BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
(cid:1)(cid:1)(cid:1)
NGUYỄN HOÀNG TUẤN
QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VỚI VIỆC ÁP
DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA VIỆT NAM
TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
HÀ NỘI –2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
(cid:1)(cid:1)(cid:1)
NGUYỄN HOÀNG TUẤN
QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VỚI VIỆC ÁP
DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA VIỆT NAM
TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ : 62.34.02.01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.,TS.Lý Phương Duyên
2. PGS.,TS.Hoàng Văn Bằng
HÀ NỘI –2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Hoàng Tuấn
ii
MỤC LỤC
TRANG
Mục lục
ii
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt tiếng Anh
viii
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt tiếng Việt
xi
Danh mục các bảng
xii
Danh mục các hình vẽ, sơ đồ, đồ thị
xiii
1
MỞ ĐẦU
10
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.
10
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI.
10
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về quy tắc xuất xứ hàng hoá.
1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thuế quan
15
và cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
1.2.
16
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM.
1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu trực tiếp về quy tắc xuất
17
xứ hàng hoá.
1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thuế quan
19
và cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
21
1.3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.
1.3.1. Những khoảng trống trong các nghiên cứu.
21
1.3.2. Những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ kế thừa và tiếp
23
tục phát triển.
24
1.4. CÁC CÂU HỎI NGHIÊN CỨU.
26
Kết luận chương 1
27
Chương 2: QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VÀ THUẾ
QUAN ƯU ĐÃI.
iii
2.1.
27
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG
HOÁ.
27
2.1.1. Khái niệm xuất xứ hàng hoá và quy tắc xuất xứ hàng hoá.
33
2.1.2. Những nội dung cơ bản của quy tắc xuất xứ hàng hoá.
46
2.1.3. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá.
54
2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ QUAN VÀ THUẾ
QUAN ƯU ĐÃI.
54
2.2.1. Khái niệm thuế quan .
57
2.2.2. Khái quát về thuế quan ưu đãi.
59
2.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC
THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ
TRONG ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI.
2.3.1. Các quy định luật quốc tế điều chỉnh chung về xuất xứ
59
hàng hóa.
2.3.2. Hệ thống các quy định và chính sách liên quan đến hoạt
61
động thương mại và đầu tư.
2.3.3. Nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và sự phối hợp của các cơ
62
quan quản lý nhà nước liên quan.
64
2.3.4. Nhân tố thuộc về bản thân các doanh nghiệp.
67
2.4.
TÁC ĐỘNG CỦA QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ
VÀ THUẾ QUAN ƯU ĐÃI ĐẾN XUẤT KHẨU,
NHẬP KHẨU.
73
2.5. KINH NGHIỆM THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ
TRONG ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA CÁC
NƯỚC VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM.
2.5.1. Kinh nghiệm của các nước ASEAN-4 (Singapore,
73
Malaysia, Thái Lan và Indonesia).
iv
2.5.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản.
79
2.5.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc.
81
83
2.5.4. Bài học kinh nghiệm rút ra cho việc thực hiện quy tắc
xuất xứ trong áp dụng thuế quan ưu đãi ở Việt Nam.
86
Kết luận chương 2
87
Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT
XỨ HÀNG HOÁ VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU
ĐÃI CỦA VIỆT NAM TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ
ASEAN.
87
3.1. KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
VÀ THUẾ QUAN ƯU ĐÃI TRONG CỘNG ĐỒNG
KINH TẾ ASEAN.
3.1.1. Khái quát về cộng đồng kinh tế ASEAN và chiến lược
87
phát triển của cộng đồng kinh tế ASEAN.
92
3.1.2. Thuế quan ưu đãi trong ASEAN.
99
3.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUY TẮC XUẤT XỨ
HÀNG HOÁ TRONG ASEAN.
99
3.2.1. Xác định xuất xứ hàng hoá ASEAN.
104
3.2.2. Chứng nhận xuất xứ hàng hoá ASEAN.
106
3.3.
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ
HÀNG HOÁ VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU
ĐÃI TẠI VIỆT NAM.
3.3.1. Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về thực
106
hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN.
3.3.2. Thực trạng áp dụng tiêu chí xuất xứ hàng hoá theo biểu
109
thuế quan ưu đãi đặc biệt của Việt Nam trong AEC.
3.3.3. Thực trạng thực thi quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN
114
v
trong áp dụng thuế quan ưu đãi của các cơ quan nhà nước
Việt Nam.
3.3.4 Thực trạng thực thi quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN
119
trong áp dụng thuế quan ưu đãi của các doanh nghiệp.
3.4.
121
TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY TẮC
XUẤT XỨ HÀNG HOÁ ASEAN VỚI VIỆC ÁP
DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI TRONG TRAO ĐỔI
THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC
THÀNH VIÊN AEC.
3.4.1. Đánh giá tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến trao đổi
121
thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên AEC
qua áp dụng mô hình trọng lực.
3.4.2. Thực tiễn tác động việc áp dụng thuế quan ưu đãi và quy
126
tắc xuất xứ hàng hoá đối với thương mại Việt Nam trong
AEC.
3.5
137
NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, HẠN CHẾ VÀ
NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ KHI
THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VỚI
VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI TRONG
AEC CỦA VIỆT NAM.
3.5.1 Những kết quả đạt được.
137
3.5.2 Những hạn chế và nguyên nhân.
142
155
Kết luận chương 3
157
Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT
QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HÓA VỚI VIỆC ÁP DỤNG
THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA VIỆT NAM TRONG CỘNG
ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
vi
157
4.1. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO VÀ CÁC QUY ĐỊNH XUẤT
XỨ HÀNG HÓA TRÊN THẾ GIỚI TÁC ĐỘNG TỚI
VIỆT NAM.
4.1.1. Xu hướng phát triển của các hiệp định thương mại tự do
157
tác động tới Việt Nam.
4.1.2. Xu hướng xây dựng và áp dụng các quy định xuất xứ
162
hàng hóa mới trên thế giới.
163
4.2. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC.
163
4.2.1. Tạo dựng khuôn khổ pháp lý xuất xứ hàng hoá hoàn chỉnh
trên cơ sở nền tảng các quy định về xuất xứ trong AEC.
4.2.2. Đẩy mạnh việc hỗ trợ, phối hợp trao đổi thông tin và kiến
169
thức về thuế quan và xuất xứ hàng hoá trong AEC giữa
các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp.
4.2.3. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành nghề sản xuất
172
nhằm đáp ứng được các tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong
AEC.
4.2.4. Tăng cường nâng cao năng lực quản lý, kiểm tra, giám sát
175
việc thực hiện và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật về xuất
xứ hàng hoá trong AEC của các cơ quan quản lý nhà
nước.
180
4.3. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA DOANH NGHIỆP.
4.3.1. Chủ động, tích cực nắm bắt và áp dụng các quy định về
180
xuất xứ hàng hoá, thuế quan vào trong hoạt động kinh
doanh.
4.3.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ, am hiểu
182
về xuất xứ hàng hoá.
vii
4.3.3. Đầu tư nâng cao trình độ, năng lực sản xuất để đáp ứng
184
được các yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hoá trong AEC.
187
Kết luận chương 4
188
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
189
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
190
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
201
PHỤ LỤC 1
202
PHỤ LỤC 2
204
PHỤ LỤC 3
206
PHỤ LỤC 4
viii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH
Tiếng Anh
Giải nghĩa
TT Chữ viết tắt
Ngân hàng phát triển châu
1 ADB
Asian Development Bank
Á
ASEAN Economic
2 AEC
Cộng đồng kinh tế ASEAN
Community
Khu vực mậu dịch tự do
3 AFTA
ASEAN Free Trade Area
ASEAN
Association of South East
Hiệp hội Các quốc gia
4 ASEAN
Asian Nations
Đông Nam Á
Asean Trade In Goods
Hiệp định Thương mại
5 ATIGA
Agreement
Hàng hóa ASEAN
Hiệp định Thương mại song
6 BTA
Bilateral Trade Agreement
phương
Giấy chứng nhận xuất xứ
7 C/O
Certificate of origin
hàng hoá
Chuyển đổi ở cấp độ
8 CC
Change in chapter
chương
Common Effective
Hiệp định ưu đãi thuế quan
9 CEPT
Preferential Tariff
có hiệu lực chung
Change in tariff
10 CTC
Chuyển đổi dòng thuế
classification
Change in Tariff Sub
Chuyển đổi dòng thuế ở cấp
11 CTSH
Heading
độ phân nhóm
Chuyển đổi dòng thuế ở cấp
12 CTH
Change in Tariff Heading
độ nhóm
ix
13 EU
European Union
Liên minh châu Âu
14 FDI
Foreign direct investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
15 FTA
Free trade agreement
Hiệp định thương mại tự do
General Agreement of
Hiệp định chung về Thương
16 GATT
Trade and Tariff
mại và Thuế quan
17 GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm nội địa
Generalised Scheme of
Hệ thống ưu đãi thuế quan
18 GSP
Preferences
phổ cập chung
19 HS
Harmonized System
Hệ thống Hài hòa
20 MFN
Most Favoured Nations
Đãi ngộ tối huệ quốc
North American Free
Hiệp định Thương mại Tự
21 NAFTA
Trade Agreement
do Bắc Mỹ
22 ROO
Rules of Origin
Quy tắc xuất xứ
Hiệp định thương mại khu
23 RTA
Regional Trade Agreement
vực
24 RVC
Regional Value Content
Hàm lượng giá trị khu vực
Technical Barriers to
Rào cản kỹ thuật trong
25 TBT
Trade
thương mại
Vietnam Chamber of
Phòng Thương mại và Công
26 VCCI
Commerce and Industry
nghiệp Việt Nam
Vietnam Customs
Hệ thống thông tin tình báo
27 VCIS
Intelligence Information
Hải quan Việt nam
System
Vietnam Automated Cargo
Hệ thống thông quan hàng
28 VNACCS
And Port Consolidated
hóa tự động
System
x
World Customs
29 WCO
Tổ chức hải quan thế giới
Organization
30 WO
Wholly Obtained
Xuất xứ thuần tuý
Tổ chức thương mại thế
31 WTO
World Trade Organization
giới
Minister of Economy,
Bộ kinh tế, thương mại và
32 METI
Trade and Industry
công nghiệp Nhật Bản
xi
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT
TT
Chữ viết tắt
Giải nghĩa
Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam
1
CLMV
2
CNXX
Chứng nhận xuất xứ
3
KTSTQ
Kiểm tra sau thông quan
4
NCS
Nghiên cứu sinh
5
NK
Nhập khẩu
6
NSNN
Ngân sách nhà nước
7
QTXX
Quy tắc xuất xứ
8
XK
Xuất khẩu
9
XNK
Xuất nhập khẩu
xii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Tên bảng
Số hiệu bảng
Tỷ lệ xoá bỏ thuế quan của các nước ASEAN
96
3.1
theo ATIGA từ 2010 đến 2025
Mức độ áp dụng các tiêu chí xuất xứ hàng hoá
110
3.2
trong quy tắc xuất xứ theo hiệp định ATIGA
Kết quả ước lượng mô hình trọng lực cho xuất
123
3.3
khẩu và nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với
các đối tác trong AEC
Giá trị kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán
128
3.4
cân thương mại giữa Việt Nam-ASEAN giai đoạn
2006-2016
Tình hình sử dụng C/O mẫu D đối với hàng hoá
140
3.5
xuất khẩu sang ASEAN giai đoạn 2006-2016
xiii
DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ
Số hiệu
Trang
Tên sơ đồ, đồ thị
hình vẽ
34
2.1.
Tiêu chí xác định hàng hóa có xuất xứ
44
2.2
Tỷ lệ chứng nhận xuất xứ
Mức thuế bình quân CEPT và MFN của các nhóm nước
97
3.1
ASEAN giai đoạn từ 2007-2014
Mức độ áp dụng các tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong quy
111
3.2
tắc xuất xứ theo hiệp định ATIGA theo các phần của
biểu thuế quan
Thuế suất bình quân và chênh chệch giữa thuế suất bình
113
3.3
quân MFN và CEPT/ATIGA năm 2006 và 2016 theo các
phần của danh mục HS
Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, cán cân thương mại
130
3.4
giữa Việt Nam với các nước ASEAN theo mức độ thuế
quan bình quân cắt giảm từ 2006-2016
Kim ngạch XK, NK giữa Việt Nam và một số đối tác lớn
131
3.5
năm 2016
Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu bình quân của Việt
131
3.6
Nam giai đoạn 2007-2016
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu với khu vực ASEAN
132
3.7A
trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 2006-
2016
Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu với khu vực ASEAN
132
3.7B
trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam 2006-
2016
xiv
Cơ cấu xuất khẩu mặt hàng chủ lực sang thị trường
134
3.8 A
ASEAN 2007 & 2010
Cơ cấu xuất khẩu mặt hàng chủ lực sang thị trường
135
3.8 B
ASEAN trong năm 2016
Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu chủ lực có xuất xứ từ
137
3.9A
ASEAN 2007&2010
Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu chủ lực có xuất xứ từ
136
3.9 B
ASEAN 2016
Thương mại giữa Việt Nam với các nước ASEAN 2006
137
3.10
& 2016
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án.
Trong thực tế hoạt động thương mại quốc tế ngày nay, hầu hết các quốc
gia trên thế giới đều đang gia tăng các mối quan hệ thương mại thông qua các
hiệp định thương mại ở cấp độ song phương hay đa phương. Việt Nam cũng
không nằm ngoài xu hướng này khi đã tham gia và ký kết rất nhiều hiệp định
thương mại với nhiều đối tác trên thế giới. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, hiệp
định thương mại được ký kết với các nước thành viên ASEAN luôn đóng vai
trò quan trọng nhất trong chính sách phát triển thương mại của Việt Nam
trong những năm qua. Kể từ khi Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định về
Chương trình ưu đãi Thuế quan có Hiệu lực chung (CEPT) để thành lập
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) vào ngày 15/12/1995, Việt
Nam đã triển khai một cách tích cực và đầy đủ theo đúng các cam kết về lộ
trình cắt giảm thuế quan. Việc triển khai này đã tạo ra một động lực quan
trọng giúp trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên
ASEAN không ngừng tăng lên nhờ được hưởng những ưu đãi thuế quan thấp
hơn so với hàng hoá cùng loại từ các quốc gia ngoài ASEAN khi đáp ứng
được các quy định về xuất xứ hàng hoá. Có thể thấy rằng, tác động của việc
thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN trong áp dụng thuế quan ưu đãi
của Việt Nam trong những năm qua là rất lớn. Đặc biệt, hiệp định ATIGA
được ký kết thay cho hiệp định CEPT bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày
17/05/2010 đã đẩy nhanh quá trình cắt giảm thuế quan và xoá bỏ nhiều rào
cản để thúc đẩy trao đổi thương mại giữa các nước thành viên ASEAN.
Không dừng lại ở đó, các nước thành viên ASEAN muốn đưa sự hợp tác này
lên một tầm cao mới qua việc ký kết và ra đời cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC) vào ngày 31/12/2015. Sự ra đời của AEC được đánh giá là một bước
2
ngoặt lịch sử của khu vực ASEAN với việc đánh dấu sự hình thành một thị
trường chung giữa 623 triệu dân của nền kinh tế 2500 tỷ USD, đứng thứ 3
châu Á chỉ sau Trung Quốc, Nhật Bản và lớn thứ 7 thế giới, AEC ra đời vào
giai đoạn việc cắt giảm hoàn toàn thuế quan theo hiệp định ATIGA bước vào
giai đoạn cuối và sắp được tất cả các nước ASEAN hoàn thành. Theo đó,
hàng hoá của một nước nếu được công nhận xuất xứ ASEAN khi xuất khẩu
sang thị trường một nước thành viên ASEAN sẽ được hưởng mức thuế quan
ưu đãi rất thấp, thậm chí bằng không. Và để được công nhận xuất xứ ASEAN
thì những hàng hóa này phải tuân thủ theo các quy định về quy tắc xuất xứ
của Hiệp định ATIGA. Điều này tạo ra một cơ hội rất lớn cho hàng hoá của
Việt Nam được tự do lưu chuyển sang các nước ASEAN giống như trong
nước, đồng thời cũng đặt ra những thách thức rất lớn về cạnh tranh với hàng
hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN nếu không biết nắm bắt và vận dụng một
cách có hiệu quả những quy định của AEC, trong đó có quy tắc về xuất xứ
hàng hoá. Như vậy, có thể thấy rằng với xu hướng cắt giảm thuế quan theo
hướng tự do hoá hoàn toàn của AEC thì vai trò của thuế quan đối với trao đổi
thương mại và tạo nguồn thu ngân sách cho các nước thành viên AEC ngày
càng giảm. Ngược lại, khi đó vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong AEC
lại càng trở nên quan trọng, đây chính là hàng rào bảo hộ đối với hàng hoá sản
xuất tại các nước thành viên nói chung, Việt Nam nói riêng trước sự cạnh
tranh của hàng hoá nhập khẩu của các nước ngoài AEC, đồng thời là công cụ
để đảm bảo việc thực thi thuế quan ưu đãi được xác định đúng đối tượng,
ngăn chặn các hành vi gian lận về thuế quan ưu đãi trong AEC. Thêm vào đó,
với xu hướng phát triển đa dạng hoá các hoạt động thương mại và sự gia tăng
của các FTA thì quy tắc xuất xứ hàng hoá trên thế giới trong những năm qua
có sự thay đổi nhanh chóng tác động đến sự thay đổi của quy tắc xuất xứ hàng
hoá trong ASEAN và hệ thống các quy định pháp luật về xuất xứ hàng hoá áp
3
dụng tại Việt Nam. Trong bối cảnh như vậy, rất cần có sự nghiên cứu một
cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống các quy tắc về xuất xứ hàng hoá, đặc
biệt là quy tắc xuất xứ hàng hoá gắn với thuế quan ưu đãi ASEAN được áp
dụng trong bối cảnh cộng đồng kinh tế ASEAN đã được thành lập, để có thể
đưa ra được những chính sách và biện pháp phù hợp nhằm tối đa những lợi
ích đem lại cho cộng đồng doanh nghiệp và sự phát triển của Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do đó, NCS đã lựa chọn đề tài “Quy tắc xuất xứ
hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng
kinh tế ASEAN” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Trước yêu cầu khách quan của việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá ở
Việt Nam, tác giả xác định mục đích nghiên cứu đề tài luận án: “Quy tắc xuất
xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng
đồng kinh tế ASEAN” là:
Nghiên cứu, hệ thống hoá những vấn đề lý luận về quy tắc xuất xứ hàng
hoá gắn liền với áp dụng thuế quan ưu đãi; phân tích việc áp dụng quy tắc xuất
xứ nhằm xác định xuất xứ ASEAN đối với hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu
sang các nước ASEAN để được hưởng thuế quan ưu đãi; phân tích và đánh giá
các biện pháp mà các cơ quan quản lý Việt Nam áp dụng nhằm xác định và
kiểm tra xuất xứ hàng hoá của các nước ASEAN để cho phép hưởng thuế quan
ưu đãi theo như cam kết của cộng đồng kinh tế ASEAN. Từ đó, đề xuất các giải
pháp nhằm góp phần thực hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng
thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN.
Với mục đích nghiên cứu như trên, Luận án xác định các nhiệm vụ
nghiên cứu cơ bản sau:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về xuất xứ hàng hoá và quy tắc
xuất xứ hàng hoá.
4
- Nghiên cứu việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá của một số quốc
gia, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc áp dụng quy tắc
xuất xứ hàng hoá ở Việt Nam.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá việc thực hiện quy tắc xuất xứ đối với
hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang các nước ASEAN
để được hưởng thuế quan ưu đãi, bao gồm: việc xây dựng các quy định về
xuất xứ hàng hoá, việc xác định, cấp chứng nhận xuất xứ ASEAN cho hàng
hoá của các doanh nghiệp xuất khẩu sang các nước ASEAN; việc kiểm tra về
xuất xứ hàng hoá để hưởng thuế quan ưu đãi của các cơ quan nhà nước Việt
Nam đối với hàng hoá nhập khẩu của các nước ASEAN vào Việt Nam. Chỉ ra
những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong
quá trình thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu
đãi của Việt Nam trong AEC .
- Trên cơ sở đánh giá việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc
áp dụng thuế quan ưu đãi ở Việt Nam thời gian qua, đưa ra các giải pháp cụ
thể đối với nhà nước và doanh nghiệp nhằm thực hiện tốt quy tắc xuất xứ
hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng
kinh tế ASEAN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là Quy tắc xuất xứ hàng hoá gắn
liền với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế
ASEAN.
Phạm vi nội dung nghiên cứu của luận án chỉ tập trung trên các khía
cạnh: việc áp dụng quy tắc xuất xứ để xác định xuất xứ ASEAN đối với hàng
hoá của Việt Nam xuất khẩu sang các nước ASEAN để được hưởng thuế quan
ưu đãi và ngược lại là việc các cơ quan quản lý Việt Nam áp dụng quy tắc
xuất xứ để xác định và kiểm tra xuất xứ hàng hoá của các nước ASEAN để
5
cho phép hưởng thuế quan ưu đãi theo như cam kết về cắt giảm thuế quan
trong cộng đồng kinh tế ASEAN.
Thời gian nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu đánh giá quá trình
áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá từ khi Việt Nam thực hiện cam kết cắt giảm
thuế quan theo CEPT/AFTA năm 2006 đến 2016 và đề xuất các giải pháp áp
dụng gắn với định hướng phát triển đến năm 2025.
Địa bàn nghiên cứu: Để có số liệu phục vụ nghiên cứu, luận án tập trung
nghiên cứu đánh giá chủ yếu về Quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng
thuế quan ưu đãi gắn liền với hoạt động trao đổi thương mại giữa Việt Nam
với các nước ASEAN trong AEC.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, việc
nghiên cứu đề tài cũng dựa trên các chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, quản lý nhà nước đối với
hoạt động thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài các phương pháp
mang tính truyền thống trên, đề tài áp dụng các phương pháp phân tích, so
sánh, tổng hợp, hệ thống, luật so sánh, thống kê và dự báo qua những dữ liệu
thứ cấp để làm sáng tỏ vấn đề cần được nghiên cứu trong đề tài. Cụ thể:
- Phương pháp nghiên cứu gián tiếp thông qua tổng hợp và phân tích tư
liệu, nhất là các tư liệu sơ cấp.
- Phương pháp nghiên cứu dữ liệu thứ cấp: Phương pháp này được vận
dụng chủ yếu nhằm xem xét, hệ thống hóa và tóm tắt những kết quả nghiên
cứu có liên quan tới đề tài luận án.
- Phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp và phân tích, thống kê: Thông qua
phương pháp này, các thông tin đơn lẻ sẽ được tổng hợp, hệ thống hóa và xâu
chuỗi thành các nhóm vấn đề; các số liệu và dữ liệu thu thập sẽ được phân
6
tích, khái quát hóa để xây dựng khung phân tích theo yêu cầu của luận án.
- Phương pháp nghiên cứu luật so sánh: Phương pháp này được sử dụng
để so sánh các khái niệm, quy định pháp luật và các nội dung khác về xuất xứ
hàng hoá được quy định trong các công ước, hiệp định và hệ thống pháp luật
của nhiều quốc gia trên thế giới theo yêu cầu của đề tài luận án.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình: Thông qua nghiên cứu
trường hợp điển hình ở một số nước trên thế giới về cách thức thực hiện quy
tắc xuất xứ hàng hoá để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn, sử dụng kết quả số liệu thống kê khảo
sát từ các cơ quan quản lý và tổ chức công bố: Nhằm tìm hiểu, đánh giá tình
hình áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá ở Việt Nam hiện nay khi thực hiện
quan hệ thương mại với các nước thành viên AEC.
- Phương pháp sử dụng mô hình trọng lực trong đo lường các nhân tố tác
động đến trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên AEC
trong đó có quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế quan ưu đãi.
5. Những đóng góp mới của luận án.
Luận án đã có một số đóng góp mới sau đây:
Thứ nhất, hệ thống hoá và làm rõ hơn các nội dung về lý luận liên quan
đến xuất xứ hàng hoá, quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế quan ưu đãi.
Thứ hai, phân tích và chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm của từng cách
thức chứng nhận xuất xứ hàng hoá và xu hướng chủ đạo của việc thực hiện
chứng nhận xuất xứ hàng hoá trong thời gian tới.
Thứ ba, phân tích và làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện
quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi làm cơ sở cho việc
đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp trong luận án.
Thứ tư, chỉ ra và đánh giá các mô hình nghiên cứu đã được áp dụng để
đánh giá tác động của việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng
7
thuế quan ưu đãi khi thực hiện các quan hệ trao đổi thương mại của các FTA
trên thế giới cũng như của Việt Nam. Từ đó làm cơ sở cho việc vận dụng vào
đánh giá tác động của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu
đãi trong quan hệ trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước ASEAN.
Thứ năm, tổng hợp được những kinh nghiệm của một số nước trên thế
giới thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi. Từ
đó, rút ra được những bài học có thể vận dụng được ở Việt Nam khi thực hiện
quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi trong quan hệ
thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên AEC.
Thứ sáu, phân tích thực trạng thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong
áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong bối cảnh từ khi bắt đầu thực
hiện khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) đến khi ra nhập cộng đồng
kinh tế ASEAN thời gian qua. Phân tích được làm rõ trên các khía cạnh:
i. Xây dựng, ban hành pháp luật và thực thi nội dung của quy tắc xuất xứ
hàng hoá trong ưu đãi thuế quan.
ii. Xác định và cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá.
iii. Công tác kiểm tra và xác minh xuất xứ hàng hoá của Việt Nam.
Trên cơ sở đó, đánh giá những tác động của quy tắc xuất xứ hàng hoá
đến thuế quan ưu đãi đặc biệt và trao đổi thương mại của Việt Nam với các
nước thành viên trong AEC. Từ đó chỉ rõ những kết quả đã đạt được, những
hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế này trong quá trình thực hiện thời
gian qua làm cơ sở luận cứ đưa ra các giải pháp phù hợp.
Thứ bảy, tổng hợp và làm rõ xu thế phát triển của các hiệp định thương
mại tự do mới sẽ có ảnh hưởng gì đến việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá
trong áp dụng thuế quan ưu đãi trong thời gian tới.
Thứ tám, đưa ra các giải pháp đối với nhà nước và doanh nghiệp để góp
phần thực hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi
8
trong bối cảnh Việt Nam gia nhập AEC. Bao gồm:
i. Tạo dựng khuôn khổ pháp lý xuất xứ hàng hoá hoàn chỉnh
ii. Đẩy mạnh việc hỗ trợ, phối hợp trao đổi thông tin và kiến thức về
thuế quan và xuất xứ hàng hoá trong AEC giữa các cơ quan nhà nước và các
doanh nghiệp.
iii. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh kế, ngành nghề sản xuất nhằm đáp
ứng được các tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong AEC.
iv. Tăng cường nâng cao năng lực quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực
hiện và đảm bảo tuân thủ pháp luật về xuất xứ hàng hoá trong AEC của các
cơ quan quản lý nhà nước.
v. Vận dụng các quy định về xuất xứ trong hoạt động kinh doanh, đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực, đầu tư nâng cao trình độ và năng lực sản
xuất hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án.
Ý nghĩa khoa học: Trên cơ sở phân tích, tổng hợp, luận án đã hệ thống
và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế quan
ưu đãi trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và Việt Nam gia nhập AEC.
Bên cạnh đó, luận án cũng đã tổng hợp kinh nghiệm về thực hiện quy tắc xuất
xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi của một số quốc gia trên thế giới,
từ đó rút ra những kinh nghiệm có thể tham khảo vận dụng cho Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: Luận án đã tổng hợp và phân tích một cách hệ thống
về thực trạng thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu
đãi của Việt Nam với các nước ASEAN trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm
2016. Trên cơ sở phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế, luận án
cũng đã chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong thực hiện quy tắc
xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi ở Việt Nam. Kết hợp với
kinh nghiệm thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu
9
đãi ở một số quốc gia trên thế giới, luận án đã đề xuất các giải pháp nhằm
thực hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của
Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, nội dung của luận án được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu .
Chương 2: Quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế quan ưu đãi.
Chương 3: Thực trạng thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp
dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN.
Chương 4: Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá với
việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN.
10
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI.
Các quy định về xuất xứ hàng hóa là một phần không thể thiếu được
trong các hiệp định thương mại tự do trên thế giới và trong hệ thống luật pháp
của nhiều quốc gia. Bởi vậy, nội dung này được nhiều nhà nghiên cứu trên thế
giới đề cập trên nhiều khía cạnh khác nhau. Theo trình tự thời gian, có thể kể
đến các công trình nghiên cứu như:
1.1.1.Nhóm công trình nghiên cứu về quy tắc xuất xứ hàng hoá.
- Peter Clark (2003), “Free Trade Areas and Rules of Origin: Economics
and Politics” [91], của IMF năm 2003 chỉ ra mối liên hệ giữa kinh tế và chính
trị trong các FTAs và ảnh hưởng tới các quy tắc xuất xứ như thế nào.
- Antoni Estevadeordal và Kati Suominen (2003), “Rules of Origin in the
World Trading System” [58], do WTO biên soạn đánh giá mục đích và tác
động của các quy tắc xuất xứ, so sánh cấu trúc của các quy tắc xuất xứ ở 5
khu vực Châu Âu, Châu Mỹ, châu Phi, châu Á và Trung Đông. Từ đó đưa ra
những nhận định về tương lai quy tắc xuất xứ trên toàn cầu, vấn đề hài hoà
hoá các quy tắc xuất xứ ưu đãi.
- Kala Krishna (2004), “Understanding rules of origin” [76], đại học
Pensylvania ấn bản tháng 11/2004, phân tích những tác động của quy tắc xuất
xứ liên quan đến ưu đãi thuế quan trong các FTA. Nội dung của nghiên cứu
tập trung vào việc xem xét về mặt lý thuyết cũng như về thực nghiệm qua
việc áp dụng mô hình cân bằng tổng thể để đánh giá ảnh hưởng của quy tắc
xuất xứ đến việc làm gia tăng chi phí đầu vào của sản xuất sản phẩm của các
đối thủ trong FTA.
- Patricia Augier, Michael Gasiorek, Charles Lai Tong (2005), “The
11
impact rules of origin on trade flows”[89], Economic Policy 20 (43): 567-
624, bài viết phân tích mối liên hệ giữa các quy tắc xuất xứ và thuế quan từ đó
tác động đến dòng chảy thương mại như thế nào. Nghiên cứu sử dụng phương
pháp mô hình trọng lực trong việc đánh giá tác động của quy tắc xuất xứ đối
với trao đổi thương mại của các nước châu Âu. Kết quả cho thấy quy tắc xuất
xứ thực sự tác động đáng kể đến trao đổi thương mại khi mà làm hạn chế sự
trao đổi thương mại, việc cộng gộp trong xuất xứ hàng hoá ảnh hưởng đến
khâu trung gian thương mại hơn là khâu sản xuất và mức thuế càng cao thì tác
động của việc cộng gộp càng thấp.
- Paul Brenton và Hiroshi Imagawa (2005), “Rules of origin, trade and
customs” đăng trong cuốn Customs modernization handbook [106] (sổ tay
hiện đại hóa hải quan) do ngân hàng thế giới xuất bản năm 2005. Bài viết đi
vào phân tích và đánh giá mối liên hệ giữa xuất xứ hàng hóa, thương mại và
hải quan theo các quy định trong WTO, các hiệp định thương mại khu vực.
- Olivier Cadot, Jaime de Melo, Alberto Portugal-Perez (2006), “Rules of
Origin for Preferential trading arrangements : implications for the ASEAN
free trade area of EU and US experience”[88], do Ngân hàng thế giới ấn bản
năm 2006. Các tác giả chỉ ra nội dung của quy tắc xuất xứ EU với hệ thống
ưu đãi thuế quan GSP, kinh nghiệm từ triển khai quy tắc xuất xứ NAFTA của
Mỹ, từ đó rút ra kinh nghiệm triển khai AFTA của các nước ASEAN.
- Olivier Cadot, Antoni Estevadeordal, Akiko Suwa-Eisenmann và
Thiery Verdier (2006), “The Origin of Goods”[87], nhà xuất bản đại học
Oxford xuất bản 2006, chỉ ra những vấn đề lý luận chung về xuất xứ hàng
hóa, quy tắc xuất xứ hàng hóa trong các thỏa thuận thương mại khu vực, ảnh
hưởng và tác động của quy tắc xuất xứ hàng hóa đến thương mại, chi phí hải
quan và sự phát triển kinh tế.
- Teruo UJIIE (2006), “Rules of origin: conceptual explorations and
12
lessons from the generalized system of preferences”[97], do ngân hàng ADB
ấn hành tháng 12 năm 2006. Cuốn sách này tập trung vào làm rõ khái niệm cơ
bản về xuất xứ hàng hóa trong thương mại quốc tế, đánh giá các quy tắc xuất
xứ trong hệ thống GSP và trong một số FTA châu Á.
- Erlinda M. Medalla and Josef T. Yap (2008), “Policy Issues for the
ASEAN Economic Community: the Rules of Origin”[71], Philippine Institute
for Development Studies. Bài viết đánh giá tình hình thực hiện quy tắc xuất
xứ ASEAN, mức độ tận dụng việc ưu đãi thuế CEPT/AFTA của một số nước
quy việc sử dụng chứng nhận xuất xứ, đánh giá về việc ra đời AEC tác động
đến quy tắc xuất xứ, từ đó thúc đẩy tiếp tục cải cách quy tắc xuất xứ nhằm tạo
thuận lợi hơn đối với thương mại ASEAN.
- Stefano Inama (2009), “Rules of origin on international trade”[94], đại
học Cambridge xuất bản 2009, chỉ ra những nội dung quy định về xuất xứ
theo quy định của WTO, quy tắc xuất xứ theo hệ thống GSP của một số nước
như EU, Mỹ, Canada, quy tắc xuất xứ trong các thỏa thuận thương mại khu
vực NAFTA, AFTA, Mercosur. Đồng thời chỉ ra những kinh nghiệm và cách
thức quản lý các quy tắc xuất xứ.
- Erlinda M. Medalla, Jenny Balboa (2009), “ASEAN Rules of Origin:
Lessons and Recommendations for Best Practice” [70]. Bài viết nghiên cứu
những kinh nghiệm của ASEAN trong việc áp dụng quy tắc xuất xứ, đánh giá
về chi phí áp dụng quy tắc xuất xứ và mức độ tự do hoá. Đề xuất một vài kiến
nghị đơn giản quá trình áp dụng quy tắc xuất xứ và cải cách thủ tục nhà nước
cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng quy tắc xuất xứ.
- Antoni Estevadeordal, Jeremy Harris, Kati Suominen
(2009),
“Multilateralising Preferential Rules of Origin around the World”[60], IDB
WORKING PAPER SERIES # IDB-WP-137. Bài viết đánh giá một cách toàn
cảnh về quy tắc xuất xứ hàng hoá trên thế giới, những hạn chế và tính phức
13
tạp của các quy tắc xuất xứ, những tác động đến hoạt động thương mại.
- Biswajit Nag and Debdeep De (2011), “Rules of origin and
development of regional production network in Asia: case studies of selected
industries’’[64], Working Papers 10111, Asia-Pacific Research and Training
Network on Trade (ARTNeT), an initiative of UNESCAP and IDRC, Canada.
Đây là đề tài nghiên cứu sự phát triển của các FTA và BTA tác động đến quy
tắc xuất xứ, tác động đến sự tăng trưởng nhập khẩu và cắt giảm thuế quan,
mối liên hệ giữa tăng trưởng thương mại, quy tắc xuất xứ và tiềm năng phát
triển hệ thống liên kết sản xuất khu vực trong lĩnh vực công nghiệp.
trends
in preferential Origin
- Atsushi Tanaka (2011), “World
certification and Verification”[61], do WCO ấn bản tháng 11 năm 2011. Cuốn
sách tập trung vào làm rõ các nội dung chứng minh xuất xứ và thủ tục kiểm
tra xuất xứ, những thách thức trong việc áp dụng xuất xứ hàng hóa đối với cơ
quan hải quan. Những thách thức chính mà các cơ quan Hải quan phải đối mặt
là sự không tuân thủ các yêu cầu chứng nhận, thiếu thủ tục chuẩn xác để xác
minh xuất xứ và thiếu năng lực. Việc đào tạo cán bộ Hải quan là biện pháp
chính để giải quyết những thách thức. Nâng cao nhận thức của khu vực tư
nhân và tăng cường hợp tác với các cơ quan chức năng có thẩm quyền cũng
được coi là những giải pháp quan trọng.
- Mina Mashayekhi (2011), “Rules of origin and origin procedures
applicable to exports from least developed countries” [84], UNCTAD. Báo
cáo đánh giá về việc áp dụng quy tắc xuất xứ ở các nước chậm phát triển
trong việc xuất khẩu vào các thị trường chính như Mỹ, EU, Canada, Nhật bản.
Đánh giá về vấn đề quản lý xuất xứ qua việc xác định xuất xứ, thủ tục cấp
xuất xứ, xác nhận và kiểm tra xuất xứ hàng hoá nhập khẩu, các quy định pháp
lý về xuất xứ và đề xuất một số khuyến nghị nhằm đơn giản hoá việc áp dụng
quy tắc xuất xứ.
14
- Verdeja, Luis F. (2012), “Empirical assessment of the impact on trade
of product specific preferential rules of origin” [101], Luận án tiến sỹ, đại học
Nottingham. Tác giả đi vào làm rõ những vấn đề lý luận về quy tắc xuất xứ,
ảnh hưởng của quy tắc xuất xứ với nền kinh tế qua lý thuyết và dữ liệu phân
tích, những hạn chế của quy tắc xuất xứ và thực trạng việc áp dụng trên thế
giới hiện nay đòi hỏi phải có sự cải cách về quy tắc xuất xứ.
- Maria Donner Abreu (2013), “Preferential rules of origin in regional
trade agreements” [81], WTO. Báo cáo nghiên cứu điều tra việc áp dụng quy
tắc xuất xứ ưu đãi tại 192 hiệp định thương mại khu vực làm rõ những ưu đãi
thực hiện qua quy tắc xuất xứ và việc sử dụng các ưu đãi qua các RTAs của
một số nước từ đó đề xuất cách thức để đơn giản hoá quy tắc xuất xứ hàng
hoá nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại.
- Lili Yan Ing, Olivier Cadot (2014), “How Restrictive Are ASEAN’s
RoO?” [79], ERIA-DP-2014-18, tác giả đi vào phân tích đánh giá ảnh hưởng
của quy tắc xuất xứ sản phẩm cụ thể của ASEAN đối với thương mại khu vực
qua việc sử dụng mô hình trọng lực. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng những
ngành như dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến, ô tô sẽ chịu ảnh hưởng
nhiều của quy tắc xuất xứ với việc hưởng lợi từ việc giảm thuế.
- Colleen Carroll, Dylan Geraets, Arnoud R. Willems,
(2014),
“Reconciling rules of origin and global value chains: the case for reform”
[66], Leuven Centre for Global Governance Studies, Institute for International
Law, KU Leuven. Tác giả chỉ ra những sai lầm trong quan niệm về xuất xứ
hàng hoá, từ đó chỉ ra khái niệm xuất xứ hàng hoá và cách xác định thế nào
đối với quy tắc xuất xứ ưu đãi và không ưu đãi, giải pháp cho sự phức tạp quy
tắc xuất xứ hàng hoá trong việc làm chệnh hướng thương mại, công cụ bảo hộ
và việc tận dụng trong các thoả thuận thương mại ưu đãi. Từ đó, đánh giá về
mối liên hệ giữa cắt giảm thuế quan hay gia tăng chi phi kinh doanh khi áp
15
dụng quy tắc xuất xứ và đề xuất các điểm cải cách quy tắc xuất xứ trong quan
hệ song phương và hài hoà quy tắc xuất xứ trong quan hệ đa phương.
- Lili Yan Ing, Olivier Cadot (2016), “Facilitating ASEAN trade in
goods” [80], ERIA Discussion Paper Series, đi vào phân tích đánh giá những
tác động tạo thuận lợi thương mại hàng hoá đối với các nước ASEAN qua
việc giảm chi phí thương mại nhờ áp dụng các quy tắc xuất xứ hàng hoá cũng
như minh bạch các biện pháp phi thuế quan.
1.1.2.Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thuế quan và cộng
đồng kinh tế ASEAN (AEC) .
- Hiro Lee, Michael G.Plummer (2011), “Assessing the Impact of the
ASEAN Economic Community”[74], OSIPP Discussion Paper: DP-2011-E-
002. Bài viết sử dụng mô hình cân bằng tổng thế (CGE) để đánh giá ảnh
hưởng phúc lợi kinh tế, của trao đổi thương mại nội khối và ngoại khối
ASEAN và ảnh hưởng đến một số lĩnh vực của nền kinh tế như nông nghiệp,
chế biến và dịch vụ, máy móc và thiết bị điện tử khi AEC ra đời.
- Peter A.Petri, Michael G.Plummer and Fan Zhai (2012), “ASEAN
Economic Community: A General Equilibrium Analysis” [90], Asian
Economic Journal, 26 (2), 93–118. Bài nghiên cứu phân tích, đánh giá về xuất
nhập khẩu giữa các nước ASEAN, sử dụng mô hình cân bằng tổng thế để
đánh giá những lợi ích và ảnh hưởng của trao đổi thương mại giữa các nước
ASEAN, giữa các nước ASEAN và các đối tác.
- Cheewatrakoolpong, Kornkarun, Sabhasri, Bunditwattanawong, Nath
và Chayodom (2013): “Impact of the ASEAN economic community on ASEAN
production networks”[68], ADBI Working Paper Series, No.409. Bài nghiên
cứu phân tích, đánh giá những ảnh hưởng của AEC đối với chuỗi sản xuất lấy
minh chứng đối với ngành công nghiệp ô tô và sản xuất ổ cứng.
- Normaz Wana Ismail and Collin Wong Koh King (2013), “The Effects
16
of ASEAN Free Trade Agreement (AFTA) on Intra ASEAN Trade: 1986-
2010” [86], Pertanika J. Soc. Sci. & Hum. 21 (S): 115 - 124 (2013). Bài viết
đánh giá về trao đổi thương mại giữa các nước ASEAN giai đoạn từ 1986-
2010 để làm rõ những lợi ích đem lại từ việc thành lập AFTA từ đó chỉ ra
kinh nghiệm cho việc hình thành AEC.
- Jayant Menon and Anna Cassandra Melendez (2015), “Realizing an
ASEAN Economic Community: Progress and Remaining Challenges” [75],
ADB Economics Working Paper Series. Nghiên cứu của ADB phân tích
những trở ngại, thách thức đặt ra với việc hình thành AEC với bốn trụ cột.
Mỗi trụ cột đưa ra một loạt các thách thức đòi hỏi phải được đáp ứng trước
khi AEC có thể được thực hiện đầy đủ.
Các đề tài, sách và bài viết nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào những
vấn đề chung về quy tắc xuất xứ, các trường hợp áp dụng quy tắc xuất xứ cụ
thể gắn với các nước phát triển như EU, Mỹ và nhóm các nước ASEAN-4
chưa đề cập đến việc áp dụng trong AEC và Việt Nam. Thêm vào đó, các
nghiên cứu về AEC mới tập trung đánh giá về tác động đến thương mại, trao
đổi hàng hoá, chuỗi sản xuất hàng hoá, . v.v . mà chưa có sự gắn kết, phân
tích nghiên cứu với việc áp dụng quy tắc xuất xứ. Bởi vậy, những nội dung lý
luận và phân tích trên hướng tới mục tiêu phục vụ cho việc xây dựng và vận
hành hệ thống các quy định về xuất xứ gắn liền với thực tiễn về chính trị, kinh
tế xã hội, luật pháp của các quốc gia khác, không thể áp dụng giống Việt Nam
và trong bối cảnh ra đời AEC. Các kết quả nghiên cứu trên là cơ sở lý luận và
thực tiễn quan trọng làm nền tảng lý luận và căn cứ so sánh để NCS có thể
nghiên cứu đánh giá việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá ở Việt Nam gắn
với việc ra đời AEC.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM.
Trong thời gian qua ở Việt Nam, đã có một số công trình, bài viết liên
17
quan trực tiếp đến đề tài luận án hoặc liên quan đến các nội dung nghiên cứu
của đề tài được công bố trên các tạp chí khoa học, tạp chí chuyên ngành, các
báo cáo trình bày tại hội thảo khoa học, các đề tài nghiên cứu khoa học, luận
án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, luận văn tốt nghiệp, sách hay các tin bài được đăng
tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các công trình, các bài viết đã
nghiên cứu đề cập đến các khía cạnh khác nhau về quy tắc xuất xứ hàng hoá
ASEAN, cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), lộ trình thực hiện cắt giảm và ưu
đãi thuế quan trong ASEAN. Đây chính là nguồn tài liệu tham khảo quý báu
giúp tác giả có cơ sở để kế thừa và phát triển nghiên cứu sâu sắc thêm về quy
tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN và đánh giá việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng
hoá ASEAN ở Việt Nam khi AEC ra đời.
Liên quan đến đề tài của luận án, có thể chỉ ra các nhóm công trình khoa
học dưới đây:
1.2.1.Nhóm các công trình nghiên cứu trực tiếp về quy tắc xuất xứ hàng hoá.
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo, giáo trình:
sách chuyên khảo “Kỹ thuật nghiệp vụ hải quan và xuất nhập khẩu lý thuyết
và tình huống ứng dụng”[31], nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, năm 2010, chủ
biên TS. Nguyễn Thị Thương Huyền; Giáo trình “Phân loại và xuất xứ hàng
hóa”[30], nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, năm 2010, chủ biên PGS.,TS.
Nguyễn Thị Thương Huyền và ThS. Nguyễn Hoàng Tuấn. Hai cuốn sách này
tập trung làm rõ những vấn đề chung về lý luận xuất xứ hàng hoá, quy định
xuất xứ hàng hoá trên cơ sở phục vụ cho việc giảng dạy.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu là các luận án, luận văn, đề tài khoa
học có liên quan trực tiếp đến đề tài gồm có:
- Lê Thị Hồng Lan (2008), “Phương pháp xác định xuất xứ hàng hóa
xuất nhập khẩu ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”[32], Luận văn thạc sỹ
quản trị kinh doanh đại học ngoại thương. Đề tài làm rõ một số vấn đề lý
18
thuyết về xuất xứ hàng hoá, thực trạng xác định xuất xứ hàng hoá XNK ở
Việt Nam giai đoạn 2003-2008. Đề xuất một số giải pháp nhằm xác định xuất
xứ hàng hoá XNK ở Việt Nam.
- Stefano Inama, Hồ Quang Trung, Trần Bá Cường, Phan Sinh (2011),
“Báo cáo đánh giá tác động của quy tắc xuất xứ trong các hiệp định thương
mại tự do của Việt Nam”[26]. Đây là nghiên cứu của Dự án MUTRAP III tập
trung vào làm rõ những đặc điểm chính về quy tắc xuất xứ trong các hiệp định
thương mại tự do của Việt Nam, đánh giá tác động của quy tắc xuất xứ đối
với sản phẩm cụ thể từ góc độ Việt Nam. Từ đó đưa ra kết luận, kiến nghị cho
đàm phán, quản lý thực hiện quy tắc xuất xứ tại Việt Nam.
- Ths.Nguyễn Hoàng Tuấn, Ths.Thái Bùi Hải An (2014), Đề tài “Áp
dụng hiệu quả các quy định về xuất xứ hàng hóa trong các hiệp định thương
mại tự do của Việt Nam”[43], Học viện Tài chính. Đề tài đánh giá những tác
động của các quy tắc xuất xứ hàng hoá hiện đang áp dụng tại Việt Nam, tác
động đến thuế quan và trao đổi thương mại. Trên cơ sở phân tích và chỉ ra
những hạn chế trong việc áp dụng các quy tắc xuất xứ để đề xuất ra một số
giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng các quy định về xuất xứ hàng
hoá ở Việt Nam.
- Phan Thị Thu Hiền (2014), “Hoàn thiện chính sách kiểm tra xuất xứ
hàng hóa nhập khẩu của Tổng cục hải quan Việt Nam”[29], Luận văn thạc sỹ
chuyên ngành kinh tế đối ngoại Đại học Kinh tế quốc dân. Luận văn đi sâu
vào các quy định về kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hoá áp dụng đối với cơ
quan hải quan trong hoạt động quản lý hàng hoá XNK.
- Nguyễn Ngọc Túc (2008), Hoàn thiện các biện pháp kiểm tra xuất xứ
hàng hoá xuất nhập khẩu của hải quan Việt Nam [46], đề tài NCKH cấp Bộ
Tài chính. Đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến xuất xứ hàng hoá XNK,
các quy định quốc tế và trong nước liên quan đến xuất xứ hàng hoá XNK, các
19
biện pháp để xác định, kiểm tra và xác minh xuất xứ hàng hoá, kinh nghiệm
kiểm tra xuất xứ hàng hoá của một số nước và thực tế công tác kiểm tra, xác
minh xuất xứ hàng hoá XNK của Hải quan Việt Nam.
- Brian Staples (2015), “Báo cáo hỗ trợ bộ công thương về sáng kiến tự
chứng nhận xuất xứ”[17], Dự án EU-Mutrap. Bản báo cáo đã đánh giá về hiện
trạng hệ thống chứng nhận xuất xứ hiện nay tại Việt Nam, thông lệ quốc tế và
khu vực về tự chứng nhận xuất xứ, những thuận lợi, khó khăn và đưa ra một
số kiến nghị cho hoạt động tự chứng nhận xuất xứ của Việt Nam.
Thứ ba, các bài báo, bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành, các bài hội thảo khoa học có liên quan, đề cập đến quy tắc xuất xứ
hàng hoá, áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá có thể kể đến như:
Nguyễn Hoàng Tuấn (2012), “Gian lận thuế nhập khẩu qua mã số và
xuất xứ hàng hoá”[44], kỷ yếu hội thảo khoa học khoa Thuế và hải quan
tháng 09/2012: “Chống gian lận thuế ở Việt Nam-Những vấn đề lý luận và
thực tiễn”; Nguyễn Hoàng Tuấn (2013), “Thống nhất về cách hiểu khi sử
dụng hóa đơn thương mại trong áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hóa
theo các FTA của Việt Nam’’[45], tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán tháng
12/2013, trang 43-46; ThS. Nguyễn Cương (2015), “Cơ chế chứ ng nhận xuất xứ hà ng hoá trong cá c FTA và vấn đề đặt ra vớ i Viê ̣t Nam”[21], ta ̣p chı́ Nghiên cứ u Thương mại số 13& 14 tháng 04/2015; Khương Duy (2014), “Vai trò bảo hộ của quy tắc xuất xứ trong thương mại quốc tế” [23], tạp chí kinh tế
đối ngoại số 56 ,trường đại học Ngoại thương Hà Nội.
1.2.2.Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thuế quan và cộng
đồng kinh tế ASEAN (AEC).
Các đề tài, công trình nghiên cứu liên quan đến cộng đồng kinh kế
ASEAN gồm có:
- PGS,TS.Nguyễn Phúc Khanh (2005), “Nghiên cứu việc hình thành cộng
20
đồng kinh tế ASEAN (AEC) và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” [27], đề
tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ giáo dục và Đào tạo. Tác giả đi
sâu vào nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về cộng đồng kinh tế, kinh
nghiệm thành lập cộng đồng kinh tế châu Âu, đánh giá những điều kiện và
khả năng của ASEAN để thành lập AEC, lựa chọn mô hình và lộ trình ra đời
AEC, những tác động của AEC đối với Việt Nam.
- Bộ công thương (2010), “Hợp tác kinh tế việt Nam với ASEAN và
ASEAN mở rộng”[4], NXB Công thương, Hà Nội. Đây là bộ sách về hội nhập
kinh tế quốc tế do Bộ Công thương phát hành cung cấp những nghiên cứu về
hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) từ quá trình hình thành và phát
triển, những hợp tác cụ thể về kinh tế ASEAN và ASEAN+3, hợp tác giữa
Việt Nam với ASEAN và ASEAN+3.
- Nguyễn Hồng Sơn và Nguyễn Anh Thu, (2015), “Cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC) bối cảnh và kinh nghiệm quốc tế”[38], NXB đại học quốc gia
Hà Nội. Tác giả phân tích, đánh giá thực tiễn hội nhập kinh tế khu vực trên
thế giới qua hội nhập của các nước thuộc NAFTA, MERCOSUR, liên minh
Châu Âu, Châu Phi và rút ra bài học kinh nghiệm cho AEC/ASEAN. Xem xét
và đánh giá những nội dung và kết quả thực hiện hội nhập AEC từ kinh
nghiệm một số nước như Thái Lan, Philippines. Nhận định những xu hướng,
bối cảnh quốc tế mới và những tác động đối với AEC và vấn đề đặt ra đối với
Việt Nam.
Các bài báo, bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, các
bài hội thảo khoa học có liên quan, đề cập đến cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC) như: PGS.TS. Hà Văn Hội, “Tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN và
những tác động đến thương mại quốc tế của Việt Nam”[25], Tạp chí Khoa
học ĐHQGHN, Chuyên san Kinh tế và Kinh doanh, tập 29, số 4 (2013) 44-
53; PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn, TS. Nguyễn Mạnh Hùng, “Cộng đồng kinh
21
tế ASEAN trong bối cảnh quốc tế mới”[39], Tạp chí Những vấn đề kinh tế &
Chính trị Thế giới, tháng 7/2014; ThS. Trần Thị Thanh Tâm (2015), “Cơ hội
và thách thức đối với Việt Nam khi tham gia AEC”[40], Tạp chí Tài chính/
2015, Số 606 (Tháng 4), tr. 8 – 11; Nguyễn Anh Tuấn (2015), “Cộng đồng
Kinh tế ASEAN: Triển vọng và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”[42],
Tạp chí cộng sản số tháng 6/2015; Khương Duy (2015), “Cộng đồng kinh tế
ASEAN và những tác động đến Việt Nam”[24], Tạp chí Tài chính, Kỳ I-tháng
12/2015(622) , Tr.54-56.
Thông qua việc nghiên cứu, khảo sát các công trình nghiên cứu trong
nước có liên quan đến đề tài luận án, có thể thấy rằng số lượng các công trình
nghiên cứu có liên quan đến về quy tắc xuất xứ hàng hoá không nhiều. Phần
lớn các nội dung nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ pháp luật, tập trung vào quy
định trong các văn bản pháp luật nhà nước về xuất xứ hàng hoá. Còn các công
trình bài viết về AEC thì tập trung đánh giá nghiên cứu về những tác động
chung của quá trình hình thành, ít hoặc không đề cập đến tác động của quy tắc
xuất xứ hàng hoá.
1.3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN.
1.3.1. Những khoảng trống trong các nghiên cứu.
Qua xem xét những công trình nghiên cứu khoa học đã công bố trong và
ngoài nước liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án có thể thấy rằng:
- Những khoảng trống về mặt lý thuyết: Chưa có công trình nghiên cứu
khoa học mang tính lý luận chuyên sâu để tiếp cận toàn diện về khía cạnh
Quy tắc xuất xứ hàng hoá của Việt Nam trong áp dụng thuế quan ưu đãi gắn
với cộng đồng kinh tế ASEAN. Phần lớn các nghiên cứu trên chỉ tiếp cận
chung về quy tắc xuất xứ trong các công ước, hiệp định và dưới giác độ các
văn bản pháp luật mà chưa có sự gắn kết với lý luận về thuế quan ưu đãi và
22
cộng đồng kinh tế ASEAN. Các công trình cũng chưa có sự xem xét một cách
toàn diện về những nhân tố ảnh hưởng, mô hình ảnh hưởng của quy tắc xuất
xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi về mặt lý luận.
- Những khoảng trống về đánh giá thực tiễn thực hiện quy tắc xuất xứ
hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi trong AEC. Các nghiên cứu trên mới
chỉ xem xét và đánh giá khía cạnh thực tế thực hiện quy tắc xuất xứ tại một số
FTA trên thế giới như EU, Mỹ, ASEAN nói chung chứ chưa gắn kết với
AEC. Một số nghiên cứu có đề cập đến AEC nhưng lại dưới khía cạnh trao
đổi thương mại và đầu tư mà không đề cập đến quy tắc xuất xứ hàng hoá. Các
công trình cũng chưa có sự đi sâu phân tích và đánh giá một cách đầy đủ về
thực hiện Quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt
Nam gắn cộng đồng kinh tế ASEAN, phân tích tìm ra những hạn chế, nguyên
nhân làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp phù hợp trong việc áp dụng quy
tắc xuất xứ.
- Những khoảng trống trong việc đưa ra các giải pháp mang tính toàn
diện cho việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu
đãi của Việt Nam trong AEC: Do việc nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn
áp dụng các quy tắc xuất xứ của các công trình nêu trên chưa có sự toàn diện
và gắt kết với bối cảnh Việt Nam tham gia AEC nên việc đưa ra được một hệ
thống mang tính toàn diện và thiết thực trong các công trình nghiên cứu là
chưa có. Đây được xem là khoảng trống rất cần nghiên cứu khi xây dựng các
chính sách của Việt Nam khi ra nhập AEC.
Xuất phát từ các đánh giá nêu trên, luận án sẽ đi sâu nghiên cứu, phân
tích các vấn đề sau:
- Tiếp tục hoàn thiện và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về quy
tắc xuất xứ hàng hoá, thuế quan ưu đãi gắn với quy tắc xuất xứ hàng hoá.
- Thực tiễn áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá để vận dụng thuế quan ưu
23
đãi trong bối cảnh Việt Nam gia nhập AEC của các doanh nghiệp ở Việt Nam
cũng như các cơ quan quản lý nhà nước hiện nay cần được quan tâm nghiên
cứu chi tiết, cụ thể hơn. Trên cơ sở nghiên cứu đánh giá, phân tích một cách
toàn diện để tìm ra những tồn tại, hạn chế của việc thực hiện quy tắc xuất xứ
hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi trong bối cảnh Việt Nam gia nhập
AEC hiện nay như thế nào.
- Sử dụng các dữ liệu và một số mô hình để đánh giá mối liên hệ và tác
động của quy tắc xuất xứ hàng hoá, thuế quan ưu đãi đến trao đổi thương mại
trong AEC của Việt Nam.
- Đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá trong
áp dụng thuế quan ưu đãi trong cộng đồng kinh tế ASEAN.
1.3.2. Những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ kế thừa và tiếp tục phát
triển.
Nhìn tổng quan, các công trình nghiên cứu, các bài viết, tài liệu thu thập
được có liên quan mật thiết hoặc liên quan đến các nội dung nghiên cứu của
đề tài Luận án đã góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về quy tắc xuất
xứ hàng hoá và thuế quan ưu đãi trong bối cảnh ra đời của cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC) trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất, Các công trình nghiên cứu đã cung cấp cho NCS một cái nhìn
toàn diện về quy tắc xuất xứ hàng hoá, thuế quan ưu đãi và cộng đồng kinh tế
ASEAN. Một số công trình, bài viết đã sử dụng phương pháp phân tích,
phương pháp luận để làm rõ những nội dung lý luận về quy tắc xuất xứ hàng
hoá, kinh nghiệm của một số quốc gia trong áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá
đó là những lý luận và kinh nghiệm rất hữu ích để NCS tham khảo và có thể
vận dụng vào làm rõ những nội dung về quy tắc xuất xứ hàng hoá ở Việt Nam.
Thứ hai, Nhiều công trình, bài viết sử dụng mô hình đánh giá qua dữ liệu
phân tích sự tác động của xuất xứ hàng hoá với thuế quan ưu đãi, trao đổi
24
thương mại trong các FTA, RTA cũng như trong ASEAN. Trong xu hướng
phát triển mạnh mẽ của các FTA trên thế giới thì tác động đến quy tắc xuất
xứ, tác động đến sự tăng trưởng nhập khẩu và cắt giảm thuế quan thế nào, mối
liên hệ giữa tăng trưởng thương mại, quy tắc xuất xứ đã được làm rõ.
Thứ ba, Một số công trình trong và ngoài nước tập trung phân tích khá
sâu, khá cụ thể về lý luận chung của xuất xứ hàng hóa, quy tắc xuất xứ hàng
hóa trong các thỏa thuận thương mại khu vực, ảnh hưởng và tác động của quy
tắc xuất xứ hàng hóa đến thương mại, thuế quan và sự phát triển kinh tế.
Thứ tư, Một số công trình đã đánh giá cụ thể thực trạng áp dụng quy tắc
xuất xứ của theo quy định của WTO, quy tắc xuất xứ theo hệ thống GSP của
một số nước như EU, Mỹ, Canada, quy tắc xuất xứ trong các thỏa thuận
thương mại khu vực NAFTA, AFTA, Mercosur và FTA trên thế giới.
Thứ năm, Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến khung pháp lý về quy
tắc xuất xứ thông qua việc sử dụng các phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp
và phân tích. Một số hiệp định, công ước, luật, văn bản liên quan đã được chỉ
dẫn để phân tích làm rõ những qui định đặc thù của pháp luật về quy tắc xuất
xứ hàng hoá.
Tóm lại, những kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa học, tài liệu
nghiên cứu trên là điểm xuất phát rất quan trọng, là cơ sở lý luận mang tính
tiền đề để NCS tiếp tục có cơ sở để nghiên cứu, so sánh với thực trạng thực
hiện quy tắc xuất xứ trong áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam.
1.4.CÁC CÂU HỎI NGHIÊN CỨU.
Để có thể giải quyết một cách toàn diện, thấu đáo những vấn đề cần tiếp tục
nghiên cứu, NCS đặt ra các câu hỏi nghiên cứu cần phải giải quyết như sau:
1. Nội dung cơ bản của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế
quan ưu đãi là gì?
2. Những nhân tố nào ảnh hưởng đến việc thực hiện quy tắc xuất xứ
25
hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi?
3. Tác động của quy tắc xuất xứ hàng hoá đối với trao đổi thương mại
giữa các nước như thế nào trong áp dụng thuế quan ưu đãi?
4. Mô hình nghiên cứu nào có thể đánh giá được những tác động của
việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi?
5. Các nước trên thế giới đã có những biện pháp gì để thực hiện tốt quy
tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi? Từ đó, Việt Nam có thể
học hỏi và áp dụng được những gì?
6. Thực trạng thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế
quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN thời gian qua như
thế nào? Đã đạt được những kết quả gì? Những điểm gì còn hạn chế và
nguyên nhân tại sao?
7. Xu thế phát triển của các hiệp định thương mại tự do mới sẽ có ảnh
hưởng như thế nào đến việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng
thuế quan ưu đãi?
8. Những giải pháp nào đối với nhà nước và doanh nghiệp để có thể
thực hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi
trong bối cảnh Việt Nam gia nhập AEC ?
26
Kết luận chương 1
Trong chương 1, NCS đã thống kê, tổng hợp và phân tích tóm lược một
số nội dung về một số công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên
quan tới đề tài nghiên cứu của luận án. Đồng thời, NCS cũng đưa ra những
nhận xét đánh giá về các công trình nghiên cứu này như sau: Chưa có công
trình nghiên cứu khoa học mang tính lý luận và thực tiễn chuyên sâu tiếp cận
toàn diện về thực hiện quy tắc xuất xứ gắn với việc áp dụng thuế quan ưu đãi
của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN; các quan điểm, phương
hướng và các giải pháp cụ thể của một số nghiên cứu đưa ra để hoàn thiện,
thực hiện tốt Quy tắc xuất xứ hàng hoá không gắn với bối cảnh của Việt Nam;
một số nghiên cứu gắn với Việt Nam thì mới đề cập, phân tích chủ yếu trên
góc độ thực hiện văn bản pháp luật về xuất xứ hàng hoá, hoặc nếu đề cập đến
AEC thì không gắn với việc áp dụng quy tắc xuất xứ.
Xuất phát từ quan điểm nghiên cứu khoa học vừa mang tính kế thừa vừa
mang tính phát triển, NCS đã đặt ra một số vấn đề cần phải tiếp tục nghiên
cứu làm rõ trên cơ sở phát triển những kết quả của những nghiên cứu trước đó
trong luận án gắn liền với việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp
dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN. Từ đó,
NCS đã đặt ra 8 câu hỏi nhằm giải quyết trong luận án.
27
Chương 2
QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VÀ THUẾ QUAN ƯU ĐÃI
2.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ
2.1.1. Khái niệm xuất xứ hàng hoá và quy tắc xuất xứ hàng hoá.
2.1.1.1. Xuất xứ hàng hoá.
Trong những năm qua, song song với quá trình toàn cầu hóa là sự phát
triển mạnh mẽ của các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và khu
vực. Đây được xem là một xu thế quan trọng trong hoạt động thương mại thế
giới khi mà ngày càng có nhiều nước tham gia vào khối liên kết thương mại
đa phương ở cấp độ khu vực, châu lục và cả toàn cầu, đồng thời cũng tham
gia thực hiện nhiều cam kết thương mại song phương. Theo đó, việc các nước
dỡ bỏ một phần hay toàn bộ hàng rào bảo hộ, dành cho nhau nhiều ưu đãi
trong quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá ngày càng phổ biến nhằm tận
dụng tối đa khả năng được hưởng ưu đãi, miễn trừ nhằm nâng cao khả năng
tiếp cận thị trường của các đối tác thành viên FTA và giành lợi thế cạnh tranh
với hàng hóa từ các đối thủ ngoài FTA. Tuy nhiên, để thực hiện được những
quyền ưu đãi như vậy cần phải xác định được chính xác xuất xứ hàng hoá. Do
đó, việc xác định xuất xứ của hàng hóa là một khái niệm cần thiết và quan
trọng của hệ thống thương mại đa phương làm cơ sở để áp dụng các công cụ
chính sách thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Thuật ngữ “xuất xứ hàng hoá” mặc dù được sử dụng tương đối rộng rãi
trong thương mại quốc tế nhưng trong các từ điển về kinh tế hay thương mại
ở Việt Nam lại không thể tìm được một khái niệm đầy đủ về xuất xứ và xuất
xứ hàng hoá. Ngay cả với các từ điển nước ngoài cũng chỉ đề cập một cách
chung chung đến khái niệm về xuất xứ được đề cập là nơi sinh ra hoặc nơi
xuất phát hoặc nơi khởi đầu của một sản phẩm hay con người.
28
Dưới góc độ luật pháp quốc tế, khái niệm về xuất xứ hàng hoá được đề
cập một cách rõ nét hơn. Theo Điều 3(b) Hiệp định về quy tắc xuất xứ của
WTO đã chỉ ra: “một nước được xác định là nước xuất xứ của một hàng hóa
cụ thể nếu như hàng hóa được hoàn toàn sản xuất ra ở nước đó hoặc khi
nhiều nước cùng tham gia vào quá trình sản xuất ra hàng hóa đó, thì nước
xuất xứ hàng hóa là nước thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng.”
[54]. Với khái niệm này, hiệp định xem xét xuất xứ hàng hoá theo khía cạnh
về phương pháp xác định nước xuất xứ theo tiêu chí sản xuất hoàn toàn hoặc
công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng tại một quốc gia.
Tại Chương 1, Phụ lục K Công ước Kyoto về đơn giản hóa và hài hòa
hóa thủ tục hải quan (sửa đổi năm 1999) nêu rõ khái niệm về "Nước xuất xứ
của hàng hóa là nước tại đó hàng hóa được chế biến hoặc sản xuất, phù hợp
với tiêu chuẩn được áp dụng trong biểu thuế hải quan, giới hạn về số lượng
hoặc các biện pháp khác liên quan đến thương mại”[53]. Điều này cho thấy,
công ước xem xét khái niệm về xuất xứ hàng hoá dưới góc độ hoạt động chế
biến hoặc sản xuất đó có đáp ứng được các tiêu chuẩn làm thay đổi hàng hoá
áp dụng trong biểu thuế quan hay không. Hàng hoá được nhắc đến ở đây là tất
cả các hàng hoá được phân loại dựa trên hệ thống hài hoà mô tả và mã hoá
hàng hoá (hệ thống HS).
Ở Việt Nam, khái niệm về xuất xứ hàng hoá được đề cập đến tại Khoản 14,
Điều 3 Luật Thương mại Việt Nam 2005 như sau: “Xuất xứ hàng hoá là nước
hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nơi thực hiện công
đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hoá trong trường hợp có nhiều
nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá đó” [37].
Như vậy, có thể thấy xuất xứ hàng hóa chỉ là một khái niệm tương đối
được đưa ra ở nhiều quy định định khác nhau trên thế giới và Việt Nam
nhưng đều có điểm chung là xuất xứ hàng hoá phải gắn liền với công đoạn
29
sản xuất hoặc chế biến hàng hoá. Theo đó, xuất xứ hàng hoá được hiểu là chỉ
quốc gia, vùng lãnh thổ nguồn gốc nơi hàng hoá được tạo ra và có thể được
xem như là “quốc tịch” của hàng hoá. Tuy nhiên, hàng hóa không phải lúc
nào cũng được tạo ra hoàn toàn trong một nước hay vùng lãnh thổ mà thực tế
trong điều kiện kinh tế thế giới ngày nay cùng với sự phát triển của phân công
lao động, trình độ chuyên môn hoá càng cao và giao lưu buôn bán quốc tế
diễn ra mạnh mẽ, một hàng hóa được sản xuất ra có thể có sự đóng góp của
nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau. Việc xác định và thừa nhận quốc
gia, vùng lãnh thổ nào là xuất xứ của hàng hoá trên thực tế khá phức tạp và
không phải lúc nào cũng thống nhất. Do đó, đi kèm với các hiệp định thương
mại FTA luôn có các quy tắc xuất xứ được các nước thành viên thống nhất
xây dựng lên để nhằm xác định chính xác xuất xứ của các hàng hóa. Trong
phạm vi nghiên cứu của luận án, gắn liền với các quy định xuất xứ của Việt
Nam có thể khẳng định rằng, xuất xứ hàng hoá là nước hoặc vùng lãnh thổ
nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ
bản cuối cùng đối với hàng hoá trong trường hợp có nhiều nước hoặc vùng
lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá đó. Khái niệm xuất xứ hàng
hoá như vậy đã bao quát được các trường hợp được xác định xuất xứ hàng
hoá phù hợp với các quy định và thông lệ của các hiệp định thương mại và hài
hoà với pháp luật của nhiều nước trên thế giới.
2.1.1.2. Quy tắc xuất xứ hàng hoá.
Quy tắc xuất xứ được áp dụng để xác định xuất xứ hàng hóa, nhất là khi
hàng hóa được sản xuất bởi nhiều quốc gia khác nhau. Đây được xác định là
một vấn đề rất quan trọng trong quan hệ thương mại quốc tế. Khi đó, cùng
một hàng hóa được sản xuất và xuất khẩu bởi một quốc gia nhưng tùy thuộc
vào quy tắc xuất xứ được áp dụng trong mỗi trường hợp, hàng hóa đó có thể
được coi là có hoặc không có xuất xứ tại chính quốc gia này.
30
Dưới góc độ pháp luật quốc tế, tại chương 1, Phụ lục K Công ước Kyoto
về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan (sửa đổi năm 1999), khái
niệm về quy tắc xuất xứ được xác định: “Quy tắc xuất xứ là những quy định
cụ thể, hình thành và phát triển từ những quy tắc quy định trong luật pháp
quốc gia hoặc các hiệp định quốc tế (tiêu chuẩn xuất xứ), được một quốc gia
áp dụng để xác định xuất xứ hàng hóa.” [53]. Tuy nhiên, công ước Kyoto
không đưa ra được định nghĩa thống nhất quốc tế về cách xác định nguồn gốc
xuất xứ của hàng hoá. Bởi vậy, việc đưa ra một định nghĩa thống nhất quốc tế
về cách xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá về cơ bản vẫn dựa trên hiệp
định của WTO về quy tắc xuất xứ.
Tại điều 1 Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO đưa ra khái niệm: “Qui
tắc xuất xứ được định nghĩa là những luật, qui định, quyết định hành chính
chung do các Thành viên áp dụng để xác định nước xuất xứ của hàng hóa với
điều kiện là qui tắc xuất xứ này không liên quan đến thoả thuận thương mại
hoặc chế độ thương mại tự chủ có áp dụng ưu đãi thuế quan” [54].
Như vậy, có thể khẳng định rằng quy tắc xuất xứ được thể hiện dưới các
quy định luật pháp quốc gia hoặc điều ước, hiệp định quốc tế nhằm xác định
xuất xứ của hàng hoá. Để xác định được xuất xứ hàng hoá thì Hiệp định của
WTO về quy tắc xuất xứ cũng đưa ra cách thức phân chia quy tắc xuất xứ
theo hai dạng khác nhau theo mục đích sử dụng đó là quy tắc xuất xứ ưu đãi
và không ưu đãi.
Đối với quy tắc xuất xứ ưu đãi, tại mục 2 phụ lục II của Hiệp định về
quy tắc xuất xứ của WTO đã chỉ rõ: “Quy tắc xuất xứ ưu đãi được định nghĩa
là các luật, qui định, quyết định hành chính mà Thành viên áp dụng để xác
định hàng hóa có đủ tiêu chuẩn được hưởng đối xử ưu đãi theo chế độ thương
mại dành ưu đãi lẫn nhau hay một chiều dẫn tới áp dụng ưu đãi thuế vượt
ngoài phạm vi áp dụng của khoản 1- Điều I – GATT 1994” [54].
31
Chế độ thương mại có thể là các thoả thuận, hiệp định song phương hoặc
đa phương đề ra các ưu đãi về thuế quan hoặc chế độ ưu đãi thuế quan đơn
phương. Các ưu đãi này tất nhiên không chỉ giới hạn trong các cam kết giữa
các nền kinh tế thuộc phạm vi khu vực hay quốc tế mà có thể là các ưu đãi
một chiều (không có thỏa thuận). Ví dụ như: Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ
cập chung (GSP) của các nước phát triển dành cho các nước đang và kém
phát triển, theo đó một số nước phát triển dành những ưu đãi nhất định về
thuế quan cho một số nước đang và kém phát triển khi hàng hóa của nước này
thâm nhập vào thị trường nước phát triển đó. Để được hưởng các ưu đãi mà
nước nhập khẩu dành cho mình, hàng hóa phải có xuất xứ từ nước được
hưởng ưu đãi được xác định theo tiêu chí xuất xứ cụ thể do các nước cho
hưởng ưu đãi đặt ra. Như vậy, Quy tắc xuất xứ ưu đãi là các quy định về xuất
xứ áp dụng cho hàng hóa có thoả thuận ưu đãi về thuế quan để xác định sản
phẩm nhập khẩu sẽ được hưởng mức thuế quan ưu đãi hay MFN. Quy tắc này
thường được áp dụng trong các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song
phương, khu vực và không quy định trong WTO.
Đối với quy tắc xuất xứ không ưu đãi, tại điều 1 phần I của Hiệp định về
quy tắc xuất xứ của WTO đã đưa ra khái niệm: “Quy tắc xuất xứ không ưu
đãi là những luật, qui định, quyết định hành chính chung do các Thành viên
áp dụng để xác định nước xuất xứ của hàng hóa với điều kiện là qui tắc xuất
xứ này không liên quan đến thoả thuận thương mại hoặc chế độ thương mại
tự chủ có áp dụng ưu đãi thuế quan ngoài phạm vi điều chỉnh của khoản 1
Điều I của GATT 1994” [54].
Quy tắc xuất xứ không ưu đãi được sử dụng trong các công cụ chính
sách thương mại không ưu đãi như đối xử tối huệ quốc theo Điều I, II, III, XI
và XIII của GATT 1994, thuế chống phá giá và thuế đối kháng theo Điều VI
của GATT 1994, các biện pháp tự vệ theo Điều XIX của GATT 1994, yêu
32
cầu ký hiệu xuất xứ theo Điều IX của GATT 1994 và tất cả các hạn chế số
lượng hay hạn ngạch thuế quan áp dụng phân biệt đối xử. Các qui tắc xuất xứ
này bao gồm cả qui tắc xuất xứ được sử dụng trong mua sắm chính phủ và số
liệu thống kê thương mại. Một quốc gia có thể không có hoặc không sử dụng
các Qui tắc xuất xứ ưu đãi nhưng vẫn phải có những qui tắc xuất xứ không ưu
đãi nhất định. Do có nhiều qui tắc xuất xứ không ưu đãi đặt ra như vậy nên
cần được hài hoà giữa các quốc gia trên thế giới để đạt được sự thống nhất
chung trong cách xác định xuất xứ của hàng hoá nhằm các mục đích không
phải ưu đãi thuế quan. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã đưa vào nội
dung Hài hoà qui tắc xuất xứ tại phần IV của Hiệp định về qui tắc xuất xứ với
các nội dung cơ bản áp dụng đồng nhất cho tất cả các mục đích không phải ưu
đãi thuế quan và phải thể hiện rõ nước xuất xứ của một hàng hoá là nước sản
xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nước thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối
cùng hàng hoá đó nếu có nhiều quốc gia cùng tham gia sản xuất hàng hoá.
Tại Việt Nam, quy định về quy tắc xuất xứ ưu đãi và không ưu đãi đã
được đưa ra theo Khoản 2 và 3, Điều 3, Nghị định 19/2006/NĐ-CP quy định
chi tiết Luật Thương mại về xuất xứ hàng hóa do Chính phủ ban hành ngày 20
tháng 2 năm 2006 theo đó:
“2. Quy tắc xuất xứ ưu đãi là các quy định về xuất xứ áp dụng cho hàng
hóa có thoả thuận ưu đãi về thuế quan và ưu đãi về phi thuế quan.
3. Quy tắc xuất xứ không ưu đãi là các quy định về xuất xứ áp dụng cho
hàng hóa ngoài quy định tại khoản 2 Điều này và trong các trường hợp áp
dụng các biện pháp thương mại không ưu đãi về đối xử tối huệ quốc, chống
bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, hạn chế số lượng hay hạn ngạch thuế quan,
mua sắm chính phủ và thống kê thương mại.” [19]
Như vậy, quy tắc xuất xứ ưu đãi được sử dụng để xác định xuất xứ hàng
hóa nhằm các mục đích ưu đãi như cho hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt.
33
Ngược lại, quy tắc xuất xứ không ưu đãi được sử dụng để xác định xuất xứ
hàng hóa nhằm các mục đích không ưu đãi như về đối xử tối huệ quốc, chống
bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, hạn chế số lượng hay hạn ngạch thuế quan,
mua sắm chính phủ và thống kê thương mại. Do sự gia tăng của các FTA
trong WTO, quy tắc xuất xứ ưu đãi đa dạng hơn hẳn so với quy tắc xuất xứ
không ưu đãi. Bản thân Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO chỉ quy định
về quy tắc xuất xứ không ưu đãi, còn quy tắc xuất xứ ưu đãi sẽ được các
thành viên xây dựng khi đàm phán FTA hoặc cấp ưu đãi GSP. Mỗi thành viên
WTO chỉ có một quy tắc xuất xứ không ưu đãi nhưng có thể có nhiều quy tắc
xuất xứ ưu đãi khác nhau. Quy tắc xuất xứ không ưu đãi phải được áp dụng
trên nguyên tắc không phân biệt đối xử, còn quy tắc xuất xứ ưu đãi không
chịu sự ràng buộc này.
Ở Việt Nam, chỉ có Nghị định 19/2006/NĐ-CP của chính phủ quy định
về quy tắc xuất xứ không ưu đãi nhưng có rất nhiều quy tắc xuất xứ ưu đãi
trong các hiệp định thương mại song phương và đa phương mà nước ta là
thành viên. Việt Nam hiện nay đã ký kết rất nhiều hiệp định với tư cách thành
viên ASEAN hoặc với tư cách riêng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Ấn Độ, Australia, New Zealand, Chile. Đặc biệt, hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản hiện nay có thể được xác định xuất xứ dựa
trên ba quy tắc xuất xứ ưu đãi (GSP, AJCEP, VJEPA). Điều đó cho thấy sự đa
dạng, phức tạp của các quy tắc xuất xứ ưu đãi trong thương mại quốc tế.
2.1.2. Những nội dung cơ bản của quy tắc xuất xứ hàng hoá.
2.1.2.1. Xác định xuất xứ hàng hoá.
Để xác định được một hàng hoá có xuất xứ từ một quốc gia nào đó thì
trong nội dung của các quy tắc xuất xứ đều đưa ra các quy định về cách xác
định xuất xứ thuần túy và xuất xứ không thuần túy. Điều này được thể hiện
qua hình 2.1 như sau :
34
Hình 2.1.Tiêu chí xác định hàng hóa có xuất xứ
Xuất xứ thuần túy là thuật ngữ chỉ trường hợp khi hàng hóa hoàn toàn
được sản xuất ra tại một quốc gia. Đa số các quy tắc về xuất xứ thuần túy trên
thế giới đều giống nhau về nội dung và chủ yếu liên quan tới các mặt hàng
nông lâm, thủy hải sản và khoáng sản. Theo đó, hàng hoá có xuất xứ thuần
tuý là những sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên hoặc là những sản phẩm được
gia công hay chế biến không có sự tham gia của nguyên vật liệu nhập khẩu
hoặc không rõ xuất xứ.
Xuất xứ không thuần túy là trường hợp xảy ra khi hàng hoá trong quá
trình sản xuất hoặc gia công hay chế biến có thành phần nguyên vật liệu hoặc
lao động của hai hay nhiều nước tham gia vào hoạt động tạo ra sản phẩm này.
Khi đó, những sản phẩm này được coi là có xuất xứ tại nước được hưởng nếu
những nguyên liệu, bộ phận, thành phần của sản phẩm được chế biến hoặc gia
công đầy đủ hay chuyển đổi cơ bản tại nước đó. Về nguyên tắc chung, hoạt
động chế biến hoặc gia công được coi là đầy đủ nếu chúng thực hiện việc thay
đổi cơ bản một hàng hoá, có nghĩa là được biến đổi qua một quá trình sản
xuất, để hình thành một vật phẩm thương mại mới, khác biệt về hình dạng,
35
tính năng, đặc điểm cơ bản, hoặc mục đích sử dụng so với hàng hoá ban đầu.
Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì khái niệm gia công hoặc chế biến đầy đủ
tuỳ thuộc vào quy định của mỗi nước hay mỗi khu vực trong quan hệ với các
đối tác thương mại. Các tiêu chí chính thường dùng để xác định mức độ
chuyển đổi cơ bản đó là tiêu chí chuyển đổi dòng thuế (hay chuyển đổi mã số
hàng hoá CTC), công đoạn gia công hoặc chế biến hàng hoá và tiêu chí tỷ lệ
phần trăm (RVC). Trong quy tắc xuất xứ hàng hoá những tiêu chí này có thể
được áp dụng trong quy tắc chung (áp dụng cho tất cả các hàng hoá) hoặc quy
tắc xuất xứ cụ thể (gắn liền với từng nhóm hàng hoá cụ thể thường được xây
dựng dựa trên danh mục HS).
Tiêu chí chuyển đổi dòng thuế (hay chuyển đổi mã số hàng hóa CTC) là
sự thay đổi về mã số HS (trong Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu) của
hàng hóa xuất khẩu được tạo ra ở một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trong quá
trình sản xuất từ bất kỳ một nguyên liệu nào không có xuất xứ của quốc gia
hoặc vùng lãnh thổ này. Sự chuyển đổi có thể ở mức hai chữ số, bốn chữ số,
sáu chữ số hoặc ở một mức độ phân chia chi tiết hơn. Quy tắc này được xây
dựng phù hợp với hệ thống danh mục hài hòa và mô tả mã hóa hàng hóa (HS)
của Tổ chức Hải quan thế giới và thường được dùng làm phụ lục của các
FTA. Về nguyên tắc, chuyển đổi mã số hàng hóa là cách thức xác định xuất
xứ rất rõ ràng, dễ hiểu và dễ áp dụng đối với các doanh nghiệp. Về yêu cầu
chứng từ, quy tắc này đòi hỏi các doanh nghiệp phải lưu giữ các sổ sách cho
biết mã số thuế của sản phẩm cuối cùng và tất cả các đầu vào nhập khẩu. Yêu
cầu này không khó thực hiện nếu doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp nhập khẩu
đầu vào song sẽ khó thực hiện hơn nếu doanh nghiệp đó mua nguyên liệu qua
các đại lý trung gian trên thị trường nội địa.
Tiêu chí công đoạn gia công hoặc chế biến cụ thể hàng hoá (tiêu chí SP)
thể hiện qua việc nguyên vật liệu, bộ phận nhập khẩu được coi là sản xuất, gia
36
công chế biến đủ khi trải qua quá trình gia công cụ thể để tạo nên một thành
phẩm cuối cùng được công nhận xuất xứ. Tiêu chí này có thể bao gồm yêu
cầu phải sử dụng đầu vào cấu thành xuất xứ hoặc không cho phép sử dụng
đầu vào không cấu thành xuất xứ. Tiêu chí này thường sử dụng đối với các
sản phẩm thép, dệt may. Tiêu chí này rõ ràng, minh bạch, tuy nhiên lại kém
linh hoạt khi không thể theo kịp được với các thay đổi công nghệ hay các thay
đổi trong quy định về chứng từ như bảng kê các quy trình sản xuất cập nhật.
Tiêu chí này thường được kết hợp với tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa để
xác định xuất xứ.
Đối với tiêu chí tỷ lệ phần trăm (hay giá trị tăng thêm RVC), khi xác
định xuất xứ quy định hàng hóa sẽ được coi là chuyển đổi cơ bản khi một tỉ lệ
phần trăm tối đa trị giá nguyên vật liệu nhập khẩu hoặc không rõ xuất xứ
được sử dụng hoặc tỉ lệ phần trăm tối thiểu trị giá nguyên vật liệu nội địa
được sử dụng để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Tiêu chí này phù hợp với một
số mặt hàng không đáp ứng tiêu chí chuyển đổi mã số, đồng thời có thể linh
hoạt áp dụng tỉ lệ phần trăm nhất định, phù hợp năng lực các ngành công
nghiệp nội địa và không đòi hỏi công đoạn gia công chế biến. Tuy nhiên, tiêu
chí này không rõ ràng và khó dự báo. Trước hết, về định giá nguyên vật liệu
dựa trên giá xuất xưởng (EXW), giá FOB, giá CIF hoặc giá nhập kho. Mỗi
phương pháp định giá lại cho một kết quả khác biệt về giá trị của những
nguyên liệu không xác lập xuất xứ, ở đây là theo thứ tự tăng lên. Thứ hai, việc
áp dụng phương pháp này sẽ là tốn kém đối với các doanh nghiệp, do đòi hỏi
phải có hệ thống kế toán và năng lực giải quyết các vấn đề kế toán phức tạp.
Cuối cùng, với phương pháp xác định xuất xứ theo giá trị tăng thêm, xuất xứ
trở nên nhạy cảm đối với các nhân tố quyết định chênh lệch chi phí sản xuất
giữa các nước như tỷ giá hối đoái, lương và giá hàng hóa.
Khi áp dụng tiêu chí tỷ lệ phần trăm, có hai cách phổ biến thường được
37
các quốc gia trên thế giới xác định quy định rõ trong các bộ quy tắc xuất xứ
hàng hoá theo các FTA để xác định hàm lượng giá trị nội địa (RVC) (trường
hợp nào sử dụng cách nào cũng đều được quy định rõ trong quy tắc xuất xứ
liên quan), bao gồm:
+ Cách tính trực tiếp (chỉ tính hàm lượng giá trị các nguyên liệu “có xuất
xứ” từ các nước thành viên của FTA đó).
RVC = (VOM/AV) x 100
(2.1)
+ Cách tính gián tiếp (chỉ tính hàm lượng giá trị các nguyên liệu “không
có xuất xứ” từ các nước thành viên của FTA đó).
RVC = {(AV-VNM)/AV }x 100
(2.2)
Trong đó: • RVC = Hàm lượng giá trị nội địa (tính theo %) • AV (adjusted value) = Trị giá hàng hóa (đã được điều chỉnh)
Giá hàng hóa được điều chỉnh để không tính chi phí vận chuyển quốc tế
và các lệ phí liên quan (chỉ tính giá FOB).
• VOM (value of originating materials) = Trị giá phần nguyên liệu “có
xuất xứ” sử dụng để sản xuất ra hàng hóa đó
• VNM (value of non-originating materials)= Trị giá phần nguyên liệu
“không có xuất xứ” sử dụng để sản xuất ra hàng hóa đó (VNM không bao
hàm giá trị nguyên liệu tự sản xuất)
Các tiêu chí trên đều có những ưu điểm và nhược điểm trong việc xác
định sự thay đổi cơ bản của hàng hóa làm cơ sở cho xác định xuất xứ của
hàng hóa. Thực tế không có tiêu chí đơn nhất nào mang tính chi phối áp dụng
cho tất cả các sản phẩm. Tuy nhiên, rõ ràng là việc áp dụng các tiêu chí xuất
xứ khác nhau sẽ cho các kết luận xác định xuất xứ khác nhau.
Ngoài những tiêu chí được sử dụng phổ biến trong các quy tắc xuất xứ
nói trên, một số FTA có quy định những phương pháp đơn lẻ khác trong quy
38
tắc xuất xứ riêng như: phương pháp “mức tối thiểu” (de minimis), phương
pháp “chi phí tịnh” (net cost), quy tắc cộng gộp, quy tắc vận chuyển trực tiếp,
quy định về bao bì và vật liệu đóng gói, quy định về về phụ kiện, phụ tùng và
dụng cụ, quy định về các yếu tố trung gian, v. v.
2.1.2.2. Chứng nhận xuất xứ hàng hoá.
Trong quan hệ thương mại giữa các quốc gia trên thế giới việc xác định
xuất xứ hàng hoá đóng một vai trò vô cùng quan trọng và thường gắn liền với
chế độ ưu đãi thuế quan của các quốc gia hoặc khối khu vực kinh tế. Để cho
phép hàng hoá nhập khẩu được áp dụng ưu đãi thuế quan thì một trong những
tài liệu xác định xuất xứ là chứng nhận xuất xứ (C/O).
Hội đồng châu Á Thái Bình Dương về thuận lợi hoá thương mại và kinh
doanh điện tử (Asia Pacific Council for Trade Facilitation and Electronic
Business (AFACT) định nghĩa về giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá như sau:
“ Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá là một trong những chứng từ được yêu
cầu bởi các ngân hàng hay các cơ quan có thẩm quyền trong quan hệ thương
mại giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu”.
Theo định nghĩa của Wikipedia: “Giấy chứng nhận xuất xứ (tiếng
Anh: Certificate of Origin, thường viết tắt là C/O) là một tài liệu sử dụng
trong thương mại quốc tế nhằm xác định quốc gia xuất xứ của hàng hóa.”1
Theo phòng Thương mại Quốc tế (ICC) thì chứng nhận xuất xứ (C/O) là
một chứng từ quan trọng trong thương mại quốc tế xác nhận rằng một hàng
hoá trong xuất khẩu được sản xuất hoàn toàn, khai thác và chế biến tại một
quốc gia nhất định.
Nhiều hiệp định quốc tế, nhiều văn bản pháp luật của các quốc gia đã
đưa ra khái niệm về C/O, nhưng hiện nay vẫn chưa thể đi đến một quy định
thống nhất về C/O. Điều này xuất phát từ thực tế là do C/O có nhiều mẫu 1 https://vi.wikipedia.org/wiki/Chứng_nhận_xuất_xứ
39
khác nhau, mỗi mẫu lại có một quy định riêng. Cơ quan cấp C/O cũng không
thống nhất trên thế giới. Do đó, tuỳ theo mỗi loại C/O hay tuỳ theo quy định
của từng quốc gia mà sẽ có khái niệm cụ thể khác nhau về C/O và để có một
khái niệm chung thống nhất về C/O là rất khó.
Tại Phụ lục K Công ước Kyoto sửa đổi năm 1999 chỉ ra: “Giấy chứng
nhận xuất xứ (C/O) có mẫu cố định, dùng để xác định hàng hoá, trên đó, cơ
quan có thẩm quyền phát hành giấy chứng nhận này sẽ chứng nhận nước xuất
xứ của hàng hoá. Giấy chứng nhận này có thể bao gồm cả chứng nhận khai
báo của nhà sản xuất, nhà chế tạo, nhà phân phối, nhà xuất khẩu hoặc tổ
chức có thẩm quyền”. 2
Theo đó, Công Ước cũng làm rõ các khái niệm có liên quan đó là:
"Khai báo xuất xứ được chứng nhận" là việc khai báo xuất xứ được
chứng nhận bởi cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền.
"Khai báo xuất xứ" là việc xác nhận xuất xứ của hàng hoá xuất khẩu,
thể hiện bởi nhà sản xuất, nhà chế tạo, nhà phân phối, nhà xuất khẩu hoặc tổ
chức có thẩm quyền trên các chứng từ như hoá đơn thương mại, hoặc các
chứng từ khác liên quan đến hàng hoá.
"Tài liệu xác định xuất xứ" là giấy chứng nhận xuất xứ, khai báo xuất
xứ có chứng nhận hoặc khai báo xuất xứ.
"Giấy chứng nhận theo tên gọi của vùng" là giấy chứng nhận được phát
hành phù hợp với các quy tắc của một cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền,
chứng nhận hàng hoá được miêu tả có xuất xứ từ một vùng theo tên gọi cụ thể
nào đó (ví dụ: sâm panh, rượu Port, bơ Parmesan, . . .).
Từ đó cho thấy, chứng nhận xuất xứ hàng hoá rất đa dạng về hình thức
và các phương thức khác nhau theo quy định của các hệ thống pháp luật riêng
biệt của một quốc gia hay trong các hiệp định. Thực tế, trong một vài hiệp 2 Chương 3 Phụ lục K công ước Kyoto sửa đổi năm 1999
40
định, chỉ có cơ quan có thẩm quyền mới được phép phát hành và chứng nhận
xuất xứ theo một mẫu chung thống nhất.
Về cơ bản, trên thế giới hiện nay chứng nhận xuất xứ hàng hoá được xác
định dưới hai hình thức chủ yếu sau:
Hình thức thứ nhất, chứng nhận xuất xứ hàng hoá bởi bên thứ ba có
chức năng chứng nhận và không tham gia vào giao dịch thương mại liên quan
đến hàng hoá nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Thường bên thứ ba là các cơ quan có
thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp chứng nhận xuất xứ cho hàng hóa xuất
khẩu được sản xuất tại nước đó. Việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ bởi tổ
chức cấp được chỉ định trên cơ sở yêu cầu của doanh nghiệp xuất khẩu và
việc kiểm tra hàng hóa cũng như các tài liệu liên quan trước khi xuất khẩu.
Chứng từ xác nhận xuất xứ được phát hành dưới dạng mẫu giấy C/O phải
tuân thủ theo quy định của nước xuất khẩu và cả nước nhập khẩu theo quy
định của hiệp định thương mại đã ký kết. Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận xuất xứ tuỳ theo chế độ chính trị pháp luật của các nước quy định
có thể khác nhau và có thể là cơ quan hải quan, bộ thương mại, bộ công
nghiệp, . v.v. .
Nội dung của C/O thường bao gồm: tên và địa chỉ của người bán, tên và
địa chỉ của người mua, tên hàng, số lượng, ký mã hiệu, tiêu chí xuất xứ, xác
nhận của tổ chức cấp C/O. Nội dung trên C/O phải phù hợp với quy định của
hợp đồng hay thư tín dụng (L/C) và các chứng từ khác như vận đơn, hoá đơn
thương mại, .v .v .Một bộ C/O thường bao gồm một bản gốc và các bản sao.
Bản gốc được phân loại theo mầu, theo mẫu, được đóng dấu hay in chữ
“Original”. Các bản sao cũng được phân loại theo cách tương tự, thường có
mầu trắng và được phân biệt với bản gốc bằng cách đóng dấu “copy”. Trong
một số trường hợp các bản sao được phân biệt bằng cách đóng dấu số thứ tự
như duplicate, triplicate .v. v . hoặc cũng có thể có mầu khác nhau đã quy
41
định từ trước.
Các tổ chức cấp có trách nhiệm: • Hướng dẫn cho người nộp đơn nếu có yêu cầu; • Cấp C/O khi hàng hóa đáp ứng quy tắc xuất xứ áp dụng; • Tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại liên quan đến việc cấp C/O; • Xác định xuất xứ của hàng hóa xuất khẩu theo yêu cầu của cơ quan
có thẩm quyền của nước nhập khẩu;
• Trao đổi các thông tin liên quan đến việc cấp C/O với các tổ chức cấp khác.
Chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba cũng có các ưu điểm và nhược điểm riêng.
Ưu điểm chính là chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba đòi hỏi việc xem
xét các tài liệu hỗ trợ cho tờ khai xuất xứ của nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu
(có khả năng tiếp cận thông tin và tài liệu của việc sản xuất hàng hóa). Do đó,
thông tin xuất xứ sẽ được kiểm tra một cách nghiêm túc trước khi xuất khẩu
bởi một bên không thiên vị và không vụ lợi. Ngoài ra, chứng nhận xuất xứ bởi
bên thứ ba thường được thực hiện trước khi hàng hoá được xuất khẩu nên bên
thứ ba có thể tư vấn cho các nhà sản xuất và xuất khẩu và giúp họ tránh được
những vướng mắc về xuất xứ với các cơ quan chức năng hoặc khách hàng của
họ tại nước nhập khẩu. Việc xác minh chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba
cũng thường được thực hiện ở nước xuất khẩu và thường do chính bên thứ ba
này thực hiện theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu.
Ngược lại, cơ chế này có các nhược điểm sau: • Trong một số trường hợp, chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba thiếu sự
giám sát hiệu quả, cộng thêm với việc thiếu hình thức trừng phạt đối với các
lỗi liên quan.
• Sự thiếu trách nhiệm có thể dẫn đến tình huống chứng nhận trở thành
máy móc hoặc quan liêu. Trong trường hợp đó, ưu điểm chính của chứng
nhận xuất xứ bởi bên thứ ba là việc kiểm tra bởi một bên không thiên vị và
42
không vụ lợi sẽ không còn nữa. Chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba trở thành
một bước thừa và không có giá trị gia tăng. Trong nhiều trường hợp, chứng
nhận xuất xứ bởi bên thứ ba yêu cầu một khoản lệ phí danh nghĩa mà nhà sản
xuất hoặc nhà xuất khẩu phải trả. Quan trọng hơn, các quy định về chứng
nhận xuất xứ bởi bên thứ ba nếu quá phức tạp và mâu thuẫn có thể gây ra sự
chậm trễ đối với việc gửi hàng. Kém hiệu quả về mặt chi phí đối với cả tổ
chức cấp giấy chứng nhận và các nhà xuất khẩu, ảnh hưởng đến khả năng vận
dụng ưu đãi của các FTA. Điều này không thể chấp nhận được trong bối cảnh
chuỗi cung ứng toàn cầu đòi hỏi sự đáp ứng nhanh chóng.
Do các nhược điểm của hình thức chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba như
vậy nên xu hướng ngày nay, các thương nhân và các nhà đàm phán thương mại
ngày càng ưa chuộng hình thức chứng nhận xuất xứ thứ hai nhiều hơn.
Hình thức thứ hai, chứng nhận bởi các bên tham gia giao dịch thương mại
và được gọi là tự chứng nhận xuất xứ. Khi đó nhà sản xuất, nhà xuất khẩu hoặc
nhà nhập khẩu hàng hóa tự phát hành bằng chứng xuất xứ hàng hoá thông qua
việc tự khai báo xuất xứ của hàng hóa xuất khẩu hoặc nhập khẩu trên hóa đơn
thương mại hoặc bất kỳ chứng từ nào khác thay cho giấy chứng nhận xuất xứ
hàng hóa do tổ chức được chính phủ của nước xuất khẩu ủy quyền cấp. Trên thế
giới hiện nay tồn tại các hệ thống tự chứng nhận xuất xứ là:
(cid:3) Nhà sản xuất được tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa; (cid:3) Nhà xuất khẩu bất kỳ được tự chứng nhận xuất xứ của hàng hóa; (cid:3) Nhà xuất khẩu đủ điều kiện (certified/approved exporter) được tự
chứng nhận xuất xứ hàng hóa;
(cid:3) Nhà nhập khẩu tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa.
Hình thức tự chứng nhận xuất xứ có những ưu điểm cơ bản là với việc
nhà nhập khẩu được tự chứng nhận thì bên chứng nhận và bên hưởng lợi là
một. Các bên tham gia giao dịch thương mại chủ động hơn trong việc chứng
43
minh xuất xứ hàng hoá mà không phải lệ thuộc vào bên thứ ba. Hơn nữa, các
bên tham gia giao dịch thương mại chính là những người hiểu rõ nhất về hàng
hoá được làm từ cái gì? Sản xuất thế nào? Do đó, hình thức này sẽ gắn liền
trách nhiệm đảm bảo cung cấp thông tin bằng chứng chứng minh xuất xứ và
giải trình của họ. Giảm thiểu được các chi phí về xác minh, chứng minh xuất
xứ của các bên tham gia giao dịch cũng như các cơ quan quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, hình thức này cũng có những nhược điểm cơ bản. Một
trong số đó là sự chênh lệch về quy mô và sức mạnh thị trường: một nhà nhập
khẩu lớn của Hoa Kỳ có thể có lợi thế trong việc đòi hỏi thông tin xuất xứ từ
một nhà cung cấp nhỏ của nước xuất khẩu nhưng các nhà nhập khẩu nhỏ ở
một nước có thể gặp khó khăn trong việc có được thông tin nhạy cảm từ một
nhà xuất khẩu lớn của Hoa Kỳ. Việc xác minh tự chứng nhận xuất xứ thường
được thực hiện bởi cơ quan hải quan nước nhập khẩu tại cơ sở của nhà sản
xuất hoặc xuất khẩu ở nước xuất khẩu (với sự cho phép của các cơ quan chức
năng và các nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu ở nước xuất khẩu).
Nói chung, cả hai hình thức chứng nhận xuất xứ cơ bản cùng song song
tồn tại với các đặc điểm khác nhau, không có hình thức chứng nhận xuất xứ
nào hoàn hảo mà mỗi hình thức đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Môi
trường thương mại quốc tế ngày nay liên tục có các cuộc đàm phán thỏa thuận
thương mại ưu đãi. Do đó, các hình thức chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba và
tự chứng nhận xuất xứ đang bắt đầu ảnh hưởng lẫn nhau.Ví dụ, trong chế độ tự
chứng nhận xuất xứ, cơ quan hải quan nước nhập khẩu bắt đầu phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan chức năng của nước xuất khẩu để kiểm tra tính xác thực
của các khai báo xuất xứ của các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu của nước xuất
khẩu. Tương tự, “các nhà xuất khẩu được phê duyệt” trong cơ chế chứng nhận
xuất xứ bởi bên thứ ba cũng dần trở nên giống với tự chứng nhận xuất xứ.
44
Hình 2.2.Tỷ lệ chứng nhận xuất xứ
Theo nghiên cứu đánh giá của Tổ chức Hải quan thế giới được tổng hợp
tại hình 2.2 thì có 100 trong 149 FTA nghiên cứu năm 2014 (chiếm tỷ lệ
67,1%) đề cập đến nội dung tự chứng nhận xuất xứ, cho phép nhà xuất khẩu
tự chứng nhận xuất xứ, 55 FTA nghiên cứu (chiếm tỷ lệ 36,9%) nhà xuất
khẩu được phê duyệt từ cơ quan có thẩm quyền quyền chứng nhận xuất xứ
trên các chứng từ thương mại. Trong hầu hết các FTA, cơ quan hải quan được
thẩm quyền phát hành chứng nhận xuất xứ hoặc có trách nhiệm xác nhận xuất
xứ của nhà XK. 33 FTA (chiếm tỷ lệ 22.1%) nhà XK có đầy đủ quyền ký và
phát hành chứng nhận xuất xứ, trong khi 12 FTA (chiếm tỷ lệ 8.1%) nhà NK
có quyền chứng nhận. Trong 45 FTA nghiên cứu (chiếm tỷ lệ 30.2%), nhà
thẩm quyền chưa bao gồm phát hành chứng nhận xuất xứ. Trong 49 FTA
nghiên cứu (chiếm tỷ lệ 32.9%), chỉ có cơ quan có thẩm quyền mới được
phép phát hành chứng nhận xuất xứ. Việc phát hành có thể do cơ quan hải
quan, bộ thương mại hoặc cơ quan chính phủ được uỷ quyền [103].
Ngoài hai hình thức chứng nhận xuất xứ chủ yếu trên thì trong hoạt động
thương mại quốc tế còn có hình thức chứng nhận xuất xứ do nước lai xứ cấp.
Thực chất đây là hình thức xác nhận xuất xứ của nước khác trong trường hợp
45
hàng hoá có đi qua nước thứ ba (nước lai xứ) để tập kết chuyển tải, chuyển
khẩu nhưng không làm thay đổi xuất xứ hàng hoá, vẫn đảm bảo tính nguyên
trạng hoặc chỉ thực hiện một số hoạt động đơn giản để bảo quản hay đóng gói
lại hàng hoá nhằm đảm bảo chất lượng hàng hoá, không làm thay đổi giá trị
thương mại của hàng hoá. C/O do nước lai xứ cấp thường được nộp cho hải
quan nước nhập khẩu kèm theo bản sao C/O của nước xuất xứ để được hưởng
chế độ ưu đãi theo quy định.
Ở Việt Nam, khái niệm về chứng nhận xuất xứ được đưa ra tuỳ vào từng
loại cụ thể. Theo điểm 2, mục I, phần những quy định chung của Thông tư
liên tịch của Bộ Thương Mại và Tổng cục Hải Quan số 09/2000/TTLT - BTM
- TCHQ ngày 17/04/2000: “Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu (Certificate of origin, dưới đây gọi tắt là C/O) quy định tại Thông
tư liên tịch này là chứng từ do cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền cấp xác
nhận xuất xứ của một lô hàng xuất khẩu hay nhập khẩu”.
Còn tại điều 3 nghị định 19/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật thương
mại về xuất xứ hàng hóa chỉ ra: “Giấy chứng nhận xuất xứ là văn bản do tổ
chức thuộc quốc gia hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng hoá cấp dựa trên
những quy định và yêu cầu liên quan về xuất xứ, chỉ rõ nguồn gốc xuất xứ của
hàng hoá đó.” [19]
Từ đó cho thấy, nếu so sánh với khái niệm về chứng nhận xuất xứ trong
công ước Kyoto sửa đổi 1999 thì khái niệm này của Việt Nam hẹp hơn. Sự
khác biệt này xuất phát từ thực tế là trong các quy định của hệ thống pháp luật
Việt Nam và trong các hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia trước đây
đều chỉ áp dụng mô hình chứng nhận xuất xứ được chứng nhận bởi các cơ
quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, hiện nay với xu hướng phát triển mạnh mẽ
của các hiệp định thương mại thế hệ mới mà Việt Nam tham gia thì các mô
hình chứng nhận xuất xứ khác cũng đang được dần dần đưa vào quy định
46
trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Đó là bên cạnh mô hình chứng nhận
xuất xứ bởi các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam cũng đã triển khai áp dụng
mô hình tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá từ cuối năm 2015.
Tại điều 3 thông tư 28/2015/TT-BCT của Bộ Công thương Quy
định việc thực hiện thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định
thương mại hàng hóa ASEAN có đưa ra định nghĩa: “Tự chứng nhận xuất xứ
hàng hóa là việc thương nhân tự khai báo xuất xứ của hàng hóa xuất khẩu
trên hóa đơn thương mại thay cho C/O mẫu D”[7].
Như vậy, tuỳ vào từng quốc gia, khối kinh tế khu vực hoặc chính sách
thương mại cụ thể của từng quốc gia mà có các cách thức quy định chứng
nhận xuất xứ hàng hoá khác nhau.
2.1.3. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá.
2.1.3.1. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi.
Trong chính sách thuế quan của các quốc gia trên thế giới hiện nay luôn
áp dụng thuế quan ưu đãi hay ưu đãi đặc biệt đối với những hàng hoá nhập
khẩu từ các quốc gia có những thoả thuận trong quan hệ thương mại như là
các FTA. Khi đó, mỗi FTA sẽ có một quy tắc xuất xứ được sử dụng để xác
định quốc tịch của một hàng hoá, một sản phẩm. Điều kiện quan trọng để
được hưởng mức thuế quan ưu đãi là hàng hóa của doanh nghiệp xuất khẩu
phải đáp ứng quy tắc xuất xứ, có giấy chứng nhận nguồn gốc xuất xứ hàng
hóa (C/O) ứng với từng hiệp định FTA và là căn cứ pháp lý để Hải quan nước
nhập khẩu xác định hàng hóa đủ điều kiện được hưởng thuế quan ưu đãi. Do
đó, hai sản phẩm nhập khẩu mặc dù có chất lượng và giá bán xuất khẩu như
nhau, nhưng giữa sản phẩm đáp ứng được và sản phẩm không đáp ứng được
tiêu chí xuất xứ nêu trong quy tắc xuất xứ của FTA sẽ có sự chênh lệch về
thuế suất. Vì thuế suất ưu đãi đặc biệt thấp hơn thuế suất ưu đãi tối huệ quốc
nên giá bán trên thị trường nước nhập khẩu của hàng hóa đáp ứng được tiêu
47
chí xuất xứ của FTA sẽ thấp hơn hàng hóa không đáp ứng được tiêu chí xuất
xứ, nếu các yếu tố khác không đổi. Mức giá chênh lệch tạo ra lợi thế cạnh
tranh cho hàng hóa có xuất xứ từ các nước thành viên FTA so với hàng hóa có
xuất xứ ngoài FTA. Xác định chính xác xuất xứ nhằm đảm bảo sự thực hiện
các điều khoản của thoả thuận thương mại một cách thuận lợi và công bằng
với việc hưởng thuế suất ưu đãi của nước nhập đối với hàng hoá của nước XK
tại thị trường nước NK. Xuất xứ hàng hoá thường được sử dụng kết hợp với
mã số thuế để xác định mức thuế suất. Mỗi quốc gia đều có hệ thống thuế NK
và XK theo các danh mục biểu thuế khác nhau. Biểu thuế có các mức thuế
suất khác nhau đối với từng hàng hoá hoặc nhóm mặt hàng dựa trên mã số của
danh mục phân loại hàng hoá XNK. Chính vì vậy, cùng với mã số thuế phân
loại mặt hàng nhập khẩu, xuất xứ hàng hóa là cơ sở quan trọng để xác định
mức thuế áp dụng đối với mặt hàng đó, là căn cứ để quyết định liệu hàng hóa
đó có được áp dụng mức thuế quan ưu đãi hay không. Do vậy, các doanh
nghiệp khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu ra thị trường nước ngoài cần
xem xét liệu mặt hàng doanh nghiệp xuất khẩu có nằm trong danh sách hưởng
thuế ưu đãi hay không và cần tìm mọi cách để thỏa mãn quy tắc xuất xứ mà
nước nhập khẩu đặt ra.
2.1.3.2. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong việc kiểm soát hoạt
động thương mại và bảo hộ.
Việc xác định xuất xứ hàng hoá theo các quy tắc xuất xứ hàng hoá có
vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách thương mại của một nước
hay một khối nước dành cho một nước hay khối nước cụ thể nào đó. Chính
sách thương mại của quốc gia và các thoả thuận thương mại khu vực đôi khi
có sự phân biệt đối tượng áp dụng. Thông qua việc xác định chính xác xuất
xứ hàng hoá cho phép các quốc gia áp dụng các chế độ ưu đãi đối với những
hàng hoá nhập khẩu được hưởng theo chế độ ưu đãi đã được thoả thuận trong
48
các khu vực thương mại hoặc để áp dụng các biện pháp bảo vệ như đánh thuế
chống bán phá giá, thuế đối kháng, hạn ngạch, hạn ngạch thuế quan hoặc thực
thi các chính sách “mua sắm của chính phủ”. Mặt khác, thông qua hoạt động
cấp giấy chứng nhận xuất xứ, kiểm tra hải quan, các cơ quan quản lý của
nước nhập khẩu có thể kiểm soát được hoạt động xuất khẩu sang thị trường
các nước, đặc biệt là sang thị trường các nước có hạn ngạch nhập khẩu để
đảm bảo thực hiện đúng hạn ngạch như cam kết, thỏa thuận giữa các nước.
Vai trò bảo hộ của quy tắc xuất xứ giữa các nước trong và ngoài FTA
được thể hiện thông qua việc cùng loại hàng hoá nhập khẩu nhưng các nước
thành viên FTA dành cho nhau sự ưu đãi cao hơn các nước ngoài FTA. Điều
này còn phản ánh rất rõ nét khi xét tới việc có sự tham gia của nhiều quốc gia
vào việc sản xuất hàng hóa. Giả sử có bốn nước A, B, C, D; trong đó B là
nước sản xuất với nguyên vật liệu nhập khẩu từ C và D sau đó xuất khẩu
thành phẩm sang nước A. Nếu ba nước A, B, C ký kết một hiệp định thương
mại với quy tắc xuất xứ giả định rằng: hàng hóa xuất khẩu từ một nước thành
viên hiệp định tới một nước thành viên khác phải có hàm lượng giá trị khu
vực tối thiểu 40% mới đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan. Đây là con số
khá lớn, vì thế trong nhiều trường hợp nếu như không áp dụng quy tắc cộng
gộp xuất xứ sẽ rất khó thực hiện. Điều này thúc đẩy B nhập khẩu nguyên liệu
từ C (do A, B, C cùng thuộc một FTA nên nguyên liệu nhập khẩu từ C đưa
vào B sản xuất sẽ được cộng gộp xuất xứ theo quy định của đa số các quy tắc
xuất xứ hiện nay) và hạn chế nhập khẩu từ D. Rõ ràng, FTA này không điều
chỉnh việc B nhập khẩu nguyên liệu từ D nhưng quy tắc xuất xứ của nó đã
gián tiếp khiến B chuyển hướng nhập khẩu nguyên vật liệu từ D sang C. Vì
thế, trong trường hợp này, quy tắc xuất xứ đã tạo ra rào cản với D và bảo hộ
sản xuất ở các nước thành viên FTA (A, B và C). Nói cách khác, quy tắc xuất
xứ đã tạo ra sự phân biệt giữa hàng hóa có xuất xứ trong và ngoài FTA, tạo ra
49
một rào cản đối với hàng hóa có xuất xứ ngoài FTA.
Đối với quan hệ thương mại giữa các nước thành viên FTA, quy tắc
xuất xứ hàng hoá cũng tạo ra sự bảo hộ đối với hàng hoá nội địa. Bởi các quy
tắc xuất xứ phức tạp làm cho việc đáp ứng yêu cầu xuất xứ để được hưởng ưu
đãi theo FTA trở nên khó khăn hơn. Sự phức tạp này thể hiện ở chỗ có những
tiêu chí xuất xứ hết sức khắt khe. Chẳng hạn, quy tắc xuất xứ của Hiệp định
thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Chi-lê áp dụng tiêu chí chuyển đổi
nhóm (CTH) với mặt hàng nước cam ép (thuộc nhóm 20.09), kèm theo yêu
cầu nguyên liệu nhập khẩu không được phép thuộc nhóm 08.05 (đây là nhóm
chứa mặt hàng trái cam). Nghĩa là, nếu Chi-lê sản xuất nước cam ép từ cam
nhập khẩu thì sản phẩm này không thể có xuất xứ Chi-lê. Các quy định theo
dạng này gần như buộc hàng hóa phải đạt xuất xứ thuần túy hoặc phải có hàm
lượng giá trị gia tăng rất cao. Bên cạnh đó, các nước thành viên FTA có xu
hướng đặt ra các tiêu chí xuất xứ khắt khe hơn với các mặt hàng phải cạnh
tranh với hàng nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong nước. Hơn nữa, trong các
quy tắc xuất xứ, các yêu cầu hồ sơ, chứng từ để cấp và kiểm tra giấy chứng
nhận xuất xứ (C/O) là một nội dung hết sức quan trọng. Điều này đòi hỏi, các
thương nhân phải mất nhiều thời gian và chi phí để đáp ứng được các yêu cầu
về xuất xứ. Thêm vào đó, trong nhiều trường hợp để được hưởng ưu đãi,
thương nhân còn phải xuất trình được C/O phù hợp với chứng từ vận tải, hóa
đơn thương mại và tuân thủ các quy định khác của cơ quan cấp và kiểm tra...
Chẳng hạn, trước năm 2011 quy tắc xuất xứ của Hiệp định về khu vực thương
mại tự do ASEAN - Trung Quốc không chấp nhận hóa đơn thương mại do
một bên thứ ba cấp cho dù hàng hóa đáp ứng tiêu chí xuất xứ. Cho tới nay,
yêu cầu vận đơn phải được cấp ở nước xuất khẩu theo quy định của hiệp định
ATIGA vẫn khiến nhiều thương nhân gặp khó khăn. Vì thế, trong nhiều
trường hợp các thương nhân sẵn sàng từ bỏ ưu đãi về thuế quan, lựa chọn
50
mức thuế MFN để tiết kiệm thời gian và chi phí liên quan tới xuất xứ hàng
hóa. Có thể nói, sự phức tạp của quy định liên quan tới xuất xứ làm giảm độ
hấp dẫn của các ưu đãi trong FTA. Đây chính là một chiếc khóa an toàn để
góp phần bảo hộ thương mại ở một mức độ nhất định dù các bên tự nguyện
tham gia ký kết các hiệp định song phương và đa phương.
Không giống như quy tắc xuất xứ trong các FTA được xây dựng dựa trên
thỏa thuận của các nước thành viên, quy tắc xuất xứ trong các chương trình
GSP có tính áp đặt một chiều của bên cho hưởng đối với bên được hưởng, vì
thế tính chất rào cản bảo hộ của nó còn rõ rệt hơn. Chẳng hạn, quy tắc xuất xứ
GSP của EU tính hàm lượng nội địa của hàng hóa theo giá EXW thay vì giá
FOB, và với nhiều hàng hóa hàm lượng nội địa được yêu cầu lên tới 50%.
Đây là tiêu chí xuất xứ rất khắt khe do hàm lượng giá trị gia tăng phải bằng
một nửa giá xuất xưởng. Thêm vào đó, tương tự trong các FTA, quy tắc xuất
xứ trong các hệ thống GSP cũng yêu cầu rất phức tạp về vận chuyển thẳng
cũng như hồ sơ chứng từ, gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiến hành
các thủ tục xin hưởng ưu đãi. Quy tắc xuất xứ theo chiều hướng cản trở như
vậy sẽ hạn chế đáng kể số hàng hóa đáp ứng tiêu chí xuất xứ và làm giảm nhu
cầu chứng minh xuất xứ để hưởng ưu đãi của các doanh nghiệp. Mặc dù, quy
tắc xuất xứ của các hệ thống GSP đều đề cập tới việc cộng gộp xuất xứ giữa
nước cấp và nước được hưởng (cộng gộp song phương). Tuy nhiên, với
những yêu cầu cao về quy tắc xuất xứ khiến cho việc được hưởng ưu đãi trở
nên hết sức khó khăn nếu nước được hưởng ưu đãi không sử dụng nguyên vật
liệu, bán thành phẩm của nước cho hưởng. Từ đó, có thể thấy quy tắc xuất xứ
đóng vai trò như một van an toàn để điều chỉnh ảnh hưởng của cam kết ưu đãi
trong các hệ thống GSP và góp phần bảo hộ sản xuất trong nước tại các nước
cho hưởng.
51
2.1.3.3. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong xúc tiến thương mại.
Xuất xứ hàng hoá là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên
thương hiệu của hàng hoá, nhất là đối với những sản phẩm nông sản hay
những sản phẩm chế biến từ nguồn gốc tự nhiên gắn liền với vùng đất nơi tạo
ra sản phẩm. Bởi chỉ có riêng nơi đó với những điều kiện về tự nhiên thuận
lợi, nghệ thuật chế biến độc đáo, lâu đời hay trình độ công nghệ cao mới tạo
ra những sản phẩm nổi tiếng như vậy. Khi nói đến những sản phẩm này thì
người tiêu dùng liên tưởng ngay đến những quốc gia đó và ngược lại khi đề
cập đến quốc gia này thì người ta cũng ngay lập tức nghĩ đến những sản phẩm
đó. Trong trường hợp này, sản phẩm và xuất xứ gắn liền với nhau, mang một
giá trị thương hiệu truyền thống lâu bền. Trên thế giới, nhiều hàng hoá với tên
gọi gắn với nguồn gốc xuất xứ hàng hoá đã trở thành những thương hiệu hàng
hoá nổi tiếng như rượu vang Bordeaux, vang Chi lê, thịt bò Kobe, cà phê
Jamaica, .v.v. Những sản phẩm hàng hoá với xuất xứ như vậy luôn giành
được sự tin tưởng của người tiêu dùng và là một lợi thế cạnh tranh rất lớn mà
quốc gia xuất xứ của những sản phẩm này có được, giúp quốc gia đó dễ dàng
trong việc thâm nhập, chiếm lĩnh và duy trì thị phần xuất khẩu hàng hoá ở
nước ngoài. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới luôn tích cực bảo vệ những
thương hiệu sản phẩm hàng hoá gắn liền với xuất xứ của quốc gia mình.
Thông qua việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá là một công cụ luật pháp
quan trọng để các quốc gia xác nhận và cấp chứng nhận nguồn gốc xuất xứ
hàng hoá. Từ đó, có thể giúp người tiêu dùng nhận biết và phân biệt với
những hàng hoá thật với những hàng hoá bị làm giả, việc sử dụng sai hoặc lợi
dụng xuất xứ gắn lên những sản phẩm có chất lượng kém làm ảnh hưởng đến
hình ảnh thương hiệu xuất xứ của quốc gia mình. Xuất xứ hàng hoá không chỉ
đóng vai trò quan trọng xúc tiến thương mại đối với những sản phẩm, hàng
hoá đã có danh tiếng mà còn cả đối với những sản phẩm hàng hoá mới, cần
52
phải tạo dựng hình ảnh trên thị trường xuất khẩu. Bởi khi một sản phẩm, hàng
hoá được gắn thương hiệu nguồn gốc xuất xứ thì nó sẽ mang tính chất lâu dài.
Mặc dù lúc đầu, có thể chưa có được danh tiếng nhưng về lâu dài khi được
duy trì về chất lượng, sự độc đáo thì sẽ giành được sự tin cậy của người tiêu
dùng và từ đó thuận lợi hơn trong việc xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường.
2.1.3.4. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong thống kê thương mại.
Hội nhập kinh tế đã tạo cơ hội cho các nước phát triển kinh tế, mở rộng
hoạt động thương mại trong nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những
tác dụng tích cực, quá trình hội nhập cũng tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực
đối với sự phát triển nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói
riêng. Để có thể dự báo, xây dựng chiến lược và hoạch định chính sách phát
triển thương mại phù hợp với điều kiện thực tế của quốc gia hoặc quốc tế, đòi
hỏi các cơ quan quản lý của các chính phủ phải nắm bắt được thông tin số liệu
về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá được thu thập thông qua hoạt động
thống kê. Có thể nói, xuất xứ hàng hóa có vai trò quan trọng và cần thiết để
thực hiện thống kê ngoại thương thông qua hoạt động hải quan, giúp cho việc
xác định các xu hướng thương mại đối với một nước hoặc đối với một khu
vực trở nên dễ dàng hơn. Trên cơ sở các số liệu thống kê thương mại đáng tin
cậy thu thập được, các cơ quan quản lý nhà nước có thể xác định được lượng
hàng hóa đã được nhập khẩu từ từng nước, từng khu vực trong từng thời
điểm, thời kỳ khác nhau. Từ đó, đưa ra các chính sách, biện pháp nhằm cân
bằng cán cân thương mại đối với từng nước, từng khu vực trên thế giới, điều
hành cơ chế xuất nhập khẩu một cách kịp thời, chính xác. Thêm vào đó, dữ
liệu thống kê thương mại về xuất xứ hàng hoá còn có vai trò rất quan trọng
trong việc tiến hành các cuộc đàm phán thương mại giữa các quốc gia. Trên
cơ sở phân tích số liệu thống kê thương mại, các quốc gia có thể đánh giá
53
được những tác động thương mại đối với từng ngành hàng hoá khác nhau và
từ đó đưa ra các thoả thuận thương mại có lợi nhất cho quốc gia mình.
2.1.3.5. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong bảo vệ môi trường, sức
khoẻ cộng đồng và lợi ích người tiêu dùng.
Trong những trường hợp cần thiết, việc kiểm tra xác định xuất xứ hàng
hoá theo quy tắc xuất xứ hàng hoá còn nhằm xác định hàng hoá có xuất phát
từ vùng có nguy cơ mất vệ sinh an toàn thực phẩm hoặc bệnh dịch hoặc đang
gặp vấn đề về môi trường nguy hại hay không. Trong những trường hợp đó,
cơ quan hải quan nước nhập khẩu sẽ căn cứ vào xuất xứ hàng hoá để tiến
hành kiểm tra về mặt dịch tễ, kiểm tra các yếu tố gây nguy hại hoặc không
cho những hàng hoá có xuất xứ từ những vùng cảnh báo được nhập khẩu để
ngăn chặn việc lây lan của dịch bệnh, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và
bảo vệ môi trường. Ví dụ: khi dịch bệnh bò điên ở Anh xảy ra thì nhiều quốc
gia đã áp đặt lệnh cấm nhập khẩu thịt bò có nguồn gốc xuất xứ từ Anh, lệnh
cấm nhập khẩu gia cầm từ Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á khi có
dịch bệnh cúm H5N1, v.v.
Bên cạnh đó, thông qua xác định xuất xứ hàng hoá các quốc gia có thể
kiểm soát hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu các sản phẩm hàng hoá gây
phương hại đến lợi ích cộng đồng, an ninh chính trị và bảo vệ môi trường. Thí
dụ như: các quốc gia có thể không cho nhập khẩu các sản phẩm có xuất xứ từ
các nước có sử dụng lao động khổ sai là trẻ em hoặc các sản phẩm từ các
quốc gia được buôn bán nhằm tài trợ cho khủng bố, bạo lực như là dầu mỏ từ
nhà nước hồi giáo IS. Chính phủ các quốc gia cũng có thể ra lệnh cấm xuất
nhập khẩu các sản phẩm hàng hoá được sản xuất tại một nước không tuân thủ
các tiêu chuẩn về môi trường hoặc bản thân các sản phẩm được sản xuất có
tác hại cho môi trường chung như chất phá huỷ tầng Ô zôn (chất CFC), v.v.
Không chỉ bảo vệ môi trường, xuất xứ hàng hóa còn giữ vai trò bảo vệ
54
lợi ích người tiêu dùng. Xuất xứ hàng hóa là một trong những thông tin quan
trọng có khả năng phản ánh chất lượng của sản phẩm. Vì vậy, xuất xứ hàng
hóa là một trong những chỉ dẫn giúp người tiêu dùng đưa ra quyết định đúng
khi đi mua hàng.
2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ QUAN VÀ THUẾ QUAN ƯU ĐÃI.
2.2.1. Khái niệm thuế quan.
Lịch sử của thuế quan ra đời luôn gắn liền với sự phát triển của quan hệ
trao đổi mua bán hàng hoá mang tính quốc tế và sự ra đời, tồn tại, phát triển
của nhà nước. Khi đó, để điều tiết hoạt động trao đổi hàng hoá mang tính
quốc tế và có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, nhà nước đã đặt ra
loại thuế đánh vào hàng hoá được chuyên chở qua biên giới hoặc lãnh thổ hải
quan và thường có tên gọi chung là thuế quan (Customs duty). Hiện nay, có
rất nhiều khái niệm khác nhau về thuế quan như:
Theo từ điển Cambridge Business English Dictionary: “Thuế quan
(customs duty) là khoản thuế phải trả đối với hàng hoá nhập khẩu”3.
Theo tổ chức Hải quan thế giới thì : “Thuế quan là thuế quy định trong
Biểu thuế hải quan mà hàng hoá phải chịu khi nhập vào hay xuất ra khỏi lãnh thổ hải quan””[104, tr 9] [102].
Theo từ điển thuật ngữ thuế quốc tế thì: “Thuế hải quan là thuế đánh vào
hàng hoá nhập khẩu vào một quốc gia” [2, tr 125].
Ở Việt Nam, khái niệm về thuế quan thường gắn liền với khái niệm về
thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu. Theo từ điển Luật học: “Thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu là một loại thuế gián thu đánh vào các loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới.” [49, tr.482].
Theo từ điển bách khoa Việt Nam tập 4: “Thuế quan là nghĩa vụ nộp hoặc
3 http://dictionary.cambridge.org/dictionary/english/customs-duty
55
thuế đánh vào hàng hoá tại biên giới khi hàng hoá đi từ một lãnh thổ hải quan
này (thông thường là một nước) sang lãnh thổ hải quan khác” [48, tr.284].
Với những cách hiểu như trên, có thể thấy rằng thuế quan hàm chứa
những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, thuế quan là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong
giá cả hàng hoá. Do đó, thuế quan cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp đến giá
bán của hàng hoá nhập khẩu hay xuất khẩu.
Thứ hai, phạm vi áp dụng của thuế quan là với hàng hoá được phép
xuất nhập khẩu, bao gồm cả hàng hoá xuất khẩu từ thị trường trong nước vào
khu chế xuất và xuất khẩu ra nước ngoài hoặc nhập khẩu từ khu chế xuất và
từ nước ngoài vào thị trường trong nước.
Thứ ba, những điểm khác biệt của thuế quan với các loại thuế khác là
thuế quan không áp dụng đối với hàng hoá sản xuất và được tiêu thụ ở thị
trường trong nước mà chỉ đánh vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và luôn
luôn gắn với hoạt động xuất nhập khẩu để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu
và do vậy thuế quan là một trong những công cụ thuộc chính sách kinh tế
thương mại quốc tế của một quốc gia.
Như vậy, có thể thấy rằng khái niệm về thuế quan có một số quan điểm
đồng nhất với thuế nhập khẩu, nhưng một số khác lại cho rằng thuế quan bao
gồm cả thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Tuy nhiên, khi xem xét đặt trong
mối quan hệ với xuất xứ hàng hoá thuộc phạm vi đề tài nghiên cứu, thuế quan
được hiểu là thuế xuất khẩu, nhập khẩu, là sắc thuế đánh vào hàng hóa xuất
khẩu hoặc nhập khẩu trong quan hệ thương mại quốc tế [33, 111].
Thuế quan là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế
tài chính, thương mại vĩ mô tổng hợp, gắn liền với cơ chế quản lý xuất nhập
khẩu và chính sách đối ngoại của một quốc gia. Thuế xuất khẩu thường được
các nước đang phát triển áp dụng đối với một số mặt hàng (chủ yếu đánh vào
56
các mặt hàng mà Nhà nước không khuyến khích xuất khẩu như các mặt hàng
sử dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm đang bị cạn kiệt hay các mặt hàng
mà tính chất quan trọng của nó đối với sự an ninh lương thực hay an ninh
quốc gia được đặt lên trên hết) nhằm tăng lợi ích quốc gia. Thuế nhập khẩu là
công cụ để bảo hộ sản xuất nội địa. Nó có tác dụng bảo hộ cho các lĩnh vực
sản xuất then chốt, bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng
đủ vững mạnh để có thể cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài. Đồng thời, thuế
nhập khẩu có thể được áp dụng để trả đũa các biện pháp hạn chế thương mại
do các quốc gia khác tiến hành.
Thuế quan có thể được chia làm nhiều loại phụ thuộc vào các tiêu chí
phân loại khác nhau.
- Nếu dựa trên đối tượng chịu thuế, thuế quan gồm hai loại: thuế nhập
khẩu và thuế xuất khẩu.
- Nếu căn cứ vào phương thức tính thuế, thuế quan được chia thành ba
loại: thuế theo số lượng, thuế theo giá trị và thuế hỗn hợp. Thuế quan theo số
lượng là loại thuế được tính theo giá trị cố định bằng tiền trên một đơn vị
hàng hóa4. Thuế quan tính theo giá trị hàng hóa được đánh theo một tỷ lệ
phần trăm cố định trên giá trị của một đơn vị hàng hóa. Thuế quan hỗn hợp
kết hợp hai cách tính thuế nói trên. Trong các loại này, thuế quan tính theo giá
trị hàng hoá, thường gắn liền với biểu thuế quan, được sử dụng phổ biến và
đóng vai trò chính trong chính sách thuế quan của các quốc gia trên thế giới.
Biểu thuế quan là hình thức thể hiện chính sách thuế quan và công cụ
của chính sách thuế quan. Biểu thuế quan của các nước thường được xây
dựng dựa trên danh mục hàng hoá được phân loại và mã hoá theo hệ thống
HS, thường từ 6 – 10 số (tùy điều kiện của mỗi nước). Nội dung của biểu thuế
4 Đơn vị hàng hoá có thể được xác định theo những tiêu chuẩn về số kiện, trọng lượng, diện tích, thể tích, .. .
57
quan bao gồm mã số thuế, tên hàng hoá, đơn vị tính, thuế suất… Trong xu
hướng hội nhập thương mại quốc tế như hiện nay, nhất là với sự gia tăng của
các Hiệp định thương mại tự do (FTA), các quốc gia thường xây dựng nhiều
biểu thuế quan khác nhau trên cơ sở đó thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan
nhập khẩu theo cam kết giữa các đối tác theo từng FTA.
2.2.2. Khái quát về thuế quan ưu đãi.
Trong những năm qua, với sự phát triển nhanh chóng của thương mại thế
giới đi cùng với quá trình toàn cầu hoá và thúc đẩy tự do hoá thương mại thì
vấn đề cắt giảm thuế quan luôn được đặt ra trong hầu hết các cuộc đàm phán
thương mại. Với xu hướng chung là thuế quan sẽ ngày càng cắt giảm bớt
trong hoạt động thương mại để thúc đẩy hoạt động giao thương. Tuy nhiên,
với sự phát triển nhanh chóng của các hiệp định thương mại đa phương và
song phương đang nảy sinh vấn đề có sự chênh lệch lớn về mức thuế quan áp
dụng cùng với một loại hàng hoá của các quốc gia khác nhau. Tuỳ vào mức
độ ưu đãi trong quan hệ thương mại mà các quốc gia dành cho nhau những
mức thuế quan khác nhau và vì vậy mà ưu đãi thuế quan thông qua áp dụng
thuế quan ưu đãi được xem là một trong những yếu tố không thể thiếu trong
chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của một quốc gia.
Để thực hiện việc ưu đãi thuế quan thì trong chính sách thuế quan áp
dụng của các nước thường phân chia mức thuế quan áp dụng đối với hàng hoá
cùng loại của các quốc gia thành ba mức thuế suất khác nhau đó là: thuế suất
thông thường, thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt.
i. Thuế suất thông thường áp dụng đối với những hàng hoá nhập khẩu có
xuất xứ từ những nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối
xử tối huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu. Cụ thể
với Việt Nam thì áp dụng thuế suất thông thường được quy định bằng 150%
thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng.
58
ii. Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ
nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong
quan hệ thương mại với quốc gia cho hưởng; hàng hóa từ khu phi thuế quan
nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng điều kiện xuất xứ từ nước,
nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ
thương mại với quốc gia cho hưởng. Ví dụ như tính đến hết năm 2016, Việt
Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với trên 160 nước và vùng lãnh thổ; đã
có 90 quốc gia có thỏa thuận về quy chế tối huệ quốc trong quan hệ thương
mại với Việt Nam. Đối với hàng hoá từ những quốc gia này hiện được áp
dụng mức thuế suất theo Biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi của Việt Nam đã
được xây dựng và điều chỉnh hàng năm phù hợp với cam kết cắt giảm thuế
quan trong WTO, từ mức thuế bình quân năm 2005 là 17,4% đến 2016 xuống
còn 10,4%.
iii. Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất
xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về
thuế nhập khẩu trong quan hệ thương mại với với quốc gia cho hưởng; hàng
hóa từ khu phi thuế quan nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng điều
kiện xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc
biệt về thuế nhập khẩu trong quan hệ thương mại với với quốc gia cho hưởng.
Tuỳ vào quan hệ thương mại của một quốc gia mà mức thuế suất ưu đãi đặc
biệt này lại được chia thành nhiều mức thuế suất khác nhau dựa trên các cam
kết về cắt giảm, ưu đãi thuế quan theo từng FTA mà quốc gia đó tham gia. Ở
Việt Nam, tính đến hết năm 2016, Việt Nam đã tham gia ký kết và thực hiện
10 FTA song phương và đa phương và tương ứng với nó là có 10 Biểu thuế
ưu đãi đặc biệt trong các FTA được cắt giảm theo đúng lộ trình cam kết.
Thêm vào đó, để được hưởng những thuế quan ưu đãi này, bắt buộc những
hàng hoá nhập khẩu đó phải đáp ứng được những quy định về xuất xứ hàng
59
hoá theo các bộ quy tắc xuất xứ tương ứng theo các FTA.
Như vậy, có thể thấy rằng thuế quan ưu đãi là thuế quan thấp hơn so với
thuế quan bình thường (áp dụng chung với các nước) mà một quốc gia dành áp
dụng đối với hàng hoá nhập khẩu một nước hay một khối nước trong quan hệ
thương mại. Việc áp dụng thuế quan ưu đãi đối với cùng một loại hàng hoá sẽ
phụ thuộc rất lớn vào hàng hoá đó có xuất xứ từ quốc gia nào? Quốc gia đó có
quan hệ thương mại đặc biệt gì hay không? Trên cơ sở mức độ quan hệ thương
mại đó thì mức thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu sẽ được áp dụng
ưu đãi hơn so với hàng hoá cùng loại từ quốc gia khác. Vì vậy mà thuế quan
ưu đãi có thể được coi là việc một quốc gia thực hiện loại bỏ thuế quan hoặc
dành mức thuế suất thấp hơn đối với hàng hoá nhập khẩu từ quốc gia đối tác
so với quốc gia khác trong quan hệ thương mại. Tuy nhiên những hàng hoá
này phải được xác định là “có xuất xứ” từ quốc gia đối tác theo quy định của
bộ quy tắc xuất xứ để đủ điều kiện hưởng mức thuế quan ưu đãi theo chính
sách ưu đãi thuế quan mà quốc gia nhập khẩu áp dụng. Do đó, cùng với việc
đưa ra áp dụng mức thuế quan ưu đãi, các quốc gia áp dụng luôn xây dựng và
hình thành nên các bộ quy tắc xuất xứ nhằm xác định sự hợp lệ của hàng nhập
khẩu để được hưởng mức thuế quan ưu đãi. Nếu không có quy tắc xuất xứ,
hiện tượng thương mại chệch hướng sẽ rất khó ngăn chặn được khi hàng hóa
từ các nước vốn không được hưởng ưu đãi thuế quan sẽ xâm nhập qua các
nước được hưởng ưu đãi thuế quan để nhập khẩu vào quốc gia cho hưởng.
2.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN QUY
TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ TRONG ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI.
2.3.1. Các quy định pháp luật quốc tế điều chỉnh chung về xuất xứ hàng hóa.
Khi xem xét tới các quy định luật quốc tế điều chỉnh chung về xuất xứ
hàng hóa ảnh hưởng đến việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp
dụng thuế quan ưu đãi của các quốc gia thì phải xem xét các quy định sau:
60
Thứ nhất, các quy định của WTO: trong đó, hiệp định về quy tắc xuất xứ
của WTO được xây dựng nhằm tạo điều kiện cho hoạt động thương mại đa
biên của phần lớn các quốc gia trên thế giới. Mục đích của hiệp định nhằm hài
hòa hóa các qui tắc xuất xứ trong dài hạn, thay vì các qui tắc xuất xứ liên
quan đến việc cấp ưu đãi thuế quan và đảm bảo rằng các qui tắc xuất xứ bản
thân nó không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại.
Nguyên tắc cơ bản của hiệp định là quy tắc xuất xứ được xây dựng và áp
dụng cần phải đảm bảo tính minh bạch, công khai, khách quan, rõ ràng, dễ
hiểu và có thể dự đoán trước được. Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO
quy định các nguyên tắc áp dụng chung mà tất cả các nước thành viên khi ban
hành và thực thi các quy định pháp luật hoặc hành chính liên quan đến việc
xác định nước xuất xứ của hàng hóa đều phải tuân thủ. Tuy nhiên, các nguyên
tắc của Hiệp định không áp dụng cho các trường hợp quy tắc xuất xứ theo các
thỏa thuận ưu đãi.
Thứ hai, Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà hoá thủ tục hải
quan (Công ước Kyoto) ra đời năm 1973 và Công ước Kyoto sửa đổi năm
1999 do Tổ chức Hải quan thế giới đưa ra điều chỉnh đến quy định về xuất xứ
hàng hóa trong hoạt động của hải quan tại phụ lục chuyên đề K. Trong đó, tập
trung vào việc xác định chính xác xuất xứ, chống gian lận về xuất xứ, thực
hiện các thủ tục liên quan đến xuất xứ của hàng hóa phục vụ cho công tác
quản lý của cơ quan hải quan nước nhập khẩu.
Thứ ba, quy định về xuất xứ trong hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập
(GSP). Đây chính là quy định áp dụng trong hệ thống thương mại toàn cầu do
tổ chức liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) đưa ra. Trong
đó, quy định về chế độ ưu đãi đơn phương về thuế quan của các nước phát
triển dành cho những nước đang phát triển nhằm thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu hàng hóa của những nước này và để thực hiện được điều đó không thể
61
thiếu được quy định về xuất xứ hàng hóa đi kèm.
Thứ tư, các quy định trong các hiệp định song phương và đa phương mà
một quốc gia tham gia với các đối tác. Theo đó, với mỗi một hiệp định khác
nhau căn cứ vào mục tiêu, mức độ quan hệ thương mại, chính trị, luật pháp
mà có các chương trình cắt giảm thuế quan, cấu trúc biểu thuế quan, mức độ
áp dụng thuế quan ưu đãi, các quy định về thủ tục hải quan, kiểm tra hải quan,
cũng như các biện pháp quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu khác nhau từ đó có
sự sự chi phối, điều chỉnh đến các quy định về xuất xứ hàng hoá áp dụng.
Những yếu tố cơ bản trên sẽ tác động và chi phối rất lớn đến quá trình
xây dựng, hình thành và thực thi các quy tắc xuất xứ hàng hoá trong hệ thống
pháp luật của các quốc gia.
2.3.2.Hệ thống các quy định và chính sách liên quan đến hoạt động
thương mại và đầu tư.
Hệ thống các quy định và chính sách liên quan đến hoạt động thương
mại và đầu tư thể hiện thái độ và quan điểm của nhà nước trong việc điều
hành quản lý vĩ mô nền kinh tế. Các quy định về xuất xứ hàng hóa là một
phần nằm trong các quy định này và luôn có mối quan hệ chi phối, tác động
qua lại điều chỉnh với các quy định khác trong hệ thống trên cơ sở điều hành
của nhà nước. Quy định về xuất xứ hàng hóa đóng vai trò quan trọng trong
việc triển khai chính sách thương mại quốc gia theo hướng tự do hóa hay bảo
hộ. Đây là hai xu hướng mặc dù trái ngược nhưng luôn tồn tại song song.
Chính sách bảo hộ là những biện pháp của Chính phủ nhằm bảo vệ các
nhà sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh với nước ngoài. Mục tiêu bảo hộ
giữa các quốc gia là rất đa dạng. Đối với các nước phát triển thì mục tiêu
chính của việc bảo hộ là nhằm duy trì việc làm cho những nhóm lớn người lao
động có kỹ năng tương đối thấp. Trong khi đó, đối với các nước có trình độ
phát triển trung bình và thấp, gặp khó khăn trong cạnh tranh trên thị trường
62
quốc tế cũng như nội địa mà nguyên nhân sâu xa là thiếu vốn, nhân lực, quản
lý không hiệu quả... Chính sách bảo hộ nhằm mục tiêu duy trì và phát triển
một số ngành sản xuất quan trọng và có nhiều tiềm năng trở thành ngành cạnh
tranh trong tương lai. Chẳng hạn, Malaysia bảo hộ ngành sản xuất ô tô; Thái
Lan duy trì bảo hộ ở mức cao một số ngành điện tử, cơ khí, đường; Trung
Quốc lại theo đuổi mục tiêu bảo hộ sản xuất ô tô, thép, thuốc lá...
Một lý do riêng đối với việc bảo hộ của các nước đang phát triển và
chậm phát triển là việc các nước này phải thường xuyên duy trì cán cân thanh
toán có lợi và cải thiện nguồn ngân sách. Các nước đang phát triển và chậm
phát triển thường bị thâm hụt cán cân thanh toán, nguồn ngân sách hạn hẹp,
để tránh tình trạng này các quốc gia có thể áp dụng nhiều hình thức bảo hộ
khác nhau nhằm phát triển những ngành hàng thay thế NK hoặc hướng về
XK, hạn chế NK những mặt hàng không cần thiết từ đó hạn chế chi ngoại tệ
cho ngân sách thông qua XK, NK như: Hàng rào thuế quan (Tariff Barriers);
Hàng rào phi thuế quan (Non-Tariff Barriers).
Bởi vậy, nếu các quy định xuất xứ hàng hóa được đặt ra với yêu cầu cao
thì nó sẽ trở thành một công cụ của chính sách bảo hộ, còn nếu đơn giản hóa
và yêu cầu thấp sẽ thúc đẩy tự do hóa thương mại.
2.3.3. Những nhân tố thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước liên quan
trong quá trình thực thi pháp luật về xuất xứ hàng hóa.
Con người luôn đóng vai trò chủ đạo và quyết định đến sự thành công
hay thất bại trong việc xây dựng và thực thi chính sách. Trình độ, năng lực
của cán bộ thực thi pháp luật về xuất xứ hàng hóa không chỉ ảnh hưởng đến
việc tham mưu, xây dựng và hoạch định chính sách thuế quan hay thương mại
của đất nước mà còn quyết định hiệu quả thực hiện chính sách về xuất xứ
hàng hóa trong đó. Cán bộ làm công tác thẩm định và cấp chứng nhận xuất xứ
hàng hóa cũng như các cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra xuất xứ hàng
63
hóa nhằm đảm bảo xác định chính xác nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, ngăn
chặn những hành vi gian lận về xuất xứ, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp
luật trong xử lý các hành vi vi phạm về xuất xứ hàng hoá, đồng thời với đó
cũng phải triển khai thực hiện các nội dung của chính sách thuế XK, thuế NK,
chính sách thương mại liên quan đến xuất xứ hàng hóa và hướng dẫn, giải
quyết trực tiếp các vướng mắc của nhiều đối tượng có liên quan. Chính vì thế,
đội ngũ cán bộ nếu không có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao
thì mọi chính sách dù có tốt đến đâu cũng bị vô hiệu hoá và chính sách ban
hành sẽ không phát huy được tác dụng, bị lợi dụng, trốn thuế gây thất thu cho
ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, việc xây dựng, thực thi chính sách còn phụ
thuộc vào trình độ của đối tượng liên quan đến việc áp dụng các quy định về
xuất xứ hàng hóa. Nếu trình độ kiến thức về xuất xứ hàng hóa của những đối
tượng này càng cao thì việc áp dụng sẽ càng thuận lợi hơn.
Đồng thời với đó hệ thống các thủ tục hành chính và đội ngũ cán bộ làm
công tác này càng ít cửa nhất, ít giấy tờ nhất, thì sẽ rút ngắn thời gian làm thủ
tục, chi phí làm thủ tục thấp nhất, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh
nghiệp trong hoạt động thương mại, đem lại hiệu quả cao trong áp dụng các
quy định xuất xứ hàng hóa. Bên cạnh đó, mức độ trang bị phương tiện kỹ thuật
và trình độ ứng dụng công nghệ thông tin của các cơ quan quản lý nhà nước về
xuất xứ hàng hóa ảnh hưởng lớn đến hoạt động thực hiện các thủ tục, quy định
về xuất xứ hàng hóa cũng như công tác thẩm định, kiểm tra, xác nhận xuất xứ
hàng hóa có nhanh chóng, chính xác và hiệu quả hay không.
Ngoài ra, các quy định xuất xứ hàng hóa không chỉ liên quan đến thu
thuế XK, thuế NK mà còn liên quan đến nhiều lĩnh vực nên ngoài việc phối
hợp trong nội bộ từng ngành đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ
quan chức năng như: Bộ công thương, Hải quan, Thuế, các Hiệp hội ngành
nghề... Mối liên hệ khăng khít giữa cơ quan hải quan với các cơ quan, tổ chức
64
này tạo nên sự ràng buộc không thể thiếu trong thu thuế XK, thuế NK. Ngoài
ra, sự phối hợp này không chỉ nằm trong biên giới quốc gia mà phải kể đến
Hải quan các nước, Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), các tổ chức cấp
C/O.v.v. nhằm trao đổi thông tin nghiệp vụ, học tập kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn
nhau trong thương mại quốc tế.
2.3.4. Nhân tố thuộc về bản thân các doanh nghiệp
Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận
chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Hoạt động của doanh nghiệp
góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực
vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng
trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải
quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo.
Trong quan hệ trao đổi thương mại quốc tế, doanh nghiệp chính là chủ thể
đóng vai trò quan trọng áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế
quan ưu đãi. Khi xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp sang thị trường nước
ngoài, muốn được hưởng thuế quan ưu đãi thì hàng hoá của doanh nghiệp
phải đáp ứng được những quy định về xuất xứ hàng hoá theo hiệp định
thương mại đã ký kết với quốc gia mình. Ở chiều ngược lại, khi nhập khẩu
hàng hoá vào trong nước muốn được hưởng thuế quan ưu đãi thì doanh
nghiệp cũng phải tuân thủ đầy đủ các quy định về thủ tục nhập khẩu liên quan
đến quy tắc xuất xứ hàng hoá. Do đó, nếu doanh nghiệp không thể đáp ứng
được các quy định của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu
đãi khi thực hiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu thì sẽ mất đi lợi
thế cạnh tranh do không được hưởng những ưu đãi mà quốc gia nhập khẩu
hàng hoá dành cho. Từ đó ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hoá và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển của một quốc
gia trong quan hệ thương mại quốc tế. Như vậy, có thể khẳng định rằng, nhân
65
tố doanh nghiệp sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến việc áp dụng quy tắc xuất xứ
hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi của một quốc gia. Nhân tố doanh
nghiệp được phản ánh trên các khía cạnh sau:
Thứ nhất là nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp. Như đã phân tích ở
trên, để áp dụng được quy tắc xuất xứ hàng hoá thì bản thân các doanh nghiệp
trước hết phải nắm bắt và am hiểu những nội dung, quy định có trong các quy
tắc xuất xứ hàng hoá. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần phải có sự chủ động,
tích cực nắm bắt và áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hoá trong ưu đãi
thuế quan vào trong hoạt động kinh doanh thông qua việc xây dựng được
nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao và am hiểu về xuất xứ hàng hoá.
Nguồn nhân lực được coi là vấn đề vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp và áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá. Một nguồn
nhân lực kém không đáp ứng được nhu cầu sẽ là nguyên nhân cơ bản dẫn đến
sự thất bại của doanh nghiệp. Với nguồn nhân lực đủ mạnh, các doanh nghiệp
có thể nắm bắt được một cách tốt nhất những nội dung mới và phức tạp liên
quan đến xuất xứ và các cam kết, quy định phức tạp có liên quan áp dụng,
tránh được những sai sót, mất nhiều thời gian và chi phí thực hiện những quy
định của quy tắc xuất xứ.
Thứ hai là trình độ và năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Đây được
xem là yếu tố quan trọng để đáp ứng được các yêu cầu về các tiêu chí xuất xứ
hàng hoá, các doanh nghiệp cần phải có trình độ và năng lực sản xuất đủ
mạnh. Theo quy định của quy tắc xuất xứ hàng hoá, các hàng hóa muốn đáp
ứng được các tiêu chí xuất xứ hàng hoá đòi hỏi phải trải qua những quá trình
gia công, chế biến nhất định đạt được mức độ chuyển đổi dòng thuế hay hàm
lượng giá trị nội địa hoặc công đoạn gia công, chế biến nào đó. Mà để đạt
được điều này, các doanh nghiệp phải có quy trình, hệ thống quản trị sản xuất
tuân thủ chặt chẽ các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật để thực hiện đầy đủ các
66
công đoạn gia công, chế biến cần thiết đối với các đầu vào nhập khẩu, có các
biện pháp kiểm soát, phân bổ các nguồn nguyên liệu đầu vào, từ đó có thể đáp
ứng được các tiêu chí xuất xứ hàng hoá. Thêm vào đó, năng lực sản xuất của
một doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu đầu vào, trình độ người lao động, trình độ quản lý và đặc biệt
là khả năng áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất. Tất cả
các nhân tố này có sự tác động đến năng lực sản xuất của doanh nghiệp cao
hay thấp, sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra có thể đáp ứng được các tiêu
chí về xuất xứ hàng hoá hay không. Từ đó, có thể được chứng nhận xuất xứ
hàng hoá khi xuất khẩu và hưởng thuế quan ưu đãi tại nước nhập khẩu theo
các quy định của quy tắc xuất xứ hàng hoá và hiệp định thương mại. Do vậy,
bản thân các doanh nghiệp cần có những biện pháp cụ thể nhằm tác động đến
các nhân tố này từ đó nâng cao khả năng áp dụng các quy định về xuất xứ
hàng hoá trong ưu đãi thuế quan.
Bên cạnh đó, việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế
quan ưu đãi còn chịu sự ảnh hưởng rất lớn bởi ý thức tuân thủ pháp luật của
các doanh nghiệp. Với những lợi ích có thể đạt được nhờ được hưởng những
ưu đãi về thuế quan có thể khiến các doanh nghiệp thực hiện các hành vi gian
lận về xuất xứ hàng hoá gây phương hại đến lợi ích của quốc gia và nền kinh
tế. Do đó, mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp của quốc gia càng cao
thì việc thực thi pháp luật về xuất xứ hàng hoá càng đem lại tác động tích cực
đối với quốc gia đó. Thêm vào đó, Hệ thống quản trị doanh nghiệp, hệ thống
sổ sách, kế toán, tài chính và quy trình kiểm soát của doanh nghiệp trong sản
xuất hàng hoá xuất khẩu cũng có tác động rất lớn đến việc thực thi các quy
định về xuất xứ hàng hoá, nhất là các quy định tuân thủ về hồ sơ, chứng từ
chứng minh nguồn gốc xuất xứ của các yếu tố cấu thành hàng hoá sản xuất
của doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiệp có sự chú trọng trong quản trị tốt
67
các yếu tố trên thì sẽ thuận lợi và dễ dàng đáp ứng được những yêu cầu, đòi
hỏi từ phía các cơ quan quản lý trong việc tuân thủ các quy định về xuất xứ
hàng hoá.
Ngoài ra, quan hệ đối tác nhà nước và doanh nghiệp cũng có sự tác động
lớn đến việc thực thi các quy tắc xuất xứ hàng hoá. Nếu các doanh nghiệp có
sự chủ động hợp tác tích cực với cơ quan nhà nước có liên quan trong việc áp
dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá thì sẽ có thể tiếp cận một cách tốt nhất những
thông tin về quy tắc xuất xứ, đồng thời cũng có được sự hỗ trợ từ các cơ quan
này trong quá trình áp dụng để đạt được lợi ích tốt nhất.
2.4. TÁC ĐỘNG CỦA QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VÀ THUẾ
QUAN ƯU ĐÃI ĐẾN XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU.
Qua sự nghiên cứu của rất nhiều các học giả trên thế giới cho thấy ảnh
hưởng của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi đến
luồng trao đổi thương mại là rất rõ rệt. Quy tắc xuất xứ hàng hoá tác động đến
thương mại bởi nguyên nhân cơ bản liên quan đến hai loại chi phí là chi phí
sản xuất hàng hoá và chi phí hành chính5. Sự khác biệt về những yêu cầu kỹ
thuật là nguyên nhân tạo ra chi phí sản xuất hàng hoá. Chi phí sản xuất hàng
hoá có thể nảy sinh trong thực tế bởi nguyên do quy tắc xuất xứ được xây
dựng dựa trên hệ thống HS, mà hệ thống này lại được xây dựng không nhằm
mục đích xác định xuất xứ hàng hoá. Ví dụ, một hàng hoá trong thực tế thực
hiện sự chuyển đổi quan trọng nhưng lại có thể không thoả mãn điều kiện về
chuyển đổi mã số phân loại. Khi đó, các chi phí hành chính về thủ tục cần
thiết để xác nhận xuất xứ hàng hoá như là các chi phí liên quan đến kế toán sẽ
tác động đến cả nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu trước và sau khi lô hàng
được giao dịch. Cơ chế chứng nhận nguồn gốc xuất xứ hàng hoá hơn nữa
5Xem Ju và Krishna (1998), Duttagupta và Panagariya (2003), Estevadeordal và Suominen (2003), Doan Ngoc Thang (2016 ).
68
cũng sẽ làm phát sinh các chí phí cho các doanh nghiệp và cơ quan chính phủ
có liên quan, đặc biệt là đối với những nước tham gia vào nhiều FTA thì phải
thực nhiều nhiều quy tắc xuất xứ khác nhau. Những nhân tố khác cũng có thể
ảnh hưởng bởi quy tắc xuất xứ hàng hoá đến trao đổi thương mại đó là những
đặc điểm của các doanh nghiệp (khi các doanh nghiệp có thể dễ dàng thay đổi
tỷ lệ giá trị tăng thêm vào sản phẩm sản xuất bằng việc thay đổi công nghệ
sản xuất, đầu vào sản xuất từ nguồn nội địa hay các nước đối tác khác nhau,
sự khác biệt về giá cả giữa nguồn nội địa và nguồn nhập khẩu có thể được sử
dụng để tính toán giá trị nội địa chứa đựng trong sản phẩm sản xuất để xác
định xuất xứ) và lĩnh vực sản xuất (đó là việc đặt ra các mức ưu đãi cao và
nhu cầu về giá đối với sản phẩm cuối cùng). Về mặt lý thuyết dường như
thống nhất chỉ ra rằng quy tắc xuất xứ hàng hoá tác động làm giảm mức trao
đổi hàng hoá xuống dưới mức trao đổi không áp dụng quy tắc xuất xứ.
Để xem xét tác động của quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế quan ưu đãi
đến xuất khẩu, nhập khẩu của một quốc gia thì mô hình trọng lực (Gravity
Model) được xem là một công cụ hữu hiệu hiện nay.
Mô hình trọng lực được xây dựng theo dạng:
(2.3)
Xijt = f (Yijt;β) exp(vijt-uijt)6
Trong đó:
Xijt : xuất khẩu 2 bên từ nước i tới nước j
f (Yijt;β) các nhân tố khống chế xác định khả năng của thương mạiYijt
(bao gồm cả cản trợ tự nhiên)
β biểu thị véc tơ các tham số chưa biết, cần phải ước lượng
Cả uijt và vijt là sai số kỳ hạn. Trong khi, một mặt của sai số kỳ hạn uijt là
kỹ thuật thiếu hiệu quả trong việc khống chế các cản trở do con người tạo ra
và vijt biểu thị ảnh hưởng của thương mại của các biến tự do. uijt nằm giữa 0 6 Xem Baldwin, Taglioni (2006) và Armstrong (2007), Doan Ngoc Thang (2016 ).
69
2
và 1 và nó chỉ ra sự không phủ định việc phân phối mức trung bình µ và
μσ
phương sai. Hai mặt của sai số kỳ hạn vijt , được giả định phân phối chuẩn với
giá trị trung bình bằng 0 và
2σv nắm giữ phép đo và sai số đặc trưng.
Trong mô hình này, các yếu tố cản trở thương mại được chia thành 2
nhóm: cản trở tự nhiên (như là biên giới, giới hạn bởi đất liền, và ngôn ngữ)
và cản trở do con người tạo ra (như là các hiệp định thương mại, khác biệt
chính trị, khối khu vực, quy tắc xuất xứ hàng hoá, thuế quan và thể chế). Đối
với ảnh hưởng của quy tắc xuất xứ thì có thể đánh giá trên sự thay đổi của
chuyển đổi mã số thuế (CTC) (tại cấp độ dòng thuế (HS- 8 số), cấp độ phân
nhóm (6 số), nhóm (4 số) hay cấp độ chương (2 số)) hay thời gian biểu áp
dụng thuế quan, cộng gộp, hoàn thuế, chấp thuận và mức độ gia công quy
định trong FTA. Tuy nhiên, vì những khó khăn do việc chuyển đổi các yêu
cầu kỹ thuật thành các biến số đo lường sự giới hạn của quy tắc xuất xứ nên
về mặt thực nghiệm các học giả trên thế giới đã cải tiến ra nhiều mô hình khác
nhau để có thể đánh giá được ảnh hưởng của quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế
quan đến trao đổi thương mại giữa các quốc gia. Nổi bật có thể kể đến:
(cid:4) Mô hình do Sangkyom Kim, Innwon Park, and Soonchan Park
(2012)[93] đã sử dụng dữ liệu bảng với 48.088 cặp quốc gia của 151 nước
trong 6 năm từ 1980 đến 2005 với khoảng thời gian 5 năm mỗi đoạn và được
biểu diễn dưới dạng sau đây:
Ln (Tradeijt) = αij+ α1 ln (GDPit) + α2 ln (GDPjt) + α3 ln (DISTij) + β’X’ +
(2.4)
∑k ROO/k + δ Yeart + εijt
Trong đó: • Trade biểu thị giá trị trao đổi thương mại giữa nước i và j tại năm t. • GDP là GDP thực tế • DIST là khoảng cách giữa nước i và j
70
• X’ là các biến kiểm soát gồm các biến giả chung biên giới Border,
thuộc địa Colony và sử dụng ngôn ngữ chung Common Language.
• ROO thiết lập cho các quy tắc xuất xứ chung; với k∈ {Bilateral
Cumulation, Diagonal Cumulation}, {De Minimis, No De Minimis} hoặc
{Public Certification, Self Certification}.
• Bilateral Cumulation (Diagonal Cumulation) là biến nhị phân nhận
giá trị đơn nhất nếu i và j thuộc FTA sẽ cộng gộp (chéo hoặc riêng) .
• De Minimis (No De Minimis) là biến nhị phân nhận giá trị đơn nhất
nếu i và j thuộc FTA (không hoặc riêng) De Minimis.
• Public Certification (Self Certification) là biến nhị phân nhận giá trị
đơn nhất nếu i và j thuộc FTA (không hoặc riêng) yêu cầu về chứng nhận.
• Year biểu thị các biến nhị phân đơn nhất tại năm cụ thể t.
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, tác động của quy tắc xuất xứ chung
Denimis áp dụng với các cặp nước tham gia FTA sẽ làm tăng thương mại
trong điều kiện các biến khác cố định. Yêu cầu về chứng nhận xuất xứ ảnh
hưởng mạnh mẽ hơn so với De Minimis. Hệ thống cộng gộp chéo có mức ảnh
hưởng cao nhất đối với thương mại. Lợi ích tích cực từ thành viên FTA khi áp
dụng quy tắc xuất xứ chung được chứng minh mạnh hơn trong một FTA giữa
các nước đang phát triển. Kết hợp De Minimis và cộng gộp chéo là ảnh hưởng
cao nhất đến thương mại qua việc kết hợp trong chính sách của FTA đối với
các nước đang phát triển.
(cid:4) Mô hình do Patricia Augier, Michael Gasiorek và Charles Lai-Tong
(2005) [89] đưa ra như sau:
Ln(Xij) = α0 + α1 Ln (GDPi) + α2 Ln (Popi) + α 3Ln(GDPj)+ α4Ln(Popj) +
α5Ln(Distij) + α6PTAij + α7Borderij + α8 Languageij + α9Tariffij
+ α10Rooij (2.5)
Theo đó:
71
• PTAij : tương ứng với các hiệp định thương mại tự do. • Borderij : đánh giá vai trò chung của biên giới. • Languageij: đánh giá vai trò chung của ngôn ngữ chung các nước. • Tariffij: mức thuế MFN hoặc thuế suất ưu đãi bình quân giữa các nước. • ROOij: biến giả về quy tắc xuất xứ.
Kết quả mô hình này chỉ ra sự ảnh hưởng của quy tắc xuất xứ (ROO) và
thuế quan đến dòng chảy thương mại với các biến như : GDP, dân số (Pop) để
thể hiện quy mô của nền kinh tế; các biến cản trở/thúc đẩy thương mại được
sử dụng gồm hàng rào thuế quan (Tariff), khoảng cách (Dist). Các biến giả
liên quan đến ngôn ngữ (Language), biên giới (Border) và hiệp định thương
mại ưu đãi (PTA) được đưa vào mô hình để thể hiện các yếu tố thúc đẩy hoặc
cản trở thương mại.
Khi áp dụng mô hình trọng lực vào phân tích tác động của luồng trao đổi
thương mại giữa Việt Nam với các nước tham gia FTA, các học giả Việt Nam
cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Điển hình là mô hình trọng lực
phân tích luồng xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam, do Nguyễn Anh Thu,
Vũ Thanh Hương, Vũ Văn Trung và Lê Thị Thanh Xuân (2015) [41] đưa ra
như sau:
- Luồng xuất khẩu:
Ln (EXj) = C +β1 ln (
GDPPC GDPPC ) + β3 ln
t GDP GDP ) + β2 ln ( j
t i
t j
t i
(INCOMEGAP) + β4 ln (DISTij) + ln (REERijt) +α1 AFTA+ α2 ACFTA +
(2.6)
- Luồng nhập khẩu:
Ln (IMj) == C + β1 ln (
GDPPC GDPPC ) + β3
t GDP GDP ) + β2 ln ( j
t i
t j
t i
ln (INCOMEGAP) + β4 ln (DISTij) + ln (REERijt) + α1 AFTA+ α2 ACFTA +
(2.7)
α3 AKFTA+ α4 AJCEP
α3 AKFTA + α4 AJCEP
72
Trong đó:
- ln: logarit tự nhiên
- i: Việt Nam; j: các nước đối tác thương mại.
- EXj và IMj tương ứng là xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam tới nước j
t
t
- iGDP và
jGDP tương ứng là GDP của Việt Nam và nước đối tác j.
t i
t j
GDPPC ,GDPPC tương ứng là GDP bình quân đầu người của Việt -
Nam và nước đối tác j.
- INCOMEGAP chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa Việt Nam
và các nước đối tác j.
- DISij khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và nước j.
- REERijt Tỷ giá giữa đồng tiền giữa Việt Nam và các nước đối tác j năm t.
- AFTA, ACFTA, AKFTA, AJCEP là các biến giả đo lường tác động
của các khu vực thương mại tự do tới xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam.
Kết quả ước lượng cho thấy, mô hình giải thích khá tốt thương mại của
Việt Nam theo đó: khối lượng trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các
nước đối tác tỷ lệ thuận với quy mô của nền kinh tế (GDP), chênh lệch thu
nhập và tỷ lệ nghịch với khoảng cách. Tỷ giá hối đoái tác động tích cực đến
xuất khẩu nhưng lại tác động ngược chiều làm giảm nhu cầu nhập khẩu Việt
Nam. Hệ số biến giả thì AFTA tác động tích cực đến cả xuất khẩu và nhập
khẩu, AKFTA thúc đẩy nhập khẩu còn ACFTA tác động tiêu cực đến xuất
khẩu của Việt Nam, còn AJCEP chưa có ý nghĩa vì thời gian hiệu lực còn
ngắn.
Như vậy có thể thấy rằng, việc sử dụng mô hình trọng lực vào phân tích
cho thấy ảnh hưởng của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu
đãi đến luồng trao đổi thương mại là rất rõ rệt cả ở trên thế giới và Việt Nam. Ở
Việt Nam do sự hạn chế về nguồn số liệu thống kê và chưa có sự quan tâm
73
nhiều của các học giả nên kết quả mới chỉ ra ảnh hưởng đến thương mại bởi
các nhân tố: quy mô của nền kinh tế (GDP), chênh lệch thu nhập, khoảng cách,
tỷ giá hối đoái và các FTA nói chung. Việc đánh giá vai trò của thuế quan ưu
đãi và xuất xứ hàng hoá (thông qua các FTA) chưa có sự phân tích, đánh giá
một cách toàn diện, đi sâu vào ảnh hưởng của quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế
quan ưu đãi đến trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các đối tác FTA (trong
đó có AEC). Trong chương 3, luận án sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu trên
trong việc áp dụng mô hình trọng lực để đánh giá làm rõ hơn những ảnh hưởng
của việc sử dụng quy tắc xuất xứ trong áp dụng thuế quan ưu đãi đến luồng trao
đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên AEC.
2.5. KINH NGHIỆM THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ TRONG ÁP
DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA CÁC NƯỚC VÀ BÀI HỌC CHO
VIỆT NAM.
2.5.1. Kinh nghiệm của các nước ASEAN-4 (Singapore, Malaysia, Thái
Lan và Indonesia).
Trong các nước thành viên của ASEAN, Singapore (tham gia 33 FTA:
20 FTA đang có hiệu lực), Malaysia (tham gia 22 FTA: 14 FTA đang có hiệu
lực), Thái Lan (tham gia 22 FTA: 13 FTA đang có hiệu lực) và Indonesia
(tham gia 17 FTA: 9 FTA đang có hiệu lực)7 là bốn nước có chính sách về
FTA, tham gia vào nhiều FTA song phương và đa phương, có kinh nghiệm
tận dụng ưu đãi từ các FTA nói chung, AEC nói riêng nhiều nhất trong các
nước thành viên.
Về việc xây dựng các quy định luật pháp, phối hợp, trao đổi và cung cấp
thông tin giữa các bên liên quan. Để thực hiện tốt các quy định về xuất xứ
hàng hoá và tận dụng tốt những ưu đãi từ các FTA, các cơ quan chức năng
chính phủ của các nước này đã có sự chuẩn bị ngay từ khâu đàm phán trên cơ 7 Dữ liệu tại https://aric.adb.org/fta-country
74
sở tiến hành nghiên cứu tiền khả thi về Hiệp định FTA, những lơ ̣i ích mà
Hiệp định có thể mang lại cho hàng hóa, doanh nghiệp và nền kinh tế, những
thách thức của việc thư ̣c thi những quy định về quy tắc xuất xứ hàng hoá, có
tham khảo ý kiến của các hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp.
Sau đó đưa ra quyết định có nên tham gia hay không. Khi đã quyết định tham
gia, các cơ quan chức năng đưa ra các phương án đàm phán, có tham vấn các
hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp để có những phương án đàm
phán hơ ̣p lý về những quy định trong về quy tắc xuất xứ hàng hoá, hiệu quả
nhằm bảo vệ tố i đa các quyền và lơ ̣i ích của cộng đồng doanh nghiệp nói
riêng, của nền kinh tế cũng như xã hội nói chung. Các hiệp hội ngành hàng và
doanh nghiệp đươ ̣c tham gia vào quá trı̀nh đàm phán Hiệp định FTA. Mọi thông tin về tiến trı̀nh đàm phán, nội dung dư ̣ kiến của Hiệp định, quy tắc xuất xứ hàng hoá, những tác động tiềm tàng của Hiệp định, quy tắc xuất xứ hàng
hoá đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều đươ ̣c các cơ quan chức
năng thông báo cho các hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp thông qua việc
đăng tải trên các website, các cuộc hội thảo. Qua đó, doanh nghiệp và hiệp hội
chủ động hơn trong việc tiếp cận thông tin và góp ý thường xuyên cho ban
đàm phán để đạt đươ ̣c những thỏa thuận có lơ ̣i, phù hơ ̣p nhất đố i vớ i từ ng ngành hàng cụ thể. Việc đươ ̣c tham gia ngay từ đầu quá trı̀nh đàm phán giúp cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tiếp cận thông tin và có kế hoạch,
chiến lươ ̣c lâu dài trong hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu đáp ứng
được những quy định của quy tắc xuất xứ hàng hoá. Những thông tin về quá
trı̀nh đàm phán, ký kết, nội dung Hiệp định FTA, cam kết giảm thuế của các đố i tác, yêu cầu về chứng nhận xuất xứ, SPS, TBT, các phụ lục của Hiệp định,
các lơ ̣i ích mà Hiệp định mang lại… đều đươ ̣c đăng tải rất chi tiết trên website
nhằm giúp cho các doanh nghiệp Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia
hiểu và có thể tận dụng tố t nhất những ưu đãi trong Hiệp định để đẩy mạnh
75
xuất khẩu hàng hóa sang đối tác FTA.
Về ban hành và thực thi các chính sách hỗ trợ đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu. Các nướ c xây dư ̣ng một hệ thố ng các cơ quan quản lý chất lươ ̣ng sản phẩm và cấp giấy chứng nhận đạt chuẩn từ trung ương tớ i địa phương, xây dư ̣ng hệ thố ng tiêu chuẩn cho hàng hóa, hài hòa vớ i tiêu chuẩn quố c tế. Singapore là nướ c công nghiệp mớ i thế hệ thứ nhất, nên đã thúc đẩy phát triển mạnh mẽ nền công nghiệp trong nước và các sản phẩm xuất khẩu của nướ c này đã đáp ứng được những tiêu chí về xuất xứ hàng hoá để tận dụng hiệu quả ưu đãi từ các FTA nói riêng, từ các FTA của ASEAN + nói chung. Thái Lan và Malaysia là hai nướ c công nghiệp mớ i thế hệ thứ hai, là hai trong số các quố c gia ASEAN chú trọng phát triển công nghiệp phụ trơ ̣. Chính phủ hai
nướ c đã thư ̣c hiện nhiều chương trı̀nh, chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trơ ̣. Kết quả, ngành công nghiệp phụ trơ ̣ ở Thái Lan và Malaysia phát triển mạnh tạo thuận lơ ̣i cho các doanh nghiệp trong việc tận
dụng ưu đãi từ Hiệp định. Đây là một lơ ̣i thế của hai nướ c so vớ i các nướ c ASEAN khác trong việc tận dụng ưu đãi từ FTA với ASEAN nói riêng, các FTA nói chung. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng rất chú trọng từ khâu chuẩn bị nguyên liệu cho tớ i sản xuất hàng xuất khẩu để có thể đáp ứng quy tắc xuất xứ trong các FTA nhằm tận dụng tố t nhất các ưu đãi đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hóa sang các thị trường ký FTA. Indonesia là một trong số các
quố c gia ASEAN rất thành công trong thư ̣c hiện chính sách tư ̣ do hóa thương
mại và đẩy mạnh xuất khẩu. Indonesia chú trọng phát triển công nghiệp chế
biến, chế tạo và công nghiệp phụ trơ ̣. Vı̀ thế, sản phẩm xuất khẩu của nướ c này đáp ứng đươ ̣c quy tắc xuất xứ trong các FTA.
Về phía các doanh nghiệp: Doanh nghiệp Thái Lan, Malaysia, Singapore
và Indonesia rất chủ động cập nhật thông tin về quá trı̀nh đàm phán FTA, sớ m hoàn thiện các quy định về xuất xứ hàng hóa để đươ ̣c hưở ng ưu đãi. Xây dư ̣ng kế hoạch tham gia chuỗi cung ứng khu vư ̣c và toàn cầu. Đồng thời nắm
76
vững các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thư ̣c phẩm và thói quen tiêu
dùng của thị trường đối tác FTA để đảm bảo khi kết thúc đàm phán Hiệp định, doanh nghiệp có thể tận dụng tố i đa các cơ hội xuất khẩu sang thị
trường này. Khi FTA đươ ̣c ký kết và có giá trị hiệu lư ̣c, doanh nghiệp cập
nhật các thông tin về Hiệp định, những ưu đãi, quy tắc xuất xứ, lộ trı̀nh giảm thuế.... chuẩn bị và tiến hành sản xuất và xuất khẩu hàng hóa để thu đươ ̣c lơ ̣i ích từ Hiệp định. Doanh nghiệp của bố n nướ c Thái Lan, Malaysia, Singapore và Indonesia có kinh nghiệm trong việc tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại tư ̣ do nói chung, AFTA nói riêng. Doanh nghiệp tı̀m hiểu rất kỹ nội dung Hiệp định, lộ trình giảm thuế, và những cam kết mớ i. Doanh nghiệp tra cứu phụ lục thuế để xem mặt hàng xuất khẩu của mı̀nh đươ ̣c giảm thuế như thế nào theo Hiệp định. Dư ̣a vào mức thuế ưu đãi và xuất xứ nguyên liệu
để làm giấy chứng nhận xuất xứ cho hàng xuất khẩu. Đố i vớ i một số mặt hàng xuất khẩu mà nguyên phụ liệu trong nướ c chưa đáp ứng quy tắc xuất xứ, có thể nhập từ các nướ c tham gia Hiệp định nếu nguyên phụ liệu đáp ứng đươ ̣c yêu cầu đầu vào của sản phẩm xuất khẩu và giá cả hơ ̣p lý. Trong một vài trường hơ ̣p, nguyên phụ liệu không đáp ứng đươ ̣c yêu cầu, hoặc nguyên phụ
liệu có chất lươ ̣ng tố t nhưng giá quá cao, doanh nghiệp Malaysia tư ̣ chủ động
nguồn nguyên phụ liệu thông qua việc đầu tư dây chuyền sản xuất. Nhiều nhà sản xuất, nhà xuất khẩu của Thái Lan, Malaysia, Singapore và Indonesia thông thạo các tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa, công đoạn gia công chế
biến cụ thể và yêu cầu về chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Ngoài việc tận dụng
triệt để các mức ưu đãi thuế quan trong Hiệp định FTA, các doanh nghiệp của
bốn nướ c ASEAN đã tı̀m hiểu kỹ nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, thói quen và thông lệ kinh doanh tại thị trường các nước đối tác FTA. Các doanh
nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Thái Lan kết hơ ̣p chặt chẽ vớ i các doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu trong nướ c có chất lươ ̣ng để đảm bảo nguồn cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào ổn định cho sản xuất hàng xuất khẩu.
77
Đồng thời, các doanh nghiệp xem xét việc liên kết vớ i các doanh nghiệp nướ c ngoài để cung ứng những nguyên phụ liệu trong nướ c chưa sản xuất đươ ̣c, hoặc sản xuất nhưng chất lươ ̣ng chưa tố t. Đa phần các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, thủy sản chế biến đều thiết lập mố i quan hệ mật thiết vớ i bà con nông dân, người nuôi trồng thủy sản. Mố i quan hệ bền chặt, đảm bảo lơ ̣i ích của cả hai bên nên đầu vào nguyên liệu của doanh nghiệp luôn đươ ̣c ổn định và đảm bảo về đầu ra là thành phẩm xuất khẩu. Doanh nghiệp Singapore rất chú trọng nâng cao chất lươ ̣ng, sức cạnh tranh của sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn về SPS, TBT của các thị trường xuất khẩu thông qua việc đầu tư,
đổi mớ i công nghệ và áp dụng các hệ thố ng quản lý chất lươ ̣ng theo tiêu chuẩn quố c tế (ISO 9000, HACCP, ISO 14000). Đồng thời, các doanh nghiệp
tích cư ̣c trao đổi thông tin vớ i nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp cùng hiệp hội ngành hàng. Họ hỗ trơ ̣ nhau, truyền đạt kinh nghiệm để tận dụng hiệu quả những ưu đãi từ FTA nhằm đẩy mạnh xuất khẩu.
Về hệ thống chứng nhận xuất xứ : các quốc gia đều đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin, cải cách đơn giản hoá thủ tục và tạo điều kiện tối đa cho
các doanh nghiệp tham gia vào chứng nhận xuất xứ hàng hoá.
Hệ thống cấp chứng nhận xuất xứ cho hàng hoá xuất khẩu ở Thái Lan
được thực hiện dưới cả hai hình thức là thủ công và điện tử.
Nhận hồ sơ và xử lý trong vòng 1h
+ Với hình thức cấp thủ công:
Hoàn thành thông tin trên mẫu
Nộp đơn cùng tài liệu liên quan
Mua mẫu đơn tại cục Mua ngoại thương
Đăng ký thông tin online
Nhận hồ sơ và xử lý trong vòng 30 phút
+ Với hình thức cấp điện tử:
78
Trong đó, yêu cầu nhà xuất khẩu phải gửi các thông tin liên quan về xuất
xứ hàng hoá (thuộc các chương từ 25-97 trong danh mục HS) về cục ngoại
thương để thực hiện kiểm tra trước về xuất xứ hàng hoá.
Bên cạnh áp dụng hệ thống chứng nhận xuất xứ truyền thống, Thái Lan
hiện đang thực hiện áp dụng hệ thống tự chứng nhận xuất xứ phù hợp với thủ
tục cấp giấy chứng nhận xuất xứ (OCP) của dự án thí điểm tự chứng nhận
xuất xứ ASEAN. Theo đó, về nguyên tắc Thái Lan không hạn chế số lượng
các nhà sản xuất/xuất khẩu được tham gia hệ thống và không giới hạn về các
loại hàng hóa được phép tự chứng nhận xuất xứ, miễn là các doanh nghiệp
tham gia phải đáp ứng các tiêu chí quy định. Để quản lý hệ thống tự chứng
nhận xuất xứ, Thái Lan đã xây dựng hệ thống quản lý tự chứng nhận xuất xứ
điện tử. Hệ thống này cho phép doanh nghiệp tự đăng ký và gửi kèm các tài
liệu nêu trên để xin cấp chứng nhận doanh nghiệp được phê duyệt. Nhà xuất
khẩu được phê duyệt phải báo cáo về từng lô hàng thông qua hệ thống quản lý
tự chứng nhận xuất xứ điện tử, bất kể lô hàng có khai báo xuất xứ trên C/O
mẫu D hay trên hóa đơn. Ngoài các dữ liệu cần thiết về lô hàng, nhà xuất
khẩu phải đính kèm bản scan hóa đơn gốc, chứng từ vận tải, tức là vận đơn
đường biển, đường hàng không, v.v. theo yêu cầu của cơ quan hải quan nước
nhập khẩu. Thời gian phê duyệt là trong vòng một ngày. Hệ thống này được
kết nối với cơ quan hải quan và các cơ sở dữ liệu quản lý rủi ro để đảm bảo
tính xác thực của mỗi lô hàng được khai báo bởi nhà xuất khẩu thông qua
Internet. Bên cạnh đó, nhà xuất khẩu phải cho phép cơ quan có thẩm quyền
truy cập đầy đủ hồ sơ cho mục đích giám sát và xác minh tính đúng đắn của
việc tự chứng nhận xuất xứ. Hải quan Thái Lan sẽ dựa vào hệ thống cơ sở dữ
liệu quản lý rủi ro để quản lý các hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu.
Đối với việc quản lý và kiểm tra xuất xứ: cơ quan hải quan Thái lan được
thực hiện gắn liền với hệ thống thông quan điện tử. Hải quan Thái Lan đã
79
thực hiện trao đổi dữ liệu Điện tử (EDI) để kiểm soát tất cả các giao dịch
thương mại của doanh nghiệp thông qua áp dụng hệ thống thông quan bằng
máy tính cho hàng xuất khẩu từ năm 1998. Hệ thống này được mở rộng đối
với hàng nhập khẩu và được triển khai đầy đủ tại các cảng biển, cảng hàng
không trên toàn quốc từ năm 2000. Hải quan điện tử sử dụng các dịch vụ của
Internet và tuân thủ các chuẩn mực và hướng dẫn của Công ước Kyoto sửa
đổi. Các thủ tục và quy trình xử lý chính của Hải quan được tái thiết kế như
một phần của hệ thống Hải quan điện tử, bao gồm các lĩnh vực ứng dụng
chính như kiểm soát hàng hoá, xử lý tờ khai hàng hoá và tính thuế. Hơn nữa,
hệ thống tự động hoá mới cũng được tích hợp với các hệ thống của các cơ
quan chính phủ và các khách hàng, trong đó có cả doanh nghiệp, ngân hàng,
các nhà kinh doanh kho ngoại quan và các nhà quản lý khu thương mại tự do.
Hệ thống này có thể xử lý nhiều loại dịch vụ hải quan với độ đảm bảo an toàn,
an ninh cao và thời gian phản hồi thông tin nhanh chóng. Ngoài việc tích hợp
ở cấp độ quốc gia, hệ thống cũng được tích hợp với Hệ thống Một Cửa của
ASEAN theo Kế hoạch Chiến lược ASEAN về Phát triển Hải quan (SPCD).
Với hệ thống nhập khẩu điện tử, các bên có liên quan không cần phải nộp các
chứng từ dưới dạng giấy vì tất cả dữ liệu đều được truyền bằng phương tiện
điện tử từ hệ thống máy tính của nhà nhập khẩu đến hệ thống máy tính của
Hải quan thông qua mạng VAN hoặc Internet. Các chứng nhận xuất xứ hàng
hoá cũng được khai báo và truyền bằng dữ liệu điện tử đến cơ quan hải quan
Thái Lan.
2.5.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản.
Xuất xứ hàng hoá là một trong những nội dung rất được Nhật Bản quan
tâm khi thực thi các FTA với các nước đối tác. Số lượng các FTA và đi kèm
với đó là các quy tắc xuất xứ hàng hoá phải thực thi của Nhật Bản là rất
nhiều. Tính đến hết năm 2016, Nhật Bản đã tham gia 24 FTA (gồm có 18
80
FTA song phương và 6 FTA đa phương, trong đó có 15 FTA là đã ký kết và
đang có hiệu lực thực hiện)8.
Về hỗ trợ cho các doanh nghiệp: khi có những nội dung liên quan đến
xuất xứ hàng hoá trong các FTA mà Nhật Bản tham gia, các cơ quan có liên
quan của Nhật Bản có trách nhiệm cung cấp các thông tin có liên quan đầy đủ
trên các Website, hỗ trợ giải đáp qua điện thoại, email cho các doanh nghiệp
về cách thức nhận được C/O, các kỹ thuật xác nhận tình trạng xuất xứ, giải
thích quy định xuất xứ cụ thể, hỗ trợ xử lý các sự cố có liên quan. Tổ chức các
hội thảo riêng đối với các ngành cụ thể theo yêu cầu riêng của các ngành này.
Đồng thời tiến hành tổ chức các hội thảo về xuất xứ chung cho các doanh
nghiệp thuộc tất cả các ngành khoảng một năm hai lần cho nhân viên có liên
quan xuất xứ của các công ty với nội dung các quy định cơ bản về EPA/FTA,
xuất xứ, chứng nhận xuất xứ sản phẩm, các điểm quan trọng trong kiểm tra
tình trạng xuất xứ. v.v.
Về nâng cao mức độ tuân thủ pháp luật về xuất xứ hàng hoá. Đối với các
nhà xuất khẩu, đặc biệt là các nhà xuất khẩu đã được chấp thuận tự chứng
nhận xuất xứ, Bộ kinh tế thương mại và công nghiệp Nhật Bản (METI) yêu
cầu việc lưu giữ đầy đủ các chứng từ có liên quan của nhà xuất khẩu như
ngày tháng phát hành chứng nhận, mã HS, tên, số lượng hàng hoá, số hoá
đơn, tên và địa chỉ nhà nhập khẩu. Nhà xuất khẩu có trách nhiệm thông tin kịp
thời việc không tuân thủ, các sự thay đổi tới METI như tình trạng thiếu xuất
xứ, các lỗi chính về thủ tục xuất xứ, sự thay đổi tên công ty hay địa chỉ hoặc
hàng hoá của nhà xuất khẩu. METI có thể yêu cầu các nhà xuất khẩu báo cáo,
sửa chữa các lỗi hoặc tiến thành thanh kiểm tra tư cách của nhà xuất khẩu
được cấp phép và áp dụng các biện pháp trừng phạt, thu hồi giấy phép đối với
các trường hợp nhà xuất khẩu vi phạm. Để nâng cao việc tuân thủ, METI 8 Dữ liệu tại https://aric.adb.org/fta-country
81
cũng phát hành hướng dẫn cho việc kiểm tra tại doanh nghiệp đó là hướng
dẫn về kiểm tra các tiêu chí xuất xứ CTC hay VA, các chứng từ tài liệu cần
thiết chứng minh, các điểm căn bản và quan trọng về xuất xứ hàng hoá. Phát
hành các hướng dẫn kỹ thuật áp dụng chung với các hàng hoá hay áp dụng
riêng đối với hàng dệt may, hoá chất khi xem xét các mối liên hệ hợp tác giữa
các ngành công nghiệp.
Đối với hoạt động kiểm tra xuất xứ hàng hoá. Hải quan Nhật Bản đã
thành lập trung tâm quản lý và điều tra về xuất xứ hàng hoá (OAI) từ
1/7/2005 có chức năng kiểm tra và điều tra về xuất xứ phục vụ việc xác định
trước xuất xứ hàng hoá điều phối việc xác định trước hàng hoá hải quan 9
vùng và giữa Tổng cục hải quan với hải quan vùng. Mục tiêu là đơn giản hoá
hệ thống kiểm tra xuất xứ, xử lý các vuớng mắc của địa phương, tiến hành
điều tra về C/O, hỗ trợ hải quan vùng trong việc kiểm tra xác nhận trước xuất
xứ, thu thập cung cấp thông tin về xuất xứ hàng hoá. Hệ thống OAI chịu trách
nhiệm về xác nhận trước xuất xứ hàng hoá gồm: tại Tổng cục Hải quan Nhật
Bản (có 03 cán bộ thuộc Cục pháp luật và chính sách thuế), tại Trung tâm
OAI (có 07 cán bộ) và tại Hải quan vùng (có 63 kiểm tra viên OAI về xuất xứ
tại 9 vùng, trong đó, mỗi vùng có một kiểm tra viên chính chịu trách nhiệm
tham vấn các vướng mắc với trung tâm OAI).
2.5.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Hàn Quốc cũng là một quốc gia rất tích cực trong việc tham gia các FTA.
Theo số liệu thống kê thì hiện nay Hàn quốc đang tham gia 25 FTA (17 FTA
song phương và 8 FTA đa phương: trong đó có 16 FTA đang có hiệu lực thực
hiện). Để tận dụng hiệu quả hơn nữa cơ hội từ việc dỡ bỏ các hàng rào thuế
quan và khả năng tiếp cận thị trường thông qua đáp ứng các quy tắc về xuất xứ
hàng hoá của các FTA, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện các biện pháp:
Hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp. Điều này được thực hiện qua
82
việc phối hợp cùng các hiệp hội ngành nghề tổ chức rất nhiều hội thảo để phổ
biến thông tin về các FTA và quy tắc xuất xứ cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa, phát hành nhiều bản thuyết trình cụ thể về nội dung FTA, giải thích rõ
ràng từng câu có ý nghĩa cụ thể là như thế nào. Vì thế, doanh nghiệp có thể
tiếp cận thông tin rất dễ dàng qua trang web của các hiệp hội cũng như Chính
phủ Hàn Quốc, biết rõ thông tin cụ thể về lộ trình, nội dung liên quan đến
từng sản phẩm và các thủ tục, quy định về quy tắc xuất xứ.
Hàn Quốc đẩy mạnh việc đơn giản hoá các thủ tục để cấp chứng nhận
xuất xứ. Hiện nay, chứng nhận xuất xứ hàng hoá của Hàn Quốc chủ yếu được
thực hiện dưới hình thức điện tử.
Đối với công tác kiểm tra xuất xứ hàng hoá, Hải quan Hàn Quốc yêu cầu
các doanh nghiệp xuất khẩu cần tuân thủ nghiêm ngặt nghĩa vụ lưu trữ hồ sơ,
chứng từ; kiểm tra trước việc phân loại hàng hoá theo tài liệu mà cơ quan hải
quan cung cấp, xác minh trước xuất xứ, chủ động tận dụng các kênh tư vấn tại
Trung tâm hỗ trợ xuất nhập khẩu hải quan và chấp hành nghiêm túc mỗi đợt
kiểm tra xuất xứ của cơ quan hải quan. Khi cần thiết, cơ quan hải quan Hàn
Quốc có thể tiến hành giám định xuất xứ hàng hoá nhằm phòng chống áp
dụng sai ưu đãi, ngăn chặn những thương mại không công bằng, thu thuế bị
thất thoát và quản lý thực thi FTA, thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu
tư.v.v. Sau khi có kết quả kiểm tra, nếu doanh nghiệp sai phạm, các đơn vị
chức năng sẽ xử phạt hành chính bằng cách phạt tiền, bãi bỏ việc áp dụng
thuế suất ưu đãi theo các điều luật trong nước và theo nội dung quy định trong
hiệp định hay hạn chế quyền áp dụng thuế suất ưu đãi
Các doanh nghiệp Hàn Quốc cũng có sự nhận thức cao trong vấn đề áp
dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá, vì vậy đã có sự tập trung đào tạo nhân viên
chuyên quản lý về xuất xứ, xây dựng hệ thống quản lý xuất xứ một cách tổng
thể, bởi đây là vấn đề phức tạp, có nhiều điểm khác biệt giữa các hiệp định và
83
các nhóm hàng hoá để có thể vận dụng FTA thông suốt.
2.5.4.Bài học kinh nghiệm rút ra cho việc thực hiện quy tắc xuất xứ
trong áp dụng thuế quan ưu đãi ở Việt Nam.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm triển khai thực hiện quy tắc xuất xứ hàng
hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi của các nước trên, có thể thấy rằng mỗi
nước đều đã thành công ở những khía cạnh nhất định và có những phương
pháp, kinh nghiệm triển khai áp dụng giống và khác nhau. Từ đó, ta có thể rút
ra một số gợi ý cho công tác triển khai áp dụng dụng quy tắc xuất xứ hàng
hoá đến thuế quan ưu đãi ở Việt Nam như sau:
Một là, chính phủ cần phân công công việc cụ thể và giám sát việc thực
thi Hiệp định FTA và quy tắc xuất xứ hàng hoá của các Bộ, ngành chức
năng. Xây dư ̣ng kế hoạch tổng thể và chi tiết triển khai các việc cần làm để
tận dụng những ưu đãi. Triển khai nhanh và hiệu quả các việc cần làm tiếp
theo liên quan đến việc thư ̣c thi như ban hành các văn bản hướ ng dẫn thư ̣c thi,
đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về cho doanh nghiệp về các ưu
đãi, quy định xuất xứ đến cộng đồng doanh nghiệp để họ nắm đươ ̣c nội dung.
Tổ chức các hội thảo phổ biến, các khoá đào tạo cho doanh nghiệp. Đưa thông
tin rộng rãi và cụ thể hơn về lên website của các cơ quan chính phủ. Thiết lập
cơ chế trao đổi giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn và nâng cao hiệu quả
triển khai. Khi có những vấn đề mớ i phát sinh hoặc các đố i tác điều chỉnh quy
định nhập khẩu.v.v. tổ chức hội thảo thông tin tớ i các hiệp hội ngành hàng và
cộng đồng doanh nghiệp, hướ ng dẫn và hỗ trơ ̣ doanh nghiệp tận dụng tố t hơn
những ưu đãi. Xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật mạnh quy định
về xuất xứ và các biện pháp, hình thức xử phạt nghiêm khắc với các hành vi
gian lận về xuất xứ. Một số quốc gia trên khi áp dụng đã đưa ra mức phạt rất
cao hoặc thậm chí bị truy tố theo luật hình sự, thu hồi giấy phép được cấp.
Hai là, phải xây dựng được quy trình, trình tự các bước đăng ký, lựa
84
chọn và cấp phép cho các doanh nghiệp chứng nhận xuất xứ. Cùng với đó,
xây dựng được một hệ thống các tiêu chí đơn giản và rõ ràng để có thể đánh
giá được các nhà xuất khẩu đủ tư cách phê chuẩn tham gia áp dụng cơ chế tự
chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Đó là các tiêu chí về hồ sơ thương nhân đáng
tin cậy như: đăng ký kinh doanh, loại hình công ty, báo cáo kiểm toán, không
nằm trong danh sách đen vi phạm pháp luật, nhân thân của những người chịu
trách nhiệm, trình độ của những người chịu trách nhiệm được đào tạo có kiến
thức và kinh nghiệm về xuất xứ hàng hoá. Các tiêu chí về quy trình quá trình
chế biến sản xuất hàng hoá, nhà cung cấp, giá trị gia tăng được tạo ra trong
nước, các quy trình công đoạn sản xuất chế biến đã được thực hiện trong
nước, số lượng hàng xuất khẩu, nước xuất khẩu,. v.v .Giấy phép được cấp cho
các doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ được hạn chế về thời hạn thường từ
2- 5 năm và phải được thẩm tra, kiểm tra lại hồ sơ doanh nghiệp khi cấp lại.
Ba là, phải xây dựng nguồn nhân lực và hệ thống kiểm tra, giám sát
phục vụ tốt cho công tác quản lý và kiểm tra xuất xứ. Như kinh nghiệm của
Thái Lan là áp dụng hệ thống quản lý điện tử để có thể quản lý chi tiết cụ thể
về từng lô hàng được khai báo chứng nhận xuất xứ cùng với các dữ liệu cần
thiết có liên quan đến lô hàng, nhà xuất khẩu. Hệ thống được kết nối trực tiếp
giữa cơ quan hải quan, cơ sở dữ liệu quản lý rủi ro và Bộ thương mại Thái
Lan để có thể thẩm định tính xác thực trong khai báo của nhà xuất khẩu một
cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, các nước đều có yêu cầu chặt chẽ về việc
tuân thủ cung cấp thông tin thường xuyên từ nhà xuất khẩu với cơ quan quản
lý khi có bất cứ sự thay đổi nào, các yêu cầu về việc lưu giữ đầy đủ các chứng
từ có liên quan của nhà xuất khẩu như ngày, tháng phát hành chứng nhận, mã
HS, tên, số lượng hàng hoá, số hoá đơn, tên và địa chỉ nhà nhập khẩu cũng
như thẩm quyền truy cập hồ sơ, quyền thanh tra, kiểm tra từ các cơ quan có
thẩm quyền đối với nhà xuất khẩu được cấp phép.
85
Bốn là, các doanh nghiệp cần nâng cao tính tuân thủ pháp luật về xuất
xứ qua việc nâng cao trình độ kiến thức về xuất xứ cho đội ngũ cán bộ làm
công tác tại doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần chủ động trong việc tı̀m kiếm thông tin, cũng như các văn bản hướ ng dẫn của các Bộ, ngành chức năng liên
quan đến việc thư ̣c thi quy định về xuất xứ hàng hoá trao đổi thông tin vớ i
doanh nghiệp cùng ngành thông qua việc tham gia các Hiệp hội ngành hàng,
các cuộc hội thảo, các hội chơ ̣ triển lãm. Việc trao đổi thông tin giữa nhóm
doanh nghiệp có cùng mục tiêu thị trường sẽ đem lại cho doanh nghiệp những
bài học và kinh nghiệm quý báu. Doanh nghiệp cần chủ động nguồn nguyên
vật liệu trong sản xuất hàng xuất khẩu qua việc kết hơ ̣p chặt chẽ vớ i các
doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu trong nướ c có chất lươ ̣ng để đảm bảo
nguồn cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào ổn định cho sản xuất hàng xuất
khẩu. Đồng thời, các doanh nghiệp xem xét việc liên kết vớ i các doanh nghiệp
nướ c ngoài (các nướ c tham gia Hiệp định) để cung ứng những nguyên phụ
liệu mà trong nướ c chưa sản xuất đươ ̣c, hoặc sản xuất nhưng chất lươ ̣ng chưa
tố t để có thể đáp ứng được tốt nhất những quy định về xuất xứ hàng hoá.
Năm là, thực hiện các chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ
của đất nướ c. Thái Lan và Malaysia đã rất chú trọng phát triển công nghiệp
hỗ trơ ̣. Công nghiệp hỗ trơ ̣ đóng vai trò then chố t trong việc đẩy mạnh phát
triển các ngành công nghiệp chính ở ba nướ c này. Khi công nghiệp hỗ trơ ̣
phát triển tạo cơ sở vững chắc phát triển nền công nghiệp của đất nướ c. Từ đó
hàng xuất khẩu đáp ứng tố t quy tắc xuất xứ trong các FTA nói chung, AFTA
nói riêng để đẩy mạnh xuất khẩu.
86
Kết luận chương 2
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về quy tắc xuất xứ hàng hoá
và thuế quan ưu đãi, một số nội dung được đưa ra và phân tích làm rõ trong
chương 2 như sau:
1. Quy tắc xuất xứ hàng hoá được thể hiện dưới các quy định luật pháp
quốc gia hoặc điều ước, hiệp định quốc tế nhằm xác định xuất xứ của hàng
hoá. Với quy tắc xuất xứ ưu đãi, là những quy định để xác định hàng hoá có
đủ tiêu chuẩn hưởng chế độ ưu đãi thuế quan trong thương mại hay không.
Quy tắc xuất xứ ưu đãi thường gắn liền với các FTA và các ưu đãi thuế quan.
Trong chương, phân tích và làm rõ về mặt lý luận các nội dung cơ bản của
quy tắc xuất xứ hàng hoá, chứng nhận xuất xứ hàng hoá, vai trò của quy tắc
xuất xứ hàng hoá cũng như những ưu đãi thuế quan cơ bản và những nhân tố
ảnh hưởng đến việc áp dụng quy tắc xuất xứ để hưởng thuế quan ưu đãi trong
trao đổi thương mại giữa các nước.
2. Tổng hợp và phân tích về mặt lý luận và về các kết quả thực nghiệm
của các học giả trên thế giới khi sử dụng mô hình trọng lực để phân tích tác
động giữa xuất xứ hàng hoá và thuế quan ưu đãi đến hoạt động xuất nhập khẩu.
3. Tổng hợp những kinh nghiệm của một số nước và rút ra bài học cho
Việt Nam trong việc áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hoá để áp dụng
thuế quan ưu đãi đối với hoạt động trao đổi thương mại.
87
Chương 3
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ
VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA VIỆT NAM
TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
3.1.KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN VÀ THUẾ
QUAN ƯU ĐÃI TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN.
3.1.1.Khái quát về cộng đồng kinh tế ASEAN và chiến lược phát triển của
cộng đồng kinh tế ASEAN.
Trong những năm gần đây, các thoả thuận thương mại khu vực có xu
hướng gia tăng nhanh chóng và trở thành một xu hướng kinh tế thế giới mới.
Hội nhập kinh tế khu vực được xem là kết quả của sự gắn kết các nền kinh tế
của từng quốc gia với kinh tế khu vực và thế giới bằng cách xoá bỏ các rào
cản thương mại và thúc đẩy sự tự do di chuyển của hàng hoá, dịch vụ, lao
động và vốn. Điều này được biểu hiện qua việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan và
phi thuế quan giữa các quốc gia thành viên, xác lập chính sách ngoại thương
chung bao gồm sự đồng thuận về hạn chế thương mại đối với các nước không
phải thành viên, thúc đẩy sự chuyển dịch tự do của hàng hoá, dịch vụ cũng
như các yếu tố sản xuất xuyên biên giới, thống nhất chính sách tiền tệ, thiết
lập đồng tiền chung. Từ đó gia tăng về khả năng thâm nhập thị trường và mức
độ trao đổi thương mại giữa các quốc gia khu vực. Người tiêu dùng của các
quốc gia này cũng có sự lựa chọn đa dạng với nhiều nhóm sản phẩm ở mức
giá và chi phí thấp hơn. Không chỉ đem lại những lợi ích về kinh tế, hội nhập
kinh tế khu vực còn giúp các quốc gia trong khu vực có nhiều tiếng nói và lợi
thế thương lượng hơn trên bàn đàm phán. Bên cạnh những lợi ích như trên,
việc tạo lập thương mại hội nhập kinh tế khu vực có thể dẫn đến sự chệch
hướng thương mại. Điều này xảy ra khi thương mại từ một mà cung cấp có
88
hiệu quả nằm ngoài FTA được chuyển hướng đến nhà cung ứng kém hiệu quả
hơn nhưng nằm trong FTA. Trong một số trường hợp, chuyển hướng thương
mại còn làm giảm phúc lợi quốc gia. Mức độ hội nhập kinh tế khu vực được
xác lập theo các cấp độ là: Thoả thuận ưu đãi thương mại (PTA), khu vực
mậu dịch tự do (FTA), liên minh hải quan (CU), Thị trường chung (CM) và
liên minh kinh tế-tiền tệ (EU).
Mô hình cộng đồng kinh tế hiện nay chưa có một định nghĩa chuẩn xác
mà thường được xác định gắn với những đặc điểm cụ thể của một cộng đồng
kinh tế cụ thể. Tuy nhiên, xem xét những đặc điểm chung nhất về cộng đồng
kinh tế cho thấy đây cũng được xem như là một trong các cấp độ của liên kết
kinh tế quốc tế ở cấp độ cao hơn khu vực mậu dịch tự do, đó là có thêm nội
dung di chuyển tự do các yếu tố sản xuất. Mặc dù các yếu tố sản xuất ở đây
cũng không được tự do di chuyển một cách hoàn toàn mà chỉ ở mức độ yếu là
tự do di chuyển hàng hóa và dịch vụ, tự do di chuyển vốn hơn và lao động có
tay nghề. Mặt khác, cộng đồng kinh tế cũng lại chưa đạt tới cấp độ của một
thị trường chung khi không có hai nội dung là thuế quan chung với các nước
bên ngoài cộng đồng và phối hợp các chính sách kinh tế. Như vậy, có thể thấy
rằng, Cộng đồng kinh tế là khái niệm mở, nó có thể đáp ứng hoặc thậm chí
vượt các tiêu chí của một thị trường chung song nó cũng có thể chưa đạt tới
hoặc đạt tới chưa hoàn toàn với sự loại trừ một số tiêu chí của thị trường
chung. Vấn đề này phụ thuộc vào sự lựa chọn mô hình của các thể chế kinh tế
khu vực.
ASEAN được xem là một khu vực kinh tế năng động và tích cực tham
gia vào xu thế liên kết kinh tế khu vực và vì vậy vào tháng 12/2015 các nước
thành viên ASEAN đã thành lập nên Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) với
dân số hơn 600 triệu người, chiếm khoảng 8,8% dân số thế giới; tổng thu
nhập quốc nội (GDP) năm 2014 đạt khoảng 2.519 tỷ USD, năm 2015 đạt
89
khoảng 2.432 tỷ USD và tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm khoảng trên
1.000 tỷ USD. ASEAN được xem là nền kinh tế lớn thứ 10 của thế giới9. Tuy
nhiên, có thể thấy rằng AEC thực chất chưa thế được coi như là một cộng
đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng châu Âu (EC) bởi AEC không có cơ cấu
tổ chức chặt chẽ và những điều lệ, quy định có tính chất ràng buộc cao và rõ
ràng như EC.
Để thành lập nên AEC, các nước thành viên ASEAN đã có những bước
đi chuẩn bị tích cực trong một thời gian dài. Ngay từ năm 1992, ASEAN đã
quyết định thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) với mục tiêu
xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước thành viên
ASEAN để thúc đẩy hợp tác và hội nhập kinh tế trong khu vực. Khi đó,
AFTA chủ yếu tập trung vào tự do hóa trong lĩnh vực thương mại hàng hóa để
hình thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất của khu vực. Trong đó
tập trung vào việc thực hiện hoàn thành cắt giảm thuế quan với các nước
ASEAN-610 vào năm 2015 và CLVM11 vào 2018. Đồng thời với đó nhận thức
được tầm quan trọng của liên kết kinh tế giữa các nền kinh tế khu vực nhằm
đối phó với những thách thức trong Thiên niên kỷ mới, tại hội nghị cấp cao
ASEAN lần thứ 8 ở Phnôm Pênh vào tháng 11 năm 2002, ASEAN xác định
trọng tâm của hợp tác kinh tế trong khối với việc xây dựng ý tưởng về Cộng
đồng Kinh tế ASEAN. Tuyên bố Bali tại hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9
(tháng 10 năm 2003) đã thông qua ý tưởng trên và khẳng định quyết tâm xây
dựng AEC vào năm 2020. Tại hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 12 (tháng 01
năm 2007 tại Phi-líp-pin), các nhà lãnh đạo đã ký tuyên bố Cebu về việc đẩy
10 ASEAN-6 gồm: Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore và Thái Lan
11 Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam (gọi tắt là CLMV).
nhanh việc xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 trên ba trụ cột: kinh 9 Số liệu tại ASEAN Statistical Yearbook 2015
90
tế, chính trị- an ninh và văn hóa- xã hội, trong đó trụ cột kinh tế có vai trò
trọng tâm với tiêu chí hình thành AEC. Các nhà lãnh đạo cũng đã thông qua
kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN.
Về bản chất, AEC được hiểu như một tiến trình hội nhập kinh tế khu vực
với mức độ sâu sắc hơn giữa các thành viên chứ không phải một thoả thuận
hay một hiệp định với các cam kết ràng buộc thực chất. AEC tiếp nối những
thành tựu của AFTA với sự phát triển đáng kể về phạm vi và mức độ tự do
hóa. Theo đó, hàng hóa, dịch vụ, vốn, đầu tư và lao động kỹ năng sẽ được lưu
chuyển tự do hơn giữa 10 nước thành viên. Cùng với đó, AEC tiếp tục thúc
đẩy việc thực hiện sáng kiến hội nhập 12 ngành ưu tiên trong ASEAN (gồm 7
ngành hàng hóa là nông sản, thủy sản, điện tử, đồ gỗ, cao su, ô tô, dệt may và
5 ngành dịch vụ là du lịch, y tế, vận tải hàng không, công nghệ thông tin và
hậu cần (logistics); các sáng kiến thu hẹp khoảng cách phát triển; hợp tác với
các đối tác ngoài khối và hội nhập toàn cầu.
Với bản chất nêu trên, AEC hướng tới 4 mục tiêu chính:
(i) Đưa ASEAN trở thành một cơ sở sản xuất và thị trường chung với sự
lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động kỹ năng và sự lưu
chuyển tự do hơn của dòng vốn;
(ii) Phát triển cân bằng giữa các nước thành viên, thu hẹp khoảng cách
phát triển và thúc đẩy tiến trình hội nhập của Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và
Việt Nam thông qua Sáng kiến Hội nhập ASEAN và các sáng kiến khu vực
khác;
(iii) Nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế khu vực, và
(iv) Đưa kinh tế ASEAN hội nhập đầy đủ và sâu sắc hơn vào nền kinh tế
toàn cầu.
Như vậy, có thể thấy được bốn đặc điểm đồng thời là yếu tố cấu thành
của chiến lược phát triển AEC đó là:
91
(1). Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng
thông qua: Tự do lưu chuyển hàng hoá; Tự do lưu chuyển dịch vụ; Tự do lưu
chuyển đầu tư; Tự do lưu chuyển vốn và Tự do lưu chuyển lao động có tay
nghề. Các biện pháp chính mà ASEAN sẽ thực hiện bao gồm: dỡ bỏ thuế
quan và các hàng rào phi thuế quan hình thành nên một thị trường mở không
còn các rào cản thuế quan đối với hàng hóa; thuận lợi hóa thương mại qua
việc triển khai hoạt động Cơ chế hải quan một cửa ASEAN (ASEAN Single
Window - ASW), hài hòa hóa các tiêu chuẩn sản phẩm (hợp chuẩn) và quy
chế, giải quyết nhanh chóng hơn các thủ tục hải quan và xuất nhập khẩu, hoàn
chỉnh các quy tắc về xuất xứ, tạo thuận lợi cho dịch vụ, đầu tư, tăng cường
phát triển thị trường vốn ASEAN và tự do lưu chuyển hơn của dòng vốn,
thuận lợi hóa di chuyển lao động có tay nghề .v.v., song song với việc củng cố
mạng lưới sản xuất khu vực thông qua đẩy mạnh kết nối về cơ sở hạ tầng, đặc
biệt là trong các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, công nghệ thông tin
và viễn thông, cũng như phát triển các kỹ năng thích hợp. Từ đó sẽ thúc đẩy
phát triển mạng lưới sản xuất trong khu vực, nâng cao năng lực của ASEAN
với vai trò là một trung tâm sản xuất toàn cầu đáp ứng yêu cầu đối với
chuỗi cung ứng toàn cầu.
(2). Một khu vực kinh tế cạnh tranh, được xây dựng thông qua các khuôn
khổ chính sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát
triển cơ sở hạ tầng như hệ thống đường bộ, đường sắt, cảng biển, năng lượng,
phát triển thương mại điện tử v.v. thuế quan và thương mại điện tử.
(3). Phát triển kinh tế cân bằng, được thực hiện thông qua các kế hoạch
triển khai Khuôn khổ ASEAN về Phát triển Kinh tế Đồng đều (AFEED).
Trong đó đáng chú ý là các biện pháp hỗ trợ các nước thành viên mới,
khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa và thực hiện
sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN.
92
(4). Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, được thực hiện thông qua việc
tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào
mạng lưới cung cấp toàn cầu (WTO). ASEAN nỗ lực đẩy mạnh việc xây
dựng và triển khai các thoả thuận liên kết kinh tế ở khu vực Đông Á, với 6
Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do (FTAs) đã được ký với các Đối tác quan
trọng là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ôx-trây-lia và Niu Di-
lân, và đang trong quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện
khu vực (RCEP) hướng đến hình thành một không gian kinh tế mở toàn
Đông Á, với GDP chiếm 1/3 tổng GDP toàn cầu và quy mô thị trường chiếm
½ dân số thế giới.
3.1.2. Thuế quan ưu đãi trong ASEAN.
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày
8/8/1967, đánh dấu một mốc quan trọng cho phát triển khu vực với mục tiêu
tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển văn hoá; tăng cường hợp tác
giúp đỡ lẫn nhau, thúc đẩy hoà bình, ổn định trong khu vực. Khi bắt đầu thành
lập, ASEAN gồm 5 nước thành viên là Inđônêxia; Malaysia, Philippine,
Singapore và Thái Lan. Năm 1984, Brunei là thành viên thứ 6, tiếp đến là
Việt Nam năm 1995, Lào, Myanmar năm 1999 và Campuchia trở thành thành
viên thứ 10 vào năm 2000.
Với mục tiêu biến ASEAN thành một khu vực sản xuất cạnh tranh trên
thị trường thế giới, khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã chính thức
được thành lập tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV vào năm 1992. Một
trong những bước quan trọng nhằm thực hiện được mục tiêu trên là tạo thuận
lợi cho thương mại nội khối thông qua việc xoá bỏ các hàng rào thuế quan và
phi thuế quan giữa các quốc gia thành viên. Cơ chế chính để hình thành
AFTA là Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT). Nghĩa vụ chính của các nước thành viên khi tham gia Hiệp định này
93
là thực hiện việc cắt giảm và xoá bỏ thuế quan theo một lộ trình chung có tính
đến sự khác biệt về trình độ phát triển và thời hạn tham gia của các nước
thành viên. Theo cam kết trong Hiệp định, các nước thành viên phải giảm
thuế nhập khẩu xuống 0-5% trong vòng 10 năm.
Cụ thể, CEPT đề ra việc cắt giảm dần thuế nội khối đối với những sản
phẩm liệt kê trong Danh mục CEPT xuống 0-5% thông qua một lộ trình cắt
giảm có phân biệt giữa các nước ASEAN cũ (gọi là ASEAN-6, bao gồm
Brunei Darussalam, Indonesia, Malaysia, the Philippines, Singapore và Thái
Lan) và Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam (còn gọi tắt là CLMV).
ASEAN 6 phải thực hiện việc giảm thuế nội khối xuống 20% vào năm 1998
và 0-5% vào năm 2003. Việt Nam phải thực hiện việc giảm thuế nội khối
xuống 0-5% vào năm 2006; Lào và Myanmar vào năm 2008 và Campuchia
vào năm 2010.
Thông qua việc ký kết Nghị định thư sửa đổi Hiệp định về Chương trình
thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung đối với Khu vực thương mại tự do
ASEAN (AFTA) đối với việc xóa bỏ thuế nhập khẩu, các nước ASEAN-6
cam kết xóa bỏ tất cả thuế nhập khẩu vào năm 2010 và 2015 và linh hoạt đến
năm 2018 (đối với các nước CLMV).
Để thực hiện chương trình giảm thuế này, toàn bộ các mặt hàng trong
danh mục biểu thuế quan của mỗi nước được chia vào 4 danh mục sau:
Danh mục các sản phẩm giảm thuế (IL): bao gồm các mặt hàng được
đưa vào cắt giảm thuế ngay với lịch trình:
- Giảm thuế nhanh (FTP). Danh mục này gồm việc giảm thuế đánh vào
15 loại hàng hóa của khối ASEAN. Việc giảm thuế xuống 0-5% sẽ có hiệu
lực vào năm 1998 đối với các mặt hàng hiện có mức thuế dưới 20% và vào
năm 2000 với các mặt hàng có mức thuế trên 20%.
- Giảm thuế bình thường (NTP). Theo danh mục này, các nước ASEAN
94
sẽ giảm mức thuế quan đánh vào sản phẩm do các nước này làm ra xuống còn
0-5% vào năm 2000 đối với những mặt hàng có mức thuế suất từ 20% trở
xuống, và vào năm 2003 đối với mặt hàng có mức thuế hiện hành trên 20%.
Danh mục sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Danh mục gồm
những mặt hàng tạm thời chưa phải giảm thuế vì lý do là để tạo thuận lợi cho
các nước thành viên có một thời gian ổn định trong một số lĩnh vực cụ thể
nhằm tiếp tục các chương trình đầu tư đã được đưa ra trước khi tham gia kế
hoạch CEPT cũng như là có thời gian chuyển hướng đối với một số sản phẩm
tương đối trọng yếu. Tuy nhiên, sau một thời gian là 3 năm các quốc gia
ASEAN phải chuyển dần các mặt hàng từ danh mục tạm thời chưa giảm thuế
TEL sang danh mục giảm thuế IL. Cụ thể là trong vòng 5 năm, từ 1/1/1996
đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong danh mục loại trừ tạm
thời sang danh muc cắt giảm thuế. Khi chuyển một mặt hàng vào danh mục
này thì các nước phải đồng thời chỉ ra lịch trình giảm thuế của mặt hàng đó
đến khi hoàn thành CEPT.
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): Danh mục này bao gồm những
sản phẩm không có nghĩa vụ phải giảm thuế quan. Các nước thành viên có
quyền đưa ra danh mục các mặt hàng này trên cơ sở nhằm bảo vệ an ninh
quốc gia hay tinh thần, đạo đức xã hội, sức khoẻ con người, động vật, thực
vật, bảo tồn các giá trị văn hoá, lịch sử và khảo cổ. Việc cắt giảm thuế cũng
như xoá bỏ các biện pháp phi thuế quan đối với các mặt hàng này sẽ không
được xét đến theo chương trình CEPT.
Đối với các hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL): Theo hiệp định
CEPT, sản phẩm nông sản chưa qua chế biến không được đưa vào kế hoạch
thực hiện CEPT. Tuy nhiên, theo hiệp định CEPT sửa đổi, các sản phẩm nông
sản chưa chế biến này sẽ được đưa vào 3 loại danh mục khác nhau là: danh
mục giảm thuế, danh mục loại trừ tạm thời và một danh mục đặc biệt là danh
95
mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm. Hàng nông sản chưa
chế biến trong danh mục cắt giảm thuế ngay được chuyển vào chương trình
cắt giảm thuế nhanh hoặc cắt giảm thuế bình thường vào 1/1/1996 và sẽ được
giảm thuế xuống còn 0-5% vào 1/1/2003. Các sản phẩm trong danh mục tạm
thời loại trừ của hàng nông sản chưa chế biến sẽ được chuyển sang danh mục
cắt giảm thuế trong vòng 5 năm, từ 1/1/1999 đến 1/1/2003 với mức độ là 20%
mỗi năm. Các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm được xếp vào hai danh
mục tuỳ thuộc vào mức độ nhạy cảm bao gồm:
- Danh mục mặt hàng chưa chế biến nhạy cảm
- Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm cao
Nhằm tiến tới tự do hóa hoàn toàn về mặt thuế quan tiến tới thành lập
AEC vào năm 2015, ASEAN đã quyết định không chỉ dừng lại ở việc giảm
thuế xuống 0-5% mà sẽ xóa bỏ thuế quan vào năm 2010 đối với ASEAN-6
(gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philipin, Singapore và Thái Lan) và năm
2015, với một số linh hoạt đến 2018 (7% tổng số dòng thuế) đối với CLMV.
Đến 2016, sáu nướ c ASEAN gồm Indonesia, Singapore, Brunei, Thái Lan,
Malaysia và Philippines đã hoàn thành việc cắt giảm và xóa bỏ hơn 98,6%
thuế quan; Viê ̣t Nam và Campuchia, Lào, Myanmar vẫn tiếp tục thực hiện cắt giảm thuế quan nhâ ̣p khẩu hàng hóa xuố ng dướ i 5% cho đến 2018. Một số ít
dòng thuế của Việt Nam còn tiếp tục được cắt giảm đến năm 2024, cũng như
của Campuchia là đến 2025 ( xem bảng 3.1).
96
Bảng 3.1. Tỷ lệ xoá bỏ thuế quan của các nước ASEAN theo ATIGA
từ 2010 đến 2025
Nước 2010 2016 2018 2024 2025
Brunei 99,3%
Campuchia 91,5% 98,5% 98,6%
Lào 89,3% 96,3%
Indonesia 98,9%
Malaysia 98,7%
Myanmar 92% 99,3%
Philippines 98,6%
Singapore 100%
Thái Lan 99,9%
Việt Nam 91% 98% 98,2%
Nguồn: Bộ công thương 2017
Có thể thấy rằng qua việc thực hiện hiệp định CEPT với các giai đoạn và
lộ trình cắt giảm thuế quan khác nhau thì mức chênh chệch giữa thuế quan ưu
đãi ASEAN và thuế quan MFN của các nước ASEAN có sự chênh lệch đáng kể
đối với các nhóm nước ASEAN-6 và nhóm nước CLMV thể hiện qua hình 3.1
97
(Nguồn: Dữ liệu của Ban thư ký ASEAN và UN Comtrade-ASEAN Integration
Report 2016)
Hình 3.1. Mức thuế bình quân CEPT và MFN của các nhóm nước
ASEAN giai đoạn từ 2007-2014
Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN từ năm 1995 và bắt đầu thực
hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) nhằm thiết lập
AFTA từ năm 1996 nhưng chỉ thực sự cắt giảm thuế quan từ năm 1999 khi
nhóm các mặt hàng đầu tiên từ Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) được
chuyển vào cắt giảm thuế quan theo CEPT. Theo quy định của Hiệp định
CEPT, các mặt hàng của Việt Nam được chia thành 2 nhóm chính:
Nhóm các mặt hàng cắt giảm và xoá bỏ thuế quan: chiếm hầu hết các
mặt hàng, có lộ trình giảm thuế từ năm 1996, giảm thuế suất xuống mức 0-5%
98
vào năm 2006 và xoá bỏ thuế quan vào năm 2015, với một số mặt hàng được
linh hoạt đến 2018. Ngoài ra, các mặt hàng công nghệ thông tin (phù hợp với
diện mặt hàng của WTO) sẽ được xoá bỏ thuế quan trong 3 năm: 2008-2010.
Đồng thời các mặt hàng thuộc lĩnh vực ưu tiên hội nhập (12 lĩnh vực) sẽ được
xoá bỏ sớm hơn là vào năm 2012 (thay vì 2015), trong đó có 9 lĩnh vực hàng
hoá gồm: gỗ và sản phẩm gỗ, ôtô, cao su, dệt may, sản phẩm nông nghiệp,
thuỷ sản, điện tử, công nghệ thông tin, y tế (thiết bị, thuốc men).
Nhóm hàng nông sản nhạy cảm: gồm 89 dòng thuế là các mặt hàng nông
sản chưa chế biến, gồm một số loại gạo, hoa quả, thực phẩm, đường. Những mặt
hàng này không phải xoá bỏ thuế quan, có lộ trình giảm thuế từ năm 2004 xuống
mức thuế suất cao nhất là 5% vào năm 2013 (trừ mặt hàng đường là 2010).
Tính đến thời điểm 2014, Việt Nam đã cắt giảm 6.859 dòng thuế (chiếm
72% tổng Biểu thuế xuất nhập khẩu) xuống thuế suất 0%. Khi AEC được
thành lập vào cuối năm 2015, lộ trình cắt giảm thuế quan vẫn được kế thừa và
dự kiến thuế quan của Việt Nam tiếp tục được cắt giảm xuống 0% vào năm
2018, tập trung vào các nhóm hàng như ô tô, xe máy, phụ tùng linh kiện ô tô
xe máy, dầu thực vật, hoa quả nhiệt đới, đồ điện dân dụng như tủ lạnh, máy
điều hòa, sữa và các sản phẩm sữa…
Thời điểm cuối lộ trình (2024): sẽ xóa bỏ 98,2% số dòng thuế, trong đó:
Sẽ tiếp tục xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 669 dòng thuế (7%) từ nay đến năm
2018 với các mặt hàng nhạy cảm: ô tô, xe máy, phụ tùng linh kiện ô tô xe
máy, dầu thực vật, hoa quả nhiệt đới, tủ lạnh, máy điều hòa, sữa và các sản
phẩm sữa; Đưa ra khỏi Danh mục loại trừ 31 dòng thuế gồm thuốc lá và
nguyên liệu thuốc lá; Xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 16 dòng thuế còn lại
gồm các sản phẩm xăng dầu vào năm 2024;
- Đối với 1,8% số dòng thuế còn lại của biểu thuế: 111 dòng vẫn duy trì
thuế suất MFN (các mặt hàng thuốc nổ, súng đạn, pháo hoa, rác thải y tế, lốp
cũ...); 55 dòng mặt hàng nông nghiệp nhạy cảm sẽ duy trì thuế suất 5% (chế
99
phẩm từ thịt, động vật sống, đường thô, ngũ cốc, rau quả, thịt và phụ phẩm
gia cầm, trứng).
3.2.NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ
TRONG ASEAN.
3.2.1. Xác định xuất xứ hàng hoá ASEAN.
Với mục đích hình thành nên khu vực mậu dịch tự do ASEAN, các
hàng hoá có xuất xứ của bất kỳ nước thành viên ASEAN nào xuất khẩu hay
nhập khẩu tới bất kỳ nước thành viên ASEAN khác sẽ được hưởng mức thuế
quan ưu đãi thấp. Bởi vậy, xác định xuất xứ hàng hoá được xem là một nội
dung rất quan trọng trong hiệp định thương mại được ký kết giữa các nước
ASEAN. Theo đó, để xác định một hàng hoá được công nhận là có xuất xứ
ASEAN thì tại hiệp định ATIGA đã quy định phải đáp ứng một trong các quy
định về xuất xứ dưới đây:
(a) hàng hoá có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ
của một Quốc gia Thành viên xuất khẩu như trình bày và định nghĩa trong Điều
27 (Hàng hoá có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ); hay
(b), với điều kiện hàng hoá này phù hợp với Điều 28 (Hàng hoá có xuất
xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ) hoặc Điều 30 (xuất xứ
cộng gộp) [28].
Trên cơ sở đó, hiệp định ATIGA cũng đã liệt kê 11 nhóm hàng hoá được
xác định là có xuất xứ thuần tuý hoặc được sản xuất toàn bộ tại quốc gia
thành viên xuất khẩu (xem phụ lục 1). Những hàng hoá có xuất xứ thuần túy
hoặc được sản xuất toàn bộ được xác định theo các tiêu chí tại điều 27 của
hiệp định ATIGA khá minh bạch và rõ ràng. Những hàng hoá đáp ứng tiêu
chí xuất xứ thuần tuý có thể thấy được là các sản phẩm có nguồn gốc sản xuất
hoàn toàn nội địa và được phân loại chủ yếu vào 20 chương đầu tiên của danh
mục HS như là các khoáng sản, động vật sống, thực vật và một phần sản
phẩm chế biến. Để dễ dàng cho việc nhận biết các sản phẩm đáp ứng tiêu chí
100
xuất xứ thuần tuý giúp cho việc xác định xuất xứ hàng hoá thuận lợi, tại phụ
lục 3 của hiệp định ATIGA đã xây dựng danh mục hàng hoá dựa trên danh
mục HS và chỉ ra tiêu chí xuất xứ thuần tuý đối với từng dòng hàng hoá trong
đó chi tiết tới cấp độ 6 số.
Tuy nhiên, có thể thấy rằng với xu hướng liên kết sản xuất, phân chia
công đoạn sản xuất theo hướng chuỗi giá trị như hiện nay thì việc xác định
xuất xứ hàng hoá là thuần tuý hay sản xuất toàn bộ sẽ không đáp ứng được
yêu cầu của việc xác định quốc gia xuất xứ hàng hoá với những hàng hoá
được sản xuất chế biến trong ASEAN có sự tham gia của nhiều quốc gia trong
và ngoài ASEAN. Vì vậy, để xác định được xuất xứ của những hàng hoá đó
thì hiệp định ATIGA cũng đã quy định các tiêu chí để xác định đối với những
hàng hoá có xuất xứ không thuần tuý hoặc không được sản xuất toàn bộ tại
điều 28 là:
1. Hàng hoá được coi là có xuất xứ tại Quốc gia Thành viên nơi diễn ra
việc sản xuất hoặc chế biến hàng hoá đó:
(i) nếu hàng hoá có hàm lượng giá trị khu vực (sau đây được gọi là “Hàm
lượng giá trị ASEAN” hoặc “Hàm lượng giá trị khu vực (RVC)”) không dưới
bốn mươi phần trăm (40%) tính theo công thức nêu tại Điều 29; hoặc
(ii) nếu tất cả các nguyên vật liệu không có xuất xứ sử dụng để sản xuất
ra hàng hoá đó đã trải qua quá trình chuyển đổi mã số hàng hoá (được nêu ở
dưới đây là “CTC”) ở cấp bốn số của Hệ thống hài hoà.
2. hàng hoá được liệt kê trong Phụ lục 3 [Danh mục Tiêu chí xuất xứ sản
phẩm cụ thể] đủ tiêu chuẩn là hàng hoá có xuất xứ nếu hàng hoá đó thoả mãn
những quy tắc chi tiết hoá sản phẩm nêu tại đó.
3. một hàng hoá được bao hàm trong phần đính kèm A hoặc B của Tuyên
bố Bộ trưởng về thương mại trong sản phẩm công nghệ thông tin được thông
qua tại Hội nghị Bộ trưởng WTO ngày 13 tháng 12 năm 1996, được nêu như
Phụ lục 4 [Danh mục ITA], phải được xem là có xuất xứ tại Quốc gia Thành
101
viên nếu hàng hoá đó được lắp ráp từ các nguyên vật liệu nêu tại cùng Phụ
lục này [28].
Như vậy, có thể thấy rằng để xác định xuất xứ đối với những hàng hoá
có xuất xứ không thuần tuý hoặc không được sản xuất toàn bộ, ngoài những
hàng hoá là sản phẩm công nghệ thông tin được xác định theo phụ lục riêng,
hiệp định ATIGA đã chỉ ra 3 cách thức khác nhau để áp dụng xác định xuất
xứ hàng hoá đó là xác định hàm lượng giá trị khu vực (RVC), xác định mức
độ chuyển đổi mã số hàng hoá (CTC) hoặc sử dụng tiêu chí công đoạn gia
công, chế biến cụ thể (gọi tắt là SP).
(cid:4) Hàm lượng giá trị khu vực ASEAN (RVC): theo quy định tiêu chí này
hiện có 2 công thức tính theo 2 phương pháp như sau:
(a) Phương pháp trực tiếp:
+ + + + RVC= Chi phí nguyên vật liệu ASEAN Chi phí phân bổ trực tiếp Chi phí khác Lợi nhuận x 100 % Chi phí nhân công trực tiếp
Trị giá FOB
hoặc:
b) Phương pháp gián tiếp:
Trị giá FOB - RVC = Trị giá của nguyên vật liệu, phụ tùng hoặc hàng hoá không có xuất xứ 12 x 100 % Trị giá FOB
Theo quy định của hiệp định ATIGA, các nước thành viên chỉ được sử
dụng một phương pháp để tính RVC. Các nước thành viên được linh hoạt
trong việc thay đổi phương pháp tính với điều kiện sự thay đổi đó phải được 12 Giá trị nguyên vật liệu, phụ tùng hoặc hàng hoá không có xuất xứ là: (i) Giá CIF tại thời điểm nhập khẩu của hàng hoá hoặc thời điểm nhập khẩu được chứng minh; hoặc (ii) Giá xác định ban đầu trả cho hàng hoá không xác định được xuất xứ tại lãnh thổ của Quốc gia Thành viên nơi diễn ra hoạt động sản xuất hoặc chế biến;
102
thông báo cho hội đồng AFTA ít nhất là sáu tháng trước khi áp dụng phương
pháp mới. Việc kiểm tra RVC bởi nước thành viên nhập khẩu đối với hàng
hoá nhập khẩu cần dựa trên phương pháp tính toán mà nước thành viên xuất
khẩu đang áp dụng. Việt Nam áp dụng công thức tính gián tiếp trên để xác
định giá trị hàm lượng khu vực trong xác định xuất xứ hàng hoá.
(cid:4) Mức độ chuyển đổi mã số hàng hoá (CTC) hay còn gọi là chuyển đổi
mã số thuế. Tiêu chí này xác định xuất xứ dựa trên việc so sánh sự khác biệt
giữa mã số phân loại của nguyên vật liệu chính đầu vào sản xuất sản phẩm
với sản phẩm được tạo ra xuất khẩu. Sự khác biệt này được xem xét trên 3 cấp
độ là:
+ Chuyển đổi ở cấp độ chương (CC): là chuyển đổi từ bất kỳ chương
nào khác đến một chương, nhóm hoặc phân nhóm. Điều này có nghĩa tất cả
nguyên liệu không có xuất xứ sử dụng trong quá trình sản xuất ra sản phẩm
phải trải qua sự chuyển đổi mã HS ở cấp 2 số (chuyển đổi Chương);
+ Chuyển đổi ở cấp độ nhóm (CTH): là chuyển đổi từ bất kỳ nhóm nào
khác đến một chương, nhóm hoặc phân nhóm. Điều này có nghĩa, tất cả
nguyên liệu không có xuất xứ sử dụng trong quá trình sản xuất ra sản phẩm
phải trải qua sự chuyển đổi mã HS ở cấp 4 số (chuyển đổi Nhóm);
+ Chuyển đổi ở cấp độ phân nhóm (CTSH): là chuyển đổi từ bất kỳ phân
nhóm nào khác đến một chương, nhóm hoặc phân nhóm. Điều này có nghĩa,
tất cả nguyên liệu không có xuất xứ sử dụng trong quá trình sản xuất ra sản
phẩm phải trải qua sự chuyển đổi mã HS ở cấp 6 số (chuyển đổi Phân nhóm);
Tiêu chí CTC được xem là tiêu chí đơn giản để so sánh và dễ dự đoán,
tính khách quan cao trong việc xác định xuất xứ hàng hoá do được xác định
dựa trên những quy tắc áp dụng phân loại hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu
chung đã được thống nhất trên phạm vi toàn cầu ghi trong công ước HS.
(cid:4) Công đoạn gia công, chế biến cụ thể (SP). Tiêu chí này được xây
dựng tương ứng với từng hàng hoá nằm trong danh mục tiêu chí xuất xứ sản
103
phẩm cụ thể của phụ lục 3 của hiệp định ATIGA. Tiêu chí này có thể sử dụng
riêng hoặc thường kết hợp với tiêu chí CTC.
Bên cạnh việc đưa ra các quy định về các tiêu chí để xác định đối với
những hàng hoá có xuất xứ không thuần tuý hoặc không được sản xuất toàn
bộ tại điều 28 như trên, hiệp định ATIGA cũng đưa ra quy định về xác định
xuất xứ hàng hoá ASEAN dựa vào tiêu chí cộng gộp. Đây được xem là tiêu
chí làm tăng mức độ ưu đãi trên cơ sở khuyến khích các nước thành viên gia
tăng sự trao đổi thương mại lẫn nhau. Khi đó hàng hoá có xuất xứ từ một
quốc gia thành viên, được sử dụng làm nguyên liệu tại lãnh thổ của một quốc
gia thành viên khác để sản xuất ra một sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế
quan sẽ được coi là có xuất xứ của quốc gia thành viên sản xuất ra sản phẩm
đó. Với điều kiện là nếu RVC của nguyên vật liệu nhỏ hơn 40%, Hàm lượng
giá trị ASEAN này sẽ được cộng gộp theo đúng tỉ lệ thực tế vào hàm lượng
nội địa với điều kiện hàm lượng giá trị ASEAN này bằng hoặc lớn hơn 20%.
Ngoài ra, hiệp định ATIGA cũng quy định thêm các quy định về De
Minimis, những công đoạn gia công và chế biến đơn giản, quy định về bao bì
và vật liệu đóng gói, phụ kiện, phụ tùng và dụng cụ, các yếu tố trung gian,
nguyên vật liệu giống nhau và có thể thay thế nhau để làm cơ sở cho việc xác
định một cách chính xác xuất xứ của hàng hoá theo các tiêu chí trên.
Sau khi hàng hoá đáp ứng được các tiêu chí về xuất xứ như trên, muốn
được hưởng ưu đãi thuế quan của nước thành viên nhập khẩu sẽ phải đáp ứng
được những quy định tại điều 32 của hiệp định ATIGA về vận chuyển trực
tiếp. Có nghĩa là hàng hoá phải được vận chuyển trực tiếp từ lãnh thổ của
quốc gia thành viên xuất khẩu và quốc gia thành viên nhập khẩu; hoặc nếu
hàng hoá được vận chuyển qua một hoặc nhiều quốc gia thành viên, khác với
quốc gia thành viên xuất khẩu và quốc gia thành viên nhập khẩu, hoặc qua
một quốc gia không phải thành viên, với điều kiện:
(i) Quá cảnh là cần thiết vì lý do địa lí hoặc do các yêu cầu có liên quan
104
trực tiếp đến vận tải;
(ii) Hàng hoá không tham gia vào giao dịch thương mại hoặc tiêu thụ tại
nước quá cảnh đó; và
(iii) Hàng hoá không trải qua bất kỳ công đoạn nào khác ngoài việc dỡ
hàng và tái xếp hàng hoặc những công đoạn cần thiết để giữ sản phẩm trong
điều kiện tốt [28].
3.2.2. Chứng nhận xuất xứ hàng hoá ASEAN.
Để được cho hưởng ưu đãi về thuế quan, hàng hoá nhập khẩu vào nước
thành viên phải có Giấy chứng nhận xuất xứ (Mẫu D) theo mẫu quy định
(xem phụ lục 2) do cơ quan chính phủ có thẩm quyền được quốc gia thành
viên chỉ định cấp và thông báo tới các quốc gia thành viên khác theo thủ tục
cấp giấy chứng nhận xuất xứ. Các quy định về thủ tục hồ sơ để xin giấy
chứng nhận xuất xứ mẫu D từ các cơ quan có thẩm quyền được quy định rõ
trong hệ thống pháp luật về xuất xứ của các quốc gia thành viên dựa trên bộ
quy tắc xuất xứ ASEAN. Theo đó, người xuất khẩu hoặc người được uỷ
quyền sẽ phải nộp đơn đề nghị kèm theo các chứng từ cần thiết chứng minh
rằng hàng hoá xuất khẩu đáp ứng điều kiện để được cấp C/O giấy hoặc C/O
điện tử. Để xác định xuất xứ, tổ chức cấp C/O có quyền yêu cầu xuất trình
thêm tài liệu, chứng từ chứng minh hoặc tiến hành kiểm tra nếu xét thấy cần
thiết. Một bộ C/O bao gồm một bản gốc và hai bản sao các-bon. C/O có hiệu
lực trong trong vòng 12 tháng kể từ ngày cấp. Bản C/O gốc do Người xuất
khẩu gửi cho Người nhập khẩu để nộp cho cơ quan Hải quan Nước thành viên
nhập khẩu tại cảng hoặc nơi nhập khẩu để hưởng chế độ ưu đãi thuế quan có
thể sẽ bị kiểm tra lại nếu bị nghi ngờ về xuất xứ hàng hoá thông qua việc xác
minh từ tổ chức cấp C/O hoặc kiểm tra trực tiếp.
Bên cạnh đó, các nước ASEAN đã sớm nghiên cứu và xây dựng, áp
dụng dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ trong ASEAN. Theo đó, thay vì
phải xin giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D từ các cơ quan có thẩm quyền thì
105
nhà xuất khẩu đủ điều kiện được cho phép tự chứng nhận xuất xứ trên hóa
đơn thương mại cho hàng hóa xuất khẩu. Hiện tại, dựa trên mô hình nhà xuất
khẩu đủ điều kiện tự chứng nhận xuất xứ nói trên, ASEAN đang áp dụng 02
dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ:
(cid:3) Dự án thí điểm số 1: Bắt nguồn từ 03 nước là Brunei, Singapore,
Malaysia ký bản ghi nhớ về hợp tác dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ số
1 tại Đà Nẵng, Việt Nam vào ngày 30/ 08/2010 và có hiệu lực vào ngày
1/11/2010. Đến tháng 10/2011, Thái Lan chính thức tham gia dự án thí điểm
số 1. Trong dự án thí điểm thứ nhất, thương nhân xuất khẩu hay thương nhân
nhập khẩu đều có thể tự chứng nhận.
(cid:3) Dự án thí điểm số 2: Ba nước Lào, Phi-líp-pin và In-đô-nê-si-a đã xây
dựng dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ số 2 và bắt đầu triển khai từ ngày
1/1/2014. Việt Nam đã nghiên cứu và tham gia dự án số 2 từ cuối năm 2015.
Trong dự án thí điểm thứ hai, chỉ doanh nghiệp sản xuất được tự chứng nhận
khi xuất khẩu hàng hóa của mình.
Quy trình chứng nhận xuất xứ theo ASEAN
BƯỚC 1 Nhà xuất khẩu đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để trở thành nhà xuất khẩu đủ điều kiện tự chứng nhận xuất xứ
BƯỚC 2 Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, đánh giá và chứng nhận nhà xuất khẩu đủ điều kiện tự chứng nhận xuất xứ
BƯỚC 3 Nhà xuất khẩu đủ điều kiện khi xuất khẩu lập tờ khai hóa đơn chứng minh nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm và gửi cho nhà nhập khẩu
BƯỚC 4 Nhà nhập khẩu xuất trình tờ khai hóa đơn cho cơ quan hải quan tại thời điểm nhập khẩu để được hưởng ưu đãi thuế quan
106
Việc sử dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá được xem là một
xu thế mới bên cạnh sử dụng chứng nhận xuất xứ điện tử nhằm khắc phục
những hạn chế của phương thức cấp C/O giấy truyền thống và tạo thuận lợi
hơn cho hoạt động thương mại giữa các nước thành viên ASEAN.
3.3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ
VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI TẠI VIỆT NAM.
3.3.1. Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện
quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN.
Để có thể triển khai được những nội dung cụ thể của quy tắc xuất xứ
hàng hoá ASEAN vào thực tiễn hoạt động thương mại giữa Việt Nam với các
nước thành viên ASEAN, trong những năm qua, Việt Nam đã xây dựng và tạo
lập khuôn khổ pháp lý thực hiện các quy tắc xuất xứ hàng hóa nói chung và
thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hóa để áp dụng biểu thuế quan ưu đãi trong
ASEAN, cụ thể là:
• Hệ thống các văn bản luật chung liên quan đến hoạt động thương mại,
hải quan và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như: Luật thương mại số
36/2005/QH11, Luật hải quan số 29/2001/QH10, Luật sửa đổi và bổ sung một
số điều của luật hải quan số 42/2005/QH11, Luật hải quan sửa đổi số
54/2014/QH13, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 107/2016/QH13, .v .v và
các nghị định, thông tư, quyết định hướng dẫn thi hành các văn bản này.
Trong các văn bản pháp luật này, quy định về việc sử dụng xuất xứ hàng hoá
trong áp dụng thuế quan ưu đãi đã được đề cập và làm rõ về nguyên tắc và
cách thức thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hóa để áp dụng biểu thuế quan ưu
đãi trong ASEAN.
• Hệ thống các văn bản pháp luật riêng quy định về biểu thuế quan ưu
đãi áp dụng cho quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN được triển khai ban hành
bắt đầu để thực hiện hiệp định CEPT như: Nghị định số 78/2003/NĐ-CP của
107
Chính phủ ngày 01/07/2003 về việc ban hành Danh mục hàng hoá và thuế
suất của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT của các nước ASEAN cho các năm 2003-2006); Quyết định số
09/2006/QĐ-BTC ngày 28/2/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban
hành Danh mục hàng hoá và mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt
của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN giai đoạn 2006-2013 và Quyết
định số 25/2007/QĐ-BTC ngày 16/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính sửa
đổi, bổ sung Quyết định số 09/2006/QĐ-BTC ngày 28/2/2006; QĐ số
36/2008/QĐ-BTC ngày 12/6/2008 v/v Ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi
đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế
quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN giai đoạn 2008-2013,
.v.v. Khi hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN được ký kết 26/02/2009
thay thế cho hiệp định CEPT thì Việt Nam cũng đã triển khai việc ban hành
các quy định biểu thuế quan ưu đãi mới cho phù hợp thông qua các văn bản:
Thông tư số 161/2011/TT-BTC ngày 17/11/2011, Ban hành Biểu thuế nhập
khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hóa
ASEAN giai đoạn 2012-2014; Thông tư số 165/2014/TT-BTC ngày
14/11/2014, Ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam thực
hiện Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN giai đoạn 2015-2018. v .v.
• Hệ thống các văn bản pháp luật quy định chung về xuất xứ hàng hoá
tại Việt Nam là Nghị định 19/2006/NĐ-CP ngày 20/6/2006 của Chính phủ về
xuất xứ hàng hóa; Thông tư số 07/2006/TT-BTM ngày 17/4/2006 của Bộ
Thương mại về hướng dẫn thủ tục cấp và quản lý việc cấp C/O; Thông tư
08/2006/TT-BTM ngày 17/4/2006 của Bộ Thương mại hướng dẫn cách xác
định xuất xứ đối với hàng hóa xuất nhập khẩu có xuất xứ không thuần túy
theo Nghị định số 19/2006/NĐ-CP; Thông tư 10/2006/TT-BTM ngày
108
1/6/2006 của Bộ Thương mại sửa đổi Thông tư 08; Thông tư 06/2011/TT-
BCT ngày 21/3/2011 của Bộ Công thương quy định thủ tục cấp giấy chứng
xuất xứ hàng hóa ưu đãi; Thông tư 01/2013/TT-BCT ngày 3/1/2013 sửa đổi,
bổ sung Thông tư số 06/2011/TT-BCT ngày 21/3/2011 quy định thủ tục cấp
giấy chứng nhận hàng hóa xuất xứ ưu đãi.
• Hệ thống các văn bản pháp luật quy định riêng về áp dụng quy tắc
xuất xứ hàng hoá ASEAN như: Quyết định của Bộ Thương mại số 416/TM-
ĐB năm 1996 về ban hành Quy chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN của
Việt Nam - Mẫu D để hưởng các ưu đãi theo "Hiệp định về Chương trình ưu
đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT); Quyết định 1420/2004/QĐ-BTM
của Bộ trưởng Bộ Thương mại ngày 04/10/2004 về việc ban hành Quy chế
cấp Giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN của Việt Nam - Mẫu D để hưởng các
ưu đãi theo Hiệp định CEPT để thành lập AFTA; Quyết định 19/2008/QĐ-
BCT của Bộ công thương về quy chế cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa
Mẫu D để hưởng các ưu đãi theo Hiệp định CEPT để thành lập AFTA; Thông
tư số 42/2014/TT-BCT ngày 18/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Thông tư số 21/2010/TT-BCT ngày 17/5/2010 của Bộ trưởng Bộ Công
Thương thực hiện Quy tắc xuất xứ trong Hiệp định thương mại hàng hoá
ASEAN; Thông tư số 28/2015/TT-BCT ngày 20/8/2015 về Quy định việc
thực hiện thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định thương
mại hàng hóa ASEAN.v .v.
• Văn bản về việc kiểm tra, xác nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu, nhập
khẩu: bên cạnh những quy định trong luật hải quan và các văn bản hướng dẫn
thi hành luật hải quan, Tổng cục Hải quan còn ban hành riêng quy trình kiểm
tra xác nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo Quyết định số
4286/QĐ-TCHQ ngày 31/12/2015. Đây là văn bản quy định hướng dẫn chi
tiết giúp cơ quan hải quan Việt Nam kiểm tra, xác nhận xuất xứ hàng hoá xuất
109
khẩu, nhập khẩu.
• Văn bản về việc xử lý các hành vi về gian lận xuất xứ hàng hoá: chính
phủ đã ban hành các văn bản cụ thể hoá Luật xử lý vi phạm hành chính năm
2012 là: Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2013 của
Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết
định hành chính trong lĩnh vực hải quan; Nghị định số 45/2016/NĐ-CP ngày
26/5/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
127/2013/NĐ-CP. Trên cơ sở đó Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số
155/2016/TT-BTC quy định chi tiết thi hành việc xử phạt vi phạm hành chính
(VPHC) và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải
quan. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan quản lý nhà
nước thực hiện xử phạt các hành vi về gian lận xuất xứ hàng hoá.
• Về phân cấp, Bộ Công Thương (Vụ xuất nhập khẩu) là cơ quan đầu
mối về xuất xứ hàng hóa, chủ trì và phối hợp với Tổng cục Hải quan tham gia
đàm phán tại các nhóm làm việc về qui tắc xuất xứ trong Ủy ban đàm phán
thương mại thuộc các khu vực thương mại tự do ASEAN, chịu trách nhiệm về
việc sửa đổi, bổ sung về nội dung và ban hành các qui định về xuất xứ hàng hóa
như qui tắc xuất xứ (ROO), quy chế cấp và kiểm tra xuất xứ hàng hóa (OCP),
Danh mục các tiêu chí sản phẩm cụ thể (PSR) và các vấn đề liên quan khác.
3.3.2. Thực trạng áp dụng tiêu chí xuất xứ hàng hoá theo biểu thuế quan
ưu đãi đặc biệt của Việt Nam trong AEC.
Khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN thì Việt Nam đã thực hiện về cơ
bản các cam kết về cắt giảm thuế quan theo lộ trình đến năm 2015 và bắt đầu
áp dụng giai đoạn cắt giảm sâu từ năm 2015 đến năm 2018. Cùng với đó, các
quy định về xuất xứ hàng hoá theo hiệp định ATIGA và cơ chế thí điểm tự
chứng nhận xuất xứ hàng hoá trong ASEAN đã được xây dựng và áp dụng
căn bản đối với hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu ở Việt Nam. Do đó, để xác
110
định hàng hoá có xuất xứ được hưởng thuế quan ưu đãi đặc biệt cần dựa trên
việc xác định hàng hoá có thoả mãn tiêu chí xuất xứ theo quy định về xuất xứ
của hiệp định ATIGA. Các tiêu chí xuất xứ được tổng hợp theo mức độ áp
dụng tại bảng 3.2.
Bảng 3.2. Mức độ áp dụng các tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong quy tắc
xuất xứ theo hiệp định ATIGA
Số lượng dòng
STT
Tiêu chí xuất xứ
Tỷ lệ %
thuế áp dụng
1 WO 221 4,25
2 RVC(40) 4984 95,75
CTC 4837 92,93
Trong đó:
CC
945
18,16
3
CTH
3110
59,75
CTSH
782
15,02
SP
403
7,74
Áp dụng kết hợp với tiêu chí CTC
4
824
15,83
Áp dụng độc lập
(Nguồn: Tổng hợp của NCS từ quy tắc xuất xứ hàng hoá theo hiệp định ATIGA)
Trong quy tắc xuất xứ hàng hoá theo hiệp định ATIGA, thực tế tại phụ
lục của quy tắc xuất xứ hàng hoá cụ thể một dòng thuế chỉ có thể áp dụng một
tiêu chí xuất xứ, nhưng cũng có những dòng thuế có thể lựa chọn áp dụng một
trong các tiêu chí xuất xứ áp dụng với dòng thuế đó.Vì vậy, theo tổng hợp tại
bảng 3.2 cho thấy tiêu chí xuất xứ sử dụng phổ biến nhất là tiêu chí RVC (40)
chiếm tới 95,75% hoặc tiêu chí CTC chiếm tới 92,93% (trong đó chiếm tới
18,16% đòi hỏi mức độ chuyển đổi ở cấp độ rất cao là cấp độ chương – CC)
trong tổng số 5205 dòng thuế ở cấp độ HS-6 số áp dụng tiêu chí xuất xứ hàng
111
hoá. Đối với tiêu chí công đoạn gia công, chế biến cụ thể của hàng hoá thì
mức độ áp dụng là 15,83% áp dụng riêng và 7,74% áp dụng kết hợp với tiêu
chí CTC.
Như vậy, có thể thấy rằng tiêu chí RVC và tiêu chí CTC (trong đó chủ
yếu là CC và CTH) là hai tiêu chí chi phối nhiều nhất đến các hàng hoá khi
xem xét xác định xuất xứ của hàng hoá theo quy tắc xuất xứ của hiệp định
ATIGA. Hai tiêu chí này cũng là hai tiêu chí phản ảnh được trình độ và mức
độ của hoạt động sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu.
Hình 3.2. Mức độ áp dụng các tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong quy tắc
xuất xứ theo hiệp định ATIGA theo các phần của biểu thuế quan
( WO- Xuất xứ thuần tuý; CC-chuyển đổi mã số hàng hoá ở cấp độ chương;
CTH-chuyển đổi mã số hàng hoá ở cấp độ nhóm; CTSH- chuyển đổi mã số hàng
hoá ở cấp độ phân nhóm; RVC- Hàm lượng giá trị khu vực; x- công đoạn gia công,
chế biến cụ thể; Qtdm:Quy tắc hàng dệt may).
(Nguồn: Tổng hợp của NCS từ quy tắc xuất xứ hàng hoá theo hiệp định ATIGA)
112
Xem xét cụ thể việc áp dụng các tiêu chí xuất xứ hàng hoá theo lĩnh vực
hàng hoá phân theo các phần của danh mục hàng hoá của hệ thống HS (xem
phụ lục 3 và hình 3.2) cho thấy rằng: Tiêu chí RVC(40) áp dụng thấp nhất đối
với các sản phẩm thực vật thuộc phần II danh mục HS (chỉ chiếm 56,91% so
với tổng dòng thuế áp dụng của phần II), đây cũng là phần mà áp dụng tiêu
chí WO nhiều nhất trong các phần của danh mục HS (chiếm 59,28% tổng số
dòng thuế áp dụng tiêu chí WO). Ngoài ra, tiêu chí WO còn được áp dụng
nhiều ở các phần I, V và XV đối với các hàng hoá là sản phẩm từ động vật
sống, khoáng sản và kim loại cơ bản. Đây là những nhóm hàng hoá mà Việt
Nam có thuận lợi xuất khẩu sang các nước ASEAN với sự đòi hỏi về xuất xứ
đơn giản, nhất là trong giai đoạn đầu khi triển khai áp dụng quy tắc xuất xứ
mà nền sản xuất trong nước chưa phát triển.
Cũng giống với tiêu chí RVC(40), tiêu chí CTC cũng áp dụng thấp đối
với nhóm hàng hoá thuộc phần II (chiếm 54,93% số dòng thuế áp dụng của
phần II), nhưng mức độ áp dụng thấp nhất lại thuộc các hàng hoá thuộc phần
XVII là nhóm hàng xe cộ, phương tiện bay, tàu thuyền và các thiết bị vận tải
liên hợp (chỉ chiếm 53,08% số dòng thuế áp dụng của phần XVII). Có thể
thấy rằng, các hàng hoá thuộc phần XVII phần lớn đòi hỏi sự phức tạp về
mức độ gia công, chế biến nên tiêu chỉ được ưu tiên sử dụng chủ yếu là
RVC(40%) sẽ thuận lợi cho việc xác định xuất xứ hơn các tiêu chí khác.
Đối với tiêu chí công đoạn gia công, chế biến cụ thể được áp dụng chủ
yếu đối với nhóm hàng hoá dệt may thuộc phần XI (chiếm 95,85% số dòng
113
thuế áp dụng của phần XI), phần III (chiếm 72,92% số dòng thuế áp dụng của
phần III) và phần XV (chiếm 22,91% số dòng thuế áp dụng của phần XV).
Đây là những nhóm hàng hoá về dệt may, dầu động vật và thực vật, kim loại
(chủ yếu là mặt hàng thép) có sự phức tạp về công đoạn gia công, chế biến để
xem xét sự chuyển đổi giữa nguyên vật liệu và hàng hoá tạo ra hay về trị giá
để xác định xuất xứ nên việc áp dụng tiêu chí công đoạn gia công, chế biến cụ
thể đảm bảo sự chặt chẽ và thống nhất trong xác định xuất xứ của hàng hoá.
Trên cơ sở áp dụng tiêu chí xuất xứ hàng hoá như vậy, mức thuế quan
của Việt Nam được áp dụng đối với các nhóm hàng thuộc các phần của danh
mục HS cũng có sự tác động rõ rệt được thể hiện qua hình 3.3.
(Nguồn: Tổng hợp từ các biểu thuế quan năm 2006 và 2016 của Bộ Tài chính)
Hình 3.3. Thuế suất bình quân và chênh chệch giữa thuế suất bình
quân MFN và CEPT/ATIGA năm 2006 và 2016 theo các phần của danh
mục HS
114
Xem xét hình 3.3 cho thấy, biểu thuế quan nhập khẩu áp dụng đối với
các hàng hoá xuất xứ từ ASEAN năm 2006 (năm đầu thực hiện cắt giảm thuế
quan thực hiện AFTA) và năm 2016 (năm đầu thực hiện cắt giảm thuế quan
trong AEC) với thuế suất bình quân MFN áp dụng tương ứng với các năm đó
nhận thấy mức thuế suất bình quân cao áp dụng chủ yếu với các hàng hoá
thuộc phần IV (thực phẩm chế biến, đồ uống, thuốc lá), XI (dệt may), XII
(giày dép), XVII (phương tiện đi lại), XX (đồ nội thất, đồ chơi, .v .v.). Những
hàng hoá thuộc các phần này cũng có mức chênh lệch về thuế quan bình quân
giữa MFN và CEPT/ATIGA cao nhất. Vì vậy, việc những hàng hoá này nếu
đáp ứng được tiêu chí xuất xứ hàng hoá của quy tắc xuất xứ hàng hoá AEC sẽ
được hưởng ưu đãi lớn về thuế quan. Tiêu chí xuất xứ hàng hoá áp dụng đối
nhóm hàng hoá này RVC(40) áp dụng toàn bộ hoặc CTC (trong đó có nhiều
hàng hoá thuộc phần IV áp dụng tiêu chí chuyển đổi cao ở cấp độ chương,
chiếm 58,77% tổng số dòng thuế áp dụng của phần IV). Đối với nhóm hàng
dệt may (phần XI) tiêu chí xuất xứ áp dụng cũng rất chặt chẽ ngoài áp dụng
RVC(40) còn có thể áp dụng tiêu chí CTC (chủ yếu chuyển đổi ở cấp độ CC
hoặc CTH) hoặc áp dụng những quy định của quy tắc xuất xứ dệt may. Do đó,
để có thể tận dụng được những ưu đãi về thuế quan đòi hỏi hàng hoá xuất
khẩu của các nước phải có mức độ gia công, chế biến cao.
3.3.3.Thực trạng thực thi quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN trong áp
dụng thuế quan ưu đãi của các cơ quan nhà nước Việt Nam.
3.3.3.1. Trong công tác quản lý và cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá.
Về phân cấp quản lý và kiểm tra xuất xứ hàng hóa XNK hiện nay, Bộ
Công Thương (Vụ xuất nhập khẩu) là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý và
cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Chứng nhận xuất xứ hàng hoá của Việt
Nam theo quy tắc xuất xứ ASEAN hiện nay được thực hiện theo 2 phương
thức khác nhau là cấp chứng nhận xuất xứ và tự chứng nhận xuất xứ.
115
(cid:4) Đối với phương thức cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá: được thực
hiện theo hình thức trực tiếp hoặc qua mạng Internet.
• Hình thức cấp C/O trực tiếp đòi hỏi doanh nghiệp xin C/O phải nộp
hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa đến trực tiếp hoặc nộp
qua bưu điện đến các địa điểm do Bộ công thương cấp phép là các phòng
quản lý XNK khu vực, ban quản lý các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế
xuất. Thời gian để xác định xuất xứ hàng hoá xuất khẩu và cấp Giấy chứng
nhận xuất xứ trong thời gian không quá 03 ngày làm việc, kể từ thời điểm
nhận được bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được thủ
tục xin cấp C/O thì trước đó doanh nghiệp phải đăng ký hồ sơ thương nhân
với tổ chức cấp C/O bằng hồ sơ giấy tại tổ chức cấp C/O.
• Hình thức cấp C/O qua mạng Internet đã được triển khai toàn diện từ
01/04/2014 qua hệ thống ecosys. Việc thực hiện cấp C/O được tiến hành theo
các bước sau:
- Bước 1: Thương nhân khai báo hồ sơ thương nhân điện tử trên mạng
eCoSys.
- Bước 2: Thương nhân khai báo dữ liệu theo biểu mẫu trên eCoSys và
đính kèm các chứng từ cơ bản (hóa đơn thương mại, tờ khai xuất khẩu, chứng
từ vận tải, bản chứng minh tiêu chí xuất xứ). Các văn bản, chứng từ này phải
được thương nhân xác thực bằng chữ ký số do cơ quan có thẩm quyền cấp.
- Bước 3: Tổ chức cấp C/O duyệt hồ sơ đề nghị cấp C/O qua mạng
Internet của thương nhân trong thời gian 6 giờ làm việc.
- Bước 4: Sau khi nhận được phê duyệt hồ sơ qua Internet, thương nhân
nộp cho Tổ chức cấp C/O đơn đề nghị cấp C/O và mẫu C/O đã được khai
hoàn chỉnh và hợp lệ.
- Bước 5: Tổ chức cấp C/O sẽ trả kết quả cấp C/O bản giấy cho thương
nhân sau 2 giờ làm việc.
116
Hiện nay, hệ thống Ecosys đã được kết nối với hệ thống một cửa quốc
gia để cho phép doanh nghiệp khai báo bộ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận xuất
xứ ưu đãi mẫu D thông qua hệ thống một cửa quốc gia. Điều này giúp cho
doanh nghiệp xin C/O thuận tiện hơn khi không phải xuất trình tờ khai hải
quan giấy. Doanh nghiệp có thể gửi trực tiếp qua hệ thống một cửa tờ khai
Hải quan sang hệ thống eCosys của Bộ Công Thương. Kết quả cấp C/O cũng
được gửi đến cả cơ quan hải quan và doanh nghiệp xin cấp C/O.
(cid:4) Đối với phương thức tự chứng nhận xuất xứ: Hiện nay mới đang
trong giai đoạn thí điểm từ ngày 5/10/2015 và được thực hiện theo quy định
tại Thông tư số 28/2015/TT-BCT ngày 20/8/2015 về Quy định việc thực hiện
thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định thương mại hàng
hóa ASEAN. Phương thức này cho phép một số doanh nghiệp được lựa chọn
được quyền tự cấp chứng nhận xuất xứ hàng hóa trên hóa đơn thương mại
sang thị trường các nước thuộc dự án tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong
khuôn khổ ASEAN là Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Indonesia, Philippines
và Thái Lan. Thương nhân được lựa chọn tham gia chương trình thí điểm tự
chứng nhận xuất xứ hàng hóa phải đáp ứng đủ các tiêu chí sau: Là nhà sản
xuất đồng thời là nhà xuất khẩu hàng hóa do chính thương nhân sản xuất;
Không vi phạm quy định về xuất xứ trong 02 năm gần nhất tính đến thời điểm
nộp hồ sơ đăng ký; Kim ngạch xuất khẩu đi ASEAN được cấp C/O mẫu D
năm trước liền kề đạt tối thiểu 10 triệu đô la Mỹ; Có cán bộ được đào tạo,
được cấp chứng nhận hoặc chứng chỉ về xuất xứ hàng hóa do đơn vị đào tạo
được Bộ Công Thương chỉ định cấp [7]. Thương nhân đáp ứng đầy đủ các
tiêu chí quy định này có nhu cầu tham gia chương trình thí điểm tự chứng
nhận xuất xứ hàng hóa gửi 01bộ hồ sơ đăng ký qua đường bưu điện đến Cục
Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương, hoặc đăng ký qua mạng Internet tại địa
chỉ www.ecosys.gov.vn. Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương cấp Văn
117
bản chấp thuận cho thương nhân tham gia thí điểm tự chứng nhận xuất xứ
hàng hóa trong ASEAN. Tổ chức cấp C/O có thể tiến hành kiểm tra tại nơi
sản xuất trong trường hợp có căn cứ rõ ràng cho thấy việc kiểm tra trên hồ sơ
là chưa đủ để cấp C/O hoặc phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật đối với
các C/O đã cấp trước đó.
3.3.3.2.Trong công tác quản lý, kiểm tra, xác định, xác minh và xử lý vi
phạm về xuất xứ hàng hoá.
Công tác quản lý, kiểm tra, xác định, xác minh và xử lý vi phạm xuất
xứ hàng hoá được phân giao trách nhiệm cho cơ quan hải quan đảm nhận và
được thực hiện như sau:
• Đối với việc xác định trước xuất xứ hàng hoá: Để tạo thuận lợi cho
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá khi làm thủ tục hải quan thì những quy
định về xác định trước xuất xứ hàng hoá cũng được đưa vào Luật hải quan
năm 2014 và được cơ quan hải quan thực hiện. Theo đó người khai hải quan
có quyền đề nghị cơ quan hải quan xác định trước xuất xứ đối với hàng hóa
dự kiến xuất khẩu, nhập khẩu. Hồ sơ đề nghị xác định trước xuất xứ phải
được gửi đến Tổng cục Hải quan và người khai hải quan phải cung cấp thông
tin, chứng từ liên quan, mẫu hàng hóa dự kiến xuất khẩu, nhập khẩu cho cơ
quan hải quan. Kết quả xác định trước xuất xứ hàng hoá là cơ sở để người
khai hải quan có thể thuận lợi làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu.
• Đối với việc kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hóa xuất khẩu: Xuất xứ
hàng hóa xuất khẩu được xác định dựa trên nội dung khai của người khai hải
quan, chứng từ thuộc hồ sơ hải quan và thực tế hàng hoá. Khi có dấu hiệu
gian lận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu hoặc trên cơ sở thông tin cảnh báo về
chuyển tải bất hợp pháp, cơ quan Hải quan nơi đăng ký tờ khai yêu cầu người
khai hải quan cung cấp chứng từ chứng minh xuất xứ hàng xuất khẩu; trường
118
hợp người khai hải quan không xuất trình thì tiến hành xác minh tại cơ sở sản
xuất hàng hóa xuất khẩu. Trong khi chờ kết quả kiểm tra, xác minh xuất xứ
hàng hóa, hàng hóa xuất khẩu được thông quan theo quy định.
• Đối với việc kiểm tra, xác định và xác minh xuất xứ hàng hóa nhập
khẩu: Cơ quan hải quan kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hóa nhập khẩu trên
cơ sở nội dung khai của người khai hải quan, chứng từ chứng nhận xuất xứ,
chứng từ thuộc hồ sơ hải quan và kết quả kiểm tra thực tế hàng hóa. Chứng từ
chứng nhận xuất xứ hàng hóa nhập khẩu do cơ quan có thẩm quyền của nước
xuất khẩu phát hành hoặc do người sản xuất, người xuất khẩu hoặc người
nhập khẩu tự chứng nhận theo quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN. Trường hợp
có nghi ngờ về xuất xứ hàng hóa nhập khẩu, cơ quan hải quan tiến hành kiểm
tra, xác minh xuất xứ hàng hóa tại nước sản xuất hàng hóa. Kết quả kiểm tra,
xác minh xuất xứ có giá trị pháp lý để xác định xuất xứ hàng hóa nhập khẩu.
Trong khi chờ kết quả kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa, hàng hóa nhập
khẩu được thông quan theo quy định nhưng không được hưởng thuế suất ưu
đãi đặc biệt. Số thuế chính thức phải nộp căn cứ vào kết quả kiểm tra, xác
minh xuất xứ hàng hóa.
• Đối với việc kiểm tra sau thông quan về xuất xứ hàng hoá. Cơ quan
hải quan bằng nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan tiến hành kiểm tra xác định
xuất xứ hàng hoá đã thông quan thông qua việc kiểm tra bộ hồ sơ, chứng từ
liên quan đến xuất xứ hàng hoá và kiểm tra thực tế hàng hoá (trong điều kiện
hàng hoá nhập khẩu còn ở doanh nghiệp và không bị thay đổi mã HS). Trong
trường hợp cần thiết, để kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hoá, cơ quan hải
quan có thể tiến hành đối chiếu với quy trình sản xuất, chế biến sản phẩm
hoặc phân tích hàng hoá để xác định hàm lượng, tiêu chí xuất xứ hàng hoá,
mã số hàng hoá làm căn cứ để xác định chính xác xuất xứ hàng hoá. Khi có
nghi vấn về xuất xứ hàng hoá nhập khẩu đã thông quan nhưng chưa đủ cơ sở
119
kết luận thì phải tiến hành điều tra xác minh tại nước xuất xứ. Việc xác minh
xuất xứ hàng hóa nhập khẩu với cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận
xuất xứ hàng hóa; tổ chức, cá nhân tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa hoặc tại
cơ sở sản xuất hàng hóa xuất khẩu được thực hiện theo trình tự quy định tại
quy tắc xuất xứ của hiệp định ATIGA. Khi có dấu hiệu gian lận xuất xứ hàng
hóa xuất khẩu hoặc trên cơ sở thông tin cảnh báo về chuyển tải bất hợp pháp,
cơ quan Hải quan yêu cầu người khai hải quan cung cấp chứng từ chứng minh
xuất xứ hàng hóa xuất khẩu hoặc tiến hành kiểm tra chi tiết: Kiểm tra cơ sở có
thực sự có hoạt động sản xuất không (con người, máy móc, nguyên liệu,...),
kiểm tra nguồn nguyên liệu đầu vào (mua trong nước, mua nước ngoài,...),
kiểm tra tỷ lệ/ hàm lượng tiêu chuẩn xuất xứ (đánh giá có đáp ứng điều kiện
để cấp xuất xứ Việt Nam không? ), .v .v
• Đối với công tác xử lý vi phạm về xuất xứ hàng hoá. Cơ quan hải
quan khi phát hiện ra hành vi vi phạm về xuất xứ hàng hoá của người khai hải
quan sẽ căn cứ vào các quy định tại Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15
tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính và
cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan, Nghị định
số 45/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 127/2013/NĐ-CP và Thông tư số 155/2016/TT-BTC
quy định chi tiết thi hành việc xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi
hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan để tiến hành xử lý theo
trình tự quy định.
3.3.4.Thực trạng thực thi quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN trong áp
dụng thuế quan ưu đãi của các doanh nghiệp.
Theo quy định để được hưởng thuế quan ưu đãi của các nước ASEAN
thì hàng hoá nhập khẩu phải xuất trình chứng nhận xuất xứ hàng hoá cho cơ
quan hải quan nước ASEAN nhập khẩu. Đối với hàng hoá xuất khẩu và nhập
120
khẩu giữa Việt Nam với các nước ASEAN thì doanh nghiệp thực hiện theo
những cách thức khác nhau.
Đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN. Các
doanh nghiệp Việt Nam áp dụng quy tắc xuất xứ ASEAN để xin cấp C/O mẫu
D cho hàng hoá xuất khẩu để nhằm hưởng thuế quan ưu đãi mà các nước
ASEAN dành cho Việt Nam theo cam kết của hiệp định ATIGA. Việc xin cấp
C/O mẫu D được thực hiện qua việc doanh nghiệp phải đăng ký hồ sơ thương
nhân và nộp hồ sơ xin cấp C/O mẫu D tại các địa điểm do Bộ công thương cấp
phép là các phòng quản lý XNK khu vực, ban quản lý các khu công nghiệp,
khu kinh tế, khu chế xuất. Trên cơ sở C/O mẫu D được cấp theo quy định,
doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ gửi cho đối tác nhập khẩu tại nước
ASEAN để xuất trình cho cơ quan hải quan nước nhập khẩu để được hưởng
thuế quan ưu đãi. Bên cạnh đó, hiện các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể áp
dụng hình thức tự chứng nhận xuất xứ trên hoá đơn thương mại cho hàng hoá
xuất khẩu sang các nước Lào, Philippines, Indonesia và Thái Lan. Tuy nhiên,
việc này phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về tự chứng nhận xuất xứ và
phải được sự cấp phép của Bộ công Thương. Tính đến hết năm 2016, Bộ công
thương mới chỉ cho phép 2 doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện tự chứng nhận
xuất xứ là Công ty cổ phần Sữa Vinamilk và công ty Nestlé Việt Nam.
Đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN vào Việt Nam. Doanh
nghiệp nhập khẩu sẽ phải xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D do cơ
quan có thẩm quyền của nước ASEAN xuất khẩu cấp theo đúng quy định của
quy tắc xuất xứ hàng hoá theo hiệp định ATIGA hoặc là chứng từ tự chứng
minh xuất xứ hàng hoá (đối với những doanh nghiệp của các nước Lào,
Philippines, Indonesia và Thái Lan được phép tự chứng nhận xuất xứ) cho cơ
quan hải quan Việt Nam tại thời điểm làm thủ tục hải quan để được hưởng
mức thuế quan ưu đãi đặc biệt dành cho hàng hoá của các nước ASEAN.
121
Trong trường hợp tại thời điểm làm thủ tục hải quan mà doanh nghiệp nhập
khẩu chưa xuất trình được C/O bản gốc theo quy định cho cơ quan hải quan
Việt Nam thì phải làm thủ tục xin phép nộp chậm theo quy định và tạm thời
không được hưởng mức thuế ưu đãi đặc biệt (áp dụng mức thuế quan MFN)
đến khi xuất trình được C/O bản gốc theo đúng quy định trong thời gian được
phép nộp chậm.
3.4. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG
HOÁ ASEAN VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI TRONG
TRAO ĐỔI THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC
THÀNH VIÊN AEC.
Để đánh giá được những tác động của việc thực hiện quy tắc xuất xứ
ASEAN và thuế quan ưu đãi trong AEC đối với thương mại Việt Nam thì
trong phần này, NCS tập trung vào đánh giá trên hai khía cạnh là sử dụng mô
hình trọng lực để nhận diện các nhân tố và mức độ ảnh hưởng đến trao đổi
thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên AEC. Bên cạnh đó, NCS
cũng sử dụng những số liệu thống kê thực tiễn trao đổi thương mại giữa Việt
Nam với các nước thành viên AEC từ 2006 đến 2016 để làm rõ những ảnh
hưởng của việc áp dụng quy tắc xuất xứ ASEAN theo lộ trình áp dụng thuế
quan ưu đãi từ khi thực hiện hiệp định CEPT đến ATIGA và AEC.
3.4.1.Đánh giá tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến trao đổi thương
mại giữa Việt Nam và các nước thành viên AEC qua áp dụng mô hình
trọng lực.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu sử dụng mô hình trọng lực để đánh giá
các nhân tố ảnh hưởng đến trao đổi thương mại của các học giả như phân tích ở
mục 2.4 chương 2 của luận án. Thêm vào đó, do sự hạn chế về dữ liệu thống kê
ở Việt Nam nên ở phần này, tác giả sẽ chỉ sử dụng mô hình trọng lực để đánh
giá tác động đến trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên
122
còn lại của AEC với các biến cơ bản sử dụng là: GDP, dân số, tỷ giá, chênh
lệch thu nhập và thuế quan ưu đãi bình quân. Biến khoảng cách không được
đưa vào xem xét bởi những tác động không rõ ràng khi khó đánh giá mức so
sánh khoảng cách từ nơi xuất khẩu đến nơi nhập khẩu trong cùng khối
ASEAN. Số liệu được lấy trong giai đoạn từ 2006 đến 2015 trong đó số liệu
GDP, dân số, tỷ giá, chênh lệch thu nhập được chiết xuất từ cơ sở dữ liệu của
ban thư ký ASEAN13, dữ liệu thuế quan bình quân được chiết xuất từ cơ sở dữ
liệu thuế quan của WTO14. Số liệu được tổng hợp tại phụ lục 4 của luận án.
Phương trình hồi quy mô hình được thể hiện dưới dạng sau:
- Luồng xuất khẩu:
Ln (EXvnjt) =β0 + β1 ln (GDPvnt*GDPjt) + β2 ln (POPvnt*POPjt) + β3 ln (ERvnjt)
(3.1) + β4 ln (INCOMEGAPvnjt) + β5 Tjvnt
-Luồng nhập khẩu:
Ln (IMvnjt) =β0 + β1 ln (GDPvnt*GDPjt) + β2 ln (POPvnt*POPjt) + + β3 ln (ERvnjt)
+ β4 ln (INCOMEGAPvnjt) + β5 Tvnjt (3.2)
Trong đó:
EXvnjt Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang nước j năm t.
IMvnjt Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ nước j của Việt Nam năm t.
GDPvnt, GDPjt của Việt Nam, nước j tại năm t.
POPvnt, POPjt dân số cuả Việt Nam, nước j tại năm t.
ERjvnt Tỷ giá giữa đồng tiền nước j và Việt Nam năm t.
INCOMEGAPvnjt chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa nước j
và Việt Nam năm t.
Tjvnt Thuế nhập khẩu nước j áp dụng đối với hàng hoá từ Việt Nam năm t.
13 Nguồn tại http://data.aseanstats.org/
14 Nguồn tại http://tao.wto.org/
Tvnjt Thuế nhập khẩu Việt Nam áp dụng cho hàng hoá nước j năm t.
123
Kết quả chạy mô hình cho ra kết quả tại bảng 3.3.
Bảng 3.3.Kết quả ước lượng mô hình trọng lực cho xuất khẩu và nhập
khẩu hàng hoá của Việt Nam với các đối tác trong AEC
Xuất khẩu Nhập khẩu
0.7218 1.4255* lngdp_gdpvn
(0.478) (0.391)
-1.1987 -6.8698*** lnpop_popvn
(2.817) (3.225)
-0.2012 -0.4165 lner
(0.522) (0.628)
-0.0398 0.1858 lnincomegap
(0.441) (0.949)
-0.0826
tjvnt
(0.066)
0.0417
tvnjt
(0.073)
17.2187 122.8313*** Constant
(53.820) (60.034)
57 56 Observations
0.690 0.341 R-squared
6 6 Number of id
* p<0.05, ** p<0.01, *** p<0.1
Kết quả ước lượng tại bảng 3.3 cho thấy, nhiều biến số có dấu như kỳ vọng.
Biến GDP thể hiện quy mô nền kinh tế đều mang dấu dương trong cả hai
phương trình cho thấy khối lượng thương mại trao đổi giữa Việt Nam và các
nước đối tác trong AEC tỷ lệ thuận với quy mô của nền kinh tế, điều này là
phù hợp với các lý thuyết về kinh tế. So sánh hệ số biến GDP ở hai phương
124
trình có thể thấy được hệ số của phương trình nhập khẩu có giá trị lớn hơn
(1,4255) so với xuất khẩu (0,7218). Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế,
Việt Nam luôn nhập siêu lớn trong quan hệ thương mại với ASEAN (được lý
giải qua số liệu thống kê quan hệ thương mại giữa Việt Nam-ASEAN tại bảng
3.4). Đặc biệt những quốc gia có GDP cao trong ASEAN thì trao đổi thương
mại của Việt Nam với những nước này càng cao.
Về biến dân số POP: hệ số hồi quy của dân số giữa Việt Nam và các
nước thành viên AEC nhận giá trị âm cho cả hai phương trình, trong đó hệ số
của phương trình nhập khẩu có giá trị âm lớn hơn xuất khẩu rất nhiều. Điều
này cho thấy quy mô thị trường đại diện bằng quy mô dân số của Việt Nam và
các nước đối tác có tác động ngược chiều đến luồng trao đổi thương mại. Từ
đó cho thấy thực trạng sản xuất hàng hoá giữa Việt Nam các các nước AEC
có sự tương đồng về ngành hàng nên nhu cầu trao đổi trao đổi hàng hoá khi
quy mô dân số tăng nên là không rõ.
Về biến tỷ giá hối đoái ER: Tỷ giá hối đoái nhận giá trị âm cho cả hai
phương trình cho thấy sự mất giá thực của đồng Việt Nam làm giảm trao đổi
thương mại của Việt Nam với các nước thành viên AEC. Nguyên nhân có thể
do trong những năm qua xuất khẩu của Việt Nam sang các nước AEC chủ yếu
là những mặt hàng nông sản, nguyên liệu thô chưa qua chế biến. Đây là
những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp và cũng có độ co giãn về giá thấp.
Đồng thời Việt Nam cũng nhập khẩu nhiều mặt hàng máy móc, nông sản,
nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước cũng đều là những mặt hàng có
độ co giãn giá cả thấp. Nền sản xuất trong nước có sự phát triển nên nguồn
cung hàng hoá cũng rồi dào. Thêm vào đó tỷ giá trong những năm qua được
Việt Nam duy trì tương đối ổn định nên sự biến động về tỷ giá không tác
động nhiều đến hoạt động trao đổi thương mại.
Về biến chênh lệch thu nhập bình quân đầu người incomegap: Chênh
125
lệch thu nhập giữa các nước đối tác và Việt Nam mang dấu âm trong phương
trình xuất khẩu và dấu dương trong phương trình nhập khẩu. Điều này cho
thấy, Việt Nam có xu hướng xuất khẩu nhiều hàng hoá sang nước có mức thu
nhập thấp và nhập khẩu nhiều hàng hoá từ các nước phát triển hơn trong
AEC. Thực tiễn cho thấy, Việt Nam có sự trao đổi nhập khẩu hàng hoá nhiều
với các nước thu nhập bình quân đầu người cao hơn trong AEC là Singapore,
Malaysia, Thái Lan và Indonesia. Đồng thời, chiều ngược lại Việt Nam có xu
hướng gia tăng xuất khẩu hàng hoá vào những thị trường có mức thu nhập
thấp như Lào, Campuchia, Myanmar. Từ đó cho thấy, trình độ sản xuất và
hàm lượng giá trị công nghệ trong hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam còn
thấp, chủ yếu phù hợp với nhu cầu của những nước có mức thu nhập thấp,
chưa cạnh tranh được khi xuất khẩu sang thị trường các nước phát triển hơn.
Ảnh hưởng của biến thuế quan t trong kết quả hồi quy cho thấy, hệ số
hồi quy của biến thuế quan đối với xuất khẩu mang dấu âm (-0,0826) và nhập
khẩu là dương (0,0417). Điều này cho thấy, thuế nhập khẩu của một nước
thành viên AEC áp dụng có ảnh hưởng tiêu cực đến luồng xuất khẩu của Việt
Nam sang nước đó. Còn thuế nhập khẩu của Việt Nam đang áp dụng lại có tác
động tích cực đến luồng nhập khẩu hàng hoá từ các nước AEC. Từ đó cho
thấy, mức độ tận dụng thuế quan ưu đãi trong trao đổi thương mại của Việt
Nam thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển trong AEC, khi mà mức
thuế quan theo lộ trình cắt giảm thuế càng thấp đi thì mức độ nhập siêu hàng
hoá lại càng tăng lên.
Xét về tổng thể, qua đánh giá về mô hình trọng lực cho thấy, các nhân tố
ảnh hưởng đến trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên
AEC giai đoạn từ 2006 đến 2015 là các nhân tố phản ánh trình độ phát triển
của nền kinh tế (GDP, thu nhập bình quân đầu người) có tác động tích cực
trong trao đổi thương mại. Nhân tố thuế quan có ảnh hưởng theo chiều hướng
126
càng giảm thuế thì luồng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam càng tăng lên.
Tuy nhiên, mức độ tăng thấp cho thấy việc tận dụng được những ưu đãi về
thuế quan để xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang các nước thành viên
AEC còn chưa tốt nên nhân tố thuế quan có sự ảnh hưởng chưa mạnh đối với
trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên của AEC. Như
vậy có thể thấy rằng, tác động của thuế quan qua mô hình đã phản ảnh đúng
thực tế rằng sự tác động của nó đến thương mại giữa Việt Nam và các nước
ASEAN là không lớn. Đặc biệt là đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá của
Việt Nam sang các nước ASEAN, khi mà phần lớn trong giai đoạn đầu của
thực hiện cắt giảm thuế quan, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là khoáng
sản và nông sản. Đây là những mặt hàng có mức độ chế biến thấp, thuế quan
ưu đãi của các nước ASEAN nhập khẩu phần lớn không có sự chênh lệch với
thuế MFN nên doanh nghiệp xuất khẩu không cần phải sử dụng C/O đối với
hàng hoá xuất khẩu và vì vậy tác động của cắt giảm thuế quan làm tăng kim
ngạch là thấp. Mức độ tác động có cải thiện trong những năm gần đây khi mà
cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã có sự gia tăng của những hàng hoá chế biến.
Điều này cũng được minh chứng qua phân tích số liệu thống kê trao đổi
thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN ở mục 3.4.2.
3.4.2. Thực tiễn tác động việc áp dụng thuế quan ưu đãi và quy tắc xuất
xứ hàng hoá đối với thương mại Việt Nam trong AEC.
Để thực hiện được các mục tiêu cũng như chiến lược đặt ra khi gia nhập
AEC, Việt Nam cũng đã tích cực tiến hành đồng bộ các giải pháp nhằm thực
hiện đầy đủ các cam kết trong AEC. Trong đó có thể thấy được, việc đẩy
mạnh quá trình thực hiện hiệp định ATIGA từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đã
có 8.603 dòng thuế, chiếm xấp xỉ 90% tổng Biểu thuế xuất nhập khẩu được
cắt giảm xuống thuế suất 0%. Số còn lại gồm 669 dòng thuế (chiếm 7% Biểu
thuế) sẽ về 0% vào năm 2018. Đây là những mặt hàng nhạy cảm trong thương
127
mại giữa Việt Nam và ASEAN, tập trung vào các nhóm hàng như ô tô, xe
máy, phụ tùng linh kiện ô tô xe máy, dầu thực vật, hoa quả nhiệt đới, đồ điện
dân dụng như tủ lạnh, máy điều hòa, sữa và các sản phẩm sữa .v. v.
ASEAN là một trong các đối tác thương mại quan trọng hàng đầu và là
động lực quan trọng giúp nền kinh tế Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng và
xuất khẩu trong nhiều năm qua. Với lợi thế là một khu vực phát triển năng
động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có
mức tăng trưởng cao nhờ hàng hoá trao đổi được hưởng thuế quan ưu đãi đặc
biệt CEPT/ATIGA ở mức thấp khi được công nhận xuất xứ của ASEAN. Với
việc gia nhập AEC và tiếp tục thực hiện một cách mạnh mẽ các cam kết về
thương mại theo hiệp định ATIGA cho thấy tác động rất lớn đến quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN.
Xét về kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá giữa Việt Nam với
các nước ASEAN. Qua 10 năm thực hiện cam kết về cắt giảm thuế quan kể từ
2006, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu trao đổi thương mại giữa Việt Nam
không ngừng tăng lên mạnh mẽ (thể hiện qua số liệu bảng 3.4). Thương mại
hai chiều giữa các nước ASEAN và Việt Nam khoảng 19,179 tỷ USD năm
2006, đã tăng hơn 2,15 lần, đạt đến 41,356 tỷ USD vào 2016.
128
Bảng 3.4. Giá trị kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương
mại giữa Việt Nam- ASEAN giai đoạn 2006-2016
Đơn vị tính: Triệu USD
Cán cân
Tổng kim
Năm
Xuất khẩu
Nhập Khẩu
ngạch XNK
thương mại
2006 6.632,60 12.546,60 19.179,20 -5.914,00
2007 8.110,30 15.908,20 24.018,50 -7.797,90
2008 10.337,70 19.567,70 29.905,40 -9.230,00
2009 8.761,30 16.461,30 25.222,60 -7.700,00
2010 10.364,70 16.407,50 26.772,20 -6.042,80
2011 13.656,00 20.910,20 34.566,20 -7.254,20
2012 17.426,50 20.820,30 38.246,80 -3.393,80
2013 18.584,40 21.287,10 39.871,50 -2.702,70
2014 19.106,80 22.918,50 42.025,30 -3.811,70
2015 18.043,86 23.881,16 41.925,02 -5.837,30
2016 17.473,04 23.883,14 41.356,18 -6.410,09
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục thống kê Việt Nam 2017)
Xét trong từng giai đoạn cho thấy:
Trong giai đoạn 2006-2008, trị giá buôn bán hàng hoá hai chiều trong
giai đoạn 2006-2008 liên tục tăng cao qua các năm, với tốc độ tăng bình quân
khoảng 25,9%/năm. Cụ thể trong năm 2006, tổng kim ngạch hàng hóa xuất
nhập khẩu giữa Việt Nam - ASEAN chỉ đạt 19,17 tỷ USD, trong khi đó con
số này của năm 2008 là 29,9 tỷ USD, tăng gấp hơn 1,5 lần so với năm 2006.
Trong năm 2009, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới, tổng trị giá giao thương giữa Việt Nam với tất cả các quốc gia thành viên
ASEAN chỉ đạt con số 25,2 tỷ USD, giảm 15,66% so với năm 2008
trước đó.
129
Trong giai đoạn 2010-2012: Sau khủng khoảng kinh tế trong năm 2009,
thương mại hàng hóa giữa Việt Nam –ASEAN hồi phục trở lại với mức tăng
trưởng 2 con số, tốc độ tăng bình quân cả giai đoạn này đạt 19%/năm. Cụ thể
trong năm 2012, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN
lên đến con số 38,24 tỷ USD.
Trong giai đoạn từ 2013 đến 2016: Buôn bán hai chiều giữa Việt Nam
và ASEAN vẫn đạt được tăng trưởng dương nhưng có dấu hiệu chậm lại. Cụ
thể trong năm 2014 đạt 42,025 tỷ USD, tăng 5,4% so với kết quả thực hiện
cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên bước sang năm 2015, kim ngạch trao đổi
thương mại có xu hướng giảm đi, năm 2015 chỉ đạt 41,92 tỷ USD (giảm
0,24% so với kết quả thực hiện cùng kỳ năm trước) và năm 2016 tiếp tục
giảm xuống chỉ còn 41,35 tỷ USD (giảm 1,36% so với kết quả thực hiện cùng
kỳ năm trước).
Xét trong mối quan hệ với mức độ cắt giảm thuế quan, tại hình 3.4 cho
thấy xu hướng tăng kim ngạch XNK luôn cùng chiều với xu hướng cắt giảm
thuế quan. Điều này có nghĩa, với mức thuế suất bình quân ngày càng giảm
thì kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN không
ngừng tăng lên mạnh mẽ. Qua số liệu tại bảng 3.4 và hình 3.4 cho thấy cùng
với xu hướng tăng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu thì trong 10 năm qua,
Việt Nam luôn nhập siêu trong buôn bán với các nước thành viên
ASEAN. Tuy nhiên, do tốc độ tăng xuất khẩu sang ASEAN cao hơn tốc độ
tăng nhập khẩu từ thị trường này nên trong những năm gần đây mức thâm hụt
ngày càng thu hẹp lại và tỷ lệ nhập siêu từ ASEAN giảm dần. Cụ thể, năm
2006 có Việt Nam nhập siêu từ các nước ASEAN là 5,91 tỷ USD, đến năm
2014 xuống còn 3,91 tỷ USD, nhưng bước sang năm 2015 khi thực hiện cắt
giảm mạnh mẽ hơn các dòng thuế nhạy cảm thì thâm hụt lại tăng lên 5,84 tỷ
USD và năm 2016 lượng nhập siêu đã là 6,41 tỷ USD.
130
Hình 3.4. Kim ngạch XK, NK, cán cân thương mại giữa Việt Nam với các
nước ASEAN theo mức độ thuế quan bình quân cắt giảm từ 2006-2016
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục thống kê Việt Nam và Ban thư ký
ASEAN 2016)
Về thứ hạng và tỷ trọng:
Trong những năm qua, ASEAN luôn là đối tác lớn về xuất khẩu và nhập
khẩu hàng hoá với Việt Nam. Điều này có thể thấy được qua hình 3.5 về quan
hệ thương mại giữa Việt Nam và một số đối tác lớn năm 2016. Trong đó về
xuất khẩu, ASEAN là thị trường xuất khẩu hàng hóa chiếm tỷ trọng 9,89%
tổng kim ngạch và lớn thứ 4 của các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ sau thị
trường Hoa Kỳ, thị trường các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) và
Trung Quốc. Ở chiều ngược lại, ASEAN là đối tác thương mại cung cấp
nguồn hàng hoá lớn thứ 3 cho các doanh nghiệp Việt Nam (sau Trung Quốc
và Hàn Quốc) và chiếm tỷ trọng 13,72% tổng kim ngạch nhập khẩu.
131
Hình 3.5. Kim ngạch XK, NK giữa Việt Nam và một số đối tác lớn năm 2016
Xem xét về tốc độ tăng trưởng XK, NK: Tốc độ tăng trưởng bình quân
kim ngạch XNK của Việt Nam với khu vực ASEAN luôn thấp hơn so với tốc
độ tăng trưởng xuất nhập khẩu bình quân với các nước ngoài ASEAN và của
cả nước (xem hình 3.6).
Hình 3.6. Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu bình quân của Việt
Nam giai đoạn 2007-2016
Do đó có thể thấy rằng, tỷ trọng giao thương của Việt Nam với khu vực
ASEAN trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có xu hướng
132
giảm dần qua các năm (xem Hình 3.7 A và 3.7 B).
Hình 3.7 A. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu với khu vực ASEAN trong
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 2006- 2016
Hình 3.7 B. Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu với khu vực ASEAN trong
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam 2006- 2016
Về mặt hàng xuất khẩu:
Năm 2010 là năm bản lề với tiến trình liên kết các thành viên Hiệp hội
133
các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)-chuyển sang giai đoạn phát triển mới,
hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN (AC) vào năm 2015 dựa
trên trên ba trụ cột Cộng đồng Chính trị-An ninh (APSC), Cộng đồng Kinh tế
(AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ACSC). Do đó, xuất khẩu của Việt
Nam sang ASEAN từ năm 2005 đến nay cũng chia thành 2 giai đoạn:
Trước năm 2010, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang
thị trường ASEAN chủ lực có dầu thô và gạo (xem hình 3.8A cho thấy năm
2007 hai nhóm hàng chiếm tới 48% tổng kim ngạch XNK, năm 2010 giảm
xuống còn 36%), đây là 2 nhóm hàng mà tiêu chí để xác định xuất xứ được áp
dụng là WO. Đối với Việt Nam thì tiêu chí này trước năm 2010 sẽ dễ đạt
được hơn so với các tiêu chí về mức độ gia công, chế biến hàng hoá bởi vì
nền sản xuất trong nước của Việt Nam có mức độ phát triển chậm hơn với các
nước ASEAN-6 và phụ thuộc lớn vào các doanh nghiệp FDI. Thí dụ như, đến
tháng 2/2009 nhà máy lọc dầu Dung Quất Việt Nam mới bắt đầu sản xuất
được các sản phẩm chế biến từ dầu mỏ nhưng chủ yếu là đáp ứng nhu cầu
trong nước hay cuối năm 2009 thì nhà máy Samsung ở Việt Nam mới đi vào
sản xuất, lắp ráp điện thoại di động, các sản phẩm điện tử. Do đó, trước năm
2010 thì những sản phẩm đòi hỏi mức độ gia công, chế biến thấp của Việt
Nam có lợi thế đáp ứng tiêu chí xuất xứ WO sẽ thuận lợi được hưởng ưu đãi
thuế quan khi xuất sang các nước ASEAN và chiếm tỷ trong lớn trong xuất
khẩu của Việt Nam như dầu thô (35%), gạo (13%), than đá, cao su, cà phê,
hải sản, .v .v.
134
Năm 2007
Năm 2010
Hình 3.8 A.Cơ cấu xuất khẩu mặt hàng chủ lực sang thị trường ASEAN
Kể từ năm 2010 đến nay, mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang
ASEAN đã trở nên đa dạng, phong phú hơn nhờ nền sản xuất hàng hoá trong
nước đã có những sự phát triển mạnh mẽ với làn sóng đầu tư FDI từ các
doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, v .v..Chính điều
này đã làm kéo theo mức độ gia tăng về các sản phẩm gia công, chế biến sử
dụng tiêu chí RVC và CTC trong xuất khẩu sang các nước ASEAN. Xem
hình 3.8B cho thấy, ngoài 2 nhóm hàng truyền thống dầu thô và gạo xuất sang
ASEAN (hiện giảm xuống chỉ chiếm tương ứng là 3% và 2%) các doanh
nghiệp ở Việt Nam còn phát triển xuất khẩu sản xuất nhiều nhóm hàng như
điện thoại các loại & linh kiện (chiếm tỷ trọng lớn nhất là 13%); máy vi tính
sản phẩm điện tử & linh kiện (12%); sắt thép các loại, máy móc thiết bị dụng
cụ & phụ tùng (8%). Ngoài ra, một số sản phẩm xuất khẩu là thế mạnh của
doanh nghiệp Việt Nam như hàng dệt may, giày dép, thủy sản, cà phê, cao su
cũng đã được đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường ASEAN.
135
Hình 3.8B.Cơ cấu xuất khẩu mặt hàng chủ lực sang thị trường ASEAN
trong năm 2016
Về mặt hàng nhập khẩu:
Trong nhiều năm qua, chiếm tỷ trọng trên 60% kim ngạch nhập khẩu từ
ASEAN, chủ yếu là những mặt hàng nhập khẩu thiết yếu, nguyên phụ liệu
đầu vào phục vụ sản xuất trong nước như: xăng dầu các loại; máy móc, thiết
bị, dụng cụ & phụ tùng; máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện; chất dẻo
nguyên liệu; giấy; gỗ & sản phẩm gỗ; hàng điện gia dụng & linh kiện; linh
kiện & phụ tùng ô tô; hóa chất & sản phẩm hóa chất .v.v.
Năm 2007 Năm 2010
Hình 3.9A.Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu chủ lực có xuất xứ từ ASEAN
136
Hình 3.9B.Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu chủ lực có xuất xứ từ ASEAN
năm 2016
Trong thương mại nội khối, Việt Nam có quan hệ giao thương tập trung
với 4 thị trường chính là Singapore, Thái Lan, Malaysia và Indonesia (xem
hình 3.10). Đây là nhóm nước có nền công nghiệp và doanh nghiệp trong
nước phát triển nhất so với các nước còn lại trong ASEAN. Số liệu thống kê
cũng cho thấy, tổng trị giá hàng hóa trao đổi với 4 đối tác này chiếm tới hơn
80% tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN (Năm
2006 chiếm 87,4% và năm 2016 chiếm 81,4%). Trong đó, kim ngạch nhập
khẩu hàng hoá từ Thái Lan có sự tăng lên mạnh mẽ vượt qua Singapore và
chiếm vị trí số 1, đặc biệt là năm 2016 chiếm đến 36,83% kim ngạch nhập
khẩu hàng hoá từ các nước ASEAN tập trung chủ yếu vào các mặt hàng gia
dụng tiêu dùng, điện tử, ô tô nguyên chiếc, v. v.
Xét về vị thế trong quan hệ thương mại cho thấy, về thị trường xuất khẩu
của Việt Nam trong AEC thì Thái Lan đứng số 1, tiếp theo là Malaysia đứng
thứ 2 và Indonesia đứng thứ 3. Đáng chú ý, thị trường Campuchia và
Philippin cùng có mức tăng trưởng rất nhanh với kim ngạch nhập khẩu hàng
hoá từ Việt Nam năm 2016 đã vượt qua mức 2,2 tỷ USD.
137
Ở chiều ngược lại, Thái Lan ở vị trí số 1 và Singapore ở vị trí số 2 là hai
đối tác lớn nhất cung cấp hàng hoá cho Việt Nam với tỷ trọng khoảng 56,5%
tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ AEC năm 2016.
Hình 3.10. Thương mại giữa Việt Nam với các nước ASEAN 2006 & 2016
3.5. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
CỦA NHỮNG HẠN CHẾ KHI THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ
HÀNG HOÁ VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI TRONG
AEC CỦA VIỆT NAM.
3.5.1.Những kết quả đạt được.
Thứ nhất, đã xây dựng và ban hành kịp thời các quy định pháp luật có
liên quan đến lĩnh vực xuất xứ hàng hoá, trong đó có các quy định liên quan
đến thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong ASEAN. Điều đó đã tạo điều
kiện cho doanh nghiệp hưởng lợi từ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và
phục vụ cho công tác điều hành, quản lý hoạt động xuất nhập khẩu liên quan
138
đến lĩnh vực xuất xứ hàng hóa. Cụ thể từ năm 2006 đến nay, Chính phủ và
các Bộ, ngành đã ban hành 34 văn bản pháp lý về xuất xứ hàng hóa15, trong
đó có Nghị định số 19/2006/NĐ-CP ngày 20/2/2006 của Chính phủ quy định
chi tiết Luật Thương mại về xuất xứ hàng hóa và các thông tư, quyết định
hướng dẫn thực hiện quy tắc xuất xứ. Đối với quy định về xuất xứ ASEAN,
bên cạnh chịu áp dụng các quy định chung về xuất xứ trong luật thương mại,
luật hải quan, luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu và các văn bản hướng dẫn các
luật này thì Bộ công thương đã ban hành một loạt các thông tư quy định cụ
thể về quy tắc xuất xứ hàng hoá áp dụng trong ASEAN. Trong đó, để thực
hiện việc gia nhập AEC thì hiện nay Bộ công thương đã hoàn thiện ban hành
hai văn bản áp dụng quy định về xuất xứ đối với những hàng hoá có xuất xứ
ASEAN đó là: Thông tư 22/2016/TT-BCT ban hành ngày 03/10/2016 (thay
thế cho thông tư 21/2010/TT-BTC ban hành 17/05/2010 và thông tư
42/2014/TT-BTC ban hành 18/11/2014) để thực hiện Quy tắc xuất xứ hàng
hóa trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN; và thông tư 28/2015/TT-
BCT ban hành ngày 20/08/2015 quy định việc thực hiện thí điểm tự chứng
nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN. Ngoài
ra, các bên liên quan cũng đã cho xuất bản những tài liệu cung cấp đầy đủ
thông tin về các quy tắc, thủ tục kiểm tra, mẫu kê khai. v. v. để các doanh
nghiệp có thể tiếp cận và thư ̣c hiện nhanh chóng. Bên cạnh đó, để phục vụ do
công tác quản lý, kiểm tra, xác định, xác minh và xử lý các vi phạm về xuất
xứ hàng hoá thì chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan cũng đã ban
hành các văn bản pháp lý về xác định, kiểm tra, xác minh và chống gian lận
xuất xứ làm cơ sở cho việc thực thi pháp luật về xuất xứ hàng hoá cho cơ
quan hải quan Việt Nam.
Thứ hai, xây dựng và triển khai hoạt động hệ thống quản lý và cấp
15 Thống kê tại http://www.ecosys.gov.vn/
139
chứng nhận xuất xứ điện tử. Hệ thống được cung cấp tại địa chỉ website:
www.ecosys.gov.vn từ ngày 14 tháng 05 năm 2015. Chính nhờ vậy mà đã góp
phần giảm thiểu thủ tục hành chính, chi phí và minh bạch hóa quá trình cấp
giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), từ đó làm tăng cơ hội và cạnh tranh cho các
doanh nghiệp Việt Nam khi xin C/O cho hàng xuất khẩu sang các nước
ASEAN. Đồng thời với hệ thống Ecosys, Bộ công thương cũng đã xây dựng
mạng lưới gồm 86 tổ chức được phép cấp C/O mẫu D tại Việt Nam là các
phòng quản lý XNK khu vực, ban quản lý các khu công nghiệp, khu kinh tế,
khu chế xuất tạo điều kiện thuận lợi tối đa có các doanh nghiệp trong việc xin
cấp C/O. Thêm vào đó, từ tháng 9/2015, cơ chế một cửa quốc gia của Việt
Nam đã kết nối kỹ thuật thành công với 4 nước ASEAN (Indonesia, Malaysia,
Thái Lan và Singapore) để trao đổi giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D cho hàng
hoá xuất khẩu có xuất xứ ASEAN. Theo đó C/O mẫu D ATIGA điện tử được
cấp và truyền theo phương thức điện tử giữa các nước thành viên thông qua
Cơ chế một cửa ASEAN theo các quy định về an toàn và bảo mật thông tin
nêu tại Điều 9 của Nghị định thư về Khung pháp lý thực hiện Cơ chế một cửa
ASEAN (PLF).
Thứ ba, doanh nghiệp Việt Nam đã có sự quan tâm và chủ động tích cực
trong việc tı̀m hiểu thông tin về AEC, những cam kết thuế quan và quy tắc xuất xứ. Từ đó tận dụng được những lợi ích của thuế quan ưu đãi để tăng
cường tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Cùng với đó các
hiệp hội ngành hàng chủ động và tích cư ̣c trong việc phổ biến thông tin tớ i
các doanh nghiệp thuộc hiệp hội. Đồng thời, các hiệp hội cũng rất nỗ lư ̣c hỗ
trơ ̣ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về quy tắc xuất xứ C/O. Nhờ đó, kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sử dụng mẫu C/O D ưu đãi đều tăng
qua các năm thể hiện qua bảng thống kê 3.5 về tình hình sử dụng C/O ưu đãi
tới thị trường ASEAN so với tổng kim nghạch xuất khẩu của cả nước trong
140
giai đoạn từ 2006-2016.
Bảng 3.5 . Tình hình sử dụng C/O mẫu D đối với hàng hoá xuất khẩu
sang ASEAN giai đoạn 2006-2016
Kim ngạch sử
Tỷ lệ kim ngạch sử dụng
Kim ngạch xuất
Năm
dụng C/O16
C/O trên tổng kim ngạch
khẩu (Triệu USD)
XK (%)
(Triệu USD)
450,2
7,10
2006
6.300
733,49
9,41
2007
7.790
901,6
10,49
2009
8.591,87
1.453
14,04
2010
10.350,95
2.712
19,97
2011
13.583,28
3.757
21,70
2012
17.312,11
5.362
29,03
2013
18.470,19
4.772,547
25,2
2014
19.090,19
4.430
24,2
2015
18.300
5.320,7
30
2016
17.473
(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Bộ công thương & Tổng cục thống kê 2017)
Qua số liệu thống kê tại bảng 3.5 cho thấy, tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi mẫu
D của các doanh nghiệp ở Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá sang ASEAN có
sự tăng lên qua các năm từ mức chỉ có khoảng 7,1% (năm 2006) kim ngạch
xuất khẩu sang ASEAN sử dụng C/O mẫu D đã tăng lên mức 29,03% (năm
2013) và 25,2% (năm 2014). Năm 2016, tỷ lệ tận dụng ưu đãi C/O mẫu D là
30%. Một số nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều đạt tỷ lệ tận
dụng cao, như chè (99%); gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép đều đạt tỷ lệ trên dưới
16 Bộ công thương (2014), Báo cáo xuất nhập khẩu việt nam 2013. Trang 107
17 Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2016, trang 158
80%.17
141
Thứ tư, công tác quản lý và kiểm tra việc sử dụng C/O mẫu D đối với
hàng hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN cũng đã được quan tâm và chú
trọng. Những kết quả đạt được trong công tác quản lý và kiểm tra đã góp
phần vào việc đảm bảo sử dụng C/O theo đúng quy định, ngăn chặn, phát hiện
và xử lý các hành vi gian lận xuất xứ hàng hoá, gây thiện hại cho cộng đồng
doanh nghiệp và nhà nước. Điển hình là các vụ như: 43 lô hàng thép của 16
doanh nghiệp Việt Nam sử dụng C/O mẫu D với tỷ lệ RVC gian lận là 46,9%
từ phía Philippines bị hải quan thành phố Hồ Chí Minh phát hiện và từ chối
cho hưởng thuế quan ưu đãi CEPT năm 2007 hay vụ phát hiện 23 lô hàng sản
phẩm điện tử, điện lạnh nhập khẩu trị giá 730.000 USD có C/O mẫu D gian
lận RVC là 100% giá trị sản phẩm xuất xứ từ Thái Lan. Công tác phối hợp
giữa hải quan Việt Nam với hải quan các nước và các tổ chức chứng nhận
xuất xứ đã được thiết lập giúp cho việc xác minh xuất xứ hàng hoá được
thuận lợi hơn.
Ngoài ra, trong thời gian gần đây, nhất là khi Việt Nam chính thức gia
nhập AEC thì công tác tuyên truyền, phổ biến về nội dung của các thoả thuận
trong AEC và các cơ hội, thách thức, lơ ̣i ích mà AEC mang lại cho doanh
nghiệp, cho hàng xuất khẩu... tớ i cộng đồng doanh nghiệp thông qua các cuộc
hội thảo đã đươ ̣c tổ chức khắp các vùng miền trong cả nướ c. Các chuyên gia
đến từ Bộ Công Thương, Bộ Tài chính đã cung cấp cho doanh nghiệp thông
tin về những ưu đãi thuế quan mà hàng xuất, nhập khẩu đươ ̣c hưở ng. Các
chương trình phổ biến kiến thức, khoá đào tạo về quy tắc xuất xứ hàng hoá
cho doanh nghiệp được Bộ công thương phối hợp với Phòng Thương mại và
Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và sở công thương các tỉnh thành phố được tổ
chức một cách bài bản và thường xuyên hơn. Điều này đã giúp các doanh
nghiệp nâng cao nhận thức và khả năng tận dụng những ưu đãi qua việc áp
dụng các quy định về xuất xứ hàng hoá trong trao đổi thương mại với các
142
doanh nghiệp của các nước thành viên AEC. Quan hệ đối tác Hải quan –
Doanh nghiệp được đẩy mạnh góp phần cải cách thủ tục hành chính, kịp thời
giải quyết những vướng mắc phát sinh, tạo thuận lợi nhiều hơn cho các doanh
nghiệp trong quá trình sử dụng C/O đối với hàng hoá xuất nhập khẩu.
3.5.2. Những hạn chế và nguyên nhân.
3.5.2.1. Những hạn chế.
Thứ nhất, mức độ sử dụng C/O ưu đãi mẫu D của các doanh nghiệp ở
Việt Nam vẫn còn chiếm một tỷ lệ rất thấp. Theo số liệu thống kê tại bảng 3.5
cho thấy cao nhất mới đạt 30% năm 2016. Tỷ lệ này thấp hơn mức bình quân
sử dụng C/O mẫu D của các nước ASEAN là 51,5%18. Như vậy có nghĩa là,
hơn 70% hàng từ Việt Nam xuất khẩu sang các nước trong khu vực ASEAN
không sử dụng các ưu đãi nguồn gốc xuất xứ theo quy định. Đây có thể được
xem là một hạn chế rất lớn của các doanh nghiệp Việt Nam khi không tận
dụng được những lợi ích do AEC đem lại, nhất là việc được hưởng thuế quan
ưu đãi đặc biệt ở mức 0% khi đáp ứng xuất xứ hàng hoá để gia tăng sức cạnh
tranh và xuất khẩu hàng hoá vào thị trường các nước ASEAN. Trong khi ở
chiều ngược lại, các nước ASEAN, đặc biệt là các đối tác chủ yếu trong
ASEAN xuất khẩu hàng sang Việt Nam là Thái lan, Singapore, Malaysia và
Indonesia thì tỷ lệ các doanh nghiệp tận dụng lợi thế khi được hưởng xuất xứ
ASEAN để xuất khẩu rất cao. Thí dụ như theo điều tra khảo sát của Suksri, P.,
S. Sermcheep and P. Srisangnam (2015)19 thì các doanh nghiệp Thái lan sử
dụng C/O mẫu D chiếm tỷ lệ 72% hàng hoá xuất khẩu hàng hoá sang Việt
Nam, Malaysia, Indonesia. Chính bởi vậy, các hàng hoá nhập khẩu vào Việt
18 The Use of FTA in ASEAN, ERIA study, forthcoming, 2015 19 Suksri, P., S. Sermcheep and P. Srisangnam (2015), ‘Survey on the Use of Free Trade Agreements in Thailand’, in Ing, L.Y. and S. Urata (eds.), The Use of FTAs in ASEAN: Survey-based Analysis. ERIA Research Project Report 2013-5, Jakarta: ERIA, pp.243-270
Nam từ các nước thành viên ASEAN khi mức độ cắt giảm thuế càng sâu thì
143
khả năng tận dụng những ưu đãi về xuất xứ hàng hoá để thâm nhập vào thị
trường trong nước, tăng sức ép cạnh tranh ngày càng lớn. Số liệu phân tích tại
hình 3.4 cũng đã chứng minh điều này khi trong 10 năm qua, cán cân thương
mại của Việt Nam luôn ở tình trạng nhập siêu và với mức độ ngày càng tăng
theo tiến trình cắt giảm thuế quan.
Thứ hai, hoạt động cung cấp thông tin về các quy định liên quan đến
xuất xứ hàng hoá nói chung trong đó có xuất xứ hàng hoá của AEC còn rất
hạn chế. Mặc dù các quy định về xuất xứ hàng hoá của ASEAN đã được nội
luật hoá tuy nhiên các quy trình, văn bản hướng dẫn áp dụng quy định xuất xứ
còn phức tạp, các quy định về thủ tục còn chưa tạo thuận lợi tốt nhất cho
người thực hiện. Cơ chế đối thoại, hỗ trợ chưa được xây dựng hoặc đã được
xây dựng nhưng chưa thường xuyên liên tục để giải quyết kịp thời những
vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình áp dụng, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa trong việc tuân thủ các yêu cầu xuất xứ. Do vậy, trong
nhiều trường hợp các doanh nghiệp còn gặp khó khăn, nhầm lẫn khi áp dụng
các quy định xuất xứ của ATIGA với các quy định xuất xứ khác đang triển
khai đồng thời ở Việt Nam.
Thứ ba, chưa xây dựng được một hệ thống các quy định pháp luật và
khung chính sách thương mại đồng bộ và toàn diện tương thích với những
quy định về xuất xứ hàng hoá. Thể hiện qua việc chưa có sự kết hợp và
giao thoa giữa các các quy định pháp luật và chính sách ngoại thương, chính
sách đầu tư, chính sách cạnh tranh, chính sách điều tiết thị trường và các
chính sách liên quan khác với các quy định về xuất xứ hàng hoá. Bởi vậy, các
hàng hoá sản xuất trong nước của Việt Nam chưa có sự bảo vệ, dễ bị tổn
thương bởi sự cạnh tranh của hàng hoá từ các nước ASEAN khi hàng rào về
thuế quan được dỡ bỏ theo lộ trình. Bên cạnh đó là thiếu chiến lược và các
giải pháp phát triển nền sản xuất hàng hoá đảm bảo đáp ứng được các quy
144
định về tiêu chí xuất xứ hàng hoá ASEAN. Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư,
tái cơ cấu sản xuất của các doanh nghiệp để đáp ứng các tiêu chí giấy chứng
nhận xuất xứ còn rất chậm, chưa đáp ứng đươ ̣c yêu cầu.
Thứ tư, hệ thống thủ tục hành chính của Việt Nam liên quan đến công
tác cấp xuất xứ hàng hoá xuất khẩu có C/O mẫu D còn chưa kịp thời và nhiều
bất cập. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn sử dụng C/O. Cụ
thể là việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp lý triển khai áp dụng
thường chậm, như đến 2006 thì mới có các quy định về quy chế cấp giấy
chứng nhận xuất xứ hàng hoá mẫu D (trong khi gia nhập triển khai hiệp định
CEPT/AFTA từ 1996), cơ chế tự chứng nhận xuất xứ được nhiều nước trên thế
giới trong đó có các nước ASEAN áp dụng từ lâu nhưng tận cuối năm 2015
Việt Nam mới có văn bản quy định cụ thể hướng dẫn áp dụng, v.v. Bên cạnh
đó, các quy định về thủ tục hành chính và yêu cầu về chứng từ chứng minh
liên quan đến hình thức xin cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá còn phức tạp,
nhiều giấy tờ, thời gian xin cấp C/O còn lâu. Điều này khiến cho nhiều doanh
nghiệp gặp khó khăn trong việc đáp ứng các thủ tục hành chính liên quan đến
xin cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam. Đối với hình
thức tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá, quy định về thừa nhận, công nhận hình
thức tự chứng nhận của hàng hoá nhập khẩu của các nước ASEAN và sử dụng
các tiêu chí xuất xứ của hình thức tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá tương
thích với hình thức xin chứng nhận xuất xứ hàng hoá hiện nay vẫn chưa có
những quy định cụ thể để doanh nghiệp áp dụng. Quy định về tiêu chuẩn để
tham gia dự án tự chứng nhận xuất xứ ASEAN của Việt Nam theo thông tư
28/2015/TT-BCT đòi hỏi doanh nghiệp phải có kim ngạch xuất khẩu đi thị
trường ASEAN được cấp C/O mẫu D năm trước liền kề đạt tối thiểu 10 triệu
đô la Mỹ. Đây được xem là một trong những tiêu chí thách thức và là rào cản
lớn với nhiều doanh nghiệp sản xuất trong nước hiện nay. Điều này xuất phát
145
từ thực tế là phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ
nên mức kim ngạch xuất khẩu đặt ra như vậy là cao. Đối với những doanh
nghiệp khác thì kim ngạch xuất khẩu của họ có thể cao hơn 10 triệu đô la
Mỹ/năm ở các thị trường khác trên thế giới, nhưng sẽ rất khó đạt được nếu chỉ
khoanh vùng ở khu vực ASEAN, vốn không phải là thị trường xuất khẩu
chính lâu nay của doanh nghiệp Việt Nam. Thêm vào đó là tình trạng bị xử
phạt về chấp hành pháp luật nhất là thuế, hải quan, XNK cũng diễn ra khá phổ
biến vì cả những lý do khách quan và chủ quan khi hệ thống pháp luật của
Việt Nam chưa được minh bạch hoá và hay có sự thay đổi liên tục khiến cho
việc tuân thủ gặp nhiều khó khăn. Do vậy, hai tiêu chí này đang khiến cho
các doanh nghiệp và các cơ quan thẩm tra, cấp phép gặp nhiều khó khăn khi
thực hiện. Chính vì vậy mà hiện ở Việt Nam mới chỉ có 2 doanh nghiệp được
tham gia thí điểm tự chứng nhận xuất xứ trong khi các nước khác trong khu
vực như Thái Lan, Lào có số doanh nghiệp tham gia lớn hơn nhiều.
Thứ năm, những hạn chế trong việc thực hiện cấp C/O của các cơ quan
có thẩm quyền. Trên thực tế việc cấp C/O mẫu D của các cơ quan được phép ở
Việt Nam chủ yếu dựa trên các chứng từ hàng hoá, các giải trình mà doanh
nghiệp xin cấp C/O cung cấp, còn rất hạn chế tiến hành kiểm tra nguồn gốc
xuất xứ của sản phẩm. Việc phụ thuộc hoàn toàn vào sự chính xác, trung thực
trong khai báo và các chứng từ do doanh nghiệp cung cấp dẫn đến sự bị động
của các cơ quan có thẩm quyền cấp C/O. Từ đó, dẫn đến việc không thể đảm
bảo được mức độ chính xác về xuất xứ hàng hoá theo quy định nếu trường hợp
doanh nghiệp cố tình gian lận khi khai báo xin cấp C/O. Bên cạnh đó, mạng
lưới các điểm cấp C/O với việc phân cấp cấp C/O mẫu D bố trí chưa hợp lý
nên các doanh nghiệp tại các tỉnh/thành phố không có điểm cấp C/O gặp nhiều
khó khăn và phải tốn kém nhiều thời gian và chi phí để có được C/O.
Thứ sáu, việc kiểm soát, kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý vi phạm
146
bằng luật pháp từ phía các cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện
các quy định về xuất xứ hàng hoá còn chưa được chú trọng đúng mức và theo
kịp với thực tiễn. Việc thu thập thông tin về dấu hiệu vi phạm xuất xứ hàng hoá của cơ quan hải quan còn nhiều hạn chế và chủ yếu là do kiểm tra trực tiếp C/O
mà không phải từ công tác rà soát, tra cứu phát hiện trên hệ thống cơ sở dữ liệu
điện tử của Ngành hoặc các nguồn thông tin khác (như thông tin tố giác của các
tổ chức, cá nhân; thông tin từ các Hiệp hội ngành nghề,...). Việc kiểm tra xuất
xứ đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện bởi cơ quan hải quan
nhưng lại chưa có một quy trình, cách thức hướng dẫn một cách đầy đủ về xác
định, kiểm tra xuất xứ hàng hoá trong hệ thống quy định pháp luật. Thêm vào
đó, việc kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hoá đặc biệt là tại nước cấp C/O, tại
nơi sản xuất là rất phức tạp, đòi hỏi phải tập trung nguồn lực và kinh phí,
thường kéo dài gây khó khăn cho doanh nghiệp nên gặp khó khăn khi muốn
triển khai. Trên thực tế, việc cơ quan hải quan Việt Nam cử công chức sang
nước xuất khẩu đề nghị thẩm tra xuất xứ hàng hoá hầu như không được sử
dụng vì cơ chế tài chính, quy định đi nước ngoài chưa rõ ràng, mặt khác công
chức bị hạn chế bởi nghiệp vụ, bởi ngoại ngữ và sự không hợp tác của doanh
nghiệp xuất khẩu. Biện pháp chủ yếu là cơ quan Hải quan Việt Nam đề nghị cơ
quan thẩm quyền bên nước ASEAN xuất khẩu thẩm tra thông tin xuất xứ hàng
hoá khi có nghi ngờ. Tuy nhiên, biện pháp này chưa đem lại hiệu quả cao do
công tác phối hợp giữa các các nước chưa chặt chẽ, còn chậm trễ và bị hạn chế
bởi rào cản ngôn ngữ, thủ tục hành chính của các quốc gia. Ngoài ra, sự không
thống nhất trong việc kiểm tra, chấp nhận chứng từ chứng minh xuất xứ, cũng
như những lỗi trên C/O cũng làm cản trở việc sử dụng C/O đối với doanh
nghiệp. Việc kiểm tra xuất xứ mới chủ yếu là kiểm tra C/O đối với hàng nhập
khẩu và phát hiện ra các lỗi về hình thức và nội dung của giấy chứng nhận xuất
xứ mà chưa thực hiện được việc kiểm tra xem lô hàng có đáp ứng tiêu chuẩn
147
xuất xứ theo Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA) quy định. Việc
kiểm tra đối với hàng hóa xuất khẩu có đủ điều kiện tiêu chí về hàm lượng xuất
xứ để được cấp chứng nhận xuất xứ Việt Nam gần như chưa được để ý. Chỉ có
01 vụ kiểm tra do Hải quan Đồng Nai thực hiện trong năm 2013 nhưng lại là
xuất khẩu đi Mỹ chứ chưa phát hiện sang thị trường AEC. Bên cạnh đó, mức
độ xử phạt về các hành vi gian lận xuất xứ hàng hoá hiện nay vẫn còn thấp nên
hiện tượng gian lận về xuất xứ vẫn xảy ra gây thiệt hại cho các doanh nghiệp
trong nước và thất thu cho ngân sách nhà nước.
3.5.2.2.Nguyên nhân của những hạn chế.
Qua những phân tích ở trên cho thấy, thực tế sử dụng xuất xứ hàng hoá
để hưởng ưu đãi thuế quan của các doanh nghiệp ở Việt Nam còn hạn chế
nhiều so với các nước ASEAN. Điều này có thể xuất phát từ một số nguyên
nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, mức độ hưởng lợi từ việc sử dụng C/O so với chi phí bỏ ra
thấp. Để có được C/O nộp cho hải quan nước nhập khẩu, nhà sản xuất hay
nhà xuất khẩu phải đảm bảo hàng hóa của họ đáp ứng các quy tắc xuất xứ
phức tạp, cùng với đó là phải chuẩn bị sẵn, lưu giữ các chứng từ liên quan và
xuất trình kèm theo đơn đề nghị được cấp chứng nhận xuất xứ với cơ quan
cấp C/O ở nước xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp, nhà xuất khẩu sau khi
phải thực hiện nhiều việc để có được C/O phù hợp yêu cầu lại không được
hưởng khoản tiền tiết kiệm được từ thuế nhập khẩu, mà người hưởng lợi lại là
nhà nhập khẩu. Nếu nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu có quan hệ sâu, điều này
không phải vấn đề. Nhưng nếu giữa bên xuất khẩu và bên nhập khẩu không
có mối quan hệ lâu dài, điều này có thể trở thành chuyện khó xử lý do người
bán hàng trên thực tế phải làm mọi việc nhưng lại không có lợi gì. Tuy lợi ích
của người xuất khẩu là bán được hàng, nhưng nếu đơn hàng quy mô nhỏ thì
không đủ thuyết phục để họ cất công và chịu chi phí thực hiện các công đoạn
148
xin C/O phức tạp phù hợp với yêu cầu của hiệp định ATIGA. Thực tế tại Việt
Nam cho thấy, chi phí, thủ tục hành chính để xin cấp C/O còn phức tạp, mất
thời gian nên chưa khuyến khích được doanh nghiệp tham gia.
Thứ hai, những rắc rối liên quan đến việc sử dụng C/O trong việc hưởng
thuế quan ưu đãi còn nhiều. Nhà nhập khẩu tuy tiết kiệm được thuế khi được
áp dụng các mức thuế thấp hoặc bằng không nhưng cũng phải chấp nhận một
số rủi ro. Đó là những sai sót, lỗi gặp phải liên quan đến sử dụng C/O như lỗi
chính tả, lỗi chữ ký người cấp, ngày tháng trên C/O, lỗi các thông tin liên quan
đến hàng hoá như số lượng, trị giá, đơn vị tính, mã HS (do cách hiểu khác nhau
giữa cơ quan cấp C/O và hải quan nước nhập khẩu), lỗi về các chứng từ có liên
quan đến hàng hoá, .v .v. Những lỗi này có thể làm chậm trễ việc doanh nghiệp
được nhận ưu đãi thuế quan hay thậm chí tệ hại hơn là rủi ro mất quyền được
hưởng ưu đãi, bị truy thu thuế, bị áp dụng các khoản phạt, .v. v.
Thứ ba, các doanh nghiệp ở Việt Nam thiếu các thông tin và kiến thức
hiểu biết về xuất xứ hàng hoá áp dụng trong AEC. Chiếm phần lớn trong số các
doanh nghiệp ở Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nền tảng phát
triển thấp, đội ngũ nhân lực có am hiểu về xuất xứ hàng hoá và xuất nhập khẩu
còn nhiều hạn chế và chưa được có sự hỗ trợ một cách đầy đủ, thường xuyên
về đào tạo, cung cấp các thông tin từ các cơ quan chuyên trách của nhà nước.
Các quy định về xuất xứ hàng hoá trong hiệp định ATIGA về cơ bản phức tạp
và không dễ áp dụng nếu nhà sản xuất, xuất khẩu không có kiến thức về mã
HS, xuất xứ hàng hóa và không được đào tạo, hướng dẫn cụ thể để áp dụng
đúng. Trong đó, phức tạp nhất là các quy tắc cụ thể mặt hàng (PSR) được chi
tiết cho từng mã HS trong từng ngành hàng và gắn với trình độ, công nghệ sản
xuất sản phẩm hàng hoá. Bởi vậy, nhiều doanh nghiệp vừ a và nhỏ của Việt Nam không nắm đươ ̣c những cam kết, ưu đãi, lộ trı̀nh xóa bỏ thuế quan được thực hiện một thời gian trước khi AEC ra đời. Một số nhà sản xuất, nhà xuất
149
khẩu còn không nắm đươ ̣c các tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa (CTC), công
đoạn gia công chế biến cụ thể (SP) mà chỉ biết tiêu chí hàm lươ ̣ng giá trị gia
tăng truyền thố ng (RVC). Tính đến thời điểm này, Việt Nam có một số trang
web cung cấp thông tin về AEC như: trang web của Bộ Công Thương, của Ủy
Ban Quố c gia về Hơ ̣p tác kinh tế quố c tế, của VCCI . Trong đó nổi bật là trang
web hội nhập của VCCI (http://www.aecvcci.vn/) đăng tải nhiều thông tin về
AEC. Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp và bài bản khi so
sánh vớ i trang web của các nước Singapore, Malaysia, Thái lan. So vớ i trang
web của Singapore, trang web hội nhập của VCCI còn thiếu những thông tin
sau: phân tích lơ ̣i ích của các quy định trong AEC, các chuyên gia tư vấn tận
dụng ưu đãi (địa chỉ, số điện thoại, cơ quan công tác…), các đường link tớ i các
cơ quan chức năng liên quan đến thực thi AEC, thường xuyên cập nhật thông
tin mớ i về AEC. Trang web của VCCI cập nhật thông tin mớ i về AEC vẫn còn
chậm. Chính vì vậy, theo công bố ngày 28-12-2015 của Trường Doanh nhân
PACE và Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục về kết quả Dự án nghiên cứu
khảo sát “Nhận thức hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam” cho
thấy tỉ lệ phần trăm doanh nghiệp chưa biết đến và hầu như không quan tâm tới
AEC (56,8%) và có tới 85,5% doanh nghiệp được khảo sát không nắm được
những điều khoản cụ thể của AEC. Sự thiếu thông tin, yếu kém về kiến thức về
xuất xứ hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam còn thể hiện qua việc nhiều
doanh nghiệp không có sự chuẩn bị đầy đủ về các chứng từ dùng để chứng
minh nguồn gốc hàng hoá khi hệ thống kế toán của doanh nghiệp không có sự
hạch toán, lưu trữ. Bên cạnh đó, nhiều trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam
uỷ thác toàn bộ cho các công ty vận tải và giao nhận, đại lý hải quan, các công
ty thuê tàu làm thủ tục xin cấp C/O cho hàng hoá xuất khẩu. Điều này mặc dù
có thuận lợi là các công ty này có đội ngũ nhân viên có kiến thức, trình độ và
am hiểu làm thủ tục hồ sơ nhanh chóng. Tuy nhiên sẽ là bất lợi đối với trường
150
hợp hàng hoá phức tạp, cần giải trình cặn kẽ nguồn gốc của từng thành phần,
nguyên liệu cấu thành sản phẩm thì các công ty uỷ thác dịch vụ do không trực
tiếp thu mua, sản xuất hay chế biến sản phẩm nên không thể hiểu rõ để có thể
giải trình được trước những yêu cầu của cơ quan cấp C/O. Từ đó dẫn đến việc
tăng chi phí, mất nhiều thời gian và có thể khiến nhiều doanh nghiệp bỏ lỡ
những cơ hội kinh doanh có lợi cho chính họ. Thêm vào đó, do các doanh
nghiệp Việt Nam, kể cả các doanh nghiệp trực tiếp hoạt động thương mại
và/hoặc sử dụng đầu vào từ nhập khẩu, còn nhận thức chưa đầy đủ về tận dụng
ưu đãi trong khuôn khổ ASEAN nên chỉ lưu tâm đến ưu đãi thuế nhập khẩu
nếu mức ưu đãi là đủ lớn. Trong khi đó, rất ít doanh nghiệp quan tâm đến việc
đòi hỏi chứng nhận xuất xứ cho hàng nhập khẩu (kể cả khi thuế nhập khẩu ưu
đãi trong ASEAN không khác so với thuế nhập khẩu tối huệ quốc). Vì vậy, khi
xuất khẩu sang một nước ASEAN khác, ít doanh nghiệp đáp ứng được quy tắc
xuất xứ gộp và không được hưởng thuế suất ưu đãi. Đây cũng chính là một
nguyên nhân khiến hàm lượng ASEAN trong xuất khẩu của Việt Nam chậm
được cải thiện. Ở chiều ngược lại, vấn đề này sẽ hạn chế khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp Việt Nam khi chào hàng xuất khẩu vào các nước ASEAN.
Thứ tư, trình độ và mức độ sản xuất hàng hoá của các doanh nghiệp ở
Việt Nam vẫn còn thấp. Có thể thấy qua cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam vẫn tập trung chủ yếu vào các sản phẩm thô, mặt hàng nông sản, thuỷ
sản, khoáng sản, các mặt hàng công nghiệp sử dụng nhiều lao động, các mặt
hàng nguyên nhiên vật liệu, …như dệt may, da giày. Thêm vào đó, cơ cấu
ngành hàng xuất khẩu của nước ta có nhiều điểm tương đồng với các nước
ASEAN, trong khi sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu nước ta còn hạn
chế so với các nước trong khu vực. Một số mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, giá
trị xuất khẩu lớn nhưng giá trị gia tăng thấp, chủ yếu vẫn nằm trong nhóm
hàng gia công như dệt may, giầy dép, máy vi tính… mới chỉ dừng ở giai đoạn
151
gia công, lắp ráp nên hàm lươ ̣ng gia công, chế biến thấp. Đối với những mặt
hàng này quy định về xuất xứ chủ yếu là xuất xứ thuần túy (WO) hoặc giá trị
RVC với mức độ tham gia của Việt Nam không cao, chưa đạt mức 40% hàm
lượng giá trị khu vực do chủ yếu sử dụng nguyên vật liệu nhập khẩu từ các
nước ngoài ASEAN hoặc mức độ gia công chuyển đổi CTC không đạt quy
định theo yêu cầu của tiêu chí xuất xứ nên khó tận dụng hết những ưu đãi về
xuất xứ trong ASEAN. Cùng với đó, hệ thống cơ sở thông tin, dữ liệu về hệ
thống sổ sách, hóa đơn, chứng từ kế toán, báo cáo tài chính, quản lý nguồn
nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp Việt Nam còn chưa được quan tâm
đúng mức, chưa rõ ràng, minh bạch. Đặc biệt nguồn nguyên liệu đầu vào liên
quan nhiều đến ngưồn nguyên liệu của Trung Quốc. Ngoài ra, do ngành công
nghiệp hỗ trơ ̣ của Việt Nam kém phát triển, chưa đáp ứng đươ ̣c nguồn nguyên
liệu, phụ liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu nên một số nhóm hàng
xuất khẩu chủ lư ̣c của nướ c ta như dệt may, da giày vẫn phụ thuộc chủ yếu
vào nguyên phụ liệu nhập khẩu từ Trung Quố c, Hàn Quố c, Đài Loan nên
không đáp ứng đươ ̣c quy tắc xuất xứ. Trong khi đó các đối tác trong ASEAN
(nhất là các nước có trình độ phát triển công nghiệp cao như Singapore, Thái
Lan, Malaysia và Indonesia) lại tận dụng rất tốt các ưu đãi liên quan đến xuất
xứ và thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào Việt Nam tạo ra sự
thâm hụt thương mại ngày càng lớn cùng với tiến trình cắt giảm thuế quan.
Điều đó có được là nhờ các nước này có trình độ sản xuất và cạnh tranh tốt
hơn rất nhiều so với Việt Nam. Thể hiện qua báo cáo năng lực cạnh tranh toàn
cầu 2015-2016 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), chỉ số năng lực cạnh
tranh toàn cầu của Việt Nam chỉ xếp thứ 56/140 nền kinh tế, so với các nước
20 Singapore (xếp hạng 2/140), Malaysia (18/140), Thái Lan (32/140), Indonesia (37/140) và Philippines (47/140).
ASEAN-6 thì Việt Nam đều đứng sau rất xa20. Trong đó, đặc biệt là các chỉ số
152
thể hiện liên quan đến mức độ giá trị sản xuất tạo ra ở Việt Nam có tác động
rất lớn đến tiêu chí về xuất xứ hàng hoá, như mức độ tham gia vào chuỗi giá
trị sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ xếp thứ 109/14021, sự tham
gia vào quá trình sản xuất ở mức độ cao đứng thứ 101/14022. Chính vì vậy,
cùng với tiến trình cắt giảm thuế quan thì hàng hoá từ các quốc gia này đang
gây sức sép cạnh tranh rất lớn với hàng hóa sản xuất trong nước và trong một
mức độ nhất định đã có những tác động không tốt đến sự tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam bị động khi xảy ra những biến
động từ những thị trường nhập khẩu vừ a làm cho doanh nghiệp giảm sút năng lư ̣c cạnh tranh do không nâng cao năng lư ̣c của mı̀nh thông qua tận dụng ưu đãi đem lại từ quy tắc xuất xứ hàng hoá. Hiện tại, một số ngành sản xuất của
Việt Nam đang đứng trước nguy cơ phải thu hẹp sản xuất hoặc đóng cửa vì
không cạnh tranh được với hàng hoá của những nước này.
Thứ năm, nguồn nhân lực có chất lượng cao am hiểu về xuất xứ hàng
hoá và các kiến thức có liên quan trong các doanh nghiệp cũng như các cơ
quan quản lý nhà nước thiếu hụt. Thí dụ như công việc của các cán bộ làm
công tác cấp chứng nhận xuất xứ không chỉ đòi hỏi họ nắm vững nghiệp vụ,
kỹ thuật chuyên môn về C/O, về xuất nhập khẩu hàng hoá mà còn phải có sự
hiểu biết rộng về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, tình hình hoạt động của doanh
nghiệp, kiến thức về địa bàn, mùa vụ, đặc điểm, đặc tính của hàng hoá, quy
trình cách thức sản xuất, chế biến sản phẩm, .v .v . Đối với cán bộ làm công
tác kiểm tra C/O bên cạnh kiến thức về xuất xứ hàng hoá là các kiến thức về
kỹ thuật kiểm tra nhận biết chứng từ thật/giả, kiến thức về tài chính kế toán để
có thể thẩm tra chứng từ số sách kế toán của doanh nghiệp, . v.v. Thực tế
21 Malaysia là 11, Singapore là 12, Indonesia là 31, Thái Lan là 32 và Philippines là 39. 22 Malaysia là 22, Singapore là 14, Indonesia là 48, Thái Lan là 53 và Philippines là 50.
trong công tác cấp C/O ở Việt Nam thời gian qua cho thấy đội ngũ nhân viên
153
làm công tác cấp C/O nhất là đội ngũ nhân viên tại các Ban quản lý các khu
công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất chưa được đào tạo đầy đủ về quy tắc
xuất xứ, không được phân công chuyên trách về cấp C/O và không hiểu nhiều
về quá trình sản xuất các sản phẩm. Điều này gây ra những khó khăn, chậm
trễ, lãng phí về thời gian và chi phí trong việc giải quyết các vấn đề liên quan
đến cấp C/O mẫu D. Từ đó ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh hay thậm chí
khiến doanh nghiệp đánh mất những cơ hội kinh doanh với đối tác và khách
hàng vì sự chậm trễ chờ cấp C/O hay không có được C/O. Đối với doanh
nghiệp nguồn nhân lực hầu hết chưa được đào tạo một cách đầy đủ về xuất xứ
hàng hoá, khiến cho việc hiểu và vận dụng còn rất nhiều hạn chế. Thí dụ như
cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hoá đã được áp dụng từ lâu nhưng hiện
nay vẫn chưa có doanh nghiệp nào đề nghị xác định trước xuất xứ đối với
hàng hóa xuất nhập khẩu. Đây là thiệt thòi rất lớn cho hoạt động thương mại
của Việt Nam, bởi nếu hàng hóa được xác định trước mã số, giá trị và xuất xứ
sẽ giúp cho người khai hải quan chủ động xác định trước số thuế phải nộp khi
làm thủ tục thông quan, làm minh bạch hóa và thống nhất các thủ tục hải quan trên toàn quốc, ngăn chặn tiêu cực trong ngành hải quan.
Việc tồn tại những hạn chế trên còn xuất phát từ nguyên nhân là Việt
Nam chưa xây dựng và hoàn thiện một khung pháp lý làm nền tảng cho việc
triển khai và áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hóa của hiệp định ATIGA
trong AEC. Các quy định về xuất xứ hàng hoá trong hiệp định có nhiều điểm
phức tạp, không rõ ràng và khó hiểu khiến cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan
quản lý rất lúng túng trong việc triển khai áp dụng. Chưa có một văn bản pháp
lý đầy đủ quy định về cách thức xác định, kiểm tra và xử lý vi phạm xuất xứ
hàng hoá trong cơ quan hải quan làm cơ sở cho việc thực hiện công tác kiểm
tra xuất xứ đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Hướng dẫn kiểm tra và xử
lý lỗi C/O hiện nay của cơ quan hải quan mới chỉ mang tính chất vụ việc, xử
154
lý nhỏ lẻ với từng trường hợp cụ thể. Về việc KTSTQ xuất xứ hàng hoá, hiện
nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể mà được quy định tại nhiều văn bản
khác nhau. Các quy định này cũng chưa đầy đủ, rõ ràng về việc cách thức
kiểm tra và giải quyết các trường hợp vướng mắc về C/O. Mặt khác, quy định
về kiểm tra C/O còn có sự chưa thống nhất với các quy định về KTSTQ dẫn
đến gây khó khăn, vướng mắc cho cơ quan Hải quan trong việc thực hiện
KTSTQ, xử lý kết quả KTSTQ về xuất xứ, xử lý các vướng mắc về xuất xứ
hàng hoá. Vì vậy, có sự chưa thống nhất, đồng bộ trong việc kiểm tra, xử lý
kết quả kiểm tra về C/O. Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong
công tác quản lý và áp dụng xuất xứ hàng hóa còn chậm triển khai. Đội ngũ
cán bộ làm công tác liên quan đến việc triển khai áp dụng xuất xứ còn thiếu
và hạn chế về chuyên môn sâu. Sự hợp tác giữa cơ quan Hải quan và các
doanh nghiệp, các Hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng chưa chặt chẽ. Tất cả
những điều đó đã và đang khiến cho việc vận dụng và áp dụng các quy định
về xuất xứ hàng hóa trong AEC của Việt Nam chưa đem lại hiệu quả cao và
đôi khi còn gây khó khăn bất lợi cho hàng hóa của Việt Nam ngay tại thị
trường trong nước.
155
Kết luận chương 3
Trong chương 3, qua nghiên cứu và phân tích thực trạng thực hiện quy
tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong
cộng đồng kinh tế ASEAN, những vấn đề chính đã được phân tích và làm rõ
như sau:
1. Những điểm chính trong chiến lược phát triển của Cộng đồng kinh tế
ASEAN (AEC), hệ thống các quy định về xuất xứ hàng hoá và thuế quan ưu
đãi trong AEC đã được hình thành trên cơ sở kế thừa các quy định của hiệp
định CEPT và hiệp định ATIGA.
2. Thực trạng thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế
quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN được xem xét và
làm rõ trên các khía cạnh: xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện
quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN, áp dụng tiêu chí xuất xứ hàng hoá theo
biểu thuế quan ưu đãi đặc biệt của Việt Nam trong AEC, thực thi quy tắc xuất
xứ hàng hoá ASEAN trong áp dụng thuế quan ưu đãi của các cơ quan nhà
nước Việt Nam, thực thi quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN trong áp dụng
thuế quan ưu đãi của các doanh nghiệp.
3. Tác động của thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế
quan ưu đãi đặc biệt của Việt Nam trong AEC được đánh giá qua việc sử
dụng mô hình trọng lực để đánh giá các nhân tố tác động và số liệu phân tích
thống kê thực tiễn trong trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước
thành viên AEC từ 2006 đến 2016.
4. Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được trong việc thực hiện quy
tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong
cộng đồng kinh tế ASEAN trên các khía cạnh về xây dựng pháp luật, quản lý
và cấp chứng nhận xuất xứ, tình hình sử dụng C/O và công tác quản lý, kiểm
tra sử dụng C/O ở Việt Nam. Đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế về tỷ lệ sử
156
dụng C/O thấp của các doanh nghiệp Việt Nam, hệ thống quy định pháp luật
còn phức tạp và khung chính sách thương mại chưa đồng bộ, cũng như sự
thiếu hụt về nguồn nhân lực có chất lượng và công tác kiểm tra, kiểm soát
việc thực hiện các quy định về xuất xứ. Trên cơ sở đó, chỉ ra những nguyên
nhân chủ yếu của những hạn chế trên xuất phát cả về phía nhà nước và doanh
nghiệp. Tất cả những điều này đòi hỏi cần phải có những giải pháp một cách
toàn diện để khắc phục và đem lại hiệu quả cao trong việc áp dụng quy tắc
xuất xứ hàng hoá của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN.
157
Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT QUY TẮC XUẤT XỨ
HÀNG HÓA VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA VIỆT
NAM TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN
4.1. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI
TỰ DO VÀ CÁC QUY ĐỊNH XUẤT XỨ HÀNG HÓA TRÊN THẾ GIỚI
TÁC ĐỘNG TỚI VIỆT NAM.
4.1.1. Xu hướng phát triển của các hiệp định thương mại tự do tác động
tới Việt Nam.
Xu hướng ký kết các FTA trên thế giới thời gian qua đang phát triển rất
mạnh, đặc biệt là từ sau khi vòng đàm phán thương mại đa phương Uruguay
theo Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT) hầu như không
đạt được tiến triển gì đáng kể, các vòng đàm phán thương mại đa phương mới
theo WTO (Chương trình nghị sự Phát triển Doha) rơi vào bế tắc thì các nước
trên thế giới trong đó có khu vực ASEAN bắt đầu có xu hướng chuyển sang
tư ̣ tı̀m hướ ng giải quyết bằng cách đàm phán ký kết các hiệp định thương mại tư ̣ do (FTA) song phương và đa phương khu vực. Theo đó, các Hiệp định
FTA như là phương tiện hiệu quả, một cách thức mới nhằm thúc đẩy tự do
hóa thương mại trong mở cửa thị trường hơn là các cuộc đàm phán đa
phương. Cụ thể, tính đến tháng 6 năm 2017 theo thống kê của ban thư ký
WTO có tất cả tổng số 65923 thông báo về RTAs báo cáo lên GATT/WTO, số
hiệp định được ký kết là 445 hiệp định (trong đó có 279 hiện còn hiệu lực) và
trong số này chiếm khoảng 90% là dưới dạng FTA.
FTA hiện nay về bản chất, không chỉ đơn thuần là một phương pháp tự do
hóa thương mại ở mức bằng hoặc cao hơn WTO, mà đã trở thành một trong 23 Số liệu tại https://www.wto.org/english/tratop_e/region_e/regfac_e.htm
158
những công cụ ngoại giao gây ảnh hưởng theo xu hướng mới ngày càng phát
triển theo chiều sâu. Cùng với các mục tiêu truyền thống là dỡ bỏ các rào cản,
nhiều thỏa thuận thương mại đang hướng đến tự do hóa dịch vụ thương mại,
đầu tư nước ngoài cũng như đơn giản hoá các thủ tục giải quyết các tranh chấp
thương mại. Xu hướng hiện nay cũng xuất hiện những dạng thức mới của thỏa
thuận thương mại khu vực với phạm vi tự do hóa mang tính mở rộng và toàn
diện hơn khuôn khổ thương mại đa phương GATT/WTO như các Hiệp định
đối tác kinh tế (EPA) và khuôn khổ Đối tác kinh tế toàn diện (CEP). FTA Nhật
Bản – Singapore và EU là những ví dụ điển hình. FTA Nhật Bản – Singapore
không chỉ là thỏa thuận thương mại tự do về tự do hóa và đơn giản hóa trong
lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, thương mại, đầu tư nước ngoài mà còn là quy tắc
chung về dịch chuyển lao động, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, khoa học
và công nghệ, phát thanh truyền hình và du lịch. Chính vì vậy, AEC đã ra đời
như là một bước phát triển mới của sự liên kết kinh tế giữa các thành viên
ASEAN từ liên kết về thuế quan và thương mại trước đây. Từ đó giúp cho các
nước ASEAN củng cố và phát triển trên cả chiều rộng và chiều sâu trong hơ ̣p
tác kinh tế và thương mại quố c tế trong khu vực.
Tuy nhiên, cho dù các nước đến với FTA với những động cơ khác nhau
nhưng có thể tựu chung lại ở các điểm sau:
Thứ nhất, các nước ký FTA để duy trì và mở rộng xuất khẩu thông qua
những ưu đãi về thuế quan và thương mại. Trong đó, những ràng buộc quy
định về xuất xứ hàng hoá ngày càng chặt chẽ giữa các nước thành viên trở
thành một công cụ được sử dụng để đem lại lợi thế cạnh tranh cho các doanh
nghiệp của các nước thành viên trong việc tiếp cận thị trường, hưởng những
chênh lệch về thuế quan ưu đãi. Minh chứng cho điều này có thể thấy qua
việc: khi Mỹ, EU ký FTA với Mexico và hàng hóa được miễn thuế vào nước
này khi đáp ứng quy định về xuất xứ hàng hoá, trong khi Nhật chưa ký FTA
159
với Mexico đã khiến các công ty của Nhật không có lợi thế cạnh tranh so với
các công ty của Mỹ hay EU tại Mexico. Vì vậy, các công ty Nhật đã gây áp
lực khiến chính phủ phải đàm phán ký kết FTA với Mexico. Hiện nay, với sự
thất bại của vòng đàm phán Doha đang khiến các nước thành viên WTO quan
tâm nhiều hơn tới FTA. Tiếp cận thị trường là một động cơ quan trọng của
các nước Đông Á do các nước trong khu vực này vẫn duy trì nhiều rào cản
thương mại khắt khe.
Thứ hai, các nước sử dụng FTA như là một cách gây áp lực khiến các
ngành kinh tế trong nước phải tái cấu trúc nhằm đạt được tăng trưởng cao
hơn. Đặc biệt là những ngành sản xuất đòi hỏi phải đáp ứng những điều kiện
cao về tiêu chuẩn xuất xứ hàng hoá. Minh chứng cho điều này thể hiện qua
việc Hàn Quốc theo đuổi FTA với Hoa Kỳ nhằm cải tổ kinh tế trong nước.
Cùng với đó nhờ ký FTA với Trung Quốc (một cường quốc mới trỗi dậy) và
Nhật Bản (một nền kinh tế chất lượng cao), Hàn Quốc đã triển khai tái cấu
trúc nhằm duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ ba, các cường quốc thông qua FTA để củng cố tầm ảnh hưởng của
mình tại khu vực. Trung Quốc và Nhật Bản dùng FTA để thắt chặt hơn mối
quan hệ với ASEAN, Hàn Quốc và các nước khác. Tháng 11/2002, Nhật Bản
đề xuất khung hợp tác kinh tế với ASEAN chỉ 1 ngày sau khi Trung Quốc
khởi động đàm phán FTA với khu vực này. ASEAN, Hàn Quốc và các nước
khác cũng sử dụng FTA như một cách duy trì và củng cố tầm ảnh hưởng tại
Đông Á. ASEAN theo đuổi FTA với các nước lớn nhằm chiếm lĩnh vị trí chủ
chốt trong tiến trình hội nhập khu vực tại Đông Á. Trong khi đó, Hàn Quốc
đang vượt qua Nhật Bản và Trung Quốc để vươn tới vị trí dẫn đầu.
Thứ tư, thông qua FTA để giảm bớt rủi ro tài chính và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế khu vực. Rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính vào
cuối thập kỷ 90 tại Đông Á khiến chính phủ các nước thấy rằng hợp tác khu
160
vực, đặc biệt là hợp tác trong lĩnh vực tài chính sẽ giúp tránh được một cuộc
khủng hoảng tương tự và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực. Cụ thể, các
thỏa thuận hoán đổi ngoại tệ song phương giúp giải quyết vấn đề thiếu ngoại
tệ và điều này đã được đưa ra trong sáng kiến Chiang – Mai năm 2000. Hơn
nữa, các nước ASEAN + 3 đang tiến hành thành lập Thị trường trái phiếu
Châu Á nhằm nâng cao tính thanh khoản và hiệu quả của thị trường trái phiếu
Đông Á, tận dụng đầu tư tốt hơn các khoản tiết kiệm và góp phần giảm bớt sự
bất cân xứng về loại tiền và thời gian đáo hạn trong lĩnh vực tài chính giữa
các nước.
Thứ năm, các nước sử dụng FTA nhằm cải thiện môi trường kinh doanh,
đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư FDI nhằm tạo ra mạng lưới sản xuất và chuỗi
cung ứng toàn cầu dựa trên lợi thế địa lý và nhân công tại các nước đang phát
triển mới nổi. Nhật Bản chú trọng FTA với Đông Á vì có rất nhiều công ty đa
quốc gia của Nhật Bản đầu tư vào khu vực này và xây dựng lên chuỗi giá trị
thương mại giúp thúc đẩy sự phát triển của Nhật Bản sau một thời gian dài
suy thoái.
Không nằm ngoài xu hướng này các nước thành viên ASEAN đang tích
cực hình thành các FTA theo hai chiều hướng, một là cách tiếp cận FTA tập
thể của cả khối theo phương thức FTA ASEAN+1, hai là phương thức tiếp
cận FTA song phương của riêng từng nước thành viên ASEAN. Tuy vậy, hai
xu hướng này có thể dẫn đến trạng thái trùng lắp đối tác đàm phán FTA và kết
quả là quá nhiều lộ trình FTA trùng lắp giữa các quốc gia ASEAN và có
nhiều bộ quy tắc xuất xứ hàng hoá riêng biệt. Cụ thể như các nước thành viên
ASEAN là Singapore, Thái Lan, Malaysia, v.v. vừa đàm phán FTA với các
đối tác lớn trong khu vực Châu Á như Trung Quốc (ACFTA), Hàn Quốc
(AKFTA), Nhật Bản (AJFTA), Ấn Độ (AIFTA), Úc, New Zealand
(AANZFTA) nói chung, và các nước này cũng tiến hành nhiều FTA song
161
phương riêng rẽ với các đối tác trên. Bởi vậy, khi thực thi đồng thời nhiều
cam kết theo các lộ trình của FTA và áp dụng nhiều bộ quy tắc xuất xứ hàng
hoá cùng lúc với cùng một đối tác sẽ có nhiều điểm trùng lặp, tăng sự phức
tạp, khó khăn khi triển khai và không có tác dụng.
Như vậy có thể nói rằng Xu hướng FTA không còn là sự lựa chọn có
hoặc không, mà đã thực sự trở thành một xu hướng bắt buộc đối với Việt Nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (cũng giống như yêu cầu bắt buộc
gia nhập WTO) và xu hướng này đang tác động rất lớn đến toàn bộ hoạt động
hội nhập của Việt Nam.
Việt Nam hiện nay với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN đã
có rất nhiều thuận lợi khi cùng tham gia với các nước ASEAN vào các FTA
chung của khu vực đồng thời cũng tự mình đặt quan hệ ký kết các FTA song
phương một số nước. Tuy nhiên, về mặt bản chất, Việt Nam vẫn chỉ tham gia
vào xu hướng này với tính chất bị động, chưa có đường lối và chiến lược cụ
thể, chưa có mục tiêu chiến lược rõ ràng khi tham gia vào xu hướng này. Điều
này đã gây trở ngại không nhỏ cho các nhà đàm phán trong việc xác định đối
tượng, phạm vi, lĩnh vực và mức độ các cam kết nói riêng, và ảnh hưởng tới
quyền lợi của Việt Nam trong các FTA đã tham gia. Nghị quyết Đại hội Đảng
XII mới đây cũng đã khẳng định chủ trương “thực hiện đầy đủ các cam kết
trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do
thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn
trước”, “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”, “mở
rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua
thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục
nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”. Bởi vậy, xu
hướng phát triển của các FTA trong thời gian tới sẽ có ảnh hưởng nhiều và tác
động chi phối rất lớn đến những quy định về xuất xứ hàng hoá, cũng như việc
162
áp dụng những quy định này trong quan hệ thương mại của Việt Nam những
năm tới.
4.1.2. Xu hướng xây dựng và áp dụng các quy định xuất xứ hàng hóa mới
trên thế giới.
Trên thế giới hiện nay, các quy định về xuất xứ đang được xây dựng theo
xu hướng đó là tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cấp và
kiểm tra xuất xứ hàng hóa thông qua hệ thống xuất xứ điện tử. Hiện nay, một
số cơ quan Hải quan vẫn chủ yếu áp dụng vào những mô hình quản lý xuất xứ
đã được sử dụng từ lâu như cấp chứng nhận xuất xứ, trao đổi mẫu chữ ký
hoặc niêm phong chứng nhận… Thực tế, những biện pháp này đã trở thành
những hàng rào phi thuế quan và cản trở quá trình tự do hóa thương mại.
Trong khi đó, xu hướng mới là bãi bỏ các yêu cầu trao đổi chữ ký của cấp có
thẩm quyền chứng nhận xuất xứ, điều đó cũng đồng nghĩa với việc giảm thiểu
chi phí cho sự lưu thông của hàng hóa. Thay vào đó, có thể xem xét áp dụng
một hình thức khai báo của người xuất khẩu được cơ quan Hải quan chấp
nhận. Kèm theo cải tiến này sẽ là các biện pháp giám sát và kiểm tra sau
thông quan của cơ quan Hải quan. Khai báo xuất xứ khi được xuất trình tại
cửa khẩu nhập của một nước sẽ được cơ quan Hải quan kiểm tra, đối chiếu
với cơ sở dữ liệu để xác thực tính chính xác của thông tin. Nếu khai báo hợp
lệ, hàng hóa nhập khẩu sẽ được áp mã số thuế với thuế suất tương ứng. Việc
kiểm tra sau thông quan đối với người khai báo sẽ là một phần của phương
pháp quản lý này. Cùng với đó, việc áp dụng cơ chế xác định trước xuất xứ là
một biện pháp đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Đây được xem là xu
hướng khó tránh khỏi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay nói
chung và một số FTA mà Việt Nam đã thực thi và đang đàm phán. Xu hướng
xuất xứ này đã tạo ra nhiều thay đổi và cải cách đối với hệ thống cấp C/O
truyền thống cũng như hệ thống kiểm tra và giám sát của các cơ quan liên
163
quan, trong đó có sự chuyển dịch vai trò và trách nhiệm của cơ quan quản lý.
Bên cạnh đó, áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ đang trở thành xu thế
bắt buộc trong đàm phán một số Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới
như Hiệp định FTA Việt Nam – EU, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
TPP . . .Chứng nhận xuất xứ thay vì được cấp bởi các cơ quan có thẩm quyền
được chuyển sang phát hành bởi các nhà sản xuất hay nhà xuất khẩu hàng hoá.
Trong AEC, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hiện đang được một số nước thành
viên thí điểm áp dụng. Tuy nhiên, những quy định về mặt pháp lý của cơ chế tự
chứng nhận xuất xứ còn đang được xây dựng và chưa thống nhất chung trong
AEC. Ở Việt Nam, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ mới được áp dụng thử
nghiệm bắt đầu cuối năm 2015, song song với hệ thống chứng nhận xuất xứ do
Bộ công thương cấp hiện tại. Tuy nhiên, những nội dung và cách thức triển
khai của cơ chế này ở Việt Nam vẫn còn rất mới và chắc chắn sẽ cần phải
nhiều thời gian để có thể áp dụng một cách có hiệu quả trong AEC.
4.2. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC.
4.2.1.Tạo dựng khuôn khổ pháp lý xuất xứ hàng hoá hoàn chỉnh trên cơ
sở nền tảng các quy định về xuất xứ trong AEC.
Các quy định về xuất xứ hàng hoá trong AEC được kế thừa từ các quy
định xuất xứ hàng hoá của hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT/AFTA) áp dụng từ Việt Nam bắt đầu năm 1996 và sau đó là hiệp định
thương mại ATIGA áp dụng từ 2010 đã và đang phát huy những tác dụng tích
cực đối với việc áp dụng và hưởng ưu đãi thuế quan ở Việt Nam. Tuy nhiên,
có thể thấy hiện nay Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn Luật thương
mại có nội dung trực tiếp liên quan đến xuất xứ hàng hoá đã được ban hành từ
hơn 10 năm (Luật thương mại được ban hành từ 2005, Nghị định
19/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về xuất xứ hàng hoá được
ban hành 2006, . . .). Do vậy, nhiều nội dung đã không còn phù hợp với thực
164
tiễn hiện nay về xuất xứ hàng hoá và xu hướng phát triển của các quy định về
xuất xứ hàng hoá trong các cam kết của hiệp định FTA thế hệ mới, trong đó
có các quy định về xuất xứ hàng hoá của ASEAN, như quy định về tự chứng
nhận xuất xứ hàng hoá. Thêm vào đó, trong thực tế việc áp dụng các quy định
pháp luật về xuất xứ hàng hoá của Việt Nam trong ASEAN vẫn còn tồn tại
nhiều bất cập, gây cản trở đến việc thực hiện. Do đó, việc tạo dựng một khuôn
khổ pháp lý áp dụng xuất xứ hàng hoá thuận lợi cho các doanh nghiệp dựa
trên cơ sở nền tảng các quy định về xuất xứ trong AEC là hết sức cần thiết.
Cụ thể, cần phải có sự rà soát, nghiên cứu, đánh giá toàn diện về các quy định
liên quan đến xuất xứ hàng hoá ở Việt Nam hiện nay để có sự sửa đổi, bổ
xung cho phù hợp với thực tiễn, có sự hài hoà giữa các quy định về xuất xứ
hàng hoá của hệ thống pháp luật Việt Nam với quy tắc xuất xứ hàng hoá
ASEAN, quy tắc xuất xứ hàng hoá trong các FTA. Bởi vì ngoài các quy định
về quy tắc xuất xứ hàng hoá của hiệp định ATIGA, hiện Việt Nam cũng đồng
thời thực hiện nhiều bộ quy tắc xuất xứ hàng hoá từ các FTA khác. Các bộ
quy tắc xuất xứ hàng hoá này cũng có nhiều điểm khác biệt gây cho các
doanh nghiệp gặp khó khăn, nhầm lẫn khi áp dụng các quy định xuất xứ hàng
hoá của hiệp định ATIGA. Do đó, để tạo ra sự rõ ràng, dễ hiểu nhà nước cần
sớm ban hành khung cơ sở chung pháp lý liên quan đến xuất xứ hàng hóa chứ
không để phân tán, thiếu sự liên kết theo các FTA riêng biệt như hiện nay.
Đối với hoạt động kiểm tra, cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá cần sớm
chuẩn hoá và hoàn thiện các quy trình, văn bản hướng dẫn một cách cụ thể và
toàn diện tạo ra sự minh bạch, thuận lợi trong quá trình áp dụng. Đặc biệt, các
quy định liên quan đến tính pháp lý khi triển khai áp dụng cấp và kiểm tra
C/O mẫu D điện tử. Các quy định về chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử giữa cơ
quan hải quan với các cơ quan có liên quan nhằm xây dựng cơ sở pháp lý cho
hoạt động kiểm tra xuất xứ hàng hoá. Cơ chế, các biện pháp và cách thức
165
kiểm tra, xử lý liên quan đến việc cấp và từ chối C/O cũng cần phải luật hoá
cụ thể làm cơ sở cho các cơ quan quản lý cấp phép, cơ quan kiểm tra có đủ
căn cứ pháp lý khi triển khai, tạo sự đồng thuận từ phía doanh nghiệp. Đối với
việc áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa còn rất mới ở Việt Nam,
các cơ quan nhà nước cần phải sớm đẩy nhanh việc hoàn thiện khung pháp lý
cụ thể cho việc thực thi cơ chế này như quy định cụ thể cách thức thừa nhận,
công nhận tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa, quy định về việc chuyển đổi, tính
tương thích giữa hình thức tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá với hình thức xin
chứng nhận xuất xứ hàng hoá. . .Với tiêu chuẩn tham gia tự chứng nhận xuất
xứ hàng hoá Quy định của thông tư 28/2015/TT-BCT, Doanh nghiệp muốn
tham gia thí điểm tự chứng nhận xuất xứ kim ngạch xuất khẩu đi ASEAN
được cấp C/O mẫu D năm trước liền kề đạt tối thiểu 10 triệu USD, có quá
trình chấp hành tốt pháp luật nhất là thuế, hải quan, XNK. Quy định này hiện
đang gây khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam khi thực tế quy mô kim ngạch
XNK còn hạn chế với thị trường ASEAN và việc chấp hành tốt pháp luật bị
ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khách quan. Do vậy, nên hạ mức kim ngạch XK
đi ASEAN xuống mức 1 triệu USD hoặc thay đổi tính chung kim ngạch XK
của doanh nghiệp sang tất cả các thị trường chứ không tính riêng thị trường
ASEAN. Cùng với đó xem xét các tiêu chí về chấp hành tốt pháp luật phù hợp
với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam. Ngoài ra, cần hợp lý hóa và thuận lợi
hóa các thủ tục cấp và kiểm tra chứng nhận xuất xứ hàng hoá bằng cách
vận dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá bởi các doanh nghiệp
nhưng có sự kiểm soát và giám sát bằng luật pháp chặt chẽ từ phía các cơ
quan quản lý nhà nước. Các quy tắc hiện hành về quản lý quy tắc xuất xứ
hàng hoá hiện nay được các doanh nghiệp nhận định là quá phức tạp và
nặng nề đối với doanh nghiệp do đó cần thiết phải đẩy mạnh cải cách thủ tục
hành chính, cắt giảm những quy định không cần thiết, gây cản trở đến việc áp
166
dụng thuận lợi quy định xuất xứ hàng hoá trong lĩnh vực thuế, hải quan. Bên
cạnh đó cần phải có những quy định rõ ràng về chức năng, vai trò quản lý,
thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có liên quan như Bộ công thương và các
bộ ngành khác (trong đó nổi bật là vai trò của cơ quan hải quan Việt Nam)
trong kiểm tra và xử lý các vi phạm về xuất xứ hàng hoá nhằm giúp cho hoạt
động quản lý nhà nước về lĩnh vực này được chặt chẽ, rõ ràng và đồng bộ. Cơ
quan Hải quan hiện nay là cơ quan trực tiếp kiểm tra, giám sát tuân thủ pháp
luật trong hoạt động áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN và cho hưởng
ưu đãi thuế quan đặc biệt ATIGA với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành
viên AEC. Vì vậy, Luật hải quan số 54/2014/QH13 năm 2014, Nghị định số
08/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật Hải quan và Thông
tư 38/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính cũng cần được rà soát, bổ sung nội
dung kiểm tra về xuất xứ hàng hoá, trong đó có quy định về tự chứng nhận
xuất xứ hàng hoá trong ASEAN. Đặc biệt, trong ngành hải quan cần sớm ban
hành quy trình kiểm tra trong thông quan và kiểm tra sau thông quan thống
nhất và cụ thể đối với hàng hóa nhập khẩu sử dụng chứng từ xuất xứ hàng hoá
trong ASEAN, bao gồm cả hình thức áp dụng hóa đơn tự chứng nhận xuất xứ.
Thêm vào đó, cần ban hành các quy định về cơ chế tài chính, quy trình nghiệp
vụ kiểm tra hồi tố trực tiếp về chứng nhận xuất xứ tại doanh nghiệp nước xuất
khẩu nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra hải quan về
xuất xứ hàng hoá.
Khi cơ sở pháp lý liên quan đến xuất xứ hàng hoá được hoàn thiện và cụ
thể hoá sẽ là cơ sở vững chắc cho công tác thực hiện, áp dụng từ khâu đàm
phán các quy định mới đến việc triển khai các quy định theo lộ trình cam kết
gia nhập AEC. Tạo thành định hướng xuyên suốt và thống nhất cho các khâu
nghiệp vụ từ việc chuẩn bị hồ sơ xin cấp C/O, thẩm định kiểm tra hồ sơ, cấp
C/O, kiểm tra C/O, minh bạch hóa các thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất,
167
nhập khẩu, thuế và hải quan để giảm chi phí xuất khẩu, nhập khẩu, tận dụng
các lợi ích đem lại từ xuất xứ hàng hóa để nâng cao sức cạnh tranh của hàng
hóa Việt Nam. Đồng thời, một hệ thống pháp luật về xuất xứ hàng hóa hoàn
chỉnh sẽ giúp thiết lập các nguyên tắc, cơ chế phối hợp và phân công nhiệm
vụ, trách nhiệm của các cơ quan hữu quan nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực
của bộ máy quản lý nhà nước phù hợp với thực tế, đòi hỏi khách quan của bản
thân nền kinh tế, góp phần tạo thuận lợi hóa cho hoạt động kinh doanh xuất –
nhập khẩu của các doanh nghiệp, tạo lòng tin cho các đối tác thương mại
nước ngoài.
Bên cạnh đó, có thể thấy rằng các quy định về xuất xứ hàng hóa trong
AEC là một phần không thể tách rời khỏi chính sách thương mại quốc gia. Do
đó, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách thương mại với các quy định về pháp
luật đẩy đủ cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam khi tham gia AEC và
không gây xung đột với các cam kết trong các FTA mà chúng ta đã hoặc sẽ
tham gia. Xây dựng một khung khổ chính sách thương mại mới, đồng bộ và
toàn diện; kết hợp với các chính sách đầu tư, chính sách cạnh tranh và chính
sách điều tiết thị trường bởi vì các quy định cam kết thực hiện của Việt Nam
gia nhập AEC không chỉ gồm các điều khoản liên quan đến thương mại thuần
túy mà còn đến nhiều lĩnh vực khác nữa như đầu tư, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ,
môi trường và lao động.v.v. Do đó, một khung khổ chính sách thương mại mới,
đồng bộ và toàn diện sẽ là sự kết hợp và giao thoa giữa các chính sách ngoại
thương, chính sách đầu tư, chính sách cạnh tranh và chính sách điều tiết thị
trường và các chính sách liên quan khác. Các chính sách thương mại nên
hướng cả vào chiếm lĩnh những ngành hàng, xâm nhập vào các chuỗi giá trị,
chứ không chỉ là thâm nhập thị trường các nước thành viên AEC. Hơn nữa,
cùng với quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế theo các tuyến FTA,
thương mại nội khối sẽ gia tăng tác động lớn đến quan hệ giữa Việt Nam với
168
các nước thành viên AEC, do đó cần phải xây dựng chiến lược thương mại có
tính đến yếu tố thương mại nội khối. Đồng thời, giá trị xuất khẩu chỉ được cải
thiện một cách bền vững và hệ thống nếu có chiến lược tham gia chuỗi giá trị
và chuỗi sản xuất cung ứng toàn cầu, thay vì chỉ tham gia các chuỗi giá trị rời
rạc. Thực tế cho thấy, việc tham gia của Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu ở
mức kém rất xa với các nước ASEAN-5. Vì vậy, chính sách nhập khẩu cũng
hết sức quan trọng. Thực tiễn thương mại của các nước công nghiệp hóa mới
đã cho thấy chính sách nhập khẩu là động lực cho quá trình đổi mới công nghệ
và du nhập những thực tiễn tốt nhất về phát triển nguồn nhân lực, kỹ năng quản
lý và thể chế phát triển hiện đại. Nói cách khác, chính sách nhập khẩu phải
hướng trực tiếp tới tăng năng lực sản xuất trong nước nhằm đáp ứng cả thị
trường trong nước và xuất khẩu. Theo các cam kết của AEC thì sau khi rào cản
thuế quan dỡ bỏ thì các rào cản phi thuế quan cũng sẽ phải điều chỉnh theo các
cam kết hội nhập. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra, khi các biện pháp thuế
quan giảm, các biện pháp phi thuế quan sẽ phát triển và tinh vi hơn. Do đó, cần
nghiên cứu, ban hành và áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hoá kết hợp với
các công cụ bảo vệ thị trường nội địa nhằm bảo vệ các nhóm hàng hóa của Việt
Nam dễ bị tổn thương, bảo vệ việc cạnh tranh công bằng và ổn định nhưng vẫn
phù hợp với quy định của Hiệp định TBT, FTA và cam kết gia nhập AEC.
Thực tế trong giai đoạn vừa qua, các quy định pháp lý của Việt Nam để áp
dụng còn hạn chế về năng lực thiết kế và đánh giá tác động của các hàng rào
đấy. Thêm vào đó, để những quy định về xuất xứ hàng hoá thực sự đem lại
hiệu quả thì cần khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp trong quá
trình đưa ra các ý kiến xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
xuất xứ hàng hoá nhất là trong thời gian tới khi Việt Nam bước vào những giai
đoạn cam kết sâu thực hiện cắt giảm hoàn toàn thuế quan trong AEC.
169
4.2.2. Đẩy mạnh việc hỗ trợ, phối hợp trao đổi thông tin và kiến thức về
thuế quan và xuất xứ hàng hoá trong AEC giữa các cơ quan nhà nước và
các doanh nghiệp.
Qua những phân tích đánh giá về tình hình áp dụng C/O mẫu D ở Việt
Nam cho thấy, các doanh nghiệp ở Việt Nam sử dụng vẫn chiếm tỷ lệ rất
thấp. Trong đó có thể thấy được, việc nắm bắt thông tin cũng như hiểu biết về
các quy định liên quan đến xuất xứ hàng hoá nói chung, trong đó có xuất xứ
hàng hoá của AEC còn rất hạn chế. Vì vậy, các cơ quan nhà nước mà cụ thể là
Bộ công thương và Hải quan cần phối hợp với các bộ ngành liên quan, các
hiệp hội, tổ chức nghề nghiệp cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình đẩy
mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp về những nội
dung của các quy định trong AEC. Phát hành các cẩm nang, bảng hướ ng dẫn
các doanh nghiệp cách thức để tính toán hưở ng lơ ̣i khi xuất khẩu hàng hóa
sang các đối tác AEC theo quy định về xuất xứ hàng hoá mà quan trọng là
cách tính cộng gộp xuất xứ trong C/O của các lô hàng xuất khẩu cũng như
cách phố i hơ ̣p vớ i các cơ quan chức năng có thẩm quyền để giải quyết các
vấn đề phát sinh nếu có. Tổ chức các hội thảo tổng kết và phổ biến kinh
nghiệm trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang các đối tác AEC cho doanh
nghiệp: Chỉ ra những lơ ̣i ích cụ thể cũng như những vướ ng mắc có thể gặp
trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang các nướ c này; Phổ biến kinh nghiệm
về tận dụng ưu đãi của các nướ c trong AEC để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa
sang các nước thành viên.
Thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo, tập huấn, hội nghị, hội thảo . ..
để bên cạnh cung cấp những thông tin cơ bản về những nội dung, những cam
kết về thương mại hàng hoá, những ưu đãi và cách thức được hưởng ưu đãi từ
thị trường AEC, các quy định văn bản pháp lý liên quan đến xuất xứ hàng
hoá, thông tin về những ưu đãi thuế quan và ưu đãi khác mang lại khi sử dụng
170
C/O thì rất cần những thông tin cụ thể thông qua việc đào tạo chi tiết, bồi
dưỡng kiến thức chuyên sâu về xuất xứ hàng hoá để doanh nghiệp hiểu và
thực hiện, áp dụng một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời những quy định
này trong thực tiễn. Từ đó làm tiền đề cho việc đẩy mạnh xây dựng chiến lược
“tuân thủ pháp luật tự nguyện” của các doanh nghiệp khi thực hiện cơ chế tự
chứng nhận xuất xứ, phê phán, đấu tranh mạnh mẽ các hành vi gian lận xuất
xứ hàng hoá.
Để doanh nghiệp có thể nắm bắt và tận dụng hiệu quả hơn nữa thì cơ chế
hỗ trợ thông tin qua hệ thống Website của các cơ quan Việt Nam như Bộ công
thương, VCCI cần phải có sự nâng cấp, cập nhật thêm các thông tin để hỗ trợ
cho các doanh nghiệp như bổ sung thêm phần: phân tích lơ ̣i ích của các FTA
(trong đó có AEC), cùng vớ i những hướ ng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp về
những ưu đãi đươ ̣c hưở ng theo Hiệp định và những điều kiện cụ thể để đươ ̣c
hưở ng ưu đãi, quy tắc xuất xứ C/O...), thành lập bộ phận tư vấn kết nối với
các chuyên gia trong các lĩnh vực (địa chỉ, số điện thoại, cơ quan công tác…)
để có thể tư vấn tại chỗ hay tư vấn từ xa giúp đỡ các doanh nghiệp tìm hiểu
các vấn đề liên quan đến xuất xứ hàng hoá và quy tắc xuất xứ hàng hoá, thiết
lập các đường link tớ i các cơ quan chức năng liên quan đến thư ̣c thi các Hiệp
định, thường xuyên cập nhật thông tin mớ i về Hiệp định (nếu có những điều
chỉnh về biểu thuế HS mớ i, quy tắc xuất xứ hàng hoá …) để doanh nghiệp
nắm đươ ̣c thông tin, tránh bị động trong sản xuất và xuất khẩu hàng hóa sang
các nướ c tham gia AEC. Bên cạnh đó, cần phân nhóm các doanh nghiệp theo
ngành nghề và đưa ra một kế hoạch, lộ trình cụ thể để phối hợp, tư vấn cho
doanh nghiệp cần làm gì, làm như thế nào, làm trong bao lâu, cần bao nhiêu
nguồn lực để có thể tham gia chính thức vào chương trình tự chứng nhận xuất
xứ hàng hoá. Ngoài ra, các cơ quan có thẩm quyền cũng cần tư vấn, khuyến
cáo các doanh nghiệp sửa đổi, hoàn thiện hệ thống quản trị dữ liệu thông tin,
171
hệ thống sổ sách kế toán theo chuẩn mực nhằm chuẩn bị trước cho những yêu
cầu kiểm tra về xuất xứ hàng hoá có thể xảy ra.
Các cơ quan chức năng cần thường xuyên đánh giá tác động của những
cam kết trong AEC và những quy định nhập khẩu hàng hoá của các nước
trong AEC đến việc thúc đẩy trao đổi thương mại của Việt Nam với các đối
tác trong AEC. Theo kinh nghiệm của Singapore và Malaysia thì định kỳ
khoảng 2 năm nên tổ chức hội thảo để đánh giá tác động đối với hoạt động
xuất khẩu hàng hoá, đồng thời nắm bắt phản hồi của doanh nghiệp về những
khó khăn, rào cản gặp phải trong quá trı̀nh xuất khẩu hàng hóa sang các nước thành viên AEC. Để từ đó, đưa ra những khuyến cáo, giải pháp hỗ trợ doanh
nghiệp tháo gỡ khó khăn và tận dụng lơ ̣i thế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng
hóa. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện và xây dựng cơ chế đối thoại, hỗ trợ thường
xuyên liên tục, xử lý kịp thời giải quyết những vướng mắc, các tranh chấp liên
quan đến xuất xứ hàng hoá giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa, trong quá trình áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hoá
với các cơ quan quản lý nhà nước liên quan. Thêm vào đó, khi có những vấn
đề mớ i phát sinh trong quá trı̀nh thư ̣c thi các cam kết trong AEC và thực hiện các quy định về xuất xứ hàng hoá, thuế quan trong AEC cần tổ chức các cuộc
hội thảo để thông tin đến các hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp
những thông tin mớ i và cách thức để tận dụng ưu đãi đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hóa.
Thương vụ Việt Nam tại các nước ASEAN cần tích cư ̣c hơn nữa trong
việc hỗ trơ ̣ các doanh nghiệp tı̀m kiếm bạn hàng và các cơ hội xuất khẩu hàng hóa; Trơ ̣ giúp doanh nghiệp trong việc giải quyết các vướ ng mắc đố i vớ i
những lô hàng nhập khẩu; Làm tố t hơn nữa công tác thông tin và hướ ng dẫn
thị trường cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đặc biệt là các thông tin về
các quy định pháp luật thay đổi áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu; hỗ trợ
172
cho doanh nghiệp nâng cao năng lực pháp lý liên quan đến quá trình giải trình
và làm việc với hải quan nước nhập khẩu. Tiếp tục triển khai, hỗ trơ ̣ tổ chức
thị trường cho các mặt hàng có tiềm năng và các mặt hàng bị sụt giảm.
4.2.3. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành nghề sản xuất nhằm
đáp ứng được các tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong AEC.
Để có thể tận dụng tốt những lợi ích do AEC đem lại, vận dụng tốt
những quy định về xuất xứ đặc biệt là các quy định xuất xứ cụ thể với hàng
hoá có mức độ yêu cầu về hàm lượng giá trị RVC hay chuyển đổi mã số hàng
hoá CTC thì Việt Nam cần phải có sự gia tăng về mức độ giá trị tăng thêm
của hàng hoá xuất khẩu tại Việt Nam. Vì vậy, chính phủ cần phải tiến hành
nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện các ngành hàng để xác định được
những lợi thế của từng ngành hàng. Từ đó đưa ra các giải pháp đồng bộ tăng
cường đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh
theo hướng phát triển sản xuất xuất khẩu với mô hình tăng trưởng bền vững
và hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô xuất khẩu, vừa
chú trọng nâng cao giá trị gia tăng xuất khẩu. Cụ thể:
Thứ nhất, thực hiện chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu một cách
hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung nâng nhanh tỷ
trọng các sản phẩm xuất khẩu có giá trị tăng cao, sản phẩm chế biến sâu, các
sản phẩm chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Tiếp tục thực hiện
tái cơ cấu sản xuất công nghiệp cả về ngành kinh tế kỹ thuật, vùng và giá trị
mới, tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản
phẩm. Tập trung phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu để từng bước
tạo ra những sản phẩm có thương hiệu quốc gia và có sức cạnh tranh trong
chuỗi giá trị toàn cầu. Đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển ngành công nghiệp
hỗ trợ đáp ứng nguyên liệu đầu vào, từ đó giảm nhập khẩu; đồng thời tăng
cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, cung ứng
173
sản phẩm. Chủ động điều chỉnh nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa,
đồng thời phát triển sản xuất nguyên nhiên, phụ liệu phục vụ các ngành hàng,
đáp ứng nhu cầu trong nước và phát triển công nghiệp phụ trợ, kiểm soát chặt
việc nhập khẩu mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu, góp phần giảm
nhập siêu trong dài hạn nhất là đối với các đối tác chủ yếu trong AEC khi giai
đoạn hội nhập sâu sẽ bắt đầu trong những năm tới.
Thứ hai, tăng cường sử dụng nguyên liệu trong nước, hoặc nhập khẩu
nguyên liệu của các nước thành viên AEC để thay thế các nước ngoài AEC
nhằm đáp ứng tốt nhất các quy định về xuất xứ hàng hoá tận dụng được lợi
ích ưu đãi của AEC để tăng kim ngạch xuất khẩu đối với những ngành gia
công, chế biến, lắp ráp, như: dệt may, da giày, điện tử, gỗ.. .Trong những năm
qua có sự tăng trưởng cao, tuy nhiên giá trị gia tăng của sản phẩm chưa cải
thiện nhiều, chủ yếu vẫn thực hiện theo hình thức gia công, lắp ráp với tốc độ
đổi mới công nghệ, thiết bị chưa đạt yêu cầu phát triển, nguyên liệu đầu vào
cho sản xuất vẫn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ các nước ngoài AEC là
chủ yếu vì vậy việc đáp ứng các quy định về xuất xứ hàng hoá của AEC là rất
khó khăn.
Thứ ba, thực hiện chính sách thúc đẩy phát triển đối với ngành công
nghiệp hỗ trơ ̣. Đó là các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng, linh
kiện, phụ kiện để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản
phẩm hoàn chỉnh. Sản phẩm của công nghiệp hỗ trơ ̣ là các loại vật liệu, phụ
tùng, linh kiện mang tính chất bán thành phẩm, đươ ̣c sản xuất để cung cấp
cho khâu lắp ráp, sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh tớ i tay người tiêu dùng. Công
nghiệp hỗ trơ ̣ phát triển đem lại nhiều lơ ̣i ích cho quố c gia, các ngành kinh tế
và các doanh nghiệp: giúp tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu các nguyên liệu đầu
vào cho sản xuất, giúp các doanh nghiệp và ngành kinh tế chủ động không bị
lệ thuộc vào nguồn cung từ nướ c ngoài, đảm bảo hàng xuất khẩu đươ ̣c hưở ng
174
các ưu đãi thuế quan theo các FTA do đáp ứng yêu cầu về hàm lươ ̣ng xuất xứ
trong sản phẩm xuất khẩu .v.v. Công nghiệp hỗ trơ ̣ phát triển sẽ là tiền đề cho
việc phát triển các ngành công nghiệp của Việt Nam trong tương lai và giúp
cho doanh nghiệp tận dụng hiệu quả ưu đãi từ các FTA nói chung, AEC nói
riêng. Đây là kinh nghiệm của Thái Lan và Malaysia. Ngành công nghiệp hỗ
trơ ̣ của nướ c ta kém phát triển đã làm cho hiệu quả xuất khẩu một số nhóm
hàng xuất khẩu chủ lực thấp (hàng dệt may, da giày, hàng điện tử). Khoảng
70-80% nguyên phụ liệu của ngành dệt may và da giày Việt Nam phải nhập
khẩu từ Trung Quố c. Nguyên phụ liệu nhập khẩu làm cho giá thành sản phẩm
xuất khẩu cao kém sức cạnh tranh, thêm vào đó là không đáp ứng được các
tiêu chí xuất xứ hàng hoá và vì vậy mà hiệu quả thu đươ ̣c từ xuất khẩu thấp.
Trong thời gian tới, Nhà nước cần đưa ra nhiều hơn các chính sách ưu tiên
đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ cụ thể là: chính phủ cần có chiến lươ ̣c và
kế hoạch tổng thể, có chính sách đầu tư thỏa đáng để để thu hút được sự quan
tâm của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài vào phát triển mạnh
ngành công nghiệp hỗ trơ ̣ nhằm đảm bảo tạo ra nguồn cung nội địa cho phần
lớ n các linh phụ kiện cho ngành công nghiệp lắp ráp, đáp ứng nhu cầu nguyên
phụ liệu cho ngành dệt may, da giày. Từ đó giảm phụ thuộc vào nhập khẩu
khiến cho giá thành sản phẩm hàng hoá của Việt Nam giảm đi, tăng mức độ
hàm lươ ̣ng xuất xứ Việt Nam trong hàng hoá đạt yêu cầu đươ ̣c hưở ng ưu đãi
thuế nhập khẩu để có cạnh tranh được khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường
AEC với sản phẩm cùng loại của các nước thành viên AEC.
Thứ tư, Khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ
phục vụ phát triển công nghiệp hỗ trơ ̣ thông qua việc quy định các mức ưu đãi
về các loại thuế, hỗ trơ ̣ kinh phí, hỗ trơ ̣ về tiền thuê đất…đố i vớ i từ ng trường
hơ ̣p cụ thể. Khuyến khích ứng dụng và chuyển giao công nghệ trong sản xuất
công nghiệp hỗ trơ ̣ phù hơ ̣p vớ i chính sách: quy định những biện pháp thúc
175
đẩy đố i vớ i các hoạt động ứng dụng và chuyển giao công nghệ cụ thể, các ưu
đãi về thuế, phí, hỗ trơ ̣ kinh phí,.v.v.. Tập trung đầu tư hỗ trơ ̣, phát triển nhân
lư ̣c cho các ngành công nghiệp hỗ trơ ̣.
Thứ năm, thực hiện đồng bộ các chính sách sách thuế, chính sách thương
mại, tỷ giá, thủ tục hành chính, chính sách tín dụng,. . . nhằm điều kiện thuận
lợi thúc đẩy DN hội nhập, nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu của hàng
hoá của Việt Nam sang các nước AEC. Thí dụ như: cần đẩy mạnh hợp tác với
các nước trong AEC theo hướng tiếp tục xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn
chung về chất lượng, an toàn, thực hiện chứng nhận chung trong cả sản xuất
lẫn XK các mặt hàng nông, lâm, thủy sản; đồng thời xây dựng các giải pháp
thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, áp dụng chung cho khu vực thông qua sử
dụng hướng dẫn chung. Ký các thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong lĩnh vực
nông sản, thủy sản, thực phẩm, nhằm tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh xuất
khẩu các mặt hàng này vào thị trường AEC.
4.2.4. Tăng cường nâng cao năng lực quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực
hiện và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật về xuất xứ hàng hoá trong AEC
của các cơ quan quản lý nhà nước.
Việc đáp ứng được những quy định xuất xứ hàng hoá trong AEC thì
hàng hoá xuất nhập khẩu sẽ được hưởng ưu đãi rất lớn so với những hàng hoá
không đáp ứng được xuất xứ. Do vậy, sẽ không thể tránh khỏi việc có những
hành vi gian lận về xuất xứ hàng hoá nhằm hưởng lợi. Vì vậy, nhà nước cũng
cần phải có những giải pháp đồng bộ nâng cao năng lực của các cơ quan quản
lý nhà nước trong hoạt động quản lý, kiểm tra, kiếm soát, ngăn chặn và xử lý
kịp thời những hành vi gian lận về xuất xứ hàng hoá. Cụ thể đó là:
Thứ nhất, Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang bị các thiết
bị và hỗ trợ kỹ thuật theo yêu cầu của việc áp dụng hệ thống eCoSys của Bộ
Công Thương, hệ thống VNACCS/VCIS của hải quan, hệ thống một cửa
176
quốc gia. Từ đó đẩy mạnh kết nối giữa các hệ thống này với hệ thống một cửa
ASEAN trên cơ sở hợp tác và phối hợp giữa các Bộ và các cơ quan của Chính
phủ theo mô hình thương mại điện tử không có trao đổi các tài liệu bằng giấy.
Điều này giúp tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp trong thực
hiện thủ tục hành chính, đồng thời nâng cao hiệu quả trao đổi thông tin và
kiểm soát chặt chẽ việc gian lận thương mại trong sử dụng C/O. Ngoài ra để
khắc phục được những bất hợp lý khi mạng lưới cấp C/O chưa thuận tiện như
hiện nay thì nghiên cứu phân cấp việc cấp C/O mẫu D cho VCCI để có thể tận
dụng được được cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ tại những điểm cấp C/O của
VCCI trên cả nước. Khi đó, các doanh nghiệp chỉ cần đến điểm cấp C/O gần
nhất, thuận tiện nhất để được cấp C/O và do đó sẽ giúp rút ngắn thời gian làm
thủ tục và giảm chi phí cho doanh nghiệp.
Thứ hai, Tăng cường hợp tác hơn nữa với các đối tác trong AEC bởi
những quy định về xuất xứ hàng hóa không chỉ bó hẹp hay liên quan trong
một nước mà tác động và liên quan đến rất nhiều nước khác nhau. Từ đó, Việt
Nam có thể học hỏi kinh nghiệm trong công tác quản lý, tận dụng những lợi
ích do quy tắc xuất xứ hàng hóa đem lại cũng như hạn chế, giảm thiểu những
rủi ro trong quá trình áp dụng. Đặc biệt là vấn đề gian lận xuất xứ hàng hóa
đang đem lại những tác động xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu cũng như nền
kinh tế Việt Nam. Thông qua đẩy mạnh hợp tác trao đổi thông tin dữ liệu về
xuất xứ giữa các nước thành viên AEC sẽ giúp cho Việt Nam kiểm soát và
ngăn chặn các hành vi giả mạo xuất xứ đối với hàng nhập khẩu gây thiệt hại
cho nền kinh tế. Xây dựng cơ chế hợp tác hỗ trợ xác minh xuất xứ giữa cơ
quan hải quan các nước với hải quan Việt Nam khi có sự nghi ngờ về nguồn
gốc xuất xứ của hàng hoá. Bên cạnh đó, với xu hướng đẩy mạnh sử dụng giấy
chứng nhận xuất xứ điện tử mẫu D và cơ chế tự chứng nhận xuất xứ trong
AEC thì việc tăng cường hợp tác giữa các cơ quan quản lý xuất xứ Việt Nam
177
và các nước thành viên AEC là một đòi hỏi tất yếu. Điều này sẽ giúp cho cơ
quan quản lý Việt Nam dễ dàng hơn trong hoạt động kiểm tra xuất xứ qua hệ
thống mạng dữ liệu điện tử liên kết cũng như giúp các doanh nghiệp Việt
Nam thuận tiện trong việc sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ cho hàng xuất
khẩu sang những nước thành viên AEC.
Thứ ba, Đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng, quản lý và ứng dụng danh mục
cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý và kiểm tra xuất xứ hàng hoá. Việc
xây dựng danh mục cơ sở dữ liệu này sẽ đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ
và kịp thời cho các cơ quan quản lý nhà nước là Bộ công thương và Hải quan
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Từ đó tạo thuận lợi có việc rút ngắn được
thời gian kiểm tra và cấp C/O của các đơn vị thuộc Bộ công thương. Còn đối
với cơ quan Hải quan, danh mục này đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ và
kịp thời cho việc xử lý dữ liệu tự động, phân luồng kiểm tra xuất xứ hàng hoá
chính xác gắn liền với việc kiểm tra hàng hoá trước, trong và sau thông quan.
Qua đó sẽ cung cấp thông tin về các trường hợp có nguy cơ cao về gian lận và
vi phạm quy định xuất xứ, liên quan đến mẫu C/O, mặt hàng, doanh nghiệp,
thị trường. Điều này sẽ giúp cơ quan Hải quan kịp thời phát hiện, ngăn chặn
chuyển tải trái phép và giả mạo xuất xứ hàng hoá XK, bảo vệ uy tín, chất
lượng và khả năng cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế;
kịp thời phát hiện gian lận, vi phạm xuất xứ đối với hàng hoá NK, chống thất
thu thuế cho ngân sách Nhà nước và thực hiện đúng chính sách thương mại.
Hệ thống cơ sở dữ liệu này phải đảm bảo cập nhật liên tục và có hệ thống hoá
các quy định mới về xuất xứ hàng hoá, thu thập một cách có hiệu quả thông
tin liên quan đến xuất xứ hàng hóa từ khâu kiểm tra tại Chi cục Hải quan,
khâu đăng ký hồ sơ thương nhân tại các đơn vị được phép cấp C/O. Bên cạnh
đó còn kết nối có hiệu quả với cổng thông tin một cửa quốc gia trong hoạt
động thu thập, trao đổi thông tin phục vụ công tác quản lý và kiểm tra xuất xứ
178
hàng hoá với các đơn vị có liên quan. Hệ thống có sự kết nối qua hệ thống
một cửa ASEAN để cập nhật thông tin nhanh chóng, kịp thời về mẫu dấu, chữ
ký, mẫu C/O của các quốc gia ASEAN. Đồng thời, thông qua hệ thống, cơ
quan hải quan Việt Nam có thể nắm được tình hình cấp chứng nhận xuất xứ
hàng hoá ở các nước, thu thập và trao đổi thông tin liên quan đến xuất xứ
hàng hóa với Hải quan các nước trong khu vực và qua đó xác minh tính chính
xác của các chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Từ đó nhanh chóng thu thập thông
tin, kiểm tra và xử lý kịp thời đối với các trường hợp gian lận xuất xứ hàng
hoá nhập khẩu vào Việt Nam.
Thứ tư, Phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn sâu về xuất xứ
hàng hóa cho các cơ quan quản lý nhà nước. Đối với đội ngũ cán bộ công
chức làm công tác cấp và kiểm tra chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu
hiện nay tập trung tại Bộ công thương. Bộ công thương được Chính phủ giao
là cơ quan quản lý nhà nước về chứng nhận xuất xứ và trực tiếp cấp toàn bộ
các C/O ưu đãi. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương có ủy quyền cho một số Ban
quản lý khu Công nghiệp và khu chế xuất cấp chứng nhận xuất xứ ATIGA
mẫu D đi ASEAN. Vì vậy, việc đẩy mạnh hiện đại hóa cải cách hành chính,
trong đó đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ đủ trình độ ứng dụng công
nghệ thông tin vào cải cách hành chính, triển khai nhanh chóng có hiệu quả
dịch vụ công trực tuyến và hiện đại hóa hành chính tiến tới một nền hành
chính phi giấy tờ là một đòi hỏi cấp thiết. Điều này giúp đơn giản hóa thủ tục
hành chính, giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp. Giúp cho cộng đồng
doanh nghiệp có thể tiếp cận tốt hơn việc sử dụng các chứng nhận xuất xứ với
hàng hóa xuất khẩu nhằm nâng cao lợi ích. Đối với cán bộ công chức Hải
quan làm nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát phát hiện gian lận giả mạo chứng nhận
xuất xứ, khai báo sai về xuất xứ và các hình thức vi phạm khác về xuất xứ
hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu. Việc tăng cường năng lực của cơ quan Hải
179
quan trong việc kiểm tra và xác định xuất xứ hàng hóa thông qua hoạt động
đào tạo, nâng cao trình độ kiến thức về xuất xứ, qua các buổi tổng kết, hội
nghị chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ về kiểm tra, phát hiện gian lận
C/O của cán bộ công chức Hải quan. Bên cạnh đó, cần đào tạo thêm ngoại
ngữ, kiến thức về chứng từ, hóa đơn, sổ sách kế toán, kiểm toán và báo cáo tài
chính, kỹ năng phối hợp làm việc với chuyên gia, cơ quan hải quan nước
ngoài, để thực hiện hiệu quả biện pháp cử chuyên gia tham gia đoàn kiển tra
trực tiếp doanh nghiệp nước ngoài có hàng xuất khẩu vào Việt Nam bị tình nghi gian lận xuất xứ. Điều này sẽ giúp cơ quan Hải quan chủ động trong
công tác nghiệp vụ, phát hiện và ngăn chặn sự gian lận, vi phạm pháp luật về
xuất xứ hàng hoá nhưng vẫn đảm bảo thông quan hàng hoá nhanh chóng, thủ
tục đơn giản và thống nhất giảm bớt khiếu kiện và tăng cường tính tự giác
tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng cần tập trung chú
trọng xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia am hiểu sâu, đạt trình độ
quốc tế về xuất xứ hàng hóa để đảm nhận tốt những vị trí, khâu quan trọng
trong hoạt động kiểm tra xuất xứ cũng như tham gia tốt vào việc xây dựng
chính sách, tham gia đàm phán, thực thi các cam kết quốc tế liên quan đến
xuất xứ hàng hóa trong thời gian tới. Tranh thủ tận dụng sự hỗ trợ, giúp đỡ
của WTO, WCO và các tổ chức quốc tế, các quốc gia phát triển trong việc
đào tạo và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác xuất xứ hàng
hoá, trợ giúp về mặt kỹ thuật trong việc xác định, kiểm tra và phát hiện các
gian lận về xuất xứ hàng hoá.
Thứ năm, Xây dựng và đẩy mạnh chương trình hợp tác giữa các cơ
quan quản lý nhà nước (cơ quan hải quan và Bộ công thương) về xuất xứ với
các hiệp hội ngành hàng, các phòng thí nghiệm và tổ chức giám định. Bởi
xuất xứ hàng hoá là một lĩnh vực khó khăn và phức tạp đòi hỏi phải có hiểu
biết về mặt hàng, công nghệ sản xuất, năng lực sản xuất, giá thành sản phẩm,
180
giá cả thị trường (thế giới, khu vực, nội địa), giám định và phân tích hàng
hoá,. . . nên các cơ quan quản lý nhà nước thường gặp khó khăn trong việc
kiểm tra, phát hiện những vi phạm về xác định xuất xứ hàng hóa. Trong khi
đây là những lĩnh vực mà các Hiệp hội ngành hàng, các phòng thí nghiệm, tổ
chức giám định có nhiều lợi thế. Vì vậy rất cần tranh thủ có được sự giúp đỡ
từ phía các Hiệp hội ngành hàng, các phòng thí nghiệm, tổ chức giám định
qua việc đẩy mạnh thực hiện ký kết thoả thuận cung cấp thông tin với các
hiệp hội ngành hàng trong nước để tố giác những đối tượng giả mạo xuất xứ
trốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh, những mặt hàng nước xuất khẩu
không có năng lực sản xuất đáp ứng yêu cầu nhưng vẫn cấp C/O, thoả thuận
hỗ trợ về công nghệ kỹ thuật phân tích giám định xuất xứ với các phòng thí
nghiệm, tổ chức giám định, v. v .để các cơ quan quản lý nhà nước kịp thời
kiểm tra, ngăn chặn và xử lý những hành vi gian lận xuất xứ hàng hoá, đảm
bảo sự tuân thủ pháp luật và tạo môi trường kinh doanh lành mạnh.
Thứ sáu, Xây dựng cơ chế ưu tiên cho doanh nghiệp tuận thủ tự nguyện
và cơ chế quản lý chặt chẽ, xử phạt thật nghiêm đối với các doanh nghiệp cố
tình gian lận về xuất xứ hàng hoá. Vận động doanh nghiệp hướng tới sự tuân
thủ tự nguyện trong công tác khai báo xuất xứ hàng hoá cũng như tuân thủ tự
nguyện về pháp luật trong hoạt động xuất nhập khẩu.
4.3. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA DOANH NGHIỆP.
4.3.1. Chủ động, tích cực nắm bắt và áp dụng các quy định về xuất xứ
hàng hoá, thuế quan vào trong hoạt động kinh doanh.
AEC ra đời tiếp nối phát triển những kết quả đạt được của khu vực tự do
hoá thương mại ASEAN lên một mức mới và đây được xem là một trong
những cơ hội vàng cho các doanh nghiệp Việt Nam nhằm vươn ra thị trường
ASEAN đầy tiềm năng. Cơ hội này đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động
nắm bắt, thông qua việc một mặt tích cực tìm hiểu thông tin về AEC, tận dụng
181
một cách tốt nhất các quy định liên quan đến xuất xứ hàng hóa thông qua
nghiên cứu, vận dụng một cách tốt nhất những ưu đãi do AEC đem lại để tăng
cường nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thích nghi được trong bối cảnh tự
do hóa toàn diện như hiện nay. Để làm được điều đó các doanh nghiệp cần:
(cid:5) Chủ động trong hội nhập, tìm kiếm và tiếp cận thông tin về xuất xứ
hàng hoá, ưu đãi thuế quan và các quy định có liên quan đối với hàng hoá
xuất khẩu nhập khẩu giữa các nước thành viên AEC. Để có thể tận dụng một
cách hiệu quả những ưu đãi trong AEC, doanh nghiệp phải nhận thức rõ lợi
ích và yêu cầu vận dụng các ưu đãi theo quy định của AEC. Trước hết, cần
phải hiểu nội dung từng điều khoản đối với lĩnh vực mình quan tâm, nắm
được những ưu đãi trong AEC, lộ trình giảm thuế của các nước thành viên đối
với từng nhóm hàng và những yêu cầu để được hưởng ưu đãi có liên quan đến
mặt hàng và ngành hàng mà mình kinh doanh. Muốn làm được điều này,
doanh nghiệp cần chủ động trong việc tìm kiếm thông tin về AEC, cũng như
các thông tư, văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành chức năng liên quan đến
việc thực thi gia nhập AEC. Tham gia và hình thành các hiệp hội, câu lạc bộ
ngành hàng để từ đó có những trao đổi thông tin vớ i doanh nghiệp cùng
ngành hàng, giúp đỡ nhau cũng như chia sẻ những bài học và kinh nghiệm
trong xuất khẩu hàng hoá.
(cid:5) Chủ động học hỏi để tìm kiếm cơ hội kinh doanh dựa trên những lợi
thế so sánh và năng lực của bản thân; phải học cách kết nối để cùng chấp
nhận cạnh tranh; học cách huy động vốn và tận dụng hợp lý các công cụ huy
động vốn, cách quản trị doanh nghiệp, cách đối thoại pháp lý cũng như phải
đồng hành cùng Chính phủ trong việc thực hiện cải cách. Bên cạnh đó, doanh
nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập và đối mặt với xu
thế tự do hóa đầu tư, thương mại, giảm và xóa bỏ thuế quan, đơn giản hóa thủ
tục hành chính… Từ đó, điều chỉnh chiến lược sản phẩm, chiến lược kinh
182
doanh thích ứng với những thay đổi trong chính sách sản xuất toàn cầu, đáp
ứng được các yêu cầu về quy tắc xuất xứ nhằm tận dụng được các ưu đãi về
thuế quan.
AEC tạo ra một thị trường khu vực rộng lớn, sẽ đem lại cơ hội cho các
doanh nghiệp mạnh đủ sức cạnh tranh vươn xa nhờ lợi thế kinh tế theo quy
mô (sản xuất và phân phối quy mô càng lớn thì giá thành sản phẩm càng
giảm), đồng thời các doanh nghiệp cũng có cơ hội phát triển thị trường ngách
(phục vụ nhu cầu đa dạng của các doanh nghiệp và người dân ASEAN với
danh mục sản phẩm và dịch vụ ngày càng mở rộng. Vì vậy, các doanh nghiệp
cần chủ động tìm kiếm thông tin và đưa ra các biện pháp phù hợp với thực
tiễn để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp trong khối ASEAN.
4.3.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ, am hiểu về xuất
xứ hàng hoá.
Thực tế hiện nay, đã chỉ ra rằng việc nhận thức và áp dụng các quy định
về xuất xứ hàng hóa tại cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua chưa
cao một phần chủ yếu do nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn và am hiểu
về về xuất xứ hàng hoá tại các doanh nghiệp còn yếu. Xét tổng thể, nền kinh
tế Việt Nam có đặc trưng là có một số lượng lớn các doanh nghiệp vừa và
nhỏ (SME) chiếm khoảng 90% với vốn ít, lượng lao động ít được đào tạo
chuyên môn sâu và phần còn lại là các doanh nghiệp nhà nước (SOE), doanh
nghiệp FDI chiểm tỷ trọng nhỏ nhưng lại nắm giữ phần lớn lượng vốn và
nhân lực có trình độ. Với đặc thù như vậy cho thấy sự hạn chế của phần lớn
các doanh nghiệp Việt Nam khi tiếp cận các nội dung mới và phức tạp liên
quan đến xuất xứ và các cam kết, quy định phức tạp có liên quan áp dụng
trong AEC khi thiếu đội ngũ cán bộ am hiểu cũng như nguồn thông tin phục
vụ cho công tác phân tích, đánh giá, xây dựng chiến lực phù hợp, chủ động
trong cạnh tranh khi hội nhập. Chỉ khi áp dụng đúng, chính xác quy tắc xuất
183
xứ ưu đãi, nhà sản xuất, xuất khẩu mới có được C/O (hoặc Tự chứng nhận
xuất xứ) ưu đãi để được hưởng thuế quan ưu đãi khi xuất khẩu tới các nước
thành viên AEC. Do vậy, đội ngũ cán bộ tại các doanh nghiệp Việt Nam phần
lớn vốn chưa quen với việc áp dụng các quy trình, hệ thống quản trị sản xuất,
không tuân thủ chặt chẽ các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật nên không thực
hiện đầy đủ các công đoạn gia công, chế biến cần thiết đối với các đầu vào
nhập khẩu, chưa đưa ra được các biện pháp kiểm soát, phân bổ các nguồn
nguyên liệu đầu vào từ đó có thể đáp ứng được các tiêu chí xuất xứ hàng hoá
trong AEC. Bên cạnh đó, việc quản trị, quản lý các hồ sơ, chứng từ minh
chứng đáp ứng yêu cầu xác minh thường xuyên và đột xuất, xây dựng bộ
phận chuyên trách về xuất xứ hàng hóa để phục vụ các yêu cầu xác minh khi
cần thiết...để đáp ứng các thủ tục liên quan đến cấp C/O, áp dụng C/O còn
nhiều hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu vì vậy thường xuyên gặp sai sót,
mất nhiều thời gian và chi phí thực hiện. Thậm chí bị từ chối cấp C/O hay cho
hưởng C/O và dẫn đến bỏ lỡ những ưu đãi đáng ra được hưởng để tăng khả
năng cạnh tranh. Do vậy, việc tuyển dụng và thường xuyên đào tạo nâng cao
trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu và liên
quan đến xuất xứ hàng hoá tại các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Điều này
có thể được tiến hành qua việc các doanh nghiệp tăng cường liên kết chặt chẽ
với các cơ quan chính phủ, hiệp hội, các cơ sở đào tạo để cử các cán bộ của
mình tham gia các hội thảo, toạ đàm, lớp tập huấn chuyên sâu cập nhật các
thông tin, kiến thức về xuất xứ hàng hoá cũng như có những phản hồi đến các
cơ quan chính phủ về các tác động của việc áp dụng xuất xứ hàng hoá đến
doanh nghiệp của mình. Qua đó, Chính phủ sẽ nắm bắt được tình hình của
doanh nghiệp và có những biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời khi thực
hiện. Cụ thể như đưa ra các biện pháp cải cách tạo thuận lợi hơn việc cấp giấy
chứng nhận xuất xứ thông qua các hướng dẫn cụ thể và đơn giản hóa quy
184
trình thực hiện. Cùng với đó, khi trình độ đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp
được nâng lên thì cùng với đó các doanh nghiệp cũng cần nâng cao ý thức
tuân thủ pháp luật, trong đó có pháp luật về xuất xứ hàng hoá. Đặc biệt, với
xu hướng đẩy mạnh áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý hoạt động xuất nhập
khẩu và xu hướng áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá thì điều
này càng trở lên rất quan trọng. Đối với những doanh nghiệp được xếp vào có
mức độ tuân thủ cao sẽ được hưởng nhiều ưu tiên và cơ chế ưu đãi tạo điều
kiện thuận lợi trong việc áp dụng C/O trong hoạt động xuất nhập khẩu. Từ đó
có thể tận dụng được nhiều lợi thế, ưu đãi hơn các doanh nghiệp khác để tăng
cạnh tranh và đẩy mạnh phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Vì vậy, có thể nói rằng chỉ khi doanh nghiệp có một đội ngũ cán bộ đủ trình
độ nhận thức và áp dụng các quy định trong AEC, đặc biệt về quy tắc xuất xứ
hàng hoá thì tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ AEC mới được cải thiện, từ đó nâng cao
giá trị gia tăng và hàm lượng chế biến sâu trong các sản phẩm xuất khẩu của
Việt Nam, góp phần tạo nên sự tăng trưởng xuất khẩu bền vững cho nền kinh
tế đất nước.
4.3.3. Đầu tư nâng cao trình độ, năng lực sản xuất để đáp ứng được các
yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hoá trong AEC.
Một trong những vấn đề cốt lõi của việc áp dụng C/O cho hàng hoá xuất
khẩu vào AEC là hàng hoá phải đáp ứng được các tiêu chí về xuất xứ hàng
hoá, đặc biệt là các tiêu chí xuất xứ cụ thể hàng hoá gắn liền với tiêu chí RVC
và CTC. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực sản xuất hàng
hoá. Năng lực sản xuất của một doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào, trình độ người lao động, trình độ
quản lý và đặc biệt là khả năng áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ
vào sản xuất. v.v . Trong đó, máy móc thiết bị là một trong những yếu tố tham
gia trực tiếp của quá trình sản xuất chính vì thế việc tăng cường đầu tư, đổi
185
mới hiện đại hoá máy móc thiết bị hay đổi mới công nghệ là hết sức quan
trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Một doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
muốn tồn tại và phát triển được cần phải xây dựng cho mình một kế hoạch đổi
mới công nghệ. Cần đánh giá đúng những máy móc, thiết bị phải nâng cấp,
đổi mới, tránh mua phải những máy móc đã lạc hậu về công nghệ. chủ động
trong việc nâng cấp trang thiết bị, máy móc phụ vụ cho hoạt động sản xuất.
Đối với những doanh nghiệp có nguồn tài chính thì sắm mới; đối với những
doanh nghiệp eo hẹp về nguồn tài chính có thể thông qua các hoạt động như
thuê máy móc, thiết bị từ đó tiến hành chuyển giao công nghệ phù hợp với
nhu cầu của doanh nghiệp mình. Tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới công
nghệ sẽ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm tạo ra nhiều sản phẩm mới,
đa dạng hoá sản phẩm, tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp
lý tiết kiệm nguyên vật liệu từ đó đẩy nhanh việc tăng năng lực sản xuất, mức
độ chuyển đổi của hàng hoá.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần chủ động nguồn cung ứng nguyên
vật liệu trong nước cũng như nguồn nguyên liệu từ các nước thành viên AEC
để thay thế cho nguồn nguyên vật liệu có nguồn cung ứng từ các nước ngoài
AEC. Với việc sử dụng các loại nguyên vật liệu như vậy sẽ tăng tính chủ
động cho các doanh nghiệp cũng như tăng giá trị hàm lượng chế biến RVC
trong hàng hoá xuất khẩu từ đó đáp ứng được yêu cầu về xuất xứ hàng hoá để
được hưởng thuế quan ưu đãi khi xuất khẩu vào các nước AEC. Để có thể làm
được điều này thì đối với các nguồn phụ liệu phục vụ cho các ngành công
nghiệp dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử, hoá chất,... các doanh nghiệp chủ
động tiến hành việc lập đề án xây dư ̣ng các trung tâm nguyên phụ liệu. Từ các
đề án này, doanh nghiệp có thể đươ ̣c vay vố n ưu đãi từ ngân hàng để xây
dư ̣ng trung tâm, theo kinh nghiệm của doanh nghiệp Thái Lan. Tích cư ̣c phố i
hơ ̣p vớ i các cơ quan chức năng trong phát triển các ngành công nghiệp hỗ trơ ̣
186
giai đoạn tớ i. Kết hơ ̣p chặt chẽ vớ i các doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu
trong nướ c có chất lươ ̣ng để đảm bảo nguồn cung ứng nguyên phụ liệu đầu
vào ổn định cho sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời, các doanh nghiệp cần
chủ động tham gia liên kết với mạng lưới các doanh nghiệp cung ứng đầu vào
ở các nước ASEAN, để có thể cung ứng những nguyên phụ liệu trong nướ c
chưa sản xuất đươ ̣c, hoặc sản xuất nhưng chất lươ ̣ng chưa tố t. Từ đó có thêm
hàm lượng giá trị khu vực và đáp ứng yêu cầu xuất xứ cộng gộp khi xuất khẩu
vào một nước ASEAN khác. Đối với các nguồn nguyên liệu phục vụ cho xuất
khẩu hàng nông, thủy sản cần thiết lập mố i quan hệ mật thiết vớ i các nhà sản
xuất như người nông dân, người nuôi trồng thủy sản nâng cao về kỹ thuật
nuôi, trồng, thu hoạch, bảo quản đáp ứng tiêu chuẩn chất lươ ̣ng, vệ sinh an
toàn thư ̣c phẩm thı̀ đầu vào nguyên liệu của doanh nghiệp mớ i ổn định, từ đó đảm bảo về đầu ra là thành phẩm xuất khẩu.
Thêm vào đó, để tăng năng lực sản xuất thì các doanh nghiệp cần phải
tăng cường tham gia vào trong chuỗi liên kết trong sản xuất xuất khẩu thông
qua việc xây dựng và áp dụng mô hình liên kết trong xuất khẩu với những quy
mô và mức độ khác nhau. Có như vậy mới đảm bảo sự phát triển ổn định và
lâu dài của bản thân mỗi doanh nghiệp và từ đó thúc đẩy sự phát triển của các
ngành sản xuất của đất nước.
187
Kết luận chương 4
1. Trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của các hiệp định thương mại tự
do trên thế giới như hiện nay đang có sự tác động rất lớn đến hoạt động giao
thương và áp dụng quy tắc xuất xứ của Việt Nam. Chương 4 đã đánh giá
những điểm chính về các xu hướng phát triển của các FTA trên thế giới và tác
động đến Việt Nam, cũng như chỉ ra xu hướng xây dựng và áp dụng các quy
định xuất xứ hàng hóa mới trên thế giới.
2. Nội dung chương 4 cũng đã đề xuất các giải pháp tăng cường thực
hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi trong
AEC xét trên hai khía cạnh đó là:
• Về phía nhà nước cần: Tạo dựng khuôn khổ pháp lý xuất xứ hàng hoá
hoàn chỉnh dựa trên cơ sở nền tảng các quy định về xuất xứ trong AEC; Đẩy
mạnh việc hỗ trợ, phối hợp trao đổi thông tin và kiến thức về thuế quan và
xuất xứ hàng hoá giữa các cơ quan nhà nước với các doanh nghiệp; Thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành nghề sản xuất nhằm đáp ứng được các tiêu
chí xuất xứ hàng hoá trong AEC; Tăng cường nâng cao năng lực quản lý,
kiểm tra, giám sát việc thực hiện và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật về xuất xứ
hàng hoá trong AEC của các cơ quan quản lý nhà nước..
• Về phía các doanh nghiệp Việt Nam cần: Chủ động, tích cực nắm bắt
và áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hoá, thuế quan vào trong hoạt động
kinh doanh; Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ, am hiểu về xuất
xứ hàng hoá; Đầu tư nâng cao trình độ, năng lực sản xuất để đáp ứng được
các yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hoá trong AEC.
188
KẾT LUẬN
Qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang ngày càng đi vào
chiều sâu, đặc biệt là việc tham gia vào hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC) vào năm 2015. Với AEC, nền kinh tế của Việt Nam đang đứng trước
thách thức lớn khi phải mở rộng cách cửa cho hàng hóa từ các nước thành
viên AEC vào Việt Nam, đặc biệt thông qua việc cắt giảm, loại bỏ thuế quan
mạnh mẽ từ sau 2015. Vì vậy, việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá càng
đóng một vai trò quan trọng trong hội nhập của Việt Nam vào AEC.
Luận án đã hệ thống hóa về mặt lý luận và thực tiễn các quy định liên
quan đến quy tắc xuất xứ hàng hóa và thuế quan ưu đãi áp dụng trên thế giới
cũng như trong AEC. Trên cơ sở đó, đưa ra những nhìn nhận, phân tích về
việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hóa trong AEC liên quan đến lộ trình
cắt giảm thuế quan, cũng như tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu
của Việt Nam trong thời gian qua và những kết quả đạt được, hạn chế trong
việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá trong AEC của Việt Nam cũng như
những nguyên nhân của những hạn chế này. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra
các giải pháp, các kiến nghị chính sách liên quan trực tiếp đến quy tắc xuất
xứ hàng hóa với việc áp dụng thuế quan ưu đãi và các giải pháp có liên quan
để thực hiện tốt các quy định xuất xứ hàng hoá trong thời gian tới nhằm gia
tăng hoạt động xuất nhập khẩu và hạn chế nhập siêu trên hai giác độ là về
phía nhà nước và về phía các doanh nghiệp.
Các chính sách và giải pháp thúc đẩy tăng cường thực hiện tốt các quy
định xuất xứ hàng hóa trong áp dụng thuế quan ưu đãi liên quan đến nhiều bộ,
ngành, các cấp, cũng như cả cộng đồng doanh nghiệp. Vì thế để có thể thực
hiện được cần có sự chung sức, nỗ lực của cả Nhà nước và doanh nghiệp.
thì mới có thể đáp ứng được những yêu cầu của quá trình hội nhập vào AEC.
189
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
1. PGS.,TS.Nguyễn Thị Thương Huyền, Ths.Nguyễn Hoàng Tuấn
(2010), Giáo trình phân loại và xuất xứ hàng hóa, Học viện Tài chính.
2. Nguyễn Hoàng Tuấn (2013), “Thống nhất về cách hiểu khi sử dụng
hóa đơn thương mại trong áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hóa theo các
FTA của Việt Nam’’, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 12(125), tr.
43-46.
3. Nguyễn Hoàng Tuấn, Thái Bùi Hải An (2014), Áp dụng hiệu quả các
quy định về xuất xứ hàng hóa trong các hiệp định thương mại tự do của Việt
Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện Tài chính.
4. Nguyễn Hoàng Tuấn (2014), “Thực hiện cơ chế hải quan một cửa và
hải quan điện tử: những chuyển biến mạnh mẽ”, Tạp chí tài chính, số 8(598),
tr.31-33.
5. Nguyễn Hoàng Tuấn, Nguyễn Thị Lan Hương (2016), Cải cách và
hiện đại hoá quản lý nhà nước về hải quan khi Việt Nam tham gia cộng đồng
kinh tế ASEAN, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện Tài chính.
6. Nguyễn Hoàng Tuấn (2017), “Vấn đề thuế quan và áp dụng quy tắc
xuất xứ hàng hoá trong thương mại Việt Nam- ASEAN”, Tạp chí Tài chính, kỳ
1 – tháng 4/2017(654), tr 83-84.
7. Nguyễn Hoàng Tuấn (2017), “Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu
Việt Nam trong AEC”,Tạp chí Tài chính, kỳ 2– tháng 4/2017(655), tr 11-12.
8. Nguyễn Hoàng Tuấn (2017), “Tận dụng các ưu đãi thuế khi áp dụng
tiêu chí xuất xứ hàng hoá xuất khẩu trong AEC”, Tạp chí Thanh tra Tài chính,
số 179 (5-2017), tr 43-44.
9. Nguyễn Hoàng Tuấn, Vũ Duy Nguyên (2017), Cơ chế tự chứng nhận
xuất xứ hàng hóa: kinh nghiệm các nước và giải pháp áp dụng tại Việt Nam,
đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện Tài chính năm 2017.
190
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Từ Thuý Anh và Đào Nguyên Thắng (2008), các nhân tố ảnh hưởng đến
mức độ tập trung thương mại của Việt Nam với các nước ASEAN+3,
Trung tâm nghiên cứu và chính sách-trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2008.
2. Barry Larking (2006), Thuật ngữ thuế quốc tế, NXB Hà Nội.
3. Bộ công Thương (2010), Thông tư 21/2010/TT-BCT ngày 17/05/2010 thực
hiện Quy tắc xuất xứ trong Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN.
4. Bộ công Thương (2010), Hợp tác kinh tế Việt Nam với ASEAN và ASEAN
mở rộng, NXB Công thương.
5. Bộ công Thương (2014), Thông tư 42/214/TT-BCT ngày 18/11/2014 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 21/2010/TT-BCT ngày
17/05/2010 của Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện Quy tắc xuất xứ
trong Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN.
6. Bộ công Thương (2014), Tài liệu hội thảo “Tự chứng nhận xuất xứ” tại Hà
nội ngày 17/06/2014, Hà Nội.
7. Bộ công Thương (2015), Thông tư 28/2015/TT-BTC Quy định việc thực
hiện thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định thương mại
hàng hóa ASEAN.
8. Bộ Công Thương, Dự án EU – MUTRAP (2015), Tài liệu hội thảo “Cơ chế
tự chứng nhận xuất xứ - kinh nghiệm của các nước và khuyến nghị cho
Việt Nam”, Hà nội
9. Bộ công Thương (2016), Tận dụng ưu đãi trong hiệp định thương mại tự do
ASEAN- Úc- Niu Di Lân để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam,
NXB công thương, Hà Nội 2015.
10. Bộ công Thương (2016), Tài liệu về cộng đồng kinh tế ASEAN, Hà Nội.
191
11. Bộ công Thương (2016), Thông tư số 22/2016/TT-BCT ngày 03 tháng 10
năm 2016 thực hiện Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Thương
mại hàng hóa ASEAN.
12. Bộ công Thương (2016), Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015- kết quả hội
nhập và cơ hội cho doanh nghiệp, người dân Việt Nam, NXB thế giới
13. Bộ công Thương (2017), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2016, Hà Nội 14. Bộ Tài chính (2006), Quyết định 39/2006/QĐ-BTC ngày 28/07/2006 của
Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế
nhập khẩu ưu đãi.
15. Bộ Tài chính (2006), Quyết định số 09/2006/QĐ-BTC ngày 28/02/2006
của Bộ trưởng Bộ Tài chính về ban hành danh mục hàng hoá và mức thuế
suất thuế nhập khẩu của Việt Nam để thực hiện hiệp định CEPT/AFTA
giai đoạn 2006-2013.
16. Bộ Tài chính (2015), Thông tư 182/2015/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài
chính về việc ban hành biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi
theo danh mục mặt hàng chịu thuế.
17. Brian Staples (2015), Báo cáo Hỗ trợ Bộ Công Thương về Sáng kiến tự
chứng nhận xuất xứ, MUTRAP.
18. TS.Phạm Văn Chất (2013), Tài liệu tập huấn về WTO và hội nhập kinh tế
quốc tế dành cho đối tượng doanh nghiệp, TP. Hồ Chí Minh.
19. Chính phủ (2006), Nghị định 19/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật
Thương mại về xuất xứ hàng hóa, Hà Nội.
20. Cục Xuất Nhập khẩu, Bộ Công Thương (2014), Báo cáo Xuất nhập khẩu
Việt Nam 2013, Hà Nội.
21. Nguyễn Cương (2015), “Cơ chế chứ ng nhâ ̣n xuất xứ hàng hoá trong các FTA và vấn đề đă ̣t ra vớ i Viê ̣t Nam”, Tạp chı́ Nghiên cứ u Thương mại số 13& 14 tháng 04/2015.
192
22. Nguyễn Tiến Dũng (2011), “Tác động của Khu vực thương mại tự do
ASEAN-Hàn Quốc đến thương mại Việt Nam”, tạp chí kinh tế và kinh
doanh, đại học quốc gia Hà Nội, 27(2011),219.
23. Khương Duy (2014), “Vai trò bảo hộ của quy tắc xuất xứ trong thương
mại quốc tế”, tạp chí kinh tế đối ngoại số 56, trường đại học Ngoại thương
Hà Nội.
24. Khương Duy (2015), “Cộng đồng kinh tế ASEAN và những tác động đến
Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, Kỳ I-tháng 12/2015(622), Tr.54-56.
25. Hà Văn Hội (2013), “Tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN và những tác
động đến thương mại quốc tế của Việt Nam”, tạp chí khoa học ĐHQGHN,
Kinh tế và kinh doanh, tập 29, số 4(2013) tr.44-53.
26. Stefano Inama, Hồ Quang Trung, Trần Bá Cường, Phan Sinh (2011), “Báo
cáo đánh giá tác động của quy tắc xuất xứ trong các hiệp định thương mại
tự do của Việt Nam”, MUTRAP.
27. Nguyễn Phúc Khanh (2005), Nghiên cứu việc hình thành cộng đồng kinh
tế ASEAN (AEC) và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, đề tài nghiên
cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ giáo dục và đào tạo, trường Đại học
Ngoại thương.
định thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA), 28. Hiệp
http://www.trungtamwto.vn/cachiepdinhkhac/hiep-dinh-thuong-mai-hang-
hoa-asean-atiga.
29. Phan Thị Thu Hiền (2014), “Hoàn thiện chính sách kiểm tra xuất xứ hàng
hóa nhập khẩu của Tổng cục hải quan Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ
chuyên ngành kinh tế đối ngoại Đại học Kinh tế quốc dân.
30. PGS.,TS.Nguyễn Thị Thương Huyền, Ths.Nguyễn Hoàng Tuấn (2010),
Giáo trình phân loại và xuất xứ hàng hóa, Học viện Tài chính.
193
31. TS.Nguyễn Thị Thương Huyền (2010), “Kỹ thuật nghiệp vụ hải quan và
xuất nhập khẩu lý thuyết và tình huống ứng dụng”, nhà xuất bản Tài chính,
Hà Nội.
32. Lê Thị Hồng Lan (2008), “Phương pháp xác định xuất xứ hàng hóa xuất
nhập khẩu ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ quản
trị kinh doanh đại học ngoại thương.
33. Nguyễn Thị Liên (2009), Giáo trình thuế, NXB Tài chính.
34. Ngọc Linh (2014), “Quản lý xuất xứ hàng hóa trước yêu cầu mới”, báo hải
quan Online 29/11/2014. http://www.baohaiquan.vn/pages/quan-ly-xuat-
xu-hang-hoa-truoc-yeu-cau-moi.aspx.
35. MUTRAP (2010), Báo cáo đánh giá tác động của các hiệp định thương
mại tự do đối với kinh tế Việt Nam, Hà Nội.
36. MUTRAP III (2012), Hiệp định Thương mại tự do: Một số khái niệm cơ
bản, Hà Nội.
37. Quốc hội (2005), Luật Thương mại Việt Nam, Hà Nội.
38. Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Anh Thu (2015), Cộng đồng kinh tế ASEAN
(AEC): Bối cảnh và kinh nghiệm quốc tế, nhà xuất bản đại học quốc gia
Hà Nội.
39. Nguyễn Hồng Sơn, TS. Nguyễn Mạnh Hùng (2014), “Cộng đồng kinh tế
ASEAN trong bối cảnh quốc tế mới”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế &
Chính trị Thế giới, tháng 7/2014.
40. Trần Thị Thanh Tâm (2015), “Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi
tham gia AEC”, Tạp chí Tài chính/ 2015, Số 606 (Tháng 4), tr. 8 – 11..
41. Nguyễn Anh Thu, Vũ Thanh Hương, Vũ Văn Trung, Lê Thị Thanh Xuân
(2015), “Tác động của cộng đồng kinh tế ASEAN đến thương mại Việt
Nam”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN-kinh tế và kinh doanh, tập 31, số
4(2015) 39-50.
194
42. Nguyễn Anh Tuấn (2015), “Cộng đồng Kinh tế ASEAN: Triển vọng và
những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, Tạp chí cộng sản số tháng 6/2015.
43. Nguyễn Hoàng Tuấn, Thái Bùi Hải An (2014), Áp dụng hiệu quả các quy
định về xuất xứ hàng hóa trong các hiệp định thương mại tự do của Việt
Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện Tài chính.
44. Nguyễn Hoàng Tuấn (2012), “Gian lận thuế nhập khẩu qua mã số và xuất
xứ hàng hoá”, Kỷ yếu hội thảo khoa học khoa Thuế và hải quan tháng
09/2012: “Chống gian lận thuế ở Việt Nam-Những vấn đề lý luận và thực
tiễn”.
45. Nguyễn Hoàng Tuấn (2013), “Thống nhất về cách hiểu khi sử dụng hóa
đơn thương mại trong áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hóa theo các
FTA của Việt Nam’’, Tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán, số 12(125), tr.
43-46.
46. Nguyễn Ngọc Túc (2008), Hoàn thiện các biện pháp kiểm tra xuất xứ
hàng hoá xuất nhập khẩu của hải quan Việt Nam, đề tài NCKH cấp Bộ Tài
chính.
47. Nguyễn Hoàng Tuấn (2017), “Vấn đề thuế quan và áp dụng quy tắc xuất
xứ hàng hoá trong thương mại Việt Nam- ASEAN”, tạp chí Tài chính, kỳ 1
– tháng 4/2017(654), tr 83-84.
48. Từ điển bách khoa Việt Nam tập 4 (2005), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà
Nội.
49. Từ điển Luật học, http://luatvietnam.vn/default.aspx?tabid=779&p=264.
50. VCCI (2015), Báo cáo nghiên cứu Tự do thương mại quốc tế ở Việt Nam,
Hà Nội.
51. VCCI (2013), Báo cáo nghiên cứu hiệu quả tham vấn doanh nghiệp trong
đàm phán các hiệp định thương mại tự do, Hà Nội.
195
52. Viện nghiên cứu thương mại (2016), Kỷ yếu hội thảo phát triển thương
mại Việt Nam giai đoạn 2016-2025, Hà Nội.
53. WCO (1999), Công ước Kyoto về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải
quan (sửa đổi năm 1999).
quy
Hiệp
định
về
tắc
xuất
(1994),
xứ,
54. WTO
http://www.trungtamwto.vn/wto/hiep-dinh-ve-quy-tac-xuat-xu
Tiếng Anh
55. Aigner, D., Lovell, C., & Schmidt P. (1977), “Formulation and estimation
of stochastic frontier production function models”, Journal of
Econometrics, 6(1), 21-37.
56. Armstrong, S. (2007), “Measuring Trade and Trade Potential: A Survey”,.
Asia Pacific Economic Papers, No. 368, 1-19.
57. Anne van de Heetkamp and Ruud Tusveld (2011), Origin Management:
Rules of Origin in Free Trade Agreements, Springer Heidelberg Dordrecht
58. Antoni Estevadeordal và Kati Suominen (2003), “Rules of Origin in the
World Trading System”, WTO.
59. Antoni Estevadeordal and Kati Suomien (2005), what are the effects of
origin on trade?, World bank.
Jeremy Harris, Kati Suominen (2009), 60. Antoni Estevadeordal,
“Multilateralising Preferential Rules of Origin around the World”, IDB
WORKING PAPER SERIES # IDB-WP-137.
61. Atsushi Tanaka (2011), World Trends in Preferential Origin Certification
and Verification, WCO.
62. Archanun Kohpaiboon and Juthathip Jongwanich (2015), Use of FTAs
from Thai Experience, ERIA Discussion Paper Series 2015-02
196
63. Baldwin, R. & Taglioni, D. (2006). Gravity for Dummies and Dummies
for Gravity Equations. NBER Working Papers 12516, National Bureau of
Economic Research, Inc.
64. Biswajit Nag and Debdeep De (2011), “Rules of origin and development of
regional production network in Asia : case studies of selected industries’’,
Working Papers 10111, Asia-Pacific Research and Training Network on
Trade (ARTNeT)
65. Carolina Bjuggren and Elenor Hanson Lundström (2012), The Impact of
Rules of Origin on Trade, National Board of Trade, March 2012.
66. Colleen Carroll, Dylan Geraets, Arnoud R. Willems, (2014), “Reconciling
rules of origin and global value chains: the case for reform”, Leuven
Centre for Global Governance Studies – Institute for International Law,
KU Leuven.
67. Christopher Findlay & Shujiro Urata (2010), Free Trade Agreeents In The
Asia Pacific,World Scientific Studies in International Economics - Vol.11.
68. Cheewatrakoolpong, Kornkarun, Sabhasri, Bunditwattanawong, Nath,
Chayodom (2013): “Impact of the ASEAN economic community on ASEAN
production networks”, ADBI Working Paper Series, No. 409.
69. Duttagupta và Panagariya (2003), Free Trade Areas and Rules of Origin
Economics and Politics, MF Working Paper No. 03/229.
70. Erlinda M. Medalla, Jenny Balboa (2009), ASEAN Rules of Origin:
Lessons and Recommendations for Best Practice, Philippine Institute for
Development Studies (PIDS), Philippines.
71. Erlinda M. Medalla and Josef T. Yap (2008), “Policy Issues for the
ASEAN Economic Community: the Rules of Origin”, Philippine Institute
for Development Studies.
197
72. Estevadeordal, A. and K. Suominen (2003), Rules of Origin in FTAs in
Europe and in the Americas: Issues and Implications for the EU-Mercosur
Inter-Regional Association Agreement, in: Valladão, A. G. A. and R.
Bouzas, eds., Market Access for Goods & Services in the EU-Mercosur
Negotiations (Chaire Mercosur de Sciences Po, Paris).
73. Hiratsuka, D., K. Hayakawa, K. Shino and S. Sukegawa (2009),
Maximizing Benefits
from FTAs
in ASEAN, Deepening East
AsianEconomic Integration, ERIA Research Project Report 2008-1
74. Hiro Lee, Michael G.Plummer (2011), “Assessing the Impact of the
ASEAN Economic Community”, OSIPP Discussion Paper: DP-2011-E-002
75. Jayant Menon and Anna Cassandra Melendez (2015), “Realizing an
ASEAN Economic Community: Progress and Remaining Challenges”,
ADB Economics Working Paper Series
76. Kala Krishna (2004), Understanding rules of origin, Pennsylvania State
University and NBER .
77. Kazunobu Hayakawa (2013), Impacts of common rules of origin on FTA
Utilization, IDE discussion paper No.429
78. Lili Yan Ing, Shujiro Urata (2015), The Use of FTAs in ASEAN: Survey-
based Analysis, Economic Research Institute for ASEAN and East Asia,
2015
79. Lili Yan Ing, Olivier Cadot (2014), “How Restrictive Are ASEAN’s
RoO?”, ERIA-DP-2014-18
80. Lili Yan Ing, Olivier Cadot (2016), “Facilitating ASEAN trade in goods”,
ERIA Discussion Paper Series
81. Maria Donner Abreu (2013), Preferential rules of origin in regional trade
agreements, Economic Research and Statistics Division March, WTO.
198
82. Meeusen, W., & Van den Broeck, J. (1977), “Efficiency Estimation from
Cobb-Douglas Production Function with Composed Errors”, International
Economic Review,18(2):435-444.
83. Michael F. Martin (2012), International Trade: Rules of Origin,
Congressional Research Service.
84. Mina Mashayekhi (2011), “Rules of origin and origin procedures
applicable to exports from least developed countries”, UNCTAD
85. Misa OKABE, Shujiro URATA (2013), “The Impact of AFTA on Intra-
AFTA Trade”, ERIA Discussion Paper Series -2013-05, Indonesia.
86. Normaz Wana Ismail and Collin Wong Koh King (2013), “The Effects of
ASEAN Free Trade Agreement (AFTA) on Intra ASEAN Trade: 1986-
2010”, Pertanika J. Soc. Sci. & Hum. 21 (S): 115 - 124 (2013).
87. Olivier Cadot, Antoni Estevadeordal, Akiko Suwa-Eisenmann và Thiery
Verdier (2006), The Origin of Goods, Oxford University Press
88. Olivier Cadot, Jaime de Melo, Alberto Portugal-Perez (2006), Rules of
Origin for Preferential trading arrangements : implications for the ASEAN
free trade area of EU and US experience , Washington, DC,World bank
89. Patricia Augier, Michael Gasiorek và Charles Lai-Tong (2005), “The
impact of rules of origin on trade flows”, Econ Policy (2005) 20 (43): 568-
624
90. Peter A.Petri, Michael G.Plummer and Fan Zhai (2012), “ASEAN
Economic Community: A General Equilibrium Analysis”, Asian Economic
Journal, 26(2), 93–118
91. Peter Clark (2013), “Free Trade Areas and Rules of Origin : Economics
and Politics”, IMF
92. Ponciano Intal, Jr., Yoshifumi Fukunaga, Fukunari Kimura, Phoumin Han,
Philippa Dee, Dionisius Narjoko, Sothea Oum (2014), ASEAN RISING:
199
ASEAN and AEC Beyond 2015, Economic Research Institute for ASEAN
and East Asia (ERIA), Indonesia.
93. Sangkyom Kim, Innwon Park, and Soonchan Park (2012), “Trade-creating
Regime-wide Rules of Origin: A Quantitative Analysis”, the Marine
Economy, Innovation and International Trade, China, October 30–31,
2012
94. Stefano Inama (2009), Rules of origin on international trade, Cambridge
University Press
95. Doan Ngoc Thang (2016 ), Free trade agreements, rules of origin and
trade efficiency- a stochastic frontier gravity model approach, thesis
Macroeconomic Policy Program, Japan National Graduate Institute for
Policy Studies
96. Nguyen Anh Thu, “Assessing the Impact of Vietnam’s Integration under
AFTA and VJEPA on Vietnam’s Trade Flows, Gravity Model Approach”,
Yokohama Journal of Sciences, 17 (2012) 2, 137.
97. Teruo UJIIE (2006), Rules of origin: conceptual explorations and lessons
from the generalized system of preferences, ADB.
98. Teruo Ujiie (2006), “Rules of Origin: Conceptual Explorations and
Lessons from the Generalized System of Preferences”, ERD Working
Paper No. 89
99. The ASEAN Secretariat (2015), ASEAN Statistical Yearbook 2015
100. Uwe Kaufmann (2014), Determinants and Impacts of rules of origin in
Australia’s free trade agreements, thesis in the University of Adelaide
101. Verdeja, Luis F. (2012), “Empirical assessment of the impact on trade of
product specific preferential rules of origin”, PhD thesis, University of
Nottingham
102. WCO (1999), Revised Kyoto Convention
200
103. WCO (2014), Comparative study on certification of origin, Belgium.
104. WCO (2013), Glossary of International Customs Terms, Belgium.
105. World economic forum (2015), Global Competitiveness report 2015.
106. Luc De Wulf and Jose B. Sokol (2005 ), Customs modernization
handbook, Washington, DC,World bank
107. Xinxuan Cheng (2010), “The Development of FTA Rules of Origin
Functions”, Asian Social Science, Vol. 6, No. 12; December 2010.
201
PHỤ LỤC 1
(Trích điều 27 chương 3 của hiệp định ATIGA)
Điều 27. Hàng hoá có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ
Trong phạm vi Điều 26 (a), những hàng hoá sau đây phải được xem là có
xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Quốc gia Thành viên xuất
khẩu:
(a) Thực vật và các sản phẩm từ thực vật, bao gồm trái cây, hoa, rau, cây,
tảo biển, nấm và các thực vật sống, được trồng và thu hoạch, hái và thu lượm
tại Quốc gia Thành viên xuất khẩu;
(b) Động vật sống, bao gồm động vật có vú, chim, cá, loài giáp xác, loài
không xương sống, loài bò sát, vi khuẩn và vi rút, sinh trưởng và được nuôi
dưỡng tại Quốc gia Thành viên xuất khẩu;
(c) Hàng hoá thu được từ Quốc gia Thành viên xuất khẩu;
(d) Hàng hoá thu được từ săn bắn, bẫy, câu, trồng trọt, nuôi trồng thuỷ
sản, thu gom và đánh bắt được tiến hành tại Quốc gia Xuất khẩu thành viên;
(e) Khoáng sản và các chất sản sinh tự nhiên khác, chưa được liệt kê từ
khoản (a) đến (d) của Điều này và được chiết xuất hoặc lấy ra từ đất, nước,
đáy biển hoặc dưới đáy biển;
(f) Sản phẩm đánh bằng tàu được đăng ký với một Quốc gia Thành viên
và có treo cờ của Quốc gia Thành viên đó và các sản phẩm khác24 được khai
thác từ vùng lãnh hải, đáy biển hoặc dưới đáy biển bên ngoài vùng lãnh hải25
24 “Các sản phẩm khác” chỉ các khoáng sản và các chất hình thành tự nhiên khác được khai thác từ vùng lãnh hải, đáy biển hoặc dưới đáy biển bên ngoài vùng lãnh hải.
25 Đối với các sản phẩm đánh bắt ngoài vùng lãnh hải (ví dụ Vùng đặc quyền kinh tế), sản phẩm được coi là có xuất xứ của Quốc gia Thành viên nếu tàu khai thác sản phẩm đó được đăng ký tại Quốc gia Thành viên và treo cờ của Quốc gia Thành viên đó, với điều kiện là Quốc gia Thành viên đó có quyền khai thác vùng đó theo luật quốc tế;
của Quốc gia Thành viên đó, với điều kiện Quốc gia Thành viên đó có quyền
202
khai thác vùng lãnh hải, đáy biển và dưới đáy biển đó theo luật quốc tế26;
(g) Sản phẩm đánh bắt và các sản phẩm từ biển khác được đánh bắt từ
vùng biển cả bằng được đăng ký với một Quốc gia Thành viên và được phép
treo cờ của Quốc gia Thành viên đó;
(h) Sản phẩm được chế biến và/hoặc được sản xuất ngay trên tàu được
đăng ký với một Quốc gia Thành viên và được phép treo cờ của Quốc gia
Thành viên đó, trừ các sản phẩm được quy định trong khoản (g) của Điều này;
(i) Các vật phẩm được thu nhặt tại nước đó nhưng không còn thực hiện
được những chức năng ban đầu hoặc cũng không thể sửa chữa hay khôi phục
được và chỉ có thể vứt bỏ hoặc dùng làm các nguyên vật liệu, hoặc sử dụng
vào mục đích tái chế;
(j) Phế thải và phế liệu có nguồn gốc từ:
i. quá trình sản xuất tại Quốc gia Thành viên xuất khẩu; hoặc
ii. hàng hoá đã qua sử dụng được thu nhặt tại Quốc gia Thành viên xuất
khẩu; với điều kiện những hàng hoá đó chỉ phù hợp làm nguyên vật liệu thô;
và
(k) Hàng hoá thu được hoặc được sản xuất tại Quốc gia Thành viên xuất
26 Theo luật quốc tế, việc đăng ký tàu chỉ có thể được thực hiện tại một Quốc gia Thành viên.
khẩu từ các sản phẩm được quy định từ khoản (a) đến (j) của Điều này.[27]
203
PHỤ LỤC 2: MẪU C/O MẪU D
Original (Duplicate/Triplicate)
Reference No.
1. Goods consigned from (Exporter's business name,
ASEAN TRADE IN GOODS AGREEMENT/
address, country)
ASEAN INDUSTRIAL COOPERATION SCHEME
CERTIFICATE OF ORIGIN
(Combined Declaration and Certificate)
2. Goods consigned to (Consignee's name, address,
FORM D
country)
Issued in ______________
(Country)
See Overleaf Notes
3. Means of transport and route (as far as know n)
4. For Official Use
Departure date
Preferential Treatment Given Under ASEAN Trade in Goods Agreement
Vessel's name/Aircraft etc.
Preferential Treatment Given Under ASEAN Industrial Cooperation Scheme
Port of Discharge
Preferential Treatment Not Given (Please state reason/s)
..................................................................................
Signature of Authorised Signatory of the Importing Country
7. Number and type of
5. Item number
8. Origin criterion (see Overleaf Notes)
10. Number and date of invoices
6. Marks and numbers on packages, description of goods (including quantity packages w here appropriate and HS number of the importing country)
9. Gross w eight or other quantity and value (FOB) w here RVC is applied
11. Declaration by the exporter
12. Certification
The undersigned hereby declares that the above details and statement are correct; that all the goods w ere produced in
It is hereby certified, on the basis of control carried out, that the declaration by the exporter is correct.
.............................................................
(Country)
and that they comply w ith the origin requirements specified for these goods in the ASEAN Trade in Goods Agreement for the goods exported to
.............................................................
(Importing Country)
.............................................................
................................................................................
Place and date, signature of authorised signatory
Place and date, signature and stamp of certifying authority
13 □ Third Country Invoicing
□ Exhibition
□ Accumulation
□ De Minimis
□ Back-to-Back CO
□ Issued Retroactively
□ Partial Cumulation
PHỤ LỤC 3: Tổng hợp áp dụng tiêu chí xuất xứ hàng hoá của hiệp định ATIGA theo các phần của danh mục HS
Phần
STT
II
I
III
IV
V
VI VII VIII
IX X
XI XII XIII XIV XV XVI XVII XVIII XIX XX XXI
Tiêu chí xuất xứ
1 WO
50
131
12
3
6
18
1
2
RVC(40) hoặc CTSH + x
2
1
1
4
3
RVC(40) hoặc CTH hoặc x
8
15
4
RVC(40) hoặc CTH + x
52
5
RVC(40) hoặc CC + x
77
6
RVC(40)
6
30
61
50
7
RVC(40) hoặc CC hoặc x
35
8
RVC(40) hoặc CC
85
96
12
124
12
28
39
4
1
2 0 4
9
109
33
RVC(40) hoặc CTH hoặc CTSH+RVC(35)
10 RVC(40) hoặc CTSH
32
22
5
23
75
5
15
61
431
6
5
56
46
11
167
RVC(40) hoặc CC hoặc Quy tắc hàng dệt may
12
1
330
1
1
RVC (40) hoặc CTH hoặc Quy tắc hàng dệt may
13
265
RCV(40) hoặc Quy tắc hàng dệt may hoặc CC + x
14
1
RVC(40) hoặc Quy tắc hàng dệt may hoặc CTH + x
2
15 RVC hoặc CTH
169
49
1
81
129
762
211
51
19
136
47
142
28
266
188
67
107
18
71
7
336
304
48
211
148
787
211
94
69
141
796
142
563
771
130
211
118
47
18
53
Tổng
7 (Nguồn: Tổng hợp từ phụ lục quy tắc xuất xứ hàng hoá của hiệp định ATIGA)
PHỤ LỤC 4: BẢNG TỔNG HỢP DỮ LIỆU THU THẬP ĐỀ TÀI
Quốc gia
Năm
Tvnjt
Tjvnt
ER (đồng)
GDP (triệu USD)
Chênh lệch thu nhập INCOMEGAP (USD)
Nhập khẩu IM (triệu USD)
Xuất khẩu EX (triệu USD)
Dân số POP (nghìn người)
2 0 5
780,60 957,90 95,00 1254,00 16,50 782,80 1811,70 930,20
169,50 1012,80 166,60 1482,00 64,60 342,60 6273,90 3034,40
1041,10 1153,20 109,70 1555,00 21,80 965,10 2234,40 1030,00
205,50 1353,90 211,30 2289,90 75,40 414,20 7613,70 3744,20
365,00 14081,00 222747,00 5747,00 26550,00 48983,00 86973,00 4401,00 65574,00 370,00 14364,00 225642,00 5873,00 27058,00 49334,00 88546,00 4589,00 66041,00 375,00 13396,00 228523,00 6000,00
10066,03 3,90 1,75 1,57 4360,27 2737,36 311,69 10066,03 422,21 10686,16 3,97 1,76 1,68 4685,03 2867,27 348,99 10686,16 466,57 11503,41 4,02 1,68 1,86
Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos
2006 2006 2006 2006 2006 2006 2006 2006 2006 2007 2007 2007 2007 2007 2007 2007 2007 2007 2008 2008 2008 2008
1531,60 751,20 160,30
11464,00 7258,00 364371,00 3309,00 163550,00 13187,00 122419,00 147797,00 207328,00 12281,00 8636,00 431024,00 4224,00 193901,00 19132,00 152126,00 179981,00 247178,00 14483,00 11073,00 512753,00 5291,00
30654,00 -283,00 838,00 -222,00 5362,00 -530,00 610,00 32782,00 2587,00 32371,00 -317,00 992,00 -199,00 6248,00 -549,00 800,00 38306,00 3066,00 37370,00 -338,00 1079,00 -283,00
4,56 4,56 4,56 4,56 4,56 4,56 4,56 4,56 4,56 4,53 4,53 4,53 4,53 4,53 4,53 4,53 4,53 4,53 2,86 2,86 2,86 2,86
1,18 8,82 1,93 3,05 2,30 4,20 2,37 0,00 2,47 0,73 8,23 1,66 1,80 1,04 3,47 2,42 0,00 2,29 0,73 7,13 0,99 1,28
214,30 1728,90 278,70
2596,10 75,60 389,10 9378,00 4905,60
197,10 1452,70 254,20 2561,30
59,10 450,70 7015,20
2030,40 32,60 1824,70 2713,80 1288,50 7,70 1166,50 754,10 172,20 1775,20 33,90 1461,90 2075,60 1314,20
2 0 6
27568,00 49708,00 90457,00 4839,00 66482,00 380,00 14085,00 231370,00 6128,00 28082,00 50110,00 92227,00 4988,00 66903,00 387,00 14303,00 238519,00 6256,00 28589,00 50537,00 93135,00 5077,00 67313,00 393,00 14521,00 241991,00 6385,00 29062,00 50149,00
4887,01 2995,94 367,80 11522,16 489,36 11732,05 4,12 1,64 2,00 4841,84 3060,25 357,91 11732,49 497,73 13650,74 4,45 2,05 2,25 5778,46 3303,16 412,61 13650,75 587,42 16304,59 5,05 2,34 2,55 6702,53 3767,33
Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar
2008 2008 2008 2008 2008 2009 2009 2009 2009 2009 2009 2009 2009 2009 2010 2010 2010 2010 2010 2010 2010 2010 2010 2011 2011 2011 2011 2011 2011
14,20 1563,80 1433,40 200,00 2093,10 49,50 1706,40 2121,30 1182,80 15,40 2519,00 2358,90 286,60 2770,80 82,50
231382,00 25435,00 173427,00 192240,00 272946,00 10815,36 10353,66 545854,46 5594,91 202627,38 26961,51 168643,86 192408,39 281916,46 12401,94 11229,31 710068,34 6752,02 250772,87 41003,63 199975,94 236421,80 341338,45 16691,36 12803,91 846522,62 8060,60 298141,84 56501,99
7228,00 -674,00 752,00 38559,00 3224,00 27221,56 -497,36 1126,81 -319,41 5983,26 -694,38 596,15 37344,92 2981,38 30725,11 -552,71 1639,16 -258,57 7433,95 -526,47 809,33 45232,15 3733,09 40888,80 -660,95 1955,47 -280,27 8716,13 -416,01
2,86 2,86 2,86 2,86 2,86 2,97 2,97 2,97 2,97 2,97 2,97 2,97 2,97 2,97 2,90 2,90 2,90 2,90 2,90 2,90 2,90 2,90 2,90 2,76 2,76 2,76 2,76 2,76 2,76
0,95 2,83 0,96 0,00 1,03 0,61 5,83 1,05 1,54 0,94 1,11 1,01 0,00 1,01 0,00 4,62 0,06 1,53 0,04 1,10 0,19 0,00 0,01 2,66 4,83 0,06 1,31 0,04 1,10
4471,10 10,00 276,60 1909,20 291,70 3413,40 102,80 700,30 4101,10 5602,30 189,20 429,60 2247,60 460,00 3919,70 84,80
2 0 7
94824,00 5184,00 67597,00 400,00 14741,00 245425,00 6514,00 29510,00 50667,00 96511,00 5312,00 67911,00 406,00 14963,00 248818,00 6679,00 29915,00 51184,00 98197,00 5399,00 68251,00 412,00 15184,00 252165,00 6809,00 30262,00 51486,00 99880,00 5470,00
473,52 16306,36 672,63 16668,17 5,16 2,22 2,60 6743,07 32,51 493,22 16666,72 670,07 16731,13 5,20 2,00 2,66 6643,61 22,42 493,18 16729,33 681,29 16690,87 5,24 1,78 2,63 6461,63 21,48 476,36 16690,74
Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore
2011 2011 2011 2012 2012 2012 2012 2012 2012 2012 2012 2012 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014
1535,30 2149,30 1938,30 16,90 2929,90 2357,70 432,60 4500,30 117,80 1871,50 2367,70 2832,20 17,50 2934,00 2502,20 423,20 4984,50 229,70 1732,30 2691,50 3069,60 49,60 2685,40 2890,40 484,00 3926,40 345,00 2310,30 2942,00
224107,80 275198,90 370721,98 16969,71 14027,02 874638,92 9398,30 314895,05 60281,66 250602,99 289274,17 397494,83 18100,39 15221,39 904691,89 10771,30 322224,51 61863,82 268883,06 300288,50 420156,83 17096,04 16771,44 889057,79 11853,15 337497,11 65750,41 285108,30 305777,54
820,72 51546,59 3941,61 40690,95 -803,01 1809,22 -311,86 8916,24 -564,79 842,08 52698,09 4098,62 42652,76 -890,24 1728,42 -294,80 8863,69 -698,88 830,68 53709,69 4248,52 39452,78 -947,99 1473,17 -311,72 9100,09 -775,47 801,97 53851,37
2,76 2,76 2,76 2,05 2,05 2,05 2,05 2,05 2,05 2,05 2,05 2,05 1,96 1,96 1,96 1,96 1,96 1,96 1,96 1,96 1,96 1,90 1,90 1,90 1,90 1,90 1,90 1,90 1,90
0,18 0,00 0,01 0,00 3,31 0,05 0,95 0,04 0,56 0,16 0,00 0,01 0,00 2,31 0,05 0,85 0,05 0,55 0,14 0,00 0,01 0,00 2,31 0,04 0,78 0,05 0,55 0,13 0,00
805,10 6390,60 6383,60 610,60 542,60 2247,40 450,90 3412,00 109,50 964,50 6691,00 5791,90 607,00 503,60 2367,40 668,70 4095,90 123,50 952,30 5685,20 6283,40 102,30 623,40 2488,50 802,10 4203,60 134,60 674,90 6834,70
651,11 15781,07 5,33 1,62 2,66 5555,64 18,66 476,84 15782,06 633,55
1,90 1,04 1,04 1,04 1,04 1,04 1,04 1,04 1,04 1,04
3473,50 25,59 2421,70 2854,75 542,92 3517,07 383,34 2031,12 3090,09 3177,02
0,01 0,00 0,72 0,03 0,47 0,05 0,20 0,11 0,00 0,01
7053,30 52,40 968,50 2754,76 583,62 4159,06 56,47 907,50 6071,18 8327,68
3839,91 28833,25 -910,32 1248,25 -277,66 7547,96 -862,69 741,68 50635,09 3628,09
2 0 8
68610,00 417,00 15405,00 255462,00 6902,00 30485,00 52476,00 101562,00 5535,00 68979,00 83311,00 84218,00 85118,00 86024,00 86932,00 87860,00 88809,00 89760,00 90729,00 91713,00
404280,26 12909,03 18462,98 857603,30 12639,34 294389,63 65391,77 289502,82 291937,62 395726,32 66244,00 77429,00 97452,00 106018,28 116299,91 135541,10 155820,01 171219,28 186223,56 193406,66
2014 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015
Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam *EX: Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang các nước theo năm. Nguồn tại http://data.aseanstats.org/
IM: Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ các nước của Việt Nam theo năm. Nguồn tại http://data.aseanstats.org/ GDP: của các nước theo năm. Nguồn tại http://data.aseanstats.org/ POP: dân số cuả các nước theo năm. Nguồn tại http://data.aseanstats.org/ ER :Tỷ giá giữa đồng tiền các nước và Việt Nam theo năm. Nguồn tại http://data.aseanstats.org/ INCOMEGAP chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa các nước và Việt Nam theo năm. Nguồn tại http://data.aseanstats.org/ Tjvnt Thuế nhập khẩu nước j áp dụng đối với hàng hoá từ Việt Nam theo năm t. Nguồn tại http://tao.wto.org/ Tvnjt Thuế nhập khẩu Việt Nam áp dụng cho hàng hoá nước j theo năm t. Nguồn tại http://tao.wto.org/