HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HOÀNG NGỌC PHƯƠNG

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI -

GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI - 2021

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HOÀNG NGỌC PHƯƠNG

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI -

GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC

Mã số: 9 31 02 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS,TS. NGUYỄN VIẾT THÔNG

2. TS. TỐNG ĐỨC THẢO

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả luận án

Hoàng Ngọc Phương

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

8

1.1. Những công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị nói chung 8

1.2. Những công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị Việt Nam 17

1.3. Giá trị những công trình đã nghiên cứu và các vấn đề cần tiếp tục

nghiên cứu 27

Chương 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI VÀ ĐẢNG CẦM QUYỀN TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI

31

2.1. Những vấn đề chung về hệ thống chính trị và hệ thống chính trị

một đảng nổi trội 31

2.2. Những vấn đề chung về đảng chính trị, đảng cầm quyền trong hệ

thống chính trị một đảng nổi trội 50

Chương 3: KHẢO CỨU MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI ĐIỂN HÌNH

71

3.1. Trường hợp Nhật Bản 71

3.2. Trường hợp Hàn Quốc 85

3.3. Trường hợp Singapore 93

Chương 4: ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI VÀ MỘT SỐ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

106

4.1. Những nét nổi bật của hệ thống chính trị một đảng nổi trội qua

các trường hợp khảo cứu 106

4.2. Một số giá trị tham khảo cho đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam 134

KẾT LUẬN

148

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Bảng 2.1: Đảng kiểm soát chức tổng thống 67

Bảng 2.2: Đảng đối lập kiểm soát chức tổng thống 67

Bảng 2.3: Sự thống trị theo niên đại 69

Bảng 4.1: Danh sách xếp hạng GDP các quốc gia và vùng lãnh thổ

theo thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2018) 111

Bảng 4.2: Châu Á - 10 quốc gia có chỉ số phát triển con người cao 112

Bảng 4.3: Danh sách các nước xếp hạng theo chỉ số nhận thức tham nhũng

năm 2019 128

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công cho tới nay, Đảng Cộng sản

Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội, là nhân tố quyết

định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng

trong thực tiễn cách mạng Việt Nam là một tất yếu lịch sử khách quan, được

khẳng định nhất quán trong các văn kiện đại hội Đảng, được Hiến pháp năm

1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 ghi nhận.

Với sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới ở Việt Nam gần 35 năm

qua đã đạt được những thành tựu quan trọng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội...

Song song đó, yêu cầu đổi mới về hệ thống chính trị - cũng là một trong

những nhiệm vụ quan trọng của một đảng cầm quyền. Nghị quyết Trung

ương 6 khóa XII của Đảng Về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ

chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả

đã nhấn mạnh đến việc đổi mới từng bước, thận trọng, có nguyên tắc và

không chủ quan, nóng vội.

Trong quá trình đổi mới, hệ thống chính trị Việt Nam đã bảo đảm vai

trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, có nhiều thành tựu được ghi

nhận, đã phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần quan trọng vào

những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy nhiên, những năm qua, nhiều chủ trương, cơ chế về xây dựng tổ

chức bộ máy của hệ thống chính trị còn một số yếu kém, bất cập, dẫn đến

việc tổ chức, sắp xếp, kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác

của các tổ chức trong hệ thống chính trị chưa được phân định rõ ràng, cần

điều chỉnh hợp lý hơn.

2

Trong điều kiện mới hiện nay, việc nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc

kinh nghiệm của các nước trong xây dựng hệ thống chính trị không chỉ là

yêu cầu xuất phát từ thực tiễn hiện nay của Việt Nam sau gần 35 năm tiến

hành đổi mới đất nước mà còn là xu hướng chung của thế giới. Trong bối

cảnh đó, Việt Nam phải chịu những sức ép không nhỏ từ cả bên ngoài và nội

tại để đổi mới, hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả, hiệu lực của hệ

thống chính trị, bảo đảm hội nhập quốc tế thành công. Sự phát sinh và diễn

biến phức tạp của các vấn đề khi hội nhập quốc tế, đòi hỏi hệ thống chính trị

phải đủ mạnh và linh hoạt để kịp thời ứng phó với những vấn đề xuất hiện

trong quá trình hội nhập, đáp ứng mục tiêu và nhu cầu phát triển bền vững

của dân tộc, đất nước trong bối cảnh mới.

Trước sự phong phú và đa dạng của các mô hình hệ thống chính trị

trên thế giới (cả về thực tiễn và lý luận), để đảm bảo không chệch hướng về

mặt chính trị, định hướng phát triển; kế thừa và vận dụng linh hoạt những

kinh nghiệm quốc tế trong xây dựng hệ thống chính trị, Đảng ta khi nghiên

cứu và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước cần phải dựa trên

các cơ sở sau: Bảo đảm sự biện chứng giữa cái phổ biến và cái đặc thù, cái

lịch sử và cái lô-gic một cách cụ thể trên phương diện đổi mới hệ thống

chính trị là nguyên tắc cần được tuân thủ hết sức nghiêm ngặt. Trong đó,

tính phù hợp và hiệu quả là mục tiêu, là thước đo trình độ của việc đổi mới

một cách tổng thể và trực tiếp đổi mới chính trị.

Hệ thống chính trị ở Việt Nam và hệ thống chính trị ở một số quốc gia

có một đảng nổi trội cầm quyền có một số điểm tương đồng. Về mặt hình

thức, các quốc gia có hệ thống chính trị một đảng nổi trội đều tồn tại theo cơ

chế đa đảng nhưng có một đảng chính trị nổi trội nắm quyền lãnh đạo, điều

hành và vận hành hệ thống chính trị trong một thời gian dài như Đảng Hành

động Nhân dân (PAP) ở Singapore, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) ở Nhật Bản,

3

Đảng dân chủ ở Hàn Quốc. Từ những nước nghèo và kém phát triển, lại là

những nước thuộc địa, các nước này đã có những bước tiến ngoạn mục để

trở thành những con rồng, con hổ ở châu Á.

Đã có nhiều câu hỏi đặt ra đối với sự phát triển của những quốc gia

này. Bằng cách nào đảng nổi trội cầm quyền trong suốt thời gian dài có thể

xây dựng và chèo lái đất nước từ nước nghèo trở thành những nền kinh tế

phát triển nhanh ở châu Á cũng như trên thế giới, bằng cách nào quốc gia

nhỏ đa sắc tộc, đa tôn giáo, đa ngôn ngữ lại có thể giữ được ổn định chính trị

lâu dài, và đặc biệt hơn, bằng cách nào quốc gia với các giá trị châu Á làm

nền tảng và một đảng duy nhất cầm quyền từ ngày độc lập lại có được mức

độ ổn định chính trị và kinh tế phát triển vượt bậc như vậy.

Ở những quốc gia như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc..., đảng nổi

trội cầm quyền thành công trong quá trình vận hành hệ thống chính trị được

biết đến như nền hành chính gọn nhẹ, khắc phục được tham nhũng, chế độ

đối với cán bộ thuộc bộ máy hành chính nhà nước..., và những kinh nghiệm

trong quá trình vận hành hệ thống chính trị ở các quốc gia có một đảng nổi

trội có giá trị tham khảo đối với quá trình đổi mới hệ thống chính trị Việt

Nam hiện nay.

Tình hình quốc tế và trong nước tạo ra cả thời cơ, thuận lợi và thách

thức, khó khăn tác động đan xen đến sự phát triển đất nước, đến quá trình

đổi mới hệ thống chính trị, đặc biệt là công tác xây dựng Đảng và phương

thức lãnh đạo của Đảng. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải đổi mới mạnh

mẽ tổ chức, phương thức lãnh đạo để nắm bắt thời cơ, vượt qua khó khăn,

thách thức, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước

phát triển nhanh và bền vững

Theo đó, việc nghiên cứu về hệ thống chính trị ở một số quốc gia có

một đảng nổi trội, nghiên cứu vai trò của đảng nổi trội cầm quyền quan

4

trọng như thế nào trong quá trình vận hành của cả hệ thống chính trị một

quốc gia; từ đó có thể gợi mở một số giá trị mang tính tham khảo cho hệ

thống chính trị Việt Nam. Do vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Hệ thống chính

trị một đảng nổi trội - Giá trị tham khảo cho Việt Nam” làm đề luận án của

mình dưới cách tiếp cận tài nghiên cứu của bộ môn Chính trị học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận hệ thống chính trị, làm rõ những vấn đề

mang tính đặc trưng, đặc thù của hệ thống chính trị một đảng nổi trội; và qua

việc khảo sát, đánh giá một số trường hợp điển hình nổi bật của hệ thống

chính trị một đảng nổi trội để đưa ra một số giá trị tham khảo đối với việc

đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận án là:

- Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận và đặc trưng của

hệ thống chính trị một đảng nổi trội.

- Thứ hai, khảo sát, đánh giá hiệu quả vận hành của hệ thống chính trị

một đảng nổi trội qua mô hình một số quốc gia châu Á điển hình như Nhật

Bản, Hàn Quốc, Singapore.

- Thứ ba, gợi mở một số giá trị tham khảo từ các trường hợp khảo cứu

cho việc đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là hệ thống chính trị một đảng nổi

trội, giá trị tham khảo cho Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: các quốc gia Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc.

5

- Về thời gian: trong giai đoạn một đảng nổi trội cầm quyền ở các mô

hình nghiên cứu, cụ thể như: Đảng Hành động Nhân dân của Singapore,

Đảng Dân chủ Tự do của Nhật Bản và Đảng dân chủ ở Hàn Quốc.

- Về nội dung: “Giá trị” mà luận án nghiên cứu mô hình hệ thống

chính trị một đảng nổi trội ở một số quốc gia châu Á điển hình như Nhật

Bản, Hàn Quốc, Singapore là giá trị ứng dụng cho việc đổi mới hệ thống

chính trị Việt Nam hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt

Nam về hệ thống chính trị. Đặc biệt, luận án bám sát đến những quan điểm

biện chứng, khách quan, toàn diện, lịch sử - cụ thể, quan điểm của các học

giả tư sản về hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị một đảng nổi

trội nói riêng để triển khai các ý tưởng nghiên cứu.

Các phương pháp cụ thể được sử dụng, bao gồm:

- Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng để phân tích bản

chất, nội hàm của các khái niệm hệ thống chinh trị, hệ thống chính trị một

đảng nổi trội; làm rõ các đặc trưng cụ thể của hệ thống chính trị một đảng

nổi trội.

- Phương pháp logic-lịch sử được sử dụng để làm rõ quá trình hình

thành, phát triển của hệ thống chính trị một đảng nổi trội ở một số quốc

gia, từ đó rút ra những đánh giá chung về sự tồn tại, phát triển của các quốc

gia này.

- Phương pháp so sánh được sử dụng nhằm làm rõ sự khác biệt giữa

hệ thống chính trị một đảng nổi trội, hệ thống chính trị một đảng, hệ thống

chính trị lưỡng đảng, làm rõ những giá trị tiêu biểu của hệ thống chính trị

một đảng nổi trội.

6

- Phương pháp phân tích tài liệu sẽ giúp cho quá trình tổng thuật tài

liệu, khai thác những dữ liệu đã có trong các công trình nghiên cứu đi trước

cũng như qua báo cáo của các tổ chức, các cơ quan có thẩm quyền để phục

vụ cho việc nghiên cứu của luận án.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

- Khái quát những đặc trưng, những nét nổi bật của hệ thống chính trị

một đảng nổi trội các nước mang tính điển hình ở châu Á.

- Những giá trị tham khảo từ quá trình vận hành hệ thống chính trị

một đảng nổi trội được luận án tổng kết sẽ có ý nghĩa tham khảo cho quá

trình đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

- Luận án có ý nghĩa khoa học thể hiện ở khía cạnh:

Thứ nhất, hệ thống hóa một số lý thuyết, cách tiếp cận và quan điểm

trên thế giới liên quan tới hệ thống chính trị, đảng chính trị, đảng cầm

quyền; đặc trưng của hệ thống chính trị một đảng nổi trội.

Thứ hai, làm rõ sự cần thiết của nghiên cứu thực chứng, nghiên cứu so

sánh trường hợp trong nghiên cứu hệ thống chính trị nói chung và hệ thống

chính trị một đảng nổi trội, phân tích điểm nổi bật về của hệ thống chính trị

một đảng nổi trội qua mô hình một số nước châu Á điển hình như Nhật Bản,

Hàn Quốc, Singapore.

Thứ ba, đưa ra những giá trị tham khảo, bổ sung về mặt nhận thức trong

các nghiên cứu về đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay.

- Ý nghĩa thực tiễn của luận án thể hiện ở hai góc độ sau:

Thứ nhất, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc

nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành Chính trị học, các bộ môn khoa học

xã hội và nhân văn có liên quan.

7

Thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp những luận

chứng, luận cứ khoa học giúp cho chủ thể cầm quyền ở nước ta trong thực

tiễn đổi mới chính trị hiện nay, trên cơ sở tham khảo những kinh nghiệm về

thành công và hạn chế của hệ thống chính trị một đảng nổi trội qua mô hình

một số nước châu Á điển hình.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án

gồm 4 chương, 10 tiết.

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

NÓI CHUNG

1.1.1. Những công trình cứu về hệ thống chính trị

Nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị

trên thế giới có các công trình tiêu biểu sau: Hồ Văn Thông (1998), Hệ thống

chính trị ở các nước tư bản phát triển hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà

Nội; Dương Xuân Ngọc, Lưu Văn An (2003) (chủ biên), Thể chế chính trị thế

giới đương đại, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Viện Khoa học Pháp lý

(2005), Thiết chế chính trị và bộ máy nhà nước một số nước trên thế giới,

Người dịch: Phạm Văn Lợi, Hoàng Thị Ngân, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Tô Huy

Rứa (2008) (chủ biên), Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị

một số nước trên thế giới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Lưu Ngọc Trịnh

(2012) (chủ biên), Kinh tế và chính trị thế giới đến năm 2020, Nxb. Khoa học

Xã hội, Hà Nội, v.v...

Công trình của tác giả Tô Huy Rứa (2008) (chủ biên), Mô hình tổ chức

và hoạt động của hệ thống chính trị một số nước trên thế giới, Nxb. Chính trị

Quốc gia, Hà Nội đã nghiên cứu, khảo sát và phân tích những hệ thống chính

trị cơ bản có tính chất đại diện, điển hình ở một số nước trên thế giới bị ảnh

hưởng bởi các tư tưởng dân chủ tự do và một số nước chịu ảnh hưởng bởi các

yếu tố tư tưởng xã hội chủ nghĩa; những tác động của tư tưởng chính trị, điều

kiện lịch sử, truyền thống văn hóa, tính chất dân chủ, tiến bộ của các hệ thống

này. Trên cơ sở đó, công trình cũng đưa ra các đề xuất về việc tham khảo kinh

nghiệm tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị các nước đó trong quá trình

nghiên cứu tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam.

Từ tác động của bối cảnh quốc tế mới, các xu hướng chính trị hình

thành và phát triển, chi phối ở những mức độ khác nhau đến diễn biến chính

9

trị của các nước, tác giả Lê Minh Quân đã có công trình nghiên cứu (2006)

(chủ biên), Về một số xu hướng chính trị chủ yếu trên thế giới hiện nay,

Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Ở cách tiếp cận này, theo tác giả, có một

số xu hướng chính trị chủ yếu như hòa bình, hợp tác và phát triển; dân chủ

hóa; hình thành trật tự thế giới mới; giải quyết các xung đột dân tộc, sắc tộc,

tôn giáo và khủng bố; tìm kiếm, lựa chọn mô hình phát triển mới; cải cách,

đổi mới chính trị ở các nước. Những diễn biến của tình hình quốc tế đã có

những tác động tích cực và tiêu cực, làm cho công cuộc đổi mới nói chung

và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng ở Việt Nam đứng trước những vận

hội và thách thức mới. Nghiên cứu những xu hướng của hệ thống chính trị

trên thế giới, rút ra những bài học kinh nghiệm, tham khảo và vận dụng các

lý thuyết chính trị hiện đại của thế giới cũng là mục đích mà công trình này

hướng tới.

Việc nghiên cứu những yếu tố tác động đến tình hình, cục diện chính trị

trên thế giới, có các công trình tiêu biểu: Phạm Thái Việt (2006), Toàn cầu

hóa: Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa, Nxb.

Khoa học Xã hội, Hà Nội; Lê Quang Hòa (2008), “Một số thách thức đổi mới

hệ thống chính trị trong quá trình toàn cầu hóa”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, số

3 năm 2008, tr.31-36; Nguyễn Hoàng Giáp (2012) (chủ biên), Một số vấn đề

chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

v.v... Các công trình trên đã chỉ ra: những biến chuyển của bối cảnh quốc tế

và khu vực đang đặt ra cho Việt Nam cả thời cơ và thách thức đan xen; cuộc

cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa

diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của từng quốc gia. Hòa

bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu thế lớn trên thế giới,

xu hướng trật tự thế giới đa cực ngày càng được khẳng định cả về kinh tế và

chính trị; nhưng bên cạnh đó cũng tồn tại và nảy sinh nhiều vấn đề như xung

đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp biên

10

giới, tài nguyên v.v..., là những vấn đề phức tạp đòi hỏi các quốc gia phải giải

quyết, không chỉ riêng Việt Nam.

Trong cuốn sách “Tại sao có quốc gia thất bại”, Acemoglu và

Robinson đã nhắc lại và phân tích một câu hỏi đơn giản nhưng quan trọng, vì

sao một số quốc gia trở nên giàu có và các quốc gia khác vẫn nghèo? Câu trả

lời của họ cũng đơn giản - bởi vì sự khác nhau của các chính thể và các thể

chế chính trị. Daron Acemoglu và James Robinson đã đưa ra câu trả lời và

chứng minh dứt khoát rằng chính những thể chế kinh tế và chính trị do con

người tạo ra là nguyên nhân của sự thành công hay không thành công về kinh

tế. Về cơ bản, thể chế chính trị sẽ quyết định thể chế kinh tế, và thế chế kinh

tế quyết định con đường mà đất nước đó sẽ đi - giàu hơn hay nghèo đi. Tóm

lại, Daron và Robinson kết luận một quốc gia không thể giàu mạnh lên được

là vì thể chế chính trị của nó có tính bòn rút tài nguyên, tập trung quyền lực

vào một số ít người, thay vì phân tán quyền lực đó cho đại đa số người dân.

Daron Acemoglu và James Robinson chứng minh một cách dứt khoát rằng

chính những thể chế kinh tế và chính trị do con người tạo ra là nguyên nhân

căn bản của sự thành công (hay không thành công) về kinh tế.

1.1.2. Những công trình cứu về đảng chính trị

Nghiên cứu về đảng chính trị - bộ phận cấu thành của một hệ thống

chính trị nói chung - cũng có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết tiêu biểu:

Các tác phẩm đề cập đến các đảng phái chính trị như: Các hệ thống

chính trị Đông Âu và Các hệ thống chính trị Tây Âu (W. Ismayr chủ biên,

2002-2003); Các chính Đảng Châu Âu trong hợp tác và hội nhập (chủ biên

K.M. Johanson/ P. Zervaki, ed., 2002), hai tác phẩm này có đề cập đến các

đảng chính trị ở Anh, Pháp song mới dừng lại ở việc so sánh một số điểm

giữa các đảng chính trị ở hai nước Anh, Pháp này.

Tác phẩm Political parties and political development (chủ biên Joseph

LaPalombara, Myron Weiner, 1966) đề cập đến vấn đề lý thuyết đảng chính

11

trị, sự tồn tại và phát triển. Tác phẩm Nền chính trị Anh trong kỷ nguyên của

những người theo chủ nghĩa tập thể, chủ biên Samuel Beer (1966) chủ yếu

bàn về sự thay đổi cấu trúc và tư tưởng trong các đảng phái chính trị ở Anh.

Tác phẩm Phân tích hệ thống đời sống chính trị, chủ biên David Easton

(1965) bàn về sự đóng góp của các đảng chính trị vào đời sống xã hội Mỹ.

Tác phẩm Sự biến đổi chính trị Anh, chủ biên David Buttler và Donald Stokes

(1969), tác phẩm Các đảng phái chính chủ biên Maurice Duverger (1969),

các tác giả bàn về lý thuyết hệ thống đảng chính trị, văn hóa chính trị và lý

thuyết bầu cử.

Như vậy, qua một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài,

ta thấy, họ chủ yếu tập trung vào phân tích các điều kiện của tính chính đáng

của đảng chính trị, như, nguồn gốc hình thành thông qua bầu cử, các quyết

định hợp pháp, phát triển được kinh tế, xã hội, đồng thời lợi ích của đa số phải

được đảm bảo... Các kết quả nghiên cứu này sẽ là cơ sở dữ liệu để tham khảo

trong quá trình triển khai làm rõ các nội dung của luận án.

Nghiên cứu về đảng chính trị nói chung được các học giả tại Viện

Nghiên cứu châu Âu và Viện Kinh tế - Chính trị thế giới Viện Hàn Lâm

khoa học xã hội Việt Nam) có những bài viết đã đăng trên tạp chí chuyên

ngành. Tác giả Lưu Văn Quảng có một số công trình gồm sách: Hệ thống

bầu cử ở Anh, Mỹ và Pháp - Lý thuyết và hiện thực (Nxb. Chính trị Quốc

gia, 2008), bài viết Một số vấn đề về hệ thống bầu cử ở Anh hiện nay (Tạp

chí Nghiên cứu châu Âu số 5/2006), Cơ chế thực hiện dân chủ nội bộ của

các đảng cầm quyền ở Vương quốc Anh (Tạp chí Lý luận chính trị, số

2/2014); và Cơ chế thực hiện dân chủ trong các đảng chính trị ở Mỹ (Qua

nghiên cứu trường hợp đảng Dân chủ và đảng Cộng hòa) (Tạp chí Nghiên

cứu châu Mỹ ngày nay, số 1/2014)…, đã nghiên cứu vấn đề đảng chính trị ở

các nước Anh, Pháp và Mỹ tập trung vào một số vấn đề như bầu cử, dân chủ

nội bộ, hoạch định chính sách v.v..

12

Bài viết “Phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền đối với nhà nước

tại một số nước tư bản chủ nghĩa” [27] của Ngô Huy Đức. Trong bài viết này,

mục đích của tác giả nhằm xem xét một vấn đề chính: Các đảng chính trị cầm

quyền lãnh đạo nhà nước như thế nào trong nhà nước pháp quyền phương

Tây. Tác giả giải quyết ba khái niệm mang tính công cụ và cũng là ba vấn đề

chính: “nhà nước pháp quyền”, “đảng cầm quyền”, và “sự lãnh đạo”. Đặc

biệt, tác giả cho rằng, trong khoa học chính trị, ngoài khía cạnh hiệu lực, hợp

hiến của quyền lực, còn có một khía cạnh được gọi là “tính chính đáng” của

quyền lực và của sự lãnh đạo nói chung. Quyền lực của một người (hay tổ

chức) nếu được coi là chính đáng, thì sự lãnh đạo sẽ rất thuận lợi, sự cần thiết

của bộ máy kiểm tra, giám sát và cưỡng chế được giảm đến tối thiểu, và hơn

thế nữa, sự tự nguyện sẽ nâng cao hiệu quả và hiệu lực của sự lãnh đạo.

Cuốn sách Một số đảng chính trị trên thế giới (chủ biên Ngô Đức Tính,

Nxb. Chính trị Quốc gia, 2004); Thể chế đảng cầm quyền - Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn (Chủ biên Đặng Đình Tân, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2006); Đảng chính trị phương Tây và Cộng hòa liên bang Đức (chủ biên

Lương Văn Kế, 2009); Một số vấn đề về các đảng chính trị trên thế giới (chủ

biên Tạ Ngọc Tấn, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2012) giới thiệu các đảng

chính trị tiêu biểu trên thế giới trong đó có đảng chính trị lớn như Anh, Pháp,

Hoa Kỳ... Nội dung các sách giới thiệu sự hình thành và phát triển của các

đảng chính trị, kinh nghiệm lãnh đạo, kinh nghiệm tranh quyền và cầm quyền,

kinh nghiệm xây dựng và phát triển của các đảng chính trị, kinh nghiệm điều

chỉnh chiến lược, sách lược của các đảng chính trị hiện nay.

Bài báo “Vai trò các đảng chính trị nói chung, đảng cầm quyền nói

riêng đối với nhà nước trong chủ nghĩa tư bản hiện đại (Qua khảo sát một số

mô hình tiêu biểu)” của Nguyễn Xuân Tế, Đặng Đình Thành [77] đã phân

tích vị trí, vai trò của đảng chính trị nói chung, đảng cầm quyền nói riêng

trong hệ thống chính trị tư bản. Đặc biệt, các tác giả đi sâu phân tích vai trò

13

của đảng cầm quyền đối với nhà nước, trong đó một phần hết sức quan trọng

là đã đề cập đến các điều kiện để một đảng chính trị có thể trở thành đảng

cầm quyền ở các nước tư bản, đó là: có tổ chức, hệ tư tưởng đủ mạnh và

tuyên truyền, giáo dục hệ tư tưởng, đường lối của đảng mình cho thành viên

và công chúng để có khả năng thu hút lực lượng về mình và nhận được sự

ủng hộ cũng như bảo vệ của các lực lượng xã hội; bảo đảm số ứng cử viên là

thành viên của đảng thắng cử tham gia vào cơ quan nhà nước và có khả năng

thực hiện lợi ích của đảng; tuyển chọn và bố trí nhân sự vào bộ máy cơ quan

quyền lực nhà nước. Đảng nắm chính quyền thông qua đội ngũ đảng viên là

công chức trong các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp; xây dựng chủ

trương, cương lĩnh, chính sách của đảng đúng đắn, phù hợp, phản ảnh và

thỏa mãn nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân và cam kết thực hiện nếu

thắng cử và lập được chính phủ. Các tác giả đã đề cập đến vấn đề mang tính

điều kiện để một đảng chính trị có được tính chính đáng trong cầm quyền

một cách hợp pháp, nhờ có những giá trị mới được thể hiện qua cương lĩnh

tranh cử, có tổ chức đủ mạnh và thông qua con đường bầu cử hợp pháp,

công bằng và dân chủ.

1.1.3. Những công trình cứu hệ thống chính trị một đảng nổi trội

Nghiên cứu về cơ chế một đảng cầm quyền (một đảng lãnh đạo), trong

thực tế, có thể chia thành 3 nhóm như sau: Thứ nhất, chỉ duy nhất một đảng

lãnh đạo (trường hợp của Việt Nam, Lào, Cuba); thứ hai, nhiều đảng nhưng

duy nhất một đảng cầm quyền theo hiến định (Trung Quốc, Xiri, Irắc,...); thứ

ba, nhiều đảng nhưng chỉ một đảng nổi trội cầm quyền không hiến định

(Singapore, Malaysia, Indonexia,...).

Nghiên cứu về hệ thống chính trị của quốc gia nhiều đảng nhưng duy

nhất một đảng cầm quyền theo hiến định. Những nội dung chủ yếu của hệ

thống chính trị như cơ cấu, tổ chức, cách thức hoạt động, quá trình cải cách đã

được các nhà nghiên cứu làm sáng tỏ. Đó là các công trình nghiên cứu về

14

Trung Quốc, Xiri, Irắc, tiêu biểu như sau: Tinh Tinh (2002) (chủ biên), Cải

cách chính phủ - Cơn lốc chính trị cuối thế kỷ XX, Nxb.Công an Nhân dân;

Đỗ Tiến Sâm (2003) (chủ biên), Cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc

(1978-2003), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội; Doãn Trung Khanh (2012), Chế

độ chính trị Trung Quốc, Người dịch: Nguyễn Mạnh Sơn, Nxb. Thành phố

Hồ Chí Minh; Đỗ Tiến Sâm (2013) (Chủ biên), Chính trị Trung Quốc trong

quá trình trỗi dậy và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam, Nxb. Từ điển Bách

Khoa, Hà Nội, v.v.

Nghiên cứu về hệ thống chính trị của quốc gia đa đảng nhưng duy nhất

một đảng cầm quyền không hiến định như Singapore, Malaysia, Indonexia.

Nổi bật là đề tài KX. 10-10 “Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống

chính trị ở một số nước trên thế giới” do Tô Huy Rứa làm Chủ nhiệm đề tài

đã nghiên cứu sâu các mô hình hệ thống chính trị trên thế giới, đặc biệt là các

nước ở khu vực châu Á, Đông Nam Á và kinh nghiệm cải cách hệ thống

chính trị đã tạo ra “sự thần kỳ kinh tế” và “sự thần kỳ chính trị” ở các nước

này. Bên cạnh đó, còn có đề tài khoa học cấp cơ sở của Viện Chính trị học -

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh “Các nền dân chủ ở phương Đông

dưới góc nhìn chính trị học so sánh” do TS. Ngô Huy Đức làm Chủ nhiệm.

Đề tài đã chỉ ra những nguyên nhân biến các quốc gia và vùng lãnh thổ

phương Đông như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore từ những nước

có sự chuyên chế về chính trị, nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế trở thành những

nền dân chủ có tính tiêu biểu trong khu vực, thậm chí nó khắc phục được

những hạn chế trong mô hình dân chủ phương Tây mà vẫn bảo tồn được các

giá trị dân tộc của các quốc gia phương Đông.

Một công trình khoa học nghiên cứu về hệ thống chính trị một đảng

nổi trội có giá trị cao để tham khảo, đó là sách của Hồ Sĩ Quí (2014), Một số

vấn đề về dân chủ, độc tài và phát triển, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội.

Cuốn sách là một kho tư liệu về các chế độ dân chủ và độc tài trên thế giới

15

cùng với những vấn đề của chúng về phương diện phát triển. Chẳng hạn như

Singapore vào những năm 60 của thế kỷ XX loay hoay tìm đường phát triển,

sau hai thập niên đã vượt qua ngưỡng bị coi là nước nghèo và tiếp tục phát

triển trở thành NIC, một trong 4 con hổ châu Á - điều kỳ diệu của thế kỷ

XX. Hay hai mô hình xã hội thành công nhất của thế kỷ XX là Hàn Quốc và

Đài Loan cũng là những tấm gương chưa từng có trong tiền lệ lịch sử, phát

triển và hoá rồng nhờ chính quyền đã nhận ra các giá trị của dân chủ và có ý

thức cải biến xã hội.

Báo cáo được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu của Viện Nghiên cứu

quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) - Viện Kinh tế Việt Nam (VIE) - Viện

nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) - Phòng Thương mại và Công

nghiệp Việt Nam (VCCI) được dịch sang tiếng Việt bởi Đinh Tuấn Minh

(Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ) và Phạm Thế Anh

(Khoa Kinh tế học, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội), Từ nhà nước

điều hành sang nhà nước kiến tạo phát triển. Nội dung công trình đã dựa trên

khung phân tích thể chế và đổi mới thể chế đề xuất bởi Fukuyama (2011 và

2014) và North (1990) và khung lý thuyết xây dựng thể chế nhà nước một

đảng thống lĩnh (nổi trội) hiệu quả (đúc rút từ các trường hợp điển hình, đặc

biệt là các nước và vùng lãnh thổ như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,

Singapore) cùng với lý thuyết về nhà nước một đảng thống lĩnh của một số

học giả như Trantidis (2012), Bogaards (2004), Carothers (2002). Đây là hai

khung lý thuyết chính nhằm phân tích các hệ thống chính trị một đảng thống

lĩnh, xây dựng hệ thống tiêu chí cho bộ máy nhà nước có một đảng thống lĩnh

kiến tạo phát triển, từ đó đánh giá và đưa ra những đề xuất cải cách thể chế

chính trị cho Việt Nam.

Nghiên cứu về hệ thống chính trị một đảng nổi trội tại vùng lãnh thổ

Đài Loan có các công trình nghiên cứu của hai nhà khoa học nổi tiếng là Điền

Hồng Mậu là học giả và là chính khách trong những năm chuyển đổi. Ông

16

viết nhiều về quá trình chuyển đổi từ độc tài tới dân chủ ở Đài Loan và đã

nhận được sự quan tâm sâu sắc của các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới; các

công trình khoa học của ông như “Chính phủ và nền chính trị của Quốc dân

đảng Trung Quốc 1927-1937” Government and Politics in Kuomintang China

1927- 37 (Stanford University Press, 1973). “Đại chuyển giao: sự thay đổi xã

hội và chính trị ở Cộng hòa Trung Quốc” The Great Transition: Social and

Political Change in the Republic of China (Stanford: Hoover Institution Press,

1989); “Dân chủ hóa ở Đài Loan, áp dụng cho Trung Quốc” Democratization

in Taiwan, Implications for China (St. Anthony's Series, Oxford University,

1998), “Củng cố làn sóng thứ ba của nền dân chủ: những thách thức khu vực”

Consolidating the Third Wave Democracies: Regional Challenges (Baltimore

and London: The Johns Hopkins University Press, 1997), “Sự tương tác

xuyên eo biển hai thập kỷ qua” The Cross-Strait Interactions in the Past Two

Decades (Tiếng Hán, Taipei 2008) [95].

Chu Vân Hán là tác giả của nhiều ấn phẩm, gồm hơn 100 bài báo khoa

học và nhiều chuyên khảo có giá trị. Chẳng hạn, “Phác thảo nền dân chủ ở

Đài Loan” Crafting Democracy in Taiwan (Taipei: Institute for National

Policy Research, 1992); “Củng cố nền dân chủ của làn sóng thứ ba: những xu

hướng và thách thức” Consolidating the Third Wave Democracies: Trends

and Challenges (Bộ sách lớn gồm nhiều tập do nhiều người viết mà Điền

Hồng Mậu cũng là một trong các tác giả, Johns Hopkins University Press,

1997), “Trung Quốc thời Giang Trạch Dân” China Under Jiang Zemin

(Boulder: Lynne Reinner Publishers, 2000), “Đông Á nhìn nhận dân chủ như

thế nào” How East Asians View Democracy (Chủ biên, Columbia University

Press, 2008 [95].

Hai tác giả Điền Hồng Mậu và Chu Vân Hán đã có những phân tích rất

đáng lưu ý về tiến trình dân chủ ở Đài Loan với những lực cản đặc biệt của

17

nó. Việc Đài Loan phát triển mạnh về kinh tế để cùng Hong Kong, Singapore

và Hàn Quốc trở thành bốn con rồng châu Á đã là một “phép lạ” (miracle)

đáng chú ý.

Ngoài ra, nghiên cứu về vấn đề này còn có các công trình của tác giả

trong và ngoài nước như sau: Victor Purcell (1954), Malaysia: Communist

or free, London; Milne R.S (1967), Government and politics in Malaysia,

Boston published; E.K.Firk, H.Osman-Rani (1982), The political Economy

of Malaysia, Oxford University; Jon S.T.Quan, Chan Heng Chee, Seah

Chee Meow (1985), Government and polictics of Singapore, Oxford

University; Trần Khánh (1995), Cộng hòa Singapore 30 năm xây dựng và

phát triển, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội; Diane K.Mauzy, R.S.Milne

(2002), Singapore politics under the people’s action party, New York v.v.

Trong số các công trình trên, tiêu biểu là công trình Diane K.Mauzy,

R.S.Milne (2002), Singapore politics under the people’s action party, New

York đã nghiên cứu và phân tích tổng quan về các hoạt động chính trị của

Singapore từ khi độc lập (1965) đến nay, phân tích các yếu tố đưa

Singapore trở thành trung tâm tài chính toàn cầu với thu nhập bình quân

đầu người cao nhất châu Á. Để có được thành công đó, công trình đã chỉ ra

yếu tố quan trọng hàng đầu là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Hành động

nhân dân trong các hoạt động về dân số đa sắc tộc, quyền công dân, sự phát

triển xã hội v.v...

1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

VIỆT NAM

1.2.1. Các công trình nghiên cứu về hệ thống chính trị Việt Nam và

đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam

Các nhà nghiên cứu đã nêu lên những đặc điểm của hệ thống chính trị;

sự hình thành hệ thống chính trị Việt Nam với ba thành tố là Đảng Cộng sản

18

Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc

và các đoàn thể nhân dân; những đặc trưng cơ bản; nguyên tắc tổ chức và hoạt

động của hệ thống chính trị Việt Nam. Trong số những công trình nghiên cứu

về vấn đề này đáng kể phải kể đến:

Sách “Đổi mới ở Việt Nam - Thực tiễn và nhận thức lý luận” của

Nguyễn Trọng Phúc biên soạn gồm có hai phần chính: Phần thứ nhất, quá

trình thực hiện công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Trong phần này, tác giả đi sâu

phân tích, luận giải khá toàn diện về công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong

suốt 20 năm (từ 1986 đến 2006). Đặc biệt, tác giả đã làm rõ được những bước

đi, những bước chuẩn bị, những đột phá trong tư duy của Đảng từ trước đổi

mới và coi đổi mới là một sự lựa chọn không dễ dàng của Đảng. Phần thứ hai,

một số vấn đề nhận thức lý luận về công cuộc đổi mới. Trong phần này, tác

giả đã đề cập và luận giải khá nhiều vấn đề mang tính lý luận như: tư duy

chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư duy kinh tế thị trường, hội nhập

kinh tế quốc tế trong thời kỳ đổi mới v.v… để từ đó tác giả rút ra được những

kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới. Đồng thời, tác

giả đã chỉ ra tình trạng kém phát triển ở nước ta, từ đó đặt ra yêu cầu nâng cao

năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền như: không ngừng nâng cao bản lĩnh

chính trị và trí tuệ của Đảng; đổi mới tổ chức, bộ máy gắn liền với đổi mới

phương thức lãnh đạo của Đảng; nâng cao trình độ, năng lực và phẩm chất,

đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, trong cuốn sách tác giả đã đi sâu

phân tích, làm rõ sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về chính trị, kinh tế

qua các kỳ đại hội để khẳng định vai trò duy nhất lãnh đạo của Đảng đối với

Nhà nước, dân tộc.

Bên cạnh đó, vấn đề này cũng được đề cập ở một số công trình nghiên

cứu của Trần Xuân Trường (2000), Xây dựng hệ thống chính trị theo tư tưởng

Hồ Chí Minh, Nxb. Quân đội Nhân dân; Nguyễn Duy Quý (Chủ biên) (2008),

Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà

19

Nội; Lê Minh Thông (Chủ biên) (2008), Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt

động của hệ thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội v.v..., và các bài viết trên các tạp chí

như Phạm Hồng Chương (2004), “Xây dựng hệ thống chính trị theo tư tưởng

Hồ Chí Minh”, Tạp chí Cộng sản, số 22; Nguyễn Trọng Phúc (2013), “Hệ

thống chính trị ở Việt Nam trong tiến trình cách mạng và những vấn đề đặt ra

hiện nay”, Tạp chí Tuyên giáo, số 6 v.v...

Ngày nay, đất nước ta đang ở bước ngoặt mới: tiến hành đổi mới theo

chiều sâu, hội nhập toàn diện và trực tiếp hơn với nền kinh tế toàn cầu, trong

đó đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sớm đưa nước ta trở thành nước

công nghiệp theo hướng hiện đại, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển nền

văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa

là động lực, mục tiêu vừa là nguồn lực chủ yếu của sự phát triển đất nước. Để

khắc phục những khó khăn đó, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, điều

quan trọng nhất là phải đổi mới, hiện đại hóa và phát triển hệ thống chính trị.

Đó cũng là vấn đề nghiên cứu của các công trình tiêu biểu sau: Nguyễn Đức

Bình (chủ biên) (1999), Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta

trong giai đoạn mới, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Hồ Bá Thâm (2005),

Đổi mới và phát triển hệ thống chính trị, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh;

Phạm Ngọc Trâm (2011), Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam

(1986 - 2011), Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Lý Vĩnh Long (2012), Hệ

thống chính trị ở Việt Nam từ 1986 đến nay, Luận án tiến sỹ Chính trị học,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Lê

Quốc Lý (2014), Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta, Nxb.

Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Hoàng Chí Bảo (2006), “Một số vấn đề về định

hướng xã hội chủ nghĩa và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam”, Tạp chí Lý

luận Chính trị, số 5; Lê Quang Hòa (2008), “Một số thách thức đối với hệ

thống chính trị trong quá trình toàn cầu hóa”, Tạp chí Giáo dục Lý luận, số 3

20

v.v... Đặc điểm chung của các công trình nghiên cứu trên về đổi mới hệ thống

chính trị là đổi mới từng thành tố về Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và

các đoàn thể nhân dân. Hơn thế, ở một số công trình, các tác giả còn đánh giá

quá trình đổi mới hệ thống chính trị, nhận diện những nguyên nhân đưa đến

thành tựu cũng như những yếu kém để khắc phục trong giai đoạn tiếp theo.

1.2.2. Các công trình nghiên cứu về những quan điểm, nguyên tắc,

giải pháp để đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam

Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh, kết hợp với việc tổng kết thực tiễn đổi mới ở Việt Nam, sách “Đổi

mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta” do Lê Quốc Lý chủ biên tập

hợp các bài viết của các tác giả nghiên cứu và tập trung làm rõ đặc điểm của

quá trình ra đời và xây dựng hệ thống chính trị Việt Nam, xác định đặc trưng

cơ bản của hệ thống chính trị Việt Nam, tính tất yếu khách quan của việc đổi

mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, chỉ ra những phương hướng, quan

điểm đồng thời đề xuất một số giải pháp cụ thể đổi mới hệ thống chính trị để

hệ thống chính trị nước ta trở nên mạnh hơn, hiệu quả hơn, dân chủ được

tăng cường, mở rộng, kỷ cương, kỷ luật và pháp chế được củng cố nhăm ổn

định chính trị, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát

triển đất nước.

Ngoài ra, còn có thể dẫn ra một số công trình tiêu biểu có thể tham

khảo như: Tô Huy Rứa, Nguyễn Cúc, Trần Khắc Việt (đồng chủ biên, 2003),

Giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền núi nước

ta hiện nay, Nxb.Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Trần Đình Hoan (chủ biên)

(2008), Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai

đoạn 2005 - 2020, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Phương Hồng

(2005), “Tính tất yếu và một số nguyên tắc cơ bản của việc đổi mới hệ thống

chính trị ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 12; Nguyễn Văn Huyên

(2014), “Quan điểm của Đảng về đổi mới hệ thống chính trị”, Tạp chí Lý luận

21

Chính trị, số 3; Lê Hữu Nghĩa (2013), “Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ

thống chính trị ở nước ta hiện nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Tạp

chí Lý luận Chính trị, số 1 v.v...

1.2.3. Các công trình nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Việt Nam

Sách“Vị trí đảng cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản

Việt Nam trong điều kiện mới” của Đỗ Hoài Nam (Chủ biên) là sự chắt lọc

kết quả nghiên cứu của Đề tài KX. 10.04. Cuốn sách đã đề cập một số vấn đề

lý luận mang tính khái quát về đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị ở một

số nước tư bản (tác giả chọn 8 nước để nghiên cứu là: Đức, Pháp, Anh, Thụy

Điển, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia). Bên cạnh đó, tác giả còn nghiên

cứu về sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong điều kiện cải

cách mở cửa, xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Từ đó, tác giả

luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về vị trí cầm quyền và vai

trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện xây dựng nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù không đề cập trực tiếp đến

tính chính đáng trong cầm quyền của Đảng ta nhưng cuốn sách có nhiều giá

trị bổ ích để tham khảo.

Bài viết “Những điều kiện cơ bản bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng

trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” của

tác giả Phạm Thế Lực [45, tr.10-12] đề cập đến các điều kiện cơ bản để đảm

bảo cho vai trò lãnh đạo của Đảng trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Tác giả cho rằng, việc đảm bảo

tính chính đáng là điều kiện đầu tiên để Đảng phải giữ vững được vai trò

cầm quyền. Tác giả cho rằng, nội dung của tính chính đáng của đảng cầm

quyền được thể hiện ở tính hợp pháp và tính hợp lý trong phương thức cầm

quyền của Đảng. Tính hợp pháp, theo tác giả, là đảng đó phải đảm bảo được

tính pháp lý cho sự cầm quyền và sự thừa nhận rộng rãi của xã hội; tính hợp

22

lý của sự cầm quyền chính là nói đến tính hiệu quả trong phương thức cầm

quyền của đảng. Cũng theo tác giả, tính hợp pháp và tính hợp lý của đảng

cầm quyền có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tính hợp pháp là cơ sở, là nền

tảng để quy định vai trò cầm quyền của đảng, còn tính hợp lý lại củng cố

vững chắc hơn cho sự cầm quyền. Tuy nhiên, nói đến nội dung của tính

chính đáng của đảng không chỉ là tính hợp pháp và tính hợp lý mà còn phải

đề cập đến tính tiên phong của nền tảng tư tưởng, tính hiệu lực quá trình

cầm quyền của đảng. Mặc dù vậy, các nhận định của tác giả cũng là tài liệu

bổ ích để tham khảo cho luận án.

Bài báo “Một đảng duy nhất cầm quyền - sản phẩm tất yếu của thực

tiễn chính trị - xã hội ở Việt Nam” của Phạm Ngọc Quang [65, tr.35-38].

Bằng lập luận khá thuyết phục của mình, tác giả chứng minh rằng, Đảng

Cộng sản Việt Nam trở thành đảng duy nhất cầm quyền từ Cách mạng Tháng

Tám năm 1945 đến nay là nhờ vào những thành công mà Đảng Cộng sản Việt

Nam đã dẫn dắt nhân dân trong suốt hơn 80 năm tồn tại và phát triển của

mình kể cả trong thời chiến và thời bình. Đặc biệt, tác giả đã chứng minh yếu

tố “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” mà Đảng ta theo đuổi chính

là hệ giá trị mang tính xuyên suốt cho cách mạng Việt Nam, cả trong quá khứ,

hiện tại và tương lai. Chính nhờ có hệ giá trị đúng đắn, cao cả này mà nhân

dân tin ở Đảng, quyết tâm thực hiện và cụ thể hóa những quan điểm, chủ

trương, đường lối của Đảng. Bằng lao động sáng tạo của mình, nhân dân biến

chủ trường, đường lối của Đảng thành hiện thực sinh động trong cuộc sống.

Tác giả cho rằng, việc Đảng Cộng sản Việt Nam được trao quyền lãnh đạo

duy nhất, cầm quyền duy nhất như một lựa chọn tất yếu, khách quan của lịch

sử chứ không phải do áp đặt của Hiến pháp. Vì, Hiến pháp không tạo ra vị trí

đó của Đảng, mà chỉ là sự ghi nhận một thực tiễn chính trị - xã hội đã được

xác lập trong thực tế. Như vậy, tác giả cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam có

được và giữ vững được vai trò cầm quyền một cách chính đáng chính là nhờ

23

có hệ giá trị đúng đắn mà nhân dân tin và làm theo chứ không phải nhờ sự áp

đặt từ quy định vai trò cầm quyền mang tính pháp lý đến từ Hiến pháp.

Bài báo “Đảng hóa thân vào Nhà nước” trong đổi mới phương thức

cầm quyền của Đảng ta” của Nguyễn Hữu Đổng [25, tr.3-8]. Tác giả đã phần

nào làm rõ được khái niệm “Đảng hóa thân vào Nhà nước” trong điều kiện chỉ

có một đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta. Tác giả cho rằng, “đảng hóa thân

vào nhà nước” là một khái niệm chỉ sự “ẩn giấu” đi quyền lực của đảng cầm

quyền vào trong cái “vỏ” quyền lực của nhà nước, thực hiện việc chi phối,

định hướng đối với nhà nước, chủ yếu thông qua vai trò của các cá nhân đảng

viên ưu tú của đảng nhằm thực hiện hóa các mục tiêu, cương lĩnh của đảng đề

ra. Từ nội hàm khái niệm này, tác giả đi tìm hiểu những bất cập, khó khăn và

hiệu quả không cao trong cầm quyền trong điều kiện Đảng chưa thực sự hóa

thân vào Nhà nước như ở nước ta hiện nay. Từ đó tác giả đề ra bốn đề xuất

mang tính giải pháp để làm cho Đảng thực sự hóa thân vào Nhà nước trong

điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền như ở nước ta hiện nay. Các phân

tích của tác giả, mặc dù mới chỉ dừng lại ở khâu nêu vấn đề và các đề xuất

chứ chưa có thực chứng, luận giải cụ thể để chứng minh. Tuy nhiên, đây cũng

là giá trị có thể kế thừa.

Đề cập đến vấn đề phương thức cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước

dưới góc độ lý thuyết quyền lực, lý thuyết hệ thống, bài “Đổi mới phương

thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay - vấn đề

đang đặt ra” của Hồ Bá Thâm [78, tr.112]. Tác giả cho rằng, trong điều kiện

hiện nay, Đảng ta đang mắc phải những vấn đề khá cơ bản như tha hóa quyền

lực, lỗi hệ thống và nó liên quan đến phương thức lãnh đạo - cầm quyền của

Đảng. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tha hóa về tư tưởng chính trị, đạo

đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, làm giảm uy tín

của Đảng đối với nhân dân. Theo tác giả, khi Đảng làm thay, bao biện công

việc của chính quyền; áp đặt sự lãnh đạo; lạm dụng quyền lực; trở nên độc

24

quyền, độc đoán trong hoạt động của mình. Đây là bốn biểu hiện của một loại

tha hóa - tha hóa (suy thoái) quyền lực. Đáng chú ý, tác giả còn cho rằng,

Đảng trở thành đảng cầm quyền có mặt chưa thật hợp hiến như nhân dân chưa

phúc quyết Hiến pháp, chưa ủy quyền cho Quốc hội, và chức danh nguyên thủ

quốc gia, Tổng Bí thư của Đảng vẫn không nắm các chức vụ lớn nhất của Nhà

nước và vẫn không do dân bầu. Trên cơ sở phân tích những bất hợp lý trong

cấu trúc quyền lực chính trị hiện nay, tác giả cho rằng cần phải đổi mới, cấu

trúc lại cơ cấu quyền lực chính trị hiện nay. Nhìn một cách tổng thể, theo tác

giả, phải tập trung vào ba vấn đề lớn: Thứ nhất, Đảng phải thực sự “hóa thân

vào Nhà nước”. Trong đó, quyền lực của Đảng vừa tồn tại trong Nhà nước

vừa tồn tại ngoài Nhà nước, nhưng tồn tại trong Nhà nước là chính. Quyền

lực của Đảng trở thành hạt nhân trong quyền lực của Nhà nước, tức trong

quyền lực của nhân dân, được nhân dân ủy quyền và thừa nhận bằng lá

phiếu và như thế mới là quyền lực chính trị hợp hiến hợp pháp. Thứ hai,

phải đổi mới thể chế bầu cử, nhất là chức danh cao nhất của Nhà nước

(nguyên thủ quốc gia) trong sự nhất thể hóa của nó. Thứ ba, liên quan đến

kiểm soát quyền lực nhà nước trong thể chế một đảng duy nhất cầm quyền,

tác giả cho rằng, “khi thừa nhận cơ chế kiểm soát quyền lực giữa quyền lực

lập pháp - hành pháp - tư pháp thực chất là thừa nhận tam quyền phân lập

theo nội dung thể chế một đảng. Đó chính là đa nguyên về phương thức mà

nhất nguyên về bản chất.

Sách “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều

kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì

dân” của Phạm Ngọc Quang, Ngô Kim Ngân đồng chủ biên là kết quả nghiên

cứu của đề tài cấp Nhà nước KX-03-08. Nội dung cuốn sách gồm ba phần:

Phần thứ nhất, các tác giả làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của đổi mới

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; Phần thứ hai, các tác giả

làm rõ thực trạng đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh

25

vực chủ yếu của Nhà nước ở cấp Trung ương trong thời gian qua; Phần thứ

ba, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong

giai đoạn hiện nay. Toàn bộ nội dung cuốn sách đã trình bày rõ quá trình đổi

mới nhận thức của Đảng về vai trò lãnh đạo và ý thức lãnh đạo của Đảng

trong thời kỳ mới; đã nêu bật tính cấp thiết đổi mới phương thức lãnh đạo

phải được tiến hành khẩn trương, kiên quyết, không cứng nhắc, máy móc

trong sự phân định giữa sự lãnh đạo của Đảng với sự quản lý của Nhà nước,

song phải phân định rõ chức năng lãnh đạo chính trị của Đảng với chức năng

quản lý nhà nước, chức năng công quyền và phương thức quản lý của Nhà

nước pháp quyền.

Trong bài viết của Phạm Ngọc Quang (2013) “Cơ sở đánh giá năng lực

của Đảng Cộng sản cầm quyền” [66, tr.35-38], tác giả cho rằng, là đảng cầm

quyền, sứ mệnh lịch sử quan trọng nhất trong lãnh đạo là Đảng phải tạo ra

được ba yếu tố căn bản: Hoạch định được đường lối đúng đắn, thể hiện đúng

nhu cầu và lợi ích của nhân dân, của dân tộc; lãnh đạo xây dựng được một

Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, phát huy được vai

trò của Nhà nước và các thành viên trong hệ thống chính trị, làm cho Nhà

nước thực sự là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng

được đội ngũ cán bộ cầm quyền có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực

chuyên môn - nghiệp vụ cao, có kỹ năng lãnh đạo và quản lý để làm cho

đường lối đó thành hiện thực bằng sức mạnh của cả dân tộc. Tác giả cũng cho

rằng, sứ mệnh lịch sử trong lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền là phải

bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, làm cho nhân dân thực sự là

chủ nhân đích thực của mọi quyền lực. Để góp phần nâng cao năng lực lãnh

đạo của Đảng, nhiệm vụ quan trọng phải đẩy mạnh dân chủ hóa sinh hoạt nội

bộ Đảng, kết hợp với dân chủ hóa mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân; mọi

hoạt động của Đảng phải đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.

26

Ngoài ra, còn một số công trình khác nữa đã đề cập đến các nội dung:

khái niệm đảng cầm quyền, khái niệm đảng lãnh đạo; sự cần thiết phải đổi

mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; thực trạng phương thức lãnh

đạo của Đảng đối với Nhà nước thời gian qua…, như: Trần Ngọc Đường

“Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội ở nước ta

hiện nay”; Thang Văn Phúc “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối

với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa”; Đào Trí Úc “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối

với hoạt động của hệ thống chính trị”; Nguyễn Hữu Đổng - Ngô Huy Đức

“Nhận thức các khái niệm Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo ở nước ta”;

v.v… Công trình của tác giả Thayer Carlyle “Political Legitimacy of

Vietnam’s One Party-State: Challenges and Responses” tập trung vào phân

tích các thách thức đối với quyền lực của nhà nước chỉ có duy nhất một đảng

cầm quyền của Việt Nam nổi lên trong năm 2009 và cách mà nhà nước phản

ứng trước các thách thức đó. Tác giả nêu ra ba thách thức riêng biệt ảnh

hưởng đến tính chính đáng của nhà nước: các ý kiến đối lập trong việc khai

thác bô xít ở Tây Nguyên; cuộc biểu tình của Giáo hội Công giáo về các vấn

đề sở hữu đất đai; và một số bất đồng quan điểm chính trị của các nhà hoạt

động gọi là “ủng hộ dân chủ” và các blogger. Những tranh cãi về khai thác bô

xít thách thức khẳng định của nhà nước đối với tính chính đáng chính trị trên

cơ sở thực hiện. Các bất đồng quan điểm chính trị, bao gồm cả các nhu cầu

cho dân chủ với những lo ngại về vấn đề môi trường và quan hệ với Trung

Quốc, thách thức tuyên bố của Nhà nước về tính chính đáng dựa trên chủ

nghĩa dân tộc. Từ đó, tác giả khẳng định rằng, cùng với cách xử lý vừa mềm

dẻo vừa cứng rắn của Nhà nước Việt Nam trong năm 2009, tất cả các thách

thức này cũng sẽ được Đảng ta thảo luận tại Đại hội X của Đảng.

27

1.3. GIÁ TRỊ NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ

CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.3.1. Những giá trị của các công trình đã nghiên cứu

Có thể thấy, xuất phát từ vị trí, vai trò của hệ thống chính trị đối với đất

nước, các nhà nghiên cứu đã đưa ra quan điểm của mình để xây dựng và hoàn

thiện hệ thống chính trị, đáp ứng với những biến chuyển của thế giới. Những

nghiên cứu này rất có giá trị, là cơ sở lý luận quan trọng để nghiên cứu và đưa

ra các giải pháp để đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam.

Những công trình nghiên cứu trên tập trung vào một số khía cạnh

quan trọng của hệ thống chính trị nói chung và vai trò của đảng chính trị nói

riêng. Bên cạnh đó, các công trình cũng đã phân tích những vai trò, đặc điểm

của đảng chính trị nổi trội trong hệ thống chính trị một số quốc gia tiêu biểu,

từ đó nhìn nhận về những ưu điểm của đảng chính trị nổi trội trong quá trình

vận hành và phát triển của các quốc gia đó. Trong những quan điểm, những

định hướng về về phát triển quốc gia mà các đảng chính trị đã đưa ra, thấy

được vai trò và mối quan hệ của đảng chính trị nổi trội với hệ thống chính trị

cũng được các học giả được quan tâm. Những hình thức vận hành, đưa ra

quyết sách cũng như đặc điểm của đảng chính trị nổi trội trong hệ thống

chính trị là khá đa dạng và phong phú nhưng tất cả đều gắn liền với mục tiêu

chung của quốc gia đó, góp phần tạo ra sức mạnh xã hội, sức mạnh quốc gia

phù hợp với xu hướng phát triển của nhân loại. Có thể thấy, hệ thống chính

trị thế giới cũng như hệ thống chính trị Việt Nam đã được các tác giả quan

tâm nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu trên đã đạt được những thành

tựu cơ bản sau:

Thứ nhất, hệ thống chính trị là đề tài không mới, các tác giả trong và

ngoài nước nghiên cứu về hệ thống chính trị thế giới từ trong lịch sử với mục

đích nhằm duy trì, củng cố và phát triển đất nước. Các công trình nghiên cứu

tập trung vào việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về hệ thống chính trị của

28

các quốc gia có đảng chính trị nổi trội cũng như vai trò, chức năng của đảng

chính trị trong tổng thể quá trình vận hành của hệ thống chính trị trong lịch sử

cũng như trong điều kiện nền kinh tế thị trường cũng như những tác động của

nó đến các quốc gia khác. Những vấn đề về quan điểm, quyết sách chính trị

của đảng chính trị đối với sự phát triển, đây là biểu hiện rõ nét của quá trình

lãnh đạo đất nước. Các tác giả đều nhận thấy vai trò của đảng chính trị trong

phát triển quốc gia, hơn bao giờ hết trong điều kiện, quá trình hội nhập quốc

tế. Hơn nữa, các công trình còn tập trung vào việc phân tích, làm rõ những

vấn đề vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính

trị Việt Nam hiện nay, những tiêu chuẩn cơ bản nhất tạo nên giá trị phát triển

đất nước là gì? Những trào lưu văn hóa nước ngoài ở Việt Nam, những luồng

giá trị truyền thống đan quyện với những giá trị mới làm thay đổi nhận thức,

suy nghĩ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện mới. Và do đó, vấn đề

này được nghiên cứu ở nhiều cách tiếp cận, nhiều hướng khác nhau, từ những

vấn đề khái quát đến cụ thể.

Thứ hai, nghiên cứu về hệ thống chính trị một đảng nổi trội cầm quyền

trên thế giới đã đạt được thành tựu đáng ghi nhận. Việc lựa chọn mô hình, cơ

cấu tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị là vấn đề của riêng các quốc

gia trên thế giới. Do đó, những kết quả nghiên cứu của các công trình này đã

cung cấp bài học kinh nghiệm, những ý tưởng, kiến giải mới cho Việt Nam

trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị đất nước.

Thứ ba, các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ sự hình thành hệ

thống chính trị, những đặc điểm, đặc trưng; những nguyên tắc tổ chức và hoạt

động của hệ thống chính trị Việt Nam.

Thứ tư, trên cơ sở bối cảnh quốc tế, khu vực và trong nước, các công

trình nghiên cứu đã đưa ra luận chứng, nhận định về xu thế mới, yêu cầu

khách quan, tất yếu phải đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam.

29

Thứ năm, ở một số công trình nghiên cứu, bài viết đã đưa ra quan điểm,

nguyên tắc và giải pháp để đổi mới và hoàn thiện hơn nữa hệ thống chính trị

Việt Nam.

Xuất phát từ vị trí, vai trò của hệ thống chính trị đối với đất nước, các

nhà nghiên cứu đã đưa ra quan điểm của mình để xây dựng và hoàn thiện hệ

thống chính trị, đáp ứng với những biến chuyển của thế giới. Những nghiên

cứu này rất có giá trị, là cơ sở lý luận quan trọng để nghiên cứu và đưa ra các

giải pháp để đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam. Việc tiến hành đổi mới hệ

thống chính trị ở Việt Nam là cần thiết để đi kịp với xu hướng của thế giới.

Do đó, các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ sự hình thành hệ thống chính

trị, những đặc điểm, đặc trưng; những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ

thống chính trị Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Trên cơ sở bối

cảnh quốc tế, khu vực và trong nước, các công trình nghiên cứu đã đưa ra

luận chứng, nhận định về xu thế mới, yêu cầu khách quan, tất yếu phải đổi

mới hệ thống chính trị Việt Nam.

1.3.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu

Từ những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đề cập ở trên đã

gợi mở cho tác giả những vấn đề cần tiếp tục giải quyết nhằm góp phần luận

chứng về mặt lý luận cũng như góp phần đề xuất những giải pháp nhằm nâng

cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam

hiện nay.

Thứ nhất, trên cơ sở những vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống chính trị

nói chung và hệ thống chính trị một đảng nổi trội, cần khái quát những đặc

trưng của hệ thống chính trị một đảng nổi trội.

Thứ hai, khảo sát mô hình của một số hệ thống chính trị một đảng nổi

trội ở một số quốc gia để từ đó có cái nhìn khái quát về vai trò của đảng cầm

quyền trong quá trình phát triển xã hội. Hơn nữa, trước những tác động của

nền kinh tế thị trường, của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đảng chính trị

30

nói riêng và hệ thống chính trị nói chung chịu nhiều sự tác động mạnh mẽ từ

các yếu tố bên ngoài, tác giả chỉ ra những vấn đề cần quan tâm hiện nay trong

hệ thống chính trị.

Thứ ba, trên cơ sở những thành tựu cũng như hạn chế của thực trạng

hoạt động của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, cần rút ra những giá trị

tham khảo từ mô hình hệ thống chính trị một đảng nổi trội trên thế giới để vận

dụng vào Việt Nam nhằm mục đích đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt

động của hệ thống chính trị đất nước.

31

Chương 2

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ

MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI VÀ ĐẢNG CẦM QUYỀN

TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI

2.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ HỆ

THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI

2.1.1. Những vấn đề chung về hệ thống chính trị

2.1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị là một phạm trù quan trọng của khoa học chính trị.

Bởi vì nó là tổng hợp những vấn đề của thực tiễn chính trị, của đời sống chính

trị. Hơn nữa những vấn đề đó không phải được xem xét rời rạc, lộn xộn, biệt

lập mà là xem xét trong một chỉnh thể có tính hệ thống, có hình thái phát sinh,

phát triển, có chủ thể, đối tượng, với các mối quan hệ chức năng, theo những

vị trí vai trò nhất định; có “đầu vào” và “đầu ra”; có nội dung và hình thức, có

hiện tượng và bản chất...

Nhà chính trị học Mỹ D.Istons, người được coi là nhà sáng lập lý

thuyết về hệ thống chính trị, trong các tác phẩm “Hệ thống chính trị” (1953),

“Giới hạn sự phân tích chính trị” (1965) cho rằng: Hệ thống chính trị giống

như một (bộ máy) tự phát triển, tự điều tiết và phản ứng với những tác động

từ bên ngoài. Hệ thống đó có “đầu vào”. Đó là nơi thu nhận những tác động,

yêu cầu, ủng hộ..., của môi trường xã hội và văn hóa xã hội quanh nó. Còn

“đầu ra” là những quyết định chính trị và hành động chính trị để thực hiện các

quyết định đó. Yêu cầu chính trị là dạng đầu tiên của đầu vào. Những yêu cầu có

thể rất đa dạng và khác nhau. Có thể là nhu cầu phúc lợi và mở rộng dịch vụ

giáo dục, hoặc rút ngắn thời gian làm việc từ vấn đề bảo vệ sức khỏe cho đến

quyền tự do công dân..., từ vấn đề hôn nhân đến an ninh quốc gia... Dạng đầu

vào thứ hai là “sự ủng hộ” của nhân dân. Sự ủng hộ cũng được biểu hiện rất

32

phong phú, từ nộp thuế, các khoản thu, hoàn thành các nghĩa vụ lao động,

quân sự, chấp hành luật pháp, thực hiện các chính sách của nhà nước đến việc

tích cực tham gia vào đời sống chính trị để bảo vệ và khẳng định những giá trị

chính trị. Không có sự ủng hộ cần thiết, hệ thống chính trị không thể hoạt

động có hiệu quả được.

Ở “đầu ra”, sản phẩm của hệ thống chính trị cũng có thể rất khác nhau

từ hình thức cho đến nội dung. Từ phân phối phúc lợi đến cung cấp dịch vụ, từ

điều chỉnh hành vi công dân đến các quyết định về đường lối, chính sách nhà

nước. Sản phẩm “đầu ra” này cũng phụ thuộc vào mô hình hệ thống chính trị.

Quan điểm này của D.Istons có hạn chế là không giải thích được các

hiện tượng khi kết quả “đầu ra” trái ngược với yêu cầu của “đầu vào”. Nói

cách khác là vẫn còn tồn tại tình trạng Chính phủ ra những quyết định sai trái,

không phù hợp hoặc đi ngược với mong muốn của nhân dân. Cách tiếp cận

này bị phê phán vì nó còn dừng lại ở tính bề mặt của các hiện tượng chính trị.

Một cách tiếp cận khác của nhà chính trị học Mỹ G.Almold cho rằng

hệ thống chính trị đó là các kiểu khác nhau của hành vi chính trị, của các tổ

chức nhà nước cũng như phi nhà nước. Các kiểu hành vi đó được chia ra hai

cấp độ: Thể chế và định hướng. Nếu như cấp độ thứ nhất chủ yếu là nghiên

cứu các thể chế nhà nước và phi nhà nước, thì cấp độ thứ hai là nghiên cứu

các quan hệ, cấu trúc, các giá trị chính trị tạo thành văn hóa chính trị.

G.Almold khẳng định rằng, khác với các hệ thống xã hội khác, hệ thống chính

trị được xác định bởi quyền cưỡng chế hợp pháp đối với người công dân. Đó

là sức mạnh pháp lý, thâm nhập vào các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra”, làm

nên tính chất đặc biệt, tính bền vững của hệ thống chính trị.

Một số cách tiếp cận khác cho rằng, hệ thống chính trị là cơ chế để thực

hiện và giải quyết các vấn đề, đồng thời để hoạch định và kiểm soát sự thực

hiện các quyết định cũng như kiểm soát các quan hệ quản lý của nhà nước.

33

Trong các tài liệu khoa học Xô Viết, cho đến giữa những năm 70

thường dùng khái niệm “Các tổ chức chính trị của xã hội” thay vì khái niệm

“hệ thống chính trị”. “Các tổ chức chính trị của xã hội” bao gồm nhà nước

cùng tất cả các cơ quan của nó, các tổ chức phi nhà nước mà trước hết là

Đảng Cộng sản Liên Xô, các công đoàn, các tổ chức thanh niên... Đảng

Cộng sản Liên Xô được coi là hạt nhân của hệ thống các tổ chức chính trị

đó, là người định hướng, cổ vũ và lãnh đạo của xã hội. Trong nhiều trường

hợp “hệ thống chuyên chính vô sản” được dùng như là hệ thống chính trị

dưới chủ nghĩa xã hội.

Quan niệm “rộng” về hệ thống chính trị này đã không phân biệt ranh

giới giữa đời sống chính trị và đời sống xã hội; không phân biệt các sinh hoạt

mang tính nhà nước và những sinh hoạt dân sự, đời sống riêng tư, đời sống cá

nhân. Nó đồng nhất đời sống chính trị và đời sống xã hội mà kết quả là chính

trị hoá, nhà nước mọi mặt đời sống xã hội. Tuy với cách tiếp cận này, một hệ

thống chính trị với khả năng kiểm soát và huy động cao được xây dựng và

hữu dụng trong các giai đoạn phát triển đặc biệt, như chiến tranh, huy động

nguồn lực đất nước vào những công trình lớn… Nhưng càng chính trị hóa và

nhà nước hóa đời sống xã hội bao nhiêu càng làm giảm đi tính tích cực chủ

động, sáng tạo của người dân bấy nhiêu.

Đầu những năm 80, khái niệm hệ thống chính trị được khẳng định

trong các tài liệu triết học, chính trị học của Liên Xô. Hệ thống chính trị được

hiểu theo cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội, là bộ phận của thượng tầng

kiến trúc được quyết định bởi hạ tầng kinh tế, theo kết cấu xã hội giai cấp.

Hiện nay, một số nhà khoa học Nga coi hệ thống chính trị như là một tổ hợp

phức tạp các thể chế nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức xã hội, trong

khuôn khổ đó diễn ra đời sống chính trị và thực thi quyền lực nhà nước,

quyền lực xã hội.

34

Làm rõ khái niệm hệ thống chính trị có ý nghĩa phương pháp luận rất

lớn trong việc phân tích sự quản lý xã hội và quản lý chính trị ở các khu vực

các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trên thế giới.

Hệ thống chính trị tác động như một chỉnh thể trong việc tổ chức mối

quan hệ qua lại với những hệ thống khác: hệ thống kinh tế, văn hóa, sắc tộc,

tôn giáo. Ngày nay, đời sống chính trị thế giới tương tự như trong đời sống

kinh tế đã đặt ra yêu cầu chức năng hóa hệ thống chính trị dân tộc trong các

vấn đề liên quan đến những quan hệ với hệ thống chính trị rộng lớn hơn như

khu vực hoặc toàn cầu.

Các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống chính trị quốc gia là địa lý và

điều kiện kinh tế - xã hội. Ví dụ Anh, Mỹ, châu Âu... Nhật Bản, các nước

khác nhau ở các khu vực khác nhau có những sự khác biệt nhất định trong quá

trình hình thành và tác động của các hệ thống chính trị.

Các nhân tố kinh tế - xã hội tác động rõ rệt đến quá trình chính trị.

Thứ nhất, chúng ảnh hưởng đến vị trí, phân bổ quyền lực chính trị. Thứ hai tạo

điều kiện cho ổn định chính trị, xã hội. Các cuộc khủng hoảng kinh tế, giảm sút

sản xuất, hạ thấp mức sống dân cư luôn luôn đưa đến sự tan rã của hệ thống

chính trị.

Yếu tố cơ bản của hệ thống chính trị là quyền lực (sự phân bổ nguồn

lực giữa các nhóm cạnh tranh), lợi ích chính trị, văn hóa chính trị. Hệ thống

chính trị là tổng thể những mối tác động qua lại của những thể chế chính

trị, nhà nước với các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, bộ máy hành

chính, các đảng, nhóm áp lực…

Hệ thống chính trị là khái niệm của khoa học chính trị đương đại - là

một trong những khái niệm phản ánh đặc trưng của những quan hệ quyền lực

chính trị. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản

Việt Nam khoá VI (tháng 3/1989) lần đầu tiên đã dùng tên gọi “hệ thống

chính trị” để thay thế tên gọi “hệ thống chuyên chính vô sản”. Nếu như trong

các văn kiện Đại hội III, IV, V, VI, Đảng ta còn sử dụng các khái niệm

35

“chuyên chính vô sản” và “hệ thống chuyên chính vô sản” thì đến Đại hội VII

(tháng 6/1991), Đảng Cộng sản Việt Nam không sử dụng các khái niệm này

nữa mà sử dụng các khái niệm: Nhà nước của dân, do dân, vì dân (sau này là

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; nền dân chủ

xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị…)

Xuất phát từ các quan niệm trên, chúng ta có thể định nghĩa: Hệ thống

chính trị là tổ hợp có tính chỉnh thể các thế chế chính trị (các cơ quan quyền

lực nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức và các phong trào xã hội)...

được xây dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết

cấu chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ

cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị.

Hệ thống chính trị cần được nghiên cứu ít nhất về 3 thành tố: các cấu

trúc thể chế, chức năng (của cả hệ thống và từng thể chế) và sự tương tác giữa

các cấu trúc. Như vậy, có thể nói hệ thống chính trị là chỉnh thể các thể chế,

chức năng và mối quan hệ giữa chúng trong việc đưa ra và thực thi các quyết

định chính trị trên phạm vi một lãnh thổ quốc gia.

Khái niệm “Hệ thống chính trị” dùng để phân tích các yếu tố chủ yếu

ảnh hưởng tới việc đưa ra và thực hiện các quyết định chính trị trong chỉnh

thể của chúng, phù hợp với sự biến đổi của môi trường. Khả năng thích ứng

với môi trường thể hiện sức sống của một hệ thống chính trị. Các mô hình hệ

thống chính trị khác nhau có các cách hoạt động và thích ứng khác nhau, và vì

vậy, luôn là đối tượng nghiên cứu quan trọng của cả các nhà khoa học cũng

như các nhà hoạt động chính trị.

2.1.1.2. Phân loại mô hình hệ thống chính trị

Có nhiều tiêu chí được sử dụng để phân loại các mô hình hệ thống

chính trị.

Cách phân loại thứ nhất lấy tiêu chí về hệ tư tưởng chủ đạo, có thể phân

loại thành mô hình xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa.

36

Cách phân loại thứ hai lấy tiêu chí cách thức tổ chức nhà nước (tức

cách thức phân quyền - quyền lực thực sự thuộc về ai và thể chế nào). Theo

tiêu chí này, có thể thấy có 2 nhóm nước: Nhóm 1: Một số ít các hệ thống

chính trị đi theo mô hình tập trung quyền lực như các nước xã hội chủ nghĩa,

một số nước Hồi giáo (Iran, các Tiểu Vương Quốc Ả Rập thống nhất), chính

quyền quân sự (Bangladesh, Pakistan v.v.). Nhóm 2: Đa số các nước khác có

sự phân chia quyền lực nhà nước thành: lập pháp - hành pháp - tư pháp. Vì

nhóm này chiếm đa số nên có thể thấy 3 mô hình hệ thống chính trị của nhóm

cũng có thể coi là 3 mô hình hệ thống chính trị chủ yếu trên thế giới gồm: hệ

thống nghị viện, hệ thống tổng thống, hệ thống hỗn hợp.

Cách phân loại thứ ba lấy tiêu chí số lượng đảng chính trị tham gia vào

hệ thống chính trị (một đảng hay đa đảng). Đây cũng là cách tiếp cận chính

của nội dung luận án để nhấn mạnh vai trò của đảng cầm quyền nổi trội trong

hệ thống chính trị.

Bàn đến hệ thống chính trị, các nhà chính trị học thường bàn đến hệ

thống các đảng chính trị, đến các quan hệ chính trị giữa các đảng chính trị

trong cuộc đấu tranh giành quyền lực nhà nước, hoặc tham gia vào chính

quyền để trở thành đảng chấp chính (đảng cầm quyền); đảng tham chính hoặc

đảng đối lập. Nhà nước được nghiên cứu như là đối tượng tác động của các

đảng chính trị.

Nhóm 1

Nhóm 2

Nhóm 3

Nhóm 4

Nhóm 5

Số đảng

1

Đa đảng

Đa đảng

Đa đảng

Đa đảng

Đảng cầm

1

1 (hiến định) 1 (không

1 (thay nhau) Đa đảng

quyền

hiến định)

Ví dụ

Việt Nam,

Trung Quốc,

Singapore

Mỹ, Anh,

Pháp, Ấn

Lào, Cuba,

Iraq,

New Delan,

Độ, Nga,

Malaysia,

Australia

CHLB Đức

CHDCND

Triều Tiên

37

- Hệ thống chính trị một đảng

Hệ thống chính trị một đảng với đặc trưng là hình thức chính quyền do

một đảng chính trị thành lập. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hệ thống chính

trị một đảng ở các quốc gia và vì vậy hệ thống chính trị một đảng không phải

là đặc trưng riêng có ở các nước do đảng cộng sản lãnh đạo. Thực tế cho thấy,

trong số 34 nước xây dựng hệ thống chính trị một đảng, chỉ có 5 nước do

đảng cộng sản giữ vai trò đảng cầm quyền. Điều này chứng tỏ chế độ chính trị

một đảng không phải là đặc điểm duy nhất của hệ thống chính trị cộng sản.

Hiện có tới 29 nước có chế độ chính trị một đảng, nhưng không phải là đảng

cộng sản. Đây là những nước mà đảng cầm quyền thường là những tổ chức

chính trị từng đóng vai trò lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc

thành công.

Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa phát triển mạnh mẽ

trên thế giới, các hệ thống chính trị một đảng ở Đông Âu đã thất bại trong

việc duy trì phát triển đất nước, trong khi đó các hệ thống chính trị lưỡng

đảng và đa đảng của các nước phương Tây lại đạt được nhiều thành tựu lớn

trong quá trình phát triển. Đến cuối những năm 1980, trước sự thất bại của mô

hình chính trị một đảng. Sau sự kiện bức tường Berlin sụp đổ (1989), nhiều

quốc gia Đông Âu đã phải chuyển từ chế độ một đảng sang chế độ đa đảng để

kiến tạo và phát triển nền dân chủ. Cũng trong thời gian này, nhiều quốc gia

châu Á cũng như châu Phi đã phải chịu nhiều áp lực trong việc dân chủ hóa

hệ thống chính trị của họ.

Cho đến trước khi Liên Xô tan rã (1991) trên thế giới có 75 nước xây

dựng hệ thống chính trị một đảng. Đặc điểm chung của hệ thống chính trị một

đảng là chính quyền coi yêu cầu ổn định chính trị để bảo vệ và xây dựng đất

nước là ưu tiên hàng đầu nên đều có các điều luật không cho phép lập các

đảng chính trị khác ngoài đảng cầm quyền.

38

Trong hệ thống một đảng, các ứng cử viên được thăng chức hoặc được

đề cử bởi một đảng duy nhất, cơ cấu nghị sỹ trong nghị viện không thiết lập

trên cơ sở đảng phái. Trên thực tế, các nước theo hệ thống một đảng quyền

lực của nghị viện thường hạn chế hơn. Tuy nhiên, ngay cả đối với hệ thống đa

đảng cũng có thể có bước đi tương tự như hệ thống một đảng nếu trong hệ

thống đó có một đảng chiếm ưu thế tuyệt đối và có khả năng ngăn chặn sự

cạnh tranh từ các đảng phái khác.

Hiện nay, không kể các nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa dưới sự

lãnh đạo của đảng cộng sản, trên thế giới có 29 nước tổ chức hệ thống chính

trị theo hình thức một đảng cầm quyền. Trừ một số trường hợp vẫn duy trì thể

chế quân chủ (như Ả rập Saudi), hầu hết các nước này đều theo chính thể

cộng hòa, có quốc hội do dân bầu, được xây dựng theo mô hình phương Tây,

ba quyền lực nhà nước đều do đảng cầm quyền lãnh đạo.

- Hệ thống chính trị đa đảng

Hệ thống chính trị đa đảng là hệ thống mà ở đó từ hai đảng trở lên có

cơ hội thực tế trở thành đảng cầm quyền hoặc tham gia vào một liên minh

cầm quyền.

Hệ thống chính trị một đảng chi phối (chiếm ưu thế)

Khác với hệ thống chính trị một đảng, hệ thống chính trị một đảng chi

phối hình thành ở những nước theo thể chế cộng hòa chấp nhận sự tồn tại hợp

pháp của các đảng phái có khuynh hướng chính trị khác nhau, nhưng lại có

những ràng buộc pháp luật để các đảng khác khó hoặc hầu như không có cơ

hội cạnh tranh quyền lực với đảng cầm quyền. Trên thế giới hiện nay có 43

nước xây dựng hệ thống chính trị theo hình thức này, tập trung chủ yếu ở

châu Phi (23 nước), tiếp đó là châu Á (11 nước), châu Âu (5 nước) và châu

Mỹ (3 nước).

39

Bản chất của hệ thống chính trị một đảng chi phối ở các nước tư bản

chủ nghĩa là sự thống trị của các công ty lớn và giới tài phiệt. Bằng nhiều

phương thức giới tài phiệt chi phối quá trình hoạch định chính sách. Do nhận

tiền tài trợ từ các công ty, tập đoàn tài phiệt mà các đảng, kể cả đảng giành ưu

thế đều phải điều chỉnh chính sách của chính phủ cho phù hợp với lợi ích của

giới tài phiệt.

Hệ thống chính trị hai đảng luân phiên cầm quyền

Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là một khuynh hướng xã hội học -

triết học tuyệt đối hóa sự đa dạng đối kháng của các nhóm, đảng phái, tổ chức

chính trị khác nhau trong xã hội; được hệ tư tưởng tư sản trình bày như một

hình thức dân chủ duy nhất và hay nhất. Khuynh hướng này xuất hiện vào đầu

thế kỷ XVIII, khi giai cấp tư sản còn là giai cấp tiến bộ trong đấu tranh chống

độc quyền, bảo vệ sự đa dạng và bình đẳng của các nhóm xã hội có lợi ích

khác nhau, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản. Đến khi các tổ chức độc

quyền xuất hiện, đa nguyên chính trị mất dần ý nghĩa ban đầu, trở thành thủ

đoạn để điều chỉnh lợi ích trên nguyên tắc cạnh tranh giữa các nhóm, tổ chức

độc quyền có lực lượng ngang bằng nhau và là bình phong “dân chủ” che đậy

bất công, bất bình đẳng trong xã hội tư bản. Khi chủ nghĩa xã hội xuất hiện,

đa nguyên chính trị trở thành công cụ tư tưởng để giai cấp tư sản chống các

nước xã hội chủ nghĩa, phong trào công nhân và các trào lưu tiến bộ trên thế

giới bằng việc đòi mở rộng quyền tự do dân chủ vô chính phủ, chống nguyên

tắc tập trung dân chủ, đòi thực hiện chế độ đa đảng, nhằm vô hiệu hóa và từng

bước đẩy đảng cộng sản khỏi vị trí lãnh đạo xã hội, đòi xây dựng nhà nước

pháp quyền tư sản - bề ngoài đại diện cho lợi ích của tất cả các nhóm, đảng

phái đối lập, nhưng thực chất đại diện cho lợi ích của giai cấp tư sản.

Về phương thức, các đảng phái luân phiên nhau cầm quyền nhưng vẫn

ở trong khuôn khổ của chế độ, không thay thế hình thái kinh tế - xã hội này

bằng hình thái kinh tế - xã hội khác. Sự luân phiên đó chỉ dẫn tới sự thay đổi

40

một số chính sách nhưng không xóa bỏ nền tảng của chủ nghĩa tư bản hiện

đại. Người bị người khác thay phiên không bị coi là mất quyền lực mà còn

nguyện “đứng sau lưng” người thắng cử để cùng thực hiện chính sách mới, hệ

tư tưởng của chủ nghĩa tư bản hiện đại không hề bị tổn thương mà còn được

củng cố thêm một bước. Thực tế cho thấy, sự luân phiên cầm quyền cũng chỉ

mới diễn ra giữa những đảng phái “ở trên” hoặc những đảng phái “thượng

lưu” và chưa có một đảng “bình dân” nào của giai cấp công nhân đến phiên

mình cầm quyền. Ngoài sức mạnh tiền của và nhiều sức mạnh khác tạo nên sự

luân phiên, khả năng của quần chúng lao động trong xã hội tư bản hiện đại rất

hạn chế. Bản chất của đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong xã hội tư bản

chỉ nhằm một mục tiêu duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư sản

bóc lột. Vì vậy, đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập không bao giờ tiến tới

một nền dân chủ đích thực, càng không phải là mô hình chính trị của chế độ

xã hội chủ nghĩa.

Ngoài các nước thuộc hai loại hình đã trình bày ở trên, hầu hết các

nước còn lại đều thuộc về hệ thống chính trị đa đảng mà điển hình là những

nước tư bản chủ nghĩa ở châu Âu, Canada và Australia. Về lý thuyết, trong hệ

thống chính trị đa đảng thì nhiều nhóm xã hội, nhiều khuynh hướng chính trị

có thể chạy đua giành quyền lãnh đạo đất nước, nhưng trên thực tế rất ít cơ

hội cho một đảng riêng rẽ lên nắm quyền. Thông thường ở các nước có hệ

thống chính trị loại này, nội các là liên minh của một số đảng. Những đảng có

khuynh gần nhau tập hợp lại, vô hình chung lại tạo thành hai phe cánh “tả” và

“hữu”. Cộng hòa liên bang Đức, Tây Ban Nha, Italia..., là những nước liên

minh các đảng cánh tả đang cầm quyền. Đặc điểm của các nước có hệ thống

chính trị loại này là chính phủ rất hay thay đổi. Chẳng hạn ở Italia trong vòng

10 năm trở lại đây đã có tới 7 nội các thay nhau nắm quyền. Hình thức hệ

thống chính trị này phổ biến ở châu Âu một phần vì truyền thống dân chủ

kiểu châu Âu, nhưng mặt khác còn là do ở các nước này đã tạo được thiết chế

41

dân sự vững chắc và đã phi nhà nước hoá nhiều dịch vụ công nên biến động

chính phủ tác động không nhiều đến các mặt của đời sống xã hội.

Tuy nhiên, tình trạng xáo trộn chính trị liên tục cũng có những ảnh

hưởng tiêu cực đến đất nước nên nhiều nước châu Âu cũng đang tiến hành

những cải cách nhằm hướng tới sự ổn định. Chẳng hạn, ở Tây Ban Nha và

Italia đưa ra quy định “thưởng ghế” cho đảng (hoặc liên minh chính trị) giành

được số phiếu cao hơn nhưng chưa đủ đa số cần thiết để lập chính phủ. Một

số nước lại điều chỉnh luật bầu cử để hệ thống chính trị gần với mô hình hai

đảng luân phiên cầm quyền như ở Mỹ.

2.1.2. Hệ thống chính trị một đảng nổi trội

2.1.2.1. Quan niệm về hệ thống chính trị một đảng nổi trội

Việc nghiên cứu hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị một

đảng nổi trội nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong nghiên

cứu chính trị học để đánh giá về những thành tựu, hạn chế trong việc vận

hành, đảm bảo sự ổn định phát triển quốc gia do đảng nổi trội cầm quyền mà

còn chỉ ra những cái cần trong quá trình vận hành của toàn hệ thống chính trị,

cũng như những giải pháp nhằm phát huy vai trò của hệ thống chính trị, đảng

chính trị ở mỗi quốc gia.

Sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, các học giả chính trị nước ngoài đã

tiến hành các cuộc thảo luận sâu rộng về hệ thống chính trị một đảng nổi trội

và hình thành các quan điểm khác nhau, các tranh cãi khác nhau về quan niệm

của hệ thống chính trị một đảng nổi trội.

Người đầu tiên đề xuất khái niệm về hệ thống chính trị một đảng nổi

trội là nhà khoa học chính trị người Pháp Maurice Duverger. Lần đầu tiên,

ông đã đưa ra định nghĩa về đảng chính trị chi phối (nổi trội): “Khi một đảng

chính trị phù hợp với thời đại, nghĩa là khi học thuyết, suy nghĩ, phương pháp

và phong cách của nó phù hợp với thời gian, đó là đảng chính trị thống trị...

42

Thống trị là một ảnh hưởng. Vấn đề không chỉ là sức mạnh mà còn liên quan

đến đức tin, một đảng chính trị hàng đầu chính là ý kiến công chúng rằng nó

chiếm ưu thế và trở thành đảng thống trị” [117, tr.308-309].

Còn theo George I. Blankste, ông gọi là hệ thống một đảng cầm

quyền lâu dài (hệ thống chính trị một đảng nổi trội ) là “hệ thống đảng không

độc tài thống trị” [111, tr.480-481]. Trong hệ thống này, một đảng có quyền

lực chính trị độc quyền từ lâu và nó đã thực sự thắng trong các cuộc bầu cử

trước đó.

Cũng trong cuộc tranh luận về quan niệm này, Andrew Heywood -

Giám đốc nghiên cứu tại trường Cao đẳng Croydon với công trình nổi tiếng

“Lý thuyết chính trị” (2004) đã chỉ ra rằng: hệ thống chính trị một đảng nổi

trội không thể bị nhầm lẫn với hệ thống một bên (độc đảng), mặc dù đôi khi

chúng thể hiện các đặc điểm chung. Ông giải thích vẫn còn nhiều đảng phái

chính trị trong hệ thống chính trị một đảng nổi trội, cạnh tranh quyền lực

trong một cuộc tổng tuyển cử thường xuyên, thì có thể kết luận rằng hệ thống

chính trị một đảng nổi trội vẫn còn cạnh tranh [101, tr.243].

Một quan điểm đáng chú ý khác của các học giả Nhật Bản đề cập đến

hệ thống chính trị một đảng nổi trội như một “hệ thống ưu thế một đảng”

trong nghiên cứu của Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản (LDP). Sato Saburo

định nghĩa: ở các nước dân chủ tiên tiến, đảng nổi trội là đảng có phiếu bầu

dài hạn và ghế ngồi trên các đảng chính trị khác, đảng nổi trội là đảng chính

trị hay chính phủ liên minh đảng cầm quyền từ lâu đã phụ trách hệ thống

thẩm quyền.

James S. Coleman - nhà xã hội học người Mỹ, đã có những nghiên cứu

đầu tiên về hệ thống chính trị các nước châu Phi cận Sahara. Ông đã sử dụng

số ghế của các đảng phái chính trị trong Quốc hội để đo lường các đảng chính

trị hàng đầu và tin rằng khi đảng lớn có hơn 70% số ghế, đó là hệ thống chính

43

trị một đảng nổi trội. Trong hệ thống chính trị một đảng nổi trội, quyền lực

của đảng đối lập được phân cấp và có đặc điểm khu vực và bộ lạc [113,

tr.295-296].

Trong quá trình nghiên cứu hệ thống đảng ở châu Mỹ Latinh, Ronald

H. Mcdonald [123, tr.220] đã đề xuất tiêu chuẩn đo lường: trong một hệ thống

chính trị một đảng nổi trội, ít nhất 60% số ghế bị chi phối và kiểm soát bởi

một đảng chính trị nổi trội. Còn Alan Ware [100, tr.158-162] - Giáo sư, giảng

viên Chính trị tại Đại học Oxford - lại cho rằng một đảng nổi trội có thể duy

trì vị trí thống lĩnh của nó miễn là nó được từ 45% đến 50% số ghế, vẫn còn

một số đảng nhỏ hơn trong hệ thống đảng thống trị này. Ông đã gọi một đảng

thường xuyên giành được hơn 50% số phiếu bầu là đảng nổi trội. Trong hệ

thống chính trị một đảng nổi trội, các lực lượng đối lập bị phân tán. Ngay cả

khi đảng lớn thứ hai tăng quyền lực của mình thông qua các cuộc bầu cử, thì

việc trở thành một lực lượng thay thế để dẫn dắt các đảng chính trị trở nên

khó khăn hơn. Một quan niệm khác của Sartori: đảng chính trị chiếm ưu thế

phải có ít nhất 50% số ghế, và khoảng cách giữa đảng chính trị hàng đầu và

đảng lớn thứ hai là rất lớn, sau đó đảng lãnh đạo đã giành được đa số tuyệt đối

trong ba cuộc bầu cử liên tiếp như một chỉ số về sự hình thành của hệ thống

chính trị một đảng nổi trội [110, tr.273].

T.J. Pempel - Giáo sư Khoa học Chính trị tại Đại học California,

Berkeley - với công trình nghiên cứu rất nổi tiếng của ông về hệ thống chính

trị một đảng nổi trội Uncommon Democracies: The One-Party Dominant

Regimes [126, tr.336-337] quan niệm: trong một hệ thống đa đảng, một đảng

chính trị thường không cần nhiều hơn 50% số ghế để trở thành một đảng nổi

trội. Trong một hệ thống có bốn, năm hoặc thậm chí nhiều đảng phái chính trị

hơn, một đảng có tư cách thành viên khoảng 35% là ở một vị trí đàm phán chi

phối và trở thành cốt lõi của chính phủ.

Khi nghiên cứu Kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của đảng cầm

44

quyền trong điều kiện một đảng (hay một đảng nổi trội), tác giả Vũ Hoàng

Công đã phân tích sự giống và khác nhau trong 3 nhóm của cơ chế một đảng

cầm quyền: một là, trường hợp chỉ duy nhất một đảng trong xã hội (như Việt

Nam, Lào); hai là, trường hợp nhiều đảng nhưng duy nhất một đảng cầm

quyền theo hiến định (như Trung Quốc, Syria, Iraq thời Sátđam Hútxen); ba

là, trường hợp nhiều đảng nhưng chỉ một đảng nổi trội cầm quyền không

hiến định (như Singapore, Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản). Như vậy, theo

quan điểm của tác giả, hệ thống chính trị một đảng nổi trội là cơ chế một

đảng cầm quyền, có thể do hiến định hoặc không và thuộc hệ thống chính trị

đa đảng [8, tr.1].

Trong cách phân loại hệ thống đảng của Đặng Đình Tân, Đặng Minh

Tuấn [74, tr.27], hệ thống chính trị một đảng nổi trội là hệ thống đảng bán

cạnh tranh. Đây là các hệ thống đảng có những đặc điểm trung gian giữa hệ

thống đảng không cạnh tranh và các hệ thống đa đảng đối lập cạnh tranh. Các

hệ thống đảng này chủ yếu tồn tại ở những nước giành độc lập, thoát khỏi hệ

thống thuộc địa của thực dân. Hệ thống đảng bán cạnh tranh cũng đồng thời là

một dạng của hệ thống đa đảng đối lập, nhưng trong các hệ thống đa đảng đối

lập đó có một đảng (hay liên minh một số đảng) vượt trội so với các đảng

khác về quy mô và năng lực chính trị, và do đó các đảng này liên tục thắng cử

trong một thời gian rất dài (vài ba chục năm hoặc thậm chí dài hơn), còn các

đảng khác là những đảng nhỏ, đảng yếu, khó có khả năng cạnh tranh với một

đảng lớn. Hệ thống đa nguyên chính trị, một đảng cầm quyền thuộc hệ thống

các đảng bán cạnh tranh, đảng nổi trội.

Tóm lại, có nhiều quan niệm khác nhau trong nghiên cứu các hệ thống

chính trị một đảng nổi trội. Tuy nhiên, theo tác giả, nội dung cốt lõi của hệ

thống chính trị một đảng nổi trội là “đảng nổi trội đã nắm quyền lực (quyền

hành pháp) trong một thời gian dài”, là nội dung được sự chấp thuận của

mọi nhà khoa học. Hệ thống chính trị một đảng nổi trội đề cập đến một đảng

45

chính trị đặc biệt trong đó có sự cạnh tranh đa đảng, một đảng từ lâu đã

thống trị quyền lực chính trị và các đảng đối lập khác từ lâu trong một hệ

thống chính trị.

2.1.2.2. Các yếu tố tác động đến sự hình thành của hệ thống chính trị

một đảng nổi trội

Theo nghiên cứu của các nhà chính trị học thế giới, có rất nhiều yếu tố

dẫn đến sự hình thành mô hình hệ thống chính trị một đảng nổi trội ở các

quốc gia và vùng lãnh thổ, đó là những yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan,

cụ thể như sau:

Yếu tố khách quan

Một là, do hoàn cảnh, điều kiện lịch sử: Một nguyên nhân có thể có của

sự thống trị một đảng nổi trội là hoàn cảnh lịch sử - thông qua sự sàng lọc của

lịch sử mà yếu tố cạnh tranh dần dần mất đi, kết cục là sự thống trị của đảng

nổi trội được xã hội thừa nhận; nhấn mạnh vai trò của các đảng chính trị nổi

trội trong các phong trào dân tộc hoặc các phong trào độc lập. Đảng Quốc hội

châu Phi (ANC) ở Nam Phi, nhờ vào sự lãnh đạo của họ trong việc loại trừ

phân biệt chủng tộc và phân biệt đối xử chính thức và thiết lập quyền bầu cử

phổ thông, đôi khi được coi là đồng nghĩa với nhà nước dân chủ Nam Phi

hiện đại. Trong cuộc bầu cử năm 1994, Đảng Quốc hội châu Phi đã có thể

đảm bảo hơn 60% số phiếu bầu, chiếm đa số trong Quốc hội.

Mô hình hệ thống chính trị một đảng thống lĩnh/ một đảng nổi trội là

lựa chọn được nhiều quốc gia áp dụng sau khi gây dựng nền độc lập khắp nơi

trên thế giới. Theo thống kê của Templeman (2014), trong giai đoạn từ 1950

đến 2012, có 30 quốc gia trên thế giới, tại đó hệ thống hệ thống chính trị một

đảng nổi trội hiện diện với một đảng nổi trội cầm quyền liên tục ít nhất 20

năm. Ngoài những quốc gia được biết đến nhiều như Nhật Bản, Singapore,

Ấn Độ, Nam Phi, Botswana, Mexico…, còn có nhiều nước phương Tây như

Áo, Tây Đức, Bỉ, Israel…

46

S. Huntington [124, tr.424] lập luận rằng sự ổn định của một chế độ

một đảng xuất phát từ nguồn gốc của nó chứ không phải đặc điểm của nó. Nó

thường là sản phẩm của một cuộc đấu tranh quốc gia hay cách mạng gây ra sự

huy động và thể chế rộng rãi. Dauverger [117, tr.308] cũng tin rằng vai trò

của các đảng chính trị này làm tăng thêm lòng tin của công dân. Lý do tại sao

một đảng chính trị chi phối, thống trị các đảng chính trị khác là bởi vì mọi

người tin rằng đó là đảng chính trị thống trị - hay tính chính đáng của đảng

cầm quyền.

Hai là, sự phân tán của các đảng đối lập: Đảng thống trị nổi trội cũng

có thể tận dụng lợi thế của sự phân mảnh của phe đối lập. Điều này có thể

phản ánh sự cứng nhắc về tư tưởng hoặc tính tổ chức của các đảng đối lập và

không tương thích. Tại Nhật Bản, trái ngược với Đảng Dân chủ Tự do Nhật

Bản với khả năng và sự sẵn sàng thích ứng với môi trường thay đổi. Các ứng

cử viên Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản có thể không đồng ý về chính sách

của đảng; tuy nhiên, một khi được bầu, Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản là một

tổ chức đặt chương trình nghị sự của đảng lên trên tư tưởng cá nhân. Mặc dù,

Đảng Xã hội chủ nghĩa Nhật Bản (JSP) có cơ hội giành vị trí trung tâm quyền

lực chính trị trong hệ thống chính trị Nhật Bản, nhưng những xung đột nội bộ

trong Đảng Xã hội chủ nghĩa Nhật Bản đã ngăn cản quá trình tranh giành

quyền lực cầm quyền, dẫn đến việc đảng này bị tách ra thành nhiều đảng nhỏ

khác. Các đảng này không thể phát triển thành các đảng chính và ngược lại,

chính các cuộc bỏ phiếu phân tán giữa họ đã hỗ trợ Đảng Dân chủ Tự do Nhật

Bản thắng cử. Sự hình thành của các đảng nhỏ này chỉ hỗ trợ Đảng Dân chủ

Tự do Nhật Bản giữ vững hơn vị trí cầm quyền.

Ba là, sự hỗ trợ từ bên ngoài: Một đảng nổi trội cũng có thể nắm quyền

lực dựa trên sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, bao gồm cả Hoa Kỳ. Trong

Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ đã chứng kiến Nhật Bản - và Đảng Dân chủ Tự do

Nhật Bản nói riêng - như một đồng minh có giá trị để chống lại chủ nghĩa

47

cộng sản trong khu vực. Hoa Kỳ khuyến khích cả việc chuyển đổi hệ thống

kinh tế Nhật Bản và sự phát triển của liên minh an ninh Mỹ - Nhật. Hiện tại,

Đảng Cộng hòa của Hoa Kỳ và Nhật Bản duy trì mối quan hệ đối tác chính

sách kinh tế và đối ngoại mạnh mẽ. Tương tự như Nhật Bản, Hàn Quốc có sự

hỗ trợ của cộng đồng quốc tế; nó có một đồng minh mạnh mẽ là Hoa Kỳ; tuy

nhiên, liên minh này sẽ không thay đổi đáng kể tùy thuộc vào ai nắm giữ

quyền lực. Cả hai cố gắng duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Hoa Kỳ, trong khi

các xung đột căn cứ quân sự của Mỹ ở mức tối thiểu với những người bảo thủ

quyền lực, khi các tiến bộ nắm giữ phần lớn trong cơ quan lập pháp và văn

phòng tổng thống, tình hình trở nên phức tạp.

Yếu tố chủ quan

Sự thống trị lâu dài của một đảng nổi trội trong hệ thống chính trị cũng

có thể được hình thành từ những yếu tố sau:

Một là, do sự linh hoạt về mặt chính sách của đảng cầm quyền: Các

đảng nổi trội cũng đạt được vị thế của mình thông qua tính linh hoạt trong

chính sách. Các đảng chiếm ưu thế nổi trội thường chứng minh và có thể sẵn

sàng tiếp thu ý tưởng của đảng đối lập, như trường hợp Nhật Bản: trước khi

Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản giành được sự thống trị lâu dài, đảng này đã

để thua đối thủ của họ; tuy nhiên, đảng đã linh hoạt chuyển hướng khỏi các

vấn đề hiệp ước an ninh thu hút các cuộc biểu tình lớn và thay vào đó tập

trung vào nền kinh tế thông qua chính sách tăng gấp đôi thu nhập trong “phép

màu kinh tế” của thập niên 1960. Sau đó, Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản

chuyển chính sách từ mục tiêu tăng trưởng thành mục tiêu giải quyết các sản

phẩm phụ không mong muốn của sự tăng trưởng đó, chẳng hạn như thiệt hại

về môi trường và nhận thức không đầy đủ đã ảnh hưởng đến phúc lợi người

tiêu dùng. Khi Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản được thành lập vào năm 1955,

đảng này trợ cấp cho nông dân nông thôn và chủ doanh nghiệp. Trong những

năm 1970, phong trào công dân đang gia tăng, đòi hỏi “tăng chi tiêu của chính

48

phủ để cải thiện các chương trình phúc lợi xã hội và giải quyết các vấn đề ô

nhiễm.” Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản nhận ra những yêu cầu này và nhanh

chóng hành động để đáp ứng. Dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng Tanaka Kakuei,

dưới một nền kinh tế chậm chạp, Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản theo đuổi

chính trị tích cực bằng cách thực hiện chính sách kinh tế Keynes để kích thích

nền kinh tế và thu nhập của Chính phủ. Tính linh hoạt của đảng cuối cùng đã

xác định vị trí của đảng với cả tăng trưởng kinh tế và nhiều nhà phê bình tiềm

năng tăng trưởng.

Hai là, việc sử dụng nguồn lực của chính phủ của đảng cầm quyền:

Pempel [126, tr.15-16] phát hiện ra rằng đảng nổi trội cầm quyền sẽ sử dụng

các nguồn lực của chính phủ để vận động xã hội, các nhóm xã hội và các cá

nhân để giành được nhiều phiếu hơn trong cuộc bầu cử. Nếu đảng nổi trội

không chiếm đa số tương đối, nó phải tận dụng tối đa vị thế chủ chốt của

mình để hình thành một chính phủ liên minh với các đảng khác. Tuy nhiên,

một khi chính phủ liên hiệp được thành lập, đảng nổi trội sẽ thực hiện một

chính sách công có lợi cho những người ủng hộ nó. Sự thành công của chính

sách công của đảng nổi trội quyết định số phận của nó trong cuộc tổng tuyển

cử tiếp theo, điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng thưởng cho những người

ủng hộ tương lai và những người ủng hộ tiềm năng. Vì lý do này, Pempel đưa

ra lý thuyết “dẫn đầu một vòng tròn đạo đức”, có nghĩa là đảng nổi trội khi

cầm quyền sử dụng các nguồn lực của mình như một nền tảng để thực hiện

các chính sách công có lợi cho những người ủng hộ, củng cố cơ sở cử tri của

mình và thu hút cử tri mới. Trong chu kỳ này, đảng nổi trội có thể thắng cuộc

bầu cử trong nhiều cuộc bầu cử tiếp theo.

Ba là, nội lực của đảng cầm quyền trong các cuộc bầu cử. Đồng tình

với những quan niệm của Pempel, Franoise Boucek [108, tr.104-106] cũng đã

thiết lập một khung phân tích cho hệ thống chính trị một đảng nổi trội, phân

tích hành vi của đảng nổi trội và ảnh hưởng của hệ thống đối với đảng thống

49

trị nổi trội. Franoise Boucek cho rằng khả năng của một đảng chính trị để thiết

lập một vị trí thống trị lâu dài và trở thành đảng nổi trội phụ thuộc chủ yếu

vào khả năng của bản thân để tối đa hóa hỗ trợ bầu cử, đảm bảo rằng phiếu

bầu của nó đủ cao để nắm quyền. Để đạt được hiệu ứng này, đảng nổi trội cần

phải thay đổi chiến lược của mình theo sở thích của cử tri. Việc lựa chọn

chiến lược dựa trên tình trạng hiện tại của thị trường bầu cử và được xác định

bởi sự cân bằng giữa việc theo đuổi lá phiếu, theo đuổi cầm quyền và theo

đuổi chính sách. Các tổ chức có thể ảnh hưởng trực tiếp đến việc quản trị các

đảng phái chính trị, các hệ thống này giúp các bên củng cố quyền lực cầm

quyền của họ. Kể từ khi hệ thống được xây dựng, các hệ thống này cung cấp

cho đảng cầm quyền với một cơ hội để tăng cường vị trí cầm quyền của nó.

Các đảng chính trị hàng đầu có thể có tác động gián tiếp đến các hệ thống

khác nhau về cử tri, quốc hội và chính quyền.

Đồng tình với quan điểm về nội lực của đảng nổi trội, Benjamin

Nyblade [103] (Tiến sĩ, là một nhà khoa học chính trị, trước đây từng là

giảng viên của Đại học British Columbia và là thành viên của Viện nghiên

cứu cao cấp Canada) đã phân tích một cách hệ thống việc lãnh đạo và duy trì

vị trí thống trị của đảng nổi trội, có thể được chia thành ba giai đoạn: thắng

phiếu trong các cuộc bầu cử quốc hội, chuyển phiếu bầu vào ghế, và chuyển

chỗ ngồi thành kiểm soát chính trị. Trong các quốc hội nghị viện, sự kiểm

soát của chế độ phụ thuộc vào sự hỗ trợ của quốc hội, đảng kiểm soát phần

lớn các ghế nghị viện có thể kiểm soát chính phủ, sự hình thành của chính

phủ dựa trên sự phối hợp giữa các đảng phái chính trị và đảng viên. Theo hệ

thống đa đảng, có rất ít đảng chiếm được đa số tuyệt đối. Các cuộc đàm phán

nội các phức tạp thường xảy ra do chính phủ liên minh đa đảng cần sự điều

phối của quốc hội giữa đảng với nhau. Do đó, hiểu sự phối hợp của quốc hội

là chìa khóa để giải thích việc chuyển đổi các ghế nghị viện thành sự kiểm

soát của chính phủ. Một chỗ ngồi là một chức năng của lá phiếu. Việc

50

chuyển đổi phiếu bầu thành các ghế phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống bầu cử

và phối hợp bầu cử. Một đảng chính trị nổi trội nếu không thể duy trì được

tỷ lệ bỏ phiếu ban đầu và không thể chuyển đổi phiếu bầu thành ghế một

cách hiệu quả, sẽ ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát chính phủ và cuối cùng

mất vị trí thống trị.

Ngoài ra, đảng nổi trội trong thời gian cầm quyền lâu dài cũng có thể

dùng những biện pháp khác để củng cố sự thống trị lâu dài của mình bằng

cách: tự tạo ra khuôn khổ pháp lý để khẳng định sự cầm quyền lâu dài của

mình, tất nhiên phải có sự ủng hộ của xã hội; hạn chế sự tham gia chính trị,

hạn chế sự phát triển của các đảng đối lập; nắm giữ hoặc khống chế các

phương tiện thông tin đại chúng, thực hiện chế độ kiểm soát thông tin và kiểm

duyệt báo chí (như mô hình ở Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore…).

2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐẢNG CHÍNH TRỊ, ĐẢNG CẦM

QUYỀN TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI

2.2.1. Đảng chính trị

2.2.1.1. Khái niệm “đảng chính trị”

Trong thời đại ngày nay, vấn đề đảng chính trị và đảng cầm quyền ngày

càng có vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống chính trị nói chung và với

Nhà nước nói riêng. Trong hệ thống chính trị, trong quan hệ với nhà nước, các

đảng chính trị và đảng cầm quyền đều được tổ chức và hoạt động theo những

nguyên tắc thể chế của đảng nhưng không trái với Hiến pháp và pháp luật nhà

nước. Quan niệm về đảng chính trị (Polity Party) hay chính đảng vì thế cũng

có nhiều cách hiểu khác nhau.

Nếu như quan niệm mácxít cho rằng: Đảng chính trị là tổ chức chính trị

thể hiện những lợi ích của một giai cấp hay một tầng lớp trong xã hội, liên kết

những đại diện tích cực nhất của giai cấp hay tầng lớp ấy, lãnh đạo họ đạt tới

những mục đích và lý tưởng nhất định (Theo Từ điển bách khoa Triết học

Liên Xô).

51

Hay như quan niệm của Butencô - Nhà lý luận của Đảng Cộng sản

Liên Xô: Đảng chính trị (hay chính đảng) là tổ chức chính trị đoàn kết

những đại biểu tích cực nhất của một giai cấp xã hội nhất định (hay một

nhóm xã hội) và thể hiện trong cương lĩnh và các văn kiện khác) những lợi

ích cơ bản của giai cấp.

Các học giả tư sản lại cho rằng “đảng là một tập hợp những người có

chung quan điểm về các học thuyết chính trị” - Benjamine Constant; hay theo

Hans Kelsen “đảng chính trị là tập hợp những người có cùng quan điểm để

đảm bảo việc thực hiện ảnh hưởng thực sự của họ tới việc quản lý những công

việc công”; còn như Francois Gop Goguel quan niệm “đảng chính trị là một

nhóm có tổ chức, tham gia vào đời sống chính trị nhằm chinh phục một phần

hoặc hoàn toàn quyền lực và dựa vào đó để làm nổi bật giá trị hệ tư tưởng và

lợi ích của các thành viên trong đảng”; hoặc theo Raymond Aron “đảng chính

trị là một nhóm người tình nguyện ít nhiều được tổ chức - nhân danh lợi ích

chung và lợi ích của xã hội mà đảm nhận (một mình hoặc tiến hành liên minh)

các chức năng, nhiệm vụ trong chính quyền”.

Như vậy, theo những quan niệm của các học giả tư sản này, đảng chính

trị gần như một câu lạc bộ, việc gia nhập hay ra khỏi đảng trước hết và chủ

yếu xuất phát từ việc họ tán thành hay không tán thành cương lĩnh của đảng.

Đảng phái chính trị hay chính đảng (thường gọi tắt là đảng) là một tổ

chức chính trị tự nguyện với mục tiêu đấu tranh để tham gia vào việc thể hiện

các quan điểm chính trị, đấu tranh để giành quyền đại diện cho người dân

trong quốc hội, hoặc để đạt được một quyền lực chính trị nhất định

trong chính quyền, thường là bằng cách tham gia các chiến dịch bầu cử. Các

đảng thường có một hệ tư tưởng hay một đường lối nhất định, nhưng cũng có

thể đại diện cho một liên minh giữa các lợi ích riêng rẽ. Các đảng thường có

mục tiêu thực hiện một nhiệm vụ, lý tưởng của một tầng lớp, giai cấp, quốc

gia để bảo vệ quyền lợi của tầng lớp, giai cấp hay quốc gia đó.

52

Đảng chính trị là sản phẩm tất yếu của quá trình đấu tranh giai cấp và là

công cụ để bảo vệ lợi ích của các giai cấp. Sự tồn tại và phát triển của đảng

chính trị gắn liền với cuộc đấu tranh của một giai cấp mà biểu hiện rõ nhất là

cuộc đấu tranh giành - giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Đảng chính trị

được các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội lập ra để sử dụng như một công

cụ để giành và giữ chính quyền và chính quyền lại trở thành một công cụ để

đảng chính trị thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình. Thực chất của đảng

chính trị là công cụ và phương tiện để đấu tranh giành quyền lực chính trị của

giai cấp.

Là một bộ phận cấu thành của kiến trúc thượng tầng xã hội, đảng chính

trị hoạt động bằng thuyết phục, truyền bá các quan điểm, tư tưởng; tập hợp

những người cùng chí hướng. Đảng thu hút vào hàng ngũ của mình bộ phận

tích cực nhất của giai cấp. Các đảng cũng luôn tìm kiếm sự ủng hộ của nhân

dân, có khả năng tổ chức và vận động cử tri.

Vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu của các đảng phái chính trị là phấn đấu trở

thành đảng cầm quyền. Và muốn trở thành một đảng cầm quyền thì trước hết

chính đảng phải có vai trò tổ chức để vạch ra “ý chí chung”, tiến hành một

cuộc đấu tranh bằng nhiều biện pháp để giành được chính quyền nhà nước.

Tất cả những vai trò khác sẽ đi từ vai trò này một cách tự nhiên.

Thông thường, để đi tới quyền lực, các đảng chính trị sử dụng hai

phương thức đấu tranh bạo lực và đấu tranh nghị trường. Mỗi đảng chính trị

đều có ý thức hệ, chủ thuyết riêng và chiến lược lâu dài của mình. Tuy nhiên,

trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi, đảng phái chính trị ở các nước tư bản chủ

nghĩa hiện nay dường như chỉ sử dụng phương thức đấu tranh giành quyền

lực thông qua nghị trường.

Trong xã hội hiện đại, tương ứng với cơ cấu giai cấp của nó, các Đảng

chính trị có thể là đảng tư sản, đảng vô sản, đảng địa chủ, đảng nông dân,

đảng tiểu tư sản... Có những đảng phản ánh lợi ích của một liên minh giai cấp

53

(như đảng tư sản - địa chủ...). Các đảng phái chính trị tư sản trở thành đảng

cầm quyền thông qua các cuộc bầu cử nghị viện. Trong thế giới tư bản, bầu

cử là cuộc tranh giành rất gay gắt giữa các đảng phái chính trị. Thông qua bầu

cử, xác định được đảng cầm quyền. Đảng này đứng ra thành lập chính phủ.

Muốn trở thành một chính khách thì trước hết phải là đảng viên của đảng cầm

quyền. Các đảng viên của đảng cầm quyền phải cạnh tranh lẫn nhau để được

lọt vào ban lãnh đạo đảng cầm quyền thì mới có cơ hội trở thành những quan

chức cao cấp trong bộ máy nhà nước tư sản.

Đôi khi (ở các quốc gia nhiều dân tộc) các đảng có màu sắc dân tộc và

đưa ra những mục tiêu dân tộc. Nhưng ngay cả trong trường hợp này thì cơ sở

của các đảng đó vẫn là lợi ích giai cấp. Các đảng chính trị là thành phần

không thể thiếu được cho sự vận hành của các chính phủ dân chủ hiện đại.

Hầu như nước nào cũng có đảng phái chính trị và số lượng đảng chính

trị ở mỗi nước rất đa dạng, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn

hoá và đặc điểm xã hội của mỗi nước. Sự phong phú về số lượng chính trị ở

các nước phản ánh sự đa dạng về hình thức tổ chức hệ thống chính trị. Sự đa

dạng các đảng chính trị tạo nên cơ chế vận hành của chính phủ đại diện. Số

lượng đảng chính trị hoàn toàn không nói lên điều gì về mức độ dân chủ ở

từng nước.

Ngày nay, đảng chính trị tồn tại ở tất cả các nước có chế độ phổ thông

đầu phiếu, bầu cử, ứng cử, tranh cử vào các cơ quan nhà nước; đồng thời chi

phối sâu sắc đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội của các quốc gia

trên thế giới. Trong hệ thống chính trị của bất kỳ quốc gia nào hiện nay đều

có các bộ phận cấu thành cơ bản, đó là: đảng chính trị; nhà nước; các tổ chức

chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Đảng chính trị thực chất là các tổ chức chính

trị thể hiện lợi ích của một giai cấp hay của một tầng lớp xã hội liên kết những

đại diện ưu tú nhất của giai cấp để lãnh đạo giai cấp đạt tới những mục tiêu và

lý tưởng nhất định. Mục tiêu của đảng chính trị nói chung trước hết là giành

54

quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực đó để thực hiện các định hướng

chính trị, đạt được lợi ích của đảng. Khi giành được quyền lực nhà nước, đảng

đó trở thành đảng cầm quyền. Ở nghị viện nhiều nước, thông thường các lãnh

đạo của các đảng lớn nhất có thể quyết định ai là người đứng đầu chính thức

của cơ quan lập pháp, ai sẽ là thành viên các ủy ban; dự án luật được chuyển

đến đâu, như thế nào, khi nào, biểu quyết như thế nào, khi nào. Các hệ thống

lập pháp khác nhau đáng kể nếu xét về mặt quyền lực của đảng chiếm đa số

sẽ được phân chia như thế nào cho các đảng đối lập, mức độ tự chủ mà lãnh

đạo đảng dành cho các ủy ban, phạm vi mà các đảng có thể đưa ra yêu sách

cho đảng viên của mình. Các chính đảng đóng vai trò quan trọng trong việc

định đoạt quyền lãnh đạo của các cơ quan lập pháp.

Ngoài ra, nhà khoa học chính trị Việt Nam cũng có những quan điểm

về đảng chính trị: Đảng chính trị là những lực lượng chính trị được tổ chức,

những lực lượng này tập hợp các nông dân có cùng chung khuynh hướng

chính trị, nhằm kêu gọi dư luận hướng tới một số mục tiêu nhất định và nhằm

mục đích tham gia chính quyền, đồng thời có thể thay đổi chương trình hành

động của mình để thực hiện các mục tiêu trên [84, tr.10].

Như vậy, có thể thấy rằng, dù các nhà chính trị học theo hệ tư tưởng

nào, mác xít hay tư sản, trong hay ngoài nước, đều có điểm tương đồng trong

quan niệm về đảng chính trị, tựu trung lại: Đảng chính trị là bộ phận tích cực

nhất, có tổ chức nhất của một giai cấp hay một bộ phận của một giai cấp, làm

công cụ đấu tranh cho lợi ích của giai cấp.

2.2.1.2. Đặc trưng, đặc điểm đảng chính trị

Đảng chính trị là sản phẩm tất yếu của quá trình đấu tranh giai cấp và là

công cụ để bảo vệ lợi ích của các giai cấp. Sự tồn tại và phát triển của đảng

chính trị gắn liền với cuộc đấu tranh của một giai cấp mà biểu hiện rõ nhất là

cuộc đấu tranh giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước. Đảng chính trị

được các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội lập ra để sử dụng như một công

55

cụ để giành và giữ chính quyền và chính quyền lại trở thành một công cụ để

đảng chính trị thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình. Mục tiêu được thể hiện

trong cương lĩnh hoặc tuyên ngôn của đảng và đảng nào cũng hướng tới mục

tiêu chinh phục quyền lực (mục tiêu cầm quyền). Thực chất của đảng chính trị

là công cụ và phương tiện để đấu tranh giành quyền lực chính trị của giai cấp.

Là bộ phận tích cực nhất và có tổ chức của một giai cấp, làm công cụ

đấu tranh cho lợi ích của giai cấp mình; đảng chính trị luôn đại diện cho lợi

ích giai cấp và đấu tranh bảo vệ lợi ích giai cấp (ở mức độ này hay mức độ

khác). Đảng chính trị mang bản chất của một giai cấp cụ thể, được thể hiện ở

hệ tư tưởng, ở mục tiêu, lý tưởng, ở nguyên tắc tổ chức và đường lối của

đảng. Vai trò của đảng chính trị (tích cực, tiêu cực) tùy thuộc vào giai cấp mà

đảng chính trị đại diện đóng vai trò như thế nào (cách mạng, tiến bộ hoặc bảo

thủ, phản động) trong đời sống và với sự phát triển xã hội. Là sản phẩm của

cuộc đấu tranh giai cấp đạt trình độ cao, đảng chính trị sẽ mất đi khi xã hội

không còn giai cấp và đấu tranh giai cấp.

Đảng chính trị nào cũng có hệ tư tưởng (Ideology) với vai trò là tư tưởng

tiên phong của giai cấp) và cương lĩnh hành động. Hệ tư tưởng là hệ thống lý

luận gồm những quan niệm, quan điểm phản ánh các mối quan hệ chính trị - xã

hội đặc biệt giữa các giai cấp, dân tộc, quốc gia xoay quanh vấn đề giành, giữ

và sử dụng quyền lực nhà nước diễn ra trong lịch sử cũng như lợi ích của các

tầng lớp giai cấp nhất định xung quanh vấn đề này, có khả năng hướng dẫn đối

với các lực lượng xã hội. Hệ tư tưởng được cho là kết tinh của lập trường giai

cấp và là vũ khí tinh thần của giai cấp đấu tranh (V.I. Lênin).

Đảng chính trị là một hệ thống tổ chức được thành lập và hoạt động

trên nguyên tắc cụ thể. Hoạt động của đảng chính trị theo mục tiêu nhất định

(được thể hiện trong cương lĩnh hoặc tuyên ngôn có tính chất cương lĩnh,

tiến hành một chính sách nhất định, có những nguyên tắc tổ chức nhất định).

Đảng chính trị có đường lối, tổ chức nội bộ tương ứng với những nguyên tắc

56

hoạt động, cách tập hợp quần chúng thích hợp (phụ thuộc các yếu tố như:

giai cấp, quốc gia, vùng, tôn giáo…). Đảng chính trị theo nghĩa này khác với

nhóm đảng, phe đảng, bè đảng ở tính giai cấp, tính tổ chức, cách thức hoạt

động. Nhóm đảng, phe đảng, bè đảng là mầm mống để phát triển thành đảng

chính trị. Đảng thu hút vào hàng ngũ của mình bộ phận tích cực nhất của

giai cấp (không phải là toàn bộ giai cấp). Đảng chính trị có những phương

tiện vật chất để hoạt động (như: Văn phòng, trụ sở, cơ quan báo chí, thông

tin, xuất bản...).

Là một bộ phận cấu thành của kiến trúc thượng tầng xã hội, đảng chính

trị hoạt động bằng thuyết phục, truyền bá các quan điểm, tư tưởng; tập hợp

những người cùng chí hướng. Đảng thu hút vào hàng ngũ của mình bộ phận

tích cực nhất của giai cấp. Các đảng cũng luôn tìm kiếm sự ủng hộ của nhân

dân, có khả năng tổ chức và vận động cử tri.

Thông thường, để đi tới quyền lực, các đảng chính trị sử dụng hai

phương thức đấu tranh bạo lực và đấu tranh nghị trường. Mỗi đảng chính trị

đều có ý thức hệ, chủ thuyết riêng và chiến lược lâu dài của mình. Tuy nhiên,

trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi, đảng phái chính trị ở các nước tư bản chủ

nghĩa hiện nay dường như chỉ sử dụng phương thức đấu tranh giành quyền

lực thông qua nghị trường.

2.2.1.3. Chức năng của đảng chính trị

- Các đảng chính trị là nền tảng cho hoạt động của chính phủ, quốc hội

có thể thực hiện được trên thực tế

Các đảng chính trị tham gia vào quy trình thành lập quốc hội hay nghị

viện bao gồm các đại diện của nhân dân (những cơ quan quyền lực) theo

đường lối, chính sách chung của mình để vận động cử tri ủng hộ. Ngược lại,

các cử tri chọn đại diện của họ trên cơ sở tham gia và đặt niềm tin vào một

đảng chính trị nhất định. Chính đảng mà có được đa số phiếu bầu sẽ thành lập

chính phủ và điều hành nhà nước; trong khi các đảng khác trong cơ quan lập

57

pháp tạo thành phe đối lập và cố gắng tìm ra các thiếu sót với chính phủ, do

đó làm cho chính phủ trở nên có trách nhiệm hơn. Nếu thiếu vắng sự có mặt

của các đảng chính trị, các đại biểu dân cử có thể làm việc với các mục tiêu

chồng chéo tư lợi hay chỉ phục vụ mục tiêu cho chính đảng của mình. Điều

này làm cho việc hình thành của một chính phủ hiệu quả và bị giám sát là

không thể thực hiện.

- Các đảng chính trị xây dựng các chính sách công cộng

Là đại diện cho một tầng lớp nhân dân hay một hệ tư tưởng nhất định

và là tiếng nói của cử tri ủng hộ cho mình, mỗi đảng chính trị sẽ tham gia vào

cuộc bầu cử để đạt được những mục tiêu kết hợp với tuyên ngôn chính trị của

mình; đồng thời dần hình thành quyết sách, cương lĩnh chính yếu của từng

đảng trong quá trình tranh cử (tuy nhiên, không đảng phái nào có thể đạt được

sự đồng thuận gần như tuyệt đối về mặt quan điểm). Chẳng hạn như Đảng

Dân chủ của Mỹ: một mặt nhiều cử tri yêu cầu giải quyết vấn đề xung đột sắc

tộc hay tôn giáo, tiến đến một xã hội hòa hợp nhưng mặt khác, đại bộ phận

tầng lớp công nhân lao động ủng hộ Đảng Dân chủ cũng yêu cầu thắt chặt vấn

nạn nhập cư hay những thỏa thuận tự do mậu dịch. Vì cần lá phiếu của cả hai

nhóm cử tri, Đảng Dân chủ buộc phải tìm cách thỏa hiệp và đưa ra một đường

lối chính sách hợp lý để thỏa mãn yêu cầu của cả hai. Ngược lại, nếu không

cần đến những lá phiếu này, sẽ không có gì chắc chắn cho quyền lợi của cả

hai nhóm được tôn trọng dưới sự lãnh đạo của Đảng Dân chủ. Sau cuộc bầu

cử, chính đảng nào chiếm đa số phiếu bầu sẽ thành lập chính phủ để tìm cách

xây dựng các chính sách công trên cơ sở các cam kết được tuyên bố trong

tuyên ngôn tranh cử. Điều này cũng đảm bảo rằng, các chính sách công chủ

chốt đảng chiến thắng hay đảng đa số có được sự ủy nhiệm nhất định từ số

lượng lớn các cử tri, là căn cứ chính danh để thực hiện cương lĩnh chính trị

của mình. Chẳng hạn như ở Đức, theo Luật cơ bản, các đảng phái có nhiệm

vụ tham gia tạo lập ý nguyện chính trị của nhân dân. Qua đó, các đảng cử ứng

58

cử viên của mình vào các chức vụ chính trị và tổ chức tranh cử, vận động cử

tri thành một nhiệm vụ lập pháp.

- Các đảng chính trị giúp định hướng và hỗ trợ công luận

Trong các hệ thống chính trị, các chính đảng đều định hướng, xây

dựng, tập hợp, tổ chức và thực hiện hóa công luận - những hoạt động không

thể thiếu trong môi trường nhà nước hiện đại nhằm thúc đẩy ý thức chính trị

của người dân. Với nỗ lực tiến gần hơn với công chúng, các đảng phái chính

trị cũng tổ chức các cuộc biểu tình công cộng, các cuộc họp, các buổi họp báo

về các vấn đề trọng yếu và thông qua đó thể hiện rõ ràng quan điểm của mình.

Điều này sẽ tạo cho những người dân có cơ hội phân tích những ưu và khuyết

điểm của các vấn đề quan trọng khác nhau, dẫn đến việc tổ chức và xây dựng

công luận về các vấn đề trọng yếu. Những người dân thường là không có thời

gian để đóng góp cho nền chính trị được lợi vô cùng bởi những cuộc họp

này…, và được hiểu nhiều khía cạnh khác nhau của các vấn đề cơ bản liên

quan đến việc quản trị.

- Các đảng chính trị góp phần tạo nên ổn định chính trị

Các đảng chính trị bằng nhiều cách giúp hợp nhất, đơn giản hóa và ổn

định quá trình chính trị của đất nước. Thực hiện chức năng “kết hợp những

lợi ích”, các chính đảng sẽ thúc đẩy các lực lượng hay những nguồn gốc gây

mất ổn định cục bộ, khu vực, lợi ích và vị thế địa lý sẽ có thể đường hoàng

giải quyết tranh chấp của mình bằng con đường chính trị. Thậm chí, thông

qua đảng chính trị, những lực lượng này buộc phải cải tạo hệ tư tưởng của

họ để thu hút dân chúng, từ đó sẽ thủ tiêu khả năng mất đoàn kết và thúc đẩy

sự gắn kết.

Ngoài ra, trong nền dân chủ đại diện, các đảng phái chính trị còn đóng

một vai trò rất lớn trong việc duy trì sự ổn định bằng cách thực hiện các vai

trò của mình trong cơ quan lập pháp. Chính đảng chiếm đa số phiếu bầu thiết

lập chính phủ và các đảng chính trị nhỏ khác trong phe đối lập. Đảng cầm

59

quyền phải cư xử một cách rất có trách nhiệm bởi vì bất kỳ động thái thiếu

khôn ngoan nào sẽ làm họ mất đi quyền lực và giúp phe đối lập (các đảng

chính trị) lên nắm quyền quản lý. Phe đối lập không chỉ đơn thuần là thực

hiện việc phê bình chính phủ mà nó còn đưa ra cương lĩnh và sẵn sàng nguồn

lực cho một chính phủ thay thế trong trường hợp xảy ra bất kỳ cuộc khủng

hoảng nào xảy ra trong bộ máy nhà nước. Như vậy các đảng chính trị còn góp

phần tạo nên sự ổn định của chính phủ.

- Các đảng chính trị giúp chiêu mộ những nhà lãnh đạo toàn diện

Chức năng chủ yếu của bất kỳ đảng chính trị nào cũng là chiêu mộ

được những người có đủ tố chất liêm chính, được tín nhiệm, có ảnh hưởng, có

khả năng lãnh đạo gấp nhiều lần các thành viên của nó và chuẩn bị cho cuộc

bầu cử trong tương lai.

Những thành viên đại diện của đảng chính trị là người truyền bá hệ tư

tưởng của đảng, thảo luận các vấn đề xã hội và tổ chức các cuộc họp, họp báo

để vận động hỗ trợ từ cộng đồng - họ buộc phải tìm kiếm những người thật sự

có tài, cẩn trọng trong ăn nói, thậm chí là sự “bắt mắt” ở phong thái và vẻ bề

ngoài để tránh bị “thất sủng” từ công chúng (là những người vốn có thể bị

cuốn hút bởi ngoại hình thay vì những chính sách công phức tạp).

Những nhà lãnh đạo này một lần nữa tham gia tranh cử và xây dựng

chính phủ nếu được bầu lên nắm quyền. Những người lãnh đạo như vậy xuất

phát từ đời sống nhân dân, được mong đợi sẽ thấu hiểu những nguyện vọng

của những người dân thường và từ đó xây dựng các chính sách công phù hợp.

Các đảng chính trị luôn có được sự ủng hộ công nhận của công chúng mặc dù

chỉ có các nhà lãnh đạo của chúng thực hiện điều này.

Nhìn chung, để các đảng chính trị thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ và

được điều hành ổn định, cần phải xây dựng một chế độ bầu cử công bằng,

thực hiện trên nguyên tắc dân chủ, tự do, công bằng. Đồng thời, phương pháp

chọn đại biểu và quy chế về khu vực bầu cử cũng cần được quan tâm, tính

60

toán cho phù hợp với cơ cấu chính trị và truyền thống của quốc gia. Chế độ

bầu cử đại biểu theo tỷ lệ phiếu (số phiếu trong quốc hội được phân bổ cho

các chính đảng theo tỷ lệ phiếu mà đảng đó giành được) là chế độ bầu cử

công bằng nhất. Tuy nhiên, ngoài mục đích phản ảnh ý chí của nhân dân trong

việc lựa chọn đại biểu, còn một mục đích nữa là thông qua bầu cử, nhân dân

sẽ nâng cao ý thức chính trị, cảm thấy gần gũi với chính trị và dễ dàng chấp

nhận hơn khi có sự thay đổi chính quyền.

2.2.1.4. Vai trò các đảng chính trị trong đời sống chính trị hiện nay

Đảng chính trị bao giờ cũng gắn liền với việc đấu tranh giành, giữ và sử

dụng chính quyền. Chức năng của các đảng là:

- Về chính trị: Vạch ra đường lối, cương lĩnh, chương trình hành động.

- Về tổ chức: Tổ chức đảng và cử người vào bộ máy nhà nước để thực

hiện các mục tiêu của mình.

- Về tư tưởng: Tuyên truyền, lôi kéo các bộ phận dân cư khác hưởng

ứng, đi theo hệ tư tưởng của mình.

Cụ thể, tùy thuộc từng loại đảng và các chế độ nhà nước mà các đảng

có vai trò, phương thức hoạt động khác nhau. Ở các nước đa đảng, hoạt động

quan trọng nhất của các đảng là hoạt động vận động tranh cử. Bởi đây là con

đường duy nhất để nắm chính quyền. Ngoài ra còn một số hoạt động khác

như, tác động vào ngành lập pháp nhằm chiếm nhiều ghế, giành các ghế lãnh

đạo trong nghị viện, tìm mọi cách tạo ảnh hưởng đến quá trình lập pháp và

các quá trình ra quyết định của cơ quan này.

Đối với hành pháp: Mục tiêu của các đảng là giành vị trí nguyên thủ

quốc gia, đứng đầu nội các và các chức vụ chính quyền, giành quyền quyết

định hệ thống quyền lực nhà nước và các chính sách. Đảng chính trị là một

đặc điểm nổi bật của chính trị hiện đại.

2.2.2. Đảng cầm quyền

Các đảng chính trị khi đã trở thành đảng cầm quyền đều tuân theo

những nguyên tắc chung là lãnh đạo, chi phối, sử dụng quyền lực nhà nước,

61

sử dụng sức mạnh, các phương tiện vật chất đã được thiết chế hoá của nhà

nước để thực hiện mục tiêu của đảng mình, của giai cấp mình. Mỗi đảng

chính trị khác nhau đều có những phương thức lãnh đạo và cách thức tổ chức

thực hiện khác nhau tuỳ thuộc vào quan điểm và tư tưởng, tương quan lực

lượng trong hệ thống chính trị, tuỳ thuộc vào điều kiện khách quan của tình

hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và cả nhân tố chủ quan của chính

đảng cầm quyền. Vì vậy, các đảng chính trị, đảng cầm quyền là vấn đề quan

trọng của hệ thống chính trị của tất cả các quốc gia.

Kể từ khi hình thành, các đảng chính trị đã thể hiện rõ vai trò quan

trọng của mình trong hệ thống chính trị. Mỗi một quốc gia, do yếu tố đặc thù

về tự nhiên, lịch sử, văn hoá, xã hội đều có hướng đi riêng để xây dựng và

phát triển đất nước, bên cạnh lịch sử phát triển của quốc gia đó có vai trò của

các đảng chính trị, đảng cầm quyền. Do vậy không thể áp đặt hay sao chép

một cách máy móc mô hình hệ thống chính trị của quốc gia này cho quốc gia

khác. Phải căn cứ vào tình hình cụ thể của mỗi quốc gia để có thể áp dụng thể

chế chính trị cho phù hợp và quan trọng hơn phải phù hợp với ý chí và

nguyện vọng của người dân.

Khái niệm “đảng cầm quyền” vốn được sử dụng đầu tiên ở các nước

phương Tây có chế độ đa đảng, dùng để chỉ đảng giành được đa số ghế trong

nghị viện. Tuy nhiên, khái niệm này hiện nay cũng chỉ có ý nghĩa tương đối,

vì ở một số nước có thể chế quốc hội lưỡng viện, có thời kỳ đảng này chiếm

đa số ở hạ viện, nhưng đảng khác lại chiếm đa số ở thượng viện; ở những

nước có thể chế cộng hòa tổng thống, có thời kỳ đảng này chiếm đa số trong

quốc hội, nhưng tổng thống lại là người thuộc đảng khác.

Với tư cách đảng chiếm đa số trong chính quyền, đảng có vị thế là lực

lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, đảng có và thực hiện quyền chi phối chính

sách, hoạt động của chính quyền. Đương nhiên, “quyền” trong “cầm quyền”

không phải là quyền lực nhà nước, mà là quyền lãnh đạo, quyền lực chính trị -

62

quyền do nhân dân suy tôn, tín nhiệm, thừa nhận và được khẳng định trong

hiến pháp.

Đảng cầm quyền được hiểu là đảng nắm giữ những vị trí chủ chốt của

bộ máy nhà nước để kiểm soát quá trình hoạch định và thực thi các chính sách

quốc gia. Người ta cho rằng, nếu như thế kỷ XIX là giai đoạn đấu tranh hiến

pháp giữa các phe phái chính trị, thì thế kỷ XX là một trong những thời kỳ sự

cầm quyền của đảng phái góp phần khiến cán cân hiến pháp có giai đoạn dịch

chuyển theo hướng có lợi cho hành pháp. Điều đó cũng có nghĩa, đảng cầm

quyền là đảng điều khiển, kiểm soát người của mình trong bộ máy nhà nước

thực hiện các mục tiêu phát triển của đảng thông qua các chính sách của nhà

nước. Với cách hiểu như vậy, đảng cầm quyền là đảng trực tiếp có quyền lực

nhà nước; các quyết định của đảng thể hiện qua danh nghĩa quyền lực nhà

nước (quyền lực do người dân ủy nhiệm) thông qua các thủ tục, các quá trình

đã được pháp luật quy định, chứ không phải đưa ra các quyết định nhân danh

đảng [33, tr.36-38]. Như vậy, đảng cầm quyền là khái niệm của khoa học

chính trị, chỉ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ và

lãnh đạo chính quyền để điều hành, quản lý đất nước nhằm trước hết phục vụ

lợi ích của giai cấp mình.

Một trong những đặc điểm lớn của thời đại ngày nay là sự tồn tại đan

xen của nhiều nước với chế độ chính trị - xã hội khác nhau, cùng tồn tại hòa

bình. Tùy theo điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia - dân tộc mà có một đảng

hay đa đảng chính trị hoạt động, có một hay đa đảng tham gia cầm quyền.

Những nước khác nhau có thể có một hoặc nhiều đảng chính trị khác nhau,

tùy thuộc vào điều kiện khách quan của chế độ chính trị, đặc điểm hình thành

và phát triển của hệ thống chính trị. Đối với những nước có nhiều đảng, nói

tới đảng cầm quyền tức là nói tới vị thế của đảng trong sự so sánh với các

đảng chính trị khác - những đảng không cầm quyền. Ở các nước có từ hai

đảng trở lên, bầu cử là cuộc đấu tranh giành giật quyền lực rất gay gắt giữa

63

các đảng chính trị. Sau cuộc tổng tuyển cử, đảng cầm quyền - là đảng chiếm

đa số ghế trong nghị viện và ứng cử viên của mình thắng cử trong cuộc bầu

cử - có quyền đứng ra thành lập chính phủ và các thành viên hoạt động tích

cực trong chiến dịch vận động bầu cử của đảng sẽ được bổ nhiệm vào các

chức vụ trong chính quyền. Mọi hoạt động của chính phủ phải thể hiện ý chí

của đảng cầm quyền thông qua ý chí của người lãnh đạo.

Ở Việt Nam, sau khi giành được chính quyền (tháng 8/1945), Đảng

Cộng sản trở thành đảng cầm quyền và hiện nay là đảng cầm quyền duy nhất.

Trong các văn bản, sách báo chúng ta ít sử dụng cụm từ đảng cầm quyền mà

chủ yếu là sử dụng cụm từ đảng lãnh đạo. Vậy nội hàm của các cụm từ này là

giống nhau hay có gì khác nhau? Tuy nhiên, trong các tác phẩm của các nhà

sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và văn kiện của

Đảng ta đều có sử dụng các khái niệm Đảng (cộng sản) lãnh đạo và Đảng

(cộng sản) cầm quyền. Khái niệm “Đảng cầm quyền” lần đầu tiên được V.I.

Lênin nêu ra, sau này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng thuật ngữ này để nói

về vai trò cầm quyền của Đảng như: Đảng giành được chính quyền, Đảng

nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, Đảng cầm quyền. Trong Di

chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Điều lệ

Đảng Cộng sản Việt Nam được Đại hội toàn quốc lần thứ X, XI, XII thông

qua cũng ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”.

Khái niệm đảng cầm quyền có hai nghĩa: nói rõ tư cách của Đảng Cộng

sản Việt Nam là đảng cầm quyền, hơn nữa ở nước ta hiện nay Đảng Cộng sản

Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền. Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí

Minh, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội (bổ sung, phát triển 2011) và một số văn kiện của Đảng Cộng sản Việt

Nam khẳng định: Đảng ta (Đảng Cộng sản Việt Nam) là đảng cầm quyền.

Trước đây, V.I. Lênin cũng đã dùng khái niệm đảng cầm quyền [43, tr.74].

Khái niệm đảng cầm quyền được V.I. Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam và

64

Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng đều là theo nghĩa đó. Khẳng định Đảng Cộng

sản Việt Nam là đảng cầm quyền để xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Đảng

trước nhân dân, đất nước, dân tộc; theo đó, đảng phải có năng lực lãnh đạo, tổ

chức thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; các cán bộ, đảng viên

phải gương mẫu, giữ gìn phẩm chất đạo đức trong sạch, không lợi dụng chức

quyền để vụ lợi… Trong Di chúc, liền ngay sau câu khẳng định “Đảng ta là

một đảng cầm quyền”, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán

bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính,

chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người

lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân” [49, tr.611-612].

2.2.3. Đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị một đảng nổi trội

Sartori đưa ra các đặc điểm chính của hệ thống chính trị một đảng nổi

trội: “Một hệ thống chính trị một đảng nổi trội tuân thủ các quy tắc cạnh tranh

về đảng (nghĩa là theo chế độ đa đảng) nhưng thực tế chứng minh rằng hệ

thống này có mức độ cạnh tranh thấp, hoặc thậm chí gần với trạng thái không

cạnh tranh giữa các đảng chính trị”. Phải nói rằng Sartori đã tóm tắt chính xác

hệ thống chính trị một đảng nổi trội đó là sự cạnh tranh yếu giữa các đảng

chính trị trong hệ thống.

Klaus Von Bayme [116, tr.263], một giáo sư tại Đại học Heidelberg ở

Đức, cũng đồng tình với quan niệm của Sartori và chỉ ra rằng chỉ khi hầu hết

hoặc tất cả các đảng đối lập thống nhất họ có thể thay thế đảng nổi trội. Cạnh

tranh trong hệ thống chính trị một đảng nổi trội bị hạn chế nhất. Đây là một

hiện tượng duy nhất đối với nhiều nước đang phát triển. Von Beyme tin rằng

có rất ít sự cạnh tranh giữa các đảng chính trị ở các nước đang phát triển.

Trong nhiều trường hợp, cạnh tranh bị đàn áp giả tạo do tỷ lệ ghế ngồi.

Francoise Boucek [108, tr.104-108] - Giảng viên trường Đại học

London, khoa Chính trị và Quan hệ quốc tế - tiếp tục đề xuất ba đặc điểm

chính của hệ thống chính trị một đảng nổi trội: (1) đảng nổi trội đã dẫn đầu

65

cuộc bầu cử. Các đảng chính trị nổi trội đã đạt được quyền lãnh đạo bầu cử

bằng cách tối đa hóa hỗ trợ bầu cử của họ. Các đảng chính trị nổi trội có lợi

thế riêng của họ trong việc thay đổi cử tri và định hình lại sở thích của cử

tri. Trong việc phân bổ các quỹ đảng chính trị, đảng nổi trội đang ở trong

một lợi thế, bởi vì các quỹ được phân phối theo số lượng đại diện của các

đảng chính trị. Đảng lớn luôn nhận được nhiều số phiếu hơn, và một số

đảng nhỏ bị loại trừ vì họ không đáp ứng được ngưỡng nghị viện. (2) Đảng

nổi trội có lãnh đạo ở quốc hội. Bằng cách đạt được tỷ lệ lớn nhất của thị

trường bầu cử, các đảng chính trị nổi trội sẽ được dẫn đầu ở quốc hội. Họ

sử dụng các điều khoản thuận lợi của luật bầu cử để tối đa hóa sự đại diện

của họ trong quốc hội. (3) Các đảng chính trị nổi trội có quyền lãnh đạo

điều hành. Kết quả của việc tối đa hóa sự cạnh tranh của các đảng chính trị

nổi trội trong cuộc bầu cử và nghị viện là quyền lực cầm quyền. Vị trí

trung bình của đảng chính trị nổi trội cho nó hiệu ứng đòn bẩy trong việc

đàm phán với các đảng vừa và nhỏ, sử dụng một đảng chính trị hoặc liên

minh các đảng chính trị để phản đối các đảng chính trị khác. Đồng thời,

việc kiểm soát các chính sách và mạng lưới cơ sở của nó đã làm tăng khả

năng các đảng chính trị nổi trội sẽ giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử

trong tương lai và tiếp tục quyền chi phối.

Trong cuốn sách Uncommon Democracies: The One-Party Dominant

Regimes, T.J. Pempel [126, tr.24-29] cho rằng một đảng nổi trội nghĩa là đảng

đó phải chiếm ưu thế trong bốn chỉ số để đo lường hệ thống chi phối của

đảng: (1) Đảng nổi trội phải chiếm ưu thế về số lượng, phải giành được nhiều

ghế hơn đảng đối lập, chỉ có bên nhận đa số ghế mới đủ điều kiện để trở thành

đảng thống trị; (2) Các đảng nổi trội phải có một vị trí đàm phán chi phối.

Ngay cả khi nó không có đa số tuyệt đối trong quốc hội, nó vẫn ở vị trí chiến

lược. Không thể xây dựng bất kỳ thành phần chính phủ nào nếu nó bị loại trừ;

66

(3) Các đảng nổi trội phải tiếp tục thống trị theo thời gian, nó phải là cốt lõi

của chính phủ trong một thời gian dài, không chỉ một vài năm, ít nhất là 20

năm; (4) Một đảng chính trị nổi trội phải chiếm ưu thế trong chính phủ, vì nó

nằm ở trung tâm quyền lực của chính phủ trong một thời gian dài, đảng chính

trị nổi trội có thể hoàn thành nguyên nhân lịch sử chính và thay đổi tiến trình

chính trị của đất nước bằng cách huy động sự ủng hộ của cộng đồng. Trong

ngắn hạn, các đảng chính trị nổi trội phải thống trị các cuộc bầu cử và các

đảng chính trị khác, thành phần chính phủ và các chương trình nghị sự chính

sách công cộng.

(1) Sự thống trị về số lượng

Sự thống trị về số lượng có thể được hiểu một cách đơn giản nhất là sự

kiểm soát phần lớn của cơ quan lập pháp. Ở vị trí tổng thống, điều này đơn

giản ngụ ý là việc kiểm soát chức tổng thống. Đầu tiên, chiến thắng tổng

thống là một sự phản ánh trực tiếp hơn về hỗ trợ phổ biến. Hàn Quốc sử dụng

một phiếu bầu phổ biến đơn giản để chọn tổng thống và vì vậy mỗi cá nhân có

tác động trực tiếp đến người được bầu. Thứ hai, mặc dù Pempel lập luận rằng

sự thống trị về số lượng phải được đại diện bởi đa số ghế lập pháp, lập luận

này phụ thuộc vào giả định rằng đa số đơn giản cho phép một đảng chính trị

thống trị lập pháp [126, tr.4]. Trong trường hợp của Hàn Quốc, đa số đơn giản

không nhất thiết cho phép một đảng chính trị đơn phương vượt qua các dự

luật chống lại sự chống đối thiểu số. Trong năm 2012, Đạo luật tiến bộ của

Quốc hội đã được sửa đổi để hạn chế đa số các đơn vị chuyển tiền đơn

phương thông qua Quốc hội. Một dự luật do phe đối lập tranh chấp chỉ có thể

được thông qua bầu cử nếu 3/5 nghị sĩ quốc hội đồng ý bỏ phiếu tán thành.

Hơn nữa, nghị sĩ Quốc hội chỉ có thể đơn phương thúc đẩy một chương trình

nghị sự do một thảm họa thiên nhiên hoặc chiến tranh hoặc thông qua thỏa

thuận với các đảng đối lập. Tổng thống không giữ quyền phủ quyết, thông

67

qua đó họ có thể từ chối các phiếu tán thành được Quốc hội thông qua. Do đó,

các tiêu chí thống trị phụ thuộc vào việc một đảng có kiểm soát chức Tổng

thống hay không. Nếu nó không kiểm soát được chức Tổng thống, nó vẫn có

thể được coi là thống trị thông qua sự kiểm soát của 2/3 nghị sĩ quốc hội.

(2) Sự thống trị về vị trí

Trong khi tiêu chuẩn cho quyền lập pháp đơn phương cao hơn trong

trường hợp của Hàn Quốc, thì sự thống trị về số lượng có thể đạt được bằng

nhiều cách, tùy thuộc vào việc một bên có kiểm soát chức Tổng thống hay

không. Hơn nữa, sự thống trị về số lượng sẽ dẫn dắt một bên giành được một

vị thế thương lượng thống trị. Theo những hạn chế của Đạo luật tiến bộ của

Quốc hội năm 2012, và quyền lực phủ quyết của Tổng thống, sự kết hợp có

thể thống trị về số lượng và sự thống trị thương lượng ở Hàn Quốc được tóm

tắt trong bảng 2.1 và 2.2.

Bảng 2.1: Đảng kiểm soát chức tổng thống

Loại đa số trong Quốc hội

Hai phần ba đa số

Ba phần năm đa số

Đa số đơn giản (dưới ba phần năm)

Không nắm giữ đa số

Đương nhiệm

Yếu

Yếu

Hoàn toàn

Hoàn toàn

Loại thống trị

Bảng 2.2: Đảng đối lập kiểm soát chức tổng thống

Loại đa số trong Quốc hội

Hai phần ba đa số

Đa số đơn giản (dưới ba phần năm)

Không nắm giữ đa số

Mạnh

Không thống trị

Không thống trị

Đương nhiệm Loại thống trị

Ba phần năm đa số Không thống trị

68

Đảng kiểm soát chức tổng thống

Nếu một đảng nhất định kiểm soát chức tổng thống phải ở mức tối

thiểu giữ 3/5 trong quốc hội để thiết lập sự thống trị hoàn toàn ở cả vị trí số

lượng và thương lượng đối lập. Điều này sẽ cho phép các đảng đơn phương

đẩy các phiếu bầu thông qua quốc hội và là kịch bản mà mọi bên cố gắng đạt

được. Nếu đảng của tổng thống chỉ nắm giữ đa số đơn giản về phe đối lập

trong cơ quan lập pháp, điều này sẽ tạo thành một vị trí thống trị yếu. Một lợi

thế mà đa số đảng vẫn sẽ giữ lại phe đối lập trong kịch bản này là sức mạnh

của quyền phủ quyết của tổng thống. Điều này sẽ đòi hỏi sự thỏa hiệp lớn hơn

của phe đối lập, vì các phiếu bầu ủng hộ phe đối lập sẽ rất có thể bị tổng

thống phủ quyết. Điều này sẽ được coi là sự thống trị yếu. Cuối cùng, nếu

đảng của tổng thống không nắm giữ đa số đơn giản của cơ quan lập pháp,

mức độ thống trị của nó sẽ phụ thuộc vào sức mạnh của phe đối lập trong

quốc hội. Trong tình huống này, ngay cả khi phe đối lập kiểm soát được ba

phần năm quốc hội, đảng của tổng thống vẫn sẽ bị xem là sự thống trị yếu

trong phe đối lập.

Đảng đối lập

Nghịch đảo áp dụng khi phe đối lập giữ chức tổng thống. Như đã giải

thích trước đó, trong kịch bản này, cách duy nhất để một đảng không phải là

đảng giữ vị trí Tổng thống được coi là thống trị là vì nó chiếm đa số hai phần

ba trong Quốc hội để thắng quyền phủ quyết do Tổng thống nắm giữ. Nếu

không có sự kiểm soát của Tổng thống, bất cứ điều gì ít hơn một phần ba

trong cơ quan lập pháp sẽ được coi là không thống trị.

(3) Sự thống trị theo niên đại

Các tài liệu về sự thống trị của một đảng bao gồm nhiều nỗ lực để xác

định sự thống trị trong niên đại. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau để định

nghĩa sự thống trị trong niên đại này, tuỳ thuộc vào từng học giả.

69

Coleman

Pempel

Tác giả

Van de Walle & Butler

Ware (chiếm ưu thế)

Ware (có ưu thế)

Sartori (chiếm ưu thế)

Dài hạn

Thời lượng

Ba cuộc bầu cử liên tiếp

Thời kỳ đáng kể

Phân tích giới hạn trong một cuộc bầu cử

Đảng thống trị thường thắng

Phân tích giới hạn trong một cuộc bầu cử

Bảng 2.3: Sự thống trị theo niên đại

(4) Sự thống trị chính phủ

Pempel tuyên bố rằng một đảng nổi trội thống trị chính phủ sẽ thực

hiện “một loạt các chính sách công cộng hỗ trợ lẫn nhau và tương hỗ mang

lại hình dạng cụ thể cho chương trình nghị sự chính trị quốc gia” [126,

tr.4]. Một đảng nổi trội thống trị sẽ có thể thiết lập một chương trình nghị

sự chính sách cho công chúng. Hơn nữa, trong một nền dân chủ, các đảng

dựa vào phiếu bầu của công chúng để nắm quyền lực. Do đó, chương trình

nghị sự do đảng thống trị đặt ra cũng không nên can thiệp vào khả năng

duy trì sự thống trị của nó; không nên dẫn họ mất quyền thống trị trong

chính phủ.

Ngoài ra, chương trình nghị sự do đảng nổi trội thống trị đặt ra phải

lâu bền, giúp hợp pháp hóa sự thống trị của đảng trong chính phủ và giúp họ

nắm quyền lực. Trong khi Pempel lập luận rằng một đảng nổi trội phải thể

hiện sự thống trị của chính phủ, đây không phải là một yêu cầu tuyệt đối. Để

cho một đảng đạt được sự thống trị của chính phủ, đảng phải thường đáp ứng

ba tiêu chí thống trị trước: thống trị về số lượng, thống trị ở vị trí thương

lượng và thống trị theo thứ tự thời gian.

70

Tiểu kết chương 2

Có thể nói, hệ thống chính trị bao gồm nhiều thành phần khác nhau, các

bộ phận, nhân tố tham gia vào quá trình chính trị đều đóng một vai trò quan

trọng ảnh hưởng đến kết quả chính trị, đặc biệt là yếu tố đảng chính trị. Việc

nghiên cứu hệ thống chính trị cũng giống như các phạm trù khác trong lĩnh

vực Chính trị học, có nhiều quan điểm và lập luận khác nhau, thậm chí đối

nghịch nhau. Tuy nhiên, cách phân tích của các nhà nghiên cứu chính trị đều

thống nhất ở chỗ, đảng cầm quyền giữ vai trò quan trọng trong một hệ thống

chính trị, nó là yếu tố quyết định đến sự “sống còn” của mỗi chế độ, mỗi quốc

gia, mỗi dân tộc. Đảng chính trị nào giữ được quyền hành pháp, đảng đó là

đảng cầm quyền.

Đảng chính trị cầm quyền trong mô hình hệ thống chính trị nói chung

và mô hình hệ thống chính trị một đảng nổi trội hiện nay biểu hiện một số đặc

trưng nhất định, mang lại hiệu quả cầm quyền cho đảng. Trong mô hình hệ

thống chính trị một đảng nổi trội, sự hình thành từ các yếu tố chủ quan hay

khách quan của việc cầm quyền lâu dài của một đảng đã chứng tỏ nội lực của

bản thân chính đảng đó.

Đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị một đảng nổi trội, bên cạnh

những đặc trưng, chức năng, vai trò của một đảng chính trị tham gia vào đời

sống chính trị xã hội, “nó” còn mang những biểu hiện đặc sắc, riêng biệt, là

yếu tố góp phần duy trì sự thống nhất, bền vững của một hệ thống chính trị

nhất định

Trong những quan điểm, những định hướng về phát triển quốc gia mà

các đảng cầm quyền nổi trội đưa ra, đã cho thấy được vai trò và mối quan hệ

của đảng chính trị nổi trội với hệ thống chính trị. Những hình thức vận hành,

đưa ra quyết sách cũng như đặc điểm của đảng chính trị nổi trội trong hệ

thống chính trị là khá đa dạng và phong phú nhưng tất cả đều gắn liền với

mục tiêu chung của quốc gia đó, góp phần tạo ra sức mạnh xã hội, sức mạnh

quốc gia phù hợp với xu hướng phát triển của nhân loại.

71

Chương 3

KHẢO CỨU MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI ĐIỂN HÌNH

3.1. TRƯỜNG HỢP NHẬT BẢN

3.1.1. Khái quát về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở Nhật

Bản và những đặc trưng chủ yếu

3.1.1.1. Về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị

Hệ thống chính trị Nhật Bản hiện tại là một cấu trúc được định hình từ

sau Chiến tranh Thế giới thứ hai trong bối cảnh Nhật Bản bại trận và chịu sự

chiếm đóng của quân đội Mỹ dưới danh nghĩa đại diện cho lực lượng Đồng

Minh từ 9/1945 đến 4/1952. Đây chính là giai đoạn toàn bộ bộ máy tổ chức

của hệ thống chính trị Nhật Bản được cơ cấu, sắp xếp lại, chuyển đổi từ mô

hình nhà nước quân phiệt sang mô hình chính quyền dân chủ. Hiến pháp Nhật

Bản có hiệu lực từ năm 1947 cho đến nay chính là văn bản được soạn thảo

theo sự chỉ đạo của lực lượng chiếm đóng Mỹ với mục tiêu ngăn chặn sự phục

hồi của chủ nghĩa quân phiệt, từ bỏ quyền tiến hành chiến tranh và cấm duy

trì các lực lượng vũ trang (Điều 9 Hiến pháp Nhật Bản).

Mô hình thể chế chính trị Nhật Bản hiện tại dựa trên chế độ lưỡng

viện đa đảng. Quyền lực chính trị bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp

và quyền tư pháp là độc lập với nhau. Măc dù Nhật Bản vẫn giữ chế độ Thiên

hoàng, nhưng Thiên hoàng Nhật Bản chỉ có địa vị tượng trưng cho đất nước

Nhật Bản và sự thống nhất của nhân dân Nhật Bản (Điều 1 Hiến pháp Nhật

Bản); Thiên hoàng không can dự vào công việc chính trị của đất nước (Điều 4

Hiến pháp Nhật Bản).

Cơ quan lập pháp của Nhật Bản là Quốc hội gồm Chúng nghị viện còn

gọi tắt là Chúng viện hay Hạ viện và Tham nghị viện còn gọi là Tham viện

hay Thượng viện.

72

Hạ viện Nhật Bản hiện tại có 465 nghị sĩ (con số này có khác biệt theo

từng thời kỳ: năm 1947 là 466 ghế, năm cao nhất là 512 ghế (1986)) có nhiệm

kỳ bốn năm. Mặc dù vậy, hiếm khi Hạ viện được bầu ra tồn tại hết 4 năm do

thường bị giải thể trước nhiệm kỳ (trung bình thực tế nhiệm kỳ của Hạ viện là

hai năm rưỡi). Trong số 465 ghế của Hạ viện, có 289 nghị sĩ được bầu từ các

khu vực bầu cử nhỏ - mỗi khu vực, cử tri chỉ được bầu đích danh 1 đại biểu -

và 176 người khác được đại diện theo tỉ lệ - tại mỗi khu vực, cử tri bỏ phiếu

cho đảng phái chính trị. Các ứng cử viên bầu vào Hạ viện phải ít nhất 25 tuổi.

Các cử tri trước đây đã phải ít nhất 20 tuổi nhưng từ năm 2016, tuổi bầu cử đã

giảm xuống còn 18; do vậy, so với trước đây, lượng cử tri Nhật Bản tăng

thêm khoảng 2,4 triệu người.

Thượng viện Nhật Bản có 242 nghị sĩ; các Thượng nghị sĩ có nhiệm

kỳ sáu năm. Để duy trì tính liên tục của Thượng viện, cứ 3 năm lại có một nửa

số thành viên phải bầu lại. Trong số 121 thành viên được bầu mỗi lần, 73

người được bầu từ 47 quận theo phương thức bỏ phiếu bầu trực tiếp và 48

người được bầu từ danh sách toàn quốc theo đại diện theo tỷ lệ. Yếu tố đại

diện theo tỷ lệ này đã được đưa ra từ năm 1982 trong nỗ lực chống lại sự thao

túng của đồng tiền trong các chiến dịch bầu cử. Các ứng cử viên để bầu vào

Thượng viện phải ít nhất 30 tuổi. Thượng viên không bị giải thể như Hạ viện.

Cuộc bầu Thượng viện gần đây nhất là vào tháng 7 năm 2019.

Quốc hội Nhật Bản có quyền bổ nhiệm Thủ tướng, thông thường là

đại biểu của chính đảng hoặc liên minh chính đảng thắng cử. Thủ tướng có

quyền giải tán Hạ viện. Mặt khác, Hạ viện có quyền giải tán Nội các bằng một

cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm hoặc từ chối bỏ phiếu tín nhiệm Nội các. Nếu Hạ

viện thông qua nghị quyết không tín nhiệm hoặc từ chối bỏ phiếu tín nhiệm

Nội các thì toàn bộ Nội các, bao gồm cả Thủ tướng phải từ chức.

Trong quan hệ giữa hai viện của Quốc hội Nhật Bản, Hạ viện có ưu

thế hơn Thượng viện. Trong trường hợp các quyết định được đưa ra Quốc hội

73

mà không đạt được sự thống nhất ý kiến giữa hai viện thì quyền quyết định

cuối cùng thuộc về Hạ viện. Theo quy định, mỗi công dân Nhật Bản chỉ được

làm nghị sĩ của một trong hai viện.

Trong Nội các Nhật Bản đứng đầu là Thủ tướng; giúp việc cho Thủ

tướng là các bộ trưởng. Theo Hiến pháp Nhật Bản, Thủ tướng do Quốc

hội bổ nhiệm, các bộ trưởng được Thủ tướng lựa chọn và bổ nhiệm. Phần

lớn thành viên của Nội các, bao gồm cả Thủ tướng phải là đại biểu của một

trong hai viện Quốc hội. Theo Luật Nội các năm 2001, số lượng bộ trưởng

không được quá 14 người, tuy nhiên, trong trường hợp đặc biệt, vẫn có thể

lên đến 17 người. Nếu Nội các buộc phải từ chức tập thể, thì vẫn phải điều

hành công việc cho đến khi có một Thủ tướng mới được bổ nhiệm. Ông

Shinzo Abe của Đảng Dân chủ Tự do hiện đang giữ chức Thủ tướng, một vị

trí mà ông từng giữ trước đó vào năm 2006-2007 và hiện ông đã nắm giữ từ

năm 2012. Ông là Thủ tướng thứ bảy của Nhật Bản từng tại vị được sáu

năm, nhưng ông dường như sẽ có được vị trí lâu nhất với tư cách Thủ tướng

tại Nhật Bản sau chiến tranh.

Chánh án Tòa án Tối cao được Thiên hoàng bổ nhiệm theo lựa chọn

của Nội các. Mười bốn thẩm phán khác được Nội các lựa chọn và bổ nhiệm.

Cứ sau 10 năm, nhiệm kỳ của một thẩm phán phải được xác nhận bằng trưng

cầu dân ý. Trong thực tế, các thẩm phán hầu như luôn được chọn lại và được

phép phục vụ cho đến khi 70 tuổi.

Mặc dù là chế độ đa đảng nhưng trên thực tế, hệ thống chính trị Nhật

Bản đã tồn tại theo cách thức chưa được biết đến trong các nền dân chủ ở

châu Âu và Bắc Mỹ, đó là sự thống trị của một đảng - Đảng Dân chủ Tự do

Nhật Bản (LDP). Kể từ khi thành lập vào năm 1955, Đảng Dân chủ Tự do

Nhật Bản đã gần như liên tục nắm quyền lãnh đạo hệ thống chính trị Nhật

Bản, ngoại trừ một chính phủ liên minh tồn tại trong một thời gian ngắn gần

11 tháng vào năm 1993 và trong giai đoạn 3 năm từ tháng 8 năm 2009 đến

74

tháng 12 năm 2012. Trong cuộc bầu cử của tháng 12 năm 2012, Đảng Dân

chủ Tự do Nhật Bản đã trở lại nắm quyền điều hành đất nước với 294 ghế

trong Hạ viện. Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản đã nắm lại quyền lãnh đạo vào

năm 2014 và một lần nữa vào năm 2017 - lần này với 284 ghế. Thủ tướng

Shinzo Abe đồng thời cũng là Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản.

Một đảng quan trọng khác là Đảng Công Minh - theo truyền thống là

đồng minh với Đảng Dân chủ Tự do. Đó là một đảng bảo thủ theo tư tưởng

Phật giáo. Trong cuộc bầu cử năm 2017, Đảng Công Minh giành được 29

ghế. Điều này có nghĩa là Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản và Komeito đã kết

hợp chiếm đa số phiếu bầu ở Hạ viện (313 ghế).

Sau cuộc bầu cử gần đây nhất vào tháng 10 năm 2017, hai đảng chính

trị mới tạo thành cơ sở của phe đối lập gồm có:

Đảng Dân chủ (DPJ) giành được 55 ghế. Đây là một đảng trung tâm

do Yukio Edano lãnh đạo. Đảng này được thành lập từ sự chia rẽ trung tâm từ

Đảng Dân chủ đối lập trước đó trong cuộc bầu cử tới năm 2017.

Đảng của Hy vọng giành được 50 ghế. Đây là một đảng bảo thủ ở

Nhật Bản được thành lập và lãnh đạo bởi Thống đốc Tokyo Yuriko Koike.

Đảng của Hy vọng được hình thành chỉ vài giờ trước khi Thủ tướng Shinzo

Abe tuyên bố cuộc bầu cử đầu năm 2017.

Tỷ lệ cử tri trong các cuộc bầu cử ở Nhật Bản còn thấp, đặc biệt là

trong các cử tri trẻ. Cuộc bầu cử năm 2017 đã chứng kiến tỷ lệ bỏ phiếu tăng

nhẹ 53,68% nhưng đây vẫn là mức thấp thứ hai ở Nhật Bản sau Chiến tranh.

3.1.1.2. Đặc trưng của chính đảng Nhật Bản

Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản (LDP 自由民主党): là chính đảng tư

sản bảo thủ lớn nhất hiện nay ở Nhật Bản được thành lập vào ngày 15 tháng

11 năm 1955 trên cơ sở của Liên minh Bảo thủ (hoshu godo). Hiện tại đảng

này có khoảng 1,7 triệu đảng viên (bằng khoảng 1,34% dân số Nhật Bản và

bằng khoảng 1.67% số cử tri), sinh hoạt trong khoảng 7.000 cơ sở. Đầu tháng

75

11/2017, LDP giữ 408 ghế trong Quốc hội (283/465 ghế trong Hạ viện và

125/242 ghế trong Thượng viện). Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản cầm quyền

liên tục 38 năm từ 1955 - 1993. Do mâu thuẫn nội bộ và bị phân liệt, LDP đã

thất bại lớn trong bầu cử Hạ viện tháng 7 năm 1993 và bị mất quyền lãnh đạo

đất nước. Cuối tháng 6/1994 LDP đã liên minh với Đảng Xã hội và Đảng

Tiên phong để lập chính phủ, do Chủ tịch Đảng Xã hội Murayama làm Thủ

tướng. Từ tháng 01/1996 LDP lại đứng đầu một chính quyền liên hiệp 3 đảng

LDP-Công Minh-Tự do, do Ruytaro Hashimoto làm Thủ tướng. Trong cuộc

bầu cử Thượng viện tháng 7/1998, LDP bị thất bại nặng nề, ông Hashimoto

buộc phải từ chức Chủ tịch LDP và ngày 30/7/1998, Quốc hội Nhật Bản đã bỏ

phiếu bầu ông Keizo Obuchi làm Thủ tướng thay ông Hashimoto. Thủ tướng

Yoshiro Mori, người kế nhiệm sau khi ông Obuchi mất cũng phải từ chức sau

gần 1 năm cầm quyền do đã làm uy tín của LDP giảm sút nghiêm trọng.

Ông Koizumi Junichiro - một người có chủ trương cải cách LDP đã

được bầu làm Chủ tịch đảng đồng thời là Thủ tướng Nhật với đa số áp đảo

298/482 phiếu tại Đại hội Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản trước nhiệm kỳ

(24/4/2001) với tỷ lệ ủng hộ đạt kỷ lục 85%. Ngày 20/9/2003, Thủ tướng

Koizumi đã tái cử làm Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản nhiệm kỳ 2

năm đồng thời tiếp tục ở cương vị Thủ tướng. Ngày 11/9/2005 Đảng Dân chủ

Tự do Nhật Bản giành được đa số phiếu trong tổng tuyển cử với chủ trương tư

nhân hóa công ty Bưu chính Nhật Bản. Ngày 20/9/2006, ông Abe

Shinzo được bầu làm Chủ tịch đảng và được Quốc hội bổ nhiệm Thủ tướng

vào ngày 26/9 với 339/475 phiếu. Trong cuộc bầu cử thượng viện ngày

29/7/2007, Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản bị thất bại nặng nề và không còn là

đảng lớn nhất trong thượng viện.

Về hình thức, Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản được tổ chức theo mô

hình ba cấp (trung ương, tỉnh và cơ sở). Hệ thống này mang nặng tính chất

hành chính, chủ yếu hướng vào mục đích tranh cử. Về phương diện tổ chức,

76

Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản là điển hình của loại đảng “tinh hoa” nên hầu

như không có hệ thống tổ chức hoàn chỉnh từ trung ương tới cơ sở, không có

hệ thống tổ chức quần chúng. Đảng viên phần lớn là các chính khách cao cấp,

thuộc tầng lớp thượng lưu, được sự hậu thuẫn của những tập đoàn tài phiệt

hoặc được sự ủng hộ của dòng tộc và đặc biệt là của cử tri ở những địa

phương vốn là đất "bản bộ" của dòng tộc nhất định. Mối quan hệ giữa đảng

viên với quần chúng, vì vậy, chủ yếu là mối quan hệ có tính chất cá nhân.

Đảng này không có nền tảng ý thức hệ rõ ràng mà cá nhân đảng viên

hoặc những nhóm đảng viên cố kết lại với nhau dựa trên những lợi ích chung

xác định, và qua đó tạo thành một phe đa số luôn luôn đủ sức chi phối quá

trình hoạch định chính sách trong Quốc hội cũng như trong các cơ quan

quyền lực khác. Những lợi ích chung này được thể hiện trong tuyên ngôn của

đảng. Chính vì vậy mà LDP còn được gọi là loại hình “đảng lợi ích”.

Một trong những biện pháp để luôn giữ được vị thế chi phối trong quốc

hội của LDP là cách thức phát triển đảng viên. Trong quá trình tranh cử ở

Nhật Bản, để tranh thủ số đông cử tri vốn không ưa đảng phái, có nhiều ứng

viên không biểu thị thái độ rõ rệt ủng hộ cho đảng nào, đã tranh cử với tư

cách là ứng cử viên độc lập, không đảng phái. Nhưng sau khi đắc cử, các nghị

sĩ độc lập này lại muốn được tham gia mạnh mẽ hơn vào quá trình chính sách

và để bảo vệ lợi ích của chính mình nên họ lại có nhu cầu tham gia đảng phái.

Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản đã tận dụng cơ hội này để kết nạp nhiều ông

nghị vào đảng mình. Rõ ràng, việc gia nhập đảng của nhiều chính khách đã

xuất phát từ lợi ích của chính cá nhân họ. Và cũng bằng cách này, LDP liên

tục mở rộng uy thế chính trị, giữ vững địa vị cầm quyền của mình suốt nhiều

thập kỷ ở Nhật Bản. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới

tình trạng hệ thống chính trị Nhật Bản tuy là đa nguyên, đa đảng nhưng chỉ có

một đảng chiếm ưu thế.

77

Phần lớn đảng viên cao cấp của LDP là những nhà hoạt động chính trị

chuyên nghiệp, xuất thân từ những gia đình có nhiều thế hệ là chính khách

chuyên nghiệp (Ông nội và phụ thân của Chủ tịch LDP, nguyên Thủ tướng

Koizumi đều là Bộ trưởng của Nội các Nhật Bản trước đây). Vì vậy, ngoài sự

ủng hộ mạnh mẽ của các doanh nghiệp, các chính khách của đảng này còn có

hậu thuẫn lớn từ những khu vực vốn là địa bàn mà gia tộc họ đã gây dựng

được ảnh hưởng từ nhiều đời. Vì vậy đảng được coi là tiêu biểu cho đặc điểm

gia trưởng của hệ thống chính trị Nhật Bản.

Là một đảng lớn và được coi là thế lực chi phối đời sống chính trị,

nhưng LDP không phải là một khối thống nhất. Nó giống như một liên minh

chính trị, và cứ mỗi khi địa vị độc tôn bị lung lay, LDP lại tìm cách mở rộng

liên minh. Hiện nay, để có thể duy trì địa vị cầm quyền của mình, Đảng Tự do

Dân chủ buộc phải liên hiệp với đảng Komei.

Một biện pháp khác nhằm giữ vững vị trí cầm quyền của LDP là tranh

thủ lợi thế đa số trong Quốc hội và vị trí của đảng cầm quyền, đã liên tục cho

ra những chính sách có lợi cho mình. Chẳng hạn, trong những thập niên cuối

của thế kỷ trước, chính phủ của LDP đã tiến hành cải cách chế độ bầu cử,

chuyển từ chế độ bầu cử theo khu vực trung bình, sang chế độ bầu cử theo

khu vực nhỏ. Theo đó, mỗi một khu vực chỉ được bầu một đại biểu. Trong

chế độ bầu cử trước đây, mỗi khu vực bầu cử được bầu từ 3 - 5 nghị sĩ. Do

đó, dù Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản có thể giành được đa số trong các ứng

cử viên được bầu, nhưng vẫn còn cơ hội cho 1 hoặc 2 ứng cử viên là đại biểu

của các đảng khác đắc cử. Nhưng theo cách thức bầu cử mới, khu vực bầu cử

này được chia thành 3 hoặc năm khu vực bầu cử nhỏ, mỗi khu vực chỉ bầu

một nghị sĩ. Trong trường hợp cử tri chỉ được quyền chọn 1 đại biểu duy nhất

thì người của LDP thường đắc cử. Cơ hội dành cho các đảng khác bị giảm

thiểu tối đa. Do vậy, các vị trí của đảng khác dễ bị chuyển sang cho Đảng Dân

chủ Tự do Nhật Bản.

78

Là nhóm chính trị Bảo thủ lớn nhất của Nhật Bản, được thành lập vào

năm 1955 trên cơ sở sáp nhập hai đảng Dân chủ và Tự do. Đảng tuyên bố là

đảng nhân dân (phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của nhân dân), là đảng hoà

bình (cống hiến toàn bộ sức lực cho sự nghiệp bảo vệ hoà bình, công lý và

tiến bộ của nhân loại), là đảng dân chủ (tôn trọng và bảo vệ tự do, quyền cá

nhân và quyền cơ bản của con người) và đảng mang tính chất nghị viện.

Nguyên tắc kinh tế của đảng là hoạch định và thực hiện một chương trình

kinh tế toàn diện dựa vào sáng kiến cá nhân và tự do kinh doanh, chú ý đến

lợi ích của quần chúng, ổn định cuộc sống của nhân dân và thực hiện một nhà

nước phúc lợi.

Trọng tâm của chính sách đối ngoại của Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản

là ủng hộ các quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản và Mỹ trên cơ sở Hiệp ước hợp

tác và an ninh chung giữa hai nước. Đảng cũng nhấn mạnh đến tầm quan

trọng của việc Nhật Bản đóng góp tích cực vào cộng đồng quốc tế thông qua

viện trợ kinh tế cho các nước đang phát triển.

3.1.1.3. Về đặc trưng chủ yếu của hệ thống chính trị Nhật Bản

Hệ thống chính trị Nhật Bản rất khác với các nền dân chủ phương

Tây, mặc dù các thể chế thoạt đầu có thể trông tương tự nhau.

Quốc hội có rất ít quyền hành thực sự; theo truyền thống, các phe phái

trong Đảng Dân chủ Tự do có tầm quan trọng hơn các đảng chính trị khác;

Các cuộc họp Nội các thường là ngắn gọn và chủ yếu là nghi lễ.

Thủ tướng Nhật Bản được coi là có quyền lực yếu hơn so với đối tác

của mình trong các nền dân chủ khác và thường tại vị trong thời gian rất ngắn

(Thủ tướng Tsutomu Hata chỉ tại vị 3 tháng vào năm 1994). Quyền lực trong

xã hội Nhật Bản được sử dụng ít hơn bởi các chính trị gia và nhiều hơn bởi

các quan chức và nhà công nghiệp. “Bộ ba quyền lực” này của các chính trị

gia, quan chức và doanh nghiệp lớn được biết đến ở Nhật Bản như là “Tam

giác sắt”.

79

Một số nhà quan sát từng cho rằng cuộc tổng tuyển cử vào tháng 8 năm

2009, dẫn đến một chính phủ của Đảng Dân chủ, đã làm thay đổi về cơ bản

mô hình hệ thống chính trị Nhật Bản tồn tại gần nửa thế kỷ, nhưng sự trở lại

nắm quyền của Đảng Dân chủ Tự do vào tháng 12 năm 2012 đã đưa hệ thống

chính trị Nhật Bản trở lại mô hình lịch sử.

Ngay từ khi được trao trả độc lập, đã xuất hiện những động thái quan

trọng ở Nhật Bản nhằm sửa đổi hiến pháp, trọng tâm là sửa đổi Điều 9 để trở

thành “một quốc gia bình thường”, để có thể duy trì và triển khai lực lượng

quân sự. Vào năm 2012, Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản đã công bố một dự

thảo về hiến pháp mới, nhưng mỗi đảng chính trị lại muốn có những thay đổi

khác nhau. Chính vì vậy, việc sửa đổi Hiến pháp sẽ còn là quá trình lâu dài.

Trong khi đó, nhiều người ở Nhật Bản rất muốn sức mạnh kinh tế của mình

được phản ánh trong các cấu trúc chính trị của Liên hiệp quốc, muốn trở

thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an.

Về hệ thống các đảng phải chính trị, sự thống trị của Đảng Dân chủ Tự

do trong hệ thống chính trị của Nhật Bản đã định hình sâu sắc bản chất chính

trị ở đất nước này so với các nền dân chủ khác. Vì đảng nắm quyền hầu như

không thay đổi nên các cuộc xung đột, thường rất gay gắt, đã xảy ra chủ yếu

trong Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản hơn là giữa các đảng chính trị khác. Kết

quả là, một hệ thống phe phái rất phức tạp hoạt động trong nội bộ Đảng Dân

chủ Tự do Nhật Bản. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động của cả Quốc hội

Nhật Bản, nhưng thường thể hiện ở Hạ viện nhiều hơn Thượng viện.

Các phe phái trong Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản dựa trên các cá nhân

có thế lực, thường là thành viên kỳ cựu của đảng, nhiều người trong số họ là

cựu Thủ tướng hoặc là người có khả năng trở thành thủ tướng trong tương lai.

Số lượng và quy mô của các phe phái liên tục thay đổi. Mặc dù hầu hết các

phe phái đều có chức danh chính thức, nhưng trên các phương tiện truyền

80

thông Nhật Bản, chúng thường được gọi bằng tên của các nhà lãnh đạo hiện

tại của họ, chẳng hạn phái Hashimoto hay phái Nakasone, phái Mori….

Một đặc điểm đáng chú ý của chính trị Nhật Bản là ảnh hưởng của các

kết nối gia đình. Nhiều thành viên của Quốc hội là con hoặc cháu của cựu

thành viên Quốc hội, thường là thành viên Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản.

Cựu Thủ tướng Yukio Hatoyama (9/2009 - 6/2010) đã tiêu biểu hóa truyền

thống này: ông nội của ông là Thủ tướng Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản đầu

tiên vào năm 1954 - 1956, cha ông từng là Bộ trưởng Ngoại giao Đảng Dân

chủ Tự do Nhật Bản, ông thừa kế ghế của cha mình ở Hokkaido năm 1986, và

em trai ông là thành viên của chính phủ do Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản

cầm quyền trước đây.

3.1.2. Quá trình cải cách tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở

Nhật Bản trong thế kỷ XXI và một số kết quả nổi bật

3.1.2.1. Quá trình đổi mới

Có thể thấy ngay sau khi Mỹ chấm dứt chiếm đóng vào năm 1951,

Nhật Bản đã rất nỗ lực trong việc đổi mới mô hình tổ chức hệ thống chính trị.

Trong năm mươi năm, Chính phủ Nhật Bản cùng với người dân đã tái cấu

trúc nền kinh tế và xã hội và nâng cao mức sống xã hội. Nền kinh tế Nhật Bản

đã chiếm một phần đáng kể trong nền kinh tế thế giới và mọi người được

hưởng một mức sống cao. Có thể nói, hệ thống chính trị, nhất là hệ thống

hành chính công của Nhật Bản đã hoạt động thành công trong giai đoạn này.

Hệ thống này tỏ ra rất phù hợp để thiết lập các mục tiêu hoặc tầm nhìn quốc

gia và huy động các nguồn lực công cộng và tư nhân để đạt được những mục

tiêu đề ra.

Tuy nhiên, xã hội Nhật Bản đã dần dần thay đổi. Bước sang thế kỷ

XXI, các điều kiện xã hội xung quanh và Chính phủ Nhật Bản cũng đã thay

đổi đáng kể, dẫn đến một thời đại mà họ chưa từng có kinh nghiệm. Các cấu

81

trúc và hệ thống của Chính phủ Nhật Bản đã trở nên không phù hợp với

những thay đổi này và tỏ ra hoạt động kém hiệu quả. Trên thực tế cũng đã có

những điều chỉnh đã được thực hiện, nhưng trái với những nỗ lực to lớn tổ

chức lại trong mỗi bộ trong Chính phủ, chưa có động thái cụ thể nào đáng kể

trong việc bãi bỏ các quy định và điều chỉnh trên quy mô toàn hệ thống.

Kết quả là, mối quan hệ bên trong một bộ, giữa một bộ với các đối tác

thuộc thẩm quyền của nó cũng như các bên liên quan khác đã trở nên mạnh

mẽ đến mức hình thành một loại cộng đồng gần gũi có xu hướng cố gắng bảo

vệ các lợi ích hiện có mang tính cục bộ. Các hệ thống và thực tiễn quản lý

nhân sự dường như đã góp phần củng cố một bức tường vô hình tạo ra ranh

giới lãnh thổ cấp bộ. Để đưa ra quyết định về một vấn đề liên quan đến nhiều

bộ, cần một thủ tục hành chính tiêu tốn rất nhiều thời gian giữa các bộ kiến

cho hiệu quả công việc bị cản trở.

Trong khi đó, các hệ thống và tổ chức hỗ trợ cho Nội các và Thủ tướng

được coi là yếu kém, khiến các nhà lãnh đạo chính trị gặp khó khăn trong

trường hợp cần phủ quyết các đề xuất chính sách được chuẩn bị trong khuôn

khổ thẩm quyền của các bộ và cơ quan hiện hành, cũng như việc đẩy nhanh

việc thực hiện các chính sách nào đó.

Càng ngày người ta càng nhận ra rằng cần có những thay đổi và cải

cách mạnh mẽ để toàn bộ Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng và Nội

các có thể đưa ra các quyết định phối hợp và thực hiện chúng một cách tốt

nhất. Sự cần thiết của những thay đổi và cải cách như vậy đã được chỉ ra

trong một thời gian dài. Nhưng để phá vỡ các bức tường cấp bộ đòi hỏi phải

thuyết phục các bên liên quan và bãi bỏ hoặc sửa đổi luật thành lập hiện hành

hoặc ban hành luật thành lập mới, cần nguồn năng lượng chính trị to lớn để

vượt qua những trở ngại và khó khăn. Tuy nhiên, vì đây là vấn đề đụng chạm

đến lợi ích nhóm nên một cuộc cải tổ liên bộ đã trở thành một loại điều cấm

82

kỵ chính trị. Rất ít chính trị gia dám thách thức điều cấm kỵ chính trị này, hay

coi đó là vấn đề không thể chạm tới được.

Mặc dù vậy vào năm 1998, Thủ tướng Hashimoto Ryutaro (từ 11 tháng

1 năm 1996 tới 30 tháng 7 năm 1998), người có khả năng thuyết phục mạnh

mẽ và kinh nghiệm phong phú, đã thử thách nhiệm vụ khó khăn này. Tuy

nhiên, ông phải từ chức Thủ tướng sau hơn 1 năm cầm quyền do kết quả bỏ

phiếu bất tín nhiệm của Hạ viện vào tháng 7/1999. Vào tháng 4 năm 1999,

Nội các Obuchi Keizo (từ 30 tháng 7 năm 1998 tới 5 tháng 4 năm 2000) đã đệ

trình lên Quốc hội Nhật Bản 17 dự luật về tái cấu trúc và hợp lý hóa các bộ và

cơ quan chính phủ trung ương cũng như tăng cường các chức năng của Nội

các và vai trò lãnh đạo của Thủ tướng. Theo dự luật, cơ cấu chính quyền trung

ương lúc đó, bao gồm Văn phòng Thủ tướng Chính phủ và 22 tổ chức cấp bộ

trưởng trong Nội các, sẽ được đổi thành Văn phòng Nội các và 12 tổ chức cấp

bộ trưởng. Quốc hội đã thông qua các đề xuất của Nội các. Cấu trúc chính

phủ mới được lên kế hoạch bắt đầu vào ngày 1 tháng 1 năm 2001, đầu thế kỷ

mới. Một sự tái cấu trúc chính quyền trung ương mạnh mẽ như vậy chưa từng

xảy ra ở Nhật Bản.

3.1.2.2. Một số kết quả nổi bật

- Tăng cường sự lãnh đạo chính trị trong mọi tổ chức cấp bộ

Một, hai hoặc ba thứ trưởng chính trị - là người giúp việc bộ trưởng,

tham gia lập chính sách và lên chương trình, kế hoạch; chỉ đạo các vấn đề

chính trị, thừa lệnh bộ trưởng thực hiện các chức năng bộ trưởng khi bộ

trưởng vắng mặt - sẽ được bổ nhiệm vào Văn phòng Nội các và vào mỗi bộ.

Họ phải được định vị giữa bộ trưởng và thứ trưởng hành chính - giúp bộ

trưởng duy trì công việc của bộ, giám sát công việc các Vụ, Phòng, các cơ

quan dưới quyền, các chi nhánh ở địa phương.

Mỗi thứ trưởng sẽ hoạt động cho bộ trưởng và chịu trách nhiệm đáng

kể trong bộ. Ngoài ra, hệ thống trợ lý chính trị cho bộ trưởng cũng sẽ được

83

giới thiệu. Các trợ lý chính trị sẽ được chỉ định trong mọi tổ chức cấp bộ để

tham gia hoạch định chính sách cụ thể và cũng để giải quyết các vấn đề

chính trị. Theo các hệ thống này, sự lãnh đạo chính trị trong mỗi bộ sẽ được

tăng cường.

- Củng cố chức năng Nội các và vai trò lãnh đạo của Thủ tướng

Ngoại trừ Thủ tướng, số lượng bộ trưởng sẽ giảm từ tối đa 20 xuống

còn từ 14 đến 17. Nội các được vận hành linh hoạt hơn, có các Bộ trưởng có

trách nhiệm đặc biệt sẽ được quyết định cụ thể theo nhu cầu của thực tiễn

từng thời kỳ.

Để đảm bảo sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn của Thủ tướng và Nội các,

Ban Thư ký Nội các sẽ được trao quyền không chỉ phối hợp mà còn bắt đầu

hoạch định chính sách cơ bản. Văn phòng Nội các với hàng trăm nhân viên

trong trụ sở chính sẽ được thành lập để hỗ trợ Thủ tướng và Nội các. Hội

đồng tư vấn về các chính sách kinh tế và tài khóa, về các chính sách khoa học

và công nghệ, v.v... sẽ được thành lập. Thủ tướng dự kiến sẽ bổ nhiệm các

nhân viên hỗ trợ của mình một cách tự do hơn theo sáng kiến của chính mình

không chỉ từ bên trong Chính phủ mà còn từ bên ngoài Chính phủ.

- Tái cơ cấu quyết liệt các bộ và cơ quan

Theo luật được thông qua, 23 tổ chức cấp bộ được cơ cấu lại thành

một văn phòng (Văn phòng Nội các) và 12 tổ chức cấp bộ.

Mục tiêu cơ bản của việc sắp xếp lại này là phá vỡ các bức tường

ngăn cách giữa các bộ và cơ quan hiện có; hợp nhất các chức năng tương tự

hoặc tương tự nhau để các chức năng liên quan này có thể được phối hợp

nhanh nhất có thể trong một bộ có thẩm quyền rộng hơn; sự trùng lặp, tương

tự từ các chương trình có thể được giảm càng nhiều càng tốt. Bộ Y tế và Phúc

lợi và Bộ Lao động được sáp nhập làm một. Cơ quan Khoa học và Công nghệ

và Bộ Giáo dục với nhiều trường đại học quốc gia và các viện nghiên cứu trực

thuộc của họ sẽ được sáp nhập làm một. Bộ Giao thông vận tải, Bộ Xây dựng,

84

Cơ quan Đất đai Quốc gia và Cơ quan Phát triển Hokkaido được sáp nhập. Tổ

chức bảo vệ môi trường được nâng từ Cơ quan lên Bộ.

- Tinh giản và hợp lý hóa các tổ chức và hoạt động của chính phủ

+ Doanh nghiệp do Chính phủ điều hành: Dịch vụ bưu chính sẽ được

tách ra để trở thành một cơ quan bên ngoài bán độc lập của Bộ Tổng hợp.

Năm 2007, sẽ được chuyển đổi thành Tổng công ty Dịch vụ bưu chính. Cục

In ấn và Sở in tiền của Bộ Tài chính được chuyển đổi thành các tập đoàn hành

chính độc lập. Dịch vụ lâm nghiệp quốc gia sẽ được sắp xếp hợp lý, mặc dù

nó sẽ vẫn là một cơ quan bên ngoài của Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và

Thủy sản.

+ Pháp nhân hành chính độc lập: Các pháp nhân hành chính độc lập

được tạo ra kể từ năm 2015. Chúng có tư cách pháp lý độc lập bên ngoài Bộ

hoặc các Cục. Chính phủ sẽ chuyển giao thực thi chính sách và các chức năng

khác của các bộ và cơ quan cho tổ chức loại hình pháp nhân mới này. Pháp

nhân hành chính độc lập đảm bảo việc quản lý linh hoạt hơn. Giám đốc điều

hành hoặc nhân viên quản lý có thể được tuyển dụng từ bên ngoài chính phủ

và việc quản lý hoạt động hàng ngày được giao cho chính các pháp nhân.

Mục đích chính của hệ thống này là tách biệt các chức năng hoạch định chính

sách và chức năng thực thi chính sách; nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch

vụ cho người dân bằng cách trao thêm quyền tự chủ và trách nhiệm cho một

pháp nhân và cũng để đảm bảo tính minh bạch của sự hoạt động.

+ Giảm các tổ chức của các tổ chức cấp bộ: Các tổ chức nội bộ của

các tổ chức cấp bộ sẽ được giảm xuống để hợp lý hóa các tổ chức cũng như

để đảm bảo sự phối hợp chính sách rộng hơn. Các đơn vị cấp cục bị giảm từ

128 xuống 96. Các đơn vị cấp phòng, ban bị cắt giảm từ 1200 xuống 1000.

+ Giảm nhân viên toàn thời gian: Chính phủ lập kế hoạch giảm lực

lượng giảm ít nhất 10% nhân viên toàn thời gian của các bộ và cơ quan trong

thời gian mười năm bắt đầu từ tháng 1 năm 2001. Chính phủ cũng giảm nhân

85

sự bằng cách tạo ra các pháp nhân hành chính độc lập và những cách khác,

sao cho số lượng nhân viên giảm 25% trong mười năm. Chính phủ về cơ bản

sẽ xem xét các chức năng và chương trình hiện tại của mình để thực hiện việc

giảm quy mô lớn như vậy.

+ Bãi bỏ quy định và cải cách hành chính bao cấp và công trình công

cộng: Việc bãi bỏ quy định và cải cách quy định, và cải cách quản lý công

trình công cộng bao cấp sẽ được đẩy mạnh hơn nữa để hợp lý hóa các hoạt

động của chính quyền trung ương, xây dựng một thị trường tự do và minh

bạch hơn, để thúc đẩy phân cấp và đảm bảo ra quyết định hiệu quả và minh

bạch hơn.

Ngoài những kết quả nêu trên, để có được những kết quả mong đợi,

cải cách hệ thống và thực hành công vụ là không thể thiếu. Chính phủ Nhật

Bản dự kiến sẽ thiết lập một hệ thống quản lý nhân sự của Chính phủ cho

phép những người có trình độ, năng lực tốt được đưa vào Ban Thư ký Nội

các, Văn phòng Nội các và bộ. Hệ thống tuyển dụng và thăng tiến sẽ được cải

thiện. Ngoài ra, việc trao đổi nhân sự giữa các bộ sẽ được đẩy mạnh hơn nữa.

3.2. TRƯỜNG HỢP HÀN QUỐC

3.2.1. Khái quát về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị Hàn Quốc

Hàn Quốc có chế độ đa đảng, hệ thống quyền lực theo chế độ tam

quyền phân lập giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hệ thống chính quyền của

Hàn Quốc có chính quyền Trung ương và chính quyền tự quản địa phương.

Cơ quan hành pháp gồm có Tổng thống, Thủ tướng, các bộ, cơ quan

trực thuộc và các chính quyền tự trị. Tổng thống do dân bầu trực tiếp, nhiệm

kỳ 5 năm và không được tái cử. Tổng thống là người đứng đầu Nhà nước,

nắm quyền điều hành đất nước và là Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang Hàn

Quốc. Thủ tướng là người đứng thứ 2 trong cơ quan hành pháp, được chỉ định

bởi Tổng thống và có sự chấp thuận của Quốc hội. Thủ tướng điều phối và

kiểm soát việc thực thi các chính sách, đưa ra các đề xuất, tham mưu cho

86

Tổng thống và bãi nhiệm các thành viên của Chính phủ. Hội đồng Nhà nước

(Chính phủ) gồm Chủ tịch Hội đồng là Tổng thống, Phó Chủ tịch Hội đồng là

Thủ tướng Chính phủ và 15 - 30 bộ trưởng là Ủy viên Hội đồng. Hội đồng

Nhà nước có nhiệm vụ thảo luận các chính sách và bộ luật, điều hành các

công việc của bộ máy hành pháp. Thành viên Chính phủ do Thủ tướng chỉ

định. Thủ tướng và các bộ trưởng phải được Quốc hội chuẩn y. Các bộ của

Chính phủ Hàn Quốc hiện nay gồm: Bộ Chiến lược và Tài chính; Bộ Giáo

dục; Bộ Khoa học, Công nghệ thông tin và Kế hoạch tương lai; Bộ Ngoại

giao; Bộ Thống nhất; Bộ Tư pháp; Bộ Quốc phòng; Bộ Nội vụ; Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch; Bộ Nông nghiệp, Thực phẩm và Nông thôn; Bộ Thương

mại, Công nghiệp và Năng lượng; Bộ Y tế và Phúc lợi; Bộ Môi trường; Bộ

Việc làm và Lao động; Bộ Bình đẳng Giới và Gia đình; Bộ Đất đai, Cơ sở hạ

tầng và giao thông; Bộ Đại dương và Thủy sản.

Thủ tướng do Tổng thống bổ nhiệm và Quốc hội phê chuẩn. Thủ

tướng Hàn Quốc không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội. Thủ tướng hỗ trợ

Tổng thống bằng cách giám sát các bộ và tiến cử các bộ trưởng. Thủ tướng là

người tiếp quản văn phòng Tổng thống trong trường hợp Tổng thống không

còn khả năng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.

Bộ trưởng, thứ trưởng do Thủ tướng giới thiệu để Tổng thống bổ

nhiệm. Nội các họp vào thứ ba hàng tuần, ngoài ra có thể họp bất thường.

Hiện nay, nội các họp trực tuyến, hằng năm có thể tiết kiệm 600 triệu won.

Những vấn đề đưa ra cuộc họp Nội các phải có 2/3 ý kiến đồng ý mới được

thông qua.

Trước đây, Chính phủ mang tính tập quyền, tính nguyên tắc, tính

khống chế rất cao. Mô hình chính phủ 2.0: từ quan hệ trên dưới đến quan hệ

ngang bằng, có sự phân quyền khá cao. Chính phủ 2.0 coi trọng sự phục vụ:

bộ máy phục vụ nhân dân, tổ chức tôn trọng và tạo điều kiện cho cá nhân phát

triển. Hiện tại Hàn Quốc đang theo đuổi mô hình chính phủ 3.0. Theo đó, nếu

87

như mô hình trước đây, cá nhân, tổ chức, nhất là lãnh đạo sở hữu, cấp phát

thông tin, đặc biệt là thông tin nội bộ, thì trong xã hội hiện đại mọi người dân

đều có thể sở hữu thông tin, cấp dưới sở hữu và cung cấp thông tin cho cấp

trên. Từ đó nảy sinh quan hệ phụ thuộc ngang bằng. Tuy nhiên, ở Hàn Quốc

không phải cơ quan nào cũng đạt chuẩn mô hình 3.0.

Về Quốc hội: Quốc hội là cơ quan lập pháp duy nhất, theo chế độ một

viện gồm 300 ghế, trong đó 253 ghế được bầu từ các cử tri, 47 ghế được lựa

chọn theo tỷ lệ đại diện bởi các đảng. Quốc hội do người dân trực tiếp bầu ra.

Đảng cầm quyền tiến cử ứng cử viên tham gia Quốc hội. Quốc hội gồm 16 Ủy

ban Thường vụ, 2 Ủy ban đặc biệt (Ngân sách và Kế toán; Đạo đức).

Nghị sỹ Quốc hội được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu,

nhiệm kỳ 04 năm. Tỷ lệ nghị sĩ được phân chia theo tỷ lệ dân số. Hai tỉnh có

diện tích tương đương nhau nhưng có tỷ lệ dân số khác nhau thì số nghị sĩ

cũng khác nhau. Kiểm phiếu bầu cử ở Hàn Quốc được thực hiện bằng máy,

sau 4 giờ bầu cử xong là có kết quả bầu cử. Quốc hội có nhiệm kỳ 4 năm.

Chủ tịch Quốc hội là người trong đảng có số ghế cao nhất trong Quốc

hội. Nhiệm kỳ của Chủ tịch Quốc hội là 2 năm. Một người có thể làm Chủ

tịch Quốc hội nhiều lần. Khi trúng cử Chủ tịch Quốc hội thì người đó phải xin

ra khỏi đảng. Quốc hội Hàn Quốc có 2 Phó Chủ tịch, là người thuộc hai đảng

phái khác nhau. Quốc hội bao gồm Ban Thường vụ, các ủy ban Quốc hội và

các cơ quan chuyên môn của Quốc hội. Thành viên của Ban Thường vụ Quốc

hội có trách nhiệm giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp. Mỗi ủy ban

của Quốc hội có chức năng giám sát các bộ theo lĩnh vực chuyên môn. Ngoài

ra, Quốc hội Hàn Quốc còn có Ủy ban đạo đức để kiểm tra tư cách, năng lực

của đại biểu Quốc hội. Việc truy tố Tổng thống do Quốc hội thực hiện.

Hệ thống tư pháp của Hàn Quốc mang tính độc lập. Chánh án Tòa án

nhân dân do Tổng thống đề cử và Quốc hội thông qua. Hệ thống Tòa án Hàn

Quốc gồm ba cấp: Toà án Tối cao, ba toà Thượng thẩm và các Toà án quận ở

88

các thành phố lớn. Toà án Tối cao xem xét các kháng cáo đối với quyết định

của các toà Thượng thẩm. Quyết định của Toà án Tối cao là cuối cùng.

3.2.2. Khái quát các đặc trưng các chính đảng của Hàn Quốc

3.2.2.1. Về các chính đảng

Hàn Quốc hiện có 32 đảng hoạt động chính thức, trong đó có đảng

cầm quyền (Đảng Dân chủ: 118 ghế trong Quốc hội), đảng đối lập (Đảng Hàn

Quốc tự do: 115 ghế trong Quốc hội) và các đảng phái khác, trong đó chỉ có 7

đảng có ghế trong Quốc hội, còn lại 25 đảng không có ghế trong Quốc hội.

Về quan hệ giữa các đảng: Hàn Quốc quy định đảng nào giành

151/300 ghế trong Quốc hội thì trở thành đảng cầm quyền. Tuy nhiên, trong

lịch sử Hàn Quốc, chưa có một đảng nào có thể giành được 151 ghế, vì thế

đảng chiếm đa số phải liên minh với một đảng khác để trở thành đảng cầm

quyền. Hàn Quốc quan niệm dân chủ là tạo mọi điều kiện cho người dân được

cạnh tranh một cách bình đẳng. Các đảng phái phải bảo đảm cho người dân

được cạnh tranh một cách công bằng. Thông qua cạnh tranh một cách minh

bạch, tính minh bạch và trình độ của các chính đảng cũng được nâng cao. Tuy

vậy, theo các chuyên gia Hàn Quốc, ở những nước có chế độ một đảng cũng

có thể cạnh tranh minh bạch để bảo đảm quyền lợi cho người dân.

Quan hệ giữa thành viên trong Ủy ban tối cao của đảng với nhóm nghị

sĩ trong Quốc hội là mối quan hệ ngang bằng. Họ vừa cạnh tranh, vừa ủng hộ

nhau. Tổng thống, đại diện đảng, Thủ tướng thường có kế hoạch gặp gỡ để

trao đổi những vấn đề lớn. Những ứng cử viên Quốc hội nằm trong những

chính đảng lớn đều có cơ hội trúng cử. Những ứng viên ứng cử vào chính

quyền địa phương nếu thuộc chính đảng có nhiều nghị sĩ ở trung ương thì

cũng có cơ hội trúng cử nhiều hơn. Chủ tịch Hội đồng địa phương do người

dân bầu ra. Họ có quyền lực và trách nhiệm, ảnh hưởng ngang bằng với nghị

sĩ Quốc hội.

89

3.2.2.2. Về phương thức lãnh đạo của một số chính đảng ở Hàn Quốc

Phương thức lãnh đạo của các chính đảng đối với Nhà nước ở Hàn

Quốc được thực hiện ở 2 nội dung cơ bản: Một là, đưa người của đảng ra

tranh cử Tổng thống để trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo đất nước; Hai là,

đưa người của đảng tranh cử vào Quốc hội để tham gia vào quyền lập pháp

của Quốc hội.

Do tổ chức nhà nước của Hàn Quốc theo quy định của Hiến pháp

là chế độ “Tổng thống chế”, nên chính đảng có người được bầu làm Tổng

thống sẽ là đảng cầm quyền (khác với chế độ nghị viện, đảng cầm quyền là

đảng có số ghế nhiều nhất tại Quốc hội). Vai trò của đảng cầm quyền là hỗ trợ

Tổng thống điều hành quốc gia và dự thảo luật, chính sách trình Quốc hội

thông qua. Chức năng quan trọng nhất của đảng cầm quyền tại Hàn Quốc, tại

cấp trung ương là hỗ trợ công việc cho Tổng thống và Chính phủ bằng cách

giúp Quốc hội thông qua các chính sách, hoặc dự luật do Tổng thống và

Chính phủ đệ trình, hoặc nghị sỹ của đảng trực tiếp trình các dự luật hỗ trợ

thuận lợi cho Tổng thống và Chính phủ, hoặc phủ quyết, tác động không

thông qua các dự luật, chính sách mà đảng đối lập đệ trình gây bất lợi cho

Tổng thống và Chính phủ; tại cấp địa phương, nhiệm vụ của các tổ chức và

đảng viên của đảng là vận động người dân ủng hộ các chính sách, biện pháp

của Tổng thống và Chính phủ.

Đảng cầm quyền lãnh đạo Nhà nước thông qua các thành viên của

đảng là lãnh đạo chủ chốt trong cơ quan Nhà nước (Tổng thống, Thủ tướng,

thành viên nội các...). Khi chính đảng trở thành đảng cầm quyền, có người

của đảng trở thành Tổng thống sẽ dễ dàng bố trí người của đảng cầm quyền

vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt trong cơ quan Nhà nước Hàn Quốc bởi vì

Tổng thống có quyền giới thiệu Thủ tướng để Quốc hội thông qua; Thủ tướng

có quyền lựa chọn nội các và các thành viên của Chính phủ. Thông qua Tổng

thống, Thủ tướng và các thành viên nội các, các quan điểm, đường lối, chính

90

sách của đảng thắng cử (đảng cầm quyền) được thể chế hóa và hiện thực hóa

thành chính sách của Nhà nước.

Đối với chính đảng không thắng cử trong bầu cử tổng thống, tham gia

vào các công việc của Nhà nước thông qua các nghị sỹ của đảng trong Quốc

hội. Các nghị sỹ Quốc hội là người bảo vệ, đưa ra các quan điểm, chính sách

của đảng mà mình là thành viên; phản biện, bỏ phiếu chống đối với chính

sách, nhân sự của các đảng đối lập khi lấy ý kiến biểu quyết trong Quốc hội...

Ở Hàn Quốc, khác với một số nước khác, Hiến pháp ngăn cấm Nhà

nước dùng ngân sách hỗ trợ cho các đảng chính trị dưới mọi hình thức; Nhà

nước không cấp kinh phí cho đảng theo số lượng đảng viên của đảng là đại

biểu Quốc hội. Ngay cả với đảng cầm quyền, chỉ những cán bộ của đảng có vị

trí trong bộ máy nhà nước mới hưởng lương từ ngân sách nhà nước, còn lãnh

đạo đảng cầm quyền nhưng không có vị trí trong bộ máy nhà nước cũng

không hưởng lương từ ngân sách. Việc lựa chọn người của đảng ra ứng cử

Tổng thống, Thủ tướng, các bộ trưởng, thứ trưởng là do tổ chức trung ương

của đảng quyết định.

Đối với nội bộ đảng, phương thức lãnh đạo của một số chính đảng ở

Hàn Quốc có những điểm rất đáng chú ý:

Một là, hầu hết các chính đảng ở Hàn Quốc đều coi trọng các cơ quan

nghiên cứu, các chuyên gia, nhà khoa học trong việc tư vấn, góp ý đường lối,

chính sách của đảng. Các chuyên gia giỏi thường xuyên được hỏi và tham vấn

ý kiến về đường lối, chính sách phát triển. Những chuyên gia giỏi thường là

các nhà nghiên cứu, nhà khoa học có uy tín, các lãnh đạo có nhiều kinh

nghiệm, giám đốc điều hành những tập đoàn, doanh nghiệp lớn... Tổng thống

Hàn Quốc gần như thường xuyên gặp gỡ các quan chức, chuyên gia, học giả

hàng đầu để cùng trao đổi về các mục tiêu và kế hoạch phát triển quốc gia.

Hai là, coi trọng tín nhiệm, uy tín đội ngũ cán bộ lãnh đạo của đảng,

đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo chủ chốt ở cả trung ương và địa phương. Tín

91

nhiệm, uy tín của đội ngũ lãnh đạo đảng được đánh giá dựa vào kết quả điều

tra, khảo sát, lấy phiếu tín nhiệm trong đại hội đảng toàn quốc, kết quả bầu cử

của các đảng viên chủ chốt (đối với Đảng Dân chủ đồng hành) hoặc đảng viên

trách nhiệm (đối với Đảng Hàn Quốc Tự do), kết quả điều tra trong đảng viên

thông thường. Các cán bộ chủ chốt phụ trách lĩnh vực nào thì người được lấy

phiếu tín nhiệm thuộc lĩnh vực đó. Trong nhiệm kì hoạt động, nếu cán bộ lãnh

đạo của đảng hoạt động không hiệu quả hoặc có sai sót dẫn tới mức không

còn được đảng viên và nhân dân ủng hộ, tỷ lệ tín nhiệm đảng thấp… thì bản

thân các cán bộ lãnh đạo đảng có trách nhiệm tự nguyện từ chức. Nếu không

từ chức thì những người không ủng hộ trong đảng sẽ xin ra khỏi đảng và nếu

không có thay đổi thì sẽ dẫn tới sự sụp đổ của đảng đó.

Ba là, các chính đảng ở Hàn Quốc đều chú trọng công tác phát triển

đảng viên, đặc biệt là việc thu hút thanh niên, trí thức trẻ vào đảng. Một số

chính đảng nhận thức vai trò, vị trí quan trọng của thanh niên, trí thức trẻ

trong xã hội Hàn Quốc hiện đại và đều có biện pháp, giải pháp thu hút đối

tượng này gia nhập đảng. Các chính đảng đều tăng cường công tác tuyên

truyền, vận động kêu gọi thanh niên, trí thức trẻ gia nhập đảng. Một số đảng

thành lập ủy ban thanh niên trong đảng để chịu trách nhiệm phát triển đảng

viên là thanh niên.

3.2.3. Một số nhận xét

Hàn Quốc đã có bước phát triển “thần kỳ”, từ một nước nghèo, lạc hậu

bị chiến tranh tàn phá sau 30 năm đã vươn lên trở thành nước phát triển; hiện

nay, Hàn Quốc đứng thứ 11 thế giới về GDP (năm 2017 đạt 1.529 tỷ USD),

thu nhập bình quân đầu người đạt 29.730 USD, trình độ khoa học và công

nghệ thuộc nhóm đứng đầu thế giới. Hàn Quốc luôn xác định khoa học và

công nghệ là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển nhanh, nâng cao hiệu

quả, sức cạnh tranh của kinh tế đất nước, do đó, có nhiều chính sách hỗ trợ,

khuyến khích để phát triển khoa học, công nghệ. Ngày nay, Hàn Quốc đã

92

vượt qua giai đoạn nhập khẩu công nghệ, ứng dụng công nghệ được sáng tạo

từ bên ngoài, trở thành một trong những nước hàng đầu thế giới về sáng tạo

công nghệ, xuất khẩu công nghệ trên nền tảng phát triển mạnh mẽ, đạt tới

trình độ cao, tiên tiến của nghiên cứu khoa học (cả nghiên cứu cơ bản và

nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ); đi đầu trong việc sáng tạo và ứng

dụng nhiều công nghệ mới của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 vào các

ngành kinh tế, các sản phẩm chủ lực của mình.

Hàn Quốc đặc biệt quan tâm đến mở rộng dân chủ và các quyền chính

trị khác của người dân, lắng nghe ý kiến của người dân, các tầng lớp xã hội,

các chuyên gia, các nhà khoa học để điều chỉnh chính sách; xây dựng bộ máy

nhà nước liêm chính, trong sạch, giữ gìn hình ảnh, uy tín của quan chức chính

phủ, của đảng cầm quyền; xác định phòng, chống tham nhũng là chương trình

trọng điểm quốc gia. Biện pháp phòng, chống tham nhũng của Chính phủ Hàn

Quốc đa dạng, phong phú bao gồm các nội dung: Hoàn thiện pháp luật, chính

sách về phòng, chống tham nhũng; thường xuyên đánh giá mức độ liêm chính

của các cơ quan nhà nước qua điều tra, khảo sát; hoàn thiện bộ quy tắc ứng xử

của công chức, quy tắc, hướng dẫn xử lý những hành vi xung đột lợi ích (bộ

quy tắc hành động của tổ chức); đẩy mạnh khai báo, trình báo về tham nhũng;

hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các cơ quan phòng, chống tham nhũng; tăng

cường bảo vệ cá nhân khai báo về tham nhũng; xây dựng văn hóa chống tham

nhũng, đẩy mạnh giáo dục liêm chính cho công chức; tăng cường hình phạt

đối với hành vi tham nhũng; khuyến khích người dân tham gia vào phòng,

chống tham nhũng,...

Trong lĩnh vực chính trị, Hàn Quốc thực hiện việc mở rộng dân chủ và

quyền chính trị cho người dân, đẩy mạnh việc chống tham nhũng. Hàn Quốc

đẩy mạnh việc minh bạch hóa các công việc của Nhà nước, cởi mở và giao

tiếp tốt hơn với người dân, tăng cường và thực hiện tốt việc lấy ý kiến tham

93

vấn của người dân đối với chính sách của Nhà nước, nới lỏng các quy tắc cho

các cuộc trưng cầu dân ý, giảm tuổi cử tri từ 19 tuổi xuống 18 tuổi, bảo đảm

cho công chức và giáo viên được quyền hoạt động chính trị.

Trên cơ sở định hướng tăng cường dân chủ trong lĩnh vực chính trị,

Chính phủ Hàn Quốc mở rộng và tăng sự độc lập của Ủy ban Nhân quyền

Quốc gia trong các vấn đề nhân sự và ngân sách. Để phòng, chống tham

nhũng, Chính phủ Hàn Quốc thành lập các nhóm đặc nhiệm chống tiêu cực ở

từng bộ, ngành, thành lập Ủy ban thanh liêm quốc gia.

3.3. TRƯỜNG HỢP SINGAPORE

3.3.1. Khái quát về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị Singapore

Hệ thống chính trị của Singapore theo thể chế: Cộng hòa nghị

viện, Quốc hội 1 viện, theo hệ thống Westminter của Anh quốc, đại diện

cho các khu vực bầu cử. Hiến pháp Singapore thiết lập ra một nền dân chủ

đại diện.

Tổng thống là người đứng đầu Nhà nước do Quốc hội đề cử, Quốc hội

nắm quyền lập pháp, gồm 51 nghị sĩ, do dân bầu. Nội các là cơ quan hành

pháp. Thủ tướng (đứng đầu nội các) và các thành viên của nội các đều do

Tổng thống chỉ định. Thủ tướng là người đứng đầu của đảng chiếm đa số

trong Quốc hội.

Quyền hành pháp cùa Singapore thuộc về Nội các (Chính phủ), do Thủ

tướng đứng đầu. Tổng thống được bầu trực tiếp thông qua phổ thông đầu

phiếu. Tổng thống có quyền bổ nhiệm các thẩm phán, phủ quyết một số các

quyết định hành pháp, chẳng hạn quyết định sử dụng dự trữ quốc gia, song vai

trò của Tổng thống phần lớn mang tính lễ nghi.

Quyền lập pháp: Quốc hội Singapore có vai trò là nhánh lập pháp của

Chính phủ. Thành viên Quốc hội gồm các thành viên đắc cử, thành viên phi

tuyển khu và thành viên được chỉ định. Các thành viên đắc cử được bầu vào

Quốc hội trên cơ sở “đa số ghế” và đại diện cho các khu vực bầu cử có một

94

hoặc nhóm đại diện. Từ năm 1959 đến nay, Đảng Hành động Nhân dân (PAP)

của cố Thủ tướng Lý Quang Diệu đã giành quyền kiểm soát Quốc hội với đa

số phiếu trong tất cả các cuộc bầu cử.

Nghị sĩ bổ nhiệm được lựa chọn để đảm bảo cho một sự đại diện rộng rãi

những quan điểm trong Nghị viện. Quy định này có trong Hiến pháp 1990.

Theo đó, Tổng thống có thể bổ nhiệm đến 9 nghị sĩ theo sự giới thiệu của Uỷ

ban chọn lựa đặc biệt của Nghị viện. Sự bổ nhiệm thường được mở rộng cho

công chúng. Mỗi nghị sĩ bổ nhiệm có nhiệm kỳ 2 năm.

Hiến pháp quy định có thể bổ nhiệm đến 6 nghị sĩ từ những đảng chính

trị đối lập (không đại diện cho các đơn vị bầu cử). Điều này đảm bảo cho

Nghị viện được đại diện bởi những đảng chính trị không thành lập Chính phủ.

Nghị sĩ này có thể được bổ nhiệm từ trong số những ứng cử viên đối lập

không thắng cử, người mà có phần trăm phiếu cao nhất trong đơn vị tuyển cử.

Số lượng nghị sĩ này sẽ tuỳ thuộc vào số ứng cử viên đối lập được bầu vào

Nghị viện.

Ngoài ra, hiến pháp còn quy định chế độ bầu cử nghị sĩ liên danh theo

từng khu vực, mỗi khu vực bầu cử có ít nhất là 3 và nhiều nhất là 4 ứng cử

viên, trong đó có ít nhất là 1 ứng cử viên thuộc cộng đồng Mã Lai hay người

Ấn Độ. Quy định này nhằm đảm bảo cho sự đại diện trong Nghị viện về thành

viên của những người Mã Lai, người Ấn và những cộng đồng thiểu số khác.

Những thành viên nghị viện không qua bầu cử không được bỏ phiếu

ở Nghị viện trong những trường hợp sau: dự luật sửa đổi hiến pháp; dự luật

về ngân sách và tài chính; dự luật bổ sung ngân sách; bỏ phiếu tín nhiệm

Chính phủ.

Thẩm quyền lập pháp được thực hiện bằng một dự luật chuyển tới Nghị

viện, được Nghị viện thông qua và được phê chuẩn bởi Tổng thống. Mọi

thành viên của Nghị viện đều có quyền trình dự thảo luật hay sáng kiến lập

pháp, kiến nghị lập pháp về bất cứ vấn đề gì.

95

Trong hệ thống lập pháp có Hội đồng Tổng thống về bảo vệ quyền lợi

cho dân tộc thiểu số, gồm Chủ tịch và 14 thành viên do Tổng thống bổ nhiệm,

có sự tham khảo của Nội các. Nhiệm vụ chính của Hội đồng là xem xét và xử

lý bất kỳ đạo luật nào mà Hội đồng cho là đối xử không công bằng hoặc chia

rẽ dân tộc và tôn giáo trong cộng đồng.

Hệ thống tư pháp của Singapore dựa trên thông luật của Anh quốc

nhưng có sự khác biệt địa phương đáng kể. Bồi thẩm đoàn xử án đã bị bác bỏ

từ năm 1970. Hiện nay các phán quyết tư pháp hoàn toàn nằm trong tay các

thẩm phán được chỉ định. Singapore còn áp dụng những hình phạt thân thể

như đánh đòn, phạt roi nơi công cộng. Tổ chức Ân xá quốc tế cho rằng một số

điều khoản pháp lý của Singapore mâu thuẫn cới quyền được cho là vô tội

cho đến khi bị chứng minh là có tội. Singapore là quốc gia có tỷ lệ hành quyết

cao nhất thế giới so với dân số của quốc gia này.

Học thuyết đối ngoại cân bằng nước lớn và ý thức khủng hoảng nước

nhỏ của Singapore: Đây là nét đặc trưng của nền đối ngoại Singapore. Cố

Thủ tướng Lý Quang Diệu cho rằng vì nội lực yếu, Singapore buộc phải chấp

nhận chính sách đối ngoại phụ thuộc vào một nước lớn nào đó và cân bằng

nước lớn được coi là điểm trọng yếu trong chính sách đối ngoại của

Singapore. Vì thế, từ thời cố Thủ tướng Lý Quang Diệu, Singapore đã tự đặt

mình vào thế trung lập, cân bằng nước lớn có tính định hướng, lấy Mỹ làm

trung tâm, để thực hiện mục tiêu cuối cùng là bảo vệ an ninh quốc gia, phát

triển kinh tế, khéo léo lợi dụng vai trò của các nước lớn, tranh thủ sự can dự

tích cực của nhiều nước lớn vào Singapore và Đông Nam Á, để được viện trợ

kinh tế và có sự hỗ trợ đa phương về chính trị, nhưng không kết đồng minh,

tránh gánh vác nghĩa vụ quân sự, tránh bị cuốn hút vào các cuộc xung đột

giữa các nước lớn. Khi còn sống, ông Lý Quang Diệu cho rằng phát triển

quan hệ ngoại giao với Mỹ và Nhật Bản là mấu chốt trong thuật ngoại giao

cân bằng nước lớn của Singapore. Nhưng đến nay, thực lực đang lên của

96

Trung Quốc có thể sẽ động chạm đến bố cục cân bằng mà lâu nay Singapore

đã tạo dựng.

3.3.2. Khái quát các đặc trưng các chính đảng của Singapore

Hệ thống chính trị của Singapore tồn tại cơ chế đa nguyên, đa đảng

nhưng chỉ có một đảng nổi trội. Hiện ở quốc gia này có khoảng 30 đảng

chính trị đang hoạt động. Ngoài đảng cầm quyền còn rất nhiều đảng đối lập

tuyên bố theo con đường chủ nghĩa xã hội tự do, các đảng Malay, có đảng

đặt mục tiêu cạnh tranh trong các cuộc bầu cử và có những đảng không bao

giờ tranh cử.

Hiện nay ở Singapore có 2 chính đảng lớn nhất là Đảng Hành động Nhân

dân (PAP) của cố Thủ tướng Lý Quang Diệu đang cầm quyền và Đảng Công

nhân (WP) là đảng đối lập. Đảng Hành động Nhân dân tự nhận là một đảng

dân chủ tự do. Theo 2 nhà nghiên cứu Diane Mauzy và R.S Milne thì Đảng

nhân dân hành động có 4 tư tưởng chính là: Chủ nghĩa thực dụng + Chính trị

tinh hoa + Chủ nghĩa đa văn hóa + Chủ nghĩa cộng đồng của châu Á. Đảng

này bài bác tư tưởng “dân chủ tự do” của phương Tây, cũng bài bác cả ý thức

hệ cộng sản. Đảng Công nhân thì có khuynh hướng chính trị trung tả.

Từ năm 1959, Đảng Hành động Nhân dân hoàn toàn chi phối chế độ dân

chủ nghị viện ở Singapore. Trong thời gian cầm quyền, Chính phủ của đảng

này đã ban hành một số đạo luật nghiêm ngặt để chế áp quyền tự do ngôn

luận và một số quyền tự do dân sự khác và trên thực tế, Đảng này cai trị

Singapore như một quốc gia độc đảng. Tình hình có thay đổi từ cuộc bầu cử

năm 2011, Đảng Công nhân giành được 6 ghế thường và 1 ghế tập tuyển khu,

còn Đảng Hành động Nhân dân giành được 60,14 % tổng số phiếu phổ thông,

một tỷ lệ thấp nhất kể từ năm 1959 đến nay.

Phân tích các thể chế chính trị ngày càng trở nên quan trọng trong các

giai đoạn lịch sử nhất định. Các tổ chức chính trị ở Singapore và các nơi khác

là sản phẩm năng động của quá trình xung đột xã hội, chính trị và liên

97

minh. Nỗ lực liên kết các thể chế chính trị với quan hệ nhà nước - xã hội rộng

lớn hơn liên quan đến các liên minh năng động mà chúng ta quan tâm, đây là

cách quan trọng hướng tới một khuôn khổ để nắm bắt điều này. Tuy nhiên,

không kém phần quan trọng khi phân tích các khía cạnh mà trong đó các lợi

ích khác nhau và liên minh được thể hiện trong các địa phương, hoặc bị loại

trừ có chọn lọc khỏi nó. Trong cách tiếp cận này, các quá trình chuyển đổi là

không thể thiếu trong phân tích các chế độ chính trị và các thể chế liên

quan. Điều này vượt ra ngoài các cơ sở xã hội của các đảng phái chính trị và

cách thực hiện quyền lực nhà nước ảnh hưởng đến việc bầu cử của họ. Nó

được xem xét rộng hơn về cách nhà nước được thành lập để bảo vệ và thúc

đẩy các lợi ích nhất định và định vị vai trò của các bên và tổ chức chính trị

trong xã hội.

Tại sao Đảng Hành động Nhân dân đã có thể đáp ứng với những áp lực,

thách thức và phát triển thành công, câu trả lời nằm ở phần quan trọng trong

chính sự biến đổi của chính Nhà nước. Các tầng lớp chính trị của Singapore

được củng cố nắm giữ quyền lực của họ bằng cách tháo dỡ các cấu trúc đảng

cũ và phương pháp bầu cử huy động ủng hộ việc sát nhập đảng và nhà

nước. Sự biến đổi lẫn nhau này, Nhà nước và Đảng Hành động Nhân dân đã

tạo ra các công cụ và cơ sở quyền lực mới. Hơn thế nữa, vai trò kinh tế và xã

hội phổ biến do Đảng Hành động Nhân dân giả định đã làm suy yếu cơ sở cho

các liên minh chính trị độc lập, đối lập nổi lên, bất chấp những biến đổi kinh

tế xã hội đầy kịch tính đã xảy ra.

Việc thể chế hóa ý thức hệ chính trị của nhà nước chính trị và vai trò

của giới tinh hoa chính trị, với ý tưởng quyền đại diện và quyền công dân, là

một yếu tố nữa mang lại hiệu quả và sự thành công. Điều quan trọng, mặc dù

chế độ mới ở Singapore là một động lực trong quá trình phát triển. Cải tiến

đối với chế độ chính trị cản trở hệ thống đối thủ chính trị; và, nếu có thể, đồng

thời lựa chọn các lực lượng xã hội mới cho các tổ chức và giá trị được kiểm

98

soát bởi Đảng Hành động Nhân dân. Việc sử dụng pháp luật và các loại luật

để hạn chế hành động chính trị tập thể có thể gây hại cho an ninh, an toàn xã

hội, để cung cấp và mở ra con đường cho sự thể hiện chính trị và sự đồng

thuận chính trị.

Tuy nhiên, thông qua việc “mở cửa” đó không phải là không gian chính

trị của dân sự xã hội nhưng nó phản ánh trạng thái Đảng Hành động Nhân dân

đang mở rộng. Ngay cả khi sự tham gia chính trị ngày càng tăng nhưng đa

nguyên chính trị thì không. Các hình thức chính trị mới tham gia loại trừ các

nỗ lực tập thể, độc lập để thách thức Đảng Hành động Nhân dân. Tự do xã hội

dân sự đòi hỏi một nhà nước tự do để thể chế hỗ trợ một lĩnh vực độc lập

chính trị về việc thực hiện quyền lực nhà nước [122, tr.39]. Trong trường hợp

không có hỗ trợ cho bên cạnh tranh chính trị, cuộc liên kết có thể trở thành

một thay thế cho chính trị [104, tr.401]. Ở Singapore, các hình thức tham gia

và tham gia chính trị thực sự được Nhà nước bảo trợ như một sự thay thế cho

một xã hội dân sự tự do và chính trị.

Trong việc chuyển đổi nhà nước và các liên minh liên quan và hàm ý

cho các thể chế chính trị. Những thời gian thay đổi chính trị lẫn nhau, nhưng

chúng đại diện cho ý nghĩa thay đổi định tính và xu hướng mô tả tính năng

động của chế độ chính trị. Việc đầu tiên liên quan đến sự xuất hiện của một

đảng nhà nước, thay thế cho đảng trước đây trong việc huy động hỗ trợ chính

trị và hoạt động như một kết nối giữa các nhóm xã hội và nhà nước. Sự

chuyển đổi này đòi hỏi một tầng lớp tinh hoa thuộc Đảng Hành động Nhân

dân không chỉ triển khai các phương tiện chính trị thông qua bộ máy nhà nước

mà còn nuôi dưỡng “sự hấp dẫn bầu cử rộng rãi thông qua xã hội và chính

sách kinh tế khai thác quyền hạn nhà nước”.

Trong quá trình chuyển đổi chính trị đã buộc các giới tinh hoa, cầm

quyền phải thích nghi với sự cạnh tranh chính trị của đảng và những phán

quyết Đảng Hành động Nhân dân ở Singapore đã điều chỉnh hệ thống chính

99

trị để ngày càng tự cách ly khỏi sự cạnh tranh đó. Trong Làn sóng thứ ba,

Samuel Huntington nhìn lãnh đạo như là sự mất tích để giải thích sự vắng mặt

của nền dân chủ ở Singapore. Vì vậy, theo Huntington [125, tr.108] thuận lợi

là điều kiện tiên quyết, một nhà lãnh đạo chính trị có tầm nhìn cao như Lý

Quang Diệu (Lee Kuan Yew) đã tạo ra một nền dân chủ ở Singapore. Chưa

phát triển như quan sát này, nó vẫn cộng hưởng với phân tích bền vững bởi

các lý thuyết về vai trò của giới tinh hoa và thương lượng chính trị trong việc

xác định các chế độ. Tuy nhiên, với sự sụp đổ của rất nhiều chế độ độc tài,

tầm quan trọng của các tổ chức chính trị và ảnh hưởng của họ đối với các

“diễn viên chính trị” được đáng chú ý, với sự tập trung ngày càng cao về mức

độ dân chủ ở các nền dân chủ mới nổi.

3.3.3. Tư tưởng, đường lối, chính sách của đảng cầm quyền

3.3.3.1. Hệ tư tưởng của Đảng Hành động Nhân dân

Đảng Hành động Nhân dân, trong Cương lĩnh của mình, tự cho mình là

phong trào toàn quốc để phục vụ đất nước và thúc đẩy sự thịnh vượng của

người dân.

Dựa theo khuôn mẫu Gramsci cổ điển và kinh nghiệm của các nhóm

hoạt động chính trị trong việc chuyển đổi đường hướng và cách thức hoạt

động chính trị, nhóm chuyên gia được đào tạo ở Anh đã chủ động rời bỏ tầng

lớp và giai cấp thống trị để tham gia vào khuynh hướng xã hội chung của thời

đại đang được nhiều người ủng hộ. Liên minh này hoạt động dưới ngọn cờ

chung là chống thực dân. Về cơ bản, Đảng Hành động Nhân dân đã nắm bắt

được nguyện vọng sâu xa của các tầng lớp nhân dân lúc bấy giờ.

Việc tập hợp lại với một khẩu hiệu như vậy và việc tạo nên một mối

quan tâm lớn và sự đồng thuận của xã hội, về mặt cảm tính, đã biến họ thành

một tổ chức chính trị dành được vai trò lãnh đạo về ý thức hệ. Tuy nhiên, để

thu hút được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng, nhóm chuyên gia phải hình

thành một liên minh với các nghiệp đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội

100

cánh tả khác. Liên minh này cũng tìm kiếm sự ủng hộ và quan tâm từ giới

công nhân cũng như tầng lớp dân chúng chịu ảnh hưởng của nền giáo dục

Trung Hoa. Ngay từ ngày đầu thành lập, Singapore phải đối diện với nhiều

mối nguy sinh tử. Cho nên ngay từ những năm đầu cầm quyền của Đảng

Hành động Nhân dân, tư tưởng về sự tồn vong là trung tâm trong chính trị

Singapore. Theo Diane Mauzy và R.s. Milne, các nhà nghiên cứu Singapore

đã đưa ra bốn điểm chính trong “hệ tư tưởng” của Đảng Hành động Nhân

dân gồm:

- Chủ nghĩa thực dụng;

- Chế độ nhân tài;

- Chủ nghĩa đa sắc tộc;

- Các giá trị châu Á hay chủ nghĩa cộng đồng;

Đối diện với một nền kinh tế kém phát triển và một xã hội phức tạp với

nhiều sắc tộc và nhiều ngôn ngữ, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của

Singapore là mối quan tâm hàng đầu của Đảng Hành động Nhân dân. Từ đó,

“ý thức hệ sống còn” đã được khai sinh. Với năng lực và lòng nhiệt tình đặc

trưng, các nhà lãnh đạo Đảng Hành động Nhân dân đã đặt ra mục tiêu đưa đất

nước ra khỏi tỉnh trạng bị bao vây, cô lập.

Bài phát biểu của Goh Chok Tong, Tổng Thư ký Đảng Hành động

Nhân dân (Thủ tướng Chính phủ) tại Đại hội tháng 1-1995 nói rõ quan điểm

của Đảng về lãnh đạo Chính phủ: xây dựng một Chính phủ tốt là chìa khoá

của sự tiếp tục thành công của Singapore, cụ thể là Chính phủ cần có những

cán bộ tốt để giữ cho Singapore thịnh vượng, cần những người làm việc thực

sự chứ không phải những người mị dân. Nhưng hiện nay, những người làm

việc thực sự thì không muốn vào trong Chính phủ vì thu nhập thấp. Nếu ở

Singapore, những kẻ tham lam, cơ hội mà vào trong chính phủ thì họ chỉ làm

được cái việc là tàn phá đất nước. Do đó, người vào trong Chính phủ phải là

người giỏi nhất, bảo đảm cho họ có lương cao nhất so với những ngành kinh

101

tế có thu nhập cao nhất ở Singapore, phải đưa được những người giỏi nhất từ

các ngành kinh tế vào trong Chính phủ và trả lương cho họ xứng đáng như thu

nhập của họ khi họ ở ngành kinh tế kia. Cán bộ phải đủ 3 tiêu chuẩn mới được

ở trong chính phủ; có năng lực cá nhân, biết phối hợp tốt với mọi người và

muốn làm việc có tinh thần trách nhiệm. Nếu một người có tài nhưng không

tụ hợp được với mọi người thì không thể ở trong chính phủ, nếu một người có

tài có thể phối hợp chặt chẽ với mọi người nhưng không thích làm việc thì họ

cũng sẽ không làm.

3.3.3.2. Đường lối, chính sách của đảng cầm quyền

Đảng Hành động Nhân dân thành lập ngày 21/11/1954, thành phần ban

đầu là những trí thức Singapore từng học ở Anh Quốc về. Một trong số ba

người sáng lập Đảng là luật sư Lý Quang Diệu (sinh 1923) được bầu làm Tổng

Bí thư đầu tiên. Mới đầu Đảng có xu hướng cực tả, liên minh với các nghiệp

đoàn theo chủ nghĩa cộng sản nhưng về sau Đảng Nhân dân Hành động dần

dần coi nhẹ vấn đề hệ tư tưởng, chuyển sang theo quan điểm thực dụng, chủ

yếu xét hiệu quả hành động là chính và chủ trương Đảng “đại diện lợi ích của

nhiều bên trong nước”. Điều lệ Đảng sửa đổi năm 1982 không nói Đảng theo

chủ nghĩa gì; người vào Đảng không cần nói mình theo hệ tư tưởng nào.

Trong thời gian học tại Anh, Lý Quang Diệu chịu ảnh hưởng sâu sắc

bởi tư tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ của nhà lý luận mác-xít người Anh

Laski (1893-1950), một trong ba nhà tư tưởng lớn của Anh Quốc thế kỷ XX.

Tuy vậy Lý Quang Diệu trọng thực dụng, không câu nệ vấn đề ý thức hệ mà

chỉ quan tâm hành động, hiệu quả, ít bàn lý luận. Ông chủ trương kết hợp các

giá trị phương Đông với các giá trị phương Tây, kết hợp chủ nghĩa xã hội dân

chủ với chủ nghĩa tư bản. Ông từng nói: Không có một bức trường thành giữa

chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội. Lưu Minh Phúc, tác giả sách Giấc mơ

Trung Quốc nói thành công của Singapore là kết quả của sự bổ khuyết và

hoàn thiện lẫn nhau giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản. Do chịu ảnh

102

hưởng của ông, sau này Đặng Tiểu Bình đề ra thuyết “Mèo trắng mèo đen”

dẫn dắt thành công sự nghiệp cải cách mở cửa ở Trung Quốc.

Có thể tóm tắt đường lối chính trị của Lý Quang Diệu là kết hợp các ưu

điểm của chủ nghĩa tư bản với các ưu điểm của chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị

trường tự do với kinh tế kế hoạch tập trung; thực hiện dân chủ có hạn chế

(limited democracy), từng bước mở rộng dân chủ, kết hợp nhân trị (đức trị)

của phương Đông với pháp trị của phương Tây. Ông áp dụng đường lối đối

ngoại khôn ngoan tận dụng được sự ủng hộ của các cường quốc.

Với quan điểm nhân tài trị quốc, ông cho rằng khi dân trí còn rất thấp

thì trong một số trường hợp, các phần tử tinh hoa cầm quyền có thể tự quyết

định các chính sách hệ trọng cho dù dân chúng vì chưa hiểu mà phản đối (thí

dụ chính sách nhập cư lao động nước ngoài để bổ sung tình trạng thiếu nhân

công hiện nay ở Singapore). Với đầu óc thực dụng, tuy chủ trương đánh đuổi

thực dân Anh nhưng ông giữ lại hệ thống pháp trị của người Anh cũng như

giữ lại tiếng Anh làm ngôn ngữ hành chính. Do hiểu được tầm quan trọng

của pháp trị, ông cực kỳ coi trọng việc giữ trật tự, an ninh công cộng trong

xã hội, tới mức chịu mang tiếng là độc tài. Thí dụ chế độ phạt tiền nặng tệ

vứt rác, nhổ bậy, đánh roi người vẽ/viết bậy nơi công cộng (từng có một

thiếu niên Mỹ bị phạt roi). Quy định lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ hành chính

nhà nước cũng bị một số người phê phán là độc đoán, là “giết chết” văn hóa

dân tộc.

Singapore là quốc gia có nhiều sắc tộc và tôn giáo, quan niệm giá trị đa

dạng và phức tạp, cho nên đoàn kết toàn dân, ngưng tụ lòng người là nhiệm

vụ quan trọng nhất của đảng lãnh đạo. Đảng Hành động Nhân dân đặt lợi ích

của dân tộc lên trên hết, bình thường không ra mặt lãnh đạo, không có biểu

hiện tranh giành vai trò này mà đề xuất quan niệm giá trị “Quốc gia tối

thượng; xã hội trước hết; gia đình là nền tảng; xã hội là gốc rễ; quan tâm xã

hội; tôn trọng cá nhân; bàn bạc đồng thuận; tránh va chạm; khoan dung sắc

103

tộc; tôn giáo hòa hợp nhau”. Đảng tìm ra con đường trung gian giữa giữ gìn

tính nhất trí xã hội (tính tập thể) với giữ gìn mức độ tự do nhất định của cá

tính (tính cá nhân); đường lối này có tính bao dung và tính linh hoạt rất lớn,

do đó được đông đảo dân ủng hộ và có hiệu quả rõ rệt.

Đảng Hành động Nhân dân không đề cao một chủ nghĩa nào, tuy thời

gian đầu từng giương ngọn cờ chủ nghĩa xã hội dân chủ nhưng về sau đã

không cố gắng kiên trì bất cứ giáo điều nào về ý thức hệ. Đảng vận dụng linh

hoạt, kết hợp hữu cơ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội với biện pháp của chủ

nghĩa tư bản; một mặt đi con đường kinh tế thị trường tự do cạnh tranh và cởi

mở, phát huy năng lực các cá nhân, một mặt tăng cường năng lực điều hành vĩ

mô của Nhà nước đối với đời sống kinh tế của xã hội.

Nền tảng dân chủ của Đảng Hành động Nhân dân được hình thành từ

thời kỳ trước ngày Singapore độc lập. Đảng chủ trương xây dựng chế độ

chính trị Quốc hội một viện (không có thượng viện) và tam quyền phân lập,

thực hành đa đảng cạnh tranh và dân chủ nghị viện; đồng thời kết hợp nền dân

chủ phương Tây với truyền thống văn hóa của cộng đồng người Hoa, Đảng

đẩy mạnh thực thi chiến lược người tài trị quốc; phát hiện và đề bạt nhân tài

đưa ra ứng cử Quốc hội sau đó tổ chức một chính phủ làm việc hiệu suất cao

đồng thời tập trung quyền quyết định đường lối vào lãnh tụ.

104

Tiểu kết chương 3

Từ việc khảo cứu các mô hình hệ thống chính trị một đảng nổi trội điển

hình như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, rõ ràng rằng, không có mô hình hệ

thống chính trị nào mang tính lý tưởng tuyệt đối. Bên cạnh những ưu điểm do

một đảng chính trị cầm quyền lâu dài mang lại ổn định cao cho toàn bộ đời

sống xã hội thì những mầm mống, nguy cơ tiềm ẩn cũng hiện tồn trong “cơ

thể chính trị” đó, có thể bộc phát làm ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính

trị - xã hội. Cụ thể là:

Thứ nhất, về ưu điểm: do là đảng duy nhất lãnh đạo chính trị, đường lối

chủ trương của đảng cầm quyền, lãnh đạo đất nước được nhà nước thể chế

hóa, các tổ chức chính trị - xã hội triển khai thực hiện tạo nên sự thống nhất

trong việc đề ra và thực hiện các quyết sách chính trị, phát huy mọi sức mạnh,

mọi nguồn lực phục vụ xã hội phù hợp với mục tiêu chính trị của đảng cầm

quyền và do không có tranh giành, đấu đá giữa các đảng chính trị nên dễ ổn

định chính trị - xã hội.

Thứ hai, về hạn chế: các quốc gia theo mô hình hệ thống chính trị một

đảng nổi trội, đảng chính trị sau khi giành được chính quyền dễ có xu hướng

quan liêu, xa rời nhân dân.

Đảng chính trị cầm quyền trong thời gian dài tất dễ nảy sinh chủ nghĩa

bè phái. Điều này làm cản trở việc thực hiện các chính sách của đảng cầm

quyền và cản trở sự vận hành của bộ máy của hệ thống chính trị. Do vậy, cần

phải có biện pháp ngăn chặn sự nảy sinh và tác động của chủ nghĩa bè phái

trong đảng cầm quyền

Chế độ một đảng cầm quyền mà không thực hiện dân chủ đầy đủ, vi

phạm dân chủ thì cũng tiềm ẩn nguy cơ, trở ngại. Đó là chủ quan duy ý chí và

quan liêu trong xác định chủ trương, đường lối.. Đảng dễ áp đặt ý chí của

mình vào nhà nước và xã hội, áp đặt không hợp lý người của đảng, không đủ

105

các tiêu chuẩn vào các cơ quan nhà nước và đoàn thể, tự đặt đảng lên trên nhà

nước và pháp luật.

Đảng bao biện, làm thay công việc nhà nước mà không chịu trách nhiệm

pháp lý về các quyết định của mình. Người dân khó kiểm soát, giám sát được

các cơ quan quyền lực và cán bộ trong hệ thống quyền lực. Đảng và nhà nước

không bị thúc bách, tìm tòi, thực hiện các hình thức dân chủ linh hoạt, cởi mở

trong khi vẫn đảm bảo nguyên tắc cơ bản của chế độ.

Thứ ba, là quyền lực chính trị bị phân chia. Điều này có nghĩa là các

đảng chính trị phải chia sẻ quyền lực điều hành đất nước với một số đảng

chính trị nhỏ hơn (khi không đạt đủ số phiếu để trở thành một đảng duy nhất

cầm quyền). Tính ổn định trong các liên minh chia sẻ quyền lực trở nên

mong manh bởi yếu tố áp đảo trở nên yếu hơn nếu không nói là không còn.

Đồng thời, các đảng trong liên minh đòi hỏi chia sẻ lợi ích lớn hơn hoặc đe

doạ từ bỏ liên minh vì những lý do nào đó. Và có thể nói rằng, đây là một

đặc điểm rất mới của hệ thống chính trị, đặc điểm này đang tiếp tục tác động

đến quá trình hoạch định chính sách cả ở khía cạnh đối nội và đối ngoại của

các quốc gia.

Và cuối cùng, vấn đề lãng phí và tham nhũng trong hệ thống chính trị

một đảng nổi trội của một số quan chức chính phủ. Đây không phải là vấn đề

mới song nó giống như giọt nước làm tràn ly bởi tham nhũng, lãng phí trong

bối cảnh của những khó khăn về kinh tế và sự bất ổn chính trị làm cho công

luận bất bình. Dân chúng rất giận giữ trước hình ảnh các quan chức chính

phủ, chính phủ cứ chi tiền trong khi doanh nhân và người dân lại phải è cổ ra

chịu đựng. Bên cạnh đó, một số chính trị gia (quan chức) đã tìm cách trục lợi

bằng tham nhũng. Hiện tượng này diễn ra thường xuyên trong các lĩnh vực

xây dựng, kinh doanh bất động sản, ngân hàng... và những quan chức tham

nhũng. Điều này cũng được coi là một nhân tố làm cho mất điểm trong các

cuộc bầu cử vào các cơ quan lập pháp và hành pháp.

106

Chương 4

ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG NỔI TRỘI

VÀ MỘT SỐ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO ĐỔI MỚI

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM

4.1. NHỮNG NÉT NỔI BẬT CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG

NỔI TRỘI QUA CÁC TRƯỜNG HỢP KHẢO CỨU

4.1.1. Tính chính đáng của đảng cầm quyền

4.1.1.1. Tính hợp lý, hợp pháp

Bất cứ đảng chính trị nào muốn trở thành đảng cầm quyền, trong quá

trình giành quyền lực đều phải chịu sự ràng buộc nghiêm ngặt của hiến pháp

và pháp luật. Một đảng chính trị nào đó chiến thắng trong các cuộc bầu cử

một cách hợp pháp, khi đó đảng chính trị đó trở thành đảng cầm quyền một

cách hợp pháp, được xã hội công nhận. Tức là, đảng cầm quyền đã có được

cơ sở của tính chính đáng chính trị mang tính căn bản. Trong các cuộc bầu cử

dân chủ, hợp pháp, đảng nào giành được số phiếu càng cao, thì khi đó tính

chính đáng của đảng đó càng cao (tất nhiên là chỉ trong thời gian đầu cầm

quyền). Ngày nay, khi nói đến tính chính đáng, hầu hết các nhà nghiên cứu

đều đề cập đến việc thắng cử qua các cuộc bầu cử dân chủ bằng kết quả đa

số, và lấy đó làm thước đo cho tính chính đáng của chủ thể cầm quyền.

“Bằng bầu cử, nhân dân lựa chọn, thành lập ra cơ quan đại diện và ủy thác

quyền lực cho họ. Họ thay mặt nhân dân, thực hiện quyền lực trong bộ máy

nhà nước, và như vậy mới là quyền lực hợp pháp” [56, tr.13-14].

Bên cạnh đó, các đảng cầm quyền để gia tăng tính chính đáng còn phải

rất coi trọng giữ gìn hình ảnh, uy tín của đảng, lòng tin của dân, do đó đòi

hỏi các đảng viên, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo đảng phải thường xuyên giữ

gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, uy tín và đây là yếu tố quyết định để thắng

cử trở thành đảng cầm quyền. Trong trường hợp lãnh đạo của đảng vi phạm

khuyết điểm, mất uy tín thì phải từ chức để giữ gìn hình ảnh, uy tín của đảng.

107

Trong một số trường hợp khi lãnh đạo đảng mất uy tín nghiêm trọng (như

trường hợp cựu Tổng thống Park Geun-hye), thậm chí đảng phải đổi tên để

đảm bảo uy tín, hình ảnh.

Đồng thời, đảng cầm quyền phải chú trọng các ý kiến tư vấn, góp ý của

các cơ quan nghiên cứu, đội ngũ chuyên gia, đội ngũ các nhà khoa học vào

các đường lối, chính sách của đảng, coi đây là kênh thông tin quan trọng để

hoàn thiện đường lối, chính sách của đảng. Việc tư vấn, góp ý được thực hiện

thông qua đặt hàng đối với các vấn đề cụ thể hoặc thông qua các báo cáo

thường xuyên của các tổ chức, cá nhân này.

Đoàn kết trong đảng cũng là một yếu tố quan trọng. Việc đoàn kết

được thể hiện trong việc các đảng viên ủng hộ ứng viên bầu tổng thống của

đảng trong các cuộc bầu cử; ở việc đảng cầm quyền đoàn kết xung

quanh người đứng đầu để hỗ trợ. Việc quy định đảng cầm quyền là đảng có

người thắng cử trong bầu cử tổng thống là cơ sở tạo ra sự thống nhất, ủng hộ

của đảng cầm quyền đối với tổng thống trong điều hành, quản lý nhà nước.

Trường hợp Singapore: Lực lượng giám sát và chế ước đảng cầm

quyền là các đảng đối lập và nhân dân. Cử tri dùng lá phiếu bầu cử của mình

để quyết định chọn đảng nào được cầm quyền. Vai trò của các đảng đối lập

không đáng kể, vì cho tới nay các đảng này có quy mô rất nhỏ, hiếm người

tài giỏi, không đưa ra được các chủ trương chính sách nào nổi trội và không

có ảnh hưởng lớn trên chính trường. Đảng nào giành được đa số phiếu bầu

của cử tri thì được quyền lập chính phủ và cử đảng viên của mình lãnh đạo

chính quyền các cấp.

Trong 12 kỳ bầu Quốc hội, Đảng Hành động Nhân dân đều giành được

trên 50% tổng số phiếu. Kỳ bầu Quốc hội khóa XII (5/2011), lần đầu tiên Đảng

Hành động Nhân dân chỉ thu được có hơn 60% tổng số phiếu, giành 81 ghế

trong số 87 ghế đại biểu Quốc hội, là một thất bại, chứng tỏ một bộ phận dân có

bất mãn với sự lãnh đạo của đảng. Thậm chí đương kim Bộ trưởng Ngoại giao

108

ứng viên của Đảng Hành động Nhân dân cũng thất cử. Lần đầu tiên một đảng

đối lập là Đảng Công nhân giành được 6 ghế trong Quốc hội. Sau đó có giai

đoạn đảng này cũng giành thắng lợi trong kỳ bầu bổ sung một đại biểu Quốc hội

(thay cho đại biểu người của Đảng Hành động Nhân dân bị bãi chức).

Ở Hàn Quốc quy định đảng nào giành 151/300 ghế trong Quốc hội thì

trở thành đảng cầm quyền. Tuy nhiên, trong lịch sử Hàn Quốc, chưa có một

đảng nào có thể giành được 151 ghế, vì thế đảng chiếm đa số phải liên minh

với một đảng khác để trở thành đảng cầm quyền. Hàn Quốc quan niệm dân

chủ là tạo điều kiện cho mọi người dân được cạnh tranh một cách bình đẳng.

Các đảng phải bảo đảm cho người dân được cạnh tranh một cách công bằng.

Thông qua cạnh tranh một cách minh bạch, tính minh bạch và trình độ của

các chính đảng cũng được nâng cao. Tuy vậy, theo các chuyên gia Hàn

Quốc, ở những nước có chế độ một đảng cũng có thể cạnh tranh minh bạch

để bảo đảm quyền lợi cho người dân.

4.1.1.2. Tính hiệu lực và hiệu quả

Một chủ thể cầm quyền, lúc đầu có thể là chính đáng, nhưng về lâu dài

không thể tiếp tục nhận được sự ủng hộ của đa số nhân dân nếu nó không tạo

ra được hiệu quả trong cầm quyền trong một thời gian dài. Xét cho cùng thì

người dân có tiếp tục chấp nhận và ủng hộ đối với chủ thể cai trị hay không

là do bộ máy cầm quyền đó có mang lại cho họ những lợi ích cả về mặt tinh

thần lẫn vật chất hay không. Hiệu quả trong quá trình cầm quyền phải dung

hòa được hai lợi ích mà rất hay xảy ra sự mâu thuẫn, đối lập - đó là lợi ích

của chủ thể cai trị và lợi ích của chủ thể bị cai trị (đa số nhân dân). Hiệu quả

ở đây tập trung đến những vấn đề như:

Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự gia tăng về mặt lượng của một nền

kinh tế. Nó được đo bằng nhiều chỉ số khác nhau, như tổng sản phẩm quốc

nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay thu nhập bình quân đầu

109

người trên năm (GNP/người/năm, GDP/người/năm). Tốc độ tăng trưởng

kinh tế là mức (%) được tăng thêm của sản lượng GNP, GDP, GNP/người

hay GDP/người của năm này so với năm trước hay giai đoạn này so với giai

đoạn trước. Với nghĩa như vậy, tăng trưởng kinh tế là mục tiêu theo đuổi

của mọi quốc gia, mọi nền kinh tế, mọi đảng cầm quyền trước yêu cầu tồn

tại và phát triển.

Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á những năm 1997 - 1998 đã khiến

các nền kinh tế Đông Á bị ảnh hưởng trầm trọng do hiệu ứng đô-mi-nô. Chỉ

chín năm sau cuộc khủng hoảng đó, Đông Á đang từng bước xây dựng được

niềm tin và vị thế của mình. Đông Á đang cố gắng chứng minh cho thế giới

rằng mình đang quay lại đúng quỹ đạo của sự phát triển kinh tế thần tốc. Rất

nhiều nước trong khu vực hiện nay đã gia nhập hàng ngũ các nước phát triển

cùng với Nhật Bản, Hàn Quốc và điều kỳ diệu là ở chỗ thành tựu này đạt

được chỉ trong giai đoạn của một thế hệ trong khi người phương Tây phải trải

qua rất nhiều thế hệ mới có thể đạt được.

Quá trình công nghiệp hóa của Hàn Quốc được tiến hành từ năm 1961-

1991. Trong ba thập niên đó, Hàn Quốc từ một nước nghèo nàn, bị tàn phá

trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, trở thành một trong những nước công

nghiệp mới (NIC - Newly Industrialized Countries) hùng mạnh nhất về mặt

kinh tế của thế giới thứ ba. Tính từ năm 1963-1978, GNP thực tế của Hàn

Quốc tăng với tốc độ hàng năm gần 10% và tăng trưởng thực tế trung bình

hơn 11% trong suốt những năm từ 1973-1978. Hơn thế nữa, tính đến nay chất

lượng tăng trưởng của Hàn Quốc vẫn thuộc loại cao nhất so với các nước có

tốc độ tăng trưởng cao trên dưới 10%. Năm 1963, GDP theo đầu người ở Hàn

Quốc mới khoảng 100 USD. Đến đầu những năm 80 đã vượt quá 2.000 USD,

đầu những năm 90 vượt qua ngưỡng 10.000 USD và đến 2010 đã vượt quá

30.000 USD. Theo đánh giá của một số học giả, Hàn Quốc là tấm gương nổi

bật nhất về phát triển kinh tế dài hạn thành công [47, tr.165]. Với 18 năm

110

cầm quyền dưới chính thể Park Chung Hee, Hàn Quốc trỗi dậy mạnh mẽ từ

đói nghèo “truyền thống” và trở thành con hổ châu Á. Năm 1960, bình quân

GDP/người/năm của Hàn Quốc chỉ là 82 USD/người/năm tương đương với

Việt Nam lúc đó. Sau 10 năm Hàn Quốc đã bước vào ngưỡng đầu tiên của

thu nhập trung bình 1.000 USD/người/năm. Đến năm 1975, là 1.310

USD/người/năm. Và chỉ trong vòng chưa đầy 20 năm, từ 1.000 USD Hàn

Quốc đã đạt tới mức 10.000 USD/người/năm vào năm 1992, trở thành nước

công nghiệp mới.

Ở Singapore, năm 1968 đánh dấu thời điểm quan trọng của đảo quốc

này. Trong lĩnh vực kinh tế, Đảng Hành động Nhân dân tận dụng tối đa một

môi trường quốc tế thuận lợi, lợi thế trong nước và tích cực thực hiện chiến

lược công nghiệp hóa theo hướng xuất khẩu, lợi dụng bến cảng tự nhiên của

Singapore để thu hút đầu tư nước ngoài, chuyển đổi và nâng cấp tái cấu trúc

nền kinh tế truyền thống tại Singapore. Nền kinh tế Singapore từ một thương

cảng đơn dần dần chuyển thành một trung tâm thương mại, phân phối hàng

hóa, tài chính, sản xuất - là một trong những trung tâm của khu vực Đông Nam

Á và trung tâm dịch vụ khu vực toàn diện. Singapore kịp thời thực hiện chuyển

đổi và nâng cấp cơ cấu công nghiệp với sự ra đời của tàu đẳng cấp thế giới.

Công nghệ sản xuất và tài năng quốc tế cung cấp một sự đảm bảo quan trọng

cho sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Singapore. Nếu như vào những

năm 60, GDP thực tế của Singapore dưới 500 USD/người thì chỉ sau hai thập

niên, năm 1985 GDP của Singapore là 10.811 USD/người, nghĩa là đã vượt

qua ngưỡng bị coi là nước nghèo (960 USD/người theo tiêu chuẩn của Liên

hiệp quốc, hoặc 875 USD/người theo tiêu chuẩn của WB). Không rơi vào cái

bẫy thu nhập trung bình và dừng lại ở đó, Singapore tiếp tục phát triển và trở

thành NIC, một trong bốn con hổ châu Á - điều kỳ diệu của thế kỷ XX. Đến

năm 2003, GDP (tính theo PPP) Singapore là 29.663 USD/người/năm; chỉ số

phát triển con người (HDI) 2005 là 0,925 xếp hạng 25/177 nước. Đến năm

111

2007, GDP (tính theo PPP) là 35.163 USD/người/năm, chỉ số HDI 2009 là

0.944 xếp hạng 23/182 nước.

Bảng 4.1: Danh sách xếp hạng GDP các quốc gia và vùng lãnh thổ

theo thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2018)

Hạng Quốc gia US $

7 Singapore 64,041

24 Nhật Bản 39,306

28 Hàn Quốc 31,346

Thứ hai, công bằng xã hội

Ngoài yếu tố tăng trưởng, các chủ thể cầm quyền phải luôn chú ý đến

yếu tố công bằng xã hội. Công bằng xã hội, hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự

ngang bằng nhau trong mối quan hệ giữa người với người, dựa trên nguyên

tắc thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và hưởng thụ.

Từng thành viên trong xã hội gắn bó với cộng đồng xã hội trên mọi lĩnh vực:

chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua sự cống hiến theo khả năng trí

tuệ, sức lực của mình cho sự phát triển xã hội và được xã hội bù đắp, chăm

sóc trở lại một cách tương xứng, không có sự tương xứng ấy là bất công.

Ngày nay, trên thế giới, người ta nhìn nhận và đánh giá mức độ thực hiện

công bằng xã hội trước hết qua các chỉ số thu nhập. Ngoài ra, các chỉ số thể

hiện mức độ thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, như mức tối

thiểu về dinh dưỡng, sức khỏe, mức sống, nhà ở và các điều kiện khác đảm

bảo sự phát triển của cá nhân cũng là những yếu tố quan trọng. Gần đây, Liên

hợp quốc đưa ra chỉ số phát triển con người (HDI) và được sử dụng khá phổ

biến để đánh giá sự phát triển của một đất nước

Singapore là quốc gia có nhiều sắc tộc và tôn giáo, quan niệm giá trị đa

dạng và phức tạp, cho nên đoàn kết toàn dân, ngưng tụ lòng người là nhiệm

112

vụ quan trọng nhất của đảng lãnh đạo. Đảng Hành động Nhân dân đặt lợi ích

của dân tộc lên trên hết, bình thường không ra mặt lãnh đạo, không có biểu

hiện tranh giành vai trò này mà đề xuất quan niệm giá trị “Quốc gia tối

thượng; xã hội trước hết; gia đình là nền tảng; xã hội là gốc rễ; quan tâm xã

hội; tôn trọng cá nhân; bàn bạc đồng thuận; tránh va chạm; khoan dung sắc

tộc; tôn giáo hòa hợp nhau”. Đảng tìm ra con đường trung gian giữa giữ gìn

tính nhất trí xã hội (tính tập thể) với giữ gìn mức độ tự do nhất định của cá

tính (tính cá nhân); đường lối này có tính bao dung và tính linh hoạt rất lớn,

do đó được đông đảo dân ủng hộ và có hiệu quả rõ rệt.

Bảng 4.2: Châu Á - 10 quốc gia có chỉ số phát triển con người cao

HDI Hạng Quốc gia

Dữ liệu năm 2018

Rất cao

0.933 1 Hồng Kông

0.932 2 Singapore

0.909 3 Nhật Bản

0.903 4 Israel

0.903 4 Hàn Quốc

0.869 6 Síp

0.863 7 UAE

0.856 8 Qatar

0.853 9 Brunei

0.853 10 Ả Rập Xê Út

113

Đảng Hành động Nhân dân không đề cao một chủ nghĩa nào, tuy thời

gian đầu từng giương ngọn cờ chủ nghĩa xã hội dân chủ nhưng về sau đã

không cố gắng kiên trì bất cứ giáo điều nào về ý thức hệ. Đảng vận dụng linh

hoạt, kết hợp hữu cơ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội với biện pháp của chủ

nghĩa tư bản; một mặt đi con đường kinh tế thị trường tự do cạnh tranh và cởi

mở, phát huy năng lực các cá nhân, một mặt tăng cường năng lực điều hành

vĩ mô của nhà nước đối với đời sống kinh tế của xã hội.

4.1.2. Chính sách của đảng cầm quyền

Điều đầu tiên tạo nên sự thu hút của đảng là đảng cầm quyền phải có

một chính sách đúng đắn, nghĩa là có thái độ đúng với những vấn đề quan

trọng nhất của đất nước về kinh tế, xã hội… Về mặt kinh tế, một mặt có biện

pháp bảo hộ nền kinh tế trong nước, trên tinh thần độc lập, tránh không để

cho tư bản xuyên quốc gia khống chế, hoặc can thiệp sâu. Về mặt xã hội chú

trọng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực có chất lương cao. Đi đôi với chiến

lược phát triển đất nước đúng đắn là những chính sách độc đáo trong từng

lĩnh vực. Trong quan hệ quốc tế, đó là chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ,

hội nhập tối đa nhằm tận dụng mọi lợi thế của thời đại và hạn chế những bất

lợi của đất nước. Chính sách an ninh và quốc phòng nhằm mục đích tối ưu là

bảo đảm môi trường bình yên, an toàn cho mọi người dân và các nhà đầu tư

nước ngoài, đồng thời bảo đảm chủ quyền, độc lập của quốc gia và lãnh thổ,

tạo ra một vị thế nhất định trong khu vực và quốc tế.

Có thể nói, chính sách của các đảng nổi trội cầm quyền là chiến lược

phát triển đất nước vô cùng sáng suốt, phù hợp với xu thế của thời cuộc và

đáp ứng đúng những đòi hòi của đất nước và của người dân.

Đảng có đường lối lãnh đạo đúng đắn, có chiến lược phát triển kinh tế

- xã hội thích hợp nhất và tổ chức thực hiện tốt nhất đường lối, chiến lược đó,

chỉ sau vài chục năm đã biến các quốc gia từ một nước nghèo khổ lạc hậu trở

thành giàu có văn minh hàng đầu thế giới. Một nguyên nhân nữa là các đảng

114

nổi trội cầm quyền luôn luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, một lòng phục

vụ nhân dân, thực sự là đội ngũ tiên tiến nhất ưu tú nhất trong xã hội, tuyệt

đối không quan liêu, tham nhũng, suy thoái.

Trong xây dựng tính hợp pháp ngoài chú trọng đạt quyền lực một cách

hợp pháp thông qua con đường bầu cử, các đảng nổi trội cũng rất chú ý đến

công nghệ để đảm bảo quyền lực chính trị của đảng được khách quan hóa

bằng cách đưa ra những chính sách ngăn chặn sự phát triển của các đảng và

lực lượng đối lập. Đảng Hành động Nhân dân và Nhà nước phối hợp đồng

bộ, luôn thống trị về tư tưởng, có lúc phải thực hiện sự đàn áp nhằm giữ vững

quyền lãnh đạo trong hệ thống chính trị Singapore. Giới cầm quyền

Singapore luôn quan tâm đến việc tổ chức chính đảng làm công cụ chính trị

đảm bảo việc duy trì và thực hiện quyền lực chính trị, bên cạnh công cụ bạo

lực là quân đội và cảnh sát. Chính phủ của Đảng Hành động Nhân dân nắm

các phương tiện thông tin đại chúng. Theo quy định, Hội đồng quản trị của

các công ty cổ phần báo chí đều phải được Chính phủ phê chuẩn. Tổng biên

tập của các báo do Chính phủ bổ nhiệm. Các đảng đối lập muốn lập một tờ

báo không dễ vì Chính phủ sát nhập tất cả các xưởng in báo của toàn quốc

làm một với kỹ thuật rất tiên tiến và kiểm soát nội dung, đồng thời quản lý cả

việc bán các loại báo. Đảng Hành động Nhân dân kiên quyết ngăn chặn sự

phát triển của phe đối lập. Đảng Hành động Nhân dân ngăn chặn việc tuyên

truyền có hại cho Chính phủ và ổn định chính trị. Các lãnh tụ của đảng đối

lập, nếu chống đối Đảng Hành động Nhân dân, sẽ nhanh chóng kết thúc con

đường chính trị của mình. Có những người đã bị bắt với lý do là nhân viên

đặc vụ của cộng sản hoặc ủng hộ chủ nghĩa cộng sản. Chế độ kiểm duyệt báo

chí, truyền hình nghiêm ngặt, đảm bảo nội dung thông tin được phát đi không

trái với luân lý đạo đức, quan niệm giá trị của phương Đông.

Hay như ở Hàn Quốc, các phương tiện truyền thông đã bị Chính phủ

kiểm soát chặt chẽ. Trước cuộc bầu cử năm 1952, Tổng thống Hàn Quốc yêu

115

cầu các cơ quan báo chí phải được cấp phép và trao cho Nhà nước quyền

kiểm duyệt tài liệu gây bất lợi cho Chính phủ. Hơn nữa, Nhà nước đã có

quyền đóng các tờ báo gây bất lợi cho các vấn đề của Nhà nước. Dưới sự bảo

vệ của Luật An ninh Quốc gia, Tổng thống đã đóng cửa tất cả các hình thức

đối lập và chỉ trích im lặng của Chính phủ. Sau khi Tổng thống Rhee từ chức

năm 1960, nhiều luật truyền thông nghiêm ngặt do Tổng thống Rhee ban hành

đã bị bãi bỏ; Hàn Quốc được hưởng một năm miễn phí từ sự bức hại và kiểm

duyệt. Trong thời gian này, một tờ báo tiến bộ được thành lập có tên là

Minjok Ilbo; tuy nhiên, khi Tổng thống Park Chung-hee nhậm chức trong

cuộc đảo chính quân sự năm 1961, Chủ tịch của Minjok Ilbo đã bị hành quyết

[107, tr.1352].

Trong nhiệm kỳ Tổng thống của Park Chung-hee, những hạn chế về

truyền thông đã được thắt chặt hơn; đây là khoảng thời gian mà giới truyền

thông hình thành mối quan hệ chặt chẽ với Chính phủ [114, tr.148-149].

Trong thời gian này, các doanh nghiệp lớn bắt đầu chuyển sang kinh doanh

báo chí để nhận được những lợi ích mà Chính phủ có sẵn. Dưới quyền Tổng

thống Park, Luật Hội đồng Báo chí đã được thông qua vào năm 1964. Theo

luật này, Chính phủ có quyền trừng phạt các cá nhân đã báo cáo sai sự thật

trên các phương tiện truyền thông; ranh giới của các báo cáo sai sự thật do

Chính phủ quyết định [115, tr.1352].

Trong khi Chính phủ trì hoãn việc thực hiện Luật Báo chí, nó đã được

thay thế bởi Hệ thống Thẻ Báo chí vào năm 1970. Thông qua Hệ thống Thẻ

Báo chí, Chính phủ đã trực tiếp kiểm soát quá trình tuyển dụng phương tiện

và đảm bảo việc loại bỏ các cá nhân có ý tưởng không phù hợp với đảng độc

đoán [115, tr.1352]. Năm 1974, Tổng thống Park đã thực thi các luật khắt khe

hơn để kiểm soát các phương tiện truyền thông. Các nhà báo phải đối mặt với

15 năm tù vì xuất bản tài liệu xúc phạm Chính phủ [115, tr.1352].

Đến năm 1975, Tổng thống Park tiếp tục thắt chặt hơn nữa chính sách

116

đã ban hành 1974. Theo đó, “phương tiện truyền thông công cộng như báo

chí, chương trình phát sóng, hoặc dịch vụ báo chí; hoặc bằng bất kỳ phương

tiện biểu hiện nào khác, chẳng hạn như tác phẩm, sách hoặc bản ghi âm” được

chứng minh chống lại Chính phủ, xúc phạm Chính phủ sẽ bị coi là bất hợp

pháp [115, tr.1352]. Các cá nhân nhà báo phải đối mặt với 15 năm tù và

Chính phủ có thẩm quyền đóng cửa các phương tiện truyền thông như quy

định. Sau vụ ám sát Tổng thống Park Chung-hee, Chun Doo-hwan tiếp tục

các chính sách của người tiền nhiệm và thắt chặt thêm các chính sách đó.

Tổng thống Chun đã loại bỏ 172 nhà xuất bản định kỳ không phù hợp với

quan điểm của Chính phủ. Hơn nữa, để thu hẹp số lượng thông tin lưu thông

trong xã hội, ông sát nhập các đài phát thanh, giảm số lượng của họ từ 28

xuống 11 [115, tr.1353].

4.1.3. Bộ máy nhà nước trong hệ thống chính trị một đảng nổi trội

4.1.3.1. Bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiệu quả

Bộ máy công quyền Singapore rất tinh gọn với những con người có tri

thức và tài năng. Nền công vụ ở Singapore nổi tiếng bởi tính hiệu quả, minh

bạch, trách nhiệm. Với những chính sách đúng đắn, Chính phủ Singapore đã

không những thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao làm việc trong khu

vực tư mà còn cả ở khu vực công. Chính sách này còn làm cho Singapore từ

quốc đảo nhỏ bé, tài nguyên thiên nhiên không có gì trở thành một trong

những quốc gia đứng đầu châu Á về kinh tế.

Singapore là quốc gia không tổ chức chính quyền địa phương. Quốc

hội Singapore có 84 thành viên được bầu và 9 thành viên chỉ định. Chính phủ

Singapore có 15 bộ; khu vực công sử dụng 127.000 cán bộ, trong đó 15 bộ và

trên 50 cơ quan chính phủ độc lập có khoảng 76.000 nhân viên. Cơ quan

giám sát việc quản lý nhân tài là Ủy ban Dịch vụ công (PSC) [32]. Trong hệ

thống chính trị Singapore, ban lãnh đạo Đảng Hành động Nhân dân nắm giữ

những cương vị chính trong bộ máy nhà nước như: Tổng Bí thư trở thành

117

Thủ tướng, hầu hết các uỷ viên trung ương đều là thành viên của nội các.

Trên thực tế, công tác đảng và công tác của Chính phủ là một. Việc thực hiện

chương trình công tác của chính phủ cũng là thực hiện cương lĩnh tranh cử

của đảng. Singapore không có tổ chức đảng và chính phủ song trùng. Đảng

và Uỷ ban trung ương do các bí thư ăn lương chuyên nghiệp lãnh đạo. Thông

qua các bí thư đó, mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước được thực hiện

thường xuyên và trong mọi điều kiện. Với tư cách là đảng cầm quyền, các

nhà lãnh đạo của Đảng Hành động Nhân dân đã thể chế hoá hoạt động của

mình vào bộ máy Nhà nước và Quốc hội. Đảng Hành động Nhân dân nắm cả

lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự hậu thuẫn chắc chắn từ tất cả các thể

chế này để lãnh đạo đất nước. Thông qua ảnh hưởng và sự lãnh đạo của mình

đối với các thể chế này, Đảng Hành động Nhân dân tuyên truyền tư tưởng

của mình, làm công tác quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, tài chính, vận

động bầu cử và thực hiện các đường lối, chính sách của mình.

Trước hết nói về sự gọn nhẹ. Nếu so sánh máy móc về diện tích và số

dân thì Singapore tương đương với thành phố Hà Nội (thời điểm năm 2007).

Nhưng về mặt chính quyền Singapore chỉ có một cấp. Đó là Chính phủ Trung

ương. Singapore được chia thành năm quận (districts) và đứng đầu là thị

trưởng do Chính phủ bổ nhiệm trong số các nghị sĩ. Tại quận có Hội đồng

Phát triển cộng đồng (Community Development Councils - CDCs). CDCs

được coi là cấp hành chính địa phương, nhưng không có vai trò quản lý nhà

nước. CDCs có nhiệm vụ phát triển cộng đồng, văn hóa và xã hội. CDCs

được hưởng trợ cấp từ ngân sách nhà nước thông qua các dự án. Dưới CDCs

còn có các Hội đồng khu phố (Town Councils) và Hội đồng dân cư

(Residents Councils). Điều đáng lưu ý là tất cả các loại hội đồng này không

phải là cơ quan quản lý nhà nước mà chỉ hoạt động như các tổ chức xã hội.

Ở cấp Trung ương, Phủ Tổng thống và Văn phòng Thủ tướng không

có các ban hay vụ giúp việc mà chỉ có các cố vấn theo dõi công việc của

118

từng bộ, ngành. Để tránh quan liêu và tạo ra sự năng động trong bộ máy nhà

nước, Chính phủ Singapore đã thành lập các ban có quy chế độc lập

(Statutory Boards) hay Cơ quan thẩm quyền (Authorities). Đứng đầu mỗi

ban hay cơ quan thấm quyền là chủ tịch do Quốc hội Singapore phê chuẩn

bằng luật trên cơ sở đề nghị của Chính phủ. Đây là những công chức cao

cấp bậc nhất trong bộ máy hành chính của Singapore, vừa có năng lực

chuyên môn lại có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về lĩnh vực hoạt

động được Chính phủ giao phó. Về thứ bậc hành chính, các cơ quan này

được đặt dưới một bộ nhưng có vai trò nhiệm vụ rõ ràng, không lệ thuộc

một cách máy móc vào bộ chủ quản.

Gọn nhẹ đi đôi với hiệu quả. Hiệu quả do phân định rõ ràng trách

nhiệm và tính độc lập giữa các cơ quan công quyền và sự lưu thông, kết nối

về công việc và thông tin trong bộ máy nhà nước. Trong bộ máy công quyền

của Singapore, không có chuyện đùn đẩy công việc hay trách nhiệm. Một

vấn đề chỉ có một cơ quan công quyền phụ trách và chịu trách nhiệm. Chẳng

hạn, Ban Phát triển kinh tế (Economic Development Board - EDB) chịu

trách nhiệm thu hút các công ty nước ngoài vào Singapore. Ngược lại, Ban

Doanh nghiệp quốc tế (International Enterprise Singapore- lESgp) có nhiệm

vụ đưa các công ty Singapore ra đầu tư ở nước ngoài. EDB và IESgp đều

nằm trong Bộ Công thương, nhưng hoàn toàn chịu trách nhiệm trước Chính

phủ và thước đo về hiệu quả công việc của các ban này chính là số lượng

công ty nước ngoài đến Singapore mở chi nhánh và đầu tư hay là số lượng

công ty Singapore đầu tư ra nước ngoài. Hay khi nói về vấn đề sinh viên

nước ngoài du học tại Singapore, người ta nghĩ ngay đến Ban Du lịch

Singapore (Singapore Tourism Board - STB). STB là cơ quan duy nhất của

Singapore có quyền và chịu trách nhiệm quảng bá du học đến sinh viên

nước ngoài muốn đến học tự túc tại Singapore. Thậm chí, để thực hiện tốt

chức năng được giao, ba ban này - EDB, IESgp; STB - được mở Văn phòng

119

đại diện ở nước ngoài, độc lập với các Cơ quan đại diện ngoại giao của

Singapore.

4.1.3.2. Xây dựng bộ máy trong sạch, kiên quyết chống tham nhũng

Ở Singapore, cải cách chống tham nhũng là một trong những điều quan

trọng nhất được cải cách bởi Chính phủ của Đảng Hành động Nhân dân Cục

điều tra chống tham nhũng Singapore (CPIB) thành lập năm 1952 và được

trao thẩm quyền lớn, có các điều tra viên dày kinh nghiệm và thực sự liêm

chính. Trong thực tế, kể từ khi Singapore thực hiện kiểm soát tham nhũng

vào năm 1959 khi Chính phủ của Đảng Hành động Nhân dân giành được

quyền tự chủ và được thể hiện ở đầu chương trình nghị sự của Chính phủ của

Đảng Hành động Nhân dân.

Từ năm 1960, Đạo luật về Phòng, chống tham nhũng (POCA) đã thiết

lập một cách toàn diện và trao cho Chính phủ nhiều quyền hạn hơn trong việc

phòng, chống tham nhũng với ba trụ cột. Đó là, các hành vi chống tham

nhũng hiệu quả; cơ quan phòng, chống tham nhũng và quản lý của Chính phủ

đối với việc xét xử các hành vi tham nhũng một cách hiệu quả. Từ đó, cơ

quan Điều tra thực tiễn (CPIB) trực thuộc Thủ tướng Chính phủ, có quyền

độc lập điều tra và ngăn chặn tham nhũng. CPIB gồm có cục trưởng, cục phó,

các trợ lý cục trưởng và các nhân viên điều tra chuyên nghiệp. CPIB được

chia thành hai bộ phận: Bộ phận Nghiệp vụ và Bộ phận Hành chính - Kế

hoạch. Mỗi bộ phận này do một cục phó trực tiếp lãnh đạo và quản lý.

CPIB là cơ quan duy nhất chịu trách nhiệm điều tra về các hiện tượng

tham nhũng trong tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, pháp lý hay các cơ

quan công quyền, khu vực tư nhân, hoặc xã hội dân sự. CPIB được quyền

điều tra đối với người bị tình nghi tham nhũng cho dù người đó là ai, kể cả

Thủ tướng. Trong trường hợp Thủ tướng bị tình nghi tham nhũng, CPIB có

thể xin đặc quyền của Tổng thống để tiến hành cuộc điều tra, vì vậy có thể

xóa bỏ mọi cản trở và điều này được quy định trong Hiến pháp. CPIB không

120

hề bị can thiệp trong quá trình điều tra những vụ án tham nhũng. Trong thực

tế, mỗi năm, CPIB tiến hành điều tra khoảng 300 vụ và đã tiến hành điều tra

đến cấp bộ trưởng.

Pháp luật Singapore quy định về hành vi tham nhũng và mức hình phạt

tương xứng với mỗi hành vi, bất cứ ai có hành vi tham nhũng sẽ bị trừng phạt

nghiêm khắc. Đồng thời, pháp luật quy định thủ tục điều tra hành vi tham

nhũng là một thủ tục đặc biệt, CPIB có quyền bắt giữ những người bị tình

nghi tham nhũng mà không cần Viện Công tố ra lệnh, có toàn quyền tiến

hành các hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự mà

không cần Viện Công tố cho phép; có quyền khám xét, yêu cầu cung cấp

thông tin về tài khoản ngân hàng của bất kỳ ai bị tình nghi tham nhũng, kể cả

tài khoản của vợ, con người đó và những người có liên quan. Các công chức

Singapore phải giải trình, kê khai tài sản khi CPIB yêu cầu. Người nào được

yêu cầu đều phải cung cấp thông tin trung thực, nếu ai từ chối hay đưa thông

tin sai sự thật sẽ bị xử phạt, thậm chí có thể bị phạt tù. Những người cung cấp

thông tin sẽ được bảo vệ.

Singapore cũng có quy định những điều phải làm và những điều cấm

đối với công chức. Công chức Singapore bị cấm không được nhận thưởng từ

bất cứ ai do đã hay sẽ làm gì đó trong chức trách của mình; không được ăn

uống hay giải trí với bất cứ ai có quan hệ làm việc, nhằm tránh bị tố cáo là

thiên vị; không được mời ai có quan hệ làm việc với mình đến dự tiệc do

mình tổ chức; không được đi nước ngoài do nhà thầu tổ chức dưới danh nghĩa

là “tập huấn” hay “kiểm tra” sản phẩm mà nhà thầu đó cung cấp; không được

để cho nhà thầu thanh toán các hóa đơn chi tiêu của mình...

Singapore có chính sách trừng phạt nghiêm khắc. Ngoài hình thức phạt

tiền hoặc tù giam, quan tham phải hoàn lại đầy đủ số tiền mà họ tham nhũng,

nếu không trả đủ tiền thì họ sẽ bị tăng hình phạt tù giam. Singapore quyết tâm

bài trừ tham nhũng bằng việc cương quyết xử lý đối tượng có liên quan đến

121

tham nhũng. Các phán quyết từ tòa án sẽ cung cấp một số điểm chuẩn về mức

độ nghiêm trọng của tội phạm tham nhũng.

Singapore đề cao yếu tố minh bạch trong hoạt động của các cơ quan

hành chính, đây là tiêu chí cơ bản, được coi như: “Công cụ tẩy rửa tốt nhất và

là người cảnh sát hữu hiệu nhất”; cùng với nó là các yếu tố như: việc thực

hiện phải thường xuyên, liên tục; tinh thần trách nhiệm, sự liêm chính của

người thực thi... Hệ thống các quy trình, luật lệ, trong điều hành, quản lý và

kiểm tra, giám sát việc thực thi của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, hướng đến

sự minh bạch và tinh thần trách nhiệm được quy định chặt chẽ. Các quy trình

về thẩm quyền, công cụ thực hiện, trách nhiệm báo cáo và bảo đảm hoàn

thành công việc, sự chuyên nghiệp hóa trong thực thi của các cơ quan nhà

nước luôn được tôn trọng và thực thi nghiêm túc trên tinh thần “Nói đi đôi

với làm”.

Singapore cũng chú trọng xây dựng hệ thống lương của công chức

trong khu vực công sát với khu vực tư nhân, bảo đảm không có độ chênh lệch

quá lớn giữa khu vực nhà nước và khu vực tư nhân; coi bộ máy nhà nước

hoạt động lành mạnh, sử dụng công quỹ đúng đắn, tăng thêm của cải xã hội,

tăng sản lượng quốc gia, tăng mức sống của người dân, tăng lương cho công

chức là biện pháp hữu hiệu để chống tham nhũng.

Mục tiêu chính của Chính phủ Singapore trong việc thực hiện sáng

kiến PS21 là nâng cao hiệu quả và hiệu quả trong cung cấp các dịch vụ công.

Đây là một trong những lợi ích quan trọng trong phòng, chống tham nhũng.

Thứ nhất, bằng cách trao quyền và thu hút cán bộ để liên tục cải tiến và hy

vọng cán bộ công quyền sẽ gắn bó hơn với nền hành chính nhà nước, đó là

niềm tự hào của cán bộ công chức và khả năng tham nhũng sẽ ít hơn. Thứ

hai, bằng cách tìm kiếm phản hồi từ công chúng và minh bạch trong các

chính sách và dịch vụ để nó khó có chỗ cho cán bộ nhận hối lộ, thực hiện

hành vi tham nhũng.

122

Theo trang thông tin điện tử của tổ chức Minh bạch Quốc tế thì chỉ số

nhận thức tham nhũng của Singapore đã đạt được mức trung bình 80 điểm

trở lên trong giai đoạn 2011-2016 và đã được xếp hạng trong top 10 trên thế

giới. Theo số liệu chỉ số quản lý tham nhũng toàn cầu của Ngân hàng Thế

giới, chỉ số quản lý tham nhũng của Singapore cũng nằm trong top 10 trên

thế giới, với số điểm trung bình trên 95. Hiệu quả pháp lý của Chính phủ

Singapore đối với khu vực tư nhân cũng đã duy trì vị trí thứ 10 trên thế giới

kể từ năm 2007.

Một quốc gia cũng tích cực chống tham nhũng và đạt kết quả tốt là mô

hình Nhật Bản. Là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, Nhật Bản đã tạo ra “Phép

màu Đông Á” trong lịch sử. Đằng sau vinh quang kinh tế, Nhật Bản bị tác

động bởi các mối quan hệ chính trị và kinh doanh rất phức tạp. Một mặt, các

doanh nhân hối lộ các chính trị gia thông qua tiền mặt chính trị, cố gắng để

đạt được lợi ích thương mại, mặt khác, các chính trị gia nhận tiền mặt chính

trị để củng cố và gia tăng quyền lực.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản xuất hiện nhiều tham nhũng

hơn trong các lĩnh vực như buôn bán xuyên biên giới và xây dựng. Sau khi bị

các kiểm sát viên thẩm vấn và truy tố, một loạt các thành viên của Quốc hội

Nhật Bản bị buộc phải từ chức, cuối cùng dẫn đến việc giải thể Hạ viện cùng

với sự sụp đổ của Chính phủ Nội các. Cuối những năm 1980, Chính phủ phải

thực hiện các dự án công trình công cộng quy mô lớn, một số công ty xây

dựng tích hợp thu được lợi ích to lớn từ các dự án này thông qua hối lộ, và

các chính trị gia cũng nhận được những đóng góp chính trị to lớn. Thông qua

trao đổi giữa các vấn đề công cộng của Chính phủ Nhật Bản, sự gắn bó giữa

cán bộ và các doanh nghiệp đã dần trở nên mạnh mẽ hơn. Đặc biệt là sau khi

bước vào thập niên 1990, tham nhũng của chính trị và kinh doanh bắt đầu

tăng cao, gần 80%.

123

Để kết thúc hiện tượng này, Nhật Bản đã sửa đổi đối tượng của “Tội

phạm hình sự” nhiều lần, quy định rằng mục tiêu hối lộ có thể từ đảng cầm

quyền, các thành viên của Quốc hội tới bộ trưởng Nội các, bộ trưởng nhà

nước, quan chức cao nhất của văn phòng và thậm chí cả các cơ quan công

cộng địa phương bao gồm cả thống đốc và thị trưởng. Việc sửa đổi luật đã

cho thấy kết quả trong việc xét xử các trường hợp cụ thể. Năm 1996, trong

“Sự kiện điều dưỡng đặc biệt”, Bộ trưởng Bộ Y tế và Phúc lợi của tỉnh

Saitama đã nhận hối lộ và bị kết tội. Ngoài ra, từ năm 2000, một số đơn vị và

công ty ở Nhật Bản đã thành lập “Ủy ban thứ ba” nhanh chóng xây dựng hệ

thống quản lý khủng hoảng để đảm bảo toàn bộ các vụ tham nhũng được điều

tra khách quan và công bằng. Ví dụ, năm 1996, vụ việc bí mật của Văn phòng

Quận Jixian xảy ra, sau khi được phát hiện vào năm 2003, Ủy ban bên thứ ba

chịu trách nhiệm điều tra. Trong trường hợp sự kiện phúc lợi xã hội ở tỉnh

Chiba, một ủy ban kiểm tra của bên thứ ba được thành lập để điều tra vụ việc.

“Ủy ban Thứ ba” đã trở thành một nhân tố quan trọng cho xã hội dân sự tham

gia chống tham nhũng ở Nhật Bản, đảm bảo công bằng không chịu bất kỳ áp

lực chính trị nào và không bị cám dỗ bởi tiền của doanh nghiệp.

Các phương tiện truyền thông Nhật Bản cũng đóng một vai trò hiệu

quả trong việc giám sát cuộc chiến chống tham nhũng. Năm 1964, Công ty

TNHH Xây dựng Kashima đã đóng góp chính trị cho Thủ tướng Ikeda, để có

được dự án xây dựng đập Jiudou Longchuan. Vào tháng 10/1964, một

phương tiện truyền thông đã chính thức phơi bày mối quan hệ bất thường này

với bài báo tiêu đề “Bí mật chính trị 500 triệu yên, Đấu thầu Đập Jiudou

Longchuan”. Nội dung bài báo chỉ ra rằng nội bộ Đảng Dân chủ Tự do của

Ikeda đang gánh số nợ lớn do cuộc bầu cử trước đó. Kể từ đó, Ikeda đã từ

chức Thủ tướng. Năm 1988, một số phương tiện truyền thông tiếp tục cho

người dân Nhật Bản thấy mặt đen tối của hơn 90 chính trị gia hối lộ cổ phiếu.

Vụ kiện này được gọi là “vụ án tội phạm và hối lộ lớn nhất của Nhật Bản sau

124

chiến tranh”, khiến Quốc hội sửa đổi Luật Bầu cử công cộng, quy định rằng

các chính trị gia và các viên chức công cộng phải được miễn nhiệm vì tội đã

bị kết án. Trong năm 2009, các nhóm người khuyết tật Nhật Bản và Bộ Y tế,

Lao động và Phúc lợi, các cơ quan quảng cáo, và các công ty bưu chính đang

lừa đảo và giả mạo các tài liệu của Chính phủ. Vụ việc ban đầu được điều tra

bởi Sở Điều tra đặc biệt của tỉnh Osaka, nhưng giữa vụ án bị đình chỉ. Cuối

cùng, vụ án đã được Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao giải quyết, và các bộ

trưởng, thứ trưởng của Vụ Điều tra Đặc biệt của Quận Osaka đã bị bắt giữ.

Điều này cho thấy sức mạnh của phương tiện truyền thông Nhật Bản để theo

dõi và chống tham nhũng không phải là vấn đề nhỏ.

Theo trang thông tin điện tử của tổ chức Minh bạch Quốc tế thì chỉ số

nhận thức tham nhũng Nhật Bản duy trì trung bình 70 điểm trở lên trong giai

đoạn 2011-2016 và đã được xếp hạng trong số 20 điểm hàng đầu trên thế

giới. “Trong những năm 1990, các mục tiêu quy định tham nhũng của Nhật

Bản đứng thứ 64 trên thế giới, với số điểm trung bình là 84 điểm. Trong

năm 2013, nó xếp thứ 43 trên thế giới với số điểm trung bình là 94 điểm.

Hiện tại xếp thứ 39 với số điểm trung bình là 96. Sự gia tăng xếp hạng toàn

cầu về hiệu quả của chính phủ Nhật Bản là tỷ lệ thuận với sự gia tăng các

chỉ số điều tiết tham nhũng. Có thể thấy rằng sự “sạch sẽ” của công chức

Nhật Bản đã tiếp tục gia tăng trong thập kỷ qua, làm cho cuộc đấu tranh

chống tham nhũng trở nên hiệu quả. Tuy nhiên, các chỉ số hoạt động giám

sát của Chính phủ Nhật Bản đối với khu vực tư nhân, ngoại trừ thứ hạng 51

trên thế giới trong giai đoạn 2005-2009, vẫn ở mức 72 cho đến bây giờ”.

Điều này cho thấy Nhật Bản vẫn cần phải làm việc chăm chỉ hơn để xây

dựng một mối quan hệ chính trị và kinh doanh lành mạnh.

Kinh nghiệm chống tham nhũng của Hàn Quốc: Hàn Quốc là một trong

những đại diện chính của những con hổ châu Á và đã tạo ra “Phép lạ

Hanjiang”. Quan hệ giữa chính trị và kinh doanh của Hàn Quốc phức tạp như

125

Nhật Bản. Một số Tổng thống Hàn Quốc không thể thoát khỏi “lời nguyền”

của tham nhũng cho dù đó là Roh Moo-hyun hay Park Geun-hye.

Hệ thống chaebol là một trụ cột chính của mối quan hệ giữa chính trị

và kinh doanh Hàn Quốc. Chính phủ Hàn Quốc gắn bó chặt chẽ với các công

ty, tạo điều kiện cho họ phát triển trong nhiều ngành công nghiệp trọng điểm

và ngược lại, Chính phủ được các công ty lớn bảo vệ đặc biệt. Các chaebol

luôn kiểm soát việc xây dựng các chính sách kinh tế quốc gia, và cũng có tác

động lớn đến việc xây dựng, thực hiện các chính sách của Chính phủ, sự phát

triển của các quốc gia và đảng phái chính trị. Do đó, việc tham nhũng của các

quan chức cấp cao trong giới chính trị Hàn Quốc gây hậu quả nghiêm trọng

hơn sự tham nhũng gây ra bởi các quan chức bình thường, bởi vì loại tham

nhũng này không chỉ ảnh hưởng đến những thay đổi của thời đại và sự thay

đổi chính trị trong một thời gian dài, mà nó vẫn được coi là một vấn đề lớn

trong quá trình quản lý đất nước của Chính phủ và đảng cầm quyền.

Từ những năm 1949, Hàn Quốc đã ban hành Luật Dân sự Quốc gia. Để

thiết lập thái độ và kỷ luật của công chức, Chính phủ củng cố luật pháp tiếp

tục chia các hình phạt cho những người phạm tội thành hình phạt nghiêm

trọng và hình phạt nhẹ hơn. Năm 1953, Chương 7 của Bộ luật Hình sự Hàn

Quốc quy định các mức độ phạm tội của các viên chức, bao gồm tội lạm

dụng trách nhiệm và tội hối lộ. Năm 1963, Hàn Quốc tái khởi động “Luật

Dân sự Quốc gia” và thành lập “Đạo luật Công chức địa phương”. Năm 1966,

“Luật trừng phạt nghiêm trọng về tội ác cụ thể” của Hàn Quốc quy định rằng

công chức hối lộ nên bị trừng phạt nghiêm trọng. Năm 1970, Hàn Quốc được

xây dựng Quy tắc đạo đức cho các thành viên của Quốc hội yêu cầu các

thành viên của Quốc hội phải trong sạch, cấm lạm dụng quyền lực. Cùng năm

đó, Hàn Quốc cũng ban hành Luật cấm các yêu cầu trái phép và tài sản nhận,

được thực hiện vào tháng 9 năm 2016, các quy định dịch vụ dân sự và trật tự

126

kỷ luật dân sự (sau đây được gọi là “Luật vua Ying Lan”). Luật Jin Yinglan

quy định rằng các quan chức, các tổ chức và cá nhân có thể bị trừng phạt nếu

bị phát hiện nhận hối lộ về tài sản (quyền lợi tài sản, khách sạn, giao thông

vận tải, chỗ ở, quyền mua hoặc tạo lợi ích, v.v..).

Các cơ quan trong hệ thống chính trị Hàn Quốc chịu trách nhiệm chống

tham nhũng như Văn phòng Giám sát, Văn phòng Điều chỉnh Nhà nước,

Công tố và Hệ thống Cảnh sát (gọi chung là lĩnh vực tư pháp). Bên trong có

hệ thống giám sát nội bộ và ngăn chặn nội bộ (các lĩnh vực hành chính), bên

ngoài có hệ thống giám sát bao gồm Chính phủ quốc gia, các tổ chức truyền

thông và các nhóm dân sự. Năm 1999, để kiểm soát có hiệu quả sự xuất hiện

và lây lan của tham nhũng, Hàn Quốc đã thiết lập một hệ thống kiểm tra độc

lập. Khi phát hiện ra rằng một quan chức cấp cao của Chính phủ tham

nhũng hoặc vi phạm pháp luật, luật sư độc lập được phép phụ trách vụ án

tiến hành truy tố và có thể nhờ Văn phòng Công tố viên địa phương, Sở

Cảnh sát và các cơ quan khác để được hỗ trợ trong việc điều tra. Đến nay,

Hàn Quốc đã thành lập 11 nhóm thanh tra độc lập để điều tra và điều tra các

vụ tham nhũng chính. Các trường hợp điển hình bao gồm “vụ bê bối Li

Longhao” vào năm 2001. Li Longhao, Chủ tịch Tập đoàn G&G Hàn Quốc,

có thể trao đổi trái phiếu 68 tỷ won và vận hành giá cổ phiếu. Trong cuộc

điều tra, nhóm kiểm tra đã tìm ra sự thật bất hợp pháp của vị giám sát

trưởng, con trai thứ hai của cựu chủ tịch Kim Dae-jung. Tương tự, vào năm

2003, “Vàng đến miền Bắc” của Hàn Quốc, nhóm điều tra đã tham gia điều

tra liệu Tập đoàn Hyundai có bí mật gửi tiền tới Bắc Triều Tiên hay không.

“Quỹ bí mật Samsung” năm 2008 liên quan đến các quỹ bí mật bất hợp

pháp của Tập đoàn Samsung, thừa kế quyền quản lý, đóng góp chính trị cho

cuộc bầu cử tổng thống năm 2002, v.v…

Để cải thiện hệ thống hành chính không hợp lý và ngăn chặn tham

nhũng, Hàn Quốc đã thành lập Ủy ban quốc gia về quyền lợi và lợi ích trong

127

năm 2003. Đây là sự hợp nhất hoạt động của một số tổ chức trước đây và trở

thành tổ chức giám sát và chống tham nhũng mạnh nhất tại Hàn Quốc. Trong

“Khảo sát nhận thức tham nhũng quốc gia Hàn Quốc” 59,2% công dân,

55,2% chuyên gia và 43,7% doanh nhân tin rằng Hàn Quốc rất tham nhũng

và chỉ 14,0% công chức tin rằng Hàn Quốc là rất tham nhũng” [98, tr.22]. Và

“hơn 30% công dân Hàn Quốc tin rằng văn hóa truyền thống của xã hội là

nguyên nhân chính gây tham nhũng, tiếp theo là thiếu nhận thức về đạo đức,

hệ thống luật pháp không hợp lý chỉ chiếm 16%” [98, tr.22]. Chính phủ xây

dựng một “Chương trình hành động cho cán bộ công chức” xây dựng tính

chuẩn mực, thiết thực, tự kỷ luật, định hướng, phòng ngừa, thực hiện tính mở

và minh bạch của việc đăng ký tài sản, quản lý và giám sát tất cả tài sản công.

Đây được coi là một hệ thống bảo vệ nội bộ cho phép Chính phủ giảm thiểu

hiệu quả các chi phí chống tham nhũng và nâng cao hiệu quả của việc thực

hiện chính sách, đồng thời cũng có chức năng như một hệ thống giám sát đặc

biệt và một cơ quan điều tra tham nhũng chính thức của Chính phủ.

Do có mối quan hệ giữa giới chính trị và kinh doanh, Chính phủ Hàn

Quốc và đảng cầm quyền dần dần đánh mất lòng tin của họ trong lòng người

dân, kết quả là các nhóm xã hội dân sự và các phương tiện truyền thông đã

trở thành những người tiên phong mạnh mẽ trong làn sóng chống tham

nhũng. Phương tiện truyền thông Hàn Quốc nói chung có thể nói về bất kỳ

chủ đề nào miễn là nó không liên quan đến các chủ đề nhạy cảm như bạo lực

hoặc chủng tộc. Việc tự do ngôn luận được phản ánh đầy đủ hơn ở Hàn

Quốc, và các báo cáo về tham nhũng luôn được các phương tiện truyền thông

coi là “tin tức chất lượng cao”.

Theo Chỉ số nhận thức tham nhũng của “Minh bạch quốc tế”, từ năm

2011 đến năm 2016, Hàn Quốc đã đạt mức trung bình 50 điểm trở lên liên

tiếp. Dữ liệu chỉ số quản trị toàn cầu của Ngân hàng Thế giới cho thấy: Chỉ

số điều chỉnh tham nhũng Hàn Quốc đã được xếp hạng 70 trên thế giới

128

trong 20 năm qua; pháp luật và các chỉ số thực thi quy định từ năm 2009 đã

tăng từ hạng 61 lên 40 trên thế giới; năm 2011 chỉ số hoạt động quyền hành

pháp của Chính phủ từ vị trí 50 nhảy lên vị trí thứ 32, nhưng chỉ số về độ tin

cậy hoạt động hiệu quả của Chính phủ Hàn Quốc vẫn ở vị trí thứ 40 trên thế

giới; các chỉ số hiệu quả pháp lý của Chính phủ đối với khu vực tư nhân từ

năm 2000 đã được cải thiện rất nhiều sau mỗi 4 năm và hiện đang xếp thứ

46 trên thế giới”.

Bảng 4.3: Danh sách các nước xếp hạng theo chỉ số nhận thức

tham nhũng năm 2019

Hạng Quốc gia Điểm

4 Singapore 85

20 Nhật Bản 73

39 Hàn Quốc 59

Hàn Quốc rất coi trọng việc xây dựng Chính phủ liêm chính, trong

sạch, thường xuyên phòng, chống tham nhũng. Một kinh nghiệm đáng tham

khảo trong chính sách phòng, chống tham nhũng của Hàn Quốc là việc

thường xuyên đánh giá mức độ liêm chính của các cơ quan nhà nước thông

qua điều tra, khảo sát và xây dựng, hoàn thiện hệ thống giáo dục liêm chính

trong các cơ quan nhà nước. Mức độ liêm chính của các cơ quan nhà nước là

tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đứng đầu tổ

chức. Giáo dục liêm chính được coi là công việc bắt buộc, thường xuyên đối

với cán bộ công chức. Việc giáo dục được thực hiện thông qua các khóa đào

tạo tập trung thường xuyên và các khóa đào tạo online...

4.1.4. Chế độ thu hút nhân tài tham gia hệ thống chính trị

Khi Lý Quang Diệu đương chức Thủ tướng Singapore, ông đã để lại

một di sản rất lớn cho nền chính trị nước nhà, đó là việc lựa chọn các lãnh đạo

129

chiến lược, đánh dấu với hai điểm nổi bật: một là, chế độ nhân tài là nguyên

tắc trung tâm trong quy trình lựa chọn lãnh đạo; hai là, lựa chọn tinh hoa đi

kèm kiểm nghiệm đại chúng, thông qua việc luân chuyển qua các vị trí ở các

bộ khác nhau cùng với hệ thống người dìu dắt và hệ thống kiêm chức.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng Hành động Nhân dân bổ nhiệm các

cán bộ lãnh đạo (phân biệt với đảng viên thường) cấp dưới và cán bộ cấp dưới

bầu chọn Ban Chấp hành Trung ương.

Để được đề bạt thành lãnh đạo, một đảng viên phải được một Ủy viên

Ban Chấp hành Trung ương (thường cũng là nghị sĩ) giới thiệu. Sau đó người

này phải trải qua quá trình xem xét lý lịch và phỏng vấn bởi một hội đồng,

thường gồm 4 - 5 bộ trưởng hoặc Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Hàng

năm có khoảng 100 người được đề nghị xem xét như vậy. Điểm khác biệt duy

nhất giữa cán bộ lãnh đạo và các đảng viên thường của Đảng Hành động

Nhân dân là quyền được bỏ phiếu bầu chọn Ban Chấp hành Trung ương. Các

cán bộ cấp cao của Đảng Hành động Nhân dân đều phải thắng cử để trở thành

nghị sĩ. Các bộ trưởng là lãnh đạo chiến lược cấp cao nhất, thăng tiến chủ yếu

dựa trên năng lực và hiệu quả công tác thực tế.

Là người có niềm tin sắt đá vào tài năng, Lý Quang Diệu chính là

người thúc đẩy và tạo dựng nên thể chế lựa chọn dựa trên tài năng và hiệu quả

công tác, các yếu tố chính trị, chủng tộc, dòng họ hay giai cấp xã hội không

thể trở thành yếu tố chủ đạo trong lựa chọn cán bộ.

Để thực hiện theo ý tưởng của chiến lược này, quá trình lựa chọn phải

được tiến hành và phân loại từ rất sớm, thông qua hệ thống giáo dục phổ

thông, thậm chí ngay từ cấp tiểu học. Các cá nhân có thành tích học tập tốt sẽ

được vào học các trường, lớp tốt nhất (các trường chuyên, lớp chọn), là các

trường có đội ngũ giáo viên và điều kiện cơ sở vất chất tốt nhất. Bên cạnh đó,

hệ thống cấp học bổng đại học và sau đại học cũng là công cụ để xác định và

phân loại tài năng tương tự.

130

Công chức nhà nước Singapore có điểm đặc biệt là sự kết nối và đảm

bảo tương quan với khu vực doanh nghiệp. Nhà nước cần các tài năng như

các doanh nghiệp, cho nên phải cạnh tranh mạnh mẽ với các doanh nghiệp

trong việc thu hút nhân tài. Do vậy, lương Thủ tướng cũng như các công chức

cấp cao của Singapore luôn thuộc hạng cao nhất trên thế giới. Tất nhiên, cùng

với đó là quá trình lựa chọn cũng hết sức khắt khe và dựa trên các bằng cấp,

chứng chỉ rõ ràng.

Tuy nhiên, chế độ lựa chọn nhân tài như thế cũng sẽ tạo ra một số vấn

đề hạn chế lớn, như là:

Một là, việc xác định tài năng một cách khách quan, qua các kết quả thi

hay học tập, là rất khó, dễ bị các yếu tố thiên vị, chủ quan làm cho lệch lạc.

Cuối cùng mà nói thì đó vẫn chỉ là hệ thống các chỉ số (đặc biệt là bằng cấp)

mà chưa phải là tài năng thực. Ngay cả khi đưa thêm các hình thức như phỏng

vấn trực tiếp tại chỗ, điều đó cũng mới chỉ khắc phục được phần nào.

Hai là, có nhiều loại tài năng khác mà hệ thống này sẽ bỏ qua. Đặc biệt

là các tài năng liên quan đến lĩnh vực sáng tạo như văn hóa, nghệ thuật. Đây

là các tài năng mà thành tích học tập trong các hệ thống giáo dục chính thức

hiện tại không phản ánh.

Ba là, sự chênh lệch thu nhập giữa các nhóm có tài và không có tài

trong xã hội có thể sẽ dẫn đến các hệ quả xã hội tiêu cực khác.

Chế độ công chức: Nhật Bản là quốc gia áp dụng chế độ công vụ theo

mô hình hỗn hợp, tức vừa có đặc điểm của mô hình chức nghiệp, vừa có đặc

điểm của mô hình việc làm. Theo đó, sau khi được bổ nhiệm vào các vị trí

trong bộ máy nhà nước, trừ trường hợp có vi phạm kỷ luật buộc thôi việc,

công chức Nhật Bản làm việc theo chế độ suốt đời, tức cho đến tuổi nghỉ hưu.

Bên cạnh đó, việc tuyển dụng, bổ nhiệm, đánh giá, đào tạo bồi dưỡng công

chức ở Nhật Bản lại gắn chặt với các đặc điểm của mô hình việc làm. Theo

131

đó, công chức làm việc theo các vị trí công việc nhất định được nghiên cứu,

mô tả chi tiết trong một thời gian dài sau khi được bổ nhiệm.

Công chức Nhật Bản được quy định trong Luật Công chức, bao gồm

toàn bộ những người làm công ăn lương do Ủy ban Nhân sự quốc gia quản

lý, bao gồm tất cả những người làm việc trong các cơ quan nhà nước, và các

đơn vị sự nghiệp nhà nước như các bệnh viện công, trường học công. Tuy

nhiên, số bệnh viện công, trường học công và các đơn vị sự nghiệp khác ở

Nhật Bản rất ít do sự phát triển mạnh mẽ của khư vực tư nhân.

Theo thống kê của Cơ quan Nhân sự quốc gia Nhật Bản (NPA) tổng số

công chức của Nhật Bản năm 2013 là 3.408.000 người, trong đó công chức

quốc gia là 639.000 người (chiếm khoảng 18,8%) và công chức địa phương là

2.769.000 người (chiếm 81,2%). Số lượng công chức năm 2013 giảm mạnh

so với 2012 do chính sách củng cố tinh gọn bộ máy của Nhật Bản, cụ thể

công chức quốc gia giảm 474.000 người, công chức địa phương giảm

451.000 người [81].

Để trở thành công chức các ứng viên phải trải qua kỳ thi tuyển dụng

công chức quốc gia là do Cơ quan Nhân sự quốc gia tổ chức với hai vòng thi.

Ở vòng thi thứ nhất, thí sinh phải làm một bài thi trắc nghiệm, một bài thi

luận; ở vòng thi thứ hai, thí sinh phải vượt qua một cuộc phỏng vấn trực tiếp.

Nếu thí sinh nào qua được hai vòng thi này thì Cơ quan Nhân sự quốc gia sẽ

gửi danh sách đến các bộ, ngành cần tuyển dụng để các thí sinh tham gia

phỏng vấn của các bộ. Còn công chức địa phương (tuyển chọn tại địa

phương) do các địa phương tự tổ chức thi. Các địa phương có quyền hạn độc

lập, Cơ quan Nhân sự quốc gia không can thiệp được vào kỳ thi của địa

phương. Mục đích của kỳ thi tuyển công chức là để đảm bảo tính công minh,

công bằng và trung thực để tìm ra những người có tài năng, có tâm huyết

phục vụ cho đất nước và nhằm xóa bỏ tình trạng thiên vị mối quan hệ gia

132

đình, xã hội trong tuyển dụng. Kỳ thi tuyển còn mang ý nghĩa là kỳ thi xem

xét năng lực trí tuệ và khả năng thích ứng công việc của người dự thi.

Ở Nhật Bản, đào tạo ban đầu dành cho công chức trẻ mới tuyển dụng

vào nền công vụ Nhật Bản được thực hiện theo hình thức đào tạo tại chỗ và

thực hiện đào tạo theo vị trí việc làm chủ yếu theo hình thức học việc và giải

quyết tình huống. Các cơ sở cung cấp các khóa đào tạo ban đầu cho công

chức trẻ Nhật Bản bao gồm: Viện Đào tạo công chức quản lý đô thị; Viện

Đào tạo kỹ năng và trao đổi văn hóa Nhật Bản; Cơ quan nhân lực quốc gia

(NPA); Một số đơn vị đặc thù (như: cơ sở đào tạo của tòa án, cảnh sát, thanh

tra, thuế vụ…); trường cao đẳng tự trị địa phương. Công chức trẻ của Nhật

Bản được đào tạo, bồi dưỡng theo nguyên tắc chi phí thấp nhất và hiệu quả

cao nhất.

Đạo đức công vụ và chính sách đãi ngộ đối với công chức. Đây là nội

dung quan trọng trong các quy định của nền công vụ, công chức Nhật Bản.

Đạo đức này không phải bẩm sinh mà phần lớn được nuôi dưỡng, phát huy

bằng những cơ chế, phương pháp quản lý khách quan như chế độ thi tuyển

công khai, công bằng và chỉ những người ưu tú mới được tuyển dụng vào làm

công chức nhà nước nên họ được xã hội tôn trọng, tin tưởng, từ đó công chức

có niềm tự hào với trọng trách do xã hội giao phó.

Ngoài sự đảm bảo về tiền lương thì đời sống của công chức nhà nước

Nhật Bản được đảm bảo suốt đời qua các chế độ như: nhà ở, lương bổng,

hưu trí...

Chiến lược lựa chọn lãnh đạo chiến lược của Nhật Bản có những đặc

điểm nổi bật sau: lựa chọn lãnh đạo hành chính theo nguyên tắc cạnh tranh,

thống nhất, tuần tự; lựa chọn lãnh đạo chính trị của Đảng Dân chủ Tự do

(LDP) ở Nhật Bản: tập trung và cạnh tranh phe phái.

Bên cạnh việc tập trung vào tính chất tinh hoa của lãnh đạo hành

chính, hệ thống chính trị Nhật Bản còn nhấn mạnh ở tính tuần tự và hài hòa

133

cộng đồng, đây cũng là nét khác biệt so với phương Tây, thể hiện ở hai điểm

cơ bản:

Một là, thăng tiến theo thế hệ: ngay từ tuyển dụng, các công chức đã

được phân tuyến thành hai nhóm cao và thấp. Nhóm cao sẽ gồm những người

có bằng chứng về tài năng qua thành tích học tập ở đại học. Bản thân nhóm

này sẽ là nguồn cung cấp chủ yếu các lãnh đạo cấp cao. Sự thăng tiến về vị trí

luôn áp dụng cho cả nhóm, tức những người cùng thế hệ.

Hai là, lựa chọn người kém để loại bỏ: Điều có tính đương nhiên là,

càng lên cao thì số lượng các vị trí lãnh đạo càng ít, và do vậy trong nhóm

cùng thế hệ không thể đề bạt tất cả. Thay vì chọn người giỏi nhất để đề bạt,

Nhật Bản lựa chọn người kém nhất để loại bỏ, tức là chọn người sẽ không

được đề bạt. Do vậy, bản thân những người được đề bạt cũng không biết rằng

liệu mình có phải là người xuất sắc nhất hay không cho đến khi lên tới cấp

cao nhất.

Cách đề bạt theo thế hệ và lựa chọn ngược như vậy có hai ưu điểm: (1)

Giữ được sự hòa nhập của các đồng nghiệp, đồng cấp; (2) Giữ được động cơ

phấn đầu của đa số vì những người được đề bạt cũng chỉ biết rằng mình

không kém nhất, và do vậy vẫn còn cơ hội thăng tiến. Cách thức đề bạt này

không làm cho các đồng nghiệp còn lại có thể thấy mình đã hết cơ hội và do

đó không làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác và sự gắn kết nhóm.

Tính cạnh tranh trong lựa chọn lãnh đạo còn thể hiện ở hệ thống bầu

cử của Nhật Bản. Tuy Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản là đảng thống trị trong

nhiều năm, nhưng chính hệ thống bầu cử cạnh tranh như vậy đã khiến Đảng

Dân chủ Tự do Nhật Bản phải cải cách, bao gồm cả cải cách trong việc lựa

chọn lãnh đạo chiến lược, mà cụ thể ở đây chính là các ứng cử viên ra tranh

cử hạ nghị viện. Trong cuộc bầu cử gần nhất, lãnh đạo Đảng Dân chủ Tự do

Nhật Bản đã đề cử những ứng cử viên ủng hộ cải cách thay cho thành phần

134

chống đối như một thông điệp về cải cách và đã giành thắng lợi ở ngay tại

những nơi mà Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản vốn yếu thế.

4.2. MỘT SỐ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH

TRỊ VIỆT NAM

4.2.1. Tăng cường tính chính đáng của đảng cầm quyền

Đổi mới hệ thống chính trị trên cơ sở nâng cao sức chiến đấu, năng lực

cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo đảm Đảng Cộng sản Việt Nam

vừa là hạt nhân lãnh đạo, vừa là thành viên của hệ thống chính trị.

Tính chính đáng trong việc cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam

còn được củng cố dựa trên cơ sở khuôn khổ pháp lý của các bản Hiến pháp

năm 1946, 1959, 1980, 1992 (được sửa đổi vào năm 2001), 2013 khẳng

định sự lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối

với Nhà nước và toàn bộ xã hội Việt Nam và các luật đạo khác cũng khẳng

định vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với quá trình chọn lựa đăng kí

ứng cử viên.

Việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của đảng cầm quyền trong quá trình

lãnh đạo nhà nước và xã hội qua kinh nghiệm của các đảng nổi trội cho thấy,

trong quá trình cầm quyền, đảng nào phát huy được hiệu lực và hiệu quả

thông qua: tính nghiêm minh của hệ thống hiến pháp và pháp luật, tính công

ích và hiệu quả của hệ thống chính sách công, đặc biệt là phát triển được kinh

tế - xã hội, đời sống của đại bộ phận được nâng lên, công bằng xã hội duy trì,

an sinh xã hội được đảm bảo... Khi đó niềm tin của nhân dân vào đảng cầm

quyền được nâng lên, tính chính đáng của đảng được nâng cao, thời gian cầm

quyền được duy trì và giữ vững.

Đây sẽ là những giá trị bổ ích cho Đảng ta trong quá trình lãnh đạo

Nhà nước và xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây

dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, như: Tính nghiêm

135

minh của hệ thống Hiến pháp và pháp luật; hiệu lực và hiệu quả của hệ thống

chính sách công; giữ vững tốc độ phát triển kinh tế; giải quyết mối quan hệ

giữa tăng trưởng kinh tế với việc đảm bảo tiến bộ, công bằng xã hội; giải

quyết các vấn đề an sinh xã hội như y tế, giáo dục, xóa đói, giảm nghèo, v.v...

Muốn xây dựng được tính hợp pháp trong cầm quyền, trước tiên phải

quan tâm đến công tác bầu cử. Đảng cần phải đạt được vị trí cầm quyền thông

qua các cuộc bầu cử thực sự dân chủ, tự do, công bằng, đúng pháp luật.

Thông qua đó, Đảng giới thiệu người của mình vào các nắm các vị trí chủ

chốt trong các cơ quan quyền lực nhà nước. Các cuộc bầu cử càng dân chủ, tỷ

lệ cử tri đi bầu càng cao, khi đó tính chính đáng của cơ quan dân cử càng

được củng cố. Khi đó sự tín nhiệm của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước,

vào các cán bộ của Đảng được nâng lên.

So với các nước như Cuba, Lào, CHDCND Triều Tiên thì Trung Quốc

và Việt Nam được coi là có hoạt động bầu cử thường xuyên và dân chủ hơn

cả. Song nếu so sánh với các hoạt động vận động bầu cử ở các nước theo chế

độ đa đảng thì Việt Nam rất khác. Trọng tâm của các kỳ bầu cử không phải là

tuyên truyền, thuyết phục các tầng lớp quần chúng về đường lối, chủ trương

chính sách của Đảng mà trọng tâm là chọn người, sắp xếp để hình thành một

danh sách những người có thể bầu vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp.

Bộ máy Đảng với sự trợ giúp đắc lực của các cơ quan Nhà nước, của các tổ

chức chính trị - xã hội, đặc biệt là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam làm nhiệm vụ

chọn người, sàng lọc người vào danh sách bầu cử và nói chính xác đó là hoạt

động đảng cử, dân bầu. Thông thường Đảng có hướng dẫn về tiêu chuẩn chọn

người và bầu cử, nhấn mạnh tiêu chuẩn chính trị và hoàn thành vai trò đại

biểu của nhân dân. Nhưng nhìn chung việc chọn ai chủ yếu tuân thủ theo

nguyên tắc cơ cấu và thành tích cá nhân trong công tác, cụ thể:

Các biểu hiện của tình trạng dân chủ hình thức trong quá trình bầu

cử, từ khâu giới thiệu ứng cử viên, tiếp xúc cử tri đến khâu bỏ phiếu

136

diễn ra hết sức phổ biến. Quá trình hiệp thương bầu cử còn nặng về

hợp thức hóa sự chỉ đạo, định hướng từ cấp trên, nên chưa thể lựa

chọn được những đại biểu xứng đáng nhất, chưa phát huy được tính

tích cực của người dân [33, tr.264].

4.2.2. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt

Với tư cách là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị, Đảng

và tổ chức đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh. Nghị quyết Hội nghị lần

thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) xác định nhiệm vụ trọng

tâm đầu tiên là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự

suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự

chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ

cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm

vụ”. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này cần nhận thức sâu sắc các nội dung:

- Phải chú trọng xây dựng Đảng về chính trị, bảo đảm sự kiên định chủ

nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển

phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình

độ trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng; tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo

đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, bè phái, cơ hội, thực dụng. Tập

trung thực hiện mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị,

đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta.

- Tăng cường xây dựng Đảng về tư tưởng: Kiên định chủ nghĩa Mác -

Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có tính nguyên tắc số một với Đảng

ta, là nhiệm vụ hàng đầu trong toàn bộ công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.

Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng Đảng và lãnh đạo

tổ chức thực hiện đạt nhiều kết quả. Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư

tưởng đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhận thức được nâng cao hơn, tư duy

137

được đổi mới hơn, tư tưởng được thống nhất hơn, thể hiện ở việc đã tạo được

sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với những

vấn đề lớn, cơ bản trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, công cuộc

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Thực hiện đổi mới bộ máy của Đảng theo hướng tinh gọn, nâng cao

hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành; xác định rõ mối quan hệ giữa tập thể

lãnh đạo và cá nhân phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao

trách nhiệm của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt. Hoàn thiện và thực hiện

nghiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ

luật, kỷ cương. Nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo

công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách

nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu của các tổ chức trong toàn bộ hệ

thống chính trị về công tác cán bộ.

- Xây dựng được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của hệ thống chính trị

về phẩm chất và tài năng, cần có thiết chế và cơ chế thích hợp để thực hiện

hiệu quả công tác cán bộ, trực tiếp là công tác nhân sự, Đảng chủ trương đổi

mới bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, để lựa

chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong

sáng, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Kiên quyết đấu

tranh, ngăn chặn những hiện tượng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, chạy

chức, chạy quyền… gây mất đoàn kết trong Đảng.

- Trong hệ thống chính trị, với tư cách cầm quyền “ Đảng ta là đạo đức,

là văn minh”, để thuyết phục quần chúng nhân dân ủng hộ, hưởng ứng thực

hiện Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết, Đảng chủ trương tăng cường và đổi

mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, củng cố mối quan hệ gắn bó“ máu

thịt” giữa Đảng với nhân dân. Củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối

với Đảng; đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân,

hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân. Quy định rõ hơn

138

Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm

trước nhân dân về những quyết định của mình.

- Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ và cơ chế “Đảng lãnh

đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, nhất là nội dung nhân dân làm

chủ và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám

sát”. Nạn tham nhũng, lãng phí là một trong những nguyên nhân căn bản làm

xói mòn, giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng

lớn đến sự phát triển của đất nước. Đảng quyết tâm, kiên quyết phòng, chống

tham nhũng, lãng phí; xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn quan hệ “lợi

ích nhóm”; chống đặc quyền, đặc lợi; kiên quyết xử lý nghiêm minh theo

pháp luật, không có vùng cấm. Để thực hiện tốt nhiệm vụ lãnh đạo hệ thống

chính trị và toàn xã hội, Đảng đã đề ra yêu cầu phải đổi mới phương thức lãnh

đạo, phương thức cầm quyền của Đảng đối với toàn bộ hệ thống chính

trị; trong đó nhấn mạnh: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về

đảng cầm quyền, xác định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền,

nội dung cầm quyền, điều kiện cầm quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong

điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ cần lưu ý phòng ngừa

đối với đảng cầm quyền”.

Trên bình diện chung, trước những tác động của tình hình mới - thời cơ

và thách thức, để hoàn thành sứ mệnh của mình, Đảng phải “Đoàn kết - Dân

chủ - Kỷ cương - Đổi mới”. Đảng cần có đường lối lãnh đạo đúng đắn và sáng

suốt; có biện pháp nhân lên sức mạnh nội sinh, phát huy cao nhất sức mạnh

của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thời đại; tạo mọi điều kiện thuận lợi để

nhân dân làm chủ xã hội và phát huy tốt vai trò quản lý của Nhà nước ngay từ

địa phương, cơ sở. Mặt khác, với vai trò của nhân tố lãnh đạo công cuộc hội

nhập, phát triển trong điều kiện đối diện với nhiều thách thức hiện nay, Đảng

phải đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống nguy cơ thoái hoá, biến chất, “tự diễn

biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; chủ động, tích cực đấu tranh phòng,

139

chống chiến lược “diễn biến hoà bình” chống phá Việt Nam do các thế lực thù

địch chủ mưu; không để đất nước bị động, bất ngờ.

Đồng thời, cần thiết phải kiểm soát quyền lực từ bên trong, từ trong

Đảng Cộng sản Việt Nam và hệ thống Nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam

với vai trò là lực lượng lãnh đạo xã hội cần phải tiếp tục hoàn thiện điều lệ

Đảng, nguyên tắc hoạt động của đảng thích ứng với tình hình mới của đất

nước. Thế chế hoá các phương thức kiểm soát quyền lực, cơ chế kiểm tra và

giám sát đối với các tổ chức đảng và đảng viên theo hướng đơn giản, minh

bạch và hiệu quả.

Sự gương mẫu và quyết tâm của lãnh đạo đảng, của mỗi đảng viên là

nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần vào sự thành công của chính sách chống

tham nhũng. Cùng với đó là phát huy hiệu quả hoạt động của Uỷ ban kiểm tra

Trung ương và Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Bối

cảnh cụ thể Việt Nam không phù hợp với sự phân tách quyền lực, song giữa

các cơ quan quyền lực nhà nước vẫn cần duy trì sự kiểm soát và giám sát

hành chính; phân định rõ vai trò, chức năng của mỗi cơ quan; chịu sự giám sát

và kiểm tra của Quốc hội.

4.2.3. Xây dựng tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn và hoạt

động hiệu lực, hiệu quả

Đổi mới hệ thống chính trị trước hết là đổi mới tư duy chính trị, đổi

mới tổ chức bộ máy, đổi mới nội dung, phương thức vận hành của hệ thống

chính trị, dân chủ hoá các hoạt động của hệ thống chính trị, trong sạch hoá hệ

thống chính trị làm cho hệ thống chính trị thực sự vững mạnh, hiệu quả, hiệu

lực, từ đó, khơi dậy và phát huy tối đa mọi nguồn lực và sự sáng tạo của xã

hội, phục vụ cho sự nghiệp phát triển của Việt Nam trong những giai đoạn

tiếp theo.

Vấn đề chống tham nhũng liên quan chặt chẽ đến sự tồn tại của đất

nước và đảng cầm quyền, liên quan trực tiếp đến tương lai và chế độ quốc gia.

140

Tham nhũng là một trong những vấn nạn lớn nhất mà chúng ta phải đối mặt.

Do hệ thống tư pháp vẫn chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ Đảng Cộng sản Việt

Nam nên việc ngăn chặn lạm dụng quyền lực của các quan chức nhà nước là

rất khó khăn. Hệ thống tư pháp thiếu độc lập dẫn đến tham nhũng diễn ra bất

chấp sự hiện diện của nhiều thiết chế chống tham nhũng của đảng (Uỷ ban

kiểm tra) và Chính phủ (Thanh tra). Đây là lý do khiến cho các tổ chức độc

lập quốc tế đánh giá chung mức độ tham nhũng ở Việt Nam là rất nghiêm

trọng và không có dấu hiệu cải thiện trong giai đoạn 20 năm qua.

Các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng đã nhận thức được vấn đề này, do đó

đã coi việc tiêu diệt tham nhũng là vấn đề quan trọng liên quan đến sự tồn

vong của Đảng và chế độ. Một quốc gia đang phát triển như Việt Nam chắc

chắn cần đến một “cuộc cách mạng” như Singapore đã từng làm để có thể loại

bỏ được tham nhũng. Phòng, chống tham nhũng về bản chất cũng là ngăn

ngừa sự tha hoá quyền lực, tức là duy trì và phát huy quyền lực của nhân dân

lao động.

Để chống tham nhũng có hiệu quả, đảng cầm quyền phải có đường lối

lãnh đạo đúng đắn, có chiến lược phát triển kinh tế - xã hội thích hợp nhất

và tổ chức thực hiện tốt nhất đường lối, chiến lược đó, ví như Singapore, Nhật

Bản và Hàn Quốc chỉ sau vài chục năm chống tham nhũng tốt đã biến các

quốc gia và vùng lãnh thổ từ nước nghèo khổ, lạc hậu trở thành giàu có văn

minh hàng đầu thế giới. Nhìn chung, sau khi hoàn thành quá trình công

nghiệp hóa các quốc gia không còn hiện tượng tham nhũng như trước.

Hệ thống khai báo tài sản dịch vụ dân sự là một hệ thống cơ bản chống

tham nhũng, giúp ngăn chặn các yếu tố tham nhũng và giám sát hiệu quả bởi

các phòng ban có liên quan. Ở một số quốc gia ở Đông Á đã ban hành “Hệ

thống báo cáo tài sản dịch vụ dân sự” có liên quan. Mặc dù việc thực hiện mỗi

quốc gia có những hiệu ứng khác nhau nhưng nó đã đặt nền tảng quan trọng

141

cho chống tham nhũng. Một khi công nghiệp hoá và hiện đại hóa được hoàn

thành, chống tham nhũng ở Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc sẽ làm cho

việc hợp pháp hóa rõ ràng hơn, hệ thống chống tham nhũng hoàn hảo hơn và

mức độ hiện đại hóa quản trị nhà nước sẽ tăng lên.

Một điều kiện nữa là đảng cầm quyền phải luôn luôn đặt lợi ích dân tộc

lên trên hết, một lòng phục vụ nhân dân, thực sự là đội ngũ tiên tiến nhất, ưu

tú nhất trong xã hội, tuyệt đối không quan liêu, tham nhũng suy thoái, chăm lo

an sinh xã hội, toàn dân được hưởng những dịch vụ tốt hàng đầu về nhà ở, đi

lại, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, môi trường, v.v…

Hệ thống chính trị cấu thành Nhà nước Việt Nam vẫn có đặc trưng

riêng: toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo toàn

diện. Các nhánh quyền lực của Nhà nước do Đảng phân công, phân nhiệm,

phối hợp thực hiện mà không theo mô hình tam quyền phân lập. Nguyên tắc

“phân công, phối hợp và kiểm soát” giữa các cơ quan trong việc thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã được chính thức đưa vào Hiến pháp

2013, tuy nhiên cả ba nhánh quyền lực này đều chịu sự lãnh đạo trực tiếp của

Đảng Cộng sản Việt Nam.

Do sự phân tách quyền lực giữa ba nhánh hành pháp, lập pháp và tư

pháp trong bộ máy Nhà nước Việt Nam còn chưa thật sự rõ ràng nên các

hoạt động “phối hợp và kiểm soát” của các cơ quan thuộc ba nhánh quyền

lực còn khá mờ nhạt. Cả ba nhánh quyền lực Nhà nước vẫn chưa có những

cơ chế giải trình hữu hiệu để kiểm soát quyền lực của nhau. Hiện tại, Chính

phủ mới chỉ phải chịu trách nhiệm chất vấn định kỳ trong các kỳ họp Quốc

hội. Tuy nhiên, chất vấn thường khá dàn trải và chưa có tính ràng buộc giải

quyết vấn đề. Các hoạt động tư pháp cũng phải gửi báo cáo định kỳ tới Uỷ

ban Tư pháp của Quốc hội và Uỷ ban này sẽ thẩm định mức độ tin cậy của

các báo cáo. Rõ ràng là hình thức giải trình này rất kém công khai và càng

không có tính ràng buộc.

142

Do chưa có Toà án Hiến pháp nên hiện các cơ quan hành pháp, lập

pháp vẫn chưa phải chịu trách nhiệm giải trình với nhánh tư pháp. Hệ thống

kiểm soát quyền lực còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Mối quan hệ kiểm

tra, giám sát, lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lập pháp,

hành pháp, tư pháp chưa được xác lập rõ ràng. Khả năng tự kiểm soát, tự

kiểm tra trong từng tổ chức, cơ quan nhà nước còn yếu. Sự kiểm tra của

Đảng, thanh tra của Nhà nước chủ yếu tập trung vào chống các vi phạm mà

chưa thực sự chú trọng đến phòng ngừa vi phạm.

Kinh nghiệm của Nhật Bản cho thấy, ngay cả khi Nhà nước được lãnh

đạo bởi một đảng nổi trội trong thời gian dài thì hệ thống tư pháp cần phải giữ

độc lập với các cơ quan quyền lực khác của Nhà nước và miễn nhiễm hoàn

toàn với mọi sự can thiệp của chính trị. Hệ thống tư pháp cần chịu trách

nhiệm về tính công minh trực tiếp với người dân. Với hệ thống tư pháp như

vậy, đảng nổi trội sẽ chịu áp lực luôn phải hành xử trong khuôn khổ hiến pháp

và pháp luật vì lợi ích của nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam cần mạnh dạn hơn trong việc cải cách tư

pháp theo kinh nghiệm của Nhật Bản, cho phép hệ thống tư pháp hoạt động

độc lập với hệ thống chính trị, cần có sự phân chia quyền lực ở một mức độ

nào đó giữa Trung ương và địa phương, giữa các nhánh quyền lực trong bộ

máy Nhà nước. Nếu làm được điều này thì các hoạt động chống tham nhũng

mới thực sự có hiệu quả và không hình thức.

Đổi mới hệ thống chính trị là đổi mới tổ chức, bộ máy sao cho thật

tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả cao nhất. Đây là vấn đề phức tạp và

nhạy cảm, đòi hỏi phải có quyết tâm, sự nhất trí cao và tầm nhìn chiến lược.

Nếu việc sắp xếp, tổ chức bộ máy không đồng bộ, tổng thể với đổi mới thể

chế, chính sách, phương thức hoạt động sẽ dẫn đến tình trạng khi tách khi

nhập tổ chức bộ máy, lúc giảm lúc tăng đầu mối mà biên chế vẫn ngày càng

tăng. Thực tiễn tổ chức bộ máy Nhà nước ta hiện nay còn cồng kềnh, “chưa

143

khắc phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các

thiết chế, chức năng của các cơ quan Chính phủ, Đảng và các đoàn thể

chồng chéo lên nhau, trong khi các vấn đề mang tính chất liên ngành, liên

vùng thì lại không giải quyết được, làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền

lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của Nhà nước”. Đây là nguyên nhân

khiến cho tỷ lệ chi thường xuyên của ngân sách Nhà nước ngày một lớn, bội

chi ngân sách ở mức cao triền miên, Chính phủ phải phát hành trái phiếu với

quy mô ngày một lớn, dẫn tới nợ công còn cao, đe doạ sự ổn định của môi

trường vĩ mô.

So sánh với các nước có hệ thống chính trị một đảng nổi trội thành

công như Nhật Bản, thì nguyên nhân chính ở đây là bộ máy hành chính

Nhà nước Việt Nam song trùng chức năng với hệ thống Đảng Cộng sản

Việt Nam. Điều này dẫn đến việc chính trị hoá các hoạt động kỹ trị, chỉ

những người là đảng viên mới được bổ nhiệm vào vị trí quản lý, không thu

hút được người tài tham gia vào bộ máy Nhà nước nên cần nhiều người để

thực hiện các nhiệm vụ hành chính, dẫn đến sự “cồng kềnh, phình to” của

bộ máy.

Từ kinh nghiệm của Đảng Hành động Nhân dân Singapore, trong quá

trình cầm quyền, để nâng cao được hiệu lực, hiệu quả trong quá trình cầm

quyền, Đảng cần được tổ chức tinh gọn, Đảng phải thực sự “hóa thân” vào

Nhà nước. Tức là, các vị trí chủ chốt của Đảng cũng đồng thời nắm các

cương vị chủ chốt trong các cơ quan quyền lực nhà nước thông qua các cuộc

bầu cử toàn dân. Nhờ con đường bầu cử, các cá nhân trong Đảng có được

tính hợp pháp trong quá trình nắm các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà

nước. Không tổ chức bộ máy của Đảng cồng kềnh, song song với bộ máy

nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.

Đây cũng là giá trị có thể tham khảo trong quá trình đổi mới phương

thức cầm quyền của Đảng ta trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay.

144

4.2.4. Cơ chế thu hút nhân tài tham gia hệ thống chính trị

Trong hệ thống chính trị các nước có hai loại lãnh đạo rõ ràng: lãnh đạo

chính trị và lãnh đạo kỹ trị hành chính. Tương ứng với đó là hai quy trình lựa

chọn hết sức khác biệt. Đương nhiên các nước khác nhau có các quy trình lựa

chọn khác nhau cho các vị trí khác nhau.

Với các lãnh đạo chính trị, nguyên tắc quan trọng nhất là quyền lực do

ủy nhiệm, tức lựa chọn qua bầu cử phổ thống đầu phiếu trực tiếp hoặc gián

tiếp. Trong khi đó, với các lãnh đạo kỹ trị, tức các công chức cấp cao, nguyên

tắc quan trọng nhất là thẩm quyền chuyên môn, tức lựa chọn qua thi tuyển

công khai, khách quan, và thông thường không được có quan điểm chính trị

riêng mà phải tuân thủ đường lối của lãnh đạo chính trị do dân bầu ra.

Trong các nước Đông Á và Đông Nam Á, mỗi nước đều có đặc điểm

riêng. Singapore là trường hợp khá đặc thù vì có quy mô nhỏ hơn các nước

khác và vẫn đang chịu ảnh hưởng quan trọng bởi tư tưởng của Thủ tướng Lý

Quang Diệu với chủ thuyết tinh hoa và chế độ nhân tài. Cách thức lựa chọn

như vậy ở các nước có quy mô dân số lớn và đa dạng sắc tộc có thể tiềm ẩn

nhiều rủi ro vì dễ tạo ra các bất đồng xã hội khó giải quyết. Tuy nhiên, cả

Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc đều chấp nhận hệ thống bầu cử đa đảng

cạnh tranh. Điểm chung của các quốc gia này là coi trọng tính thứ bậc và trật

tự. Vì vậy, hệ thống bầu cử dân chủ kiểu phương Tây có vai trò khác hơn

trong lựa chọn lãnh đạo chiến lược.

Ở Việt Nam, có ba điểm nổi bật cần nghiên cứu, đánh giá một cách cụ

thể, khoa học, đó là: Một là, thiết kế hệ thống chính trị không tách biệt giới kỹ

trị và chính trị, do đó các tiêu chí về tài năng, hiệu quả và đạo đức dễ bị lẫn

lộn và vận dụng không thống nhất bằng cách đưa các tiêu chí dù quan trọng

cho vị trí này, nhưng lại không thích hợp vào việc lựa chọn cán bộ ở vị trí

khác, trong đó có tiêu chí về bằng cấp và tuổi tác. Hai là, các thể chế mang

145

tính thúc đẩy sự tham gia rộng và thực chất hơn của các nhóm xã hội cũng

như của người dân nói chung vào quy trình lựa chọn lãnh đạo chiến lược còn

có mặt hạn chế. Sự tham gia rộng rãi của cộng đồng không chỉ là phép thử về

các phẩm chất mà còn là cơ chế quan trọng để thay thế lãnh đạo, đảm bảo sự

hòa hợp, đoàn kết nhất thiết phải có cho mọi cộng đồng. Ba là, trong công tác

cán bộ chưa rõ sự ưu tiên về tính tuần tự hay tính đột phá. Vì vậy, còn có sự

vận dụng thiếu thống nhất, tiềm ẩn rủi ro lớn của bảo trợ cá nhân đã được các

nghiên cứu chính trị chỉ ra trong quá khứ. Điều này có thể được thể hiện dưới

nhiều hình thức bảo trợ do các mối quan hệ gia đình, dòng tộc; quan hệ đồng

hương, quan hệ đồng môn và cả quan hệ lợi ích.

Do đó, các phương hướng cải thiện phương thức lựa chọn lãnh đạo

chiến lược ở Việt Nam hiện nay là:

Thứ nhất, phân định rõ các tiêu chí kỹ trị và chính trị (hồng và chuyên)

và có hệ thống xác định sự ưu tiên cho từng nhóm, vị trí.

Thứ hai, nhấn mạnh sự rèn luyện và đào tạo thực chất hơn nữa. Coi đây

là tiêu chí quan trọng khi lựa chọn chứ không quá dựa vào số phiếu bầu.

Thứ ba, tạo dựng một số thể chế để các tổ chức, các nhóm xã hội có sự

tham gia thực chất hơn trong quy trình lựa chọn, dù chỉ đóng vai trò là “bộ lọc

cuối cùng” hơn là các thể chế lựa chọn, xác định và đào tạo.

Bên cạnh đó, công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống

chính trị cần phải thể hiện đúng quan điểm “ý Đảng, lòng dân”, nghĩa là phải

tạo cơ chế để nhân dân được trực tiếp tham gia quy trình bầu, chọn cán bộ của

hệ thống chính trị, nhất là cán bộ cao cấp đứng đầu Nhà nước, Chính phủ,

chính quyền các cấp; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

Đảng với tư cách là lực lượng lãnh đạo duy nhất đối với Nhà nước và

xã hội, là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, nên chất lượng công tác cán bộ

và quản lý đội ngũ cán bộ của Đảng quyết định đến chất lượng, hiệu quả tổ

146

chức và hoạt động của cả hệ thống chính trị. Đảng chỉ quyết định bổ nhiệm

cán bộ, bố trí cán bộ trên cơ sở lá phiếu tín nhiệm của nhân dân. Đảng biết

dựa vào nhân dân, sẽ hiểu thấu, đánh giá đúng cán bộ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ “Dân chúng rất đông”, “Tai mắt

họ nhiều, việc gì họ cũng nghe, cũng thấy”. Nhân dân là người nhìn nhận

được phẩm chất, tài năng, cũng như những thói hư, tật xấu của những người

lãnh đạo, quản lý họ. Cho nên, nhân dân tham gia bầu, chọn cán bộ thì sẽ hạn

chế được nạn “bè phái”, “nhóm lợi ích”, “thân thích”; phát hiện được tham

nhũng, thoái hóa, biến chất và góp phần xây dựng được đội ngũ cán bộ có

phẩm chất, năng lực và uy tín để xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững

mạnh, là cơ sở quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.

147

Tiểu kết chương 4

Đổi mới hệ thống chính trị của một quốc gia là vấn đề rất lớn, rất quan

trọng, có ý nghĩa chiến lược liên quan mật thiết đến những vấn đề lý luận cơ

bản về phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng, vai trò quản

lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Yêu cầu đổi mới

hệ thống chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế; giải quyết tốt mối quan

hệ biện chứng giữa nhà nước, thị trường và xã hội, liên quan đến quyền lợi và

nghĩa vụ của người dân trong thực hiện kỷ cương, pháp luật.

Trên cơ sở khảo cứu một số trường hợp điển hình trên thế giới như:

Nhật bản, Hàn Quốc, Singapore, tác giả đã khái quát một số nét nổi bật của hệ

thống chính trị một đảng nổi trội trên các khía cạnh như: tính chính đáng của

đảng cầm quyền, chính sách của đảng cầm quyền, bộ máy nhà nước trong hệ

thống chính trị một đảng nổi trội, chế độ thu hút nhân tài tham gia hệ thống

chính trị từ đó đưa ra một số gợi mở về: Tăng cường tính chính đáng của đảng

cầm quyền; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt; Xây dựng tổ

chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn và hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Cơ

chế thu hút nhân tài tham gia hệ thống chính trị. Đây là những nội dung có giá

trị tham khảo cho việc thiết kế mô hình, đổi mới hệ thống chính trị cho Việt

Nam hiện nay.

Đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam luôn là nhiệm vụ trọng tâm,

thường xuyên của Đảng, do đó, quá trình xây dựng hệ thống chính trị bên

cạnh việc nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn tổ chức, hoạt động của hệ

thống chính trị trong nước cần thiết phải mở rộng nghiên cứu hệ thống chính

trị của nhiều nước trên thế giới để tiếp thu những giá trị tích cực, tiến bộ từ đó

tiến hành đổi mới hệ thống chính trị trong nước phù hợp với tình hình cụ thể

của Việt Nam, vừa đảm bảo hội nhập quốc tế.

148

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới và kiện toàn tổ chức, hoạt

động của hệ thống chính trị ở Việt Nam không những là yêu cầu lý luận mà

còn là nhiệm vụ thực tiễn, là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của sự

nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Đổi mới hệ thống chính trị là nhiệm vụ

chung của cả nước nhằm đưa Việt Nam phát triển một cách toàn diện và xứng

tầm với các quốc gia trên thế giới. Vấn đề xây dựng Đảng và đổi mới hệ

thống chính trị không chỉ là vấn đề của một dân tộc, một quốc gia mà còn là

vấn đề của thời đại, của nhân loại.

Đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam không phải là tạo ra một hệ thống

chính trị mới mà trái lại, phải đổi mới để giữ vững bản chất của hệ thống

chính trị hiện nay. Trên cơ sở tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị

hiện nay, việc đổi mới cần được thực hiện theo hướng hoàn thiện để nâng cao

chất lượng, hiệu quả hoạt động, khắc phục các mặt hạn chế, yếu kém và bất

cập trong toàn bộ hệ thống và trong từng tổ chức thành viên của hệ thống

chính trị; xác định chức năng, nhiệm vụ của mỗi thành viên trong hệ thống

chính trị và cả hệ thống chính trị; trên cơ sở đó phải sắp xếp lại hệ thống

chính trị một cách khoa học, tinh gọn, hợp lý đáp ứng các yêu cầu của kinh tế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa của dân, do dân, vì dân và hội nhập quốc tế.

Việc tham khảo, nghiên cứu kinh nghiệm của nước ngoài, các mô hình

hệ thống chính trị, đặc biệt là hệ thống chính trị một đảng nổi trội có những

nét tương đồng với Việt Nam phải được chọn lọc, bảo đảm tính lịch sử, cụ thể

và phù hợp. Cần nhận định rõ, trong thực tế không có mô hình hệ thống chính

trị nào là hoàn thiện, hoàn mỹ trong mọi giai đoạn, mọi quốc gia, dân tộc; mà

chỉ có thể coi các mô hình ấy là phương án giải quyết các vấn đề đặt ra của xã

hội trong những điều kiện lịch sử nhất định, do đó, có những thành công trong

giới hạn nhất định và có những khiếm khuyết.

149

Nghiên cứu mô hình hệ thống chính trị một đảng nổi trội ở các quốc gia

châu Á điển hình như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đều chỉ ra rằng: Đảng

nổi trội cầm quyền hội trong một thời gian lâu dài vận hành hệ thống chính trị

vì một mục tiêu chung là giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội, phát triển

kinh tế và mọi mặt đời sống xã hội. Theo đó, có những giá trị mang tính tham

khảo cho việc thiết kế mô hình, đổi mới hệ thống chính trị cho Việt Nam hiện

nay, cụ thể như: cần tăng cường tính chính đáng của đảng cầm quyền; xây

dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt; xây dựng tổ chức bộ máy hệ

thống chính trị tinh gọn và hoạt động hiệu lực, hiệu quả, kiên quyết chống

tham nhũng; cần có cơ chế thu hút nhân tài tham gia hệ thống chính trị

Tuy nhiên, cần lưu ý một số hệ lụy kèm theo của quá trình cầm quyền

lâu dài của một đảng chính trị nổi trội như:

Một là, do cầm quyền trong thời gian dài tất dễ nảy sinh chủ nghĩa bè

phái làm cản trở việc thực hiện các chính sách của đảng cầm quyền và cản

trở sự vận hành của bộ máy của hệ thống chính trị. Do vậy, cần phải có

biện pháp ngăn chặn sự này sinh và tác động của chủ nghĩa bè phái trong

đảng cầm quyền.

Hai là, xu hướng bảo vệ quyền lợi của mình theo kiểu lợi ích phe nhóm

ở các bộ trong chính phủ. Điều này dẫn tới việc hình thành những “bức

tường” vô hình trong quá trình vận hành, cản trở tốc độ và suy giảm sức mạnh

của chính phủ và của cả hệ thống chính trị. Chính vì vậy, cải cách bộ máy của

hệ thống chính trị chỉ thực sự có hiệu quả khi được tiến hành trên quy mô

toàn hệ thống chứ không chỉ tiến hành cục bộ ở một bộ phận nào đó.

Ba là, sự kết nối của tam giác quyền lực (nhà chính trị, các quan chức,

các doanh nghiệp), sự chi phối của các công ty, tập đoàn kinh tế “sân sau” sẽ

trở thành yếu tố thao túng sự vận hành của bộ máy của hệ thống chính trị và

ngăn cản mọi quá trình cải cách tiến bộ nhằm hoàn thiện bộ máy của hệ thống

chính trị.

Hệ thống chính trị Việt Nam được hình thành và phát triển trên cơ sở

chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cách mạng đất

150

nước. Việc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nhằm xây dựng và

hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân

dân. Chính vì vậy, để đạt được mục tiêu đó, vấn đề đổi mới, nâng cao chất

lượng và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị luôn là nhiệm vụ trọng

tâm, thường xuyên của Đảng, từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong những năm qua, những công trình nghiên cứu liên quan đến hệ

thống chính trị và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam đã được nhìn nhận

dưới nhiều khía cạnh, nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau của nhiều nhà

nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu đã thể hiện nhiều khía cạnh, quan

điểm và biện pháp khác nhau nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và

quản lý của Nhà nước Việt Nam nói chung. Đây là một trong những vấn đề

quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là một

trong những tiền đề quan trọng cho Việt Nam từng bước khẳng định và hội

nhập với thế giới.

Chính vì vậy, trong quá trình xây dựng hệ thống chính trị, không chỉ

cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về tổ chức và

hoạt động của hệ thống chính trị trong nước mà cần thiết phải mở rộng nghiên

cứu lý luận về hệ thống chính trị ở nhiều nước trên thế giới để tham khảo có

chọn lọc kinh nghiệm của các nước, tiếp thu một cách cầu thị các giá trị phổ

biến của nhân loại, để có cơ sở trong các suy tính về đổi mới, hoàn thiện hệ

thống chính trị vừa phù hợp với tình hình cụ thể của Việt Nam, vừa đảm bảo

hội nhập quốc tế hiệu quả.

Đồng thời, đây cũng là nhân tố quyết định đến sự thành công, phát triển

của đất nước, là động lực chủ yếu cho sự phát triển và tiến bộ xã hội, là nhân

tố quyết định vận mệnh dân tộc. Nhận thức được vai trò và sứ mệnh to lớn đó,

Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như những nhà nghiên cứu đã có chủ

trương, chính sách nhằm phát huy vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam và

toàn bộ hệ thống chính trị trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

151

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Hoàng Ngọc Phương (2019), "Quan niệm của Singapore về hiền tài và chính

sách thu hút hiền tài", Tạp chí Giáo dục lý luận, số ISSN 0868-3492,

(299), tr.67-72.

2. Hoàng Ngọc Phương (2020), "Một số suy nghĩ về đổi mới hệ thống chính trị

ở Việt Nam trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay", Tạp chí Thông tin khoa

học lý luận chính trị, số ISSN-2354-1040, (61), tr.71-74.

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tài liệu tiếng Việt

1. Acemoglu và Robinson (2017), “Tại sao có quốc gia thất bại” Nguồn gốc

của Quyền lực, Thịnh vượng và Nghèo đói, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ

Chí Minh.

2. Nguyễn Thế Anh (2016), “Vai trò bảo vệ công lý của Tòa án trong

Hiến pháp 2013”, https://tcnn.vn/news/ detail/34265/Vai_tro_bao_

ve_cong_ly_cua_Toa_an_trong_Hien_phap_2013all.html

3. Hoàng Chí Bảo (2001), “Đẩy mạnh xây dựng và chỉnh đốn Đảng về mặt tổ

chức”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 10.

4. Hoàng Chí Bảo (2006), “Một số vấn đề về định hướng xã hội chủ nghĩa và

đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 5.

5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2016), Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư

Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII), Hà Nội.

6. Bộ Nội vụ (2013), Đề án phân cấp quản lý nhà nước trung ương - địa

phương, Hà Nội.

7. Trường Chinh (1987), Đổi mới là đòi hỏi bức thiết của đất nước và thời

đại, Nxb Sự thật, Hà Nội.

8. Vũ Hoàng Công (2005), “Kinh nghiệm về tổ chức và hoạt động của đảng

cầm quyền trong điều kiện một đảng (hay một đảng nổi trội)”, Kỷ yếu

Đề tài nhánh số 9 - Chương trình KX10, Đề tài KX 10-10 - Phân tích

kinh nghiệm và tổ chức hoạt động của các đảng cầm quyền trên thế

giới, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

9. De Tocqueville, Nền dân trị Mỹ (Phạm Toàn dịch) (2006), Nxb Tri thức.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

153

11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

13. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban

Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

16. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi

mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo tổng

kết lý luận (2006), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn

qua 20 năm đổi mới 1986 - 2006, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo

tổng kết lý luận (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực

tiễn qua 30 năm đổi mới 1986 - 2016, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, NxbChính trị Quốc gia, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban

Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban

Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

154

24. Nguyễn Hữu Đổng, Ngô Huy Đức (2011), “Nhận thức các khái niệm

đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo ở nước ta”, Tạp chí Lý luận Chính trị,

(6), tr.35-39.

25. Nguyễn Hữu Đổng (2013), “Đảng hóa thân vào Nhà nước” trong đổi mới

phương thức cầm quyền của Đảng ta”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,

số 17(249), tr.3-8.

26. Ngô Huy Đức (2008), Các mô hình dân chủ trên thế giới, Đề tài KX 10.10

Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

27. Ngô Huy Đức (2009), Phương thức lãnh đạo của đảng cầm quyền tại

một số nước, www.scribd.com.

28. Ngô Huy Đức (2011) (Chủ nhiệm đề tài) “Các nền dân chủ ở phương

Đông dưới góc nhìn chính trị học so sánh”, Viện Chính trị học - Học

viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

29. Hayek, F.A. (2015), “Tự do kinh tế và chính thể đại diện” (Đinh Tuấn

Minh dịch), Nxb Tri thức.

30. Trần Đình Hoan (2008) (Chủ biên), Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ

thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005 - 2020, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

31. Hội đồng Lý luận Trung ương (2015), Những vấn đề lý luận và thực tiễn

đặt ra trong tình hình hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

32. http://www.psc.gov.sg/

33. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên) (2010), Đảng Cộng sản cầm quyền - nội

dung và phương thức cầm quyền của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia -

Sự thật, Hà Nội.

34. Đỗ Minh Khôi (2013), “Vai trò hiến định của Nguyên thủ quốc gia”,

Đặc san Khoa học pháp lý (Về quyền con người, về sửa đổi Hiến pháp

1992), Số 3, tr.11-16.

35. Ngụy Kiệt, Hạ Diệu (1993), Bí quyết cất cánh của bốn con rồng nhỏ,

Nxb Thống kê. Tp. Hồ Chí Minh.

155

36. Võ Văn Kiệt (2007), Đổi mới bản lĩnh và sáng tạo, Nxb Quân đội nhân

dân, Hà Nội.

37. Đặng Xuân Kỳ (2004), “Đảng phải thường xuyên đổi mới, tự chỉnh đốn”,

Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 3, tr.8.

38. Đặng Xuân Kỳ (2004), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với

Nhà nước”, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 10, tr.9.

39. Đặng Xuân Kỳ (2004), “Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động

của Đảng”, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 5, tr.11.

40. Đặng Xuân Kỳ (2004), “Thực hiện tốt hơn nữa dân chủ trong Đảng”,

Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 4, tr.9.

41. Đặng Xuân Kỳ (2004), “Tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao tư tưởng

trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Tạp chí

Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 2.

42. V.I.Lênin (1978), “Toàn tập”, Nxb Tiến bộ, M., tập 37.

43. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, Tập 43, (bản tiếng

Nga, t.43).

44. Lê Mai Linh (2015), “Tăng cường vai trò của Nghị viện trong tiến trình

cải cách bộ máy nhà nước”, Tạp chí Khoa học, Đại học Thái Nguyên,

số 11, tr.20.

45. Phạm Thế Lực (2010), “Những điều kiện cơ bản đảm bảo vai trò lãnh

đạo của Đảng trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt

Nam hiện nay”, Thông tin Chính trị học, (46), tr.10-12.

46. Lê Quốc Lý (2014), Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Michael P.Todaro (1998), Kinh tế học cho thế giới thứ ba, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

48. Mill, J.S(1859), “Bàn về tự do” (Nguyễn Văn Trọng dịch) 2005, Nxb Tri

Thức, Hà Nội.

156

49. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

50. Đỗ Mười (1990), Xây dựng Nhà nước của nhân dân - Thành tựu, kinh

nghiệm, đổi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội.

51. Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2008), Vị trí đảng cầm quyền và vai trò lãnh

đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện mới, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

52. Nguyễn Thị Kim Ngân: “Bài phát biểu tại Phiên khai mạc kỳ họp thứ

nhất, Quốc hội khóa XIV, trước đại biểu Quốc hội và cử tri cả nước”,

http://baophutho.vn

53. Lê Hữu Nghĩa (2005), “Sáu mươi năm Nhà nước Cách mạng Việt Nam -

Những thành tựu nổi bật và vấn đề đặt ra hiện nay”, Tạp chí Cộng sản,

số 9, tr.12.

54. Lê Hữu Nghĩa (2013), Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị

ở nước ta hiện nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Lý

luận Chính trị, số 1, tr.15.

55. Dương Xuân Ngọc, Lưu Văn An (2003) (Chủ biên), Thể chế chính trị thế

giới đương đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Vũ Văn Nhiêm (2011), “Vai trò của bầu cử trong việc xây dựng nhà

nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, Tạp chí Nghiên cứu lập

pháp, số 14 (199), tháng 7, tr.13.

57. Nhiều tác giả (2004), Đổi mới ở Việt Nam - tiến trình, thành tựu và kinh

nghiệm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Nguyễn Trọng Phúc (2007), Đổi mới ở Việt Nam thực tiễn và nhận thức

lý luận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Nguyễn Xuân Phúc: “Phát biểu của Thủ tướng tại phiên họp thường kỳ

tháng 4 của Chính phủ, ngày 4-5-2016”, http://vneconomy.vn.

60. Thang Văn Phúc, Nguyễn Đăng Thành (2005), Một số lý thuyết và kinh

nghiệm tổ chức nhà nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

157

61. Thang Văn Phúc (2007), Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối

với nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa, www.tapchicongsan.org.vn

62. Thang Văn Phúc (2010), Vai trò của các tổ chức xã hội đối với phát triển

và quản lý xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Nguyễn Minh Phương (2013), “Thực trạng phân cấp, phân quyền và vấn

đề tự quản địa phương tại Việt Nam”, Văn phòng Quốc hội, Oxfam,

Unicef, Hội thảo Tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam:

Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Ninh Thuận.

64. Phạm Ngọc Quang, Ngô Kim Ngân (2007) (Đồng chủ biên), Phương

thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Phạm Ngọc Quang (2010), “Một đảng duy nhất cầm quyền - sản phẩm

tất yếu của thực tiễn chính trị - xã hội ở Việt Nam” Tạp chí Cộng sản,

(813), tr.45-49.

66. Phạm Ngọc Quang (2013), “Cơ sở đánh giá năng lực của Đảng Cộng sản

cầm quyền”, Tạp chí Cộng sản, (854), tr.35-38.

67. Lê Minh Quân (2006) (chủ biên), Về một số xu hướng chính trị chủ yếu

trên thế giới hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

68. Lê Minh Quân (2004), “Về xây dựng thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước

hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 13, tr.15.

69. Tô Huy Rứa, Nguyễn Cúc, Trần Khắc Vệt (Đồng chủ biên) (2003),

“Giải pháp đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở các tỉnh miền

núi nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

70. Tô Huy Rứa (2005) (Chủ nhiệm đề tài), KX. 10-10 “Mô hình tổ chức

và hoạt động của hệ thống chính trị ở một số nước trên thế giới”,

Hà Nội.

158

71. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (2006),

Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

72. Tô Huy Rứa (2008) (chủ biên), Mô hình tổ chức và hoạt động của hệ

thống chính trị một số nước trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

73. Đặng Đình Tân (chủ biên) (2004), Thể chế Đảng cầm quyền một số vấn

đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

74. Đặng Đình Tân và Đặng Minh Tuấn (2005), Hệ thống lưỡng đảng ở

Anh và Mỹ, Kỷ yếu Đề tài nhánh số 9 - Chương trình KX10, Đề tài

KX 10-10 - Phân tích kinh nghiệm và tổ chức hoạt động của các

đảng cầm quyền trên thế giới, Học Viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

75. Đặng Đình Tân (2006) (Chủ biên), Thể chế đảng cầm quyền - Một số vấn

đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

76. Tạ Ngọc Tấn (2012) (Chủ biên), Một số vấn đề về các đảng chính trị trên

thế giới, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

77. Nguyễn Xuân Tế, Đặng Đình Thành (2003), “Vai trò các đảng chính trị

nói chung, đảng cầm quyền nói riêng đối với nhà nước trong chủ

nghĩa tư bản hiện đại (qua khảo sát một số mô hình tiêu biểu)”, Tạp

chí Khoa học pháp lí, (1), tr.24-20.

78. Hồ Bá Thâm (2012), “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong

điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay - vấn đề đang đặt ra”, Tạp chí

Sinh hoạt lý luận, số 3(112).

79. Mạch Quang Thắng (1991), “Đảng trong hệ thống chính trị”, Tạp chí

Cộng sản, số 423, tr.6.

80. Thomson Learning (2008), Bài học thành công của Singapore, Nxb

Cengage Learning.

159

81. Tổng quan về công chức và mô hình đánh giá công chức của Nhật Bản

(2014), Trang thông tin điện tử: Tạp chí Tổ chức Nhà

nước, https://tcnn.vn/news/detail/7158/Tong_quan_ve_cong_chuc_va

_mo_hinh_danh_gia_cong_chuc_cua_nhat_Banall.html

82. Tinh Tinh (2002) (chủ biên), Cải cách chính phủ - Cơn lốc chính trị cuối

thế kỷ XX, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội..

83. Ngô Đức Tính (2004) (Chủ biên), Một số Đảng chính trị trên thế giới,

Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

84. Ngô Đức Tính (2006), Một số đảng chính trị phương Tây, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

85. Tổ chức Minh bạch Quốc tế (2014): Chỉ số cảm nhận tham nhũng 2014,

công bố ngày 3-12-2014.

86. Tom Plate (2011), Đối thoại với Lý Quang Diệu - Nhà nước công dân

Singapore - Cách thức xây dựng một quốc gia, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

87. Tom Plate (2016), Đối thoại với maharir Mohamad, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

88. Lưu Ngọc Trịnh (2012) (chủ biên), Kinh tế và chính trị thế giới đến năm

2020, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội

89. Nguyễn Phú Trọng (2005): Đổi mới tư duy lý luận vì sự nghiệp xây dựng

chủ nghĩa xã hội, Báo Nhân dân, ngày 31/01/2005.

90. Nguyễn Phú Trọng (2008), Đổi mới và phát triển ở Việt Nam, một số vấn

đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

91. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2016), Hiến pháp năm 2013 và thành tựu

lập pháp trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

92. Ủy ban Thường vụ Quốc hội: “Phiên họp thứ 45, Ủy ban Thường vụ

Quốc hội đã nghe và cho ý kiến về dự thảo Báo cáo công tác nhiệm kỳ

2011-2016 của Chủ tịch nước, Chủ tịch nước thể hiện được vai trò

nguyên thủ quốc gia”, http://vov.vn.

160

93. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) - Viện Kinh tế Việt

Nam (VIE) - Viện nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) - Phòng

Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) được dịch sang tiếng

Việt bởi Đinh Tuấn Minh (Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học

và Công nghệ) và Phạm Thế Anh (Khoa Kinh tế học, Trường Đại học

Kinh tế Quốc dân Hà Nội) (Chủ biên) (2016), Từ nhà nước điều hành

sang nhà nước kiến tạo phát triển, Nxb Tri thức, Hà Nội.

94. Phạm Thái Việt (2006), Toàn cầu hóa: Những biến đổi lớn trong đời

sống chính trị quốc tế và văn hóa, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

95. Xem The Institute for National Policy Research. http://www.inpr.org.twlinprlen/

96. Xem Chiang Ching-kuo Foundation for International Scholarly

Exchange, http:// WWW.cckf.org/e-organization-3.him.

97. Xem Democracy “Second Taiwan Miracle”, The Washington Times

June 13, 1997.

98. Wen Tan Xie (2017), Về chống tham nhũng. Nhận thức Tham nhũng

khảo sát nhận thức của cán bộ công chức nghiên cứu chính sách,

Giảng viên Đại học Hàn Quốc, Graduate School of Education Policy

Professional, p.22.

99. WGI Kiểm soát tham nhũng (14/4/2017) https://www.un.org/en/

* Tài liệu tiếng Anh

100. Alan Ware (1996), Political Parties and Party Systems, Oxford: Oxford

University Press.

101. Andrew Heywood (1997), Politics, Basingstoke: Macmillan/Palgrave.

102. Arend Lijphart (2000), “Varieties of Nonmajoritarian Democracy”, in

Democracy and Institutions: The Life Work of Arend Lijphart, ed.

Markus Crepaz, Thomas Koelble, and David Wilsford (Ann Arbor:

University of Michigan Press).

161

103. Benjamin Nyblade, The Dynamics of Dominance, http://socsciz.ucsd.

edu/aronatas/secret treat/Nyblade.Ben.pdf.

104. Berman, Sheri (1997), “Civil Society and the Collapse of the Weimar

Republic”, World Politics, 49(3), pp.401-29.

105. Diamond, Larry, Marc F. Plattner, Yub-han Chu, and Hung-mao Tien

(editors) (1997), Consolidating The Third Wave Democracies,

Baltimore and London: Johns Hopkins University.

106. Democracy “Second Taiwan Miracle”, The Washington Times June 13, 1997.

107. Derek Jones (2001), Censorship: A World Encyclopedia (New York: Routledge.

108. Francoise Boucek (1998), “Electoral and Parliamentary Aspects of

Dominant Party” in Paul Penning and Jan-Erik Lane(eds.), Comparing

Party System Change, London and New York: Routledge.

109. Fukuyama F., (2011), The origins of political order: from prehuman

times to the Frech Revolution, Profile Books.

110. G. Sartori (1968), “Political Development and Political Engineering”, in

T.D. Montgomery and A.O. Hirschmans (eds.), Public Policy, CAMB,

MA, Vol. 17.

111. George I. Blanksten (1960), “The Politics of Latin America”, in Gabriel

A. Almond and James S. Coleman (eds.), The Politics of the

Developing Areas, Princeton: Princeton University Press.

112. Howard, M.M, (2003), “The weakness of civil soceity in post-communist

Europe”, Cambridge: Cambridge University Press.

113. James S.Coleman (1960), “The Politics of Sub-Saharan Africa”, in

Gabriel A. Almond and James S. Coleman (eds.), The Politics of The

Developing Areas, Princeton: Princeton University Press.

114. Johnson (1987), Political Institutions and Economic Performance: The

Government-Business Relationship in Japan, South Korea, and

Taiwau, Cornell University Press.

115. Jones (1352), Censorship, Derek (ed.)

116. Klaus Von Beyme (1985), “Political Parties in Western Democracies”,

Aldershot: Gower Publishing Company Limited.

162

117. Maurice Dauverger (1955), “Political Parties: Their Organization and

Activity in the Modern State”, London: Methuen.

118. Mulgan, R.G (2003), “Holding power to account: accountability in

morden demoracies”, Palgrave Macmillan.

119. National Assembly of the Republic of Korea (2012), “Constitution of the

Republic of Korea”, http://korea.assembly.go.kr/res/low_01_

read.jspboardid= 1000000035.

120. O’Donnell, Guillermo and Philippe C. Schmitter (1986), Transitions

from Authoritarian Rule, Volumes 1-4, Baltimore and London: Johns

Hopkins University Press.

121. Robison, Richard, and Vedi R. Hadiz (2004), Reorganising Power in

Indonesia: The Politics of Oligarchy in an Age of Markets, London:

Routledge/Curzon.

122. Rodan, Garry (1996), “Theorising political oppositions in East and

Southeast Asia”, in Garry Rodan (ed.), Political Oppositions in

Industrialising Asia, London: Routledge, pp. 1-39.

123. Ronald H. Mcdonald (1971), “Party System and Elections in Latin

America”, Chicago: Markham.

124. Samuel P. Huntington (1968), “Political Order Changing Societies”,

New Haven: Yale University Press.

125. Samuel Huntington, (1991), The Third Wave: Democratization in the

Late Twentieth Century, Norman and London: University of

Oklahoma Press, pp. 108.

126. T.J.Pempel (ed.) (1990), “Uncommon Democracies: The One-Party

Dominant Regimes”, Ithaca: Cornell University Press.

127. T.J Pempel,. (1998), Regime Shift: Comparative Dynamics of the

Japanese Political Economy, Ithaca: Cornell University Press.

128. Thayer, Carlyle A. (2009), Political Legitimacy of Vietnam’s One Party-

State: Challenges and Responses, in: Journal of Current Southeast

Asian Affairs, 28, 4, p.47-70.