr.65.

66. Hội đồng Khoa học các cơ quan của Đảng Trung ương. 2013. Chủ động ứng

phó biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường: Một

176

số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

67. Tanya Huizer. 2018. “Tăng cường liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long:

cân nhắc từ các nghiên cứu điển hình quốc tế”, Báo cáo tham luận Hội thảo

Tăng cường liên kết vùng ở đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.

68. IMHEN. 2018. “Chống chịu với khí hậu và phát triển cácbon thấp”, Báo cáo

đánh giá giữa kỳ dự án Xây dựng thị trường các bon ở Việt Nam, Hà Nội.

69. Nguyễn Duy Khang. 2017. Nghiên cứu giải pháp hợp lý và công nghệ thích

hợp phòng chống xói lở, ổn định dải bờ biển và các cửa sông Cửu Long, đoạn

từ Tiền Giang đến Sóc Trăng, mã số ĐTĐL.CN-07/17.

70. Nguyễn Phong Lan. 2018. Nghiên cứu đề xuất mô hình, giải pháp phát triển

bền vững, ứng phó với biến đổi khí hậu phù hợp cho các tiểu vùng sinh thái ở

đồng bằng sông Cửu Long, Thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc gia

“KH&CN ứng phó với BĐKH, quản lý TN&MT giai đoạn 2016-2020”, mã số

BÐKH.42/16-20, Bộ TN&MT chủ trì thực hiện.

71. Liên Hợp Quốc. 1992. Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu.

72. Nguyễn Thị Liễu. 2018. Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc xây

dựng thị trường Các bon tại Việt Nam, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ TN&MT,

mã số TNMT.2018.05.01.

73. Phạm Thanh Long. 2018. Nghiên cứu xây dựng hệ thống cung cấp thông tin

dự báo, cảnh báo thời tiết ứng dụng phục vụ phát triển kinh tế xã hội và ứng

phó hiệu quả với biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đề tài

khoa học cấp Bộ, Bộ TN&MT, mã số TNMT.2018.05.02.

74. Vũ Thị Mai. 2016. Nghiên cứu xây dựng mô hình phát triển kinh tế ứng phó

với xâm nhập mặn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long; Thí điểm tại một huyện

điển hình, Thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc gia “KH&CN ứng phó với

BĐKH, quản lý TN&MT giai đoạn 2016-2020”, Bộ TN&MT chủ trì thực

hiện, mã số BĐKH.05/16-20.

75. MOIT-VASS-UNDP. 2018. Đánh giá sự sẵn sàng tiếp cận Cuộc Cách mạng

Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) của các doanh nghiệp thuộc các ngành

công nghiệp ở Việt Nam: Kết quả phân tích số liệu điều tra khảo sát, Báo cáo

nghiên cứu, Hà Nội.

76. NAWAP. 2019. “Nguy cơ suy giảm mực nước, xâm nhập mặn, sụt lún nền đất

và các giải pháp giảm thiểu Vùng ĐBSL”, Báo cáo tham luận Hội nghị đánh

177

giá kết quả hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính

phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi

khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.

77. Koos Neefjes. 2003. Môi trường và sinh kế bền vững, Nxb Chính trị quốc gia -

Sự thật, Hà Nội.

78. Ngân hàng Thế giới. 2010. Báo cáo phát triển thế giới năm 2010: Phát triển

và biến đổi khí hậu, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

79. Ngân hàng Thế giới. 2016. Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2016: Chuyển

đổi nông nghiệp Việt Nam, tăng giá trị giảm đầu vào, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.

80. Ngân hàng Thế giới. 2016a. Báo cáo ảnh hưởng của thiên tai đến tăng trưởng

kinh tế ở Việt Nam, Hà Nội.

81. Ngân hàng Thế giới. 2017. Bài phát biểu tại Hội nghị Phát triển bền vững

vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí hậu, Cần Thơ.

82. Ngân hàng Thế giới. 2018. “Liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Báo

cáo tham luận Hội thảo Tăng cường liên kết vùng ở đồng bằng sông Cửu

Long, Hà Nội.

83. Vũ Văn Nghị. 2016. Nghiên cứu giải pháp quy hoạch vùng Đồng Tháp Mười

trở thành vùng trữ nước ngọt cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long thích

ứng với biến đổi khí hậu, Thuộc Chương trình KH&CN cấp quốc gia

“KH&CN ứng phó với BĐKH, quản lý TN&MT giai đoạn 2016-2020”, mã số

BÐKH.26/16-20, Bộ TN&MT chủ trì thực hiện.

84. Phạm Hữu Nghị. 2016. Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện

pháp luật ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam hiện nay, Đề tài cấp Bộ,

Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

85. Đặng Kiều Nhân. 2018. “Khái quát một năm thực hiện Nghị quyết 120/NQ-

CP”, Kỷ yếu Hội thảo Sau một năm thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP của

Chính phủ về PTBV ĐBSCL thích ứng với BĐKH, Đại học Cần Thơ.

86. Mai Trọng Nhuận. 2018. “Tiêu chí phân vùng theo định hướng quy hoạch KT-

XH theo hướng tích hợp giai đoạn 2021-2030”,Kỷ yếu Hội thảo Định hướng

quy hoạch PTBV các tiểu vùng Tây Bắc, do trường Đại học Tài nguyên và môi

trường Hà Nội tổ chức, Tp Bắc Cạn.

87. Hà Huy Ngọc. 2015. “Cơ chế, chính sách liên kết vùng trong việc ứng phó với

biến đổi khí hậu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long”,Báo cáo chuyên đề Đề tài

khoa học cấp Nhà nước: Nghiên cứu xây dựng cơ chế, chính sách liên kết

178

vùng trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam, mã số BĐKH.30.

88. Hà Huy Ngọc. 2018. “Thực hiện hính sách thích ứng với biến đổi khí hậu ở

vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Phát triển bền vững Vùng, số 4,

tr.60-73.

89. Hà Huy Ngọc. 2019. Một số vấn đề về thực hiện chính sách ứng phó với

BĐKH ở vùng ĐBSCL, Nhiệm vụ cấp cơ sở, Viện Địa lí nhân văn.

90. Hà Huy Ngọc, Ngô Vĩnh Bạch Dương. 2013. “Rà soát các hệ thống chia sẻ lợi

ích nhằm thích ứng với thiên tai và biến đổi khí hậu ở 5 tỉnh: Cà Mau, Bạc

Liêu, Kiên Giang, An Giang, Sóc Trăng”, Nghiên cứu trong khuôn khổ dự án

“Biến đổi khí hậu và hệ sinh thái ven biển (CCCEP)”, Bộ NN&PTNT và GIZ.

91. Hà Huy Ngọc, Bùi Quang Tuấn. 2018. “Ứng phó với tác động của biến đổi khí

hậu ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 7, tr.29-39.

92. Hà Huy Ngọc, Bùi Thị Cẩm Tú. 2018. “Chính sách về ứng phó với BĐKH ở

Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị”, Kỷ yếu Hội nghị Khoa học Địa lý

toàn quốc lần thứ 10 “Khoa học địa lý với liên kết vùng cho PTBV”, quyển 2,

Nxb KHTN&CN Quốc gia.

93. Oxfam. 2008.Việt Nam Biến đổi khí hậu, sự thích ứng và người nghèo, Báo

cáo nghiên cứu chính sách, Hà Nội.

94. Quốc hội khóa 14, Luật số 21/2017/QH14, Luật Quy hoạch.

95. Nguyễn Văn Sánh và Đặng Kiều Nhân. 2016. Phát triển bền vững nông

nghiệp và phát triển nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Đại học

Cần Thơ.

96. Adam Smith. 1997. Của cải của các dân tộc, bản dịch, Nxb Giáo dục, 914 trang.

97. Mai Thanh Sơn, Lê Đình Phùng, Lê Đức Thịnh. 2011. Biến đổi khí hậu: Tác

động, khả năng ứng phó và một số vấn đề về chính sách (Nghiên cứu trường

hợp đồng bào các dân tộc thiểu số vùng núi phía Bắc),

, (truy cập ngày 20/4/2017).

98. Nguyễn Đăng Tính. 2016. Nghiên cứu các giải pháp giảm thiểu tác động,

thích ứng với thiên tai hạn hán và xâm nhập mặn vùng Bán đảo Cà Mau, mã

số KC.08.08/16-20.

99. Nguyễn Ngọc Thanh. 2019. Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn để xây

dựng định hướng quy hoạch phát triển bền vững các tiểu vùng Tây Bắc,

Chương KH&CN cấp Nhà nước phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc,

179

mã số KHCN-TB.04T/13-18, Hà Nội.

100. Trần Hồng Thái. 2011. Xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia ứng phó với

biến đổi khí hậu, Đề tài phục vụ Chương trình MTQG BĐKH của Bộ

TN&MT.

101. Trần Hồng Thái. 2015. Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến sự

biến đổi tài nguyên nước đồng bằng sông Cửu Long, mã số BĐKH-08, đề tài

thuộc Khoa học và công nghệ phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia ứng

phó với biến đổi khí hậu.

102. Trần Văn Thái. 2016. Dự án thiết kê công nghệ Mô hình đê trụ rỗng tiêu giảm

sóng thí điểm ven biển Cà Mau, Viện Thủy công, Hà Nội.

103. Lê Bá Thảo. 1998. Việt Nam: lãnh thổ và các vùng địa lý, Nxb Thế giới, Hà Nội.

104. Nguyễn Thắng. 2018. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và Việt Nam:

Cơ hội và thách thức, Trung tâm Phân tích và Dự báo.

105. Phan Tất Thắng. 2017. Nghiên cứu sử dụng và phát huy tri thức địa phương

trong chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu ở các vùng, miền nước ta, Thuộc

Chương trình KH&CN cấp quốc gia “KH&CN ứng phó với BĐKH, quản lý

TN&MT giai đoạn 2016-2020”, mã số BÐKH.26/16-20, Bộ TN&MT chủ trì

thực hiện.

106. Nguyễn Hữu Thiện. 2016a. Báo cáo Biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học đất

ngập nước vùng ĐBSCL: sự thiếu hụt trong thích ứng, Cần Thơ.

107. Nguyễn Hữu Thiện. 2017. “Ba thách thức đối với phát triển bền vững vùng

đồng bằng sông Cửu Long: Kiến nghị chiến lược ứng phó và phát triển”, Báo

cáo tại Hội nghị Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích

ứng biến đổi khí hậu, Cần Thơ.

108. Phạm Xuân Thu. 2019. “Đô thị hóa vùng ĐBSCL dưới góc độ dân số và

nguồn nhân lực”, Kỷ yếu Hội thảo quốc gia: Kết cấu hạ tầng và liên kết vùng

phục vụ PTBV vùng Tây Nam Bộ, Nxb Đại học Cần thơ.

109. Thủ tướng Chính phủ. 2008. Quyết định số 158/2008/QĐ-TTgngày

02/12/2008 về Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi

khí hậu.

110. Thủ tướng Chính phủ. 2012. Quyết định số 939/QĐ-TTg ngày 19/7/2012 về

việc Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bằng sông

180

Cửu Long đến năm 2020, Hà Nội.

111. Thủ tướng Chính phủ, 2012, Quyết định 43/2012/QĐ-TTg ngày 9/1/2012 về

việc Thành lập Ủy ban Quốc gia về biến đổi khí hậu.

112. Thủ tướng Chính phủ, 2017, Nghị quyết 120/NQ-CP về việc Phát triển bền

vững Đồng bằng Sông Cửu Long thích ứng với Biến đổi Khí hậu, Hà Nội.

113. Thủ tướng Chính phủ, 2017, Quyết định số 1670/QĐ-TTg ngày 31/10/2017 về

việc Phê duyệt Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và tăng

trưởng xanh giai đoạn 2016-2020.

114. Nguyễn Quang Thuấn, 2017, Kinh tế thế giới và Việt Nam 2016-2017: Thúc

đẩy tăng trưởng và phát triển trong bối cảnh có nhiều thay đổi, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

115. Nguyễn Quang Thuấn, Hà Huy Ngọc, Phạm Sỹ An, 2019, “Giải pháp thích

ứng với biến đổi khí hậu ở đồng bằng sông Cửu Long trong bối cảnh mới”,

Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3, tr.3-16.

116. Trần Thục, Huỳnh Thị Lan Hương, Đào Minh Trang, 2012, Tích hợp vấn đề

biến đổi khí hậu vào kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, Nxb Tài nguyên môi

trường và bản đồ Việt Nam.

117. Tổ chức Di cư Quốc tế, 2015, Thích nghi với biến đổi khí hậu thông qua di cư:

Một nghiên cứu về trường hợp đồng bằng sông Cửu Long.

118. Hà Thanh Toàn, 2018, “Nghị quyết 120/NQ-CP về Phát triển bền vững đồng

bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu: sau một năm thực hiện”,

Kỷ yếu Hội thảo Sau một năm thực hiện NQ 120/NQ-CP của Chính phủ về

PTBV ĐBSCL thích ứng với BĐKH, Đại học Cần Thơ.

119. Nguyễn Đức Toàn, 2015, Nghiên cứu thiết kế mô hình làng sinh thái thích ứng

với biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng cho khu vực đồng bằng sông Cửu

Long, mã số BĐKH-13, đề tài thuộc Khoa học và công nghệ phục vụ Chương

trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu.

120. Tổng cục KTTV, 2019, “Vai trò của công tác Khí tượng thủy văn trong dự

báo, cảnh báo thiên tai, đặc biệt là lũ lụt, xâm ngập mặn, ứng phó với sụt lún,

sạt lở phục vụ phát triển kinh tế xã hội bền vững vùng ĐBSCL”, Báo cáo

tham luận Hội nghị đánh giá kết quả hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết

số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu

Long thích ứng với biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.

121. Tổng cục Môi trường, 2017, “Đầu tư vào vốn tự nhiên và cơ sở hạ tầng tự

181

nhiên, mô hình PTBV thích ứng với BĐKH tại vùng ĐBSCL”, Báo cáo tại

Hội nghị Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến

đổi khí hậu, Cần Thơ.

122. Tổng cục Phòng chống thiên tai. 2017, Báo cáo tình hình thiệt hại do thiên tai

năm 2017, Hà Nội.

123. Tổng cục Phòng Chống thiên tai. 2018, Báo cáo tình hình phòng chống thiên

tai năm 2018, Hà Nội.

124. Tổng cục Thống kê. 2016, 2017, Niên giám Thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội.

125. Phạm Thị Trầm, Nguyễn Thị Bích Hà, 2013, Các giải pháp cơ bản nhằm nâng

cao năng lực thích ứng và chủ động ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu

ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020, Đề tài khoa học cấp bộ Viện Hàn lâm Khoa

học xã hội Việt Nam.

126. Phạm Thị Trầm, Nguyễn Song Tùng, 2010, Nghiên cứu dự báo tác động

BĐKH giai đoạn 2011-2020 và đề ra giải pháp ứng phó nhằm PTBV ở Việt

Nam, Báo cáo đề tài cấp Bộ.

127. Nguyễn Ngọc Trân. 2016, “Nguyên nhân sạt lở bờ sông biển vùng ĐBSCL:

Chiến lược ứng phó dài hạn”, Báo cáo chính sách, Tp Hồ Chí Minh.

128. Lưu Ngọc Trịnh, 2015, Tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu phản ứng

chính sách của một số nước và bài học cho Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

129. Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt Nam, 1995, Từ điển Bách khoa

Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.475.

130. Trung tâm Chính sách và Kỹ thuật phòng chống thiên tai, 2018, Cơ sở dữ liệu

thiên tai, Hà Nội.

131. Trung tâm Khí tượng thuỷ văn Quốc gia, 2017, Báo cáo công tác dự báo mưa, lũ

quét, bão năm 2017 và nhận định tình hình thiên tai trong thời gian tới, Hà Nội.

132. Trung tâm phát triển Nông thôn bền vững (SRD), 2012, Tổng hợp một số hoạt

động ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

133. Trung tâm Phát triển Nông thôn bền vững (SRD), Nhóm làm việc về BĐKH

(CCWG), Mạng lưới các tổ chức phi chính phủ Việt Nam và BĐKH

(VNGO&CC). 2014. Hỗ trợ nông dân phát triển sinh kế ứng phó với với

BĐKH, Một số điển hình thành công của SRD.

134. Trung, N.D., Anh, L.H., Thang, N.T., and L.S. Sebastian. 2017, “Những thách

thức trong việc triển khai Đóng góp do Quốc gia tự Quyết định (NDC) trong

182

lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam trong bối cảnh pháp lý và chính sách hiện

tại”, Báo cáo kỹ thuật CCAFS, số 21,Wageningen, Hà Lan: Chương trình

Nghiên cứu của CGIAR về Biến đổi Khí hậu, Nông nghiệp và An ninh Lương

thực (CCAFS).

135. Lê Anh Tuấn, 2018. “Phát triển đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến

đổi khí hậu”, Kỷ yếu Hội thảo Sau một năm thực hiện Nghị quyết 120/NQ-CP

của Chính phủ về PTBV ĐBSCL thích ứng với BĐKH, Đại học Cần Thơ.

136. Lê Anh Tuấn, 2019, “Quản lý tài nguyên nước, ứng phó với biến đổi khí hậu

theo tinh thần Nghị quyết 120 ở vùng ĐBSCL”, Báo cáo tham luận Hội nghị

đánh giá kết quả hai năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của

Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với

biến đổi khí hậu, Tp Hồ Chí Minh.

137. Lê Anh Tuấn, Nguyễn Trung Hiếu, 2018, “Phát triển ĐBSCL thích ứng với

BĐKH”, Báo cáp tham luận, Kỷ yếu Hội thảo Sau một năm thực hiện Nghị

quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về PTBV ĐBSCL thích ứng với BĐKH, Đại

học Cần Thơ.

138. Lê Anh Tuấn, Hoàng Thị Thuỷ, 2014, “Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến

sinh kế của người dân đồng bằng sông Cửu Long”, Kỷ yếu Hội thảo Diễn đàn

Bảo tồn Thiên nhiên và Văn hoá vì sự phát triển bền vững vùng đồng bằng

sông Cửu Long lần thứ 6, Cần Thơ.

139. Nguyễn Đình Tuấn, 2015, Xây dựng hệ hỗ trợ ra quyết định trong quản lý tài

nguyên đất và nước đồng bằng sông Cửu Long ứng phó với biến đổi khí hậu.

Đề tài thuộc Khoa học và công nghệ phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia

ứng phó với biến đổi khí hậu.

140. Trần Minh Tuấn, 2016, Nghiên cứu biến động nguồn nước thượng lưu, điều

kiện khí hậu cực đoan ở ĐBSCL và đề xuất các giải pháp chuyển đổi cơ cấu

sản xuất, KC.08.04/16-20.

141. Bùi Quang Tuấn, 2018, “Khuyến nghị về cơ chế điều phối và tài chính cho

liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long”, Báo cáo tham luận Hội thảo Tăng

cường liên kết vùng ở đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.

142. Bùi Quang Tuấn, 2018, “Phác thảo khung lý thuyết phát triển bền vững vùng”,

Tạp chí Phát triển bền vũng Vùng, quyển 8, số 3, tr.3-15.

143. Bùi Quang Tuấn, 2019, “Đánh giá mô hình tăng trưởng của Việt Nam giai

183

đoạn 2011-2018”, Hội thảo khoa học “Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam

giai đoạn 2021-2030 và tầm nhìn đến 2045”, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội

Việt Nam, Học viện Chính trị Quốc gia, và Ngân hàng Thế giới tổ chức, Hà Nội.

144. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc, 2017, Đổi mới phân cấp QLNN về bảo vệ môi

trường ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

145. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc, 2018, “Tăng trưởng xanh con đường thực

hiện tăng trưởng bền vững và ứng phó với BĐKH ở Việt Nam”, Tạp chí

Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, số 8 (268), trang 47-63.

146. Bùi Quang Tuấn, Hà Huy Ngọc, 2018, “Thực hiện chính sách liên kết vùng

nhằm ứng phó với BĐKH ở vùng Tây Nam Bộ trong bối cảnh mới”, Tạp chí

Nghiên cứu kinh tế, số 7 (482), tr.52-64.

147. Võ Văn Tuấn, Lê Cảnh Dũng. 2015a. “Ảnh hưởng của nguồn lực đến đa dạng

sinh kế của nông hộ ở Đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Nông nghiệp và

phát triển nông thôn, số10.

148. Võ Văn Tuấn, Lê Cảnh Dũng, 2015b, “Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả sinh

kế của nông hộ ở đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí Khoa học, Đại học Cần

Thơ, số 38d, tr.120-129.

149. Võ Văn Tuấn, Lê Cảnh Dũng, 2015c, Phân tích Sinh kế: Lý thuyết và Thực

tiễn, Nxb Đại học Cần Thơ.

150. Võ Văn Tuấn, Lê Cảnh Dũng, 2016, Tổn thương và chiến lược sinh kế thích

nghi của nông dân vùng đông bằng sông Cửu Long trong bối cảnh biến đổi

khí hậu, Viện Nghiên cứu phát triển đồng bằng sông Cửu Long, Cần Thơ.

151. Võ Văn Tuấn, Lê Cảnh Dũng, Võ Văn Hà và Đặng Kiều Nhân, 2014, “Khả

năng thích ứng với biến đổi khí hậu ở ĐBSCL”, Tạp chí Khoa học, Đại học

Cần Thơ, số 31d, tr.63-72.

152. Nguyễn Song Tùng, 2015, Nghiên cứu xây dựng cơ chế chính sách liên kết

vùng trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam, Đề tài cấp Nhà nước

KH&CN phục vụ Chương trình MTQG BĐKH, Bộ TN&MT.

153. Nguyễn Song Tùng, 2019, Giải pháp lồng ghép vấn đề biến đổi khí hậu trong

quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Quảng Trị, Đề tài Khoa học

cấp Bộ, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

154. Nguyễn Song Tùng và các cộng sự, 2017, Cơ chế chính sách liên kết vùng

trong ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự

184

thật, Hà Nội.

155. UBND tỉnh An Giang. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện

CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh An Giang.

156. UBND tỉnh Bạc Đồng Tháp. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực

hiện CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh

Đồng Tháp.

157. UBND tỉnh Bạc Liêu. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện

CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.

158. UBND tỉnh Bến Tre. 2018. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện

CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Bến Tre.

159. UBND tỉnh Cà Mau. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện

CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Cà Mau.

160. UBND tỉnh Hậu Giang. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện

CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Hậu Giang.

161. UBND tỉnh Kiên Giang. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình tình hình thực

hiện CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh

Kiên Giang.

162. UBND tỉnh Long An. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giátình hình thực hiện

CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Long An.

163. UBND tỉnh Sóc Trăng. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện

CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.

164. UBND tỉnh Tiền Giang. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực

hiện CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh

Tiền Giang.

165. UBND tỉnh Trà Vinh. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện

CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Trà Vinh.

166. UBND tỉnh Vĩnh Long. 2018. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện

CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long.

167. UBND Tp Cần Thơ. 2017. Báo cáo tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện

CTMTQG ứng phó với BĐKH giai đoạn 2010-2015 trên địa bàn Tp Cần Thơ.

168. UNDP. 2008. Báo cáo phát triển con người 2007/2008, Cuộc chiến chống

biến đổi khí hậu: Đoàn kết nhân loại trong một thế giới phân cách, bản dịch,

185

New York, USA.

169. UNDP. 2011. “Báo cáo phát triển con người châu Á - Thái Bình Dương năm

2011”, Một hành tinh để chia sẻ: Duy trì vững chắc tiến bộ về con người trong

khí hậu đang biến đổi.

170. UNDP. 2016. Xanh hoá gói điện năng: Các chính sách mở rộng điện Mặt trời

ở Việt Nam, Hà Nội.

171. Phó Hoàng Uyên. 2016. Nghiên cứu ứng dụng và hoàn thiện công nghệ tiêu

tán và giảm năng lượng sóng chống xói lở bờ biển đồng bằng sông Cửu Long,

mã số KC.09.08/16-20.

172. Viện Chiến lược Chính sách tài nguyên và Môi trường. 2017. “Định hướng

chuyển đổi quy mô lớn mô hình phát triển ĐBSCL”, Báo cáo tại Hội nghị

Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long thích ứng biến đổi khí

hậu, Cần Thơ.

173. Viện Chiến lược phát triển. 2018. Báo cáo nghiên cứu phân vùng phục vụ quy

hoạch kinh tế xã hội giai đoạn 2021-2030, Hà Nội.

174. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 2016. Báo cáo nghiên cứu Cách

mạng Công nghiệp lần thứ tư: Một số đặc trưng, tác động và hàm ý chính

sách đối với Việt Nam, Hà Nội.

175. Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và BĐKH. 2016. Báo cáo cập nhật phân

vùng bão, xác định nguy cơ bão, nước dâng do bão, trong đó có phân vùng

mưa lớn, gió mạnh ở sâu trong đất liền khi bão mạnh, siêu bão đổ bộ, Báo cáo

Dự án cấp Bộ, Hà Nội.

176. Viện Khoa học Khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu, Chương trình phát

triển Liên hợp quốc. 2015. Báo cáo đặc biệt của Việt Nam về quản lý rủi ro

thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan nhằm thúc đẩy thích ứng với

BĐKH, Nxb Tài nguyên môi trường và Bản đồ Việt Nam, Hà Nội, tr.399-400.

177. Viện Năng lượng. 2017. Tiềm năng NLTT ở Việt Nam xét theo vùng, Hà Nội.

178. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM). 2016. Tái cơ cấu

nông nghiệp nhằm nâng cao khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng

chống thiên tai vùng đồng bằng sông Cửu Long, Báo cáo nghiên cứu chuyên

đề, Hà Nội.

179. Viện Quản lý và Phát triển châu Á. 2016. Hiện trạng phát triển tôm - lúa vùng

186

đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.

180. Viện Quy hoạch Thuỷ lợi miền Nam. 2013. Thích ứng với biến đổi khí hậu

cho phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn vùng ven biển đồng bằng

sông Cửu Long, Tp Hồ Chí Minh.

181. Lê Danh Vĩnh. 2001. Chính sách công của Hoa Kỳ: Giai đoạn 1935-2001,

Nxb Thống kê, Hà Nội, tr.287-293.

182. Ngô Doãn Vịnh. 2003. Nghiên cứu chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế

- xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

183. V-LED. 2018. Quản trị khí hậu đa cấp độ tại Việt Nam: Kết nối lập kế hoạch

quốc gia và hành động khí hậu ở địa phương, Hà Nội.

184. Vụ Kinh tế Nông nghiệp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2016. Báo cáo tình hình thiệt

hại do hạn hán và xâm ngập mặn ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội.

185. Lâm Thái Xuyên. 2011. Đánh giá thực trạng ứng dụng các tiêu chuẩn nuôi

tôm sú (Penaeus monodon) bền vững ở Đồng bằng sông Cửu Long, Luận văn

tốt nghiệp cao học ngành Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ.

186. Lâm Thái Xuyên. 2018. Tiêu chuẩn tôm hữu cơ Mangrove Shirimp, Cà Mau.

187. Lâm Thái Xuyên. 2018. Kinh nghiệm phát triển tôm hữu cơ theo chuỗi giá trị

của Tập đoàn thủy sản Minh Phú, Cà Mau.

Tài liệu tiếng Anh 188. ADB. 1994. Climate Change in Asia: Vietnam Country Report, pg.27.

189. Millicent Addo. 2011. Externally Assisted Development Projects in Africa:

Implementation and Public Policy, Dissertation for the Degree of Philosophy

in Nelson Mandela School of Public Policy and Urban Affairs, pg.1.

190. James E. Anderson. 1984. Public Policymaking, Holt, Rinehart and

Winston, 329 pages.

191. E.J Anthony, G. Brunnier, M. Besset, M. Goichot, P. Doussouillez, Lap Van

Nguyen. 2015.Linking Rapid Erosion of the Mekong River Delta to Human

Activities, Scientific Report 5, 14745.

192. ARCAB. 2012a. Action Research for Community Adaptation in Bangladesh:

Monitoring and Evaluation Framework Paper, Draft for feedback.

193. S.A. Beichler. 2017. Understanding Social-Ecological Systems Under Climate

Change - Exploring the Ecosystem Service Concept Towards an Integrated

Vulnerability Assessment, Dissertation, Hafencity Universitat Hamburg, German.

194. Thomas Beloe and Paul Steele. 2011. Thailand Climate Public Expenditure

187

and Institutional Review, UNDP Asia Pacific Regional Office in Bangkok.

195. Simon Benedikter. 2014. “Extending the Hydraulic Paradigm: Reunification,

State Consolidation, and Water Control in the Vietnamese Mekong Delta after

1975”, Southeast Asian Studies, Vol. 3, No. 3, pg.547-587.

196. Ida Bjorkum. 2005. “China in the International Politics of Climate Change: A

Foreign Policy Analysis”, (FNI Report 12/2005),

R1205.pdf>, (6April 2008).

197. Merrilee Bonney. 2000. Climate Change Policies in the Netherlands: Analysis

and Selection, orkshop on Best Practices in Policies and Measures, Copenhagen.

198. Ian Burton, Elizabeth Malone and Saleemul Huq. 2004. Adaptation Policy

Frameworks for Climate Change: Developing Strategies, Policies and

Measures, UNDP.

199. Diana Carney. 2003. Sustainable Livelihoods Approaches: Progress and

Possibilities for Change.

200. China’s National Development and Reform Commission. 2017. China’s

Policies and Actions for Addressing Climate Change.

201. Chmutia, K., Zhu, J., Riffat, S. 2012. “An Analysis of Climate Change Policy-

making and Implementation in China”, International Journal of Climate

Change Strategies and Management, Vol.4, No.2, pg.138-151.

202. Matthew J. Colloff et al. 2017. “An Integrative Research Framework for

Enabling Transformative Adaptation”, Journal of Environmental Science &

Policy, No.68, pg.87-96.

203. Daniel G., et al. 2013. Ecosystem-based Adaptation (EbA), Deutsche

Gesellschaft für Internationale Zusammenarbeit (GIZ) GmbH.

204. Amy DeGroff, Margaret Cargo. 2009. Policy Implementation: Implications for

Evaluation, New Directions for Evaluation, No.124, pg.47-49.

205. Jos Delbeke and Peter vis. 2016. EU Climate Policy Explained.

206. Deltares. 2012. “Economically Efficient Flood Protection Standards for the

Netherlands”, Journal of Flood Risk Management, Vol.7(2014), pg.103-117,

, (10

April 2013).

207. N. Doswald, et al. 2014. “Effectiveness of Ecosystem-based Approaches for

Adaptation: Review of the Evidence-base”, Journal of Climate and Development,

188

Vol. 6, Issue 2.

208. William N. Dunn. 2007. Public Policy Analysis: An Introduction, Fourth

Edition, Prentice Hall, pg.227-278.

209. Thomas Dye. 1972. Understanding Public Policy, Hardcover, 12th Edition, 368

pages, Published December 1st 2006 by Prentice Hall.

210. David Easton. 1953. “The Political System: An Inquiry into the State of

Political Science”, The Journal of Politics, Vol.15, No.4, pg.544-547.

211. Ellis F. 1992. Agricultural Policies in Developing Countries, Cambridge

University Press, New York, USA, 356 pages.

212. Estrella, M. & Saalismaa, N. 2013. “Ecosystem-based Disaster Risk

Reduction (Eco-DRR): An Overview”, In: Renaud, F., Sudmeier-Rieux, K.and

M. Estrella (eds.), The Role of Ecosystem Management in Disaster Risk

Reduction, Tokyo: UNU Press.

213. Glaser, M. , Krause, G. , Ratter, B. M. and Welp, M. 2008. “Human/Nature

Interaction in the Anthropocene: Potential of Social-Ecological Systems

Analysis”, Gaia-Ecological Perspectives for Science and Society, 17 (1),

pg.77-80.

214. Russell Gorddard et al. 2016. “Values, Rules and Knowledge: Adaptation as

Change in the Decision Context”, Journal of Environmental Science & Policy,

No.57, pg.60-69.

215. Gorddard, R., Colloff, M. J., Wise, R. M., and Dunlop, M. 2017. “Keys to

Transformation: Interactions of Values, Rules and Knowledge”,

,

(20 March 2018).

216. Lawrence W. Green. 1988. Promoting the One-child Policy in China, Journal

of Public Health Policy, No. 9(2), pg.273-283.

217. Ben Groom. 2012. Climate Change Adaptation: The Bangladesh Experience,

World Wide Fund for Nature Report, Pakistan.

218. Godefroy Grosijean and William Acworth. 2014. After Monetary Policy,

Climate Policy: Is Delegation the Key to EU ETS Reform.

219. Pham Thi Thuy Hanh, Masahide Furukawa. 2007. “Impact of Sea Level Rise

on Coastal Zone of Vietnam”, Bull. Fac. ScL, Univ. Ryukyus, No.84, pg.45-59.

189

220. Wayne Hayes. 2011. The Public Policy Web, pg.1.

221. H. Hugh Heclo. 1972. “Policy Analysis”, British Journal of Political Science,

Vol.2, No.1, pg.83-108.

222. Hoover E. M. and Frank Giaratani. 1984. An Introduction to Regional

Economics, Knopf Publishing House, New York.

223. Hortle K.G. 2007. Consumption and the Yield of Fish and Other Aquatic

Animals from the Lower Mekong Basin, MRC Technical Paper No.16,

Mekong River Commission.

224. Jung Huicheul, Sungwoo Jeon and Dong Kun Lee. 2012. “Climate Change

and Local Adaptation in Korea,” paper presented at the 18th AIM International

Workshop, Ohyama Memorial Hall, NIES, Japan.

225. Saleemul Huq and Jessica Ayers. 2008. Climate Change Impacts and

Responses in Bangladesh, Note by the European Parliament's temporary

committee on climate change in view of a delegation visit that will take place

in February 2008 (Ref. to contract IP/A/CLIM/IC/2007-106).

226. ICEM. 2010. MRC Strategic Environmental Assessment (SEA) of Hydropower

on the Mekong Mainstream: Summary of the Final Report, Hanoi, Viet Nam.

227. IPCC. 2012. Managing the Risks of Extreme Events and Disasters to Advance

Climate Change Adaptation, A Special Report of Working Groups I and II of

the Intergovernmental Panel on Climate Change [Field, C. B., V. Barros, T. F.

Stocker, D. Qin, D. J. Dokken, K. L. Ebi, M. D. Mastrandrea, K. J. Mach, G. -

K. Plattner, S. K. Allen, M. Tignor, and P. M. Midgley (eds.)], Cambridge.

228. Willian Jenkins. 1978. Policy Analysis: A Political and Organisational

Perspective, Publisher: Martin Robertson, 288 pages.

229. Kim Jong-Jin. 2013. Climate Change and Adaptation Strategies in the

Republic of Korea’s Agricultural Sector, Asian Development Bank Institute.

230. Trịnh Thị Long, WWF Việt Nam. 2017. WWF Vietnam Mekong Delta

Landscape Overview.

231. Daniel A. Mazmanian, Paul A. Sabatier. 1984. “Implementation and Public

Policy”, Policy Sciences, Vol.17, No.1, pg.95-97.

232. Mekong River Commission Technical Paper 29. 2009. Impacts of Climate

190

Change and Development on Mekong Flow Regimes First Assessment.

233. P. S. J. Minderhoud, L. Coumou, G. Erkens, H. Middelkoop, E. Stouthamer.

2019. “Mekong Delta Much Lower Than Previously Assumed in Sea-level Rise

Impact Assessments”, Nature Communications, Vol. 10, Article number: 3847.

234. Richard Munang et al. 2013. “Climate Change and Ecosystem-based

Adaptation: ANew Pragmatic Approach to Buffering Climate Change

Impacts”, Journal of Current Opinion in Environmental Sustainability, Vol.5,

Issue 1, pg.67-71.

235. NAS. 2016. “National Climate Adaptation Strategy 2016”, Report for Dutch

government, , (20 May 2017).

236. Sandra Naumann, et al. 2013. The Social Dimension of Ecosystem-based

Adaptation, UNEP Policy Series.

237. Netherlands’s Minister for the Environment. 2016. National Climate

Adaptation Strategy 2016 (NAS).

238. Nicholls, R.J. and Tol, R.S.J. 2006. Impacts and Responses to Sealevel Rise: A

Global Analysis of the SRES Scenarios over the Twenty-first century, Philos.

Trans. R. Soc. Lond. A, 364: 1073-1095.

239. Norwegian Geotechnical Institute. 2012. Phase 1 Research - Land Subsidence

in Ca Mau Peninsula.

240. Norton Rose Fulbright. 2011. Asia Pacific ClimateChange Policy Series:

Republic of Korea, Issue 3, May.

241. Elinor Ostrom. 2009. “A General Framework for Analyzing Sustainability of

Social-Ecological Systems”, Science, 24 Jul 2009:Vol. 325, Issue 5939,

pg.419-422 DOI: 10.1126/science.1172133.

242. Pan‑Canadian framework on Clean Growth and Climate Change. 2016.

Canada's Plan to Address Climate Change and Grow the Economy.

243. Paula S. C. et al. 2015. “Ecosystem-based Adaptation for Improving Coastal

Planning for Sea-level Rise: A Systematic Review for Mangrove

Coasts”, Journal of Marine Policy, Vol.51, pg.385-393.

244. Peng S., J. Huang, John E.S., Rebecca C.L., Romeo M.V., X. Zhong, Grace

S.C., Gurdev S.K., and Kenneth G.C. 2004. Rice Yields Decline with Higher

Night Temperature from Global Warming, Proceedings of the National

191

Academy of Sciences, 101(27):9971-9975.

245. B. Guy Perters. 1990. “Administrative Culture and Analysis of Public

Organisations”, Indian Journal of Public Adimunistration, Vol.36, Issue 3,

pg.420-428.

246. Jeffrey Presman and Aaron Wildavsky. 2011. Policy, Performance and

Management in Governance and Intergovernmental Relations, Edward Elgar

Publishing, pg.8.

247. Hannah Reid. 2016. “Ecosystem- and Community-based Adaptation: Learning

from Community-based Natural Resource Management”, Climate and

Development, 8:1, 4-9, DOI: 10.1080/17565529.2015.1034233.

248. Nicholls Robert, J. and Lowe, J.A. 2006. “Climate Stabilisation and Impacts

of Sea Level Rise”, In Avoiding Dangerous Climate Change (eds. H.J.

Schellnhuber, W. Cramer, N. Nakicenovic, T.M.L. Wigley, and G. Yohe),

Cambridge University Press, Cambridge.

249. Paul A. Sabatier. 1999. “Toward Better Theories of the Policy Process”,

Political Science and Politics, Vol.24, No.2, pg.8.

250. Fabio Rubio Scarano. 2017. “Ecosystem-based Adaptation to Climate Change:

Concept, Scalability and a Role for Conservation Science”, Perspectives in

Ecology and Conservation, (15,2), pg.65-73.

251. S. Shephard, A. Shaw and T. Krisit. 2010. Technical Report on Local Climate

Change Visioning for Delta: Findings and Recommendations, Vancouver.

252. Niederhafner, Stefan. 2014. The Korean Energy and GHG Target

Management System: An Alternative to Kyoto-Protocol Emissions Trading

Systems?, TEMEP Discussion, Paper No. 2014:118, Technology

Management, Economics, and Policy Program, College of Engineering, Seoul

National University.

253. Dasgupta Susmita, Benoit Laplante, Craig Meisner, David Wheeler and

Jianping Yan. 2007. The Impact of Sea Level Rise on Developing Countries: A

Comparative Analysis, World Bank Policy Research, pg.4136.

254. Notomo, Takuya. 2013. "Measures to Produce National Adaptation Plan for

Climate Change in Japan", ISAP,

192

first_half/ISAP_PL9_A3_TakuyaNomoto.pdf>, (24 July 2017).

255. Klein Tank, A. M. G. and G. Lenderink (eds). 2009. Climate Change in the

Netherlands, Supplements to the KNMI’06 scenarios, KNMI, De Bilt, The

Netherlands.

256. Fei Teng & Alun Gu. 2007. “Climate Change: National and Local Policy

Opportunities in China”, Environmental Sciences, Vol.4, No.3, pg.183-194,

DOI: 10.1080/15693430701742735.

257. The Ministry of Environment, Science, Technology and Innovation (MESTI).

2013. Ghana National Climate Change Policy.

258. Thorne, C., Annandale, G., Jensen, K., Jensen, E., Green, A. and Koponen, J.

2011. Review of Sediment Transport, Morphology, and Nutrient Balance,

Technical report to MRC Secretariat prepared as part of the Xayaburi MRCS

Prior Consultation Project Review Report, Nottingham University, UK,

February 2011, 82p. MRC, Vientiane, Lao PDR.

259. Okazumi, Toshio. 2008. “Adaptation Strategy for Climate Change in Japan”,

, (3 October

2010).

260. Trinh, N. D. 2016. Policy Gaps Analysis for Promoting Investment in Low

Emission Rice Production. Hanoi.

261. Le Anh Tuan and Suppakorn Chinvanno. 2011. “Climate Change in the

Mekong River Delta and Key Concerns on Future Climate Threats”, In: M.A.

Stewart and P.A. Coclanis (eds.), Environmental Change and Agricultural

Sustainability in the Mekong Delta, Advances in Global Change Research 45,

DOI 10.1007/978-94-007-0934-8_12, © Springer Science+Business Media

B.V. 2011, pg.205-217.

262. Reiner Wassmann, Nguyen Xuan Hien, Chu Thai Hoanh, and To Phuc Tuong.

2004. “Sea Level Rise Affecting the Vietnamese Mekong Delta: Water

Elevation in the Flood Season and Implications for Rice Production”, Climatic

Change, No.66, pg.89-107.

263. Kame Westerman, et al. 2012. “Building Socio-ecological Resilience to

Climate Change Through Community-Based Coastal Conservation and

Development: Experiences in Southern Madagascar”, Western Indian Ocean

193

J. Mar. Sci, Vol.11, No.1, pg.87-97.

264. World Economic Forum. 2016. The Future of Jobs: Employment, Skills, and

Workforce Strategy for the Fourth Industrial Revolution.

265. Lain Wright and Richard Fuller. 2016. Leaving the EU: Negotiation Priorities

for Energy and Climate Change Policy.

266. Alexander, J. Wulf. 2014. Institutional Competition between Optional Codes

in European Contract Law: A Theoretical and Empirical Analysis, Springer

Gabler. ISBN: 978-3-658-05800-5, DOI 10.1007/978-3-658-05801-2, pg.198.

267. Vo Tong Xuan and Matsui, S. 1998. Development of Farming Systems in the

Mekong Delta: JIRCAS, CTU, CLRRI, Vietnam.

268. Bingxin Yu, Tingju Zhu, Clemens Breisinger, Nguyen Manh Hai. 2013. How

are Farmers Adapting to Climate Change in Vietnam?, IFPRI Discussion

194

Paper 01248.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Mô hình hạ tầng mềm ứng phó với biến đổi khí hậu

ở tiểu vùng ven biển

Bộ NN&PTNT và các tỉnh ven biển ở ĐBSCL bước đầu đưa công nghệ Đê

trụ rỗng để ngăn sạt lở ven biển ở một số tỉnh ven biển ĐBSCL: Cà Mau, Bạc

Liêu…. Mô hình công nghệ đê trụ rỗng tiêu giảm sóng được các nhà khoa học Viện

Thủy công, nghiên cứu và thử nghiệm ở tỉnh Cà Mau.

Vào cuối năm 2015, Viện thủy công đã phối hợp với Công ty Cổ phần Hồng

Lâm nghiên triển khai thiết kế thi công thử nghiệm 200m đê trụ rỗng tại Cà Mau.

Nhiệm vụ của đoạn đê này là giảm sóng, tiêu sóng, gây bồi tạo bãi để cây rừng tái

sinh. Đê trụ rỗng có mặt cắt gần giống hình trụ (một phần hình trụ, một phần mặt

phẳng), ở mặt tiếp sóng và mặt sau có đục lỗ để tiêu giảm sóng. Vì có khả năng tiêu

giảm sóng cao nhất, phản xạ sóng thấp nhất trong các loại kết cấu đã biết (hệ số tiêu

sóng có thể đạt 80%, phản xạ 20%) nên có thể cắt sóng từ bên ngoài, vận chuyển

nước phù sa vào bên trong để gây bồi, tạo bãi trồng rừng. Nguyên lý tiêu giảm sóng

của đê trụ rỗng là khi sóng đến đê trụ rỗng thì các đường dòng hướng tâm va đập

vào nhau, sóng bị tiêu năng ngay trong bụng đê nên giảm chiều cao leo, giảm

sóngphản xạ, giảm lực tác động vào công trình do năng lượng đã bị tiêu hao. Tải

trọng tác dụng vào đê trụ rỗng hướng tâm, lực ngang chuyển thành lực nén. Vì giảm

áp lực sóng tác động lên công trình nên đê trụ rỗng giảm tải trọng tác dụng lên kết

cấu. Ngoài phá sóng, giảm tác động của sóng biển và gây bồi, tạo bãi bên trong, đê

trụ rỗng còn có ưu điểm là chi phí rẻ, độ ổn định được nâng cao. Toàn bộ cấu kiện

đê trụ rỗng được đúc sẵn trong nhà máy đưa ra lắp đặt nên kiểm soát được toàn bộ

chất lượng. Khi cần, có thể di chuyển chúng đến vị trí mới để tái sinh rừng phòng

hộ. Đến năm 2016, Viện Thủy công cùng với doanh nghiệp Hồng Lâm xin UBND

tỉnh Cà Mau, thử nghiệm đê trụ rỗng ngăn sạt lở bờ biển và được chấp thuận triển

khai thử nghiệm 180 m tại bờ biển tây tỉnh Cà Mau, đoạn từ Vàm Đá Bạc đến Vàm

Kênh Mới (thuộc xã Khánh Bình Tây, huyện Trần Văn Thời). Kết quả cho thấy

công trình đã phát huy hiệu quả tốt. Năm 2017, nhóm nghiên cứu tiếp tục hoàn

thiện công nghệ đê trụ rỗng bằng cách cải tiến công nghệ sử dụng bê-tông M50

Mpa, cốt thanh composite, sợi thủy tinh nhằm chống xâm thực, đồng thời. Thử

nghiệm các mẫu đê trụ rỗng mới có chất lượng cao hơn nhưng giá thành rẻ hơn (còn

195

khoảng 19 tỷ đồng/km so với mức 22 tỷ đồng/km như hiện tại) để chuẩn bị kỹ trước

khi triển khai rộng rãi. Hiệu quả của mô hình này là sóng biển tác động vào mặt đê

bị hấp thụ qua các lỗ rỗng và tiêu tán năng lượng khoảng 70% trong bụng đê, chiều

cao sóng leo qua mặt đê giảm, không hình thành sóng mới sau đê. Ngoài ra, kết quả

thử nghiệm còn cho thấy lượng phù sa lắng đọng bên trong đê trụ rỗng khá dày, tạo

nên bãi bồi. Tốc độ bồi lắng trung bình 15cm/tháng, khoảng 120cm/năm.

Để tiếp tục hoàn thiện công nghệ đê trụ rỗng nói trên Viện Thủy công được

Bộ KH&CN giao thực hiện đề tài: Nghiên cứu ứng dụng và hoàn thiện công nghệ

tiêu tán và giảm năng lượng sóng chống xói lở bờ biển đồng bằng sông Cửu Long,

Thuộc Chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Quốc gia giai đoạn

2016 - 2020: “Nghiên cứu khoa học và công nghệ phục vụ quản lý biển, hải đảo và

phát triển kinh tế biển”, mã số: KC.09/16-20. Thời gian thực hiện đề tài là 36 tháng

từ tháng 9/2017 đến tháng 8/2020, trong đó sản phẩm quan trọng của đề tài là lựa

chọn và thử nghiệm mô hình công trình tiêu tán giảm năng lượng sóng cho biển

Đông và biển Tây. Chỉ sau hơn 1 năm triển khai nghiên cứu hoàn thiện lý thuyết và

tiến hành thí nghiệm trên mô hình vật lý, nhóm Ban chủ nhiệm đề tài đã đề xuất và

lựa chọn được các kết cấu tiêu sóng sóng hợp lý để xây dựng mô hình công trình

thực tế. Cấu kiện tiêu giảm sóng được đề nghị áp dụng cho khu vực biển Đông là

Đê trụ rỗng được đặt tên ĐTR304F. ĐTR304F là cấu kiện bằng bê tông cốt thép

M50 có bố trí lỗ tiêu sóng trên bề mặt. Mặt tiếp sóng được bố trí 20 lỗ, mặt khuất

sóng bố trí 8 lỗ, đường kính lỗ tiêu sóng là 30cm. Đỉnh cấu kiện bố trí 2 lỗ tròn

đường kính D40cm để thả đá hộc, hai bên đáy cấu kiện thiết kế chân khay cao 50cm

để chống trượt. Bề rộng cấu kiện là 4,5m, chiều dài đơn nguyên là 3m, trọng lượng

1 cấu kiện khoảng 16T (tương đương 6,5m3 bê tông). Nguyên lý giảm sóng của loại

kết cấu này là sử dụng các lỗ trên bề mặt của hình trụ rỗng để hấp thụ và phân tán

năng lượng sóng, các đường dòng của sóng khi lọt qua các lỗ rỗng có hướng tâm

nên chúng sẽ va đập vào nhau triệt tiêu năng lượng ở ngay trong bụng đê trụ rỗng.

Do vậy phần năng lượng còn lại để hình thành sóng truyền bị giảm đi đáng kể, tạo

ra vùng nước lặng phía sau công trình để gây bồi. Đồng thời, để đưa sản phẩm

nghiên cứu ra thử nghiệm trên mô hình thực tế, Viện tiếp tục phối hợp cùng Công ty

cổ phần xây dựng công trình Hồng Lâm thi công mô hình thử nghiệm này. Vào

tháng 10/2018, Công ty Cổ phần xây dựng Hồng Lâm đã đầu tư dây chuyền trạm

196

trộn hiện đại, hệ thống cổng trục và gia công chế tạo ván khuôn, tập kết vật tư vật

liệu để chế tạo và sớm đưa sản phẩm này ra ngoài thực tế. Ngay trong nửa đầu

tháng 11/2018, các cấu kiện ĐTR304F đầu tiên đã được chế tạo thành công tại nhà

máy Hồng Lâm Farich đặt tại khu công nghiệp Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà

Mau. Các cấu kiện sau khi được kiểm tra đảm bảo cường độ, sai số kích thước cho

phép được tập kết lên xà lan vận chuyển đến vị trí lắp đặt tại khu vực cửa biển

phường Nhà Mát - Thành phố Bạc Liêu. Do đặc điểm thủy triều tại biển Đông diễn

biến phức tạp, biên độ triều thay đổi lớn và thời gian triều lên xuống nhanh đòi hỏi

công tác lắp đặt phải được thực hiện đồng bộ và khẩn trương, lợi dụng con nước lớn

để đưa xà lan và thiết bị vào thi công. Sự quyết tâm đưa sản phẩm nghiên cứu sớm

ra thực nghiệm đã được thể hiện bằng sự cố gắng của tập thể cán bộ thi công lắp

đặt, ngay trong tháng 11, đoạn công trình thử nghiệm tại biển Đông đã được lắp đặt

hoàn thành, an toàn và đảm bảo kĩ thuật.

Sau quá trình hoàn thiện công trình đê trụ rỗng đã hoàn thiện và đáp ứng các

tiêu chí đặt ra: (i) công trình bền vững của công trình; (ii) bảo vệ được bờ biển,

chống sạt lở, thì việc kè đê biển còn có tác dụng tích phù sa và tái sinh rừng tự

nhiên; (iii) giảm được giá thành so với các công nghệ khác. Với những hiệu quả mô

hình này mang lại, Bộ NN&PTNT nên nghiên cứu cho triển khai nhân rộng mô

197

hình để ứng phó với tình trạng sạt lở ven biển ngày càng phức tạp hiện nay.

Phụ lục 2: Giải pháp ứng xử thông minh với nước ở ĐBSCL

Nguyên nhân biến đổi và thách thức đối với PTBV ĐBSCL, đối với tài

nguyên nước là do BĐKH, biến đổi tự nhiên nhưng chủ yếu là hoạt động nhân sinh

bất hợp lý, nhất là sử dụng TNN chưa phù hợp chứ chưa nói đến thông minh ở nội

vùng ĐBSCLvà thượng nguồn sông Mê Kông. Do vậy, để chuyển hoá thách thức,

tận dụng cơ hội cho PTBV thì phải ứng xử thông minh với nước. Việc ứng xử thông

minh với nước không chỉ có vai trò rất quan trọng đối với PTBV, ứng phó BĐKH

ĐBSCL, sử dụng bền vững tài nguyên nước bảo tồn giá trị sống còn của sông Mê

Kông mà còn có đóng góp tích cực đối với BVMT và bảo tồn đa dạng sinh học

Biển Đông. Vì vậy, các giải pháp PTBV ĐBSCL thịnh vượng, thích ứng BĐKH

thông qua ứng xử thông minh với nước, khí hậu, phải quán triệt các nguyên tắc sau:

(1) Tổ chức sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt phù hợp đặc trưng của

nước, của hệ sinh thái các tiểu vùng; dựa vào lợi thế, quy luật biến đổi điều kiện tự

nhiên, tài nguyên, duy trì dòng chảy, hoạt động, cân bằng tự nhiên của nước, chỉ

can thiệp trong tình huống bắt buộc để đảm bảo an ninh, sinh tồn.

(ii) Tăng thủy lợi, giảm thuỷ tai: Khai thác tài nguyên của nước phải tính đến

hạn chế thuỷ tai (lũ lụt, hạn hán, nhiễm mặn, sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển, ...), ô

nhiễm môi trường nước bằng cơ sở hạ tầng tự nhiên, công trình thuỷ lợi thông minh

với nước và khí hậu, ...

(iii) Hồi phục tính tự nhiên của nước - tái xây dựng và phát triển hạ tầng tự

nhiên góp phần đảm bảo an ninh nguồn nước, an ninh sinh thái theo mô hình phụ

hội đất ngập nước Đồng Tháp Mười và các mô hình phù hợp khác.

(iv) Sử dụng hiệu quả, an toàn tài nguyên nước, bảo vệ môi trường nước, duy

trì giá trị sống còn tài nguyên nước thông qua phát triển nhân lực và khoa học công

nghệ, thông minh với nước và khí hậu, tận dụng Cách mạng Công nghiệp 4.0.

(v) Duy trì và phát triển văn minh, văn hoá của ĐBSCL theo hướng thông

minh với nước và khí hậu để PTBV.

(vi) Quản trị thông minh với nước và khí hậu.

Nguồn: Trao đổi của NCS với GS.TS. Mai Trọng Nhuận, Phó chủ tịch Uỷ

198

ban Quốc gia về Biến đổi khí hậu, Hà Nội, tháng 9/2018.

Phụ lục 3: Chỉ số đánh giá thực hiện chính sách biến đổi khí hậu

Chỉ số đánh giá biểu hiện của BĐKH ở TNB

Chỉ số sự hiện diện của BĐKH được xây dựng dựa trên hai nhân tố: thứ nhất,

tần suất xuất hiện của các hiện tượng thiên tai ở địa phương, và thứ hai là mức độ

tác động của thiên tai tới tình hình KT-XH địa phương.

Tần suất xuất hiện các hiện tượng thiên tai (sub1) được tính bằng trung bình

không trọng số của các hiện tượng thiên nhiên tiêu cực ở các tỉnh ĐBSCL như:

NBD; hạn hán; xâm nhập mặn; lũ, ngập lụt; thay đổi nhiệt độ bất thường; bão, áp

thấp nhiệt đới; Sạt lở sông, biển; nắng nóng bất thường; mưa lớn cục bộ.

Mức độ tác động của BĐKH tới tình hình KT-XH và môi trường ở địa phương

(sub2) được đo lường bằng cách lấy trung bình không trọng số mức độ ảnh hưởng

của bảy biểu hiện tác hại của BĐKH ở ĐBSCL: suy giảm diện tích và sản lượng

cây trồng; ảnh hưởng đến nuôi trồng thuỷ sản; suy giảm diện tích rừng; làm gia tăng

sinh vật ngoại lai; tác động đến sinh kế bền vững người dân; tác động đến các khu

công nghiệp - cụm công nghiệp; ảnh hưởng đến du lịch.

Cuối cùng, chỉ số sự hiện diện của BĐKH có giá trị bằng trung bình cộng của

hai chỉ số phụ nêu trên.

Chỉ số năng lực ứng phó BĐKH

Chỉ số năng lực ứng phó BĐKH được tính toán theo công thức sau:

[Năng lực ứng phó] = {[NL tuyên truyền] + [NL xây dựng chính sách] + [NL phân công, phối hợp]}/3

Trong đó:

- Năng lực tuyên truyền ứng phó BĐKH được tính toán bằng cách lấy trung

bình cộng của hai chỉ số phụ là chỉ số nội dung tuyên truyền và chỉ số hình thức

tuyên truyền. Chỉ số phụ nội dung tuyên truyền được tính bằng trung bình số lượng

nội dung về BĐKH mà mỗi người được tuyên truyền. Còn chỉ số hình thức tuyên

truyền được tính bằng cách lấy trung bình số biện pháp tuyên truyền về ứng phó

199

BĐKH mà người trả lời phỏng vấn đã được tuyên truyền.

- Năng lực xây dựng chính sách: được tính dựa trên đánh giá của người trả lời

về hai nội dung: (i) quy trình, cách thức xây dựng chính sách ứng phó; và (ii) chất

lượng nội dung của các chính sách.

- Năng lực phân công phối hợp được đánh giá dựa trên 04 chỉ số phụ là: (i)

năng lực phối hợp giữa các cơ quan ngang cấp; (ii) năng lực phối hợp giữa cấp trên

và cấp dưới; (iii) năng lực của cán bộ chuyên trách; và (iv) năng lực của các đối

tượng chịu tác động (đại diện là người dân và doanh nghiệp).

Chỉ số hiệu quả thực hiện chính sách ứng phó BĐKH

Chỉ số hiệu quả thực hiện chính sách ứng phó được tính toán dựa trên mức độ

đánh giá của người trả lời với 8 tiêu chí mà phiếu khảo sát đưa ra:

Quy trình, cách thức lồng ghép ứng phó với BĐKH vào quy hoạch, kế hoạch q1 KT-XH

q2 Quy trình lựa chọn các dự án, hoạt động ứng phó với BĐKH ở địa phương q3 Mức độ đảm bảo của ngân sách cho hoạt động ứng phó với BĐKH

q4 Tính kịp thời trong bố trí ngân sách các cấp cho hoạt động ứng phó với BĐKH

q5 Thủ tục thanh quyết toán khi sử dụng ngân sách cho hoạt động ứng phó với BĐKH

Công tác kiểm tra của cấp trên xuống cấp dưới trong thực hiện các hoạt động q6 ứng phó với BĐKH

Mức độ hiệu quả của các hoạt động ứng phó với BĐKH đối với tình trạng/diễn q7 biến của BĐKH ở địa phương

Mức độ đạt được giữa thực tế triển khai với mục tiêu chính sách ứng phó với q8 BĐKH mà địa phương đã đề ra

200

Công thức:

Phụ lục 4: Mô hình tôm - rừng hữu cơ theo chuỗi giá trị

Theo Hội nghề cá Việt Nam (2007), Nuôi thủy sản hữu cơ (Organic

Aquaculture) là xây dựng một hệ thống sản xuất sản phẩm thuỷ sản, sử dụng hình thái và công năng của môi trường tự nhiên mà nó phụ thuộc, tái sử dụng lại vật phế thải và tận dụng nguồn lợi có thể tái sinh trong hệ thống này mà không phá hoại hệ thống hữu cơ tự nhiên. Về cơ bản, nuôi thủy sản hữu cơ có các tiêu chí như nuôi không dùng phân tổng hợp, không sử dụng các loại hoá chất, kháng sinh, thuốc diệt cỏ và các chất bảo quản nhằm bảo vệ hệ hữu cơ biển và khôi phục lại các khu vực đầm lầy và cửa sông. Ngoài ra, nguồn thức ăn bổ sung cho nuôi hữu cơ cũng phải tuân thủ các quy tắc quốc tế về hợp chất hữu cơ, tính an toàn, chất lượng và tính bền vững. Mục đích của nuôi thủy sản hữu là nhằm chọn lựa một loại phương pháp nuôi thích hợp mang tính bền vững, tức là bảo vệ môi trường hữu cơ, giảm bớt tỷ lệ phát sinh bệnh tật, giảm bớt sự tiêu hao thức ăn … tăng độ an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm mô hình nuôi bền vững và thân thiện với môi trường. Đồng thời là một phương thức gia tăng giá trị đặc biệt, vì người tiêu dùng sản phẩm thuỷ sản hữu cơ bằng lòng bỏ tiền ra mua sản phẩm này với giá cao [185]. Ở Cà Mau, khái niệm “Tôm sinh thái” được dùng phổ biến từ năm 2002 đến nay để chỉ một loài tôm sú nuôi trong rừng đước đạt chứng nhận quốc tế. Cụm từ “Tôm sinh thái” được dịch theo nghĩa tiếng Anh là Organic Shrimp thì đó là “tôm hữu cơ”. Cách gọi

“tôm sinh thái” dưới đây (nếu có, theo địa phương) chính là “tôm hữu cơ”. Từ năm 2002 - 2005, Cà Mau đã xuất khẩu được 476 tấn tôm hữu cơ, đạt doanh thu 8,7 triệu USD, giá bán tôm hữu cơ tăng 20% so với tôm thông thường. Tôm hữu cơ Cà Mau bán nhiều ở thị trường EU và có khả năng xâm nhập và cạnh tranh được ở các thị trường khó tính khác như Mỹ, Nhật Bản, Úc ...Đến năm 2010, tổng diện tích tôm

hữu cơ được chứng nhận Naturland là 5.348 ha với 1.086 hộ tại Lâm Ngư Trường 184 và Ban quản lý rừng phòng hộ Kiến Vàng với sự liên kết và hỗ trợ kinh phí từ 2 công ty chế biến thủy sản Camimex và Seanamico [186].

Năm 2013, xuất phát từ nhu cầu của khách hàng quốc tế, Tập đoàn Thủy sản

Minh Phú thực hiện Dự án Tôm hữu cơ tại Ban Quản lý rừng phòng hộ Nhưng

Miên. Tháng 11/2014, đạt chứng nhận Naturland với diện tích 2.893ha và 741 hộ.

Sau đó, năm 2015, thực hiện dự án tại Ban Quản lý rừng phòng hộ Kiến Vàng, đạt

chứng nhận Selva Shrimp năm 2016 với diện tích 2.600ha và 387 hộ. Năm 2017, cả

2 dự án của Tập đoàn Thủy sản Minh Phú đạt 03 chứng nhận Organic EU, Bio

201

Suisse và Selva Shrimp với tổng diện tích là 4.679 ha với 915 hộ dân trong tổng

diện tích Dự án là 21.000ha đất rừng và khoảng 3.000 hộ dân. Tính tới thời điểm

này, Minh Phú được cho là có vùng nuôi tôm hữu cơ lớn nhất Cà Mau và Việt Nam.

Tháng 01/2017, Tập đoàn Thủy sản Minh Phú thành lập công ty con là Công ty CP

Xã hội Chuỗi tôm rừng Minh Phú (gọi tắt là DNXH Minh Phú). Đây là doanh

nghiệp đầu tiên của ngành tôm Việt Nam hoạt động theo mô hình DNXH. DNXH

Minh Phú cam kết dành 60% (Chính Phủ quy định 51%) lợi nhuận hàng năm đầu tư

lại cho hoạt động xã hội và môi trường, vì lợi ích cộng đồng. Đây là điểm khác biệt

lớn của DNXH Minh Phú so với mô hình doanh nghiệp truyền thống. Đến tháng

7/2017, đã có 89 hộ nuôi tôm hữu cơ trở thành cổ đông DNXH Minh Phú. Đây là

lần đầu tiên ở Việt Nam, có nhiều nông dân được sở hữu cổ phần ở một doanh

nghiệp thủy sản [187].

Về môi trường: Minh Phú cũng là đơn vị tiên phong thực hiện chi trả phí dịch

vụ môi trường rừng theo Quyết định số 111/QĐ-UBBND, ngày 21/1/2016 của

UBND tỉnh Cà Mau về việc Thí điểm nuôi tôm - rừng đạt chứng nhận quốc tế trên

địa bàn tỉnh Cà Mau. Theo đó năm 2016 và 2017 tổng chi trả dịch vụ môi trường

rừng là hơn 2,3 tỷ đồng. Các hoạt động tổ chức liên kết sản xuất, tập huấn kỹ thuật

nuôi tôm, tập huấn các tiêu chí chứng nhận tôm sinh thái, nâng cao ý thức bảo vệ

rừng, hỗ trợ, cung cấp tôm giống đạt chứng nhận hữu cơ... cho người dân là việc

làm thường xuyên của Minh Phú. Các chi phí trên, chi phí vận hành dự án và chi

phí đánh giá chứng nhận tôm hữu cơ được Minh Phú chi trả thay hộ dân. Ngoài ra,

Minh Phú xây dựng Trạm thu mua tôm sinh thái tại vùng nuôi nhằm phục nhu cầu

mua bán sản phẩm của người dân với giá mua tôm hữu cơ cao hơn giá thị trường.

Với đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên trực tiếp, DNXH Minh Phú có thể

thực hiện tất cả các chứng nhận tôm hữu cơ của khách hàng, tổ chức một cách hiệu

quả và tiết kiệm mà không cần phải tốn chi phí tư vấn thực hiện. Chi phí tư vấn

thường ngang bằng với chi phí đánh giá chứng nhận (thường khoảng 15.000

USD/dự án khoảng 2.500ha và 500 hộ dân). Với chiến lược vì cộng đồng, xã hội,

Minh Phú đã góp phần thúc đẩy ý thức bảo vệ và phát triển rừng ngập mặn ứng phó

với BĐKH, giải được bài toán giữa “sinh kế cho người dân” và “phát triển rừng và

bảo vệ rừng” từng bước hình thành và phát triển chuỗi giá trị tôm hữu cơ Cà Mau

và Việt Nam, xứng tầm tiềm năng phát triển so với các nước trên thế giới. Trong

năm 2018, Minh Phú tiếp tục mở rộng vùng chứng nhận tôm hữu cơ. Kế hoạch năm

2019 diện tích chứng nhận tăng lên 7.000ha với 1.500 hộ dân. Và tiếp tục mở rộng

202

thêm vào các năm tiếp theo.

Phụ lục 5: Mô hình liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp bền vững thông qua

HTX kiểu mới

Trong giai đoạn 2014-2019, Tập đoàn Lộc Trời và Tập đoàn Vinacam đã thí

điểm mô hình liên kết giữa Doanh nghiệp - Hợp tác xã - Viện/trường - Tổ chức quốc

tế - Nông dân trong việc hình thành chuỗi giá trị lúa gạo từ giống, phân thuốc và bao

tiêu quy mô lớn thông qua HTX thành viên (HTX kiểu mới do công ty thành lập).

Vai trò của mô hình liên kết chuỗi giá trị nông nghiệp bền vững: tận dụng tốt nguồn

lực của các bên; thúc đẩy lợi ích nông dân; nâng tầm giá trị sản phẩm; tăng quy mô

hoạt động; hài hòa lợi ích; kiểm soát rủi ro. Với việc quản lý đồng ruộng, vùng

nguyên liệu bằng mô hình công nghệ 4.0 và quản lý quy trình chất lượng từ các

khâu: vùng nguyên liệu - sản xuất - kiểm soát côn trùng - đóng gói xuất khẩu - xúc

tiến thương mại. Kết quả mô hình chuỗi mang lại: nông dân áp dụng tiến bộ khoa

học kỹ thuật vào sản xuất; chất lượng sản phẩm gạo đảm bảo tiêu chuẩn an toàn;

tăng sức mạnh cạnh tranh cho thương hiệu sản phẩm gạo; góp phần giảm chi phí,

tăng năng suất, thu nhập cho nông dân; bảo vệ môi trường, giảm phát thải KNK

trong sản xuất lúa; tăng tính bền vững trong sản xuất lúa32.

HTX nông nghiệp Vinacam Hòn Đất, thuộc Công ty Cổ phần nông sản

Vinacam, được thành lập vào tháng 8/2017 tại xã Nam Thái Sơn (huyện Hòn Đất).

Đây là mô hình hợp tác xã (HTX) kiểu mới đầu tiên có sự tham gia của doanh

nghiệp ở Kiên Giang nhằm tận dụng trình độ quản trị, giúp nông dân ứng dụng khoa

học - kỹ thuật vào sản xuất. Với tổng số vốn đầu tư của Nhà nước là 1, 695 tỷ đồng

hạng mục trạm điện hạ thế, cống máng bơm và vốn đầu tư cơ sở vật chất của HTX,

quy mô cánh đồng của HTX hiện là 430 ha với 56 xã viên tham gia. HTX thực hiện

các khâu: (i) cung ứng giống, vật tư sản xuất; (ii) các dịch vụ sản xuất-kinh doanh;

(iii) dịch vụ vận chuyển khi thu hoạch lúa; (iv) thu mua bao tiêu sản phẩm cho các

xã viên. HTX được sự hỗ trợ của cán bộ kỹ thuật Công ty Cổ phần nông sản

Vinacam hỗ trợ cho xã viên HXT trong quá trình canh tác mỗi khi dịch bệnh xảy

32 Kết quả khảo sát của NCS tại Tập đoàn Lộc Trời và Tập đoàn Vinacam, tháng 7/2019 33 Theo báo cáo của HTX, trong vụ Đông xuân năm 2018 (mùa vụ đầu tiên của HTX), doanh thu đạt 296.632.620đ, trừ đi chi phí 148.910.766 đ, HTX lợi nhuận được 147.721.854 đ.

203

ra33. Đối với công ty Cổ phần Nông sản Vinacam, đã hỗ trợ chi trả tiền lương cho

Ban giám đốc HTX trong thời gian đầu 6 tháng đầu với số tiền 84.000.000 đồng (từ

tháng 10/2017 đến cuối tháng 3/2018). Từ tháng thứ 6/2018 đến nay thì HTX tự cân

đối kinh phí để chi trả lương cho Ban Giám đốc và Ban kiểm soát.

Điểm khác biệt của mô hình này là HTX có đất đai và trụ sở riêng: HTX mua đất thổ cư với diện tích 1.500m2 (chiều ngang 20m, chiều dài 75m, thuộc tuyến dân

cư 165 xã Nam Thái Sơn) để xây trụ sở làm việc của HTX với số tiền là

205.000.000đ. Nguồn vốn do Công ty Cổ phần Nông sản Vinacam đầu tư mua đất

(theo hình thức cho vay lãi suất thấp, không thế chấp) cho HTX trả dần theo từng

năm cho công ty theo hợp đồng thảo thuận, lãi suất là 0,65%/năm. Từ năm 2018,

HTX sẽ tổ chức thêm dịch vụ bơm tát cho thành viên, dùng vốn điều lệ hiện đã thu

được 180.600.000đ để ký hợp đồng với đơn vị thi công dàn bơm, ống bơm gắn

motor giá là 116.700.000đ/cái; công suất là 37KW (50 HP)/1 motor. Hiện nay,

HTX sẽ phối hợp công ty Agricam tập huấn trồng lúa theo chương trình "1 phải 6

giảm", áp dụng theo tiêu chuẩn VietGap cho thành viên HTX và các hộ hợp đồng

bao tiêu sản phẩm. Đồng thời, có chính sách tăng giá thu mua lúa Nhật đối với

những cánh đồng lúa đạt tiêu chuẩn VietGAP, theo đó giá mua dự kiến cao hơn

10% so với lúa canh tác thông thường. Bên cạnh đó, HTX cũng phối hợp với công

ty Agricam hướng dẫn nông dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật hiệu quả, canh tác

giảm phát thải KNK, đáp ứng yêu cầu về dư lượng của các thị trường xuất khẩu.…

Từ điển hình thành công này, đến đầu năm 2019 công ty đã thành lập thêm HTX

34 Nguồn: Công ty Cổng phần Nông sản Vinacam, 2019.

204

Lương An Trà (Kiên Giang) với quy mô khoảng 400 ha, HTX Vinacam Giồng Riềng (Kiên Giang) khoảng 350 ha34.

Phụ lục 6: Các dự án đầu tư hạ tầng 2011-2020 do Bộ NN&PTNT chủ trì đã

được bố trí vốn

Đơn vị

TT

Tên dự án

(tỷ đồng)

I Tiểu vùng Duyên hải phía Đông

8.450,65

1 Nạo vét kênh Mây Phốp - Ngã Hậu, Vĩnh Long, Trà Vinh

458,00

Quản lý nước Bến Tre thích ứng BĐKH, ODA Chính phủ Nhật Bản

2

6.191,34

(JICA3)

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển sinh kế bền vững

3

cho người dân vùng ven biển Ba Tri, tỉnh Bến Tre nhằm thích ứng với

310,45

BĐKH

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cải thiện sinh kế người dân huyện Bắc

4

529,51

Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre nhằm thích ứng với BĐKH

Kiểm soát nguồn nước thích ứng với BĐKH vùng Nam Măng Thít,

5

746,05

tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long

6 Hệ thống thủy lợi Nam, tỉnh Bến Tre

215,40

II Tiểu vùng Tứ giác Long Xuyên

1.826,65

1 Cống Tha La, cống Trà Sư, An Giang

233,00

Nâng cao khả năng thoát lũ và thích ứng BĐKH cho vùng Tứ giác

2

943,27

Long Xuyên

Tăng cường khả năng thích ứng và quản lý nước cho vùng thượng

3

650,38

nguồn sông Cửu Long huyện An Phú tỉnh An Giang

III Tiểu vùng Đồng Tháp Mười

914,3

1 Hệ thống thủy lợi trạm bơm cống Xuân Hòa, Tiền Giang

250,00

Nâng cao khả năng thoát lũ và phát triển sinh kế bền vững, thích ứng

2

với BĐKH cho vùng Đồng Tháp Mười (các huyện phía Bắc tỉnh Đồng

664,30

Tháp)

IV Tiểu vùng Bán đảo Cà Mau

7.253,02

1 Cống âu thuyền Ninh Quới, Bạc Liêu

400,00

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ chuyển đổi sản xuất phù hợp

2

với điều kiện sinh thái nâng cao sinh kế thích ứng BĐKH vùng Cù

799,63

Lao Dung, Sóc Trăng

205

Đơn vị

TT

Tên dự án

(tỷ đồng)

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để phòng chống xói lở bờ biển cung

3

cấp nước ngọt và phục vụ nuôi tôm - rừng nhằm thích ứng BĐKH ở

780,38

vùng ven biển tỉnh Cà Mau

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phòng chống xói lở bờ biển và hỗ trợ

4

727,11

nuôi trồng thủy sản ở huyện An Minh, An Biên tỉnh An Giang

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ bảo vệ và phát triển rừng,

4

nâng cao sinh kế thích ứng BĐKH ở huyện Hòa Bình, Đông Hải và Tp

736,40

Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu

6 Hệ thống thủy lợi tiểu vùng II, III, V (Cà Mau)

500,00

7 Hệ thống thủy lợi Cái Lớn - Cái Bé giai đoạn 1, tỉnh Kiên Giang

3.309,50

V

Tổng

18.444,62

206

Nguồn: Tính toán của Luận án dựa trên Báo cáo của Bộ NN&PTNT, 2019.

Phụ lục 8: Mô hình tư nhân đầu tư vào năng lượng tái tạo

Ở Việt Nam ngành năng lượng là ngành có phát thải KNK khá lớn trong các ngành kinh tế, chiếm khoảng 53,38%, đặc biệt là năng lượng hoá thạch [26]. Để

từng bước thực hiện xanh hóa đối với ngành năng lượng, ngày 25/11/2015 Thủ

tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2068/QĐ-TTg về Phê duyệt Chiến

lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm

2050. Quyết định 2068 nói trên đã hình thành cơ chế, chính sách NLTT: thị trường;

chính sách giá điện, cơ chế đầu tư; cơ chế thanh toán; chính sách ưu đãi về thuế, đất

đai.... nhằm thu hút đầu tư vào 4 lĩnh vực năng lược tái tạo (thuỷ điện nhỏ, năng

lượng sinh khối, năng lượng gió, năng lượng mặt trời).

Để góp phần cụ thể hóa chính sách cho từng loại hình NLTT ngành Công

thương, Chính phủ, đã xây dựng và ban hành từng cơ chế riêng cho mỗi loại năng

lượng, đặc biết là như: điện điện gió, điện mặt trời. Chính phủ và Bộ Công thương,

các địa phương đã phê duyệt Quy hoạch phát triển điện gió ở các địa phương đến

năm 2020 và tầm nhìn 2030: Thái Bình, Quảng Trị, Bình Định, Bình Thuận, Ninh

Thuận, Bạc Liêu, Trà Vinh, Cà Mau, Sóc Trăng, Bến Tre, Bà Rịa-Vũng

Tàu….Ngày 18/3/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 428/QĐ-

TTg về Phê duyệt Đề án Điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai

đoạn 2011 - 2020 có xét đến năm 2030 (gọi tắt là Quy hoạch điện VII điều chỉnh).

Trong Quy hoạch điện VII điều chỉnh, thì năng lượng tái tạo được quy hoạch với

tổng công suất là khoảng 27.000 MW, sản xuất khoảng 61 tỷ kWh, chiếm khoảng

10,7% trong cơ cấu điện sản xuất.

Đặc biệt, Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg, ngày 14/1/2017 của Thủ tướng

Chính phủ về cơ chế khuyến khích phát triển các dự án điện mặt trời ở Việt Nam.

Trong đó đề cập đến các cơ chế sau: quy hoạch dự án điện mặt trời, cơ chế đấu nối

điện mặt trời vào hệ thống điện, trách nhiệm mua điện từ các dự án điện mặt trời,

ưu đãi về vốn đầu tư và thuế, ưu đãi về đất đai, giá của dự án điện mặt trời. Từ sau

khi có Quyết định 11/2017, đã diễn ra một làn sóng bùng nổ các dự án điện mặt trời

được đăng ký với tổng công suất đăng ký lên tới hơn 17.000 MW, cao hơn cả mục

tiêu phát triển điện mặt trời tính đến năm 2030 của Qui hoạch điện VII (QHĐ VII)

điều chỉnh. Để cụ góp phần hiện thực hóa Quyết định 11/2017, ngày 12/9/2017, Bộ

Công thương đã ban hành Thông tư 11/2017, nhằm hướng dẫn về các quy định

207

trong phát triển dự án và hợp đồng mua bán điện mẫu dự án điện mặt trời. Đây

được hy vọng là một bước ngoặt trong việc kích nổ thị trường lượng giàu tiềm năng

này của Việt Nam. Thông tư Thông tư 16/2017/TT-BCT ngày 12/9/2017 quy định

về phát triển dự án và hợp đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt

trời. Quyết định số 39/2018/QĐ-TTg ngày 10/9/2018 sửa đổi, bổ sung một số điều

của Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg ngày 29/6/2011 về cơ chế hỗ trợ phát triển các

dự án điện gió tại Việt Nam Quyết định số 02/2019/QĐ-TTg ngày 8/1/2019 sửa đổi,

bổ sung một số điều của Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg về cơ chế khuyến khích

phát triển các dự án điện mặt trời tại Việt Nam. Thông tư số 05/2019/TT-BCT ngày

11/3/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 16/2017/TT-BCT ngày

12/9/2017 của Bộ trưởng Bộ Công Thương quy định về phát triển dự án và Hợp

đồng mua bán điện mẫu áp dụng cho các dự án điện mặt. Các cơ chế, chính sách nói

trên là cú hích để các địa phương vùng ĐBSCL phát triển năng lượng gió, năng

lượng mặt trời ở những nơi có tiềm năng.

- Ngày 17/1/2014 tại xã Vĩnh Trạch Đông, Thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc

Liêu Công ty TNHH Xây dựng - Thương mại và Du lịch Công Lý (Cty Công Lý) tổ

chức lễ khánh thành Nhà máy Điện gió Bạc Liêu 1. Dự án Điện gió tỉnh Bạc Liêu

giai đoạn 1 được xây dựng có quy mô công suất là 99,2 MW, điện năng sản xuất

khoảng 320 triệu KWh/năm. Tổng mức đầu tư của dự án là 5.600 tỉ đồng, với diện

tích đất 1.300ha, dự án được đầu tư bằng nguồn vốn tự có của Chủ đầu tư và nguồn

vốn vay tín dụng đầu tư của Nhà Nước.

- Đồng thời tháng 11/2013, giai đoạn 2 dự án điện gió Bạc Liêu được Công

ty Công Lý khởi động, với tổng vốn đầu tư hơn 4.200 tỷ đồng, gồm 52 trụ turbine

gió. Và vào quý 2/2016 dự án đã hoàn thành với 3 đợt đóng điện. Trong đó, đóng

điện đợt 1 vào ngày 29/5/2015, gồm 20 turbine gió, nâng công suất phát điện lên 48

MW, tăng thêm 28 triệu KWh điện so với giai đoạn 1; đợt 2 vào ngày 2/9/2015,

gồm 16 turbine gió, nâng công suất phát điện lên 73,6 MW và đợt 3 vào ngày

30/4/2016, gồm 16 turbine gió, nâng công suất phát điện dự án là 99,2 MW.

- Ngày 30/1/2018, Công ty cổ phần Super Wind Energy Công Lý (công ty

Công Lý) đã tổ chức lễ khởi công Dự án Nhà máy điện gió Bạc Liêu giai đoạn III,

tại xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu. Dự án Nhà máy điện gió Bạc Liêu

giai đoạn III, có công suất 142MW, gồm 71 trụ turbine gió. Mỗi trụ turbine có công

suất khoảng 2.5MW - 3.5MW. Sản lượng điện dự kiến phát hàng năm là 373 triệu

208

kWh. Tổng mức đầu tư dự án là hơn 8.900 tỷ đồng. Khi Giai đoạn III của dự án

hoàn thành, Nhà máy điện gió Bạc Liêu sẽ có 133 trụ turbine với tổng công suất là

241,2 MW.

Sau khi hoàn thành cả 3 giai đoạn của nhà máy dự án đưa vào khai thác vận

hành dự kiến sẽ cung cấp hàng năm khoảng 373 triệu KWh điện hòa vào điện lưới

quốc gia, góp phần ổn định an ninh năng lượng quốc gia, tạo ra công ăn việc làm

cho hơn 1.200 lao động, góp phần tích cực vào sự ổn định an sinh xã hội và phát

triển KT-XH trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.

Cũng như tỉnh Bạc Liêu, để huy động doanh nghiệp đầu tư vào năng lượng tái

tạo, nhằm xanh hóa ngành năng lượng, giảm phát thải KNK, thích ứng với BĐKH,

vào cuối năm 2015 UBND tỉnh Cà Mau đã trình Chính phủ phê duyệt để Công ty

TNHH Xây dựng - Thương mại - Du lịch Công Lý đầu tư phát triển Dự án Nhà máy

điện gió tại bãi biển Khai Long thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Dự án được

triên khai với 3 giai đoạn, có tổng kinh phí ước tính trên 70.000 tỷ đồng với quy mô

150 trụ tuabin, công suất thiết kế 300MW, được xây dựng trên diện tích hơn 7.000

ha. Dự án đã được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt quy hoạch phát triển điện lực

Quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến năm 2030 và Thủ tướng Chính Phủ chấp

thuận chủ trương đầu tư ngày 14-1-2016. Tháng 9-2016, dự án được khởi công tại

giai đoạn 1, có quy mô công suất là 100 MW, bao gồm 50 trụ turbine gió, công suất

mỗi turbine gió là 2 MW, điện năng sản xuất dự án khoảng 280 triệu KWh/năm.

Tổng mức đầu tư của dự án là 6.320 tỷ đồng. Đến nay, Công ty Công Lý đã triển

khai thi công xong một số hạng mục hạ tầng như: Cầu dẫn cáp chính dài 500m, san

lắp bãi tập kết vật tư, thiết bị, nhà văn phòng Ban Quản lý dự án, riêng đường dây

110kV đấu nối vào dự án do Tổng công ty Điện lực Miền Nam thực hiện thi công.

Đến hết tháng 8/2019, công ty đã thi công một số hạng mục chính như: Móng trụ

turbine gió ngoài biển, trạm biến áp 22/110 kV và đấu thầu mua sắm thiết bị turbine

gió. Dự án được xây dựng trên vùng bãi bồi ven biển thuộc tỉnh Cà Mau, với mục

tiêu đầu tư xây dựng và quản lý một Nhà máy điện độc lập, sử dụng năng lượng gió

để phát điện, hòa với lưới điện quốc gia thông qua hợp đồng mua bán điện dài hạn

với Tập đoàn Điện lực Việt Nam; dự án còn kết hợp phục vụ du lịch sinh thái và

nuôi trồng lâm, thủy sản, giải quyết về an sinh xã hội, tạo thêm công ăn việc làm

35 Tổng hợp từ kết quả làm việc của NCS với Công ty THHH Công Lý ở Tp. Cà Mau tháng 8/2019.

209

cho người lao động, góp phần tăng thu ngân sách của địa phương và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Cà Mau35.

Phụ lục 9: Phiếu điều tra

BẢNG HỎI KHẢO SÁT CÁN BỘ

Đề tài: “Một số vấn đề về thực hiện chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long”

THÔNG TIN CHUNG: 1. Họ và tên cán bộ: ...................................................... 2. Số ĐT: ...............................

3. Đơn vị công tác: ....................................................... 4. Tỉnh: ..................................

1. Cà Mau 2. TP Cần Thơ 3. Long An 4. Bến Tre

5. Tiền Giang 6. Đồng Tháp 7. Sóc Trăng 8. An Giang

PHẦN I. ĐÁNH GIÁ VỀ BIỂU HIỆN CỦA BĐKH VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA BĐKH ĐẾN PHÁT TRIỂN KT-XH Ở ĐỊA PHƯƠNG

1.1. Ông/bà vui lòng cho biết các biểu hiện, tần suất của BĐKH ở địa phương Trong 5 năm vừa qua:

Mức độ/tần suất/cường độ

TT Biểu hiện của BĐKH Tăng Bình Giảm Tăng Giảm mạnh thường mạnh

1 Nước biển dâng

2 Hạn hán

3 Xâm ngập mặn

4 Lũ, ngập lụt

5 Tăng/giảm nhiệt độ bất thường

6 Bão, áp thấp nhiệt đới

7 Sạt lở sông, biển

8 Nắng nóng bất thường

9 Mưa lớn cục bộ

210

10 Khác:…………………………..

1.2. Ông/bà vui lòng cho biết các ảnh hưởng tiêu cực sau đối với KT-XH và môi trường của BĐKH ở địa phương:

Mức độ ảnh hưởng

TT Biểu hiện của BĐKH

Ảnh hưởng Bình thường

1 Suy giảm diện tích và sản Không AH lắm Không ảnh hưởng Ảnh hưởng mạnh lượng cây trồng

2 Ảnh hưởng đến nuôi trồng thuỷ sản

3 Suy giảm diện tích rừng 4 Làm gia sinh vật ngoại lai 5 Tác động đến sinh kế bền vững người dân

6 Tác động đến các KCN-CCN 7 Ảnh hưởng đến du lịch 8 Khác:…………………………..

PHẦN 2. XÂY DỰNG KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI, THỰC HIỆN CÁC

CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ BĐKH Ở VÙNG KHẢO SÁT

2.1. Về quy trình, cách thức xây dựng chính sách ứng phó với BĐKH, ông/bà vui

lòng cho nhận xét về một số chỉ tiêu sau:

Đánh giá

TT Chỉ tiêu Tốt Rất tốt Bình thường Chưa tốt lắm Chưa tốt

1 Quy trình xây dựng chính sách BĐKH hiện nay

2 Mức độ tuân thủ theo quy trình xây dựng chính sách khi tổ chức chính sách ứng phó với BĐKH

3 Sự phối hợp giữa Trung ương và địa phương, tổ chức xã hội trong xây dựng chính sách ứng phó với BĐKH

4 Sự tham gia của chuyên gia, các nhà khoa học vào quá trình xây dựng chính sách ứng phó với BĐKH

211

5 Xây dựng kế hoạch triển khai chính sách

6 Sự tham gia của đối tượng thụ hưởng chính sách ứng phó với BĐKH vào quá trình XD chính sách

7 Lượng ngân sách được bố trí cho việc tổ chức xây dựng chính sách ứng phó với BĐKH

8 Tính kịp thời trong bố trí ngân sách cho xây dựng chính sách ứng phó với BĐKH

10 Mức độ kịp thời trong sửa đổi, bổ sung các chính sách trong hệ thống chính sách ứng phó với BĐKH

2.2. Về nội dung chính sách ứng phó với BĐKH, ông/bà vui lòng cho nhận xét về

một số chỉ tiêu sau:

Đánh giá

Chưa TT Chỉ tiêu Rất Bình Chưa Tốt tốt tốt thường tốt lắm

1 Đối tượng áp dụng của chính sách ứng

phó với BĐKH

2 Mục tiêu chính sách ứng phó với

BĐKH so với nguồn lực thực hiện

trong thực tế

3 Mục tiêu của chính sách ứng phó với

BĐKH so với nhu cầu thực tiễn

4 Các quy định về nội dung hoạt động

của chính sách ứng phó với BĐKH so

với thực tế ở địa phương

Các quy định về định mức hộ trợ ứng

phó với BĐKH trong chính sách ứng 5

phó với BĐKH so với thực tế ở địa

phương

212

6 Khác: ………………………………...

PHẦN 3. TUYÊN TRUYỀN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ BĐKH Ở VÙNG KHẢO SÁT

3.1. Ông/bà đã được tuyên truyền, tập huấn những kiến thức cụ thể nào sau đây?

(Có thể chọn nhiều phương án)

Nội dung Đánh dấu (X)

1. Các biểu hiện và tác động của BĐKH đến địa phương

2. Chính sách hỗ trợ ứng phó BĐKH

3. Các mô hình ứng phó với BĐKH dựa vào cộng đồng

4. Các hình thức hỗ trợ cho từng nhóm đối tượng (người dân, doanh nghiệp...)

5. Khác: ......................................................................................

3.2. Về hình thức tuyên truyền các kiến thức về BĐKH và chính sách ứng phó với

BĐKH, ông/bà đã được tham gia các hình thức tuyên truyền/tập huấn cụ thể nào sau

đây? (Có thể chọn nhiều phương án)

Hình thức

1. Các lớp tập huấn 2. Hội thảo 3. Tham quan mô hình Hình thức 4. Các cuộc thi tìm hiểu 5. Các cuộc họp 6. Khác: ........................ Đánh dấu (X) Đánh dấu (X)

3.3. Ông/bà đánh giá chung về mức độ hiệu quả của những chương trình tuyên

1. Rất hiệu quả 2. Hiệu quả 3. Bình thường 4. Không hiệu quả lắm 5. Không hiệu quả

truyền/tập huấn kiến thức về BĐKH và chính sách ứng phó với BĐKH như thế nào?

PHẦN 4. PHÂN CÔNG, PHỐI HỢP GIỮA CÁC CHỦ THỂ VÀ ĐỊA PHƯƠNG TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ BĐKH Ở VÙNG KHẢO

SÁT

4. Về sự phân công, phối hợp giữa các chủ thể và địa phương trong việc thực hiện

Đánh giá

TT

Chỉ tiêu đánh giá

Tốt

Rất tốt

Bình thường

Chưa tốt lắm

Chưa tốt

A. Sự phân công giữa chính quyền các cấp

1

Sự phân công nhiệm vụ cho các sở/ban/ngành liên quan trong tỉnh để để quản lý, tổ chức triển khai chính sách ứng phó với BĐKH

213

chính sách ứng phó với BĐKH, ông/bà vui lòng cho nhận xét về một số chỉ tiêu sau:

2

Sự phân công nhiệm vụ cho các phòng/ban liên quan trong huyện để quản lý và tổ chức các hoạt động ứng phó với BĐKH

B. Sự phối hợp giữa chính quyền các cấp

3

Sự phối hợp giữa các đơn vị cùng cấp (trong UBND) để quản lý, tổ chức triển khai chính sách ứng phó với BĐKH

4

Sự phối hợp giữa các đơn vị cấp dưới và cấp trên để quản lý và tổ chức các hoạt động ứng phó với BĐKH

5

Sự phối hợp giữa các tỉnh trong vùng ĐBSCL để quản lý, tổ chức triển khai các hoạt động ứng phó với BĐKH

C. Cán bộ chuyên trách

6

Số lượng cán bộ chuyên trách về xây dựng và triển khai chính sách ứng phó với BĐKH so với nhu cầu thực tế của địa phương

7

Chuyên môn đào tạo của các cán bộ chuyên trách so với nhu cầu thực tế của địa phương

8

Thu nhập cho cán bộ chuyên môn về xây dựng và triển khai chính sách ứng phó với BĐKH hiện nay

9 Việc đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cho cán bộ chuyên môn về xây dựng và triển khai chính sách ứng phó với BĐKH

D. Cá nhân, doanh nghiệp

10

Sự hỗ trợ về vật chất của khu vực tư nhân (cá nhân, doanh nghiệp) cho các hoạt động ứng phó với BĐKH

11

Sự tham gia của khu vực tư nhân (cá nhân, doanh nghiệp) trong việc thực hiện các hoạt động ứng phó với BĐKH

12 Sự chủ động ứng phó với ảnh hưởng

214

BĐKH của doanh nghiệp

13 Khác: ………………………….

PHẦN 5. ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ỨNG PHÓ VỚI

BĐKH Ở CÁC ĐỊA PHƯƠNG KHẢO SÁT

5. Về việc đánh giá việc thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH, ông/bà vui lòng

Rất

Bình

Chưa

Chưa

TT

Chỉ tiêu đánh giá

Tốt

tốt

thường

tốt lắm

tốt

1 Quy trình, cách thức lồng ghép ứng phó với

BĐKH vào quy hoạch, kế hoạch KT-XH

2 Quy trình lựa chọn các dự án, hoạt động

ứng phó với BĐKH ở địa phương

3 Mức độ đảm bảo của ngân sách cho hoạt

động ứng phó với BĐKH

4 Tính kịp thời trong bố trí ngân sách các

cấp cho hoạt động ứng phó với BĐKH

5 Thủ tục thanh quyết toán khi sử dụng

ngân sách cho hoạt động ứng phó với

BĐKH

6 Công tác kiểm tra của cấp trên xuống cấp

dưới trong thực hiện các hoạt động ứng

phó với BĐKH

7 Mức độ hiệu quả của các hoạt động ứng phó

với BĐKH đối với tình trạng/diễn biến của

BĐKH ở địa phương

8 Mức độ đạt được giữa thực tế triển khai

với mục tiêu chính sách ứng phó với

BĐKH mà địa phương đã đề ra

9 Khác: ……………………………….

215

cho nhận xét về một số chỉ tiêu sau:

PHẦN 6. HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH

6.1. Ông/bà vui lòng cho biết, để hoàn thiện chính sách ứng phó với BĐKH ở trong

thời gian tới, mức độ cần thiết của việc thực hiện các vấn đề sau:

Đánh giá

Rất Không Không TT Vấn đề Cần Bình cần cần cần thiết thường thiết lắm thiết

1 Các chính sách cần phải lấy ý kiến

của địa phương và cộng đồng

2 Chính sách ban hành cần gắn với

nguồn lực tương ứng

3 Cần tích hợp 2 ban chỉ đạo BĐKH

và PCTTTKCN

4 Cần xây dựng các chính sách dự

án mang tính liên vùng, liên tỉnh

5 Tập trung vào giải pháp bán công

trình và phi công trình

6 Đầu tư hệ thống quan trắc, cảnh

báo sớm thiên tai, BĐKH

7 Hình thành trung tâm dữ liệu vùng

8 Tập trung nguồn nghiên cứu các

loại giống thích ứng với hạn, mặn,

ngập lụt…

9 Nhân rộng các mô hình sinh kế

thích ứng bền vững với BĐKH

10 Cần có các giải pháp huy động các

nguồn lực từ khu vực tư nhân,

cộng đồng cho BĐKH

216

11 Khác: …………………………….

6.2. Ông/bà có đề xuất thêm ý kiến hoặc góp ý gì để hoàn thiện và tăng cường hiệu quả thực hiện chính sách ứng phó với BĐKH không?

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

217

Xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của ông/bà!