BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

(cid:1)(cid:1)(cid:1)

NGUYỄN HOÀNG TUẤN

QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VỚI VIỆC ÁP

DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA VIỆT NAM

TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ

HÀ NỘI –2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TÀI CHÍNH

HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

(cid:1)(cid:1)(cid:1)

NGUYỄN HOÀNG TUẤN

QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VỚI VIỆC ÁP

DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA VIỆT NAM

TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN

CHUYÊN NGÀNH: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

MÃ SỐ : 62.34.02.01

LUẬN ÁN TIẾN SỸ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.,TS.Lý Phương Duyên

2. PGS.,TS.Hoàng Văn Bằng

HÀ NỘI –2017

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Nguyễn Hoàng Tuấn

ii

MỤC LỤC

TRANG

Mục lục

ii

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt tiếng Anh

viii

Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt tiếng Việt

xi

Danh mục các bảng

xii

Danh mục các hình vẽ, sơ đồ, đồ thị

xiii

1

MỞ ĐẦU

10

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1.

10

TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI.

10

1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về quy tắc xuất xứ hàng hoá.

1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thuế quan

15

và cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).

1.2.

16

TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM.

1.2.1. Nhóm các công trình nghiên cứu trực tiếp về quy tắc xuất

17

xứ hàng hoá.

1.2.2. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thuế quan

19

và cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).

21

1.3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN.

1.3.1. Những khoảng trống trong các nghiên cứu.

21

1.3.2. Những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ kế thừa và tiếp

23

tục phát triển.

24

1.4. CÁC CÂU HỎI NGHIÊN CỨU.

26

Kết luận chương 1

27

Chương 2: QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VÀ THUẾ

QUAN ƯU ĐÃI.

iii

2.1.

27

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG

HOÁ.

27

2.1.1. Khái niệm xuất xứ hàng hoá và quy tắc xuất xứ hàng hoá.

33

2.1.2. Những nội dung cơ bản của quy tắc xuất xứ hàng hoá.

46

2.1.3. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá.

54

2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ QUAN VÀ THUẾ

QUAN ƯU ĐÃI.

54

2.2.1. Khái niệm thuế quan .

57

2.2.2. Khái quát về thuế quan ưu đãi.

59

2.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC

THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ

TRONG ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI.

2.3.1. Các quy định luật quốc tế điều chỉnh chung về xuất xứ

59

hàng hóa.

2.3.2. Hệ thống các quy định và chính sách liên quan đến hoạt

61

động thương mại và đầu tư.

2.3.3. Nguồn nhân lực, cơ sở vật chất và sự phối hợp của các cơ

62

quan quản lý nhà nước liên quan.

64

2.3.4. Nhân tố thuộc về bản thân các doanh nghiệp.

67

2.4.

TÁC ĐỘNG CỦA QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ

VÀ THUẾ QUAN ƯU ĐÃI ĐẾN XUẤT KHẨU,

NHẬP KHẨU.

73

2.5. KINH NGHIỆM THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ

TRONG ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA CÁC

NƯỚC VÀ BÀI HỌC CHO VIỆT NAM.

2.5.1. Kinh nghiệm của các nước ASEAN-4 (Singapore,

73

Malaysia, Thái Lan và Indonesia).

iv

2.5.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản.

79

2.5.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc.

81

83

2.5.4. Bài học kinh nghiệm rút ra cho việc thực hiện quy tắc

xuất xứ trong áp dụng thuế quan ưu đãi ở Việt Nam.

86

Kết luận chương 2

87

Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT

XỨ HÀNG HOÁ VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU

ĐÃI CỦA VIỆT NAM TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ

ASEAN.

87

3.1. KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN

VÀ THUẾ QUAN ƯU ĐÃI TRONG CỘNG ĐỒNG

KINH TẾ ASEAN.

3.1.1. Khái quát về cộng đồng kinh tế ASEAN và chiến lược

87

phát triển của cộng đồng kinh tế ASEAN.

92

3.1.2. Thuế quan ưu đãi trong ASEAN.

99

3.2. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUY TẮC XUẤT XỨ

HÀNG HOÁ TRONG ASEAN.

99

3.2.1. Xác định xuất xứ hàng hoá ASEAN.

104

3.2.2. Chứng nhận xuất xứ hàng hoá ASEAN.

106

3.3.

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ

HÀNG HOÁ VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU

ĐÃI TẠI VIỆT NAM.

3.3.1. Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về thực

106

hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN.

3.3.2. Thực trạng áp dụng tiêu chí xuất xứ hàng hoá theo biểu

109

thuế quan ưu đãi đặc biệt của Việt Nam trong AEC.

3.3.3. Thực trạng thực thi quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN

114

v

trong áp dụng thuế quan ưu đãi của các cơ quan nhà nước

Việt Nam.

3.3.4 Thực trạng thực thi quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN

119

trong áp dụng thuế quan ưu đãi của các doanh nghiệp.

3.4.

121

TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY TẮC

XUẤT XỨ HÀNG HOÁ ASEAN VỚI VIỆC ÁP

DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI TRONG TRAO ĐỔI

THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC

THÀNH VIÊN AEC.

3.4.1. Đánh giá tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến trao đổi

121

thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên AEC

qua áp dụng mô hình trọng lực.

3.4.2. Thực tiễn tác động việc áp dụng thuế quan ưu đãi và quy

126

tắc xuất xứ hàng hoá đối với thương mại Việt Nam trong

AEC.

3.5

137

NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, HẠN CHẾ VÀ

NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ KHI

THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VỚI

VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI TRONG

AEC CỦA VIỆT NAM.

3.5.1 Những kết quả đạt được.

137

3.5.2 Những hạn chế và nguyên nhân.

142

155

Kết luận chương 3

157

Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT

QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HÓA VỚI VIỆC ÁP DỤNG

THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA VIỆT NAM TRONG CỘNG

ĐỒNG KINH TẾ ASEAN

vi

157

4.1. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HIỆP ĐỊNH

THƯƠNG MẠI TỰ DO VÀ CÁC QUY ĐỊNH XUẤT

XỨ HÀNG HÓA TRÊN THẾ GIỚI TÁC ĐỘNG TỚI

VIỆT NAM.

4.1.1. Xu hướng phát triển của các hiệp định thương mại tự do

157

tác động tới Việt Nam.

4.1.2. Xu hướng xây dựng và áp dụng các quy định xuất xứ

162

hàng hóa mới trên thế giới.

163

4.2. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC.

163

4.2.1. Tạo dựng khuôn khổ pháp lý xuất xứ hàng hoá hoàn chỉnh

trên cơ sở nền tảng các quy định về xuất xứ trong AEC.

4.2.2. Đẩy mạnh việc hỗ trợ, phối hợp trao đổi thông tin và kiến

169

thức về thuế quan và xuất xứ hàng hoá trong AEC giữa

các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp.

4.2.3. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành nghề sản xuất

172

nhằm đáp ứng được các tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong

AEC.

4.2.4. Tăng cường nâng cao năng lực quản lý, kiểm tra, giám sát

175

việc thực hiện và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật về xuất

xứ hàng hoá trong AEC của các cơ quan quản lý nhà

nước.

180

4.3. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA DOANH NGHIỆP.

4.3.1. Chủ động, tích cực nắm bắt và áp dụng các quy định về

180

xuất xứ hàng hoá, thuế quan vào trong hoạt động kinh

doanh.

4.3.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ, am hiểu

182

về xuất xứ hàng hoá.

vii

4.3.3. Đầu tư nâng cao trình độ, năng lực sản xuất để đáp ứng

184

được các yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hoá trong AEC.

187

Kết luận chương 4

188

KẾT LUẬN

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

189

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

190

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

201

PHỤ LỤC 1

202

PHỤ LỤC 2

204

PHỤ LỤC 3

206

PHỤ LỤC 4

viii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH

Tiếng Anh

Giải nghĩa

TT Chữ viết tắt

Ngân hàng phát triển châu

1 ADB

Asian Development Bank

Á

ASEAN Economic

2 AEC

Cộng đồng kinh tế ASEAN

Community

Khu vực mậu dịch tự do

3 AFTA

ASEAN Free Trade Area

ASEAN

Association of South East

Hiệp hội Các quốc gia

4 ASEAN

Asian Nations

Đông Nam Á

Asean Trade In Goods

Hiệp định Thương mại

5 ATIGA

Agreement

Hàng hóa ASEAN

Hiệp định Thương mại song

6 BTA

Bilateral Trade Agreement

phương

Giấy chứng nhận xuất xứ

7 C/O

Certificate of origin

hàng hoá

Chuyển đổi ở cấp độ

8 CC

Change in chapter

chương

Common Effective

Hiệp định ưu đãi thuế quan

9 CEPT

Preferential Tariff

có hiệu lực chung

Change in tariff

10 CTC

Chuyển đổi dòng thuế

classification

Change in Tariff Sub

Chuyển đổi dòng thuế ở cấp

11 CTSH

Heading

độ phân nhóm

Chuyển đổi dòng thuế ở cấp

12 CTH

Change in Tariff Heading

độ nhóm

ix

13 EU

European Union

Liên minh châu Âu

14 FDI

Foreign direct investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài

15 FTA

Free trade agreement

Hiệp định thương mại tự do

General Agreement of

Hiệp định chung về Thương

16 GATT

Trade and Tariff

mại và Thuế quan

17 GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm nội địa

Generalised Scheme of

Hệ thống ưu đãi thuế quan

18 GSP

Preferences

phổ cập chung

19 HS

Harmonized System

Hệ thống Hài hòa

20 MFN

Most Favoured Nations

Đãi ngộ tối huệ quốc

North American Free

Hiệp định Thương mại Tự

21 NAFTA

Trade Agreement

do Bắc Mỹ

22 ROO

Rules of Origin

Quy tắc xuất xứ

Hiệp định thương mại khu

23 RTA

Regional Trade Agreement

vực

24 RVC

Regional Value Content

Hàm lượng giá trị khu vực

Technical Barriers to

Rào cản kỹ thuật trong

25 TBT

Trade

thương mại

Vietnam Chamber of

Phòng Thương mại và Công

26 VCCI

Commerce and Industry

nghiệp Việt Nam

Vietnam Customs

Hệ thống thông tin tình báo

27 VCIS

Intelligence Information

Hải quan Việt nam

System

Vietnam Automated Cargo

Hệ thống thông quan hàng

28 VNACCS

And Port Consolidated

hóa tự động

System

x

World Customs

29 WCO

Tổ chức hải quan thế giới

Organization

30 WO

Wholly Obtained

Xuất xứ thuần tuý

Tổ chức thương mại thế

31 WTO

World Trade Organization

giới

Minister of Economy,

Bộ kinh tế, thương mại và

32 METI

Trade and Industry

công nghiệp Nhật Bản

xi

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT

TT

Chữ viết tắt

Giải nghĩa

Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam

1

CLMV

2

CNXX

Chứng nhận xuất xứ

3

KTSTQ

Kiểm tra sau thông quan

4

NCS

Nghiên cứu sinh

5

NK

Nhập khẩu

6

NSNN

Ngân sách nhà nước

7

QTXX

Quy tắc xuất xứ

8

XK

Xuất khẩu

9

XNK

Xuất nhập khẩu

xii

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang

Tên bảng

Số hiệu bảng

Tỷ lệ xoá bỏ thuế quan của các nước ASEAN

96

3.1

theo ATIGA từ 2010 đến 2025

Mức độ áp dụng các tiêu chí xuất xứ hàng hoá

110

3.2

trong quy tắc xuất xứ theo hiệp định ATIGA

Kết quả ước lượng mô hình trọng lực cho xuất

123

3.3

khẩu và nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với

các đối tác trong AEC

Giá trị kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán

128

3.4

cân thương mại giữa Việt Nam-ASEAN giai đoạn

2006-2016

Tình hình sử dụng C/O mẫu D đối với hàng hoá

140

3.5

xuất khẩu sang ASEAN giai đoạn 2006-2016

xiii

DANH MỤC HÌNH VẼ, SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ

Số hiệu

Trang

Tên sơ đồ, đồ thị

hình vẽ

34

2.1.

Tiêu chí xác định hàng hóa có xuất xứ

44

2.2

Tỷ lệ chứng nhận xuất xứ

Mức thuế bình quân CEPT và MFN của các nhóm nước

97

3.1

ASEAN giai đoạn từ 2007-2014

Mức độ áp dụng các tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong quy

111

3.2

tắc xuất xứ theo hiệp định ATIGA theo các phần của

biểu thuế quan

Thuế suất bình quân và chênh chệch giữa thuế suất bình

113

3.3

quân MFN và CEPT/ATIGA năm 2006 và 2016 theo các

phần của danh mục HS

Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu, cán cân thương mại

130

3.4

giữa Việt Nam với các nước ASEAN theo mức độ thuế

quan bình quân cắt giảm từ 2006-2016

Kim ngạch XK, NK giữa Việt Nam và một số đối tác lớn

131

3.5

năm 2016

Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu bình quân của Việt

131

3.6

Nam giai đoạn 2007-2016

Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu với khu vực ASEAN

132

3.7A

trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 2006-

2016

Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu với khu vực ASEAN

132

3.7B

trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam 2006-

2016

xiv

Cơ cấu xuất khẩu mặt hàng chủ lực sang thị trường

134

3.8 A

ASEAN 2007 & 2010

Cơ cấu xuất khẩu mặt hàng chủ lực sang thị trường

135

3.8 B

ASEAN trong năm 2016

Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu chủ lực có xuất xứ từ

137

3.9A

ASEAN 2007&2010

Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu chủ lực có xuất xứ từ

136

3.9 B

ASEAN 2016

Thương mại giữa Việt Nam với các nước ASEAN 2006

137

3.10

& 2016

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án.

Trong thực tế hoạt động thương mại quốc tế ngày nay, hầu hết các quốc

gia trên thế giới đều đang gia tăng các mối quan hệ thương mại thông qua các

hiệp định thương mại ở cấp độ song phương hay đa phương. Việt Nam cũng

không nằm ngoài xu hướng này khi đã tham gia và ký kết rất nhiều hiệp định

thương mại với nhiều đối tác trên thế giới. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, hiệp

định thương mại được ký kết với các nước thành viên ASEAN luôn đóng vai

trò quan trọng nhất trong chính sách phát triển thương mại của Việt Nam

trong những năm qua. Kể từ khi Việt Nam chính thức tham gia Hiệp định về

Chương trình ưu đãi Thuế quan có Hiệu lực chung (CEPT) để thành lập

Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA) vào ngày 15/12/1995, Việt

Nam đã triển khai một cách tích cực và đầy đủ theo đúng các cam kết về lộ

trình cắt giảm thuế quan. Việc triển khai này đã tạo ra một động lực quan

trọng giúp trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên

ASEAN không ngừng tăng lên nhờ được hưởng những ưu đãi thuế quan thấp

hơn so với hàng hoá cùng loại từ các quốc gia ngoài ASEAN khi đáp ứng

được các quy định về xuất xứ hàng hoá. Có thể thấy rằng, tác động của việc

thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN trong áp dụng thuế quan ưu đãi

của Việt Nam trong những năm qua là rất lớn. Đặc biệt, hiệp định ATIGA

được ký kết thay cho hiệp định CEPT bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày

17/05/2010 đã đẩy nhanh quá trình cắt giảm thuế quan và xoá bỏ nhiều rào

cản để thúc đẩy trao đổi thương mại giữa các nước thành viên ASEAN.

Không dừng lại ở đó, các nước thành viên ASEAN muốn đưa sự hợp tác này

lên một tầm cao mới qua việc ký kết và ra đời cộng đồng kinh tế ASEAN

(AEC) vào ngày 31/12/2015. Sự ra đời của AEC được đánh giá là một bước

2

ngoặt lịch sử của khu vực ASEAN với việc đánh dấu sự hình thành một thị

trường chung giữa 623 triệu dân của nền kinh tế 2500 tỷ USD, đứng thứ 3

châu Á chỉ sau Trung Quốc, Nhật Bản và lớn thứ 7 thế giới, AEC ra đời vào

giai đoạn việc cắt giảm hoàn toàn thuế quan theo hiệp định ATIGA bước vào

giai đoạn cuối và sắp được tất cả các nước ASEAN hoàn thành. Theo đó,

hàng hoá của một nước nếu được công nhận xuất xứ ASEAN khi xuất khẩu

sang thị trường một nước thành viên ASEAN sẽ được hưởng mức thuế quan

ưu đãi rất thấp, thậm chí bằng không. Và để được công nhận xuất xứ ASEAN

thì những hàng hóa này phải tuân thủ theo các quy định về quy tắc xuất xứ

của Hiệp định ATIGA. Điều này tạo ra một cơ hội rất lớn cho hàng hoá của

Việt Nam được tự do lưu chuyển sang các nước ASEAN giống như trong

nước, đồng thời cũng đặt ra những thách thức rất lớn về cạnh tranh với hàng

hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN nếu không biết nắm bắt và vận dụng một

cách có hiệu quả những quy định của AEC, trong đó có quy tắc về xuất xứ

hàng hoá. Như vậy, có thể thấy rằng với xu hướng cắt giảm thuế quan theo

hướng tự do hoá hoàn toàn của AEC thì vai trò của thuế quan đối với trao đổi

thương mại và tạo nguồn thu ngân sách cho các nước thành viên AEC ngày

càng giảm. Ngược lại, khi đó vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong AEC

lại càng trở nên quan trọng, đây chính là hàng rào bảo hộ đối với hàng hoá sản

xuất tại các nước thành viên nói chung, Việt Nam nói riêng trước sự cạnh

tranh của hàng hoá nhập khẩu của các nước ngoài AEC, đồng thời là công cụ

để đảm bảo việc thực thi thuế quan ưu đãi được xác định đúng đối tượng,

ngăn chặn các hành vi gian lận về thuế quan ưu đãi trong AEC. Thêm vào đó,

với xu hướng phát triển đa dạng hoá các hoạt động thương mại và sự gia tăng

của các FTA thì quy tắc xuất xứ hàng hoá trên thế giới trong những năm qua

có sự thay đổi nhanh chóng tác động đến sự thay đổi của quy tắc xuất xứ hàng

hoá trong ASEAN và hệ thống các quy định pháp luật về xuất xứ hàng hoá áp

3

dụng tại Việt Nam. Trong bối cảnh như vậy, rất cần có sự nghiên cứu một

cách đầy đủ, toàn diện và có hệ thống các quy tắc về xuất xứ hàng hoá, đặc

biệt là quy tắc xuất xứ hàng hoá gắn với thuế quan ưu đãi ASEAN được áp

dụng trong bối cảnh cộng đồng kinh tế ASEAN đã được thành lập, để có thể

đưa ra được những chính sách và biện pháp phù hợp nhằm tối đa những lợi

ích đem lại cho cộng đồng doanh nghiệp và sự phát triển của Việt Nam.

Xuất phát từ những lý do đó, NCS đã lựa chọn đề tài “Quy tắc xuất xứ

hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng

kinh tế ASEAN” làm đề tài nghiên cứu luận án tiến sỹ của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

Trước yêu cầu khách quan của việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá ở

Việt Nam, tác giả xác định mục đích nghiên cứu đề tài luận án: “Quy tắc xuất

xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng

đồng kinh tế ASEAN” là:

Nghiên cứu, hệ thống hoá những vấn đề lý luận về quy tắc xuất xứ hàng

hoá gắn liền với áp dụng thuế quan ưu đãi; phân tích việc áp dụng quy tắc xuất

xứ nhằm xác định xuất xứ ASEAN đối với hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu

sang các nước ASEAN để được hưởng thuế quan ưu đãi; phân tích và đánh giá

các biện pháp mà các cơ quan quản lý Việt Nam áp dụng nhằm xác định và

kiểm tra xuất xứ hàng hoá của các nước ASEAN để cho phép hưởng thuế quan

ưu đãi theo như cam kết của cộng đồng kinh tế ASEAN. Từ đó, đề xuất các giải

pháp nhằm góp phần thực hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng

thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN.

Với mục đích nghiên cứu như trên, Luận án xác định các nhiệm vụ

nghiên cứu cơ bản sau:

- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về xuất xứ hàng hoá và quy tắc

xuất xứ hàng hoá.

4

- Nghiên cứu việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá của một số quốc

gia, trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho việc áp dụng quy tắc

xuất xứ hàng hoá ở Việt Nam.

- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá việc thực hiện quy tắc xuất xứ đối với

hàng hoá của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang các nước ASEAN

để được hưởng thuế quan ưu đãi, bao gồm: việc xây dựng các quy định về

xuất xứ hàng hoá, việc xác định, cấp chứng nhận xuất xứ ASEAN cho hàng

hoá của các doanh nghiệp xuất khẩu sang các nước ASEAN; việc kiểm tra về

xuất xứ hàng hoá để hưởng thuế quan ưu đãi của các cơ quan nhà nước Việt

Nam đối với hàng hoá nhập khẩu của các nước ASEAN vào Việt Nam. Chỉ ra

những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập trong

quá trình thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu

đãi của Việt Nam trong AEC .

- Trên cơ sở đánh giá việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc

áp dụng thuế quan ưu đãi ở Việt Nam thời gian qua, đưa ra các giải pháp cụ

thể đối với nhà nước và doanh nghiệp nhằm thực hiện tốt quy tắc xuất xứ

hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng

kinh tế ASEAN.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là Quy tắc xuất xứ hàng hoá gắn

liền với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế

ASEAN.

Phạm vi nội dung nghiên cứu của luận án chỉ tập trung trên các khía

cạnh: việc áp dụng quy tắc xuất xứ để xác định xuất xứ ASEAN đối với hàng

hoá của Việt Nam xuất khẩu sang các nước ASEAN để được hưởng thuế quan

ưu đãi và ngược lại là việc các cơ quan quản lý Việt Nam áp dụng quy tắc

xuất xứ để xác định và kiểm tra xuất xứ hàng hoá của các nước ASEAN để

5

cho phép hưởng thuế quan ưu đãi theo như cam kết về cắt giảm thuế quan

trong cộng đồng kinh tế ASEAN.

Thời gian nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu đánh giá quá trình

áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá từ khi Việt Nam thực hiện cam kết cắt giảm

thuế quan theo CEPT/AFTA năm 2006 đến 2016 và đề xuất các giải pháp áp

dụng gắn với định hướng phát triển đến năm 2025.

Địa bàn nghiên cứu: Để có số liệu phục vụ nghiên cứu, luận án tập trung

nghiên cứu đánh giá chủ yếu về Quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng

thuế quan ưu đãi gắn liền với hoạt động trao đổi thương mại giữa Việt Nam

với các nước ASEAN trong AEC.

4. Phương pháp nghiên cứu.

Luận án được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –

Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó, việc

nghiên cứu đề tài cũng dựa trên các chủ trương, chính sách, pháp luật của

Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội, quản lý nhà nước đối với

hoạt động thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế. Ngoài các phương pháp

mang tính truyền thống trên, đề tài áp dụng các phương pháp phân tích, so

sánh, tổng hợp, hệ thống, luật so sánh, thống kê và dự báo qua những dữ liệu

thứ cấp để làm sáng tỏ vấn đề cần được nghiên cứu trong đề tài. Cụ thể:

- Phương pháp nghiên cứu gián tiếp thông qua tổng hợp và phân tích tư

liệu, nhất là các tư liệu sơ cấp.

- Phương pháp nghiên cứu dữ liệu thứ cấp: Phương pháp này được vận

dụng chủ yếu nhằm xem xét, hệ thống hóa và tóm tắt những kết quả nghiên

cứu có liên quan tới đề tài luận án.

- Phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp và phân tích, thống kê: Thông qua

phương pháp này, các thông tin đơn lẻ sẽ được tổng hợp, hệ thống hóa và xâu

chuỗi thành các nhóm vấn đề; các số liệu và dữ liệu thu thập sẽ được phân

6

tích, khái quát hóa để xây dựng khung phân tích theo yêu cầu của luận án.

- Phương pháp nghiên cứu luật so sánh: Phương pháp này được sử dụng

để so sánh các khái niệm, quy định pháp luật và các nội dung khác về xuất xứ

hàng hoá được quy định trong các công ước, hiệp định và hệ thống pháp luật

của nhiều quốc gia trên thế giới theo yêu cầu của đề tài luận án.

- Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình: Thông qua nghiên cứu

trường hợp điển hình ở một số nước trên thế giới về cách thức thực hiện quy

tắc xuất xứ hàng hoá để rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

- Phương pháp khảo sát thực tiễn, sử dụng kết quả số liệu thống kê khảo

sát từ các cơ quan quản lý và tổ chức công bố: Nhằm tìm hiểu, đánh giá tình

hình áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá ở Việt Nam hiện nay khi thực hiện

quan hệ thương mại với các nước thành viên AEC.

- Phương pháp sử dụng mô hình trọng lực trong đo lường các nhân tố tác

động đến trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên AEC

trong đó có quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế quan ưu đãi.

5. Những đóng góp mới của luận án.

Luận án đã có một số đóng góp mới sau đây:

Thứ nhất, hệ thống hoá và làm rõ hơn các nội dung về lý luận liên quan

đến xuất xứ hàng hoá, quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế quan ưu đãi.

Thứ hai, phân tích và chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm của từng cách

thức chứng nhận xuất xứ hàng hoá và xu hướng chủ đạo của việc thực hiện

chứng nhận xuất xứ hàng hoá trong thời gian tới.

Thứ ba, phân tích và làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến việc thực hiện

quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi làm cơ sở cho việc

đánh giá thực trạng và đề xuất các giải pháp trong luận án.

Thứ tư, chỉ ra và đánh giá các mô hình nghiên cứu đã được áp dụng để

đánh giá tác động của việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng

7

thuế quan ưu đãi khi thực hiện các quan hệ trao đổi thương mại của các FTA

trên thế giới cũng như của Việt Nam. Từ đó làm cơ sở cho việc vận dụng vào

đánh giá tác động của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu

đãi trong quan hệ trao đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước ASEAN.

Thứ năm, tổng hợp được những kinh nghiệm của một số nước trên thế

giới thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi. Từ

đó, rút ra được những bài học có thể vận dụng được ở Việt Nam khi thực hiện

quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi trong quan hệ

thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên AEC.

Thứ sáu, phân tích thực trạng thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong

áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong bối cảnh từ khi bắt đầu thực

hiện khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) đến khi ra nhập cộng đồng

kinh tế ASEAN thời gian qua. Phân tích được làm rõ trên các khía cạnh:

i. Xây dựng, ban hành pháp luật và thực thi nội dung của quy tắc xuất xứ

hàng hoá trong ưu đãi thuế quan.

ii. Xác định và cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá.

iii. Công tác kiểm tra và xác minh xuất xứ hàng hoá của Việt Nam.

Trên cơ sở đó, đánh giá những tác động của quy tắc xuất xứ hàng hoá

đến thuế quan ưu đãi đặc biệt và trao đổi thương mại của Việt Nam với các

nước thành viên trong AEC. Từ đó chỉ rõ những kết quả đã đạt được, những

hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế này trong quá trình thực hiện thời

gian qua làm cơ sở luận cứ đưa ra các giải pháp phù hợp.

Thứ bảy, tổng hợp và làm rõ xu thế phát triển của các hiệp định thương

mại tự do mới sẽ có ảnh hưởng gì đến việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá

trong áp dụng thuế quan ưu đãi trong thời gian tới.

Thứ tám, đưa ra các giải pháp đối với nhà nước và doanh nghiệp để góp

phần thực hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi

8

trong bối cảnh Việt Nam gia nhập AEC. Bao gồm:

i. Tạo dựng khuôn khổ pháp lý xuất xứ hàng hoá hoàn chỉnh

ii. Đẩy mạnh việc hỗ trợ, phối hợp trao đổi thông tin và kiến thức về

thuế quan và xuất xứ hàng hoá trong AEC giữa các cơ quan nhà nước và các

doanh nghiệp.

iii. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh kế, ngành nghề sản xuất nhằm đáp

ứng được các tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong AEC.

iv. Tăng cường nâng cao năng lực quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực

hiện và đảm bảo tuân thủ pháp luật về xuất xứ hàng hoá trong AEC của các

cơ quan quản lý nhà nước.

v. Vận dụng các quy định về xuất xứ trong hoạt động kinh doanh, đào

tạo và phát triển nguồn nhân lực, đầu tư nâng cao trình độ và năng lực sản

xuất hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án.

Ý nghĩa khoa học: Trên cơ sở phân tích, tổng hợp, luận án đã hệ thống

và làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế quan

ưu đãi trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và Việt Nam gia nhập AEC.

Bên cạnh đó, luận án cũng đã tổng hợp kinh nghiệm về thực hiện quy tắc xuất

xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi của một số quốc gia trên thế giới,

từ đó rút ra những kinh nghiệm có thể tham khảo vận dụng cho Việt Nam.

Ý nghĩa thực tiễn: Luận án đã tổng hợp và phân tích một cách hệ thống

về thực trạng thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu

đãi của Việt Nam với các nước ASEAN trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm

2016. Trên cơ sở phân tích những kết quả đạt được, những hạn chế, luận án

cũng đã chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong thực hiện quy tắc

xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi ở Việt Nam. Kết hợp với

kinh nghiệm thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu

9

đãi ở một số quốc gia trên thế giới, luận án đã đề xuất các giải pháp nhằm

thực hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của

Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ

lục, nội dung của luận án được trình bày trong 4 chương:

Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu .

Chương 2: Quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế quan ưu đãi.

Chương 3: Thực trạng thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp

dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN.

Chương 4: Một số giải pháp nhằm thực hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá với

việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN.

10

Chương 1

TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI.

Các quy định về xuất xứ hàng hóa là một phần không thể thiếu được

trong các hiệp định thương mại tự do trên thế giới và trong hệ thống luật pháp

của nhiều quốc gia. Bởi vậy, nội dung này được nhiều nhà nghiên cứu trên thế

giới đề cập trên nhiều khía cạnh khác nhau. Theo trình tự thời gian, có thể kể

đến các công trình nghiên cứu như:

1.1.1.Nhóm công trình nghiên cứu về quy tắc xuất xứ hàng hoá.

- Peter Clark (2003), “Free Trade Areas and Rules of Origin: Economics

and Politics” [91], của IMF năm 2003 chỉ ra mối liên hệ giữa kinh tế và chính

trị trong các FTAs và ảnh hưởng tới các quy tắc xuất xứ như thế nào.

- Antoni Estevadeordal và Kati Suominen (2003), “Rules of Origin in the

World Trading System” [58], do WTO biên soạn đánh giá mục đích và tác

động của các quy tắc xuất xứ, so sánh cấu trúc của các quy tắc xuất xứ ở 5

khu vực Châu Âu, Châu Mỹ, châu Phi, châu Á và Trung Đông. Từ đó đưa ra

những nhận định về tương lai quy tắc xuất xứ trên toàn cầu, vấn đề hài hoà

hoá các quy tắc xuất xứ ưu đãi.

- Kala Krishna (2004), “Understanding rules of origin” [76], đại học

Pensylvania ấn bản tháng 11/2004, phân tích những tác động của quy tắc xuất

xứ liên quan đến ưu đãi thuế quan trong các FTA. Nội dung của nghiên cứu

tập trung vào việc xem xét về mặt lý thuyết cũng như về thực nghiệm qua

việc áp dụng mô hình cân bằng tổng thể để đánh giá ảnh hưởng của quy tắc

xuất xứ đến việc làm gia tăng chi phí đầu vào của sản xuất sản phẩm của các

đối thủ trong FTA.

- Patricia Augier, Michael Gasiorek, Charles Lai Tong (2005), “The

11

impact rules of origin on trade flows”[89], Economic Policy 20 (43): 567-

624, bài viết phân tích mối liên hệ giữa các quy tắc xuất xứ và thuế quan từ đó

tác động đến dòng chảy thương mại như thế nào. Nghiên cứu sử dụng phương

pháp mô hình trọng lực trong việc đánh giá tác động của quy tắc xuất xứ đối

với trao đổi thương mại của các nước châu Âu. Kết quả cho thấy quy tắc xuất

xứ thực sự tác động đáng kể đến trao đổi thương mại khi mà làm hạn chế sự

trao đổi thương mại, việc cộng gộp trong xuất xứ hàng hoá ảnh hưởng đến

khâu trung gian thương mại hơn là khâu sản xuất và mức thuế càng cao thì tác

động của việc cộng gộp càng thấp.

- Paul Brenton và Hiroshi Imagawa (2005), “Rules of origin, trade and

customs” đăng trong cuốn Customs modernization handbook [106] (sổ tay

hiện đại hóa hải quan) do ngân hàng thế giới xuất bản năm 2005. Bài viết đi

vào phân tích và đánh giá mối liên hệ giữa xuất xứ hàng hóa, thương mại và

hải quan theo các quy định trong WTO, các hiệp định thương mại khu vực.

- Olivier Cadot, Jaime de Melo, Alberto Portugal-Perez (2006), “Rules of

Origin for Preferential trading arrangements : implications for the ASEAN

free trade area of EU and US experience”[88], do Ngân hàng thế giới ấn bản

năm 2006. Các tác giả chỉ ra nội dung của quy tắc xuất xứ EU với hệ thống

ưu đãi thuế quan GSP, kinh nghiệm từ triển khai quy tắc xuất xứ NAFTA của

Mỹ, từ đó rút ra kinh nghiệm triển khai AFTA của các nước ASEAN.

- Olivier Cadot, Antoni Estevadeordal, Akiko Suwa-Eisenmann và

Thiery Verdier (2006), “The Origin of Goods”[87], nhà xuất bản đại học

Oxford xuất bản 2006, chỉ ra những vấn đề lý luận chung về xuất xứ hàng

hóa, quy tắc xuất xứ hàng hóa trong các thỏa thuận thương mại khu vực, ảnh

hưởng và tác động của quy tắc xuất xứ hàng hóa đến thương mại, chi phí hải

quan và sự phát triển kinh tế.

- Teruo UJIIE (2006), “Rules of origin: conceptual explorations and

12

lessons from the generalized system of preferences”[97], do ngân hàng ADB

ấn hành tháng 12 năm 2006. Cuốn sách này tập trung vào làm rõ khái niệm cơ

bản về xuất xứ hàng hóa trong thương mại quốc tế, đánh giá các quy tắc xuất

xứ trong hệ thống GSP và trong một số FTA châu Á.

- Erlinda M. Medalla and Josef T. Yap (2008), “Policy Issues for the

ASEAN Economic Community: the Rules of Origin”[71], Philippine Institute

for Development Studies. Bài viết đánh giá tình hình thực hiện quy tắc xuất

xứ ASEAN, mức độ tận dụng việc ưu đãi thuế CEPT/AFTA của một số nước

quy việc sử dụng chứng nhận xuất xứ, đánh giá về việc ra đời AEC tác động

đến quy tắc xuất xứ, từ đó thúc đẩy tiếp tục cải cách quy tắc xuất xứ nhằm tạo

thuận lợi hơn đối với thương mại ASEAN.

- Stefano Inama (2009), “Rules of origin on international trade”[94], đại

học Cambridge xuất bản 2009, chỉ ra những nội dung quy định về xuất xứ

theo quy định của WTO, quy tắc xuất xứ theo hệ thống GSP của một số nước

như EU, Mỹ, Canada, quy tắc xuất xứ trong các thỏa thuận thương mại khu

vực NAFTA, AFTA, Mercosur. Đồng thời chỉ ra những kinh nghiệm và cách

thức quản lý các quy tắc xuất xứ.

- Erlinda M. Medalla, Jenny Balboa (2009), “ASEAN Rules of Origin:

Lessons and Recommendations for Best Practice” [70]. Bài viết nghiên cứu

những kinh nghiệm của ASEAN trong việc áp dụng quy tắc xuất xứ, đánh giá

về chi phí áp dụng quy tắc xuất xứ và mức độ tự do hoá. Đề xuất một vài kiến

nghị đơn giản quá trình áp dụng quy tắc xuất xứ và cải cách thủ tục nhà nước

cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng quy tắc xuất xứ.

- Antoni Estevadeordal, Jeremy Harris, Kati Suominen

(2009),

“Multilateralising Preferential Rules of Origin around the World”[60], IDB

WORKING PAPER SERIES # IDB-WP-137. Bài viết đánh giá một cách toàn

cảnh về quy tắc xuất xứ hàng hoá trên thế giới, những hạn chế và tính phức

13

tạp của các quy tắc xuất xứ, những tác động đến hoạt động thương mại.

- Biswajit Nag and Debdeep De (2011), “Rules of origin and

development of regional production network in Asia: case studies of selected

industries’’[64], Working Papers 10111, Asia-Pacific Research and Training

Network on Trade (ARTNeT), an initiative of UNESCAP and IDRC, Canada.

Đây là đề tài nghiên cứu sự phát triển của các FTA và BTA tác động đến quy

tắc xuất xứ, tác động đến sự tăng trưởng nhập khẩu và cắt giảm thuế quan,

mối liên hệ giữa tăng trưởng thương mại, quy tắc xuất xứ và tiềm năng phát

triển hệ thống liên kết sản xuất khu vực trong lĩnh vực công nghiệp.

trends

in preferential Origin

- Atsushi Tanaka (2011), “World

certification and Verification”[61], do WCO ấn bản tháng 11 năm 2011. Cuốn

sách tập trung vào làm rõ các nội dung chứng minh xuất xứ và thủ tục kiểm

tra xuất xứ, những thách thức trong việc áp dụng xuất xứ hàng hóa đối với cơ

quan hải quan. Những thách thức chính mà các cơ quan Hải quan phải đối mặt

là sự không tuân thủ các yêu cầu chứng nhận, thiếu thủ tục chuẩn xác để xác

minh xuất xứ và thiếu năng lực. Việc đào tạo cán bộ Hải quan là biện pháp

chính để giải quyết những thách thức. Nâng cao nhận thức của khu vực tư

nhân và tăng cường hợp tác với các cơ quan chức năng có thẩm quyền cũng

được coi là những giải pháp quan trọng.

- Mina Mashayekhi (2011), “Rules of origin and origin procedures

applicable to exports from least developed countries” [84], UNCTAD. Báo

cáo đánh giá về việc áp dụng quy tắc xuất xứ ở các nước chậm phát triển

trong việc xuất khẩu vào các thị trường chính như Mỹ, EU, Canada, Nhật bản.

Đánh giá về vấn đề quản lý xuất xứ qua việc xác định xuất xứ, thủ tục cấp

xuất xứ, xác nhận và kiểm tra xuất xứ hàng hoá nhập khẩu, các quy định pháp

lý về xuất xứ và đề xuất một số khuyến nghị nhằm đơn giản hoá việc áp dụng

quy tắc xuất xứ.

14

- Verdeja, Luis F. (2012), “Empirical assessment of the impact on trade

of product specific preferential rules of origin” [101], Luận án tiến sỹ, đại học

Nottingham. Tác giả đi vào làm rõ những vấn đề lý luận về quy tắc xuất xứ,

ảnh hưởng của quy tắc xuất xứ với nền kinh tế qua lý thuyết và dữ liệu phân

tích, những hạn chế của quy tắc xuất xứ và thực trạng việc áp dụng trên thế

giới hiện nay đòi hỏi phải có sự cải cách về quy tắc xuất xứ.

- Maria Donner Abreu (2013), “Preferential rules of origin in regional

trade agreements” [81], WTO. Báo cáo nghiên cứu điều tra việc áp dụng quy

tắc xuất xứ ưu đãi tại 192 hiệp định thương mại khu vực làm rõ những ưu đãi

thực hiện qua quy tắc xuất xứ và việc sử dụng các ưu đãi qua các RTAs của

một số nước từ đó đề xuất cách thức để đơn giản hoá quy tắc xuất xứ hàng

hoá nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại.

- Lili Yan Ing, Olivier Cadot (2014), “How Restrictive Are ASEAN’s

RoO?” [79], ERIA-DP-2014-18, tác giả đi vào phân tích đánh giá ảnh hưởng

của quy tắc xuất xứ sản phẩm cụ thể của ASEAN đối với thương mại khu vực

qua việc sử dụng mô hình trọng lực. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng những

ngành như dệt may, giày dép, thực phẩm chế biến, ô tô sẽ chịu ảnh hưởng

nhiều của quy tắc xuất xứ với việc hưởng lợi từ việc giảm thuế.

- Colleen Carroll, Dylan Geraets, Arnoud R. Willems,

(2014),

“Reconciling rules of origin and global value chains: the case for reform”

[66], Leuven Centre for Global Governance Studies, Institute for International

Law, KU Leuven. Tác giả chỉ ra những sai lầm trong quan niệm về xuất xứ

hàng hoá, từ đó chỉ ra khái niệm xuất xứ hàng hoá và cách xác định thế nào

đối với quy tắc xuất xứ ưu đãi và không ưu đãi, giải pháp cho sự phức tạp quy

tắc xuất xứ hàng hoá trong việc làm chệnh hướng thương mại, công cụ bảo hộ

và việc tận dụng trong các thoả thuận thương mại ưu đãi. Từ đó, đánh giá về

mối liên hệ giữa cắt giảm thuế quan hay gia tăng chi phi kinh doanh khi áp

15

dụng quy tắc xuất xứ và đề xuất các điểm cải cách quy tắc xuất xứ trong quan

hệ song phương và hài hoà quy tắc xuất xứ trong quan hệ đa phương.

- Lili Yan Ing, Olivier Cadot (2016), “Facilitating ASEAN trade in

goods” [80], ERIA Discussion Paper Series, đi vào phân tích đánh giá những

tác động tạo thuận lợi thương mại hàng hoá đối với các nước ASEAN qua

việc giảm chi phí thương mại nhờ áp dụng các quy tắc xuất xứ hàng hoá cũng

như minh bạch các biện pháp phi thuế quan.

1.1.2.Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thuế quan và cộng

đồng kinh tế ASEAN (AEC) .

- Hiro Lee, Michael G.Plummer (2011), “Assessing the Impact of the

ASEAN Economic Community”[74], OSIPP Discussion Paper: DP-2011-E-

002. Bài viết sử dụng mô hình cân bằng tổng thế (CGE) để đánh giá ảnh

hưởng phúc lợi kinh tế, của trao đổi thương mại nội khối và ngoại khối

ASEAN và ảnh hưởng đến một số lĩnh vực của nền kinh tế như nông nghiệp,

chế biến và dịch vụ, máy móc và thiết bị điện tử khi AEC ra đời.

- Peter A.Petri, Michael G.Plummer and Fan Zhai (2012), “ASEAN

Economic Community: A General Equilibrium Analysis” [90], Asian

Economic Journal, 26 (2), 93–118. Bài nghiên cứu phân tích, đánh giá về xuất

nhập khẩu giữa các nước ASEAN, sử dụng mô hình cân bằng tổng thế để

đánh giá những lợi ích và ảnh hưởng của trao đổi thương mại giữa các nước

ASEAN, giữa các nước ASEAN và các đối tác.

- Cheewatrakoolpong, Kornkarun, Sabhasri, Bunditwattanawong, Nath

và Chayodom (2013): “Impact of the ASEAN economic community on ASEAN

production networks”[68], ADBI Working Paper Series, No.409. Bài nghiên

cứu phân tích, đánh giá những ảnh hưởng của AEC đối với chuỗi sản xuất lấy

minh chứng đối với ngành công nghiệp ô tô và sản xuất ổ cứng.

- Normaz Wana Ismail and Collin Wong Koh King (2013), “The Effects

16

of ASEAN Free Trade Agreement (AFTA) on Intra ASEAN Trade: 1986-

2010” [86], Pertanika J. Soc. Sci. & Hum. 21 (S): 115 - 124 (2013). Bài viết

đánh giá về trao đổi thương mại giữa các nước ASEAN giai đoạn từ 1986-

2010 để làm rõ những lợi ích đem lại từ việc thành lập AFTA từ đó chỉ ra

kinh nghiệm cho việc hình thành AEC.

- Jayant Menon and Anna Cassandra Melendez (2015), “Realizing an

ASEAN Economic Community: Progress and Remaining Challenges” [75],

ADB Economics Working Paper Series. Nghiên cứu của ADB phân tích

những trở ngại, thách thức đặt ra với việc hình thành AEC với bốn trụ cột.

Mỗi trụ cột đưa ra một loạt các thách thức đòi hỏi phải được đáp ứng trước

khi AEC có thể được thực hiện đầy đủ.

Các đề tài, sách và bài viết nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào những

vấn đề chung về quy tắc xuất xứ, các trường hợp áp dụng quy tắc xuất xứ cụ

thể gắn với các nước phát triển như EU, Mỹ và nhóm các nước ASEAN-4

chưa đề cập đến việc áp dụng trong AEC và Việt Nam. Thêm vào đó, các

nghiên cứu về AEC mới tập trung đánh giá về tác động đến thương mại, trao

đổi hàng hoá, chuỗi sản xuất hàng hoá, . v.v . mà chưa có sự gắn kết, phân

tích nghiên cứu với việc áp dụng quy tắc xuất xứ. Bởi vậy, những nội dung lý

luận và phân tích trên hướng tới mục tiêu phục vụ cho việc xây dựng và vận

hành hệ thống các quy định về xuất xứ gắn liền với thực tiễn về chính trị, kinh

tế xã hội, luật pháp của các quốc gia khác, không thể áp dụng giống Việt Nam

và trong bối cảnh ra đời AEC. Các kết quả nghiên cứu trên là cơ sở lý luận và

thực tiễn quan trọng làm nền tảng lý luận và căn cứ so sánh để NCS có thể

nghiên cứu đánh giá việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá ở Việt Nam gắn

với việc ra đời AEC.

1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM.

Trong thời gian qua ở Việt Nam, đã có một số công trình, bài viết liên

17

quan trực tiếp đến đề tài luận án hoặc liên quan đến các nội dung nghiên cứu

của đề tài được công bố trên các tạp chí khoa học, tạp chí chuyên ngành, các

báo cáo trình bày tại hội thảo khoa học, các đề tài nghiên cứu khoa học, luận

án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, luận văn tốt nghiệp, sách hay các tin bài được đăng

tải trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các công trình, các bài viết đã

nghiên cứu đề cập đến các khía cạnh khác nhau về quy tắc xuất xứ hàng hoá

ASEAN, cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), lộ trình thực hiện cắt giảm và ưu

đãi thuế quan trong ASEAN. Đây chính là nguồn tài liệu tham khảo quý báu

giúp tác giả có cơ sở để kế thừa và phát triển nghiên cứu sâu sắc thêm về quy

tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN và đánh giá việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng

hoá ASEAN ở Việt Nam khi AEC ra đời.

Liên quan đến đề tài của luận án, có thể chỉ ra các nhóm công trình khoa

học dưới đây:

1.2.1.Nhóm các công trình nghiên cứu trực tiếp về quy tắc xuất xứ hàng hoá.

Thứ nhất, các công trình nghiên cứu là sách chuyên khảo, giáo trình:

sách chuyên khảo “Kỹ thuật nghiệp vụ hải quan và xuất nhập khẩu lý thuyết

và tình huống ứng dụng”[31], nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, năm 2010, chủ

biên TS. Nguyễn Thị Thương Huyền; Giáo trình “Phân loại và xuất xứ hàng

hóa”[30], nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, năm 2010, chủ biên PGS.,TS.

Nguyễn Thị Thương Huyền và ThS. Nguyễn Hoàng Tuấn. Hai cuốn sách này

tập trung làm rõ những vấn đề chung về lý luận xuất xứ hàng hoá, quy định

xuất xứ hàng hoá trên cơ sở phục vụ cho việc giảng dạy.

Thứ hai, các công trình nghiên cứu là các luận án, luận văn, đề tài khoa

học có liên quan trực tiếp đến đề tài gồm có:

- Lê Thị Hồng Lan (2008), “Phương pháp xác định xuất xứ hàng hóa

xuất nhập khẩu ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”[32], Luận văn thạc sỹ

quản trị kinh doanh đại học ngoại thương. Đề tài làm rõ một số vấn đề lý

18

thuyết về xuất xứ hàng hoá, thực trạng xác định xuất xứ hàng hoá XNK ở

Việt Nam giai đoạn 2003-2008. Đề xuất một số giải pháp nhằm xác định xuất

xứ hàng hoá XNK ở Việt Nam.

- Stefano Inama, Hồ Quang Trung, Trần Bá Cường, Phan Sinh (2011),

“Báo cáo đánh giá tác động của quy tắc xuất xứ trong các hiệp định thương

mại tự do của Việt Nam”[26]. Đây là nghiên cứu của Dự án MUTRAP III tập

trung vào làm rõ những đặc điểm chính về quy tắc xuất xứ trong các hiệp định

thương mại tự do của Việt Nam, đánh giá tác động của quy tắc xuất xứ đối

với sản phẩm cụ thể từ góc độ Việt Nam. Từ đó đưa ra kết luận, kiến nghị cho

đàm phán, quản lý thực hiện quy tắc xuất xứ tại Việt Nam.

- Ths.Nguyễn Hoàng Tuấn, Ths.Thái Bùi Hải An (2014), Đề tài “Áp

dụng hiệu quả các quy định về xuất xứ hàng hóa trong các hiệp định thương

mại tự do của Việt Nam”[43], Học viện Tài chính. Đề tài đánh giá những tác

động của các quy tắc xuất xứ hàng hoá hiện đang áp dụng tại Việt Nam, tác

động đến thuế quan và trao đổi thương mại. Trên cơ sở phân tích và chỉ ra

những hạn chế trong việc áp dụng các quy tắc xuất xứ để đề xuất ra một số

giải pháp tăng cường hiệu quả áp dụng các quy định về xuất xứ hàng

hoá ở Việt Nam.

- Phan Thị Thu Hiền (2014), “Hoàn thiện chính sách kiểm tra xuất xứ

hàng hóa nhập khẩu của Tổng cục hải quan Việt Nam”[29], Luận văn thạc sỹ

chuyên ngành kinh tế đối ngoại Đại học Kinh tế quốc dân. Luận văn đi sâu

vào các quy định về kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hoá áp dụng đối với cơ

quan hải quan trong hoạt động quản lý hàng hoá XNK.

- Nguyễn Ngọc Túc (2008), Hoàn thiện các biện pháp kiểm tra xuất xứ

hàng hoá xuất nhập khẩu của hải quan Việt Nam [46], đề tài NCKH cấp Bộ

Tài chính. Đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến xuất xứ hàng hoá XNK,

các quy định quốc tế và trong nước liên quan đến xuất xứ hàng hoá XNK, các

19

biện pháp để xác định, kiểm tra và xác minh xuất xứ hàng hoá, kinh nghiệm

kiểm tra xuất xứ hàng hoá của một số nước và thực tế công tác kiểm tra, xác

minh xuất xứ hàng hoá XNK của Hải quan Việt Nam.

- Brian Staples (2015), “Báo cáo hỗ trợ bộ công thương về sáng kiến tự

chứng nhận xuất xứ”[17], Dự án EU-Mutrap. Bản báo cáo đã đánh giá về hiện

trạng hệ thống chứng nhận xuất xứ hiện nay tại Việt Nam, thông lệ quốc tế và

khu vực về tự chứng nhận xuất xứ, những thuận lợi, khó khăn và đưa ra một

số kiến nghị cho hoạt động tự chứng nhận xuất xứ của Việt Nam.

Thứ ba, các bài báo, bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên

ngành, các bài hội thảo khoa học có liên quan, đề cập đến quy tắc xuất xứ

hàng hoá, áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá có thể kể đến như:

Nguyễn Hoàng Tuấn (2012), “Gian lận thuế nhập khẩu qua mã số và

xuất xứ hàng hoá”[44], kỷ yếu hội thảo khoa học khoa Thuế và hải quan

tháng 09/2012: “Chống gian lận thuế ở Việt Nam-Những vấn đề lý luận và

thực tiễn”; Nguyễn Hoàng Tuấn (2013), “Thống nhất về cách hiểu khi sử

dụng hóa đơn thương mại trong áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hóa

theo các FTA của Việt Nam’’[45], tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán tháng

12/2013, trang 43-46; ThS. Nguyễn Cương (2015), “Cơ chế chứ ng nhận xuất xứ hà ng hoá trong cá c FTA và vấn đề đặt ra vớ i Viê ̣t Nam”[21], ta ̣p chı́ Nghiên cứ u Thương mại số 13& 14 tháng 04/2015; Khương Duy (2014), “Vai trò bảo hộ của quy tắc xuất xứ trong thương mại quốc tế” [23], tạp chí kinh tế

đối ngoại số 56 ,trường đại học Ngoại thương Hà Nội.

1.2.2.Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến thuế quan và cộng

đồng kinh tế ASEAN (AEC).

Các đề tài, công trình nghiên cứu liên quan đến cộng đồng kinh kế

ASEAN gồm có:

- PGS,TS.Nguyễn Phúc Khanh (2005), “Nghiên cứu việc hình thành cộng

20

đồng kinh tế ASEAN (AEC) và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” [27], đề

tài nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ giáo dục và Đào tạo. Tác giả đi

sâu vào nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về cộng đồng kinh tế, kinh

nghiệm thành lập cộng đồng kinh tế châu Âu, đánh giá những điều kiện và

khả năng của ASEAN để thành lập AEC, lựa chọn mô hình và lộ trình ra đời

AEC, những tác động của AEC đối với Việt Nam.

- Bộ công thương (2010), “Hợp tác kinh tế việt Nam với ASEAN và

ASEAN mở rộng”[4], NXB Công thương, Hà Nội. Đây là bộ sách về hội nhập

kinh tế quốc tế do Bộ Công thương phát hành cung cấp những nghiên cứu về

hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) từ quá trình hình thành và phát

triển, những hợp tác cụ thể về kinh tế ASEAN và ASEAN+3, hợp tác giữa

Việt Nam với ASEAN và ASEAN+3.

- Nguyễn Hồng Sơn và Nguyễn Anh Thu, (2015), “Cộng đồng kinh tế

ASEAN (AEC) bối cảnh và kinh nghiệm quốc tế”[38], NXB đại học quốc gia

Hà Nội. Tác giả phân tích, đánh giá thực tiễn hội nhập kinh tế khu vực trên

thế giới qua hội nhập của các nước thuộc NAFTA, MERCOSUR, liên minh

Châu Âu, Châu Phi và rút ra bài học kinh nghiệm cho AEC/ASEAN. Xem xét

và đánh giá những nội dung và kết quả thực hiện hội nhập AEC từ kinh

nghiệm một số nước như Thái Lan, Philippines. Nhận định những xu hướng,

bối cảnh quốc tế mới và những tác động đối với AEC và vấn đề đặt ra đối với

Việt Nam.

Các bài báo, bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, các

bài hội thảo khoa học có liên quan, đề cập đến cộng đồng kinh tế ASEAN

(AEC) như: PGS.TS. Hà Văn Hội, “Tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN và

những tác động đến thương mại quốc tế của Việt Nam”[25], Tạp chí Khoa

học ĐHQGHN, Chuyên san Kinh tế và Kinh doanh, tập 29, số 4 (2013) 44-

53; PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn, TS. Nguyễn Mạnh Hùng, “Cộng đồng kinh

21

tế ASEAN trong bối cảnh quốc tế mới”[39], Tạp chí Những vấn đề kinh tế &

Chính trị Thế giới, tháng 7/2014; ThS. Trần Thị Thanh Tâm (2015), “Cơ hội

và thách thức đối với Việt Nam khi tham gia AEC”[40], Tạp chí Tài chính/

2015, Số 606 (Tháng 4), tr. 8 – 11; Nguyễn Anh Tuấn (2015), “Cộng đồng

Kinh tế ASEAN: Triển vọng và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”[42],

Tạp chí cộng sản số tháng 6/2015; Khương Duy (2015), “Cộng đồng kinh tế

ASEAN và những tác động đến Việt Nam”[24], Tạp chí Tài chính, Kỳ I-tháng

12/2015(622) , Tr.54-56.

Thông qua việc nghiên cứu, khảo sát các công trình nghiên cứu trong

nước có liên quan đến đề tài luận án, có thể thấy rằng số lượng các công trình

nghiên cứu có liên quan đến về quy tắc xuất xứ hàng hoá không nhiều. Phần

lớn các nội dung nghiên cứu chủ yếu dưới góc độ pháp luật, tập trung vào quy

định trong các văn bản pháp luật nhà nước về xuất xứ hàng hoá. Còn các công

trình bài viết về AEC thì tập trung đánh giá nghiên cứu về những tác động

chung của quá trình hình thành, ít hoặc không đề cập đến tác động của quy tắc

xuất xứ hàng hoá.

1.3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

LUẬN ÁN.

1.3.1. Những khoảng trống trong các nghiên cứu.

Qua xem xét những công trình nghiên cứu khoa học đã công bố trong và

ngoài nước liên quan đến đề tài nghiên cứu của luận án có thể thấy rằng:

- Những khoảng trống về mặt lý thuyết: Chưa có công trình nghiên cứu

khoa học mang tính lý luận chuyên sâu để tiếp cận toàn diện về khía cạnh

Quy tắc xuất xứ hàng hoá của Việt Nam trong áp dụng thuế quan ưu đãi gắn

với cộng đồng kinh tế ASEAN. Phần lớn các nghiên cứu trên chỉ tiếp cận

chung về quy tắc xuất xứ trong các công ước, hiệp định và dưới giác độ các

văn bản pháp luật mà chưa có sự gắn kết với lý luận về thuế quan ưu đãi và

22

cộng đồng kinh tế ASEAN. Các công trình cũng chưa có sự xem xét một cách

toàn diện về những nhân tố ảnh hưởng, mô hình ảnh hưởng của quy tắc xuất

xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi về mặt lý luận.

- Những khoảng trống về đánh giá thực tiễn thực hiện quy tắc xuất xứ

hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi trong AEC. Các nghiên cứu trên mới

chỉ xem xét và đánh giá khía cạnh thực tế thực hiện quy tắc xuất xứ tại một số

FTA trên thế giới như EU, Mỹ, ASEAN nói chung chứ chưa gắn kết với

AEC. Một số nghiên cứu có đề cập đến AEC nhưng lại dưới khía cạnh trao

đổi thương mại và đầu tư mà không đề cập đến quy tắc xuất xứ hàng hoá. Các

công trình cũng chưa có sự đi sâu phân tích và đánh giá một cách đầy đủ về

thực hiện Quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt

Nam gắn cộng đồng kinh tế ASEAN, phân tích tìm ra những hạn chế, nguyên

nhân làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp phù hợp trong việc áp dụng quy

tắc xuất xứ.

- Những khoảng trống trong việc đưa ra các giải pháp mang tính toàn

diện cho việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu

đãi của Việt Nam trong AEC: Do việc nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn

áp dụng các quy tắc xuất xứ của các công trình nêu trên chưa có sự toàn diện

và gắt kết với bối cảnh Việt Nam tham gia AEC nên việc đưa ra được một hệ

thống mang tính toàn diện và thiết thực trong các công trình nghiên cứu là

chưa có. Đây được xem là khoảng trống rất cần nghiên cứu khi xây dựng các

chính sách của Việt Nam khi ra nhập AEC.

Xuất phát từ các đánh giá nêu trên, luận án sẽ đi sâu nghiên cứu, phân

tích các vấn đề sau:

- Tiếp tục hoàn thiện và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về quy

tắc xuất xứ hàng hoá, thuế quan ưu đãi gắn với quy tắc xuất xứ hàng hoá.

- Thực tiễn áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá để vận dụng thuế quan ưu

23

đãi trong bối cảnh Việt Nam gia nhập AEC của các doanh nghiệp ở Việt Nam

cũng như các cơ quan quản lý nhà nước hiện nay cần được quan tâm nghiên

cứu chi tiết, cụ thể hơn. Trên cơ sở nghiên cứu đánh giá, phân tích một cách

toàn diện để tìm ra những tồn tại, hạn chế của việc thực hiện quy tắc xuất xứ

hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi trong bối cảnh Việt Nam gia nhập

AEC hiện nay như thế nào.

- Sử dụng các dữ liệu và một số mô hình để đánh giá mối liên hệ và tác

động của quy tắc xuất xứ hàng hoá, thuế quan ưu đãi đến trao đổi thương mại

trong AEC của Việt Nam.

- Đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá trong

áp dụng thuế quan ưu đãi trong cộng đồng kinh tế ASEAN.

1.3.2. Những kết quả nghiên cứu mà Luận án sẽ kế thừa và tiếp tục phát

triển.

Nhìn tổng quan, các công trình nghiên cứu, các bài viết, tài liệu thu thập

được có liên quan mật thiết hoặc liên quan đến các nội dung nghiên cứu của

đề tài Luận án đã góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về quy tắc xuất

xứ hàng hoá và thuế quan ưu đãi trong bối cảnh ra đời của cộng đồng kinh tế

ASEAN (AEC) trên các khía cạnh sau:

Thứ nhất, Các công trình nghiên cứu đã cung cấp cho NCS một cái nhìn

toàn diện về quy tắc xuất xứ hàng hoá, thuế quan ưu đãi và cộng đồng kinh tế

ASEAN. Một số công trình, bài viết đã sử dụng phương pháp phân tích,

phương pháp luận để làm rõ những nội dung lý luận về quy tắc xuất xứ hàng

hoá, kinh nghiệm của một số quốc gia trong áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá

đó là những lý luận và kinh nghiệm rất hữu ích để NCS tham khảo và có thể

vận dụng vào làm rõ những nội dung về quy tắc xuất xứ hàng hoá ở Việt Nam.

Thứ hai, Nhiều công trình, bài viết sử dụng mô hình đánh giá qua dữ liệu

phân tích sự tác động của xuất xứ hàng hoá với thuế quan ưu đãi, trao đổi

24

thương mại trong các FTA, RTA cũng như trong ASEAN. Trong xu hướng

phát triển mạnh mẽ của các FTA trên thế giới thì tác động đến quy tắc xuất

xứ, tác động đến sự tăng trưởng nhập khẩu và cắt giảm thuế quan thế nào, mối

liên hệ giữa tăng trưởng thương mại, quy tắc xuất xứ đã được làm rõ.

Thứ ba, Một số công trình trong và ngoài nước tập trung phân tích khá

sâu, khá cụ thể về lý luận chung của xuất xứ hàng hóa, quy tắc xuất xứ hàng

hóa trong các thỏa thuận thương mại khu vực, ảnh hưởng và tác động của quy

tắc xuất xứ hàng hóa đến thương mại, thuế quan và sự phát triển kinh tế.

Thứ tư, Một số công trình đã đánh giá cụ thể thực trạng áp dụng quy tắc

xuất xứ của theo quy định của WTO, quy tắc xuất xứ theo hệ thống GSP của

một số nước như EU, Mỹ, Canada, quy tắc xuất xứ trong các thỏa thuận

thương mại khu vực NAFTA, AFTA, Mercosur và FTA trên thế giới.

Thứ năm, Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến khung pháp lý về quy

tắc xuất xứ thông qua việc sử dụng các phương pháp hệ thống hóa, tổng hợp

và phân tích. Một số hiệp định, công ước, luật, văn bản liên quan đã được chỉ

dẫn để phân tích làm rõ những qui định đặc thù của pháp luật về quy tắc xuất

xứ hàng hoá.

Tóm lại, những kết quả nghiên cứu từ các công trình khoa học, tài liệu

nghiên cứu trên là điểm xuất phát rất quan trọng, là cơ sở lý luận mang tính

tiền đề để NCS tiếp tục có cơ sở để nghiên cứu, so sánh với thực trạng thực

hiện quy tắc xuất xứ trong áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam.

1.4.CÁC CÂU HỎI NGHIÊN CỨU.

Để có thể giải quyết một cách toàn diện, thấu đáo những vấn đề cần tiếp tục

nghiên cứu, NCS đặt ra các câu hỏi nghiên cứu cần phải giải quyết như sau:

1. Nội dung cơ bản của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế

quan ưu đãi là gì?

2. Những nhân tố nào ảnh hưởng đến việc thực hiện quy tắc xuất xứ

25

hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi?

3. Tác động của quy tắc xuất xứ hàng hoá đối với trao đổi thương mại

giữa các nước như thế nào trong áp dụng thuế quan ưu đãi?

4. Mô hình nghiên cứu nào có thể đánh giá được những tác động của

việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi?

5. Các nước trên thế giới đã có những biện pháp gì để thực hiện tốt quy

tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi? Từ đó, Việt Nam có thể

học hỏi và áp dụng được những gì?

6. Thực trạng thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế

quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN thời gian qua như

thế nào? Đã đạt được những kết quả gì? Những điểm gì còn hạn chế và

nguyên nhân tại sao?

7. Xu thế phát triển của các hiệp định thương mại tự do mới sẽ có ảnh

hưởng như thế nào đến việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng

thuế quan ưu đãi?

8. Những giải pháp nào đối với nhà nước và doanh nghiệp để có thể

thực hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi

trong bối cảnh Việt Nam gia nhập AEC ?

26

Kết luận chương 1

Trong chương 1, NCS đã thống kê, tổng hợp và phân tích tóm lược một

số nội dung về một số công trình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên

quan tới đề tài nghiên cứu của luận án. Đồng thời, NCS cũng đưa ra những

nhận xét đánh giá về các công trình nghiên cứu này như sau: Chưa có công

trình nghiên cứu khoa học mang tính lý luận và thực tiễn chuyên sâu tiếp cận

toàn diện về thực hiện quy tắc xuất xứ gắn với việc áp dụng thuế quan ưu đãi

của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN; các quan điểm, phương

hướng và các giải pháp cụ thể của một số nghiên cứu đưa ra để hoàn thiện,

thực hiện tốt Quy tắc xuất xứ hàng hoá không gắn với bối cảnh của Việt Nam;

một số nghiên cứu gắn với Việt Nam thì mới đề cập, phân tích chủ yếu trên

góc độ thực hiện văn bản pháp luật về xuất xứ hàng hoá, hoặc nếu đề cập đến

AEC thì không gắn với việc áp dụng quy tắc xuất xứ.

Xuất phát từ quan điểm nghiên cứu khoa học vừa mang tính kế thừa vừa

mang tính phát triển, NCS đã đặt ra một số vấn đề cần phải tiếp tục nghiên

cứu làm rõ trên cơ sở phát triển những kết quả của những nghiên cứu trước đó

trong luận án gắn liền với việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp

dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN. Từ đó,

NCS đã đặt ra 8 câu hỏi nhằm giải quyết trong luận án.

27

Chương 2

QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VÀ THUẾ QUAN ƯU ĐÃI

2.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ

2.1.1. Khái niệm xuất xứ hàng hoá và quy tắc xuất xứ hàng hoá.

2.1.1.1. Xuất xứ hàng hoá.

Trong những năm qua, song song với quá trình toàn cầu hóa là sự phát

triển mạnh mẽ của các hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và khu

vực. Đây được xem là một xu thế quan trọng trong hoạt động thương mại thế

giới khi mà ngày càng có nhiều nước tham gia vào khối liên kết thương mại

đa phương ở cấp độ khu vực, châu lục và cả toàn cầu, đồng thời cũng tham

gia thực hiện nhiều cam kết thương mại song phương. Theo đó, việc các nước

dỡ bỏ một phần hay toàn bộ hàng rào bảo hộ, dành cho nhau nhiều ưu đãi

trong quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá ngày càng phổ biến nhằm tận

dụng tối đa khả năng được hưởng ưu đãi, miễn trừ nhằm nâng cao khả năng

tiếp cận thị trường của các đối tác thành viên FTA và giành lợi thế cạnh tranh

với hàng hóa từ các đối thủ ngoài FTA. Tuy nhiên, để thực hiện được những

quyền ưu đãi như vậy cần phải xác định được chính xác xuất xứ hàng hoá. Do

đó, việc xác định xuất xứ của hàng hóa là một khái niệm cần thiết và quan

trọng của hệ thống thương mại đa phương làm cơ sở để áp dụng các công cụ

chính sách thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Thuật ngữ “xuất xứ hàng hoá” mặc dù được sử dụng tương đối rộng rãi

trong thương mại quốc tế nhưng trong các từ điển về kinh tế hay thương mại

ở Việt Nam lại không thể tìm được một khái niệm đầy đủ về xuất xứ và xuất

xứ hàng hoá. Ngay cả với các từ điển nước ngoài cũng chỉ đề cập một cách

chung chung đến khái niệm về xuất xứ được đề cập là nơi sinh ra hoặc nơi

xuất phát hoặc nơi khởi đầu của một sản phẩm hay con người.

28

Dưới góc độ luật pháp quốc tế, khái niệm về xuất xứ hàng hoá được đề

cập một cách rõ nét hơn. Theo Điều 3(b) Hiệp định về quy tắc xuất xứ của

WTO đã chỉ ra: “một nước được xác định là nước xuất xứ của một hàng hóa

cụ thể nếu như hàng hóa được hoàn toàn sản xuất ra ở nước đó hoặc khi

nhiều nước cùng tham gia vào quá trình sản xuất ra hàng hóa đó, thì nước

xuất xứ hàng hóa là nước thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng.”

[54]. Với khái niệm này, hiệp định xem xét xuất xứ hàng hoá theo khía cạnh

về phương pháp xác định nước xuất xứ theo tiêu chí sản xuất hoàn toàn hoặc

công đoạn chế biến cơ bản cuối cùng tại một quốc gia.

Tại Chương 1, Phụ lục K Công ước Kyoto về đơn giản hóa và hài hòa

hóa thủ tục hải quan (sửa đổi năm 1999) nêu rõ khái niệm về "Nước xuất xứ

của hàng hóa là nước tại đó hàng hóa được chế biến hoặc sản xuất, phù hợp

với tiêu chuẩn được áp dụng trong biểu thuế hải quan, giới hạn về số lượng

hoặc các biện pháp khác liên quan đến thương mại”[53]. Điều này cho thấy,

công ước xem xét khái niệm về xuất xứ hàng hoá dưới góc độ hoạt động chế

biến hoặc sản xuất đó có đáp ứng được các tiêu chuẩn làm thay đổi hàng hoá

áp dụng trong biểu thuế quan hay không. Hàng hoá được nhắc đến ở đây là tất

cả các hàng hoá được phân loại dựa trên hệ thống hài hoà mô tả và mã hoá

hàng hoá (hệ thống HS).

Ở Việt Nam, khái niệm về xuất xứ hàng hoá được đề cập đến tại Khoản 14,

Điều 3 Luật Thương mại Việt Nam 2005 như sau: “Xuất xứ hàng hoá là nước

hoặc vùng lãnh thổ nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nơi thực hiện công

đoạn chế biến cơ bản cuối cùng đối với hàng hoá trong trường hợp có nhiều

nước hoặc vùng lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá đó” [37].

Như vậy, có thể thấy xuất xứ hàng hóa chỉ là một khái niệm tương đối

được đưa ra ở nhiều quy định định khác nhau trên thế giới và Việt Nam

nhưng đều có điểm chung là xuất xứ hàng hoá phải gắn liền với công đoạn

29

sản xuất hoặc chế biến hàng hoá. Theo đó, xuất xứ hàng hoá được hiểu là chỉ

quốc gia, vùng lãnh thổ nguồn gốc nơi hàng hoá được tạo ra và có thể được

xem như là “quốc tịch” của hàng hoá. Tuy nhiên, hàng hóa không phải lúc

nào cũng được tạo ra hoàn toàn trong một nước hay vùng lãnh thổ mà thực tế

trong điều kiện kinh tế thế giới ngày nay cùng với sự phát triển của phân công

lao động, trình độ chuyên môn hoá càng cao và giao lưu buôn bán quốc tế

diễn ra mạnh mẽ, một hàng hóa được sản xuất ra có thể có sự đóng góp của

nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau. Việc xác định và thừa nhận quốc

gia, vùng lãnh thổ nào là xuất xứ của hàng hoá trên thực tế khá phức tạp và

không phải lúc nào cũng thống nhất. Do đó, đi kèm với các hiệp định thương

mại FTA luôn có các quy tắc xuất xứ được các nước thành viên thống nhất

xây dựng lên để nhằm xác định chính xác xuất xứ của các hàng hóa. Trong

phạm vi nghiên cứu của luận án, gắn liền với các quy định xuất xứ của Việt

Nam có thể khẳng định rằng, xuất xứ hàng hoá là nước hoặc vùng lãnh thổ

nơi sản xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nơi thực hiện công đoạn chế biến cơ

bản cuối cùng đối với hàng hoá trong trường hợp có nhiều nước hoặc vùng

lãnh thổ tham gia vào quá trình sản xuất hàng hoá đó. Khái niệm xuất xứ hàng

hoá như vậy đã bao quát được các trường hợp được xác định xuất xứ hàng

hoá phù hợp với các quy định và thông lệ của các hiệp định thương mại và hài

hoà với pháp luật của nhiều nước trên thế giới.

2.1.1.2. Quy tắc xuất xứ hàng hoá.

Quy tắc xuất xứ được áp dụng để xác định xuất xứ hàng hóa, nhất là khi

hàng hóa được sản xuất bởi nhiều quốc gia khác nhau. Đây được xác định là

một vấn đề rất quan trọng trong quan hệ thương mại quốc tế. Khi đó, cùng

một hàng hóa được sản xuất và xuất khẩu bởi một quốc gia nhưng tùy thuộc

vào quy tắc xuất xứ được áp dụng trong mỗi trường hợp, hàng hóa đó có thể

được coi là có hoặc không có xuất xứ tại chính quốc gia này.

30

Dưới góc độ pháp luật quốc tế, tại chương 1, Phụ lục K Công ước Kyoto

về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải quan (sửa đổi năm 1999), khái

niệm về quy tắc xuất xứ được xác định: “Quy tắc xuất xứ là những quy định

cụ thể, hình thành và phát triển từ những quy tắc quy định trong luật pháp

quốc gia hoặc các hiệp định quốc tế (tiêu chuẩn xuất xứ), được một quốc gia

áp dụng để xác định xuất xứ hàng hóa.” [53]. Tuy nhiên, công ước Kyoto

không đưa ra được định nghĩa thống nhất quốc tế về cách xác định nguồn gốc

xuất xứ của hàng hoá. Bởi vậy, việc đưa ra một định nghĩa thống nhất quốc tế

về cách xác định nguồn gốc xuất xứ của hàng hoá về cơ bản vẫn dựa trên hiệp

định của WTO về quy tắc xuất xứ.

Tại điều 1 Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO đưa ra khái niệm: “Qui

tắc xuất xứ được định nghĩa là những luật, qui định, quyết định hành chính

chung do các Thành viên áp dụng để xác định nước xuất xứ của hàng hóa với

điều kiện là qui tắc xuất xứ này không liên quan đến thoả thuận thương mại

hoặc chế độ thương mại tự chủ có áp dụng ưu đãi thuế quan” [54].

Như vậy, có thể khẳng định rằng quy tắc xuất xứ được thể hiện dưới các

quy định luật pháp quốc gia hoặc điều ước, hiệp định quốc tế nhằm xác định

xuất xứ của hàng hoá. Để xác định được xuất xứ hàng hoá thì Hiệp định của

WTO về quy tắc xuất xứ cũng đưa ra cách thức phân chia quy tắc xuất xứ

theo hai dạng khác nhau theo mục đích sử dụng đó là quy tắc xuất xứ ưu đãi

và không ưu đãi.

Đối với quy tắc xuất xứ ưu đãi, tại mục 2 phụ lục II của Hiệp định về

quy tắc xuất xứ của WTO đã chỉ rõ: “Quy tắc xuất xứ ưu đãi được định nghĩa

là các luật, qui định, quyết định hành chính mà Thành viên áp dụng để xác

định hàng hóa có đủ tiêu chuẩn được hưởng đối xử ưu đãi theo chế độ thương

mại dành ưu đãi lẫn nhau hay một chiều dẫn tới áp dụng ưu đãi thuế vượt

ngoài phạm vi áp dụng của khoản 1- Điều I – GATT 1994” [54].

31

Chế độ thương mại có thể là các thoả thuận, hiệp định song phương hoặc

đa phương đề ra các ưu đãi về thuế quan hoặc chế độ ưu đãi thuế quan đơn

phương. Các ưu đãi này tất nhiên không chỉ giới hạn trong các cam kết giữa

các nền kinh tế thuộc phạm vi khu vực hay quốc tế mà có thể là các ưu đãi

một chiều (không có thỏa thuận). Ví dụ như: Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ

cập chung (GSP) của các nước phát triển dành cho các nước đang và kém

phát triển, theo đó một số nước phát triển dành những ưu đãi nhất định về

thuế quan cho một số nước đang và kém phát triển khi hàng hóa của nước này

thâm nhập vào thị trường nước phát triển đó. Để được hưởng các ưu đãi mà

nước nhập khẩu dành cho mình, hàng hóa phải có xuất xứ từ nước được

hưởng ưu đãi được xác định theo tiêu chí xuất xứ cụ thể do các nước cho

hưởng ưu đãi đặt ra. Như vậy, Quy tắc xuất xứ ưu đãi là các quy định về xuất

xứ áp dụng cho hàng hóa có thoả thuận ưu đãi về thuế quan để xác định sản

phẩm nhập khẩu sẽ được hưởng mức thuế quan ưu đãi hay MFN. Quy tắc này

thường được áp dụng trong các Hiệp định thương mại tự do (FTA) song

phương, khu vực và không quy định trong WTO.

Đối với quy tắc xuất xứ không ưu đãi, tại điều 1 phần I của Hiệp định về

quy tắc xuất xứ của WTO đã đưa ra khái niệm: “Quy tắc xuất xứ không ưu

đãi là những luật, qui định, quyết định hành chính chung do các Thành viên

áp dụng để xác định nước xuất xứ của hàng hóa với điều kiện là qui tắc xuất

xứ này không liên quan đến thoả thuận thương mại hoặc chế độ thương mại

tự chủ có áp dụng ưu đãi thuế quan ngoài phạm vi điều chỉnh của khoản 1

Điều I của GATT 1994” [54].

Quy tắc xuất xứ không ưu đãi được sử dụng trong các công cụ chính

sách thương mại không ưu đãi như đối xử tối huệ quốc theo Điều I, II, III, XI

và XIII của GATT 1994, thuế chống phá giá và thuế đối kháng theo Điều VI

của GATT 1994, các biện pháp tự vệ theo Điều XIX của GATT 1994, yêu

32

cầu ký hiệu xuất xứ theo Điều IX của GATT 1994 và tất cả các hạn chế số

lượng hay hạn ngạch thuế quan áp dụng phân biệt đối xử. Các qui tắc xuất xứ

này bao gồm cả qui tắc xuất xứ được sử dụng trong mua sắm chính phủ và số

liệu thống kê thương mại. Một quốc gia có thể không có hoặc không sử dụng

các Qui tắc xuất xứ ưu đãi nhưng vẫn phải có những qui tắc xuất xứ không ưu

đãi nhất định. Do có nhiều qui tắc xuất xứ không ưu đãi đặt ra như vậy nên

cần được hài hoà giữa các quốc gia trên thế giới để đạt được sự thống nhất

chung trong cách xác định xuất xứ của hàng hoá nhằm các mục đích không

phải ưu đãi thuế quan. Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đã đưa vào nội

dung Hài hoà qui tắc xuất xứ tại phần IV của Hiệp định về qui tắc xuất xứ với

các nội dung cơ bản áp dụng đồng nhất cho tất cả các mục đích không phải ưu

đãi thuế quan và phải thể hiện rõ nước xuất xứ của một hàng hoá là nước sản

xuất ra toàn bộ hàng hoá hoặc nước thực hiện công đoạn chế biến cơ bản cuối

cùng hàng hoá đó nếu có nhiều quốc gia cùng tham gia sản xuất hàng hoá.

Tại Việt Nam, quy định về quy tắc xuất xứ ưu đãi và không ưu đãi đã

được đưa ra theo Khoản 2 và 3, Điều 3, Nghị định 19/2006/NĐ-CP quy định

chi tiết Luật Thương mại về xuất xứ hàng hóa do Chính phủ ban hành ngày 20

tháng 2 năm 2006 theo đó:

“2. Quy tắc xuất xứ ưu đãi là các quy định về xuất xứ áp dụng cho hàng

hóa có thoả thuận ưu đãi về thuế quan và ưu đãi về phi thuế quan.

3. Quy tắc xuất xứ không ưu đãi là các quy định về xuất xứ áp dụng cho

hàng hóa ngoài quy định tại khoản 2 Điều này và trong các trường hợp áp

dụng các biện pháp thương mại không ưu đãi về đối xử tối huệ quốc, chống

bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, hạn chế số lượng hay hạn ngạch thuế quan,

mua sắm chính phủ và thống kê thương mại.” [19]

Như vậy, quy tắc xuất xứ ưu đãi được sử dụng để xác định xuất xứ hàng

hóa nhằm các mục đích ưu đãi như cho hưởng thuế suất ưu đãi đặc biệt.

33

Ngược lại, quy tắc xuất xứ không ưu đãi được sử dụng để xác định xuất xứ

hàng hóa nhằm các mục đích không ưu đãi như về đối xử tối huệ quốc, chống

bán phá giá, chống trợ cấp, tự vệ, hạn chế số lượng hay hạn ngạch thuế quan,

mua sắm chính phủ và thống kê thương mại. Do sự gia tăng của các FTA

trong WTO, quy tắc xuất xứ ưu đãi đa dạng hơn hẳn so với quy tắc xuất xứ

không ưu đãi. Bản thân Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO chỉ quy định

về quy tắc xuất xứ không ưu đãi, còn quy tắc xuất xứ ưu đãi sẽ được các

thành viên xây dựng khi đàm phán FTA hoặc cấp ưu đãi GSP. Mỗi thành viên

WTO chỉ có một quy tắc xuất xứ không ưu đãi nhưng có thể có nhiều quy tắc

xuất xứ ưu đãi khác nhau. Quy tắc xuất xứ không ưu đãi phải được áp dụng

trên nguyên tắc không phân biệt đối xử, còn quy tắc xuất xứ ưu đãi không

chịu sự ràng buộc này.

Ở Việt Nam, chỉ có Nghị định 19/2006/NĐ-CP của chính phủ quy định

về quy tắc xuất xứ không ưu đãi nhưng có rất nhiều quy tắc xuất xứ ưu đãi

trong các hiệp định thương mại song phương và đa phương mà nước ta là

thành viên. Việt Nam hiện nay đã ký kết rất nhiều hiệp định với tư cách thành

viên ASEAN hoặc với tư cách riêng với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,

Ấn Độ, Australia, New Zealand, Chile. Đặc biệt, hàng hóa xuất khẩu, nhập

khẩu giữa Việt Nam và Nhật Bản hiện nay có thể được xác định xuất xứ dựa

trên ba quy tắc xuất xứ ưu đãi (GSP, AJCEP, VJEPA). Điều đó cho thấy sự đa

dạng, phức tạp của các quy tắc xuất xứ ưu đãi trong thương mại quốc tế.

2.1.2. Những nội dung cơ bản của quy tắc xuất xứ hàng hoá.

2.1.2.1. Xác định xuất xứ hàng hoá.

Để xác định được một hàng hoá có xuất xứ từ một quốc gia nào đó thì

trong nội dung của các quy tắc xuất xứ đều đưa ra các quy định về cách xác

định xuất xứ thuần túy và xuất xứ không thuần túy. Điều này được thể hiện

qua hình 2.1 như sau :

34

Hình 2.1.Tiêu chí xác định hàng hóa có xuất xứ

Xuất xứ thuần túy là thuật ngữ chỉ trường hợp khi hàng hóa hoàn toàn

được sản xuất ra tại một quốc gia. Đa số các quy tắc về xuất xứ thuần túy trên

thế giới đều giống nhau về nội dung và chủ yếu liên quan tới các mặt hàng

nông lâm, thủy hải sản và khoáng sản. Theo đó, hàng hoá có xuất xứ thuần

tuý là những sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên hoặc là những sản phẩm được

gia công hay chế biến không có sự tham gia của nguyên vật liệu nhập khẩu

hoặc không rõ xuất xứ.

Xuất xứ không thuần túy là trường hợp xảy ra khi hàng hoá trong quá

trình sản xuất hoặc gia công hay chế biến có thành phần nguyên vật liệu hoặc

lao động của hai hay nhiều nước tham gia vào hoạt động tạo ra sản phẩm này.

Khi đó, những sản phẩm này được coi là có xuất xứ tại nước được hưởng nếu

những nguyên liệu, bộ phận, thành phần của sản phẩm được chế biến hoặc gia

công đầy đủ hay chuyển đổi cơ bản tại nước đó. Về nguyên tắc chung, hoạt

động chế biến hoặc gia công được coi là đầy đủ nếu chúng thực hiện việc thay

đổi cơ bản một hàng hoá, có nghĩa là được biến đổi qua một quá trình sản

xuất, để hình thành một vật phẩm thương mại mới, khác biệt về hình dạng,

35

tính năng, đặc điểm cơ bản, hoặc mục đích sử dụng so với hàng hoá ban đầu.

Tuy nhiên, trong thực tế áp dụng thì khái niệm gia công hoặc chế biến đầy đủ

tuỳ thuộc vào quy định của mỗi nước hay mỗi khu vực trong quan hệ với các

đối tác thương mại. Các tiêu chí chính thường dùng để xác định mức độ

chuyển đổi cơ bản đó là tiêu chí chuyển đổi dòng thuế (hay chuyển đổi mã số

hàng hoá CTC), công đoạn gia công hoặc chế biến hàng hoá và tiêu chí tỷ lệ

phần trăm (RVC). Trong quy tắc xuất xứ hàng hoá những tiêu chí này có thể

được áp dụng trong quy tắc chung (áp dụng cho tất cả các hàng hoá) hoặc quy

tắc xuất xứ cụ thể (gắn liền với từng nhóm hàng hoá cụ thể thường được xây

dựng dựa trên danh mục HS).

Tiêu chí chuyển đổi dòng thuế (hay chuyển đổi mã số hàng hóa CTC) là

sự thay đổi về mã số HS (trong Biểu thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu) của

hàng hóa xuất khẩu được tạo ra ở một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trong quá

trình sản xuất từ bất kỳ một nguyên liệu nào không có xuất xứ của quốc gia

hoặc vùng lãnh thổ này. Sự chuyển đổi có thể ở mức hai chữ số, bốn chữ số,

sáu chữ số hoặc ở một mức độ phân chia chi tiết hơn. Quy tắc này được xây

dựng phù hợp với hệ thống danh mục hài hòa và mô tả mã hóa hàng hóa (HS)

của Tổ chức Hải quan thế giới và thường được dùng làm phụ lục của các

FTA. Về nguyên tắc, chuyển đổi mã số hàng hóa là cách thức xác định xuất

xứ rất rõ ràng, dễ hiểu và dễ áp dụng đối với các doanh nghiệp. Về yêu cầu

chứng từ, quy tắc này đòi hỏi các doanh nghiệp phải lưu giữ các sổ sách cho

biết mã số thuế của sản phẩm cuối cùng và tất cả các đầu vào nhập khẩu. Yêu

cầu này không khó thực hiện nếu doanh nghiệp xuất khẩu trực tiếp nhập khẩu

đầu vào song sẽ khó thực hiện hơn nếu doanh nghiệp đó mua nguyên liệu qua

các đại lý trung gian trên thị trường nội địa.

Tiêu chí công đoạn gia công hoặc chế biến cụ thể hàng hoá (tiêu chí SP)

thể hiện qua việc nguyên vật liệu, bộ phận nhập khẩu được coi là sản xuất, gia

36

công chế biến đủ khi trải qua quá trình gia công cụ thể để tạo nên một thành

phẩm cuối cùng được công nhận xuất xứ. Tiêu chí này có thể bao gồm yêu

cầu phải sử dụng đầu vào cấu thành xuất xứ hoặc không cho phép sử dụng

đầu vào không cấu thành xuất xứ. Tiêu chí này thường sử dụng đối với các

sản phẩm thép, dệt may. Tiêu chí này rõ ràng, minh bạch, tuy nhiên lại kém

linh hoạt khi không thể theo kịp được với các thay đổi công nghệ hay các thay

đổi trong quy định về chứng từ như bảng kê các quy trình sản xuất cập nhật.

Tiêu chí này thường được kết hợp với tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa để

xác định xuất xứ.

Đối với tiêu chí tỷ lệ phần trăm (hay giá trị tăng thêm RVC), khi xác

định xuất xứ quy định hàng hóa sẽ được coi là chuyển đổi cơ bản khi một tỉ lệ

phần trăm tối đa trị giá nguyên vật liệu nhập khẩu hoặc không rõ xuất xứ

được sử dụng hoặc tỉ lệ phần trăm tối thiểu trị giá nguyên vật liệu nội địa

được sử dụng để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Tiêu chí này phù hợp với một

số mặt hàng không đáp ứng tiêu chí chuyển đổi mã số, đồng thời có thể linh

hoạt áp dụng tỉ lệ phần trăm nhất định, phù hợp năng lực các ngành công

nghiệp nội địa và không đòi hỏi công đoạn gia công chế biến. Tuy nhiên, tiêu

chí này không rõ ràng và khó dự báo. Trước hết, về định giá nguyên vật liệu

dựa trên giá xuất xưởng (EXW), giá FOB, giá CIF hoặc giá nhập kho. Mỗi

phương pháp định giá lại cho một kết quả khác biệt về giá trị của những

nguyên liệu không xác lập xuất xứ, ở đây là theo thứ tự tăng lên. Thứ hai, việc

áp dụng phương pháp này sẽ là tốn kém đối với các doanh nghiệp, do đòi hỏi

phải có hệ thống kế toán và năng lực giải quyết các vấn đề kế toán phức tạp.

Cuối cùng, với phương pháp xác định xuất xứ theo giá trị tăng thêm, xuất xứ

trở nên nhạy cảm đối với các nhân tố quyết định chênh lệch chi phí sản xuất

giữa các nước như tỷ giá hối đoái, lương và giá hàng hóa.

Khi áp dụng tiêu chí tỷ lệ phần trăm, có hai cách phổ biến thường được

37

các quốc gia trên thế giới xác định quy định rõ trong các bộ quy tắc xuất xứ

hàng hoá theo các FTA để xác định hàm lượng giá trị nội địa (RVC) (trường

hợp nào sử dụng cách nào cũng đều được quy định rõ trong quy tắc xuất xứ

liên quan), bao gồm:

+ Cách tính trực tiếp (chỉ tính hàm lượng giá trị các nguyên liệu “có xuất

xứ” từ các nước thành viên của FTA đó).

RVC = (VOM/AV) x 100

(2.1)

+ Cách tính gián tiếp (chỉ tính hàm lượng giá trị các nguyên liệu “không

có xuất xứ” từ các nước thành viên của FTA đó).

RVC = {(AV-VNM)/AV }x 100

(2.2)

Trong đó: • RVC = Hàm lượng giá trị nội địa (tính theo %) • AV (adjusted value) = Trị giá hàng hóa (đã được điều chỉnh)

Giá hàng hóa được điều chỉnh để không tính chi phí vận chuyển quốc tế

và các lệ phí liên quan (chỉ tính giá FOB).

• VOM (value of originating materials) = Trị giá phần nguyên liệu “có

xuất xứ” sử dụng để sản xuất ra hàng hóa đó

• VNM (value of non-originating materials)= Trị giá phần nguyên liệu

“không có xuất xứ” sử dụng để sản xuất ra hàng hóa đó (VNM không bao

hàm giá trị nguyên liệu tự sản xuất)

Các tiêu chí trên đều có những ưu điểm và nhược điểm trong việc xác

định sự thay đổi cơ bản của hàng hóa làm cơ sở cho xác định xuất xứ của

hàng hóa. Thực tế không có tiêu chí đơn nhất nào mang tính chi phối áp dụng

cho tất cả các sản phẩm. Tuy nhiên, rõ ràng là việc áp dụng các tiêu chí xuất

xứ khác nhau sẽ cho các kết luận xác định xuất xứ khác nhau.

Ngoài những tiêu chí được sử dụng phổ biến trong các quy tắc xuất xứ

nói trên, một số FTA có quy định những phương pháp đơn lẻ khác trong quy

38

tắc xuất xứ riêng như: phương pháp “mức tối thiểu” (de minimis), phương

pháp “chi phí tịnh” (net cost), quy tắc cộng gộp, quy tắc vận chuyển trực tiếp,

quy định về bao bì và vật liệu đóng gói, quy định về về phụ kiện, phụ tùng và

dụng cụ, quy định về các yếu tố trung gian, v. v.

2.1.2.2. Chứng nhận xuất xứ hàng hoá.

Trong quan hệ thương mại giữa các quốc gia trên thế giới việc xác định

xuất xứ hàng hoá đóng một vai trò vô cùng quan trọng và thường gắn liền với

chế độ ưu đãi thuế quan của các quốc gia hoặc khối khu vực kinh tế. Để cho

phép hàng hoá nhập khẩu được áp dụng ưu đãi thuế quan thì một trong những

tài liệu xác định xuất xứ là chứng nhận xuất xứ (C/O).

Hội đồng châu Á Thái Bình Dương về thuận lợi hoá thương mại và kinh

doanh điện tử (Asia Pacific Council for Trade Facilitation and Electronic

Business (AFACT) định nghĩa về giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá như sau:

“ Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá là một trong những chứng từ được yêu

cầu bởi các ngân hàng hay các cơ quan có thẩm quyền trong quan hệ thương

mại giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu”.

Theo định nghĩa của Wikipedia: “Giấy chứng nhận xuất xứ (tiếng

Anh: Certificate of Origin, thường viết tắt là C/O) là một tài liệu sử dụng

trong thương mại quốc tế nhằm xác định quốc gia xuất xứ của hàng hóa.”1

Theo phòng Thương mại Quốc tế (ICC) thì chứng nhận xuất xứ (C/O) là

một chứng từ quan trọng trong thương mại quốc tế xác nhận rằng một hàng

hoá trong xuất khẩu được sản xuất hoàn toàn, khai thác và chế biến tại một

quốc gia nhất định.

Nhiều hiệp định quốc tế, nhiều văn bản pháp luật của các quốc gia đã

đưa ra khái niệm về C/O, nhưng hiện nay vẫn chưa thể đi đến một quy định

thống nhất về C/O. Điều này xuất phát từ thực tế là do C/O có nhiều mẫu 1 https://vi.wikipedia.org/wiki/Chứng_nhận_xuất_xứ

39

khác nhau, mỗi mẫu lại có một quy định riêng. Cơ quan cấp C/O cũng không

thống nhất trên thế giới. Do đó, tuỳ theo mỗi loại C/O hay tuỳ theo quy định

của từng quốc gia mà sẽ có khái niệm cụ thể khác nhau về C/O và để có một

khái niệm chung thống nhất về C/O là rất khó.

Tại Phụ lục K Công ước Kyoto sửa đổi năm 1999 chỉ ra: “Giấy chứng

nhận xuất xứ (C/O) có mẫu cố định, dùng để xác định hàng hoá, trên đó, cơ

quan có thẩm quyền phát hành giấy chứng nhận này sẽ chứng nhận nước xuất

xứ của hàng hoá. Giấy chứng nhận này có thể bao gồm cả chứng nhận khai

báo của nhà sản xuất, nhà chế tạo, nhà phân phối, nhà xuất khẩu hoặc tổ

chức có thẩm quyền”. 2

Theo đó, Công Ước cũng làm rõ các khái niệm có liên quan đó là:

"Khai báo xuất xứ được chứng nhận" là việc khai báo xuất xứ được

chứng nhận bởi cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền.

"Khai báo xuất xứ" là việc xác nhận xuất xứ của hàng hoá xuất khẩu,

thể hiện bởi nhà sản xuất, nhà chế tạo, nhà phân phối, nhà xuất khẩu hoặc tổ

chức có thẩm quyền trên các chứng từ như hoá đơn thương mại, hoặc các

chứng từ khác liên quan đến hàng hoá.

"Tài liệu xác định xuất xứ" là giấy chứng nhận xuất xứ, khai báo xuất

xứ có chứng nhận hoặc khai báo xuất xứ.

"Giấy chứng nhận theo tên gọi của vùng" là giấy chứng nhận được phát

hành phù hợp với các quy tắc của một cơ quan hoặc tổ chức có thẩm quyền,

chứng nhận hàng hoá được miêu tả có xuất xứ từ một vùng theo tên gọi cụ thể

nào đó (ví dụ: sâm panh, rượu Port, bơ Parmesan, . . .).

Từ đó cho thấy, chứng nhận xuất xứ hàng hoá rất đa dạng về hình thức

và các phương thức khác nhau theo quy định của các hệ thống pháp luật riêng

biệt của một quốc gia hay trong các hiệp định. Thực tế, trong một vài hiệp 2 Chương 3 Phụ lục K công ước Kyoto sửa đổi năm 1999

40

định, chỉ có cơ quan có thẩm quyền mới được phép phát hành và chứng nhận

xuất xứ theo một mẫu chung thống nhất.

Về cơ bản, trên thế giới hiện nay chứng nhận xuất xứ hàng hoá được xác

định dưới hai hình thức chủ yếu sau:

Hình thức thứ nhất, chứng nhận xuất xứ hàng hoá bởi bên thứ ba có

chức năng chứng nhận và không tham gia vào giao dịch thương mại liên quan

đến hàng hoá nhập khẩu hoặc xuất khẩu. Thường bên thứ ba là các cơ quan có

thẩm quyền của nước xuất khẩu cấp chứng nhận xuất xứ cho hàng hóa xuất

khẩu được sản xuất tại nước đó. Việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ bởi tổ

chức cấp được chỉ định trên cơ sở yêu cầu của doanh nghiệp xuất khẩu và

việc kiểm tra hàng hóa cũng như các tài liệu liên quan trước khi xuất khẩu.

Chứng từ xác nhận xuất xứ được phát hành dưới dạng mẫu giấy C/O phải

tuân thủ theo quy định của nước xuất khẩu và cả nước nhập khẩu theo quy

định của hiệp định thương mại đã ký kết. Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy

chứng nhận xuất xứ tuỳ theo chế độ chính trị pháp luật của các nước quy định

có thể khác nhau và có thể là cơ quan hải quan, bộ thương mại, bộ công

nghiệp, . v.v. .

Nội dung của C/O thường bao gồm: tên và địa chỉ của người bán, tên và

địa chỉ của người mua, tên hàng, số lượng, ký mã hiệu, tiêu chí xuất xứ, xác

nhận của tổ chức cấp C/O. Nội dung trên C/O phải phù hợp với quy định của

hợp đồng hay thư tín dụng (L/C) và các chứng từ khác như vận đơn, hoá đơn

thương mại, .v .v .Một bộ C/O thường bao gồm một bản gốc và các bản sao.

Bản gốc được phân loại theo mầu, theo mẫu, được đóng dấu hay in chữ

“Original”. Các bản sao cũng được phân loại theo cách tương tự, thường có

mầu trắng và được phân biệt với bản gốc bằng cách đóng dấu “copy”. Trong

một số trường hợp các bản sao được phân biệt bằng cách đóng dấu số thứ tự

như duplicate, triplicate .v. v . hoặc cũng có thể có mầu khác nhau đã quy

41

định từ trước.

Các tổ chức cấp có trách nhiệm: • Hướng dẫn cho người nộp đơn nếu có yêu cầu; • Cấp C/O khi hàng hóa đáp ứng quy tắc xuất xứ áp dụng; • Tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại liên quan đến việc cấp C/O; • Xác định xuất xứ của hàng hóa xuất khẩu theo yêu cầu của cơ quan

có thẩm quyền của nước nhập khẩu;

• Trao đổi các thông tin liên quan đến việc cấp C/O với các tổ chức cấp khác.

Chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba cũng có các ưu điểm và nhược điểm riêng.

Ưu điểm chính là chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba đòi hỏi việc xem

xét các tài liệu hỗ trợ cho tờ khai xuất xứ của nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu

(có khả năng tiếp cận thông tin và tài liệu của việc sản xuất hàng hóa). Do đó,

thông tin xuất xứ sẽ được kiểm tra một cách nghiêm túc trước khi xuất khẩu

bởi một bên không thiên vị và không vụ lợi. Ngoài ra, chứng nhận xuất xứ bởi

bên thứ ba thường được thực hiện trước khi hàng hoá được xuất khẩu nên bên

thứ ba có thể tư vấn cho các nhà sản xuất và xuất khẩu và giúp họ tránh được

những vướng mắc về xuất xứ với các cơ quan chức năng hoặc khách hàng của

họ tại nước nhập khẩu. Việc xác minh chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba

cũng thường được thực hiện ở nước xuất khẩu và thường do chính bên thứ ba

này thực hiện theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu.

Ngược lại, cơ chế này có các nhược điểm sau: • Trong một số trường hợp, chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba thiếu sự

giám sát hiệu quả, cộng thêm với việc thiếu hình thức trừng phạt đối với các

lỗi liên quan.

• Sự thiếu trách nhiệm có thể dẫn đến tình huống chứng nhận trở thành

máy móc hoặc quan liêu. Trong trường hợp đó, ưu điểm chính của chứng

nhận xuất xứ bởi bên thứ ba là việc kiểm tra bởi một bên không thiên vị và

42

không vụ lợi sẽ không còn nữa. Chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba trở thành

một bước thừa và không có giá trị gia tăng. Trong nhiều trường hợp, chứng

nhận xuất xứ bởi bên thứ ba yêu cầu một khoản lệ phí danh nghĩa mà nhà sản

xuất hoặc nhà xuất khẩu phải trả. Quan trọng hơn, các quy định về chứng

nhận xuất xứ bởi bên thứ ba nếu quá phức tạp và mâu thuẫn có thể gây ra sự

chậm trễ đối với việc gửi hàng. Kém hiệu quả về mặt chi phí đối với cả tổ

chức cấp giấy chứng nhận và các nhà xuất khẩu, ảnh hưởng đến khả năng vận

dụng ưu đãi của các FTA. Điều này không thể chấp nhận được trong bối cảnh

chuỗi cung ứng toàn cầu đòi hỏi sự đáp ứng nhanh chóng.

Do các nhược điểm của hình thức chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba như

vậy nên xu hướng ngày nay, các thương nhân và các nhà đàm phán thương mại

ngày càng ưa chuộng hình thức chứng nhận xuất xứ thứ hai nhiều hơn.

Hình thức thứ hai, chứng nhận bởi các bên tham gia giao dịch thương mại

và được gọi là tự chứng nhận xuất xứ. Khi đó nhà sản xuất, nhà xuất khẩu hoặc

nhà nhập khẩu hàng hóa tự phát hành bằng chứng xuất xứ hàng hoá thông qua

việc tự khai báo xuất xứ của hàng hóa xuất khẩu hoặc nhập khẩu trên hóa đơn

thương mại hoặc bất kỳ chứng từ nào khác thay cho giấy chứng nhận xuất xứ

hàng hóa do tổ chức được chính phủ của nước xuất khẩu ủy quyền cấp. Trên thế

giới hiện nay tồn tại các hệ thống tự chứng nhận xuất xứ là:

(cid:3) Nhà sản xuất được tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa; (cid:3) Nhà xuất khẩu bất kỳ được tự chứng nhận xuất xứ của hàng hóa; (cid:3) Nhà xuất khẩu đủ điều kiện (certified/approved exporter) được tự

chứng nhận xuất xứ hàng hóa;

(cid:3) Nhà nhập khẩu tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa.

Hình thức tự chứng nhận xuất xứ có những ưu điểm cơ bản là với việc

nhà nhập khẩu được tự chứng nhận thì bên chứng nhận và bên hưởng lợi là

một. Các bên tham gia giao dịch thương mại chủ động hơn trong việc chứng

43

minh xuất xứ hàng hoá mà không phải lệ thuộc vào bên thứ ba. Hơn nữa, các

bên tham gia giao dịch thương mại chính là những người hiểu rõ nhất về hàng

hoá được làm từ cái gì? Sản xuất thế nào? Do đó, hình thức này sẽ gắn liền

trách nhiệm đảm bảo cung cấp thông tin bằng chứng chứng minh xuất xứ và

giải trình của họ. Giảm thiểu được các chi phí về xác minh, chứng minh xuất

xứ của các bên tham gia giao dịch cũng như các cơ quan quản lý nhà nước.

Bên cạnh đó, hình thức này cũng có những nhược điểm cơ bản. Một

trong số đó là sự chênh lệch về quy mô và sức mạnh thị trường: một nhà nhập

khẩu lớn của Hoa Kỳ có thể có lợi thế trong việc đòi hỏi thông tin xuất xứ từ

một nhà cung cấp nhỏ của nước xuất khẩu nhưng các nhà nhập khẩu nhỏ ở

một nước có thể gặp khó khăn trong việc có được thông tin nhạy cảm từ một

nhà xuất khẩu lớn của Hoa Kỳ. Việc xác minh tự chứng nhận xuất xứ thường

được thực hiện bởi cơ quan hải quan nước nhập khẩu tại cơ sở của nhà sản

xuất hoặc xuất khẩu ở nước xuất khẩu (với sự cho phép của các cơ quan chức

năng và các nhà sản xuất hoặc nhà xuất khẩu ở nước xuất khẩu).

Nói chung, cả hai hình thức chứng nhận xuất xứ cơ bản cùng song song

tồn tại với các đặc điểm khác nhau, không có hình thức chứng nhận xuất xứ

nào hoàn hảo mà mỗi hình thức đều có ưu điểm và nhược điểm riêng. Môi

trường thương mại quốc tế ngày nay liên tục có các cuộc đàm phán thỏa thuận

thương mại ưu đãi. Do đó, các hình thức chứng nhận xuất xứ bởi bên thứ ba và

tự chứng nhận xuất xứ đang bắt đầu ảnh hưởng lẫn nhau.Ví dụ, trong chế độ tự

chứng nhận xuất xứ, cơ quan hải quan nước nhập khẩu bắt đầu phối hợp chặt

chẽ với các cơ quan chức năng của nước xuất khẩu để kiểm tra tính xác thực

của các khai báo xuất xứ của các nhà sản xuất hoặc xuất khẩu của nước xuất

khẩu. Tương tự, “các nhà xuất khẩu được phê duyệt” trong cơ chế chứng nhận

xuất xứ bởi bên thứ ba cũng dần trở nên giống với tự chứng nhận xuất xứ.

44

Hình 2.2.Tỷ lệ chứng nhận xuất xứ

Theo nghiên cứu đánh giá của Tổ chức Hải quan thế giới được tổng hợp

tại hình 2.2 thì có 100 trong 149 FTA nghiên cứu năm 2014 (chiếm tỷ lệ

67,1%) đề cập đến nội dung tự chứng nhận xuất xứ, cho phép nhà xuất khẩu

tự chứng nhận xuất xứ, 55 FTA nghiên cứu (chiếm tỷ lệ 36,9%) nhà xuất

khẩu được phê duyệt từ cơ quan có thẩm quyền quyền chứng nhận xuất xứ

trên các chứng từ thương mại. Trong hầu hết các FTA, cơ quan hải quan được

thẩm quyền phát hành chứng nhận xuất xứ hoặc có trách nhiệm xác nhận xuất

xứ của nhà XK. 33 FTA (chiếm tỷ lệ 22.1%) nhà XK có đầy đủ quyền ký và

phát hành chứng nhận xuất xứ, trong khi 12 FTA (chiếm tỷ lệ 8.1%) nhà NK

có quyền chứng nhận. Trong 45 FTA nghiên cứu (chiếm tỷ lệ 30.2%), nhà

thẩm quyền chưa bao gồm phát hành chứng nhận xuất xứ. Trong 49 FTA

nghiên cứu (chiếm tỷ lệ 32.9%), chỉ có cơ quan có thẩm quyền mới được

phép phát hành chứng nhận xuất xứ. Việc phát hành có thể do cơ quan hải

quan, bộ thương mại hoặc cơ quan chính phủ được uỷ quyền [103].

Ngoài hai hình thức chứng nhận xuất xứ chủ yếu trên thì trong hoạt động

thương mại quốc tế còn có hình thức chứng nhận xuất xứ do nước lai xứ cấp.

Thực chất đây là hình thức xác nhận xuất xứ của nước khác trong trường hợp

45

hàng hoá có đi qua nước thứ ba (nước lai xứ) để tập kết chuyển tải, chuyển

khẩu nhưng không làm thay đổi xuất xứ hàng hoá, vẫn đảm bảo tính nguyên

trạng hoặc chỉ thực hiện một số hoạt động đơn giản để bảo quản hay đóng gói

lại hàng hoá nhằm đảm bảo chất lượng hàng hoá, không làm thay đổi giá trị

thương mại của hàng hoá. C/O do nước lai xứ cấp thường được nộp cho hải

quan nước nhập khẩu kèm theo bản sao C/O của nước xuất xứ để được hưởng

chế độ ưu đãi theo quy định.

Ở Việt Nam, khái niệm về chứng nhận xuất xứ được đưa ra tuỳ vào từng

loại cụ thể. Theo điểm 2, mục I, phần những quy định chung của Thông tư

liên tịch của Bộ Thương Mại và Tổng cục Hải Quan số 09/2000/TTLT - BTM

- TCHQ ngày 17/04/2000: “Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu,

nhập khẩu (Certificate of origin, dưới đây gọi tắt là C/O) quy định tại Thông

tư liên tịch này là chứng từ do cơ quan hay tổ chức có thẩm quyền cấp xác

nhận xuất xứ của một lô hàng xuất khẩu hay nhập khẩu”.

Còn tại điều 3 nghị định 19/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật thương

mại về xuất xứ hàng hóa chỉ ra: “Giấy chứng nhận xuất xứ là văn bản do tổ

chức thuộc quốc gia hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng hoá cấp dựa trên

những quy định và yêu cầu liên quan về xuất xứ, chỉ rõ nguồn gốc xuất xứ của

hàng hoá đó.” [19]

Từ đó cho thấy, nếu so sánh với khái niệm về chứng nhận xuất xứ trong

công ước Kyoto sửa đổi 1999 thì khái niệm này của Việt Nam hẹp hơn. Sự

khác biệt này xuất phát từ thực tế là trong các quy định của hệ thống pháp luật

Việt Nam và trong các hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia trước đây

đều chỉ áp dụng mô hình chứng nhận xuất xứ được chứng nhận bởi các cơ

quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, hiện nay với xu hướng phát triển mạnh mẽ

của các hiệp định thương mại thế hệ mới mà Việt Nam tham gia thì các mô

hình chứng nhận xuất xứ khác cũng đang được dần dần đưa vào quy định

46

trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Đó là bên cạnh mô hình chứng nhận

xuất xứ bởi các cơ quan có thẩm quyền Việt Nam cũng đã triển khai áp dụng

mô hình tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá từ cuối năm 2015.

Tại điều 3 thông tư 28/2015/TT-BCT của Bộ Công thương Quy

định việc thực hiện thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định

thương mại hàng hóa ASEAN có đưa ra định nghĩa: “Tự chứng nhận xuất xứ

hàng hóa là việc thương nhân tự khai báo xuất xứ của hàng hóa xuất khẩu

trên hóa đơn thương mại thay cho C/O mẫu D”[7].

Như vậy, tuỳ vào từng quốc gia, khối kinh tế khu vực hoặc chính sách

thương mại cụ thể của từng quốc gia mà có các cách thức quy định chứng

nhận xuất xứ hàng hoá khác nhau.

2.1.3. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá.

2.1.3.1. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi.

Trong chính sách thuế quan của các quốc gia trên thế giới hiện nay luôn

áp dụng thuế quan ưu đãi hay ưu đãi đặc biệt đối với những hàng hoá nhập

khẩu từ các quốc gia có những thoả thuận trong quan hệ thương mại như là

các FTA. Khi đó, mỗi FTA sẽ có một quy tắc xuất xứ được sử dụng để xác

định quốc tịch của một hàng hoá, một sản phẩm. Điều kiện quan trọng để

được hưởng mức thuế quan ưu đãi là hàng hóa của doanh nghiệp xuất khẩu

phải đáp ứng quy tắc xuất xứ, có giấy chứng nhận nguồn gốc xuất xứ hàng

hóa (C/O) ứng với từng hiệp định FTA và là căn cứ pháp lý để Hải quan nước

nhập khẩu xác định hàng hóa đủ điều kiện được hưởng thuế quan ưu đãi. Do

đó, hai sản phẩm nhập khẩu mặc dù có chất lượng và giá bán xuất khẩu như

nhau, nhưng giữa sản phẩm đáp ứng được và sản phẩm không đáp ứng được

tiêu chí xuất xứ nêu trong quy tắc xuất xứ của FTA sẽ có sự chênh lệch về

thuế suất. Vì thuế suất ưu đãi đặc biệt thấp hơn thuế suất ưu đãi tối huệ quốc

nên giá bán trên thị trường nước nhập khẩu của hàng hóa đáp ứng được tiêu

47

chí xuất xứ của FTA sẽ thấp hơn hàng hóa không đáp ứng được tiêu chí xuất

xứ, nếu các yếu tố khác không đổi. Mức giá chênh lệch tạo ra lợi thế cạnh

tranh cho hàng hóa có xuất xứ từ các nước thành viên FTA so với hàng hóa có

xuất xứ ngoài FTA. Xác định chính xác xuất xứ nhằm đảm bảo sự thực hiện

các điều khoản của thoả thuận thương mại một cách thuận lợi và công bằng

với việc hưởng thuế suất ưu đãi của nước nhập đối với hàng hoá của nước XK

tại thị trường nước NK. Xuất xứ hàng hoá thường được sử dụng kết hợp với

mã số thuế để xác định mức thuế suất. Mỗi quốc gia đều có hệ thống thuế NK

và XK theo các danh mục biểu thuế khác nhau. Biểu thuế có các mức thuế

suất khác nhau đối với từng hàng hoá hoặc nhóm mặt hàng dựa trên mã số của

danh mục phân loại hàng hoá XNK. Chính vì vậy, cùng với mã số thuế phân

loại mặt hàng nhập khẩu, xuất xứ hàng hóa là cơ sở quan trọng để xác định

mức thuế áp dụng đối với mặt hàng đó, là căn cứ để quyết định liệu hàng hóa

đó có được áp dụng mức thuế quan ưu đãi hay không. Do vậy, các doanh

nghiệp khi tham gia vào hoạt động xuất khẩu ra thị trường nước ngoài cần

xem xét liệu mặt hàng doanh nghiệp xuất khẩu có nằm trong danh sách hưởng

thuế ưu đãi hay không và cần tìm mọi cách để thỏa mãn quy tắc xuất xứ mà

nước nhập khẩu đặt ra.

2.1.3.2. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong việc kiểm soát hoạt

động thương mại và bảo hộ.

Việc xác định xuất xứ hàng hoá theo các quy tắc xuất xứ hàng hoá có

vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách thương mại của một nước

hay một khối nước dành cho một nước hay khối nước cụ thể nào đó. Chính

sách thương mại của quốc gia và các thoả thuận thương mại khu vực đôi khi

có sự phân biệt đối tượng áp dụng. Thông qua việc xác định chính xác xuất

xứ hàng hoá cho phép các quốc gia áp dụng các chế độ ưu đãi đối với những

hàng hoá nhập khẩu được hưởng theo chế độ ưu đãi đã được thoả thuận trong

48

các khu vực thương mại hoặc để áp dụng các biện pháp bảo vệ như đánh thuế

chống bán phá giá, thuế đối kháng, hạn ngạch, hạn ngạch thuế quan hoặc thực

thi các chính sách “mua sắm của chính phủ”. Mặt khác, thông qua hoạt động

cấp giấy chứng nhận xuất xứ, kiểm tra hải quan, các cơ quan quản lý của

nước nhập khẩu có thể kiểm soát được hoạt động xuất khẩu sang thị trường

các nước, đặc biệt là sang thị trường các nước có hạn ngạch nhập khẩu để

đảm bảo thực hiện đúng hạn ngạch như cam kết, thỏa thuận giữa các nước.

Vai trò bảo hộ của quy tắc xuất xứ giữa các nước trong và ngoài FTA

được thể hiện thông qua việc cùng loại hàng hoá nhập khẩu nhưng các nước

thành viên FTA dành cho nhau sự ưu đãi cao hơn các nước ngoài FTA. Điều

này còn phản ánh rất rõ nét khi xét tới việc có sự tham gia của nhiều quốc gia

vào việc sản xuất hàng hóa. Giả sử có bốn nước A, B, C, D; trong đó B là

nước sản xuất với nguyên vật liệu nhập khẩu từ C và D sau đó xuất khẩu

thành phẩm sang nước A. Nếu ba nước A, B, C ký kết một hiệp định thương

mại với quy tắc xuất xứ giả định rằng: hàng hóa xuất khẩu từ một nước thành

viên hiệp định tới một nước thành viên khác phải có hàm lượng giá trị khu

vực tối thiểu 40% mới đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan. Đây là con số

khá lớn, vì thế trong nhiều trường hợp nếu như không áp dụng quy tắc cộng

gộp xuất xứ sẽ rất khó thực hiện. Điều này thúc đẩy B nhập khẩu nguyên liệu

từ C (do A, B, C cùng thuộc một FTA nên nguyên liệu nhập khẩu từ C đưa

vào B sản xuất sẽ được cộng gộp xuất xứ theo quy định của đa số các quy tắc

xuất xứ hiện nay) và hạn chế nhập khẩu từ D. Rõ ràng, FTA này không điều

chỉnh việc B nhập khẩu nguyên liệu từ D nhưng quy tắc xuất xứ của nó đã

gián tiếp khiến B chuyển hướng nhập khẩu nguyên vật liệu từ D sang C. Vì

thế, trong trường hợp này, quy tắc xuất xứ đã tạo ra rào cản với D và bảo hộ

sản xuất ở các nước thành viên FTA (A, B và C). Nói cách khác, quy tắc xuất

xứ đã tạo ra sự phân biệt giữa hàng hóa có xuất xứ trong và ngoài FTA, tạo ra

49

một rào cản đối với hàng hóa có xuất xứ ngoài FTA.

Đối với quan hệ thương mại giữa các nước thành viên FTA, quy tắc

xuất xứ hàng hoá cũng tạo ra sự bảo hộ đối với hàng hoá nội địa. Bởi các quy

tắc xuất xứ phức tạp làm cho việc đáp ứng yêu cầu xuất xứ để được hưởng ưu

đãi theo FTA trở nên khó khăn hơn. Sự phức tạp này thể hiện ở chỗ có những

tiêu chí xuất xứ hết sức khắt khe. Chẳng hạn, quy tắc xuất xứ của Hiệp định

thương mại song phương giữa Hoa Kỳ và Chi-lê áp dụng tiêu chí chuyển đổi

nhóm (CTH) với mặt hàng nước cam ép (thuộc nhóm 20.09), kèm theo yêu

cầu nguyên liệu nhập khẩu không được phép thuộc nhóm 08.05 (đây là nhóm

chứa mặt hàng trái cam). Nghĩa là, nếu Chi-lê sản xuất nước cam ép từ cam

nhập khẩu thì sản phẩm này không thể có xuất xứ Chi-lê. Các quy định theo

dạng này gần như buộc hàng hóa phải đạt xuất xứ thuần túy hoặc phải có hàm

lượng giá trị gia tăng rất cao. Bên cạnh đó, các nước thành viên FTA có xu

hướng đặt ra các tiêu chí xuất xứ khắt khe hơn với các mặt hàng phải cạnh

tranh với hàng nhập khẩu để bảo hộ sản xuất trong nước. Hơn nữa, trong các

quy tắc xuất xứ, các yêu cầu hồ sơ, chứng từ để cấp và kiểm tra giấy chứng

nhận xuất xứ (C/O) là một nội dung hết sức quan trọng. Điều này đòi hỏi, các

thương nhân phải mất nhiều thời gian và chi phí để đáp ứng được các yêu cầu

về xuất xứ. Thêm vào đó, trong nhiều trường hợp để được hưởng ưu đãi,

thương nhân còn phải xuất trình được C/O phù hợp với chứng từ vận tải, hóa

đơn thương mại và tuân thủ các quy định khác của cơ quan cấp và kiểm tra...

Chẳng hạn, trước năm 2011 quy tắc xuất xứ của Hiệp định về khu vực thương

mại tự do ASEAN - Trung Quốc không chấp nhận hóa đơn thương mại do

một bên thứ ba cấp cho dù hàng hóa đáp ứng tiêu chí xuất xứ. Cho tới nay,

yêu cầu vận đơn phải được cấp ở nước xuất khẩu theo quy định của hiệp định

ATIGA vẫn khiến nhiều thương nhân gặp khó khăn. Vì thế, trong nhiều

trường hợp các thương nhân sẵn sàng từ bỏ ưu đãi về thuế quan, lựa chọn

50

mức thuế MFN để tiết kiệm thời gian và chi phí liên quan tới xuất xứ hàng

hóa. Có thể nói, sự phức tạp của quy định liên quan tới xuất xứ làm giảm độ

hấp dẫn của các ưu đãi trong FTA. Đây chính là một chiếc khóa an toàn để

góp phần bảo hộ thương mại ở một mức độ nhất định dù các bên tự nguyện

tham gia ký kết các hiệp định song phương và đa phương.

Không giống như quy tắc xuất xứ trong các FTA được xây dựng dựa trên

thỏa thuận của các nước thành viên, quy tắc xuất xứ trong các chương trình

GSP có tính áp đặt một chiều của bên cho hưởng đối với bên được hưởng, vì

thế tính chất rào cản bảo hộ của nó còn rõ rệt hơn. Chẳng hạn, quy tắc xuất xứ

GSP của EU tính hàm lượng nội địa của hàng hóa theo giá EXW thay vì giá

FOB, và với nhiều hàng hóa hàm lượng nội địa được yêu cầu lên tới 50%.

Đây là tiêu chí xuất xứ rất khắt khe do hàm lượng giá trị gia tăng phải bằng

một nửa giá xuất xưởng. Thêm vào đó, tương tự trong các FTA, quy tắc xuất

xứ trong các hệ thống GSP cũng yêu cầu rất phức tạp về vận chuyển thẳng

cũng như hồ sơ chứng từ, gây khó khăn cho các doanh nghiệp khi tiến hành

các thủ tục xin hưởng ưu đãi. Quy tắc xuất xứ theo chiều hướng cản trở như

vậy sẽ hạn chế đáng kể số hàng hóa đáp ứng tiêu chí xuất xứ và làm giảm nhu

cầu chứng minh xuất xứ để hưởng ưu đãi của các doanh nghiệp. Mặc dù, quy

tắc xuất xứ của các hệ thống GSP đều đề cập tới việc cộng gộp xuất xứ giữa

nước cấp và nước được hưởng (cộng gộp song phương). Tuy nhiên, với

những yêu cầu cao về quy tắc xuất xứ khiến cho việc được hưởng ưu đãi trở

nên hết sức khó khăn nếu nước được hưởng ưu đãi không sử dụng nguyên vật

liệu, bán thành phẩm của nước cho hưởng. Từ đó, có thể thấy quy tắc xuất xứ

đóng vai trò như một van an toàn để điều chỉnh ảnh hưởng của cam kết ưu đãi

trong các hệ thống GSP và góp phần bảo hộ sản xuất trong nước tại các nước

cho hưởng.

51

2.1.3.3. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong xúc tiến thương mại.

Xuất xứ hàng hoá là một trong những nhân tố quan trọng tạo nên

thương hiệu của hàng hoá, nhất là đối với những sản phẩm nông sản hay

những sản phẩm chế biến từ nguồn gốc tự nhiên gắn liền với vùng đất nơi tạo

ra sản phẩm. Bởi chỉ có riêng nơi đó với những điều kiện về tự nhiên thuận

lợi, nghệ thuật chế biến độc đáo, lâu đời hay trình độ công nghệ cao mới tạo

ra những sản phẩm nổi tiếng như vậy. Khi nói đến những sản phẩm này thì

người tiêu dùng liên tưởng ngay đến những quốc gia đó và ngược lại khi đề

cập đến quốc gia này thì người ta cũng ngay lập tức nghĩ đến những sản phẩm

đó. Trong trường hợp này, sản phẩm và xuất xứ gắn liền với nhau, mang một

giá trị thương hiệu truyền thống lâu bền. Trên thế giới, nhiều hàng hoá với tên

gọi gắn với nguồn gốc xuất xứ hàng hoá đã trở thành những thương hiệu hàng

hoá nổi tiếng như rượu vang Bordeaux, vang Chi lê, thịt bò Kobe, cà phê

Jamaica, .v.v. Những sản phẩm hàng hoá với xuất xứ như vậy luôn giành

được sự tin tưởng của người tiêu dùng và là một lợi thế cạnh tranh rất lớn mà

quốc gia xuất xứ của những sản phẩm này có được, giúp quốc gia đó dễ dàng

trong việc thâm nhập, chiếm lĩnh và duy trì thị phần xuất khẩu hàng hoá ở

nước ngoài. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới luôn tích cực bảo vệ những

thương hiệu sản phẩm hàng hoá gắn liền với xuất xứ của quốc gia mình.

Thông qua việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá là một công cụ luật pháp

quan trọng để các quốc gia xác nhận và cấp chứng nhận nguồn gốc xuất xứ

hàng hoá. Từ đó, có thể giúp người tiêu dùng nhận biết và phân biệt với

những hàng hoá thật với những hàng hoá bị làm giả, việc sử dụng sai hoặc lợi

dụng xuất xứ gắn lên những sản phẩm có chất lượng kém làm ảnh hưởng đến

hình ảnh thương hiệu xuất xứ của quốc gia mình. Xuất xứ hàng hoá không chỉ

đóng vai trò quan trọng xúc tiến thương mại đối với những sản phẩm, hàng

hoá đã có danh tiếng mà còn cả đối với những sản phẩm hàng hoá mới, cần

52

phải tạo dựng hình ảnh trên thị trường xuất khẩu. Bởi khi một sản phẩm, hàng

hoá được gắn thương hiệu nguồn gốc xuất xứ thì nó sẽ mang tính chất lâu dài.

Mặc dù lúc đầu, có thể chưa có được danh tiếng nhưng về lâu dài khi được

duy trì về chất lượng, sự độc đáo thì sẽ giành được sự tin cậy của người tiêu

dùng và từ đó thuận lợi hơn trong việc xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường.

2.1.3.4. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong thống kê thương mại.

Hội nhập kinh tế đã tạo cơ hội cho các nước phát triển kinh tế, mở rộng

hoạt động thương mại trong nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh những

tác dụng tích cực, quá trình hội nhập cũng tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực

đối với sự phát triển nền kinh tế nói chung và hoạt động xuất nhập khẩu nói

riêng. Để có thể dự báo, xây dựng chiến lược và hoạch định chính sách phát

triển thương mại phù hợp với điều kiện thực tế của quốc gia hoặc quốc tế, đòi

hỏi các cơ quan quản lý của các chính phủ phải nắm bắt được thông tin số liệu

về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá được thu thập thông qua hoạt động

thống kê. Có thể nói, xuất xứ hàng hóa có vai trò quan trọng và cần thiết để

thực hiện thống kê ngoại thương thông qua hoạt động hải quan, giúp cho việc

xác định các xu hướng thương mại đối với một nước hoặc đối với một khu

vực trở nên dễ dàng hơn. Trên cơ sở các số liệu thống kê thương mại đáng tin

cậy thu thập được, các cơ quan quản lý nhà nước có thể xác định được lượng

hàng hóa đã được nhập khẩu từ từng nước, từng khu vực trong từng thời

điểm, thời kỳ khác nhau. Từ đó, đưa ra các chính sách, biện pháp nhằm cân

bằng cán cân thương mại đối với từng nước, từng khu vực trên thế giới, điều

hành cơ chế xuất nhập khẩu một cách kịp thời, chính xác. Thêm vào đó, dữ

liệu thống kê thương mại về xuất xứ hàng hoá còn có vai trò rất quan trọng

trong việc tiến hành các cuộc đàm phán thương mại giữa các quốc gia. Trên

cơ sở phân tích số liệu thống kê thương mại, các quốc gia có thể đánh giá

53

được những tác động thương mại đối với từng ngành hàng hoá khác nhau và

từ đó đưa ra các thoả thuận thương mại có lợi nhất cho quốc gia mình.

2.1.3.5. Vai trò của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong bảo vệ môi trường, sức

khoẻ cộng đồng và lợi ích người tiêu dùng.

Trong những trường hợp cần thiết, việc kiểm tra xác định xuất xứ hàng

hoá theo quy tắc xuất xứ hàng hoá còn nhằm xác định hàng hoá có xuất phát

từ vùng có nguy cơ mất vệ sinh an toàn thực phẩm hoặc bệnh dịch hoặc đang

gặp vấn đề về môi trường nguy hại hay không. Trong những trường hợp đó,

cơ quan hải quan nước nhập khẩu sẽ căn cứ vào xuất xứ hàng hoá để tiến

hành kiểm tra về mặt dịch tễ, kiểm tra các yếu tố gây nguy hại hoặc không

cho những hàng hoá có xuất xứ từ những vùng cảnh báo được nhập khẩu để

ngăn chặn việc lây lan của dịch bệnh, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng và

bảo vệ môi trường. Ví dụ: khi dịch bệnh bò điên ở Anh xảy ra thì nhiều quốc

gia đã áp đặt lệnh cấm nhập khẩu thịt bò có nguồn gốc xuất xứ từ Anh, lệnh

cấm nhập khẩu gia cầm từ Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á khi có

dịch bệnh cúm H5N1, v.v.

Bên cạnh đó, thông qua xác định xuất xứ hàng hoá các quốc gia có thể

kiểm soát hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu các sản phẩm hàng hoá gây

phương hại đến lợi ích cộng đồng, an ninh chính trị và bảo vệ môi trường. Thí

dụ như: các quốc gia có thể không cho nhập khẩu các sản phẩm có xuất xứ từ

các nước có sử dụng lao động khổ sai là trẻ em hoặc các sản phẩm từ các

quốc gia được buôn bán nhằm tài trợ cho khủng bố, bạo lực như là dầu mỏ từ

nhà nước hồi giáo IS. Chính phủ các quốc gia cũng có thể ra lệnh cấm xuất

nhập khẩu các sản phẩm hàng hoá được sản xuất tại một nước không tuân thủ

các tiêu chuẩn về môi trường hoặc bản thân các sản phẩm được sản xuất có

tác hại cho môi trường chung như chất phá huỷ tầng Ô zôn (chất CFC), v.v.

Không chỉ bảo vệ môi trường, xuất xứ hàng hóa còn giữ vai trò bảo vệ

54

lợi ích người tiêu dùng. Xuất xứ hàng hóa là một trong những thông tin quan

trọng có khả năng phản ánh chất lượng của sản phẩm. Vì vậy, xuất xứ hàng

hóa là một trong những chỉ dẫn giúp người tiêu dùng đưa ra quyết định đúng

khi đi mua hàng.

2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THUẾ QUAN VÀ THUẾ QUAN ƯU ĐÃI.

2.2.1. Khái niệm thuế quan.

Lịch sử của thuế quan ra đời luôn gắn liền với sự phát triển của quan hệ

trao đổi mua bán hàng hoá mang tính quốc tế và sự ra đời, tồn tại, phát triển

của nhà nước. Khi đó, để điều tiết hoạt động trao đổi hàng hoá mang tính

quốc tế và có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, nhà nước đã đặt ra

loại thuế đánh vào hàng hoá được chuyên chở qua biên giới hoặc lãnh thổ hải

quan và thường có tên gọi chung là thuế quan (Customs duty). Hiện nay, có

rất nhiều khái niệm khác nhau về thuế quan như:

Theo từ điển Cambridge Business English Dictionary: “Thuế quan

(customs duty) là khoản thuế phải trả đối với hàng hoá nhập khẩu”3.

Theo tổ chức Hải quan thế giới thì : “Thuế quan là thuế quy định trong

Biểu thuế hải quan mà hàng hoá phải chịu khi nhập vào hay xuất ra khỏi lãnh thổ hải quan””[104, tr 9] [102].

Theo từ điển thuật ngữ thuế quốc tế thì: “Thuế hải quan là thuế đánh vào

hàng hoá nhập khẩu vào một quốc gia” [2, tr 125].

Ở Việt Nam, khái niệm về thuế quan thường gắn liền với khái niệm về

thuế xuất khẩu thuế nhập khẩu. Theo từ điển Luật học: “Thuế xuất khẩu, thuế

nhập khẩu là một loại thuế gián thu đánh vào các loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới.” [49, tr.482].

Theo từ điển bách khoa Việt Nam tập 4: “Thuế quan là nghĩa vụ nộp hoặc

3 http://dictionary.cambridge.org/dictionary/english/customs-duty

55

thuế đánh vào hàng hoá tại biên giới khi hàng hoá đi từ một lãnh thổ hải quan

này (thông thường là một nước) sang lãnh thổ hải quan khác” [48, tr.284].

Với những cách hiểu như trên, có thể thấy rằng thuế quan hàm chứa

những nội dung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, thuế quan là một loại thuế gián thu, một yếu tố cấu thành trong

giá cả hàng hoá. Do đó, thuế quan cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp đến giá

bán của hàng hoá nhập khẩu hay xuất khẩu.

Thứ hai, phạm vi áp dụng của thuế quan là với hàng hoá được phép

xuất nhập khẩu, bao gồm cả hàng hoá xuất khẩu từ thị trường trong nước vào

khu chế xuất và xuất khẩu ra nước ngoài hoặc nhập khẩu từ khu chế xuất và

từ nước ngoài vào thị trường trong nước.

Thứ ba, những điểm khác biệt của thuế quan với các loại thuế khác là

thuế quan không áp dụng đối với hàng hoá sản xuất và được tiêu thụ ở thị

trường trong nước mà chỉ đánh vào hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu và luôn

luôn gắn với hoạt động xuất nhập khẩu để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu

và do vậy thuế quan là một trong những công cụ thuộc chính sách kinh tế

thương mại quốc tế của một quốc gia.

Như vậy, có thể thấy rằng khái niệm về thuế quan có một số quan điểm

đồng nhất với thuế nhập khẩu, nhưng một số khác lại cho rằng thuế quan bao

gồm cả thuế nhập khẩu và thuế xuất khẩu. Tuy nhiên, khi xem xét đặt trong

mối quan hệ với xuất xứ hàng hoá thuộc phạm vi đề tài nghiên cứu, thuế quan

được hiểu là thuế xuất khẩu, nhập khẩu, là sắc thuế đánh vào hàng hóa xuất

khẩu hoặc nhập khẩu trong quan hệ thương mại quốc tế [33, 111].

Thuế quan là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế

tài chính, thương mại vĩ mô tổng hợp, gắn liền với cơ chế quản lý xuất nhập

khẩu và chính sách đối ngoại của một quốc gia. Thuế xuất khẩu thường được

các nước đang phát triển áp dụng đối với một số mặt hàng (chủ yếu đánh vào

56

các mặt hàng mà Nhà nước không khuyến khích xuất khẩu như các mặt hàng

sử dụng các nguồn tài nguyên khan hiếm đang bị cạn kiệt hay các mặt hàng

mà tính chất quan trọng của nó đối với sự an ninh lương thực hay an ninh

quốc gia được đặt lên trên hết) nhằm tăng lợi ích quốc gia. Thuế nhập khẩu là

công cụ để bảo hộ sản xuất nội địa. Nó có tác dụng bảo hộ cho các lĩnh vực

sản xuất then chốt, bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng

đủ vững mạnh để có thể cạnh tranh với hàng hóa nước ngoài. Đồng thời, thuế

nhập khẩu có thể được áp dụng để trả đũa các biện pháp hạn chế thương mại

do các quốc gia khác tiến hành.

Thuế quan có thể được chia làm nhiều loại phụ thuộc vào các tiêu chí

phân loại khác nhau.

- Nếu dựa trên đối tượng chịu thuế, thuế quan gồm hai loại: thuế nhập

khẩu và thuế xuất khẩu.

- Nếu căn cứ vào phương thức tính thuế, thuế quan được chia thành ba

loại: thuế theo số lượng, thuế theo giá trị và thuế hỗn hợp. Thuế quan theo số

lượng là loại thuế được tính theo giá trị cố định bằng tiền trên một đơn vị

hàng hóa4. Thuế quan tính theo giá trị hàng hóa được đánh theo một tỷ lệ

phần trăm cố định trên giá trị của một đơn vị hàng hóa. Thuế quan hỗn hợp

kết hợp hai cách tính thuế nói trên. Trong các loại này, thuế quan tính theo giá

trị hàng hoá, thường gắn liền với biểu thuế quan, được sử dụng phổ biến và

đóng vai trò chính trong chính sách thuế quan của các quốc gia trên thế giới.

Biểu thuế quan là hình thức thể hiện chính sách thuế quan và công cụ

của chính sách thuế quan. Biểu thuế quan của các nước thường được xây

dựng dựa trên danh mục hàng hoá được phân loại và mã hoá theo hệ thống

HS, thường từ 6 – 10 số (tùy điều kiện của mỗi nước). Nội dung của biểu thuế

4 Đơn vị hàng hoá có thể được xác định theo những tiêu chuẩn về số kiện, trọng lượng, diện tích, thể tích, .. .

57

quan bao gồm mã số thuế, tên hàng hoá, đơn vị tính, thuế suất… Trong xu

hướng hội nhập thương mại quốc tế như hiện nay, nhất là với sự gia tăng của

các Hiệp định thương mại tự do (FTA), các quốc gia thường xây dựng nhiều

biểu thuế quan khác nhau trên cơ sở đó thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan

nhập khẩu theo cam kết giữa các đối tác theo từng FTA.

2.2.2. Khái quát về thuế quan ưu đãi.

Trong những năm qua, với sự phát triển nhanh chóng của thương mại thế

giới đi cùng với quá trình toàn cầu hoá và thúc đẩy tự do hoá thương mại thì

vấn đề cắt giảm thuế quan luôn được đặt ra trong hầu hết các cuộc đàm phán

thương mại. Với xu hướng chung là thuế quan sẽ ngày càng cắt giảm bớt

trong hoạt động thương mại để thúc đẩy hoạt động giao thương. Tuy nhiên,

với sự phát triển nhanh chóng của các hiệp định thương mại đa phương và

song phương đang nảy sinh vấn đề có sự chênh lệch lớn về mức thuế quan áp

dụng cùng với một loại hàng hoá của các quốc gia khác nhau. Tuỳ vào mức

độ ưu đãi trong quan hệ thương mại mà các quốc gia dành cho nhau những

mức thuế quan khác nhau và vì vậy mà ưu đãi thuế quan thông qua áp dụng

thuế quan ưu đãi được xem là một trong những yếu tố không thể thiếu trong

chính sách thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của một quốc gia.

Để thực hiện việc ưu đãi thuế quan thì trong chính sách thuế quan áp

dụng của các nước thường phân chia mức thuế quan áp dụng đối với hàng hoá

cùng loại của các quốc gia thành ba mức thuế suất khác nhau đó là: thuế suất

thông thường, thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt.

i. Thuế suất thông thường áp dụng đối với những hàng hoá nhập khẩu có

xuất xứ từ những nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện đối

xử tối huệ quốc và không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu. Cụ thể

với Việt Nam thì áp dụng thuế suất thông thường được quy định bằng 150%

thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng.

58

ii. Thuế suất ưu đãi áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ

nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong

quan hệ thương mại với quốc gia cho hưởng; hàng hóa từ khu phi thuế quan

nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng điều kiện xuất xứ từ nước,

nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện đối xử tối huệ quốc trong quan hệ

thương mại với quốc gia cho hưởng. Ví dụ như tính đến hết năm 2016, Việt

Nam đã thiết lập quan hệ thương mại với trên 160 nước và vùng lãnh thổ; đã

có 90 quốc gia có thỏa thuận về quy chế tối huệ quốc trong quan hệ thương

mại với Việt Nam. Đối với hàng hoá từ những quốc gia này hiện được áp

dụng mức thuế suất theo Biểu thuế xuất nhập khẩu ưu đãi của Việt Nam đã

được xây dựng và điều chỉnh hàng năm phù hợp với cam kết cắt giảm thuế

quan trong WTO, từ mức thuế bình quân năm 2005 là 17,4% đến 2016 xuống

còn 10,4%.

iii. Thuế suất ưu đãi đặc biệt áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất

xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc biệt về

thuế nhập khẩu trong quan hệ thương mại với với quốc gia cho hưởng; hàng

hóa từ khu phi thuế quan nhập khẩu vào thị trường trong nước đáp ứng điều

kiện xuất xứ từ nước, nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ có thỏa thuận ưu đãi đặc

biệt về thuế nhập khẩu trong quan hệ thương mại với với quốc gia cho hưởng.

Tuỳ vào quan hệ thương mại của một quốc gia mà mức thuế suất ưu đãi đặc

biệt này lại được chia thành nhiều mức thuế suất khác nhau dựa trên các cam

kết về cắt giảm, ưu đãi thuế quan theo từng FTA mà quốc gia đó tham gia. Ở

Việt Nam, tính đến hết năm 2016, Việt Nam đã tham gia ký kết và thực hiện

10 FTA song phương và đa phương và tương ứng với nó là có 10 Biểu thuế

ưu đãi đặc biệt trong các FTA được cắt giảm theo đúng lộ trình cam kết.

Thêm vào đó, để được hưởng những thuế quan ưu đãi này, bắt buộc những

hàng hoá nhập khẩu đó phải đáp ứng được những quy định về xuất xứ hàng

59

hoá theo các bộ quy tắc xuất xứ tương ứng theo các FTA.

Như vậy, có thể thấy rằng thuế quan ưu đãi là thuế quan thấp hơn so với

thuế quan bình thường (áp dụng chung với các nước) mà một quốc gia dành áp

dụng đối với hàng hoá nhập khẩu một nước hay một khối nước trong quan hệ

thương mại. Việc áp dụng thuế quan ưu đãi đối với cùng một loại hàng hoá sẽ

phụ thuộc rất lớn vào hàng hoá đó có xuất xứ từ quốc gia nào? Quốc gia đó có

quan hệ thương mại đặc biệt gì hay không? Trên cơ sở mức độ quan hệ thương

mại đó thì mức thuế suất áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu sẽ được áp dụng

ưu đãi hơn so với hàng hoá cùng loại từ quốc gia khác. Vì vậy mà thuế quan

ưu đãi có thể được coi là việc một quốc gia thực hiện loại bỏ thuế quan hoặc

dành mức thuế suất thấp hơn đối với hàng hoá nhập khẩu từ quốc gia đối tác

so với quốc gia khác trong quan hệ thương mại. Tuy nhiên những hàng hoá

này phải được xác định là “có xuất xứ” từ quốc gia đối tác theo quy định của

bộ quy tắc xuất xứ để đủ điều kiện hưởng mức thuế quan ưu đãi theo chính

sách ưu đãi thuế quan mà quốc gia nhập khẩu áp dụng. Do đó, cùng với việc

đưa ra áp dụng mức thuế quan ưu đãi, các quốc gia áp dụng luôn xây dựng và

hình thành nên các bộ quy tắc xuất xứ nhằm xác định sự hợp lệ của hàng nhập

khẩu để được hưởng mức thuế quan ưu đãi. Nếu không có quy tắc xuất xứ,

hiện tượng thương mại chệch hướng sẽ rất khó ngăn chặn được khi hàng hóa

từ các nước vốn không được hưởng ưu đãi thuế quan sẽ xâm nhập qua các

nước được hưởng ưu đãi thuế quan để nhập khẩu vào quốc gia cho hưởng.

2.3. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN QUY

TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ TRONG ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI.

2.3.1. Các quy định pháp luật quốc tế điều chỉnh chung về xuất xứ hàng hóa.

Khi xem xét tới các quy định luật quốc tế điều chỉnh chung về xuất xứ

hàng hóa ảnh hưởng đến việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp

dụng thuế quan ưu đãi của các quốc gia thì phải xem xét các quy định sau:

60

Thứ nhất, các quy định của WTO: trong đó, hiệp định về quy tắc xuất xứ

của WTO được xây dựng nhằm tạo điều kiện cho hoạt động thương mại đa

biên của phần lớn các quốc gia trên thế giới. Mục đích của hiệp định nhằm hài

hòa hóa các qui tắc xuất xứ trong dài hạn, thay vì các qui tắc xuất xứ liên

quan đến việc cấp ưu đãi thuế quan và đảm bảo rằng các qui tắc xuất xứ bản

thân nó không tạo ra những trở ngại không cần thiết đối với thương mại.

Nguyên tắc cơ bản của hiệp định là quy tắc xuất xứ được xây dựng và áp

dụng cần phải đảm bảo tính minh bạch, công khai, khách quan, rõ ràng, dễ

hiểu và có thể dự đoán trước được. Hiệp định về quy tắc xuất xứ của WTO

quy định các nguyên tắc áp dụng chung mà tất cả các nước thành viên khi ban

hành và thực thi các quy định pháp luật hoặc hành chính liên quan đến việc

xác định nước xuất xứ của hàng hóa đều phải tuân thủ. Tuy nhiên, các nguyên

tắc của Hiệp định không áp dụng cho các trường hợp quy tắc xuất xứ theo các

thỏa thuận ưu đãi.

Thứ hai, Công ước quốc tế về đơn giản hoá và hài hoà hoá thủ tục hải

quan (Công ước Kyoto) ra đời năm 1973 và Công ước Kyoto sửa đổi năm

1999 do Tổ chức Hải quan thế giới đưa ra điều chỉnh đến quy định về xuất xứ

hàng hóa trong hoạt động của hải quan tại phụ lục chuyên đề K. Trong đó, tập

trung vào việc xác định chính xác xuất xứ, chống gian lận về xuất xứ, thực

hiện các thủ tục liên quan đến xuất xứ của hàng hóa phục vụ cho công tác

quản lý của cơ quan hải quan nước nhập khẩu.

Thứ ba, quy định về xuất xứ trong hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập

(GSP). Đây chính là quy định áp dụng trong hệ thống thương mại toàn cầu do

tổ chức liên hợp quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD) đưa ra. Trong

đó, quy định về chế độ ưu đãi đơn phương về thuế quan của các nước phát

triển dành cho những nước đang phát triển nhằm thúc đẩy hoạt động xuất

khẩu hàng hóa của những nước này và để thực hiện được điều đó không thể

61

thiếu được quy định về xuất xứ hàng hóa đi kèm.

Thứ tư, các quy định trong các hiệp định song phương và đa phương mà

một quốc gia tham gia với các đối tác. Theo đó, với mỗi một hiệp định khác

nhau căn cứ vào mục tiêu, mức độ quan hệ thương mại, chính trị, luật pháp

mà có các chương trình cắt giảm thuế quan, cấu trúc biểu thuế quan, mức độ

áp dụng thuế quan ưu đãi, các quy định về thủ tục hải quan, kiểm tra hải quan,

cũng như các biện pháp quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu khác nhau từ đó có

sự sự chi phối, điều chỉnh đến các quy định về xuất xứ hàng hoá áp dụng.

Những yếu tố cơ bản trên sẽ tác động và chi phối rất lớn đến quá trình

xây dựng, hình thành và thực thi các quy tắc xuất xứ hàng hoá trong hệ thống

pháp luật của các quốc gia.

2.3.2.Hệ thống các quy định và chính sách liên quan đến hoạt động

thương mại và đầu tư.

Hệ thống các quy định và chính sách liên quan đến hoạt động thương

mại và đầu tư thể hiện thái độ và quan điểm của nhà nước trong việc điều

hành quản lý vĩ mô nền kinh tế. Các quy định về xuất xứ hàng hóa là một

phần nằm trong các quy định này và luôn có mối quan hệ chi phối, tác động

qua lại điều chỉnh với các quy định khác trong hệ thống trên cơ sở điều hành

của nhà nước. Quy định về xuất xứ hàng hóa đóng vai trò quan trọng trong

việc triển khai chính sách thương mại quốc gia theo hướng tự do hóa hay bảo

hộ. Đây là hai xu hướng mặc dù trái ngược nhưng luôn tồn tại song song.

Chính sách bảo hộ là những biện pháp của Chính phủ nhằm bảo vệ các

nhà sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh với nước ngoài. Mục tiêu bảo hộ

giữa các quốc gia là rất đa dạng. Đối với các nước phát triển thì mục tiêu

chính của việc bảo hộ là nhằm duy trì việc làm cho những nhóm lớn người lao

động có kỹ năng tương đối thấp. Trong khi đó, đối với các nước có trình độ

phát triển trung bình và thấp, gặp khó khăn trong cạnh tranh trên thị trường

62

quốc tế cũng như nội địa mà nguyên nhân sâu xa là thiếu vốn, nhân lực, quản

lý không hiệu quả... Chính sách bảo hộ nhằm mục tiêu duy trì và phát triển

một số ngành sản xuất quan trọng và có nhiều tiềm năng trở thành ngành cạnh

tranh trong tương lai. Chẳng hạn, Malaysia bảo hộ ngành sản xuất ô tô; Thái

Lan duy trì bảo hộ ở mức cao một số ngành điện tử, cơ khí, đường; Trung

Quốc lại theo đuổi mục tiêu bảo hộ sản xuất ô tô, thép, thuốc lá...

Một lý do riêng đối với việc bảo hộ của các nước đang phát triển và

chậm phát triển là việc các nước này phải thường xuyên duy trì cán cân thanh

toán có lợi và cải thiện nguồn ngân sách. Các nước đang phát triển và chậm

phát triển thường bị thâm hụt cán cân thanh toán, nguồn ngân sách hạn hẹp,

để tránh tình trạng này các quốc gia có thể áp dụng nhiều hình thức bảo hộ

khác nhau nhằm phát triển những ngành hàng thay thế NK hoặc hướng về

XK, hạn chế NK những mặt hàng không cần thiết từ đó hạn chế chi ngoại tệ

cho ngân sách thông qua XK, NK như: Hàng rào thuế quan (Tariff Barriers);

Hàng rào phi thuế quan (Non-Tariff Barriers).

Bởi vậy, nếu các quy định xuất xứ hàng hóa được đặt ra với yêu cầu cao

thì nó sẽ trở thành một công cụ của chính sách bảo hộ, còn nếu đơn giản hóa

và yêu cầu thấp sẽ thúc đẩy tự do hóa thương mại.

2.3.3. Những nhân tố thuộc về các cơ quan quản lý nhà nước liên quan

trong quá trình thực thi pháp luật về xuất xứ hàng hóa.

Con người luôn đóng vai trò chủ đạo và quyết định đến sự thành công

hay thất bại trong việc xây dựng và thực thi chính sách. Trình độ, năng lực

của cán bộ thực thi pháp luật về xuất xứ hàng hóa không chỉ ảnh hưởng đến

việc tham mưu, xây dựng và hoạch định chính sách thuế quan hay thương mại

của đất nước mà còn quyết định hiệu quả thực hiện chính sách về xuất xứ

hàng hóa trong đó. Cán bộ làm công tác thẩm định và cấp chứng nhận xuất xứ

hàng hóa cũng như các cán bộ làm công tác thanh tra, kiểm tra xuất xứ hàng

63

hóa nhằm đảm bảo xác định chính xác nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, ngăn

chặn những hành vi gian lận về xuất xứ, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp

luật trong xử lý các hành vi vi phạm về xuất xứ hàng hoá, đồng thời với đó

cũng phải triển khai thực hiện các nội dung của chính sách thuế XK, thuế NK,

chính sách thương mại liên quan đến xuất xứ hàng hóa và hướng dẫn, giải

quyết trực tiếp các vướng mắc của nhiều đối tượng có liên quan. Chính vì thế,

đội ngũ cán bộ nếu không có phẩm chất đạo đức tốt, trình độ chuyên môn cao

thì mọi chính sách dù có tốt đến đâu cũng bị vô hiệu hoá và chính sách ban

hành sẽ không phát huy được tác dụng, bị lợi dụng, trốn thuế gây thất thu cho

ngân sách Nhà nước. Bên cạnh đó, việc xây dựng, thực thi chính sách còn phụ

thuộc vào trình độ của đối tượng liên quan đến việc áp dụng các quy định về

xuất xứ hàng hóa. Nếu trình độ kiến thức về xuất xứ hàng hóa của những đối

tượng này càng cao thì việc áp dụng sẽ càng thuận lợi hơn.

Đồng thời với đó hệ thống các thủ tục hành chính và đội ngũ cán bộ làm

công tác này càng ít cửa nhất, ít giấy tờ nhất, thì sẽ rút ngắn thời gian làm thủ

tục, chi phí làm thủ tục thấp nhất, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho doanh

nghiệp trong hoạt động thương mại, đem lại hiệu quả cao trong áp dụng các

quy định xuất xứ hàng hóa. Bên cạnh đó, mức độ trang bị phương tiện kỹ thuật

và trình độ ứng dụng công nghệ thông tin của các cơ quan quản lý nhà nước về

xuất xứ hàng hóa ảnh hưởng lớn đến hoạt động thực hiện các thủ tục, quy định

về xuất xứ hàng hóa cũng như công tác thẩm định, kiểm tra, xác nhận xuất xứ

hàng hóa có nhanh chóng, chính xác và hiệu quả hay không.

Ngoài ra, các quy định xuất xứ hàng hóa không chỉ liên quan đến thu

thuế XK, thuế NK mà còn liên quan đến nhiều lĩnh vực nên ngoài việc phối

hợp trong nội bộ từng ngành đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ

quan chức năng như: Bộ công thương, Hải quan, Thuế, các Hiệp hội ngành

nghề... Mối liên hệ khăng khít giữa cơ quan hải quan với các cơ quan, tổ chức

64

này tạo nên sự ràng buộc không thể thiếu trong thu thuế XK, thuế NK. Ngoài

ra, sự phối hợp này không chỉ nằm trong biên giới quốc gia mà phải kể đến

Hải quan các nước, Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO), các tổ chức cấp

C/O.v.v. nhằm trao đổi thông tin nghiệp vụ, học tập kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn

nhau trong thương mại quốc tế.

2.3.4. Nhân tố thuộc về bản thân các doanh nghiệp

Doanh nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng của nền kinh tế, là bộ phận

chủ yếu tạo ra tổng sản phẩm trong nước (GDP). Hoạt động của doanh nghiệp

góp phần giải phóng và phát triển sức sản xuất, huy động và phát huy nội lực

vào phát triển kinh tế xã hội, góp phần quyết định vào phục hồi và tăng

trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu ngân sách và tham gia giải

quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xoá đói, giảm nghèo.

Trong quan hệ trao đổi thương mại quốc tế, doanh nghiệp chính là chủ thể

đóng vai trò quan trọng áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế

quan ưu đãi. Khi xuất khẩu hàng hoá của doanh nghiệp sang thị trường nước

ngoài, muốn được hưởng thuế quan ưu đãi thì hàng hoá của doanh nghiệp

phải đáp ứng được những quy định về xuất xứ hàng hoá theo hiệp định

thương mại đã ký kết với quốc gia mình. Ở chiều ngược lại, khi nhập khẩu

hàng hoá vào trong nước muốn được hưởng thuế quan ưu đãi thì doanh

nghiệp cũng phải tuân thủ đầy đủ các quy định về thủ tục nhập khẩu liên quan

đến quy tắc xuất xứ hàng hoá. Do đó, nếu doanh nghiệp không thể đáp ứng

được các quy định của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu

đãi khi thực hiện hoạt động kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu thì sẽ mất đi lợi

thế cạnh tranh do không được hưởng những ưu đãi mà quốc gia nhập khẩu

hàng hoá dành cho. Từ đó ảnh hưởng đến khả năng xuất khẩu, nhập khẩu

hàng hoá và phát triển của doanh nghiệp cũng như sự phát triển của một quốc

gia trong quan hệ thương mại quốc tế. Như vậy, có thể khẳng định rằng, nhân

65

tố doanh nghiệp sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến việc áp dụng quy tắc xuất xứ

hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi của một quốc gia. Nhân tố doanh

nghiệp được phản ánh trên các khía cạnh sau:

Thứ nhất là nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp. Như đã phân tích ở

trên, để áp dụng được quy tắc xuất xứ hàng hoá thì bản thân các doanh nghiệp

trước hết phải nắm bắt và am hiểu những nội dung, quy định có trong các quy

tắc xuất xứ hàng hoá. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần phải có sự chủ động,

tích cực nắm bắt và áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hoá trong ưu đãi

thuế quan vào trong hoạt động kinh doanh thông qua việc xây dựng được

nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao và am hiểu về xuất xứ hàng hoá.

Nguồn nhân lực được coi là vấn đề vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại và

phát triển của doanh nghiệp và áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá. Một nguồn

nhân lực kém không đáp ứng được nhu cầu sẽ là nguyên nhân cơ bản dẫn đến

sự thất bại của doanh nghiệp. Với nguồn nhân lực đủ mạnh, các doanh nghiệp

có thể nắm bắt được một cách tốt nhất những nội dung mới và phức tạp liên

quan đến xuất xứ và các cam kết, quy định phức tạp có liên quan áp dụng,

tránh được những sai sót, mất nhiều thời gian và chi phí thực hiện những quy

định của quy tắc xuất xứ.

Thứ hai là trình độ và năng lực sản xuất của doanh nghiệp. Đây được

xem là yếu tố quan trọng để đáp ứng được các yêu cầu về các tiêu chí xuất xứ

hàng hoá, các doanh nghiệp cần phải có trình độ và năng lực sản xuất đủ

mạnh. Theo quy định của quy tắc xuất xứ hàng hoá, các hàng hóa muốn đáp

ứng được các tiêu chí xuất xứ hàng hoá đòi hỏi phải trải qua những quá trình

gia công, chế biến nhất định đạt được mức độ chuyển đổi dòng thuế hay hàm

lượng giá trị nội địa hoặc công đoạn gia công, chế biến nào đó. Mà để đạt

được điều này, các doanh nghiệp phải có quy trình, hệ thống quản trị sản xuất

tuân thủ chặt chẽ các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật để thực hiện đầy đủ các

66

công đoạn gia công, chế biến cần thiết đối với các đầu vào nhập khẩu, có các

biện pháp kiểm soát, phân bổ các nguồn nguyên liệu đầu vào, từ đó có thể đáp

ứng được các tiêu chí xuất xứ hàng hoá. Thêm vào đó, năng lực sản xuất của

một doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như máy móc thiết bị,

nguyên vật liệu đầu vào, trình độ người lao động, trình độ quản lý và đặc biệt

là khả năng áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất. Tất cả

các nhân tố này có sự tác động đến năng lực sản xuất của doanh nghiệp cao

hay thấp, sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra có thể đáp ứng được các tiêu

chí về xuất xứ hàng hoá hay không. Từ đó, có thể được chứng nhận xuất xứ

hàng hoá khi xuất khẩu và hưởng thuế quan ưu đãi tại nước nhập khẩu theo

các quy định của quy tắc xuất xứ hàng hoá và hiệp định thương mại. Do vậy,

bản thân các doanh nghiệp cần có những biện pháp cụ thể nhằm tác động đến

các nhân tố này từ đó nâng cao khả năng áp dụng các quy định về xuất xứ

hàng hoá trong ưu đãi thuế quan.

Bên cạnh đó, việc thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế

quan ưu đãi còn chịu sự ảnh hưởng rất lớn bởi ý thức tuân thủ pháp luật của

các doanh nghiệp. Với những lợi ích có thể đạt được nhờ được hưởng những

ưu đãi về thuế quan có thể khiến các doanh nghiệp thực hiện các hành vi gian

lận về xuất xứ hàng hoá gây phương hại đến lợi ích của quốc gia và nền kinh

tế. Do đó, mức độ tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp của quốc gia càng cao

thì việc thực thi pháp luật về xuất xứ hàng hoá càng đem lại tác động tích cực

đối với quốc gia đó. Thêm vào đó, Hệ thống quản trị doanh nghiệp, hệ thống

sổ sách, kế toán, tài chính và quy trình kiểm soát của doanh nghiệp trong sản

xuất hàng hoá xuất khẩu cũng có tác động rất lớn đến việc thực thi các quy

định về xuất xứ hàng hoá, nhất là các quy định tuân thủ về hồ sơ, chứng từ

chứng minh nguồn gốc xuất xứ của các yếu tố cấu thành hàng hoá sản xuất

của doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiệp có sự chú trọng trong quản trị tốt

67

các yếu tố trên thì sẽ thuận lợi và dễ dàng đáp ứng được những yêu cầu, đòi

hỏi từ phía các cơ quan quản lý trong việc tuân thủ các quy định về xuất xứ

hàng hoá.

Ngoài ra, quan hệ đối tác nhà nước và doanh nghiệp cũng có sự tác động

lớn đến việc thực thi các quy tắc xuất xứ hàng hoá. Nếu các doanh nghiệp có

sự chủ động hợp tác tích cực với cơ quan nhà nước có liên quan trong việc áp

dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá thì sẽ có thể tiếp cận một cách tốt nhất những

thông tin về quy tắc xuất xứ, đồng thời cũng có được sự hỗ trợ từ các cơ quan

này trong quá trình áp dụng để đạt được lợi ích tốt nhất.

2.4. TÁC ĐỘNG CỦA QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ VÀ THUẾ

QUAN ƯU ĐÃI ĐẾN XUẤT KHẨU, NHẬP KHẨU.

Qua sự nghiên cứu của rất nhiều các học giả trên thế giới cho thấy ảnh

hưởng của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi đến

luồng trao đổi thương mại là rất rõ rệt. Quy tắc xuất xứ hàng hoá tác động đến

thương mại bởi nguyên nhân cơ bản liên quan đến hai loại chi phí là chi phí

sản xuất hàng hoá và chi phí hành chính5. Sự khác biệt về những yêu cầu kỹ

thuật là nguyên nhân tạo ra chi phí sản xuất hàng hoá. Chi phí sản xuất hàng

hoá có thể nảy sinh trong thực tế bởi nguyên do quy tắc xuất xứ được xây

dựng dựa trên hệ thống HS, mà hệ thống này lại được xây dựng không nhằm

mục đích xác định xuất xứ hàng hoá. Ví dụ, một hàng hoá trong thực tế thực

hiện sự chuyển đổi quan trọng nhưng lại có thể không thoả mãn điều kiện về

chuyển đổi mã số phân loại. Khi đó, các chi phí hành chính về thủ tục cần

thiết để xác nhận xuất xứ hàng hoá như là các chi phí liên quan đến kế toán sẽ

tác động đến cả nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu trước và sau khi lô hàng

được giao dịch. Cơ chế chứng nhận nguồn gốc xuất xứ hàng hoá hơn nữa

5Xem Ju và Krishna (1998), Duttagupta và Panagariya (2003), Estevadeordal và Suominen (2003), Doan Ngoc Thang (2016 ).

68

cũng sẽ làm phát sinh các chí phí cho các doanh nghiệp và cơ quan chính phủ

có liên quan, đặc biệt là đối với những nước tham gia vào nhiều FTA thì phải

thực nhiều nhiều quy tắc xuất xứ khác nhau. Những nhân tố khác cũng có thể

ảnh hưởng bởi quy tắc xuất xứ hàng hoá đến trao đổi thương mại đó là những

đặc điểm của các doanh nghiệp (khi các doanh nghiệp có thể dễ dàng thay đổi

tỷ lệ giá trị tăng thêm vào sản phẩm sản xuất bằng việc thay đổi công nghệ

sản xuất, đầu vào sản xuất từ nguồn nội địa hay các nước đối tác khác nhau,

sự khác biệt về giá cả giữa nguồn nội địa và nguồn nhập khẩu có thể được sử

dụng để tính toán giá trị nội địa chứa đựng trong sản phẩm sản xuất để xác

định xuất xứ) và lĩnh vực sản xuất (đó là việc đặt ra các mức ưu đãi cao và

nhu cầu về giá đối với sản phẩm cuối cùng). Về mặt lý thuyết dường như

thống nhất chỉ ra rằng quy tắc xuất xứ hàng hoá tác động làm giảm mức trao

đổi hàng hoá xuống dưới mức trao đổi không áp dụng quy tắc xuất xứ.

Để xem xét tác động của quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế quan ưu đãi

đến xuất khẩu, nhập khẩu của một quốc gia thì mô hình trọng lực (Gravity

Model) được xem là một công cụ hữu hiệu hiện nay.

Mô hình trọng lực được xây dựng theo dạng:

(2.3)

Xijt = f (Yijt;β) exp(vijt-uijt)6

Trong đó:

Xijt : xuất khẩu 2 bên từ nước i tới nước j

f (Yijt;β) các nhân tố khống chế xác định khả năng của thương mạiYijt

(bao gồm cả cản trợ tự nhiên)

β biểu thị véc tơ các tham số chưa biết, cần phải ước lượng

Cả uijt và vijt là sai số kỳ hạn. Trong khi, một mặt của sai số kỳ hạn uijt là

kỹ thuật thiếu hiệu quả trong việc khống chế các cản trở do con người tạo ra

và vijt biểu thị ảnh hưởng của thương mại của các biến tự do. uijt nằm giữa 0 6 Xem Baldwin, Taglioni (2006) và Armstrong (2007), Doan Ngoc Thang (2016 ).

69

2

và 1 và nó chỉ ra sự không phủ định việc phân phối mức trung bình µ và

μσ

phương sai. Hai mặt của sai số kỳ hạn vijt , được giả định phân phối chuẩn với

giá trị trung bình bằng 0 và

2σv nắm giữ phép đo và sai số đặc trưng.

Trong mô hình này, các yếu tố cản trở thương mại được chia thành 2

nhóm: cản trở tự nhiên (như là biên giới, giới hạn bởi đất liền, và ngôn ngữ)

và cản trở do con người tạo ra (như là các hiệp định thương mại, khác biệt

chính trị, khối khu vực, quy tắc xuất xứ hàng hoá, thuế quan và thể chế). Đối

với ảnh hưởng của quy tắc xuất xứ thì có thể đánh giá trên sự thay đổi của

chuyển đổi mã số thuế (CTC) (tại cấp độ dòng thuế (HS- 8 số), cấp độ phân

nhóm (6 số), nhóm (4 số) hay cấp độ chương (2 số)) hay thời gian biểu áp

dụng thuế quan, cộng gộp, hoàn thuế, chấp thuận và mức độ gia công quy

định trong FTA. Tuy nhiên, vì những khó khăn do việc chuyển đổi các yêu

cầu kỹ thuật thành các biến số đo lường sự giới hạn của quy tắc xuất xứ nên

về mặt thực nghiệm các học giả trên thế giới đã cải tiến ra nhiều mô hình khác

nhau để có thể đánh giá được ảnh hưởng của quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế

quan đến trao đổi thương mại giữa các quốc gia. Nổi bật có thể kể đến:

(cid:4) Mô hình do Sangkyom Kim, Innwon Park, and Soonchan Park

(2012)[93] đã sử dụng dữ liệu bảng với 48.088 cặp quốc gia của 151 nước

trong 6 năm từ 1980 đến 2005 với khoảng thời gian 5 năm mỗi đoạn và được

biểu diễn dưới dạng sau đây:

Ln (Tradeijt) = αij+ α1 ln (GDPit) + α2 ln (GDPjt) + α3 ln (DISTij) + β’X’ +

(2.4)

∑k ROO/k + δ Yeart + εijt

Trong đó: • Trade biểu thị giá trị trao đổi thương mại giữa nước i và j tại năm t. • GDP là GDP thực tế • DIST là khoảng cách giữa nước i và j

70

• X’ là các biến kiểm soát gồm các biến giả chung biên giới Border,

thuộc địa Colony và sử dụng ngôn ngữ chung Common Language.

• ROO thiết lập cho các quy tắc xuất xứ chung; với k∈ {Bilateral

Cumulation, Diagonal Cumulation}, {De Minimis, No De Minimis} hoặc

{Public Certification, Self Certification}.

• Bilateral Cumulation (Diagonal Cumulation) là biến nhị phân nhận

giá trị đơn nhất nếu i và j thuộc FTA sẽ cộng gộp (chéo hoặc riêng) .

• De Minimis (No De Minimis) là biến nhị phân nhận giá trị đơn nhất

nếu i và j thuộc FTA (không hoặc riêng) De Minimis.

• Public Certification (Self Certification) là biến nhị phân nhận giá trị

đơn nhất nếu i và j thuộc FTA (không hoặc riêng) yêu cầu về chứng nhận.

• Year biểu thị các biến nhị phân đơn nhất tại năm cụ thể t.

Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, tác động của quy tắc xuất xứ chung

Denimis áp dụng với các cặp nước tham gia FTA sẽ làm tăng thương mại

trong điều kiện các biến khác cố định. Yêu cầu về chứng nhận xuất xứ ảnh

hưởng mạnh mẽ hơn so với De Minimis. Hệ thống cộng gộp chéo có mức ảnh

hưởng cao nhất đối với thương mại. Lợi ích tích cực từ thành viên FTA khi áp

dụng quy tắc xuất xứ chung được chứng minh mạnh hơn trong một FTA giữa

các nước đang phát triển. Kết hợp De Minimis và cộng gộp chéo là ảnh hưởng

cao nhất đến thương mại qua việc kết hợp trong chính sách của FTA đối với

các nước đang phát triển.

(cid:4) Mô hình do Patricia Augier, Michael Gasiorek và Charles Lai-Tong

(2005) [89] đưa ra như sau:

Ln(Xij) = α0 + α1 Ln (GDPi) + α2 Ln (Popi) + α 3Ln(GDPj)+ α4Ln(Popj) +

α5Ln(Distij) + α6PTAij + α7Borderij + α8 Languageij + α9Tariffij

+ α10Rooij (2.5)

Theo đó:

71

• PTAij : tương ứng với các hiệp định thương mại tự do. • Borderij : đánh giá vai trò chung của biên giới. • Languageij: đánh giá vai trò chung của ngôn ngữ chung các nước. • Tariffij: mức thuế MFN hoặc thuế suất ưu đãi bình quân giữa các nước. • ROOij: biến giả về quy tắc xuất xứ.

Kết quả mô hình này chỉ ra sự ảnh hưởng của quy tắc xuất xứ (ROO) và

thuế quan đến dòng chảy thương mại với các biến như : GDP, dân số (Pop) để

thể hiện quy mô của nền kinh tế; các biến cản trở/thúc đẩy thương mại được

sử dụng gồm hàng rào thuế quan (Tariff), khoảng cách (Dist). Các biến giả

liên quan đến ngôn ngữ (Language), biên giới (Border) và hiệp định thương

mại ưu đãi (PTA) được đưa vào mô hình để thể hiện các yếu tố thúc đẩy hoặc

cản trở thương mại.

Khi áp dụng mô hình trọng lực vào phân tích tác động của luồng trao đổi

thương mại giữa Việt Nam với các nước tham gia FTA, các học giả Việt Nam

cũng đã đạt được một số kết quả nhất định. Điển hình là mô hình trọng lực

phân tích luồng xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam, do Nguyễn Anh Thu,

Vũ Thanh Hương, Vũ Văn Trung và Lê Thị Thanh Xuân (2015) [41] đưa ra

như sau:

- Luồng xuất khẩu:

Ln (EXj) = C +β1 ln (

GDPPC GDPPC ) + β3 ln

t GDP GDP ) + β2 ln ( j

t i

t j

t i

(INCOMEGAP) + β4 ln (DISTij) + ln (REERijt) +α1 AFTA+ α2 ACFTA +

(2.6)

- Luồng nhập khẩu:

Ln (IMj) == C + β1 ln (

GDPPC GDPPC ) + β3

t GDP GDP ) + β2 ln ( j

t i

t j

t i

ln (INCOMEGAP) + β4 ln (DISTij) + ln (REERijt) + α1 AFTA+ α2 ACFTA +

(2.7)

α3 AKFTA+ α4 AJCEP

α3 AKFTA + α4 AJCEP

72

Trong đó:

- ln: logarit tự nhiên

- i: Việt Nam; j: các nước đối tác thương mại.

- EXj và IMj tương ứng là xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam tới nước j

t

t

- iGDP và

jGDP tương ứng là GDP của Việt Nam và nước đối tác j.

t i

t j

GDPPC ,GDPPC tương ứng là GDP bình quân đầu người của Việt -

Nam và nước đối tác j.

- INCOMEGAP chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa Việt Nam

và các nước đối tác j.

- DISij khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và nước j.

- REERijt Tỷ giá giữa đồng tiền giữa Việt Nam và các nước đối tác j năm t.

- AFTA, ACFTA, AKFTA, AJCEP là các biến giả đo lường tác động

của các khu vực thương mại tự do tới xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam.

Kết quả ước lượng cho thấy, mô hình giải thích khá tốt thương mại của

Việt Nam theo đó: khối lượng trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các

nước đối tác tỷ lệ thuận với quy mô của nền kinh tế (GDP), chênh lệch thu

nhập và tỷ lệ nghịch với khoảng cách. Tỷ giá hối đoái tác động tích cực đến

xuất khẩu nhưng lại tác động ngược chiều làm giảm nhu cầu nhập khẩu Việt

Nam. Hệ số biến giả thì AFTA tác động tích cực đến cả xuất khẩu và nhập

khẩu, AKFTA thúc đẩy nhập khẩu còn ACFTA tác động tiêu cực đến xuất

khẩu của Việt Nam, còn AJCEP chưa có ý nghĩa vì thời gian hiệu lực còn

ngắn.

Như vậy có thể thấy rằng, việc sử dụng mô hình trọng lực vào phân tích

cho thấy ảnh hưởng của quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế quan ưu

đãi đến luồng trao đổi thương mại là rất rõ rệt cả ở trên thế giới và Việt Nam. Ở

Việt Nam do sự hạn chế về nguồn số liệu thống kê và chưa có sự quan tâm

73

nhiều của các học giả nên kết quả mới chỉ ra ảnh hưởng đến thương mại bởi

các nhân tố: quy mô của nền kinh tế (GDP), chênh lệch thu nhập, khoảng cách,

tỷ giá hối đoái và các FTA nói chung. Việc đánh giá vai trò của thuế quan ưu

đãi và xuất xứ hàng hoá (thông qua các FTA) chưa có sự phân tích, đánh giá

một cách toàn diện, đi sâu vào ảnh hưởng của quy tắc xuất xứ hàng hoá và thuế

quan ưu đãi đến trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các đối tác FTA (trong

đó có AEC). Trong chương 3, luận án sẽ kế thừa những kết quả nghiên cứu trên

trong việc áp dụng mô hình trọng lực để đánh giá làm rõ hơn những ảnh hưởng

của việc sử dụng quy tắc xuất xứ trong áp dụng thuế quan ưu đãi đến luồng trao

đổi thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên AEC.

2.5. KINH NGHIỆM THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ TRONG ÁP

DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA CÁC NƯỚC VÀ BÀI HỌC CHO

VIỆT NAM.

2.5.1. Kinh nghiệm của các nước ASEAN-4 (Singapore, Malaysia, Thái

Lan và Indonesia).

Trong các nước thành viên của ASEAN, Singapore (tham gia 33 FTA:

20 FTA đang có hiệu lực), Malaysia (tham gia 22 FTA: 14 FTA đang có hiệu

lực), Thái Lan (tham gia 22 FTA: 13 FTA đang có hiệu lực) và Indonesia

(tham gia 17 FTA: 9 FTA đang có hiệu lực)7 là bốn nước có chính sách về

FTA, tham gia vào nhiều FTA song phương và đa phương, có kinh nghiệm

tận dụng ưu đãi từ các FTA nói chung, AEC nói riêng nhiều nhất trong các

nước thành viên.

Về việc xây dựng các quy định luật pháp, phối hợp, trao đổi và cung cấp

thông tin giữa các bên liên quan. Để thực hiện tốt các quy định về xuất xứ

hàng hoá và tận dụng tốt những ưu đãi từ các FTA, các cơ quan chức năng

chính phủ của các nước này đã có sự chuẩn bị ngay từ khâu đàm phán trên cơ 7 Dữ liệu tại https://aric.adb.org/fta-country

74

sở tiến hành nghiên cứu tiền khả thi về Hiệp định FTA, những lơ ̣i ích mà

Hiệp định có thể mang lại cho hàng hóa, doanh nghiệp và nền kinh tế, những

thách thức của việc thư ̣c thi những quy định về quy tắc xuất xứ hàng hoá, có

tham khảo ý kiến của các hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp.

Sau đó đưa ra quyết định có nên tham gia hay không. Khi đã quyết định tham

gia, các cơ quan chức năng đưa ra các phương án đàm phán, có tham vấn các

hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp để có những phương án đàm

phán hơ ̣p lý về những quy định trong về quy tắc xuất xứ hàng hoá, hiệu quả

nhằm bảo vệ tố i đa các quyền và lơ ̣i ích của cộng đồng doanh nghiệp nói

riêng, của nền kinh tế cũng như xã hội nói chung. Các hiệp hội ngành hàng và

doanh nghiệp đươ ̣c tham gia vào quá trı̀nh đàm phán Hiệp định FTA. Mọi thông tin về tiến trı̀nh đàm phán, nội dung dư ̣ kiến của Hiệp định, quy tắc xuất xứ hàng hoá, những tác động tiềm tàng của Hiệp định, quy tắc xuất xứ hàng

hoá đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều đươ ̣c các cơ quan chức

năng thông báo cho các hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp thông qua việc

đăng tải trên các website, các cuộc hội thảo. Qua đó, doanh nghiệp và hiệp hội

chủ động hơn trong việc tiếp cận thông tin và góp ý thường xuyên cho ban

đàm phán để đạt đươ ̣c những thỏa thuận có lơ ̣i, phù hơ ̣p nhất đố i vớ i từ ng ngành hàng cụ thể. Việc đươ ̣c tham gia ngay từ đầu quá trı̀nh đàm phán giúp cho doanh nghiệp chủ động hơn trong việc tiếp cận thông tin và có kế hoạch,

chiến lươ ̣c lâu dài trong hoạt động sản xuất, kinh doanh xuất khẩu đáp ứng

được những quy định của quy tắc xuất xứ hàng hoá. Những thông tin về quá

trı̀nh đàm phán, ký kết, nội dung Hiệp định FTA, cam kết giảm thuế của các đố i tác, yêu cầu về chứng nhận xuất xứ, SPS, TBT, các phụ lục của Hiệp định,

các lơ ̣i ích mà Hiệp định mang lại… đều đươ ̣c đăng tải rất chi tiết trên website

nhằm giúp cho các doanh nghiệp Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia

hiểu và có thể tận dụng tố t nhất những ưu đãi trong Hiệp định để đẩy mạnh

75

xuất khẩu hàng hóa sang đối tác FTA.

Về ban hành và thực thi các chính sách hỗ trợ đẩy mạnh hoạt động xuất

khẩu. Các nướ c xây dư ̣ng một hệ thố ng các cơ quan quản lý chất lươ ̣ng sản phẩm và cấp giấy chứng nhận đạt chuẩn từ trung ương tớ i địa phương, xây dư ̣ng hệ thố ng tiêu chuẩn cho hàng hóa, hài hòa vớ i tiêu chuẩn quố c tế. Singapore là nướ c công nghiệp mớ i thế hệ thứ nhất, nên đã thúc đẩy phát triển mạnh mẽ nền công nghiệp trong nước và các sản phẩm xuất khẩu của nướ c này đã đáp ứng được những tiêu chí về xuất xứ hàng hoá để tận dụng hiệu quả ưu đãi từ các FTA nói riêng, từ các FTA của ASEAN + nói chung. Thái Lan và Malaysia là hai nướ c công nghiệp mớ i thế hệ thứ hai, là hai trong số các quố c gia ASEAN chú trọng phát triển công nghiệp phụ trơ ̣. Chính phủ hai

nướ c đã thư ̣c hiện nhiều chương trı̀nh, chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trơ ̣. Kết quả, ngành công nghiệp phụ trơ ̣ ở Thái Lan và Malaysia phát triển mạnh tạo thuận lơ ̣i cho các doanh nghiệp trong việc tận

dụng ưu đãi từ Hiệp định. Đây là một lơ ̣i thế của hai nướ c so vớ i các nướ c ASEAN khác trong việc tận dụng ưu đãi từ FTA với ASEAN nói riêng, các FTA nói chung. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng rất chú trọng từ khâu chuẩn bị nguyên liệu cho tớ i sản xuất hàng xuất khẩu để có thể đáp ứng quy tắc xuất xứ trong các FTA nhằm tận dụng tố t nhất các ưu đãi đẩy mạnh xuất

khẩu hàng hóa sang các thị trường ký FTA. Indonesia là một trong số các

quố c gia ASEAN rất thành công trong thư ̣c hiện chính sách tư ̣ do hóa thương

mại và đẩy mạnh xuất khẩu. Indonesia chú trọng phát triển công nghiệp chế

biến, chế tạo và công nghiệp phụ trơ ̣. Vı̀ thế, sản phẩm xuất khẩu của nướ c này đáp ứng đươ ̣c quy tắc xuất xứ trong các FTA.

Về phía các doanh nghiệp: Doanh nghiệp Thái Lan, Malaysia, Singapore

và Indonesia rất chủ động cập nhật thông tin về quá trı̀nh đàm phán FTA, sớ m hoàn thiện các quy định về xuất xứ hàng hóa để đươ ̣c hưở ng ưu đãi. Xây dư ̣ng kế hoạch tham gia chuỗi cung ứng khu vư ̣c và toàn cầu. Đồng thời nắm

76

vững các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thư ̣c phẩm và thói quen tiêu

dùng của thị trường đối tác FTA để đảm bảo khi kết thúc đàm phán Hiệp định, doanh nghiệp có thể tận dụng tố i đa các cơ hội xuất khẩu sang thị

trường này. Khi FTA đươ ̣c ký kết và có giá trị hiệu lư ̣c, doanh nghiệp cập

nhật các thông tin về Hiệp định, những ưu đãi, quy tắc xuất xứ, lộ trı̀nh giảm thuế.... chuẩn bị và tiến hành sản xuất và xuất khẩu hàng hóa để thu đươ ̣c lơ ̣i ích từ Hiệp định. Doanh nghiệp của bố n nướ c Thái Lan, Malaysia, Singapore và Indonesia có kinh nghiệm trong việc tận dụng ưu đãi từ các hiệp định thương mại tư ̣ do nói chung, AFTA nói riêng. Doanh nghiệp tı̀m hiểu rất kỹ nội dung Hiệp định, lộ trình giảm thuế, và những cam kết mớ i. Doanh nghiệp tra cứu phụ lục thuế để xem mặt hàng xuất khẩu của mı̀nh đươ ̣c giảm thuế như thế nào theo Hiệp định. Dư ̣a vào mức thuế ưu đãi và xuất xứ nguyên liệu

để làm giấy chứng nhận xuất xứ cho hàng xuất khẩu. Đố i vớ i một số mặt hàng xuất khẩu mà nguyên phụ liệu trong nướ c chưa đáp ứng quy tắc xuất xứ, có thể nhập từ các nướ c tham gia Hiệp định nếu nguyên phụ liệu đáp ứng đươ ̣c yêu cầu đầu vào của sản phẩm xuất khẩu và giá cả hơ ̣p lý. Trong một vài trường hơ ̣p, nguyên phụ liệu không đáp ứng đươ ̣c yêu cầu, hoặc nguyên phụ

liệu có chất lươ ̣ng tố t nhưng giá quá cao, doanh nghiệp Malaysia tư ̣ chủ động

nguồn nguyên phụ liệu thông qua việc đầu tư dây chuyền sản xuất. Nhiều nhà sản xuất, nhà xuất khẩu của Thái Lan, Malaysia, Singapore và Indonesia thông thạo các tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa, công đoạn gia công chế

biến cụ thể và yêu cầu về chứng nhận xuất xứ hàng hóa. Ngoài việc tận dụng

triệt để các mức ưu đãi thuế quan trong Hiệp định FTA, các doanh nghiệp của

bốn nướ c ASEAN đã tı̀m hiểu kỹ nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, thói quen và thông lệ kinh doanh tại thị trường các nước đối tác FTA. Các doanh

nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Thái Lan kết hơ ̣p chặt chẽ vớ i các doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu trong nướ c có chất lươ ̣ng để đảm bảo nguồn cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào ổn định cho sản xuất hàng xuất khẩu.

77

Đồng thời, các doanh nghiệp xem xét việc liên kết vớ i các doanh nghiệp nướ c ngoài để cung ứng những nguyên phụ liệu trong nướ c chưa sản xuất đươ ̣c, hoặc sản xuất nhưng chất lươ ̣ng chưa tố t. Đa phần các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, thủy sản chế biến đều thiết lập mố i quan hệ mật thiết vớ i bà con nông dân, người nuôi trồng thủy sản. Mố i quan hệ bền chặt, đảm bảo lơ ̣i ích của cả hai bên nên đầu vào nguyên liệu của doanh nghiệp luôn đươ ̣c ổn định và đảm bảo về đầu ra là thành phẩm xuất khẩu. Doanh nghiệp Singapore rất chú trọng nâng cao chất lươ ̣ng, sức cạnh tranh của sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn về SPS, TBT của các thị trường xuất khẩu thông qua việc đầu tư,

đổi mớ i công nghệ và áp dụng các hệ thố ng quản lý chất lươ ̣ng theo tiêu chuẩn quố c tế (ISO 9000, HACCP, ISO 14000). Đồng thời, các doanh nghiệp

tích cư ̣c trao đổi thông tin vớ i nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp cùng hiệp hội ngành hàng. Họ hỗ trơ ̣ nhau, truyền đạt kinh nghiệm để tận dụng hiệu quả những ưu đãi từ FTA nhằm đẩy mạnh xuất khẩu.

Về hệ thống chứng nhận xuất xứ : các quốc gia đều đẩy mạnh ứng dụng

công nghệ thông tin, cải cách đơn giản hoá thủ tục và tạo điều kiện tối đa cho

các doanh nghiệp tham gia vào chứng nhận xuất xứ hàng hoá.

Hệ thống cấp chứng nhận xuất xứ cho hàng hoá xuất khẩu ở Thái Lan

được thực hiện dưới cả hai hình thức là thủ công và điện tử.

Nhận hồ sơ và xử lý trong vòng 1h

+ Với hình thức cấp thủ công:

Hoàn thành thông tin trên mẫu

Nộp đơn cùng tài liệu liên quan

Mua mẫu đơn tại cục Mua ngoại thương

Đăng ký thông tin online

Nhận hồ sơ và xử lý trong vòng 30 phút

+ Với hình thức cấp điện tử:

78

Trong đó, yêu cầu nhà xuất khẩu phải gửi các thông tin liên quan về xuất

xứ hàng hoá (thuộc các chương từ 25-97 trong danh mục HS) về cục ngoại

thương để thực hiện kiểm tra trước về xuất xứ hàng hoá.

Bên cạnh áp dụng hệ thống chứng nhận xuất xứ truyền thống, Thái Lan

hiện đang thực hiện áp dụng hệ thống tự chứng nhận xuất xứ phù hợp với thủ

tục cấp giấy chứng nhận xuất xứ (OCP) của dự án thí điểm tự chứng nhận

xuất xứ ASEAN. Theo đó, về nguyên tắc Thái Lan không hạn chế số lượng

các nhà sản xuất/xuất khẩu được tham gia hệ thống và không giới hạn về các

loại hàng hóa được phép tự chứng nhận xuất xứ, miễn là các doanh nghiệp

tham gia phải đáp ứng các tiêu chí quy định. Để quản lý hệ thống tự chứng

nhận xuất xứ, Thái Lan đã xây dựng hệ thống quản lý tự chứng nhận xuất xứ

điện tử. Hệ thống này cho phép doanh nghiệp tự đăng ký và gửi kèm các tài

liệu nêu trên để xin cấp chứng nhận doanh nghiệp được phê duyệt. Nhà xuất

khẩu được phê duyệt phải báo cáo về từng lô hàng thông qua hệ thống quản lý

tự chứng nhận xuất xứ điện tử, bất kể lô hàng có khai báo xuất xứ trên C/O

mẫu D hay trên hóa đơn. Ngoài các dữ liệu cần thiết về lô hàng, nhà xuất

khẩu phải đính kèm bản scan hóa đơn gốc, chứng từ vận tải, tức là vận đơn

đường biển, đường hàng không, v.v. theo yêu cầu của cơ quan hải quan nước

nhập khẩu. Thời gian phê duyệt là trong vòng một ngày. Hệ thống này được

kết nối với cơ quan hải quan và các cơ sở dữ liệu quản lý rủi ro để đảm bảo

tính xác thực của mỗi lô hàng được khai báo bởi nhà xuất khẩu thông qua

Internet. Bên cạnh đó, nhà xuất khẩu phải cho phép cơ quan có thẩm quyền

truy cập đầy đủ hồ sơ cho mục đích giám sát và xác minh tính đúng đắn của

việc tự chứng nhận xuất xứ. Hải quan Thái Lan sẽ dựa vào hệ thống cơ sở dữ

liệu quản lý rủi ro để quản lý các hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu.

Đối với việc quản lý và kiểm tra xuất xứ: cơ quan hải quan Thái lan được

thực hiện gắn liền với hệ thống thông quan điện tử. Hải quan Thái Lan đã

79

thực hiện trao đổi dữ liệu Điện tử (EDI) để kiểm soát tất cả các giao dịch

thương mại của doanh nghiệp thông qua áp dụng hệ thống thông quan bằng

máy tính cho hàng xuất khẩu từ năm 1998. Hệ thống này được mở rộng đối

với hàng nhập khẩu và được triển khai đầy đủ tại các cảng biển, cảng hàng

không trên toàn quốc từ năm 2000. Hải quan điện tử sử dụng các dịch vụ của

Internet và tuân thủ các chuẩn mực và hướng dẫn của Công ước Kyoto sửa

đổi. Các thủ tục và quy trình xử lý chính của Hải quan được tái thiết kế như

một phần của hệ thống Hải quan điện tử, bao gồm các lĩnh vực ứng dụng

chính như kiểm soát hàng hoá, xử lý tờ khai hàng hoá và tính thuế. Hơn nữa,

hệ thống tự động hoá mới cũng được tích hợp với các hệ thống của các cơ

quan chính phủ và các khách hàng, trong đó có cả doanh nghiệp, ngân hàng,

các nhà kinh doanh kho ngoại quan và các nhà quản lý khu thương mại tự do.

Hệ thống này có thể xử lý nhiều loại dịch vụ hải quan với độ đảm bảo an toàn,

an ninh cao và thời gian phản hồi thông tin nhanh chóng. Ngoài việc tích hợp

ở cấp độ quốc gia, hệ thống cũng được tích hợp với Hệ thống Một Cửa của

ASEAN theo Kế hoạch Chiến lược ASEAN về Phát triển Hải quan (SPCD).

Với hệ thống nhập khẩu điện tử, các bên có liên quan không cần phải nộp các

chứng từ dưới dạng giấy vì tất cả dữ liệu đều được truyền bằng phương tiện

điện tử từ hệ thống máy tính của nhà nhập khẩu đến hệ thống máy tính của

Hải quan thông qua mạng VAN hoặc Internet. Các chứng nhận xuất xứ hàng

hoá cũng được khai báo và truyền bằng dữ liệu điện tử đến cơ quan hải quan

Thái Lan.

2.5.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản.

Xuất xứ hàng hoá là một trong những nội dung rất được Nhật Bản quan

tâm khi thực thi các FTA với các nước đối tác. Số lượng các FTA và đi kèm

với đó là các quy tắc xuất xứ hàng hoá phải thực thi của Nhật Bản là rất

nhiều. Tính đến hết năm 2016, Nhật Bản đã tham gia 24 FTA (gồm có 18

80

FTA song phương và 6 FTA đa phương, trong đó có 15 FTA là đã ký kết và

đang có hiệu lực thực hiện)8.

Về hỗ trợ cho các doanh nghiệp: khi có những nội dung liên quan đến

xuất xứ hàng hoá trong các FTA mà Nhật Bản tham gia, các cơ quan có liên

quan của Nhật Bản có trách nhiệm cung cấp các thông tin có liên quan đầy đủ

trên các Website, hỗ trợ giải đáp qua điện thoại, email cho các doanh nghiệp

về cách thức nhận được C/O, các kỹ thuật xác nhận tình trạng xuất xứ, giải

thích quy định xuất xứ cụ thể, hỗ trợ xử lý các sự cố có liên quan. Tổ chức các

hội thảo riêng đối với các ngành cụ thể theo yêu cầu riêng của các ngành này.

Đồng thời tiến hành tổ chức các hội thảo về xuất xứ chung cho các doanh

nghiệp thuộc tất cả các ngành khoảng một năm hai lần cho nhân viên có liên

quan xuất xứ của các công ty với nội dung các quy định cơ bản về EPA/FTA,

xuất xứ, chứng nhận xuất xứ sản phẩm, các điểm quan trọng trong kiểm tra

tình trạng xuất xứ. v.v.

Về nâng cao mức độ tuân thủ pháp luật về xuất xứ hàng hoá. Đối với các

nhà xuất khẩu, đặc biệt là các nhà xuất khẩu đã được chấp thuận tự chứng

nhận xuất xứ, Bộ kinh tế thương mại và công nghiệp Nhật Bản (METI) yêu

cầu việc lưu giữ đầy đủ các chứng từ có liên quan của nhà xuất khẩu như

ngày tháng phát hành chứng nhận, mã HS, tên, số lượng hàng hoá, số hoá

đơn, tên và địa chỉ nhà nhập khẩu. Nhà xuất khẩu có trách nhiệm thông tin kịp

thời việc không tuân thủ, các sự thay đổi tới METI như tình trạng thiếu xuất

xứ, các lỗi chính về thủ tục xuất xứ, sự thay đổi tên công ty hay địa chỉ hoặc

hàng hoá của nhà xuất khẩu. METI có thể yêu cầu các nhà xuất khẩu báo cáo,

sửa chữa các lỗi hoặc tiến thành thanh kiểm tra tư cách của nhà xuất khẩu

được cấp phép và áp dụng các biện pháp trừng phạt, thu hồi giấy phép đối với

các trường hợp nhà xuất khẩu vi phạm. Để nâng cao việc tuân thủ, METI 8 Dữ liệu tại https://aric.adb.org/fta-country

81

cũng phát hành hướng dẫn cho việc kiểm tra tại doanh nghiệp đó là hướng

dẫn về kiểm tra các tiêu chí xuất xứ CTC hay VA, các chứng từ tài liệu cần

thiết chứng minh, các điểm căn bản và quan trọng về xuất xứ hàng hoá. Phát

hành các hướng dẫn kỹ thuật áp dụng chung với các hàng hoá hay áp dụng

riêng đối với hàng dệt may, hoá chất khi xem xét các mối liên hệ hợp tác giữa

các ngành công nghiệp.

Đối với hoạt động kiểm tra xuất xứ hàng hoá. Hải quan Nhật Bản đã

thành lập trung tâm quản lý và điều tra về xuất xứ hàng hoá (OAI) từ

1/7/2005 có chức năng kiểm tra và điều tra về xuất xứ phục vụ việc xác định

trước xuất xứ hàng hoá điều phối việc xác định trước hàng hoá hải quan 9

vùng và giữa Tổng cục hải quan với hải quan vùng. Mục tiêu là đơn giản hoá

hệ thống kiểm tra xuất xứ, xử lý các vuớng mắc của địa phương, tiến hành

điều tra về C/O, hỗ trợ hải quan vùng trong việc kiểm tra xác nhận trước xuất

xứ, thu thập cung cấp thông tin về xuất xứ hàng hoá. Hệ thống OAI chịu trách

nhiệm về xác nhận trước xuất xứ hàng hoá gồm: tại Tổng cục Hải quan Nhật

Bản (có 03 cán bộ thuộc Cục pháp luật và chính sách thuế), tại Trung tâm

OAI (có 07 cán bộ) và tại Hải quan vùng (có 63 kiểm tra viên OAI về xuất xứ

tại 9 vùng, trong đó, mỗi vùng có một kiểm tra viên chính chịu trách nhiệm

tham vấn các vướng mắc với trung tâm OAI).

2.5.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc.

Hàn Quốc cũng là một quốc gia rất tích cực trong việc tham gia các FTA.

Theo số liệu thống kê thì hiện nay Hàn quốc đang tham gia 25 FTA (17 FTA

song phương và 8 FTA đa phương: trong đó có 16 FTA đang có hiệu lực thực

hiện). Để tận dụng hiệu quả hơn nữa cơ hội từ việc dỡ bỏ các hàng rào thuế

quan và khả năng tiếp cận thị trường thông qua đáp ứng các quy tắc về xuất xứ

hàng hoá của các FTA, Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện các biện pháp:

Hỗ trợ thông tin cho các doanh nghiệp. Điều này được thực hiện qua

82

việc phối hợp cùng các hiệp hội ngành nghề tổ chức rất nhiều hội thảo để phổ

biến thông tin về các FTA và quy tắc xuất xứ cho các doanh nghiệp nhỏ và

vừa, phát hành nhiều bản thuyết trình cụ thể về nội dung FTA, giải thích rõ

ràng từng câu có ý nghĩa cụ thể là như thế nào. Vì thế, doanh nghiệp có thể

tiếp cận thông tin rất dễ dàng qua trang web của các hiệp hội cũng như Chính

phủ Hàn Quốc, biết rõ thông tin cụ thể về lộ trình, nội dung liên quan đến

từng sản phẩm và các thủ tục, quy định về quy tắc xuất xứ.

Hàn Quốc đẩy mạnh việc đơn giản hoá các thủ tục để cấp chứng nhận

xuất xứ. Hiện nay, chứng nhận xuất xứ hàng hoá của Hàn Quốc chủ yếu được

thực hiện dưới hình thức điện tử.

Đối với công tác kiểm tra xuất xứ hàng hoá, Hải quan Hàn Quốc yêu cầu

các doanh nghiệp xuất khẩu cần tuân thủ nghiêm ngặt nghĩa vụ lưu trữ hồ sơ,

chứng từ; kiểm tra trước việc phân loại hàng hoá theo tài liệu mà cơ quan hải

quan cung cấp, xác minh trước xuất xứ, chủ động tận dụng các kênh tư vấn tại

Trung tâm hỗ trợ xuất nhập khẩu hải quan và chấp hành nghiêm túc mỗi đợt

kiểm tra xuất xứ của cơ quan hải quan. Khi cần thiết, cơ quan hải quan Hàn

Quốc có thể tiến hành giám định xuất xứ hàng hoá nhằm phòng chống áp

dụng sai ưu đãi, ngăn chặn những thương mại không công bằng, thu thuế bị

thất thoát và quản lý thực thi FTA, thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu

tư.v.v. Sau khi có kết quả kiểm tra, nếu doanh nghiệp sai phạm, các đơn vị

chức năng sẽ xử phạt hành chính bằng cách phạt tiền, bãi bỏ việc áp dụng

thuế suất ưu đãi theo các điều luật trong nước và theo nội dung quy định trong

hiệp định hay hạn chế quyền áp dụng thuế suất ưu đãi

Các doanh nghiệp Hàn Quốc cũng có sự nhận thức cao trong vấn đề áp

dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá, vì vậy đã có sự tập trung đào tạo nhân viên

chuyên quản lý về xuất xứ, xây dựng hệ thống quản lý xuất xứ một cách tổng

thể, bởi đây là vấn đề phức tạp, có nhiều điểm khác biệt giữa các hiệp định và

83

các nhóm hàng hoá để có thể vận dụng FTA thông suốt.

2.5.4.Bài học kinh nghiệm rút ra cho việc thực hiện quy tắc xuất xứ

trong áp dụng thuế quan ưu đãi ở Việt Nam.

Qua nghiên cứu kinh nghiệm triển khai thực hiện quy tắc xuất xứ hàng

hoá trong áp dụng thuế quan ưu đãi của các nước trên, có thể thấy rằng mỗi

nước đều đã thành công ở những khía cạnh nhất định và có những phương

pháp, kinh nghiệm triển khai áp dụng giống và khác nhau. Từ đó, ta có thể rút

ra một số gợi ý cho công tác triển khai áp dụng dụng quy tắc xuất xứ hàng

hoá đến thuế quan ưu đãi ở Việt Nam như sau:

Một là, chính phủ cần phân công công việc cụ thể và giám sát việc thực

thi Hiệp định FTA và quy tắc xuất xứ hàng hoá của các Bộ, ngành chức

năng. Xây dư ̣ng kế hoạch tổng thể và chi tiết triển khai các việc cần làm để

tận dụng những ưu đãi. Triển khai nhanh và hiệu quả các việc cần làm tiếp

theo liên quan đến việc thư ̣c thi như ban hành các văn bản hướ ng dẫn thư ̣c thi,

đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về cho doanh nghiệp về các ưu

đãi, quy định xuất xứ đến cộng đồng doanh nghiệp để họ nắm đươ ̣c nội dung.

Tổ chức các hội thảo phổ biến, các khoá đào tạo cho doanh nghiệp. Đưa thông

tin rộng rãi và cụ thể hơn về lên website của các cơ quan chính phủ. Thiết lập

cơ chế trao đổi giúp doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn và nâng cao hiệu quả

triển khai. Khi có những vấn đề mớ i phát sinh hoặc các đố i tác điều chỉnh quy

định nhập khẩu.v.v. tổ chức hội thảo thông tin tớ i các hiệp hội ngành hàng và

cộng đồng doanh nghiệp, hướ ng dẫn và hỗ trơ ̣ doanh nghiệp tận dụng tố t hơn

những ưu đãi. Xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật mạnh quy định

về xuất xứ và các biện pháp, hình thức xử phạt nghiêm khắc với các hành vi

gian lận về xuất xứ. Một số quốc gia trên khi áp dụng đã đưa ra mức phạt rất

cao hoặc thậm chí bị truy tố theo luật hình sự, thu hồi giấy phép được cấp.

Hai là, phải xây dựng được quy trình, trình tự các bước đăng ký, lựa

84

chọn và cấp phép cho các doanh nghiệp chứng nhận xuất xứ. Cùng với đó,

xây dựng được một hệ thống các tiêu chí đơn giản và rõ ràng để có thể đánh

giá được các nhà xuất khẩu đủ tư cách phê chuẩn tham gia áp dụng cơ chế tự

chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Đó là các tiêu chí về hồ sơ thương nhân đáng

tin cậy như: đăng ký kinh doanh, loại hình công ty, báo cáo kiểm toán, không

nằm trong danh sách đen vi phạm pháp luật, nhân thân của những người chịu

trách nhiệm, trình độ của những người chịu trách nhiệm được đào tạo có kiến

thức và kinh nghiệm về xuất xứ hàng hoá. Các tiêu chí về quy trình quá trình

chế biến sản xuất hàng hoá, nhà cung cấp, giá trị gia tăng được tạo ra trong

nước, các quy trình công đoạn sản xuất chế biến đã được thực hiện trong

nước, số lượng hàng xuất khẩu, nước xuất khẩu,. v.v .Giấy phép được cấp cho

các doanh nghiệp tự chứng nhận xuất xứ được hạn chế về thời hạn thường từ

2- 5 năm và phải được thẩm tra, kiểm tra lại hồ sơ doanh nghiệp khi cấp lại.

Ba là, phải xây dựng nguồn nhân lực và hệ thống kiểm tra, giám sát

phục vụ tốt cho công tác quản lý và kiểm tra xuất xứ. Như kinh nghiệm của

Thái Lan là áp dụng hệ thống quản lý điện tử để có thể quản lý chi tiết cụ thể

về từng lô hàng được khai báo chứng nhận xuất xứ cùng với các dữ liệu cần

thiết có liên quan đến lô hàng, nhà xuất khẩu. Hệ thống được kết nối trực tiếp

giữa cơ quan hải quan, cơ sở dữ liệu quản lý rủi ro và Bộ thương mại Thái

Lan để có thể thẩm định tính xác thực trong khai báo của nhà xuất khẩu một

cách nhanh chóng. Bên cạnh đó, các nước đều có yêu cầu chặt chẽ về việc

tuân thủ cung cấp thông tin thường xuyên từ nhà xuất khẩu với cơ quan quản

lý khi có bất cứ sự thay đổi nào, các yêu cầu về việc lưu giữ đầy đủ các chứng

từ có liên quan của nhà xuất khẩu như ngày, tháng phát hành chứng nhận, mã

HS, tên, số lượng hàng hoá, số hoá đơn, tên và địa chỉ nhà nhập khẩu cũng

như thẩm quyền truy cập hồ sơ, quyền thanh tra, kiểm tra từ các cơ quan có

thẩm quyền đối với nhà xuất khẩu được cấp phép.

85

Bốn là, các doanh nghiệp cần nâng cao tính tuân thủ pháp luật về xuất

xứ qua việc nâng cao trình độ kiến thức về xuất xứ cho đội ngũ cán bộ làm

công tác tại doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần chủ động trong việc tı̀m kiếm thông tin, cũng như các văn bản hướ ng dẫn của các Bộ, ngành chức năng liên

quan đến việc thư ̣c thi quy định về xuất xứ hàng hoá trao đổi thông tin vớ i

doanh nghiệp cùng ngành thông qua việc tham gia các Hiệp hội ngành hàng,

các cuộc hội thảo, các hội chơ ̣ triển lãm. Việc trao đổi thông tin giữa nhóm

doanh nghiệp có cùng mục tiêu thị trường sẽ đem lại cho doanh nghiệp những

bài học và kinh nghiệm quý báu. Doanh nghiệp cần chủ động nguồn nguyên

vật liệu trong sản xuất hàng xuất khẩu qua việc kết hơ ̣p chặt chẽ vớ i các

doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu trong nướ c có chất lươ ̣ng để đảm bảo

nguồn cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào ổn định cho sản xuất hàng xuất

khẩu. Đồng thời, các doanh nghiệp xem xét việc liên kết vớ i các doanh nghiệp

nướ c ngoài (các nướ c tham gia Hiệp định) để cung ứng những nguyên phụ

liệu mà trong nướ c chưa sản xuất đươ ̣c, hoặc sản xuất nhưng chất lươ ̣ng chưa

tố t để có thể đáp ứng được tốt nhất những quy định về xuất xứ hàng hoá.

Năm là, thực hiện các chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ

của đất nướ c. Thái Lan và Malaysia đã rất chú trọng phát triển công nghiệp

hỗ trơ ̣. Công nghiệp hỗ trơ ̣ đóng vai trò then chố t trong việc đẩy mạnh phát

triển các ngành công nghiệp chính ở ba nướ c này. Khi công nghiệp hỗ trơ ̣

phát triển tạo cơ sở vững chắc phát triển nền công nghiệp của đất nướ c. Từ đó

hàng xuất khẩu đáp ứng tố t quy tắc xuất xứ trong các FTA nói chung, AFTA

nói riêng để đẩy mạnh xuất khẩu.

86

Kết luận chương 2

Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về quy tắc xuất xứ hàng hoá

và thuế quan ưu đãi, một số nội dung được đưa ra và phân tích làm rõ trong

chương 2 như sau:

1. Quy tắc xuất xứ hàng hoá được thể hiện dưới các quy định luật pháp

quốc gia hoặc điều ước, hiệp định quốc tế nhằm xác định xuất xứ của hàng

hoá. Với quy tắc xuất xứ ưu đãi, là những quy định để xác định hàng hoá có

đủ tiêu chuẩn hưởng chế độ ưu đãi thuế quan trong thương mại hay không.

Quy tắc xuất xứ ưu đãi thường gắn liền với các FTA và các ưu đãi thuế quan.

Trong chương, phân tích và làm rõ về mặt lý luận các nội dung cơ bản của

quy tắc xuất xứ hàng hoá, chứng nhận xuất xứ hàng hoá, vai trò của quy tắc

xuất xứ hàng hoá cũng như những ưu đãi thuế quan cơ bản và những nhân tố

ảnh hưởng đến việc áp dụng quy tắc xuất xứ để hưởng thuế quan ưu đãi trong

trao đổi thương mại giữa các nước.

2. Tổng hợp và phân tích về mặt lý luận và về các kết quả thực nghiệm

của các học giả trên thế giới khi sử dụng mô hình trọng lực để phân tích tác

động giữa xuất xứ hàng hoá và thuế quan ưu đãi đến hoạt động xuất nhập khẩu.

3. Tổng hợp những kinh nghiệm của một số nước và rút ra bài học cho

Việt Nam trong việc áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hoá để áp dụng

thuế quan ưu đãi đối với hoạt động trao đổi thương mại.

87

Chương 3

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ

VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA VIỆT NAM

TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN

3.1.KHÁI QUÁT VỀ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN VÀ THUẾ

QUAN ƯU ĐÃI TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN.

3.1.1.Khái quát về cộng đồng kinh tế ASEAN và chiến lược phát triển của

cộng đồng kinh tế ASEAN.

Trong những năm gần đây, các thoả thuận thương mại khu vực có xu

hướng gia tăng nhanh chóng và trở thành một xu hướng kinh tế thế giới mới.

Hội nhập kinh tế khu vực được xem là kết quả của sự gắn kết các nền kinh tế

của từng quốc gia với kinh tế khu vực và thế giới bằng cách xoá bỏ các rào

cản thương mại và thúc đẩy sự tự do di chuyển của hàng hoá, dịch vụ, lao

động và vốn. Điều này được biểu hiện qua việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan và

phi thuế quan giữa các quốc gia thành viên, xác lập chính sách ngoại thương

chung bao gồm sự đồng thuận về hạn chế thương mại đối với các nước không

phải thành viên, thúc đẩy sự chuyển dịch tự do của hàng hoá, dịch vụ cũng

như các yếu tố sản xuất xuyên biên giới, thống nhất chính sách tiền tệ, thiết

lập đồng tiền chung. Từ đó gia tăng về khả năng thâm nhập thị trường và mức

độ trao đổi thương mại giữa các quốc gia khu vực. Người tiêu dùng của các

quốc gia này cũng có sự lựa chọn đa dạng với nhiều nhóm sản phẩm ở mức

giá và chi phí thấp hơn. Không chỉ đem lại những lợi ích về kinh tế, hội nhập

kinh tế khu vực còn giúp các quốc gia trong khu vực có nhiều tiếng nói và lợi

thế thương lượng hơn trên bàn đàm phán. Bên cạnh những lợi ích như trên,

việc tạo lập thương mại hội nhập kinh tế khu vực có thể dẫn đến sự chệch

hướng thương mại. Điều này xảy ra khi thương mại từ một mà cung cấp có

88

hiệu quả nằm ngoài FTA được chuyển hướng đến nhà cung ứng kém hiệu quả

hơn nhưng nằm trong FTA. Trong một số trường hợp, chuyển hướng thương

mại còn làm giảm phúc lợi quốc gia. Mức độ hội nhập kinh tế khu vực được

xác lập theo các cấp độ là: Thoả thuận ưu đãi thương mại (PTA), khu vực

mậu dịch tự do (FTA), liên minh hải quan (CU), Thị trường chung (CM) và

liên minh kinh tế-tiền tệ (EU).

Mô hình cộng đồng kinh tế hiện nay chưa có một định nghĩa chuẩn xác

mà thường được xác định gắn với những đặc điểm cụ thể của một cộng đồng

kinh tế cụ thể. Tuy nhiên, xem xét những đặc điểm chung nhất về cộng đồng

kinh tế cho thấy đây cũng được xem như là một trong các cấp độ của liên kết

kinh tế quốc tế ở cấp độ cao hơn khu vực mậu dịch tự do, đó là có thêm nội

dung di chuyển tự do các yếu tố sản xuất. Mặc dù các yếu tố sản xuất ở đây

cũng không được tự do di chuyển một cách hoàn toàn mà chỉ ở mức độ yếu là

tự do di chuyển hàng hóa và dịch vụ, tự do di chuyển vốn hơn và lao động có

tay nghề. Mặt khác, cộng đồng kinh tế cũng lại chưa đạt tới cấp độ của một

thị trường chung khi không có hai nội dung là thuế quan chung với các nước

bên ngoài cộng đồng và phối hợp các chính sách kinh tế. Như vậy, có thể thấy

rằng, Cộng đồng kinh tế là khái niệm mở, nó có thể đáp ứng hoặc thậm chí

vượt các tiêu chí của một thị trường chung song nó cũng có thể chưa đạt tới

hoặc đạt tới chưa hoàn toàn với sự loại trừ một số tiêu chí của thị trường

chung. Vấn đề này phụ thuộc vào sự lựa chọn mô hình của các thể chế kinh tế

khu vực.

ASEAN được xem là một khu vực kinh tế năng động và tích cực tham

gia vào xu thế liên kết kinh tế khu vực và vì vậy vào tháng 12/2015 các nước

thành viên ASEAN đã thành lập nên Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) với

dân số hơn 600 triệu người, chiếm khoảng 8,8% dân số thế giới; tổng thu

nhập quốc nội (GDP) năm 2014 đạt khoảng 2.519 tỷ USD, năm 2015 đạt

89

khoảng 2.432 tỷ USD và tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm khoảng trên

1.000 tỷ USD. ASEAN được xem là nền kinh tế lớn thứ 10 của thế giới9. Tuy

nhiên, có thể thấy rằng AEC thực chất chưa thế được coi như là một cộng

đồng kinh tế gắn kết như Cộng đồng châu Âu (EC) bởi AEC không có cơ cấu

tổ chức chặt chẽ và những điều lệ, quy định có tính chất ràng buộc cao và rõ

ràng như EC.

Để thành lập nên AEC, các nước thành viên ASEAN đã có những bước

đi chuẩn bị tích cực trong một thời gian dài. Ngay từ năm 1992, ASEAN đã

quyết định thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) với mục tiêu

xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước thành viên

ASEAN để thúc đẩy hợp tác và hội nhập kinh tế trong khu vực. Khi đó,

AFTA chủ yếu tập trung vào tự do hóa trong lĩnh vực thương mại hàng hóa để

hình thành một thị trường và cơ sở sản xuất thống nhất của khu vực. Trong đó

tập trung vào việc thực hiện hoàn thành cắt giảm thuế quan với các nước

ASEAN-610 vào năm 2015 và CLVM11 vào 2018. Đồng thời với đó nhận thức

được tầm quan trọng của liên kết kinh tế giữa các nền kinh tế khu vực nhằm

đối phó với những thách thức trong Thiên niên kỷ mới, tại hội nghị cấp cao

ASEAN lần thứ 8 ở Phnôm Pênh vào tháng 11 năm 2002, ASEAN xác định

trọng tâm của hợp tác kinh tế trong khối với việc xây dựng ý tưởng về Cộng

đồng Kinh tế ASEAN. Tuyên bố Bali tại hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9

(tháng 10 năm 2003) đã thông qua ý tưởng trên và khẳng định quyết tâm xây

dựng AEC vào năm 2020. Tại hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 12 (tháng 01

năm 2007 tại Phi-líp-pin), các nhà lãnh đạo đã ký tuyên bố Cebu về việc đẩy

10 ASEAN-6 gồm: Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippines, Singapore và Thái Lan

11 Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam (gọi tắt là CLMV).

nhanh việc xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 trên ba trụ cột: kinh 9 Số liệu tại ASEAN Statistical Yearbook 2015

90

tế, chính trị- an ninh và văn hóa- xã hội, trong đó trụ cột kinh tế có vai trò

trọng tâm với tiêu chí hình thành AEC. Các nhà lãnh đạo cũng đã thông qua

kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN.

Về bản chất, AEC được hiểu như một tiến trình hội nhập kinh tế khu vực

với mức độ sâu sắc hơn giữa các thành viên chứ không phải một thoả thuận

hay một hiệp định với các cam kết ràng buộc thực chất. AEC tiếp nối những

thành tựu của AFTA với sự phát triển đáng kể về phạm vi và mức độ tự do

hóa. Theo đó, hàng hóa, dịch vụ, vốn, đầu tư và lao động kỹ năng sẽ được lưu

chuyển tự do hơn giữa 10 nước thành viên. Cùng với đó, AEC tiếp tục thúc

đẩy việc thực hiện sáng kiến hội nhập 12 ngành ưu tiên trong ASEAN (gồm 7

ngành hàng hóa là nông sản, thủy sản, điện tử, đồ gỗ, cao su, ô tô, dệt may và

5 ngành dịch vụ là du lịch, y tế, vận tải hàng không, công nghệ thông tin và

hậu cần (logistics); các sáng kiến thu hẹp khoảng cách phát triển; hợp tác với

các đối tác ngoài khối và hội nhập toàn cầu.

Với bản chất nêu trên, AEC hướng tới 4 mục tiêu chính:

(i) Đưa ASEAN trở thành một cơ sở sản xuất và thị trường chung với sự

lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động kỹ năng và sự lưu

chuyển tự do hơn của dòng vốn;

(ii) Phát triển cân bằng giữa các nước thành viên, thu hẹp khoảng cách

phát triển và thúc đẩy tiến trình hội nhập của Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma và

Việt Nam thông qua Sáng kiến Hội nhập ASEAN và các sáng kiến khu vực

khác;

(iii) Nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế khu vực, và

(iv) Đưa kinh tế ASEAN hội nhập đầy đủ và sâu sắc hơn vào nền kinh tế

toàn cầu.

Như vậy, có thể thấy được bốn đặc điểm đồng thời là yếu tố cấu thành

của chiến lược phát triển AEC đó là:

91

(1). Một thị trường đơn nhất và cơ sở sản xuất chung, được xây dựng

thông qua: Tự do lưu chuyển hàng hoá; Tự do lưu chuyển dịch vụ; Tự do lưu

chuyển đầu tư; Tự do lưu chuyển vốn và Tự do lưu chuyển lao động có tay

nghề. Các biện pháp chính mà ASEAN sẽ thực hiện bao gồm: dỡ bỏ thuế

quan và các hàng rào phi thuế quan hình thành nên một thị trường mở không

còn các rào cản thuế quan đối với hàng hóa; thuận lợi hóa thương mại qua

việc triển khai hoạt động Cơ chế hải quan một cửa ASEAN (ASEAN Single

Window - ASW), hài hòa hóa các tiêu chuẩn sản phẩm (hợp chuẩn) và quy

chế, giải quyết nhanh chóng hơn các thủ tục hải quan và xuất nhập khẩu, hoàn

chỉnh các quy tắc về xuất xứ, tạo thuận lợi cho dịch vụ, đầu tư, tăng cường

phát triển thị trường vốn ASEAN và tự do lưu chuyển hơn của dòng vốn,

thuận lợi hóa di chuyển lao động có tay nghề .v.v., song song với việc củng cố

mạng lưới sản xuất khu vực thông qua đẩy mạnh kết nối về cơ sở hạ tầng, đặc

biệt là trong các lĩnh vực năng lượng, giao thông vận tải, công nghệ thông tin

và viễn thông, cũng như phát triển các kỹ năng thích hợp. Từ đó sẽ thúc đẩy

phát triển mạng lưới sản xuất trong khu vực, nâng cao năng lực của ASEAN

với vai trò là một trung tâm sản xuất toàn cầu đáp ứng yêu cầu đối với

chuỗi cung ứng toàn cầu.

(2). Một khu vực kinh tế cạnh tranh, được xây dựng thông qua các khuôn

khổ chính sách về cạnh tranh, bảo hộ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ, phát

triển cơ sở hạ tầng như hệ thống đường bộ, đường sắt, cảng biển, năng lượng,

phát triển thương mại điện tử v.v. thuế quan và thương mại điện tử.

(3). Phát triển kinh tế cân bằng, được thực hiện thông qua các kế hoạch

triển khai Khuôn khổ ASEAN về Phát triển Kinh tế Đồng đều (AFEED).

Trong đó đáng chú ý là các biện pháp hỗ trợ các nước thành viên mới,

khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa và thực hiện

sáng kiến hội nhập nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN.

92

(4). Hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu, được thực hiện thông qua việc

tham vấn chặt chẽ trong đàm phán đối tác và trong tiến trình tham gia vào

mạng lưới cung cấp toàn cầu (WTO). ASEAN nỗ lực đẩy mạnh việc xây

dựng và triển khai các thoả thuận liên kết kinh tế ở khu vực Đông Á, với 6

Hiệp định Khu vực mậu dịch tự do (FTAs) đã được ký với các Đối tác quan

trọng là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ôx-trây-lia và Niu Di-

lân, và đang trong quá trình đàm phán Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện

khu vực (RCEP) hướng đến hình thành một không gian kinh tế mở toàn

Đông Á, với GDP chiếm 1/3 tổng GDP toàn cầu và quy mô thị trường chiếm

½ dân số thế giới.

3.1.2. Thuế quan ưu đãi trong ASEAN.

Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) được thành lập ngày

8/8/1967, đánh dấu một mốc quan trọng cho phát triển khu vực với mục tiêu

tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, phát triển văn hoá; tăng cường hợp tác

giúp đỡ lẫn nhau, thúc đẩy hoà bình, ổn định trong khu vực. Khi bắt đầu thành

lập, ASEAN gồm 5 nước thành viên là Inđônêxia; Malaysia, Philippine,

Singapore và Thái Lan. Năm 1984, Brunei là thành viên thứ 6, tiếp đến là

Việt Nam năm 1995, Lào, Myanmar năm 1999 và Campuchia trở thành thành

viên thứ 10 vào năm 2000.

Với mục tiêu biến ASEAN thành một khu vực sản xuất cạnh tranh trên

thị trường thế giới, khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã chính thức

được thành lập tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ IV vào năm 1992. Một

trong những bước quan trọng nhằm thực hiện được mục tiêu trên là tạo thuận

lợi cho thương mại nội khối thông qua việc xoá bỏ các hàng rào thuế quan và

phi thuế quan giữa các quốc gia thành viên. Cơ chế chính để hình thành

AFTA là Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung

(CEPT). Nghĩa vụ chính của các nước thành viên khi tham gia Hiệp định này

93

là thực hiện việc cắt giảm và xoá bỏ thuế quan theo một lộ trình chung có tính

đến sự khác biệt về trình độ phát triển và thời hạn tham gia của các nước

thành viên. Theo cam kết trong Hiệp định, các nước thành viên phải giảm

thuế nhập khẩu xuống 0-5% trong vòng 10 năm.

Cụ thể, CEPT đề ra việc cắt giảm dần thuế nội khối đối với những sản

phẩm liệt kê trong Danh mục CEPT xuống 0-5% thông qua một lộ trình cắt

giảm có phân biệt giữa các nước ASEAN cũ (gọi là ASEAN-6, bao gồm

Brunei Darussalam, Indonesia, Malaysia, the Philippines, Singapore và Thái

Lan) và Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam (còn gọi tắt là CLMV).

ASEAN 6 phải thực hiện việc giảm thuế nội khối xuống 20% vào năm 1998

và 0-5% vào năm 2003. Việt Nam phải thực hiện việc giảm thuế nội khối

xuống 0-5% vào năm 2006; Lào và Myanmar vào năm 2008 và Campuchia

vào năm 2010.

Thông qua việc ký kết Nghị định thư sửa đổi Hiệp định về Chương trình

thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung đối với Khu vực thương mại tự do

ASEAN (AFTA) đối với việc xóa bỏ thuế nhập khẩu, các nước ASEAN-6

cam kết xóa bỏ tất cả thuế nhập khẩu vào năm 2010 và 2015 và linh hoạt đến

năm 2018 (đối với các nước CLMV).

Để thực hiện chương trình giảm thuế này, toàn bộ các mặt hàng trong

danh mục biểu thuế quan của mỗi nước được chia vào 4 danh mục sau:

Danh mục các sản phẩm giảm thuế (IL): bao gồm các mặt hàng được

đưa vào cắt giảm thuế ngay với lịch trình:

- Giảm thuế nhanh (FTP). Danh mục này gồm việc giảm thuế đánh vào

15 loại hàng hóa của khối ASEAN. Việc giảm thuế xuống 0-5% sẽ có hiệu

lực vào năm 1998 đối với các mặt hàng hiện có mức thuế dưới 20% và vào

năm 2000 với các mặt hàng có mức thuế trên 20%.

- Giảm thuế bình thường (NTP). Theo danh mục này, các nước ASEAN

94

sẽ giảm mức thuế quan đánh vào sản phẩm do các nước này làm ra xuống còn

0-5% vào năm 2000 đối với những mặt hàng có mức thuế suất từ 20% trở

xuống, và vào năm 2003 đối với mặt hàng có mức thuế hiện hành trên 20%.

Danh mục sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (TEL): Danh mục gồm

những mặt hàng tạm thời chưa phải giảm thuế vì lý do là để tạo thuận lợi cho

các nước thành viên có một thời gian ổn định trong một số lĩnh vực cụ thể

nhằm tiếp tục các chương trình đầu tư đã được đưa ra trước khi tham gia kế

hoạch CEPT cũng như là có thời gian chuyển hướng đối với một số sản phẩm

tương đối trọng yếu. Tuy nhiên, sau một thời gian là 3 năm các quốc gia

ASEAN phải chuyển dần các mặt hàng từ danh mục tạm thời chưa giảm thuế

TEL sang danh mục giảm thuế IL. Cụ thể là trong vòng 5 năm, từ 1/1/1996

đến 1/1/2000, mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong danh mục loại trừ tạm

thời sang danh muc cắt giảm thuế. Khi chuyển một mặt hàng vào danh mục

này thì các nước phải đồng thời chỉ ra lịch trình giảm thuế của mặt hàng đó

đến khi hoàn thành CEPT.

Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): Danh mục này bao gồm những

sản phẩm không có nghĩa vụ phải giảm thuế quan. Các nước thành viên có

quyền đưa ra danh mục các mặt hàng này trên cơ sở nhằm bảo vệ an ninh

quốc gia hay tinh thần, đạo đức xã hội, sức khoẻ con người, động vật, thực

vật, bảo tồn các giá trị văn hoá, lịch sử và khảo cổ. Việc cắt giảm thuế cũng

như xoá bỏ các biện pháp phi thuế quan đối với các mặt hàng này sẽ không

được xét đến theo chương trình CEPT.

Đối với các hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL): Theo hiệp định

CEPT, sản phẩm nông sản chưa qua chế biến không được đưa vào kế hoạch

thực hiện CEPT. Tuy nhiên, theo hiệp định CEPT sửa đổi, các sản phẩm nông

sản chưa chế biến này sẽ được đưa vào 3 loại danh mục khác nhau là: danh

mục giảm thuế, danh mục loại trừ tạm thời và một danh mục đặc biệt là danh

95

mục các sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm. Hàng nông sản chưa

chế biến trong danh mục cắt giảm thuế ngay được chuyển vào chương trình

cắt giảm thuế nhanh hoặc cắt giảm thuế bình thường vào 1/1/1996 và sẽ được

giảm thuế xuống còn 0-5% vào 1/1/2003. Các sản phẩm trong danh mục tạm

thời loại trừ của hàng nông sản chưa chế biến sẽ được chuyển sang danh mục

cắt giảm thuế trong vòng 5 năm, từ 1/1/1999 đến 1/1/2003 với mức độ là 20%

mỗi năm. Các sản phẩm trong danh mục nhạy cảm được xếp vào hai danh

mục tuỳ thuộc vào mức độ nhạy cảm bao gồm:

- Danh mục mặt hàng chưa chế biến nhạy cảm

- Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm cao

Nhằm tiến tới tự do hóa hoàn toàn về mặt thuế quan tiến tới thành lập

AEC vào năm 2015, ASEAN đã quyết định không chỉ dừng lại ở việc giảm

thuế xuống 0-5% mà sẽ xóa bỏ thuế quan vào năm 2010 đối với ASEAN-6

(gồm Brunei, Indonesia, Malaysia, Philipin, Singapore và Thái Lan) và năm

2015, với một số linh hoạt đến 2018 (7% tổng số dòng thuế) đối với CLMV.

Đến 2016, sáu nướ c ASEAN gồm Indonesia, Singapore, Brunei, Thái Lan,

Malaysia và Philippines đã hoàn thành việc cắt giảm và xóa bỏ hơn 98,6%

thuế quan; Viê ̣t Nam và Campuchia, Lào, Myanmar vẫn tiếp tục thực hiện cắt giảm thuế quan nhâ ̣p khẩu hàng hóa xuố ng dướ i 5% cho đến 2018. Một số ít

dòng thuế của Việt Nam còn tiếp tục được cắt giảm đến năm 2024, cũng như

của Campuchia là đến 2025 ( xem bảng 3.1).

96

Bảng 3.1. Tỷ lệ xoá bỏ thuế quan của các nước ASEAN theo ATIGA

từ 2010 đến 2025

Nước 2010 2016 2018 2024 2025

Brunei 99,3%

Campuchia 91,5% 98,5% 98,6%

Lào 89,3% 96,3%

Indonesia 98,9%

Malaysia 98,7%

Myanmar 92% 99,3%

Philippines 98,6%

Singapore 100%

Thái Lan 99,9%

Việt Nam 91% 98% 98,2%

Nguồn: Bộ công thương 2017

Có thể thấy rằng qua việc thực hiện hiệp định CEPT với các giai đoạn và

lộ trình cắt giảm thuế quan khác nhau thì mức chênh chệch giữa thuế quan ưu

đãi ASEAN và thuế quan MFN của các nước ASEAN có sự chênh lệch đáng kể

đối với các nhóm nước ASEAN-6 và nhóm nước CLMV thể hiện qua hình 3.1

97

(Nguồn: Dữ liệu của Ban thư ký ASEAN và UN Comtrade-ASEAN Integration

Report 2016)

Hình 3.1. Mức thuế bình quân CEPT và MFN của các nhóm nước

ASEAN giai đoạn từ 2007-2014

Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN từ năm 1995 và bắt đầu thực

hiện Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) nhằm thiết lập

AFTA từ năm 1996 nhưng chỉ thực sự cắt giảm thuế quan từ năm 1999 khi

nhóm các mặt hàng đầu tiên từ Danh mục loại trừ tạm thời (TEL) được

chuyển vào cắt giảm thuế quan theo CEPT. Theo quy định của Hiệp định

CEPT, các mặt hàng của Việt Nam được chia thành 2 nhóm chính:

Nhóm các mặt hàng cắt giảm và xoá bỏ thuế quan: chiếm hầu hết các

mặt hàng, có lộ trình giảm thuế từ năm 1996, giảm thuế suất xuống mức 0-5%

98

vào năm 2006 và xoá bỏ thuế quan vào năm 2015, với một số mặt hàng được

linh hoạt đến 2018. Ngoài ra, các mặt hàng công nghệ thông tin (phù hợp với

diện mặt hàng của WTO) sẽ được xoá bỏ thuế quan trong 3 năm: 2008-2010.

Đồng thời các mặt hàng thuộc lĩnh vực ưu tiên hội nhập (12 lĩnh vực) sẽ được

xoá bỏ sớm hơn là vào năm 2012 (thay vì 2015), trong đó có 9 lĩnh vực hàng

hoá gồm: gỗ và sản phẩm gỗ, ôtô, cao su, dệt may, sản phẩm nông nghiệp,

thuỷ sản, điện tử, công nghệ thông tin, y tế (thiết bị, thuốc men).

Nhóm hàng nông sản nhạy cảm: gồm 89 dòng thuế là các mặt hàng nông

sản chưa chế biến, gồm một số loại gạo, hoa quả, thực phẩm, đường. Những mặt

hàng này không phải xoá bỏ thuế quan, có lộ trình giảm thuế từ năm 2004 xuống

mức thuế suất cao nhất là 5% vào năm 2013 (trừ mặt hàng đường là 2010).

Tính đến thời điểm 2014, Việt Nam đã cắt giảm 6.859 dòng thuế (chiếm

72% tổng Biểu thuế xuất nhập khẩu) xuống thuế suất 0%. Khi AEC được

thành lập vào cuối năm 2015, lộ trình cắt giảm thuế quan vẫn được kế thừa và

dự kiến thuế quan của Việt Nam tiếp tục được cắt giảm xuống 0% vào năm

2018, tập trung vào các nhóm hàng như ô tô, xe máy, phụ tùng linh kiện ô tô

xe máy, dầu thực vật, hoa quả nhiệt đới, đồ điện dân dụng như tủ lạnh, máy

điều hòa, sữa và các sản phẩm sữa…

Thời điểm cuối lộ trình (2024): sẽ xóa bỏ 98,2% số dòng thuế, trong đó:

Sẽ tiếp tục xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 669 dòng thuế (7%) từ nay đến năm

2018 với các mặt hàng nhạy cảm: ô tô, xe máy, phụ tùng linh kiện ô tô xe

máy, dầu thực vật, hoa quả nhiệt đới, tủ lạnh, máy điều hòa, sữa và các sản

phẩm sữa; Đưa ra khỏi Danh mục loại trừ 31 dòng thuế gồm thuốc lá và

nguyên liệu thuốc lá; Xóa bỏ thuế nhập khẩu đối với 16 dòng thuế còn lại

gồm các sản phẩm xăng dầu vào năm 2024;

- Đối với 1,8% số dòng thuế còn lại của biểu thuế: 111 dòng vẫn duy trì

thuế suất MFN (các mặt hàng thuốc nổ, súng đạn, pháo hoa, rác thải y tế, lốp

cũ...); 55 dòng mặt hàng nông nghiệp nhạy cảm sẽ duy trì thuế suất 5% (chế

99

phẩm từ thịt, động vật sống, đường thô, ngũ cốc, rau quả, thịt và phụ phẩm

gia cầm, trứng).

3.2.NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ

TRONG ASEAN.

3.2.1. Xác định xuất xứ hàng hoá ASEAN.

Với mục đích hình thành nên khu vực mậu dịch tự do ASEAN, các

hàng hoá có xuất xứ của bất kỳ nước thành viên ASEAN nào xuất khẩu hay

nhập khẩu tới bất kỳ nước thành viên ASEAN khác sẽ được hưởng mức thuế

quan ưu đãi thấp. Bởi vậy, xác định xuất xứ hàng hoá được xem là một nội

dung rất quan trọng trong hiệp định thương mại được ký kết giữa các nước

ASEAN. Theo đó, để xác định một hàng hoá được công nhận là có xuất xứ

ASEAN thì tại hiệp định ATIGA đã quy định phải đáp ứng một trong các quy

định về xuất xứ dưới đây:

(a) hàng hoá có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ

của một Quốc gia Thành viên xuất khẩu như trình bày và định nghĩa trong Điều

27 (Hàng hoá có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ); hay

(b), với điều kiện hàng hoá này phù hợp với Điều 28 (Hàng hoá có xuất

xứ không thuần túy hoặc không được sản xuất toàn bộ) hoặc Điều 30 (xuất xứ

cộng gộp) [28].

Trên cơ sở đó, hiệp định ATIGA cũng đã liệt kê 11 nhóm hàng hoá được

xác định là có xuất xứ thuần tuý hoặc được sản xuất toàn bộ tại quốc gia

thành viên xuất khẩu (xem phụ lục 1). Những hàng hoá có xuất xứ thuần túy

hoặc được sản xuất toàn bộ được xác định theo các tiêu chí tại điều 27 của

hiệp định ATIGA khá minh bạch và rõ ràng. Những hàng hoá đáp ứng tiêu

chí xuất xứ thuần tuý có thể thấy được là các sản phẩm có nguồn gốc sản xuất

hoàn toàn nội địa và được phân loại chủ yếu vào 20 chương đầu tiên của danh

mục HS như là các khoáng sản, động vật sống, thực vật và một phần sản

phẩm chế biến. Để dễ dàng cho việc nhận biết các sản phẩm đáp ứng tiêu chí

100

xuất xứ thuần tuý giúp cho việc xác định xuất xứ hàng hoá thuận lợi, tại phụ

lục 3 của hiệp định ATIGA đã xây dựng danh mục hàng hoá dựa trên danh

mục HS và chỉ ra tiêu chí xuất xứ thuần tuý đối với từng dòng hàng hoá trong

đó chi tiết tới cấp độ 6 số.

Tuy nhiên, có thể thấy rằng với xu hướng liên kết sản xuất, phân chia

công đoạn sản xuất theo hướng chuỗi giá trị như hiện nay thì việc xác định

xuất xứ hàng hoá là thuần tuý hay sản xuất toàn bộ sẽ không đáp ứng được

yêu cầu của việc xác định quốc gia xuất xứ hàng hoá với những hàng hoá

được sản xuất chế biến trong ASEAN có sự tham gia của nhiều quốc gia trong

và ngoài ASEAN. Vì vậy, để xác định được xuất xứ của những hàng hoá đó

thì hiệp định ATIGA cũng đã quy định các tiêu chí để xác định đối với những

hàng hoá có xuất xứ không thuần tuý hoặc không được sản xuất toàn bộ tại

điều 28 là:

1. Hàng hoá được coi là có xuất xứ tại Quốc gia Thành viên nơi diễn ra

việc sản xuất hoặc chế biến hàng hoá đó:

(i) nếu hàng hoá có hàm lượng giá trị khu vực (sau đây được gọi là “Hàm

lượng giá trị ASEAN” hoặc “Hàm lượng giá trị khu vực (RVC)”) không dưới

bốn mươi phần trăm (40%) tính theo công thức nêu tại Điều 29; hoặc

(ii) nếu tất cả các nguyên vật liệu không có xuất xứ sử dụng để sản xuất

ra hàng hoá đó đã trải qua quá trình chuyển đổi mã số hàng hoá (được nêu ở

dưới đây là “CTC”) ở cấp bốn số của Hệ thống hài hoà.

2. hàng hoá được liệt kê trong Phụ lục 3 [Danh mục Tiêu chí xuất xứ sản

phẩm cụ thể] đủ tiêu chuẩn là hàng hoá có xuất xứ nếu hàng hoá đó thoả mãn

những quy tắc chi tiết hoá sản phẩm nêu tại đó.

3. một hàng hoá được bao hàm trong phần đính kèm A hoặc B của Tuyên

bố Bộ trưởng về thương mại trong sản phẩm công nghệ thông tin được thông

qua tại Hội nghị Bộ trưởng WTO ngày 13 tháng 12 năm 1996, được nêu như

Phụ lục 4 [Danh mục ITA], phải được xem là có xuất xứ tại Quốc gia Thành

101

viên nếu hàng hoá đó được lắp ráp từ các nguyên vật liệu nêu tại cùng Phụ

lục này [28].

Như vậy, có thể thấy rằng để xác định xuất xứ đối với những hàng hoá

có xuất xứ không thuần tuý hoặc không được sản xuất toàn bộ, ngoài những

hàng hoá là sản phẩm công nghệ thông tin được xác định theo phụ lục riêng,

hiệp định ATIGA đã chỉ ra 3 cách thức khác nhau để áp dụng xác định xuất

xứ hàng hoá đó là xác định hàm lượng giá trị khu vực (RVC), xác định mức

độ chuyển đổi mã số hàng hoá (CTC) hoặc sử dụng tiêu chí công đoạn gia

công, chế biến cụ thể (gọi tắt là SP).

(cid:4) Hàm lượng giá trị khu vực ASEAN (RVC): theo quy định tiêu chí này

hiện có 2 công thức tính theo 2 phương pháp như sau:

(a) Phương pháp trực tiếp:

+ + + + RVC= Chi phí nguyên vật liệu ASEAN Chi phí phân bổ trực tiếp Chi phí khác Lợi nhuận x 100 % Chi phí nhân công trực tiếp

Trị giá FOB

hoặc:

b) Phương pháp gián tiếp:

Trị giá FOB - RVC = Trị giá của nguyên vật liệu, phụ tùng hoặc hàng hoá không có xuất xứ 12 x 100 % Trị giá FOB

Theo quy định của hiệp định ATIGA, các nước thành viên chỉ được sử

dụng một phương pháp để tính RVC. Các nước thành viên được linh hoạt

trong việc thay đổi phương pháp tính với điều kiện sự thay đổi đó phải được 12 Giá trị nguyên vật liệu, phụ tùng hoặc hàng hoá không có xuất xứ là: (i) Giá CIF tại thời điểm nhập khẩu của hàng hoá hoặc thời điểm nhập khẩu được chứng minh; hoặc (ii) Giá xác định ban đầu trả cho hàng hoá không xác định được xuất xứ tại lãnh thổ của Quốc gia Thành viên nơi diễn ra hoạt động sản xuất hoặc chế biến;

102

thông báo cho hội đồng AFTA ít nhất là sáu tháng trước khi áp dụng phương

pháp mới. Việc kiểm tra RVC bởi nước thành viên nhập khẩu đối với hàng

hoá nhập khẩu cần dựa trên phương pháp tính toán mà nước thành viên xuất

khẩu đang áp dụng. Việt Nam áp dụng công thức tính gián tiếp trên để xác

định giá trị hàm lượng khu vực trong xác định xuất xứ hàng hoá.

(cid:4) Mức độ chuyển đổi mã số hàng hoá (CTC) hay còn gọi là chuyển đổi

mã số thuế. Tiêu chí này xác định xuất xứ dựa trên việc so sánh sự khác biệt

giữa mã số phân loại của nguyên vật liệu chính đầu vào sản xuất sản phẩm

với sản phẩm được tạo ra xuất khẩu. Sự khác biệt này được xem xét trên 3 cấp

độ là:

+ Chuyển đổi ở cấp độ chương (CC): là chuyển đổi từ bất kỳ chương

nào khác đến một chương, nhóm hoặc phân nhóm. Điều này có nghĩa tất cả

nguyên liệu không có xuất xứ sử dụng trong quá trình sản xuất ra sản phẩm

phải trải qua sự chuyển đổi mã HS ở cấp 2 số (chuyển đổi Chương);

+ Chuyển đổi ở cấp độ nhóm (CTH): là chuyển đổi từ bất kỳ nhóm nào

khác đến một chương, nhóm hoặc phân nhóm. Điều này có nghĩa, tất cả

nguyên liệu không có xuất xứ sử dụng trong quá trình sản xuất ra sản phẩm

phải trải qua sự chuyển đổi mã HS ở cấp 4 số (chuyển đổi Nhóm);

+ Chuyển đổi ở cấp độ phân nhóm (CTSH): là chuyển đổi từ bất kỳ phân

nhóm nào khác đến một chương, nhóm hoặc phân nhóm. Điều này có nghĩa,

tất cả nguyên liệu không có xuất xứ sử dụng trong quá trình sản xuất ra sản

phẩm phải trải qua sự chuyển đổi mã HS ở cấp 6 số (chuyển đổi Phân nhóm);

Tiêu chí CTC được xem là tiêu chí đơn giản để so sánh và dễ dự đoán,

tính khách quan cao trong việc xác định xuất xứ hàng hoá do được xác định

dựa trên những quy tắc áp dụng phân loại hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu

chung đã được thống nhất trên phạm vi toàn cầu ghi trong công ước HS.

(cid:4) Công đoạn gia công, chế biến cụ thể (SP). Tiêu chí này được xây

dựng tương ứng với từng hàng hoá nằm trong danh mục tiêu chí xuất xứ sản

103

phẩm cụ thể của phụ lục 3 của hiệp định ATIGA. Tiêu chí này có thể sử dụng

riêng hoặc thường kết hợp với tiêu chí CTC.

Bên cạnh việc đưa ra các quy định về các tiêu chí để xác định đối với

những hàng hoá có xuất xứ không thuần tuý hoặc không được sản xuất toàn

bộ tại điều 28 như trên, hiệp định ATIGA cũng đưa ra quy định về xác định

xuất xứ hàng hoá ASEAN dựa vào tiêu chí cộng gộp. Đây được xem là tiêu

chí làm tăng mức độ ưu đãi trên cơ sở khuyến khích các nước thành viên gia

tăng sự trao đổi thương mại lẫn nhau. Khi đó hàng hoá có xuất xứ từ một

quốc gia thành viên, được sử dụng làm nguyên liệu tại lãnh thổ của một quốc

gia thành viên khác để sản xuất ra một sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế

quan sẽ được coi là có xuất xứ của quốc gia thành viên sản xuất ra sản phẩm

đó. Với điều kiện là nếu RVC của nguyên vật liệu nhỏ hơn 40%, Hàm lượng

giá trị ASEAN này sẽ được cộng gộp theo đúng tỉ lệ thực tế vào hàm lượng

nội địa với điều kiện hàm lượng giá trị ASEAN này bằng hoặc lớn hơn 20%.

Ngoài ra, hiệp định ATIGA cũng quy định thêm các quy định về De

Minimis, những công đoạn gia công và chế biến đơn giản, quy định về bao bì

và vật liệu đóng gói, phụ kiện, phụ tùng và dụng cụ, các yếu tố trung gian,

nguyên vật liệu giống nhau và có thể thay thế nhau để làm cơ sở cho việc xác

định một cách chính xác xuất xứ của hàng hoá theo các tiêu chí trên.

Sau khi hàng hoá đáp ứng được các tiêu chí về xuất xứ như trên, muốn

được hưởng ưu đãi thuế quan của nước thành viên nhập khẩu sẽ phải đáp ứng

được những quy định tại điều 32 của hiệp định ATIGA về vận chuyển trực

tiếp. Có nghĩa là hàng hoá phải được vận chuyển trực tiếp từ lãnh thổ của

quốc gia thành viên xuất khẩu và quốc gia thành viên nhập khẩu; hoặc nếu

hàng hoá được vận chuyển qua một hoặc nhiều quốc gia thành viên, khác với

quốc gia thành viên xuất khẩu và quốc gia thành viên nhập khẩu, hoặc qua

một quốc gia không phải thành viên, với điều kiện:

(i) Quá cảnh là cần thiết vì lý do địa lí hoặc do các yêu cầu có liên quan

104

trực tiếp đến vận tải;

(ii) Hàng hoá không tham gia vào giao dịch thương mại hoặc tiêu thụ tại

nước quá cảnh đó; và

(iii) Hàng hoá không trải qua bất kỳ công đoạn nào khác ngoài việc dỡ

hàng và tái xếp hàng hoặc những công đoạn cần thiết để giữ sản phẩm trong

điều kiện tốt [28].

3.2.2. Chứng nhận xuất xứ hàng hoá ASEAN.

Để được cho hưởng ưu đãi về thuế quan, hàng hoá nhập khẩu vào nước

thành viên phải có Giấy chứng nhận xuất xứ (Mẫu D) theo mẫu quy định

(xem phụ lục 2) do cơ quan chính phủ có thẩm quyền được quốc gia thành

viên chỉ định cấp và thông báo tới các quốc gia thành viên khác theo thủ tục

cấp giấy chứng nhận xuất xứ. Các quy định về thủ tục hồ sơ để xin giấy

chứng nhận xuất xứ mẫu D từ các cơ quan có thẩm quyền được quy định rõ

trong hệ thống pháp luật về xuất xứ của các quốc gia thành viên dựa trên bộ

quy tắc xuất xứ ASEAN. Theo đó, người xuất khẩu hoặc người được uỷ

quyền sẽ phải nộp đơn đề nghị kèm theo các chứng từ cần thiết chứng minh

rằng hàng hoá xuất khẩu đáp ứng điều kiện để được cấp C/O giấy hoặc C/O

điện tử. Để xác định xuất xứ, tổ chức cấp C/O có quyền yêu cầu xuất trình

thêm tài liệu, chứng từ chứng minh hoặc tiến hành kiểm tra nếu xét thấy cần

thiết. Một bộ C/O bao gồm một bản gốc và hai bản sao các-bon. C/O có hiệu

lực trong trong vòng 12 tháng kể từ ngày cấp. Bản C/O gốc do Người xuất

khẩu gửi cho Người nhập khẩu để nộp cho cơ quan Hải quan Nước thành viên

nhập khẩu tại cảng hoặc nơi nhập khẩu để hưởng chế độ ưu đãi thuế quan có

thể sẽ bị kiểm tra lại nếu bị nghi ngờ về xuất xứ hàng hoá thông qua việc xác

minh từ tổ chức cấp C/O hoặc kiểm tra trực tiếp.

Bên cạnh đó, các nước ASEAN đã sớm nghiên cứu và xây dựng, áp

dụng dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ trong ASEAN. Theo đó, thay vì

phải xin giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D từ các cơ quan có thẩm quyền thì

105

nhà xuất khẩu đủ điều kiện được cho phép tự chứng nhận xuất xứ trên hóa

đơn thương mại cho hàng hóa xuất khẩu. Hiện tại, dựa trên mô hình nhà xuất

khẩu đủ điều kiện tự chứng nhận xuất xứ nói trên, ASEAN đang áp dụng 02

dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ:

(cid:3) Dự án thí điểm số 1: Bắt nguồn từ 03 nước là Brunei, Singapore,

Malaysia ký bản ghi nhớ về hợp tác dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ số

1 tại Đà Nẵng, Việt Nam vào ngày 30/ 08/2010 và có hiệu lực vào ngày

1/11/2010. Đến tháng 10/2011, Thái Lan chính thức tham gia dự án thí điểm

số 1. Trong dự án thí điểm thứ nhất, thương nhân xuất khẩu hay thương nhân

nhập khẩu đều có thể tự chứng nhận.

(cid:3) Dự án thí điểm số 2: Ba nước Lào, Phi-líp-pin và In-đô-nê-si-a đã xây

dựng dự án thí điểm tự chứng nhận xuất xứ số 2 và bắt đầu triển khai từ ngày

1/1/2014. Việt Nam đã nghiên cứu và tham gia dự án số 2 từ cuối năm 2015.

Trong dự án thí điểm thứ hai, chỉ doanh nghiệp sản xuất được tự chứng nhận

khi xuất khẩu hàng hóa của mình.

Quy trình chứng nhận xuất xứ theo ASEAN

BƯỚC 1 Nhà xuất khẩu đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để trở thành nhà xuất khẩu đủ điều kiện tự chứng nhận xuất xứ

BƯỚC 2 Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, đánh giá và chứng nhận nhà xuất khẩu đủ điều kiện tự chứng nhận xuất xứ

BƯỚC 3 Nhà xuất khẩu đủ điều kiện khi xuất khẩu lập tờ khai hóa đơn chứng minh nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm và gửi cho nhà nhập khẩu

BƯỚC 4 Nhà nhập khẩu xuất trình tờ khai hóa đơn cho cơ quan hải quan tại thời điểm nhập khẩu để được hưởng ưu đãi thuế quan

106

Việc sử dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá được xem là một

xu thế mới bên cạnh sử dụng chứng nhận xuất xứ điện tử nhằm khắc phục

những hạn chế của phương thức cấp C/O giấy truyền thống và tạo thuận lợi

hơn cho hoạt động thương mại giữa các nước thành viên ASEAN.

3.3. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG HOÁ

VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI TẠI VIỆT NAM.

3.3.1. Thực trạng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện

quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN.

Để có thể triển khai được những nội dung cụ thể của quy tắc xuất xứ

hàng hoá ASEAN vào thực tiễn hoạt động thương mại giữa Việt Nam với các

nước thành viên ASEAN, trong những năm qua, Việt Nam đã xây dựng và tạo

lập khuôn khổ pháp lý thực hiện các quy tắc xuất xứ hàng hóa nói chung và

thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hóa để áp dụng biểu thuế quan ưu đãi trong

ASEAN, cụ thể là:

• Hệ thống các văn bản luật chung liên quan đến hoạt động thương mại,

hải quan và thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu như: Luật thương mại số

36/2005/QH11, Luật hải quan số 29/2001/QH10, Luật sửa đổi và bổ sung một

số điều của luật hải quan số 42/2005/QH11, Luật hải quan sửa đổi số

54/2014/QH13, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 107/2016/QH13, .v .v và

các nghị định, thông tư, quyết định hướng dẫn thi hành các văn bản này.

Trong các văn bản pháp luật này, quy định về việc sử dụng xuất xứ hàng hoá

trong áp dụng thuế quan ưu đãi đã được đề cập và làm rõ về nguyên tắc và

cách thức thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hóa để áp dụng biểu thuế quan ưu

đãi trong ASEAN.

• Hệ thống các văn bản pháp luật riêng quy định về biểu thuế quan ưu

đãi áp dụng cho quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN được triển khai ban hành

bắt đầu để thực hiện hiệp định CEPT như: Nghị định số 78/2003/NĐ-CP của

107

Chính phủ ngày 01/07/2003 về việc ban hành Danh mục hàng hoá và thuế

suất của Việt Nam để thực hiện Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung

(CEPT của các nước ASEAN cho các năm 2003-2006); Quyết định số

09/2006/QĐ-BTC ngày 28/2/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban

hành Danh mục hàng hoá và mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt

của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có

hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN giai đoạn 2006-2013 và Quyết

định số 25/2007/QĐ-BTC ngày 16/4/2007 của Bộ trưởng Bộ Tài chính sửa

đổi, bổ sung Quyết định số 09/2006/QĐ-BTC ngày 28/2/2006; QĐ số

36/2008/QĐ-BTC ngày 12/6/2008 v/v Ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi

đặc biệt của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế

quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN giai đoạn 2008-2013,

.v.v. Khi hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN được ký kết 26/02/2009

thay thế cho hiệp định CEPT thì Việt Nam cũng đã triển khai việc ban hành

các quy định biểu thuế quan ưu đãi mới cho phù hợp thông qua các văn bản:

Thông tư số 161/2011/TT-BTC ngày 17/11/2011, Ban hành Biểu thuế nhập

khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam thực hiện Hiệp định Thương mại hàng hóa

ASEAN giai đoạn 2012-2014; Thông tư số 165/2014/TT-BTC ngày

14/11/2014, Ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam thực

hiện Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN giai đoạn 2015-2018. v .v.

• Hệ thống các văn bản pháp luật quy định chung về xuất xứ hàng hoá

tại Việt Nam là Nghị định 19/2006/NĐ-CP ngày 20/6/2006 của Chính phủ về

xuất xứ hàng hóa; Thông tư số 07/2006/TT-BTM ngày 17/4/2006 của Bộ

Thương mại về hướng dẫn thủ tục cấp và quản lý việc cấp C/O; Thông tư

08/2006/TT-BTM ngày 17/4/2006 của Bộ Thương mại hướng dẫn cách xác

định xuất xứ đối với hàng hóa xuất nhập khẩu có xuất xứ không thuần túy

theo Nghị định số 19/2006/NĐ-CP; Thông tư 10/2006/TT-BTM ngày

108

1/6/2006 của Bộ Thương mại sửa đổi Thông tư 08; Thông tư 06/2011/TT-

BCT ngày 21/3/2011 của Bộ Công thương quy định thủ tục cấp giấy chứng

xuất xứ hàng hóa ưu đãi; Thông tư 01/2013/TT-BCT ngày 3/1/2013 sửa đổi,

bổ sung Thông tư số 06/2011/TT-BCT ngày 21/3/2011 quy định thủ tục cấp

giấy chứng nhận hàng hóa xuất xứ ưu đãi.

• Hệ thống các văn bản pháp luật quy định riêng về áp dụng quy tắc

xuất xứ hàng hoá ASEAN như: Quyết định của Bộ Thương mại số 416/TM-

ĐB năm 1996 về ban hành Quy chế cấp giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN của

Việt Nam - Mẫu D để hưởng các ưu đãi theo "Hiệp định về Chương trình ưu

đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT); Quyết định 1420/2004/QĐ-BTM

của Bộ trưởng Bộ Thương mại ngày 04/10/2004 về việc ban hành Quy chế

cấp Giấy chứng nhận xuất xứ ASEAN của Việt Nam - Mẫu D để hưởng các

ưu đãi theo Hiệp định CEPT để thành lập AFTA; Quyết định 19/2008/QĐ-

BCT của Bộ công thương về quy chế cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa

Mẫu D để hưởng các ưu đãi theo Hiệp định CEPT để thành lập AFTA; Thông

tư số 42/2014/TT-BCT ngày 18/11/2014 sửa đổi, bổ sung một số điều của

Thông tư số 21/2010/TT-BCT ngày 17/5/2010 của Bộ trưởng Bộ Công

Thương thực hiện Quy tắc xuất xứ trong Hiệp định thương mại hàng hoá

ASEAN; Thông tư số 28/2015/TT-BCT ngày 20/8/2015 về Quy định việc

thực hiện thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định thương

mại hàng hóa ASEAN.v .v.

• Văn bản về việc kiểm tra, xác nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu, nhập

khẩu: bên cạnh những quy định trong luật hải quan và các văn bản hướng dẫn

thi hành luật hải quan, Tổng cục Hải quan còn ban hành riêng quy trình kiểm

tra xác nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo Quyết định số

4286/QĐ-TCHQ ngày 31/12/2015. Đây là văn bản quy định hướng dẫn chi

tiết giúp cơ quan hải quan Việt Nam kiểm tra, xác nhận xuất xứ hàng hoá xuất

109

khẩu, nhập khẩu.

• Văn bản về việc xử lý các hành vi về gian lận xuất xứ hàng hoá: chính

phủ đã ban hành các văn bản cụ thể hoá Luật xử lý vi phạm hành chính năm

2012 là: Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2013 của

Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi hành quyết

định hành chính trong lĩnh vực hải quan; Nghị định số 45/2016/NĐ-CP ngày

26/5/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số

127/2013/NĐ-CP. Trên cơ sở đó Bộ Tài chính cũng ban hành Thông tư số

155/2016/TT-BTC quy định chi tiết thi hành việc xử phạt vi phạm hành chính

(VPHC) và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải

quan. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan quản lý nhà

nước thực hiện xử phạt các hành vi về gian lận xuất xứ hàng hoá.

• Về phân cấp, Bộ Công Thương (Vụ xuất nhập khẩu) là cơ quan đầu

mối về xuất xứ hàng hóa, chủ trì và phối hợp với Tổng cục Hải quan tham gia

đàm phán tại các nhóm làm việc về qui tắc xuất xứ trong Ủy ban đàm phán

thương mại thuộc các khu vực thương mại tự do ASEAN, chịu trách nhiệm về

việc sửa đổi, bổ sung về nội dung và ban hành các qui định về xuất xứ hàng hóa

như qui tắc xuất xứ (ROO), quy chế cấp và kiểm tra xuất xứ hàng hóa (OCP),

Danh mục các tiêu chí sản phẩm cụ thể (PSR) và các vấn đề liên quan khác.

3.3.2. Thực trạng áp dụng tiêu chí xuất xứ hàng hoá theo biểu thuế quan

ưu đãi đặc biệt của Việt Nam trong AEC.

Khi gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN thì Việt Nam đã thực hiện về cơ

bản các cam kết về cắt giảm thuế quan theo lộ trình đến năm 2015 và bắt đầu

áp dụng giai đoạn cắt giảm sâu từ năm 2015 đến năm 2018. Cùng với đó, các

quy định về xuất xứ hàng hoá theo hiệp định ATIGA và cơ chế thí điểm tự

chứng nhận xuất xứ hàng hoá trong ASEAN đã được xây dựng và áp dụng

căn bản đối với hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu ở Việt Nam. Do đó, để xác

110

định hàng hoá có xuất xứ được hưởng thuế quan ưu đãi đặc biệt cần dựa trên

việc xác định hàng hoá có thoả mãn tiêu chí xuất xứ theo quy định về xuất xứ

của hiệp định ATIGA. Các tiêu chí xuất xứ được tổng hợp theo mức độ áp

dụng tại bảng 3.2.

Bảng 3.2. Mức độ áp dụng các tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong quy tắc

xuất xứ theo hiệp định ATIGA

Số lượng dòng

STT

Tiêu chí xuất xứ

Tỷ lệ %

thuế áp dụng

1 WO 221 4,25

2 RVC(40) 4984 95,75

CTC 4837 92,93

Trong đó:

CC

945

18,16

3

CTH

3110

59,75

CTSH

782

15,02

SP

403

7,74

Áp dụng kết hợp với tiêu chí CTC

4

824

15,83

Áp dụng độc lập

(Nguồn: Tổng hợp của NCS từ quy tắc xuất xứ hàng hoá theo hiệp định ATIGA)

Trong quy tắc xuất xứ hàng hoá theo hiệp định ATIGA, thực tế tại phụ

lục của quy tắc xuất xứ hàng hoá cụ thể một dòng thuế chỉ có thể áp dụng một

tiêu chí xuất xứ, nhưng cũng có những dòng thuế có thể lựa chọn áp dụng một

trong các tiêu chí xuất xứ áp dụng với dòng thuế đó.Vì vậy, theo tổng hợp tại

bảng 3.2 cho thấy tiêu chí xuất xứ sử dụng phổ biến nhất là tiêu chí RVC (40)

chiếm tới 95,75% hoặc tiêu chí CTC chiếm tới 92,93% (trong đó chiếm tới

18,16% đòi hỏi mức độ chuyển đổi ở cấp độ rất cao là cấp độ chương – CC)

trong tổng số 5205 dòng thuế ở cấp độ HS-6 số áp dụng tiêu chí xuất xứ hàng

111

hoá. Đối với tiêu chí công đoạn gia công, chế biến cụ thể của hàng hoá thì

mức độ áp dụng là 15,83% áp dụng riêng và 7,74% áp dụng kết hợp với tiêu

chí CTC.

Như vậy, có thể thấy rằng tiêu chí RVC và tiêu chí CTC (trong đó chủ

yếu là CC và CTH) là hai tiêu chí chi phối nhiều nhất đến các hàng hoá khi

xem xét xác định xuất xứ của hàng hoá theo quy tắc xuất xứ của hiệp định

ATIGA. Hai tiêu chí này cũng là hai tiêu chí phản ảnh được trình độ và mức

độ của hoạt động sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu.

Hình 3.2. Mức độ áp dụng các tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong quy tắc

xuất xứ theo hiệp định ATIGA theo các phần của biểu thuế quan

( WO- Xuất xứ thuần tuý; CC-chuyển đổi mã số hàng hoá ở cấp độ chương;

CTH-chuyển đổi mã số hàng hoá ở cấp độ nhóm; CTSH- chuyển đổi mã số hàng

hoá ở cấp độ phân nhóm; RVC- Hàm lượng giá trị khu vực; x- công đoạn gia công,

chế biến cụ thể; Qtdm:Quy tắc hàng dệt may).

(Nguồn: Tổng hợp của NCS từ quy tắc xuất xứ hàng hoá theo hiệp định ATIGA)

112

Xem xét cụ thể việc áp dụng các tiêu chí xuất xứ hàng hoá theo lĩnh vực

hàng hoá phân theo các phần của danh mục hàng hoá của hệ thống HS (xem

phụ lục 3 và hình 3.2) cho thấy rằng: Tiêu chí RVC(40) áp dụng thấp nhất đối

với các sản phẩm thực vật thuộc phần II danh mục HS (chỉ chiếm 56,91% so

với tổng dòng thuế áp dụng của phần II), đây cũng là phần mà áp dụng tiêu

chí WO nhiều nhất trong các phần của danh mục HS (chiếm 59,28% tổng số

dòng thuế áp dụng tiêu chí WO). Ngoài ra, tiêu chí WO còn được áp dụng

nhiều ở các phần I, V và XV đối với các hàng hoá là sản phẩm từ động vật

sống, khoáng sản và kim loại cơ bản. Đây là những nhóm hàng hoá mà Việt

Nam có thuận lợi xuất khẩu sang các nước ASEAN với sự đòi hỏi về xuất xứ

đơn giản, nhất là trong giai đoạn đầu khi triển khai áp dụng quy tắc xuất xứ

mà nền sản xuất trong nước chưa phát triển.

Cũng giống với tiêu chí RVC(40), tiêu chí CTC cũng áp dụng thấp đối

với nhóm hàng hoá thuộc phần II (chiếm 54,93% số dòng thuế áp dụng của

phần II), nhưng mức độ áp dụng thấp nhất lại thuộc các hàng hoá thuộc phần

XVII là nhóm hàng xe cộ, phương tiện bay, tàu thuyền và các thiết bị vận tải

liên hợp (chỉ chiếm 53,08% số dòng thuế áp dụng của phần XVII). Có thể

thấy rằng, các hàng hoá thuộc phần XVII phần lớn đòi hỏi sự phức tạp về

mức độ gia công, chế biến nên tiêu chỉ được ưu tiên sử dụng chủ yếu là

RVC(40%) sẽ thuận lợi cho việc xác định xuất xứ hơn các tiêu chí khác.

Đối với tiêu chí công đoạn gia công, chế biến cụ thể được áp dụng chủ

yếu đối với nhóm hàng hoá dệt may thuộc phần XI (chiếm 95,85% số dòng

113

thuế áp dụng của phần XI), phần III (chiếm 72,92% số dòng thuế áp dụng của

phần III) và phần XV (chiếm 22,91% số dòng thuế áp dụng của phần XV).

Đây là những nhóm hàng hoá về dệt may, dầu động vật và thực vật, kim loại

(chủ yếu là mặt hàng thép) có sự phức tạp về công đoạn gia công, chế biến để

xem xét sự chuyển đổi giữa nguyên vật liệu và hàng hoá tạo ra hay về trị giá

để xác định xuất xứ nên việc áp dụng tiêu chí công đoạn gia công, chế biến cụ

thể đảm bảo sự chặt chẽ và thống nhất trong xác định xuất xứ của hàng hoá.

Trên cơ sở áp dụng tiêu chí xuất xứ hàng hoá như vậy, mức thuế quan

của Việt Nam được áp dụng đối với các nhóm hàng thuộc các phần của danh

mục HS cũng có sự tác động rõ rệt được thể hiện qua hình 3.3.

(Nguồn: Tổng hợp từ các biểu thuế quan năm 2006 và 2016 của Bộ Tài chính)

Hình 3.3. Thuế suất bình quân và chênh chệch giữa thuế suất bình

quân MFN và CEPT/ATIGA năm 2006 và 2016 theo các phần của danh

mục HS

114

Xem xét hình 3.3 cho thấy, biểu thuế quan nhập khẩu áp dụng đối với

các hàng hoá xuất xứ từ ASEAN năm 2006 (năm đầu thực hiện cắt giảm thuế

quan thực hiện AFTA) và năm 2016 (năm đầu thực hiện cắt giảm thuế quan

trong AEC) với thuế suất bình quân MFN áp dụng tương ứng với các năm đó

nhận thấy mức thuế suất bình quân cao áp dụng chủ yếu với các hàng hoá

thuộc phần IV (thực phẩm chế biến, đồ uống, thuốc lá), XI (dệt may), XII

(giày dép), XVII (phương tiện đi lại), XX (đồ nội thất, đồ chơi, .v .v.). Những

hàng hoá thuộc các phần này cũng có mức chênh lệch về thuế quan bình quân

giữa MFN và CEPT/ATIGA cao nhất. Vì vậy, việc những hàng hoá này nếu

đáp ứng được tiêu chí xuất xứ hàng hoá của quy tắc xuất xứ hàng hoá AEC sẽ

được hưởng ưu đãi lớn về thuế quan. Tiêu chí xuất xứ hàng hoá áp dụng đối

nhóm hàng hoá này RVC(40) áp dụng toàn bộ hoặc CTC (trong đó có nhiều

hàng hoá thuộc phần IV áp dụng tiêu chí chuyển đổi cao ở cấp độ chương,

chiếm 58,77% tổng số dòng thuế áp dụng của phần IV). Đối với nhóm hàng

dệt may (phần XI) tiêu chí xuất xứ áp dụng cũng rất chặt chẽ ngoài áp dụng

RVC(40) còn có thể áp dụng tiêu chí CTC (chủ yếu chuyển đổi ở cấp độ CC

hoặc CTH) hoặc áp dụng những quy định của quy tắc xuất xứ dệt may. Do đó,

để có thể tận dụng được những ưu đãi về thuế quan đòi hỏi hàng hoá xuất

khẩu của các nước phải có mức độ gia công, chế biến cao.

3.3.3.Thực trạng thực thi quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN trong áp

dụng thuế quan ưu đãi của các cơ quan nhà nước Việt Nam.

3.3.3.1. Trong công tác quản lý và cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá.

Về phân cấp quản lý và kiểm tra xuất xứ hàng hóa XNK hiện nay, Bộ

Công Thương (Vụ xuất nhập khẩu) là cơ quan chịu trách nhiệm quản lý và

cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Chứng nhận xuất xứ hàng hoá của Việt

Nam theo quy tắc xuất xứ ASEAN hiện nay được thực hiện theo 2 phương

thức khác nhau là cấp chứng nhận xuất xứ và tự chứng nhận xuất xứ.

115

(cid:4) Đối với phương thức cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá: được thực

hiện theo hình thức trực tiếp hoặc qua mạng Internet.

• Hình thức cấp C/O trực tiếp đòi hỏi doanh nghiệp xin C/O phải nộp

hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa đến trực tiếp hoặc nộp

qua bưu điện đến các địa điểm do Bộ công thương cấp phép là các phòng

quản lý XNK khu vực, ban quản lý các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu chế

xuất. Thời gian để xác định xuất xứ hàng hoá xuất khẩu và cấp Giấy chứng

nhận xuất xứ trong thời gian không quá 03 ngày làm việc, kể từ thời điểm

nhận được bộ hồ sơ đầy đủ và hợp lệ. Tuy nhiên, để có thể thực hiện được thủ

tục xin cấp C/O thì trước đó doanh nghiệp phải đăng ký hồ sơ thương nhân

với tổ chức cấp C/O bằng hồ sơ giấy tại tổ chức cấp C/O.

• Hình thức cấp C/O qua mạng Internet đã được triển khai toàn diện từ

01/04/2014 qua hệ thống ecosys. Việc thực hiện cấp C/O được tiến hành theo

các bước sau:

- Bước 1: Thương nhân khai báo hồ sơ thương nhân điện tử trên mạng

eCoSys.

- Bước 2: Thương nhân khai báo dữ liệu theo biểu mẫu trên eCoSys và

đính kèm các chứng từ cơ bản (hóa đơn thương mại, tờ khai xuất khẩu, chứng

từ vận tải, bản chứng minh tiêu chí xuất xứ). Các văn bản, chứng từ này phải

được thương nhân xác thực bằng chữ ký số do cơ quan có thẩm quyền cấp.

- Bước 3: Tổ chức cấp C/O duyệt hồ sơ đề nghị cấp C/O qua mạng

Internet của thương nhân trong thời gian 6 giờ làm việc.

- Bước 4: Sau khi nhận được phê duyệt hồ sơ qua Internet, thương nhân

nộp cho Tổ chức cấp C/O đơn đề nghị cấp C/O và mẫu C/O đã được khai

hoàn chỉnh và hợp lệ.

- Bước 5: Tổ chức cấp C/O sẽ trả kết quả cấp C/O bản giấy cho thương

nhân sau 2 giờ làm việc.

116

Hiện nay, hệ thống Ecosys đã được kết nối với hệ thống một cửa quốc

gia để cho phép doanh nghiệp khai báo bộ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận xuất

xứ ưu đãi mẫu D thông qua hệ thống một cửa quốc gia. Điều này giúp cho

doanh nghiệp xin C/O thuận tiện hơn khi không phải xuất trình tờ khai hải

quan giấy. Doanh nghiệp có thể gửi trực tiếp qua hệ thống một cửa tờ khai

Hải quan sang hệ thống eCosys của Bộ Công Thương. Kết quả cấp C/O cũng

được gửi đến cả cơ quan hải quan và doanh nghiệp xin cấp C/O.

(cid:4) Đối với phương thức tự chứng nhận xuất xứ: Hiện nay mới đang

trong giai đoạn thí điểm từ ngày 5/10/2015 và được thực hiện theo quy định

tại Thông tư số 28/2015/TT-BCT ngày 20/8/2015 về Quy định việc thực hiện

thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định thương mại hàng

hóa ASEAN. Phương thức này cho phép một số doanh nghiệp được lựa chọn

được quyền tự cấp chứng nhận xuất xứ hàng hóa trên hóa đơn thương mại

sang thị trường các nước thuộc dự án tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong

khuôn khổ ASEAN là Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Indonesia, Philippines

và Thái Lan. Thương nhân được lựa chọn tham gia chương trình thí điểm tự

chứng nhận xuất xứ hàng hóa phải đáp ứng đủ các tiêu chí sau: Là nhà sản

xuất đồng thời là nhà xuất khẩu hàng hóa do chính thương nhân sản xuất;

Không vi phạm quy định về xuất xứ trong 02 năm gần nhất tính đến thời điểm

nộp hồ sơ đăng ký; Kim ngạch xuất khẩu đi ASEAN được cấp C/O mẫu D

năm trước liền kề đạt tối thiểu 10 triệu đô la Mỹ; Có cán bộ được đào tạo,

được cấp chứng nhận hoặc chứng chỉ về xuất xứ hàng hóa do đơn vị đào tạo

được Bộ Công Thương chỉ định cấp [7]. Thương nhân đáp ứng đầy đủ các

tiêu chí quy định này có nhu cầu tham gia chương trình thí điểm tự chứng

nhận xuất xứ hàng hóa gửi 01bộ hồ sơ đăng ký qua đường bưu điện đến Cục

Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương, hoặc đăng ký qua mạng Internet tại địa

chỉ www.ecosys.gov.vn. Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương cấp Văn

117

bản chấp thuận cho thương nhân tham gia thí điểm tự chứng nhận xuất xứ

hàng hóa trong ASEAN. Tổ chức cấp C/O có thể tiến hành kiểm tra tại nơi

sản xuất trong trường hợp có căn cứ rõ ràng cho thấy việc kiểm tra trên hồ sơ

là chưa đủ để cấp C/O hoặc phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật đối với

các C/O đã cấp trước đó.

3.3.3.2.Trong công tác quản lý, kiểm tra, xác định, xác minh và xử lý vi

phạm về xuất xứ hàng hoá.

Công tác quản lý, kiểm tra, xác định, xác minh và xử lý vi phạm xuất

xứ hàng hoá được phân giao trách nhiệm cho cơ quan hải quan đảm nhận và

được thực hiện như sau:

• Đối với việc xác định trước xuất xứ hàng hoá: Để tạo thuận lợi cho

hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá khi làm thủ tục hải quan thì những quy

định về xác định trước xuất xứ hàng hoá cũng được đưa vào Luật hải quan

năm 2014 và được cơ quan hải quan thực hiện. Theo đó người khai hải quan

có quyền đề nghị cơ quan hải quan xác định trước xuất xứ đối với hàng hóa

dự kiến xuất khẩu, nhập khẩu. Hồ sơ đề nghị xác định trước xuất xứ phải

được gửi đến Tổng cục Hải quan và người khai hải quan phải cung cấp thông

tin, chứng từ liên quan, mẫu hàng hóa dự kiến xuất khẩu, nhập khẩu cho cơ

quan hải quan. Kết quả xác định trước xuất xứ hàng hoá là cơ sở để người

khai hải quan có thể thuận lợi làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất

khẩu, nhập khẩu.

• Đối với việc kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hóa xuất khẩu: Xuất xứ

hàng hóa xuất khẩu được xác định dựa trên nội dung khai của người khai hải

quan, chứng từ thuộc hồ sơ hải quan và thực tế hàng hoá. Khi có dấu hiệu

gian lận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu hoặc trên cơ sở thông tin cảnh báo về

chuyển tải bất hợp pháp, cơ quan Hải quan nơi đăng ký tờ khai yêu cầu người

khai hải quan cung cấp chứng từ chứng minh xuất xứ hàng xuất khẩu; trường

118

hợp người khai hải quan không xuất trình thì tiến hành xác minh tại cơ sở sản

xuất hàng hóa xuất khẩu. Trong khi chờ kết quả kiểm tra, xác minh xuất xứ

hàng hóa, hàng hóa xuất khẩu được thông quan theo quy định.

• Đối với việc kiểm tra, xác định và xác minh xuất xứ hàng hóa nhập

khẩu: Cơ quan hải quan kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hóa nhập khẩu trên

cơ sở nội dung khai của người khai hải quan, chứng từ chứng nhận xuất xứ,

chứng từ thuộc hồ sơ hải quan và kết quả kiểm tra thực tế hàng hóa. Chứng từ

chứng nhận xuất xứ hàng hóa nhập khẩu do cơ quan có thẩm quyền của nước

xuất khẩu phát hành hoặc do người sản xuất, người xuất khẩu hoặc người

nhập khẩu tự chứng nhận theo quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN. Trường hợp

có nghi ngờ về xuất xứ hàng hóa nhập khẩu, cơ quan hải quan tiến hành kiểm

tra, xác minh xuất xứ hàng hóa tại nước sản xuất hàng hóa. Kết quả kiểm tra,

xác minh xuất xứ có giá trị pháp lý để xác định xuất xứ hàng hóa nhập khẩu.

Trong khi chờ kết quả kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hóa, hàng hóa nhập

khẩu được thông quan theo quy định nhưng không được hưởng thuế suất ưu

đãi đặc biệt. Số thuế chính thức phải nộp căn cứ vào kết quả kiểm tra, xác

minh xuất xứ hàng hóa.

• Đối với việc kiểm tra sau thông quan về xuất xứ hàng hoá. Cơ quan

hải quan bằng nghiệp vụ kiểm tra sau thông quan tiến hành kiểm tra xác định

xuất xứ hàng hoá đã thông quan thông qua việc kiểm tra bộ hồ sơ, chứng từ

liên quan đến xuất xứ hàng hoá và kiểm tra thực tế hàng hoá (trong điều kiện

hàng hoá nhập khẩu còn ở doanh nghiệp và không bị thay đổi mã HS). Trong

trường hợp cần thiết, để kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hoá, cơ quan hải

quan có thể tiến hành đối chiếu với quy trình sản xuất, chế biến sản phẩm

hoặc phân tích hàng hoá để xác định hàm lượng, tiêu chí xuất xứ hàng hoá,

mã số hàng hoá làm căn cứ để xác định chính xác xuất xứ hàng hoá. Khi có

nghi vấn về xuất xứ hàng hoá nhập khẩu đã thông quan nhưng chưa đủ cơ sở

119

kết luận thì phải tiến hành điều tra xác minh tại nước xuất xứ. Việc xác minh

xuất xứ hàng hóa nhập khẩu với cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận

xuất xứ hàng hóa; tổ chức, cá nhân tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa hoặc tại

cơ sở sản xuất hàng hóa xuất khẩu được thực hiện theo trình tự quy định tại

quy tắc xuất xứ của hiệp định ATIGA. Khi có dấu hiệu gian lận xuất xứ hàng

hóa xuất khẩu hoặc trên cơ sở thông tin cảnh báo về chuyển tải bất hợp pháp,

cơ quan Hải quan yêu cầu người khai hải quan cung cấp chứng từ chứng minh

xuất xứ hàng hóa xuất khẩu hoặc tiến hành kiểm tra chi tiết: Kiểm tra cơ sở có

thực sự có hoạt động sản xuất không (con người, máy móc, nguyên liệu,...),

kiểm tra nguồn nguyên liệu đầu vào (mua trong nước, mua nước ngoài,...),

kiểm tra tỷ lệ/ hàm lượng tiêu chuẩn xuất xứ (đánh giá có đáp ứng điều kiện

để cấp xuất xứ Việt Nam không? ), .v .v

• Đối với công tác xử lý vi phạm về xuất xứ hàng hoá. Cơ quan hải

quan khi phát hiện ra hành vi vi phạm về xuất xứ hàng hoá của người khai hải

quan sẽ căn cứ vào các quy định tại Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15

tháng 10 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính và

cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan, Nghị định

số 45/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số

điều của Nghị định số 127/2013/NĐ-CP và Thông tư số 155/2016/TT-BTC

quy định chi tiết thi hành việc xử phạt vi phạm hành chính và cưỡng chế thi

hành quyết định hành chính trong lĩnh vực hải quan để tiến hành xử lý theo

trình tự quy định.

3.3.4.Thực trạng thực thi quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN trong áp

dụng thuế quan ưu đãi của các doanh nghiệp.

Theo quy định để được hưởng thuế quan ưu đãi của các nước ASEAN

thì hàng hoá nhập khẩu phải xuất trình chứng nhận xuất xứ hàng hoá cho cơ

quan hải quan nước ASEAN nhập khẩu. Đối với hàng hoá xuất khẩu và nhập

120

khẩu giữa Việt Nam với các nước ASEAN thì doanh nghiệp thực hiện theo

những cách thức khác nhau.

Đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN. Các

doanh nghiệp Việt Nam áp dụng quy tắc xuất xứ ASEAN để xin cấp C/O mẫu

D cho hàng hoá xuất khẩu để nhằm hưởng thuế quan ưu đãi mà các nước

ASEAN dành cho Việt Nam theo cam kết của hiệp định ATIGA. Việc xin cấp

C/O mẫu D được thực hiện qua việc doanh nghiệp phải đăng ký hồ sơ thương

nhân và nộp hồ sơ xin cấp C/O mẫu D tại các địa điểm do Bộ công thương cấp

phép là các phòng quản lý XNK khu vực, ban quản lý các khu công nghiệp,

khu kinh tế, khu chế xuất. Trên cơ sở C/O mẫu D được cấp theo quy định,

doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ gửi cho đối tác nhập khẩu tại nước

ASEAN để xuất trình cho cơ quan hải quan nước nhập khẩu để được hưởng

thuế quan ưu đãi. Bên cạnh đó, hiện các doanh nghiệp Việt Nam cũng có thể áp

dụng hình thức tự chứng nhận xuất xứ trên hoá đơn thương mại cho hàng hoá

xuất khẩu sang các nước Lào, Philippines, Indonesia và Thái Lan. Tuy nhiên,

việc này phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về tự chứng nhận xuất xứ và

phải được sự cấp phép của Bộ công Thương. Tính đến hết năm 2016, Bộ công

thương mới chỉ cho phép 2 doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện tự chứng nhận

xuất xứ là Công ty cổ phần Sữa Vinamilk và công ty Nestlé Việt Nam.

Đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN vào Việt Nam. Doanh

nghiệp nhập khẩu sẽ phải xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D do cơ

quan có thẩm quyền của nước ASEAN xuất khẩu cấp theo đúng quy định của

quy tắc xuất xứ hàng hoá theo hiệp định ATIGA hoặc là chứng từ tự chứng

minh xuất xứ hàng hoá (đối với những doanh nghiệp của các nước Lào,

Philippines, Indonesia và Thái Lan được phép tự chứng nhận xuất xứ) cho cơ

quan hải quan Việt Nam tại thời điểm làm thủ tục hải quan để được hưởng

mức thuế quan ưu đãi đặc biệt dành cho hàng hoá của các nước ASEAN.

121

Trong trường hợp tại thời điểm làm thủ tục hải quan mà doanh nghiệp nhập

khẩu chưa xuất trình được C/O bản gốc theo quy định cho cơ quan hải quan

Việt Nam thì phải làm thủ tục xin phép nộp chậm theo quy định và tạm thời

không được hưởng mức thuế ưu đãi đặc biệt (áp dụng mức thuế quan MFN)

đến khi xuất trình được C/O bản gốc theo đúng quy định trong thời gian được

phép nộp chậm.

3.4. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ HÀNG

HOÁ ASEAN VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI TRONG

TRAO ĐỔI THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ CÁC NƯỚC

THÀNH VIÊN AEC.

Để đánh giá được những tác động của việc thực hiện quy tắc xuất xứ

ASEAN và thuế quan ưu đãi trong AEC đối với thương mại Việt Nam thì

trong phần này, NCS tập trung vào đánh giá trên hai khía cạnh là sử dụng mô

hình trọng lực để nhận diện các nhân tố và mức độ ảnh hưởng đến trao đổi

thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên AEC. Bên cạnh đó, NCS

cũng sử dụng những số liệu thống kê thực tiễn trao đổi thương mại giữa Việt

Nam với các nước thành viên AEC từ 2006 đến 2016 để làm rõ những ảnh

hưởng của việc áp dụng quy tắc xuất xứ ASEAN theo lộ trình áp dụng thuế

quan ưu đãi từ khi thực hiện hiệp định CEPT đến ATIGA và AEC.

3.4.1.Đánh giá tác động của các nhân tố ảnh hưởng đến trao đổi thương

mại giữa Việt Nam và các nước thành viên AEC qua áp dụng mô hình

trọng lực.

Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu sử dụng mô hình trọng lực để đánh giá

các nhân tố ảnh hưởng đến trao đổi thương mại của các học giả như phân tích ở

mục 2.4 chương 2 của luận án. Thêm vào đó, do sự hạn chế về dữ liệu thống kê

ở Việt Nam nên ở phần này, tác giả sẽ chỉ sử dụng mô hình trọng lực để đánh

giá tác động đến trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên

122

còn lại của AEC với các biến cơ bản sử dụng là: GDP, dân số, tỷ giá, chênh

lệch thu nhập và thuế quan ưu đãi bình quân. Biến khoảng cách không được

đưa vào xem xét bởi những tác động không rõ ràng khi khó đánh giá mức so

sánh khoảng cách từ nơi xuất khẩu đến nơi nhập khẩu trong cùng khối

ASEAN. Số liệu được lấy trong giai đoạn từ 2006 đến 2015 trong đó số liệu

GDP, dân số, tỷ giá, chênh lệch thu nhập được chiết xuất từ cơ sở dữ liệu của

ban thư ký ASEAN13, dữ liệu thuế quan bình quân được chiết xuất từ cơ sở dữ

liệu thuế quan của WTO14. Số liệu được tổng hợp tại phụ lục 4 của luận án.

Phương trình hồi quy mô hình được thể hiện dưới dạng sau:

- Luồng xuất khẩu:

Ln (EXvnjt) =β0 + β1 ln (GDPvnt*GDPjt) + β2 ln (POPvnt*POPjt) + β3 ln (ERvnjt)

(3.1) + β4 ln (INCOMEGAPvnjt) + β5 Tjvnt

-Luồng nhập khẩu:

Ln (IMvnjt) =β0 + β1 ln (GDPvnt*GDPjt) + β2 ln (POPvnt*POPjt) + + β3 ln (ERvnjt)

+ β4 ln (INCOMEGAPvnjt) + β5 Tvnjt (3.2)

Trong đó:

EXvnjt Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang nước j năm t.

IMvnjt Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ nước j của Việt Nam năm t.

GDPvnt, GDPjt của Việt Nam, nước j tại năm t.

POPvnt, POPjt dân số cuả Việt Nam, nước j tại năm t.

ERjvnt Tỷ giá giữa đồng tiền nước j và Việt Nam năm t.

INCOMEGAPvnjt chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa nước j

và Việt Nam năm t.

Tjvnt Thuế nhập khẩu nước j áp dụng đối với hàng hoá từ Việt Nam năm t.

13 Nguồn tại http://data.aseanstats.org/

14 Nguồn tại http://tao.wto.org/

Tvnjt Thuế nhập khẩu Việt Nam áp dụng cho hàng hoá nước j năm t.

123

Kết quả chạy mô hình cho ra kết quả tại bảng 3.3.

Bảng 3.3.Kết quả ước lượng mô hình trọng lực cho xuất khẩu và nhập

khẩu hàng hoá của Việt Nam với các đối tác trong AEC

Xuất khẩu Nhập khẩu

0.7218 1.4255* lngdp_gdpvn

(0.478) (0.391)

-1.1987 -6.8698*** lnpop_popvn

(2.817) (3.225)

-0.2012 -0.4165 lner

(0.522) (0.628)

-0.0398 0.1858 lnincomegap

(0.441) (0.949)

-0.0826

tjvnt

(0.066)

0.0417

tvnjt

(0.073)

17.2187 122.8313*** Constant

(53.820) (60.034)

57 56 Observations

0.690 0.341 R-squared

6 6 Number of id

* p<0.05, ** p<0.01, *** p<0.1

Kết quả ước lượng tại bảng 3.3 cho thấy, nhiều biến số có dấu như kỳ vọng.

Biến GDP thể hiện quy mô nền kinh tế đều mang dấu dương trong cả hai

phương trình cho thấy khối lượng thương mại trao đổi giữa Việt Nam và các

nước đối tác trong AEC tỷ lệ thuận với quy mô của nền kinh tế, điều này là

phù hợp với các lý thuyết về kinh tế. So sánh hệ số biến GDP ở hai phương

124

trình có thể thấy được hệ số của phương trình nhập khẩu có giá trị lớn hơn

(1,4255) so với xuất khẩu (0,7218). Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế,

Việt Nam luôn nhập siêu lớn trong quan hệ thương mại với ASEAN (được lý

giải qua số liệu thống kê quan hệ thương mại giữa Việt Nam-ASEAN tại bảng

3.4). Đặc biệt những quốc gia có GDP cao trong ASEAN thì trao đổi thương

mại của Việt Nam với những nước này càng cao.

Về biến dân số POP: hệ số hồi quy của dân số giữa Việt Nam và các

nước thành viên AEC nhận giá trị âm cho cả hai phương trình, trong đó hệ số

của phương trình nhập khẩu có giá trị âm lớn hơn xuất khẩu rất nhiều. Điều

này cho thấy quy mô thị trường đại diện bằng quy mô dân số của Việt Nam và

các nước đối tác có tác động ngược chiều đến luồng trao đổi thương mại. Từ

đó cho thấy thực trạng sản xuất hàng hoá giữa Việt Nam các các nước AEC

có sự tương đồng về ngành hàng nên nhu cầu trao đổi trao đổi hàng hoá khi

quy mô dân số tăng nên là không rõ.

Về biến tỷ giá hối đoái ER: Tỷ giá hối đoái nhận giá trị âm cho cả hai

phương trình cho thấy sự mất giá thực của đồng Việt Nam làm giảm trao đổi

thương mại của Việt Nam với các nước thành viên AEC. Nguyên nhân có thể

do trong những năm qua xuất khẩu của Việt Nam sang các nước AEC chủ yếu

là những mặt hàng nông sản, nguyên liệu thô chưa qua chế biến. Đây là

những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp và cũng có độ co giãn về giá thấp.

Đồng thời Việt Nam cũng nhập khẩu nhiều mặt hàng máy móc, nông sản,

nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước cũng đều là những mặt hàng có

độ co giãn giá cả thấp. Nền sản xuất trong nước có sự phát triển nên nguồn

cung hàng hoá cũng rồi dào. Thêm vào đó tỷ giá trong những năm qua được

Việt Nam duy trì tương đối ổn định nên sự biến động về tỷ giá không tác

động nhiều đến hoạt động trao đổi thương mại.

Về biến chênh lệch thu nhập bình quân đầu người incomegap: Chênh

125

lệch thu nhập giữa các nước đối tác và Việt Nam mang dấu âm trong phương

trình xuất khẩu và dấu dương trong phương trình nhập khẩu. Điều này cho

thấy, Việt Nam có xu hướng xuất khẩu nhiều hàng hoá sang nước có mức thu

nhập thấp và nhập khẩu nhiều hàng hoá từ các nước phát triển hơn trong

AEC. Thực tiễn cho thấy, Việt Nam có sự trao đổi nhập khẩu hàng hoá nhiều

với các nước thu nhập bình quân đầu người cao hơn trong AEC là Singapore,

Malaysia, Thái Lan và Indonesia. Đồng thời, chiều ngược lại Việt Nam có xu

hướng gia tăng xuất khẩu hàng hoá vào những thị trường có mức thu nhập

thấp như Lào, Campuchia, Myanmar. Từ đó cho thấy, trình độ sản xuất và

hàm lượng giá trị công nghệ trong hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam còn

thấp, chủ yếu phù hợp với nhu cầu của những nước có mức thu nhập thấp,

chưa cạnh tranh được khi xuất khẩu sang thị trường các nước phát triển hơn.

Ảnh hưởng của biến thuế quan t trong kết quả hồi quy cho thấy, hệ số

hồi quy của biến thuế quan đối với xuất khẩu mang dấu âm (-0,0826) và nhập

khẩu là dương (0,0417). Điều này cho thấy, thuế nhập khẩu của một nước

thành viên AEC áp dụng có ảnh hưởng tiêu cực đến luồng xuất khẩu của Việt

Nam sang nước đó. Còn thuế nhập khẩu của Việt Nam đang áp dụng lại có tác

động tích cực đến luồng nhập khẩu hàng hoá từ các nước AEC. Từ đó cho

thấy, mức độ tận dụng thuế quan ưu đãi trong trao đổi thương mại của Việt

Nam thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển trong AEC, khi mà mức

thuế quan theo lộ trình cắt giảm thuế càng thấp đi thì mức độ nhập siêu hàng

hoá lại càng tăng lên.

Xét về tổng thể, qua đánh giá về mô hình trọng lực cho thấy, các nhân tố

ảnh hưởng đến trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên

AEC giai đoạn từ 2006 đến 2015 là các nhân tố phản ánh trình độ phát triển

của nền kinh tế (GDP, thu nhập bình quân đầu người) có tác động tích cực

trong trao đổi thương mại. Nhân tố thuế quan có ảnh hưởng theo chiều hướng

126

càng giảm thuế thì luồng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam càng tăng lên.

Tuy nhiên, mức độ tăng thấp cho thấy việc tận dụng được những ưu đãi về

thuế quan để xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang các nước thành viên

AEC còn chưa tốt nên nhân tố thuế quan có sự ảnh hưởng chưa mạnh đối với

trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên của AEC. Như

vậy có thể thấy rằng, tác động của thuế quan qua mô hình đã phản ảnh đúng

thực tế rằng sự tác động của nó đến thương mại giữa Việt Nam và các nước

ASEAN là không lớn. Đặc biệt là đối với hoạt động xuất khẩu hàng hoá của

Việt Nam sang các nước ASEAN, khi mà phần lớn trong giai đoạn đầu của

thực hiện cắt giảm thuế quan, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là khoáng

sản và nông sản. Đây là những mặt hàng có mức độ chế biến thấp, thuế quan

ưu đãi của các nước ASEAN nhập khẩu phần lớn không có sự chênh lệch với

thuế MFN nên doanh nghiệp xuất khẩu không cần phải sử dụng C/O đối với

hàng hoá xuất khẩu và vì vậy tác động của cắt giảm thuế quan làm tăng kim

ngạch là thấp. Mức độ tác động có cải thiện trong những năm gần đây khi mà

cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã có sự gia tăng của những hàng hoá chế biến.

Điều này cũng được minh chứng qua phân tích số liệu thống kê trao đổi

thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN ở mục 3.4.2.

3.4.2. Thực tiễn tác động việc áp dụng thuế quan ưu đãi và quy tắc xuất

xứ hàng hoá đối với thương mại Việt Nam trong AEC.

Để thực hiện được các mục tiêu cũng như chiến lược đặt ra khi gia nhập

AEC, Việt Nam cũng đã tích cực tiến hành đồng bộ các giải pháp nhằm thực

hiện đầy đủ các cam kết trong AEC. Trong đó có thể thấy được, việc đẩy

mạnh quá trình thực hiện hiệp định ATIGA từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đã

có 8.603 dòng thuế, chiếm xấp xỉ 90% tổng Biểu thuế xuất nhập khẩu được

cắt giảm xuống thuế suất 0%. Số còn lại gồm 669 dòng thuế (chiếm 7% Biểu

thuế) sẽ về 0% vào năm 2018. Đây là những mặt hàng nhạy cảm trong thương

127

mại giữa Việt Nam và ASEAN, tập trung vào các nhóm hàng như ô tô, xe

máy, phụ tùng linh kiện ô tô xe máy, dầu thực vật, hoa quả nhiệt đới, đồ điện

dân dụng như tủ lạnh, máy điều hòa, sữa và các sản phẩm sữa .v. v.

ASEAN là một trong các đối tác thương mại quan trọng hàng đầu và là

động lực quan trọng giúp nền kinh tế Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng và

xuất khẩu trong nhiều năm qua. Với lợi thế là một khu vực phát triển năng

động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có

mức tăng trưởng cao nhờ hàng hoá trao đổi được hưởng thuế quan ưu đãi đặc

biệt CEPT/ATIGA ở mức thấp khi được công nhận xuất xứ của ASEAN. Với

việc gia nhập AEC và tiếp tục thực hiện một cách mạnh mẽ các cam kết về

thương mại theo hiệp định ATIGA cho thấy tác động rất lớn đến quan hệ

thương mại giữa Việt Nam và các nước thành viên ASEAN.

Xét về kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá giữa Việt Nam với

các nước ASEAN. Qua 10 năm thực hiện cam kết về cắt giảm thuế quan kể từ

2006, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu trao đổi thương mại giữa Việt Nam

không ngừng tăng lên mạnh mẽ (thể hiện qua số liệu bảng 3.4). Thương mại

hai chiều giữa các nước ASEAN và Việt Nam khoảng 19,179 tỷ USD năm

2006, đã tăng hơn 2,15 lần, đạt đến 41,356 tỷ USD vào 2016.

128

Bảng 3.4. Giá trị kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương

mại giữa Việt Nam- ASEAN giai đoạn 2006-2016

Đơn vị tính: Triệu USD

Cán cân

Tổng kim

Năm

Xuất khẩu

Nhập Khẩu

ngạch XNK

thương mại

2006 6.632,60 12.546,60 19.179,20 -5.914,00

2007 8.110,30 15.908,20 24.018,50 -7.797,90

2008 10.337,70 19.567,70 29.905,40 -9.230,00

2009 8.761,30 16.461,30 25.222,60 -7.700,00

2010 10.364,70 16.407,50 26.772,20 -6.042,80

2011 13.656,00 20.910,20 34.566,20 -7.254,20

2012 17.426,50 20.820,30 38.246,80 -3.393,80

2013 18.584,40 21.287,10 39.871,50 -2.702,70

2014 19.106,80 22.918,50 42.025,30 -3.811,70

2015 18.043,86 23.881,16 41.925,02 -5.837,30

2016 17.473,04 23.883,14 41.356,18 -6.410,09

(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục thống kê Việt Nam 2017)

Xét trong từng giai đoạn cho thấy:

Trong giai đoạn 2006-2008, trị giá buôn bán hàng hoá hai chiều trong

giai đoạn 2006-2008 liên tục tăng cao qua các năm, với tốc độ tăng bình quân

khoảng 25,9%/năm. Cụ thể trong năm 2006, tổng kim ngạch hàng hóa xuất

nhập khẩu giữa Việt Nam - ASEAN chỉ đạt 19,17 tỷ USD, trong khi đó con

số này của năm 2008 là 29,9 tỷ USD, tăng gấp hơn 1,5 lần so với năm 2006.

Trong năm 2009, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế

giới, tổng trị giá giao thương giữa Việt Nam với tất cả các quốc gia thành viên

ASEAN chỉ đạt con số 25,2 tỷ USD, giảm 15,66% so với năm 2008

trước đó.

129

Trong giai đoạn 2010-2012: Sau khủng khoảng kinh tế trong năm 2009,

thương mại hàng hóa giữa Việt Nam –ASEAN hồi phục trở lại với mức tăng

trưởng 2 con số, tốc độ tăng bình quân cả giai đoạn này đạt 19%/năm. Cụ thể

trong năm 2012, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và ASEAN

lên đến con số 38,24 tỷ USD.

Trong giai đoạn từ 2013 đến 2016: Buôn bán hai chiều giữa Việt Nam

và ASEAN vẫn đạt được tăng trưởng dương nhưng có dấu hiệu chậm lại. Cụ

thể trong năm 2014 đạt 42,025 tỷ USD, tăng 5,4% so với kết quả thực hiện

cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên bước sang năm 2015, kim ngạch trao đổi

thương mại có xu hướng giảm đi, năm 2015 chỉ đạt 41,92 tỷ USD (giảm

0,24% so với kết quả thực hiện cùng kỳ năm trước) và năm 2016 tiếp tục

giảm xuống chỉ còn 41,35 tỷ USD (giảm 1,36% so với kết quả thực hiện cùng

kỳ năm trước).

Xét trong mối quan hệ với mức độ cắt giảm thuế quan, tại hình 3.4 cho

thấy xu hướng tăng kim ngạch XNK luôn cùng chiều với xu hướng cắt giảm

thuế quan. Điều này có nghĩa, với mức thuế suất bình quân ngày càng giảm

thì kim ngạch trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN không

ngừng tăng lên mạnh mẽ. Qua số liệu tại bảng 3.4 và hình 3.4 cho thấy cùng

với xu hướng tăng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu thì trong 10 năm qua,

Việt Nam luôn nhập siêu trong buôn bán với các nước thành viên

ASEAN. Tuy nhiên, do tốc độ tăng xuất khẩu sang ASEAN cao hơn tốc độ

tăng nhập khẩu từ thị trường này nên trong những năm gần đây mức thâm hụt

ngày càng thu hẹp lại và tỷ lệ nhập siêu từ ASEAN giảm dần. Cụ thể, năm

2006 có Việt Nam nhập siêu từ các nước ASEAN là 5,91 tỷ USD, đến năm

2014 xuống còn 3,91 tỷ USD, nhưng bước sang năm 2015 khi thực hiện cắt

giảm mạnh mẽ hơn các dòng thuế nhạy cảm thì thâm hụt lại tăng lên 5,84 tỷ

USD và năm 2016 lượng nhập siêu đã là 6,41 tỷ USD.

130

Hình 3.4. Kim ngạch XK, NK, cán cân thương mại giữa Việt Nam với các

nước ASEAN theo mức độ thuế quan bình quân cắt giảm từ 2006-2016

(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Tổng cục thống kê Việt Nam và Ban thư ký

ASEAN 2016)

Về thứ hạng và tỷ trọng:

Trong những năm qua, ASEAN luôn là đối tác lớn về xuất khẩu và nhập

khẩu hàng hoá với Việt Nam. Điều này có thể thấy được qua hình 3.5 về quan

hệ thương mại giữa Việt Nam và một số đối tác lớn năm 2016. Trong đó về

xuất khẩu, ASEAN là thị trường xuất khẩu hàng hóa chiếm tỷ trọng 9,89%

tổng kim ngạch và lớn thứ 4 của các doanh nghiệp Việt Nam, chỉ sau thị

trường Hoa Kỳ, thị trường các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) và

Trung Quốc. Ở chiều ngược lại, ASEAN là đối tác thương mại cung cấp

nguồn hàng hoá lớn thứ 3 cho các doanh nghiệp Việt Nam (sau Trung Quốc

và Hàn Quốc) và chiếm tỷ trọng 13,72% tổng kim ngạch nhập khẩu.

131

Hình 3.5. Kim ngạch XK, NK giữa Việt Nam và một số đối tác lớn năm 2016

Xem xét về tốc độ tăng trưởng XK, NK: Tốc độ tăng trưởng bình quân

kim ngạch XNK của Việt Nam với khu vực ASEAN luôn thấp hơn so với tốc

độ tăng trưởng xuất nhập khẩu bình quân với các nước ngoài ASEAN và của

cả nước (xem hình 3.6).

Hình 3.6. Tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu bình quân của Việt

Nam giai đoạn 2007-2016

Do đó có thể thấy rằng, tỷ trọng giao thương của Việt Nam với khu vực

ASEAN trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có xu hướng

132

giảm dần qua các năm (xem Hình 3.7 A và 3.7 B).

Hình 3.7 A. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu với khu vực ASEAN trong

tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam 2006- 2016

Hình 3.7 B. Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu với khu vực ASEAN trong

tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam 2006- 2016

Về mặt hàng xuất khẩu:

Năm 2010 là năm bản lề với tiến trình liên kết các thành viên Hiệp hội

133

các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)-chuyển sang giai đoạn phát triển mới,

hướng tới mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN (AC) vào năm 2015 dựa

trên trên ba trụ cột Cộng đồng Chính trị-An ninh (APSC), Cộng đồng Kinh tế

(AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ACSC). Do đó, xuất khẩu của Việt

Nam sang ASEAN từ năm 2005 đến nay cũng chia thành 2 giai đoạn:

Trước năm 2010, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang

thị trường ASEAN chủ lực có dầu thô và gạo (xem hình 3.8A cho thấy năm

2007 hai nhóm hàng chiếm tới 48% tổng kim ngạch XNK, năm 2010 giảm

xuống còn 36%), đây là 2 nhóm hàng mà tiêu chí để xác định xuất xứ được áp

dụng là WO. Đối với Việt Nam thì tiêu chí này trước năm 2010 sẽ dễ đạt

được hơn so với các tiêu chí về mức độ gia công, chế biến hàng hoá bởi vì

nền sản xuất trong nước của Việt Nam có mức độ phát triển chậm hơn với các

nước ASEAN-6 và phụ thuộc lớn vào các doanh nghiệp FDI. Thí dụ như, đến

tháng 2/2009 nhà máy lọc dầu Dung Quất Việt Nam mới bắt đầu sản xuất

được các sản phẩm chế biến từ dầu mỏ nhưng chủ yếu là đáp ứng nhu cầu

trong nước hay cuối năm 2009 thì nhà máy Samsung ở Việt Nam mới đi vào

sản xuất, lắp ráp điện thoại di động, các sản phẩm điện tử. Do đó, trước năm

2010 thì những sản phẩm đòi hỏi mức độ gia công, chế biến thấp của Việt

Nam có lợi thế đáp ứng tiêu chí xuất xứ WO sẽ thuận lợi được hưởng ưu đãi

thuế quan khi xuất sang các nước ASEAN và chiếm tỷ trong lớn trong xuất

khẩu của Việt Nam như dầu thô (35%), gạo (13%), than đá, cao su, cà phê,

hải sản, .v .v.

134

Năm 2007

Năm 2010

Hình 3.8 A.Cơ cấu xuất khẩu mặt hàng chủ lực sang thị trường ASEAN

Kể từ năm 2010 đến nay, mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang

ASEAN đã trở nên đa dạng, phong phú hơn nhờ nền sản xuất hàng hoá trong

nước đã có những sự phát triển mạnh mẽ với làn sóng đầu tư FDI từ các

doanh nghiệp Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, v .v..Chính điều

này đã làm kéo theo mức độ gia tăng về các sản phẩm gia công, chế biến sử

dụng tiêu chí RVC và CTC trong xuất khẩu sang các nước ASEAN. Xem

hình 3.8B cho thấy, ngoài 2 nhóm hàng truyền thống dầu thô và gạo xuất sang

ASEAN (hiện giảm xuống chỉ chiếm tương ứng là 3% và 2%) các doanh

nghiệp ở Việt Nam còn phát triển xuất khẩu sản xuất nhiều nhóm hàng như

điện thoại các loại & linh kiện (chiếm tỷ trọng lớn nhất là 13%); máy vi tính

sản phẩm điện tử & linh kiện (12%); sắt thép các loại, máy móc thiết bị dụng

cụ & phụ tùng (8%). Ngoài ra, một số sản phẩm xuất khẩu là thế mạnh của

doanh nghiệp Việt Nam như hàng dệt may, giày dép, thủy sản, cà phê, cao su

cũng đã được đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường ASEAN.

135

Hình 3.8B.Cơ cấu xuất khẩu mặt hàng chủ lực sang thị trường ASEAN

trong năm 2016

Về mặt hàng nhập khẩu:

Trong nhiều năm qua, chiếm tỷ trọng trên 60% kim ngạch nhập khẩu từ

ASEAN, chủ yếu là những mặt hàng nhập khẩu thiết yếu, nguyên phụ liệu

đầu vào phục vụ sản xuất trong nước như: xăng dầu các loại; máy móc, thiết

bị, dụng cụ & phụ tùng; máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện; chất dẻo

nguyên liệu; giấy; gỗ & sản phẩm gỗ; hàng điện gia dụng & linh kiện; linh

kiện & phụ tùng ô tô; hóa chất & sản phẩm hóa chất .v.v.

Năm 2007 Năm 2010

Hình 3.9A.Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu chủ lực có xuất xứ từ ASEAN

136

Hình 3.9B.Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu chủ lực có xuất xứ từ ASEAN

năm 2016

Trong thương mại nội khối, Việt Nam có quan hệ giao thương tập trung

với 4 thị trường chính là Singapore, Thái Lan, Malaysia và Indonesia (xem

hình 3.10). Đây là nhóm nước có nền công nghiệp và doanh nghiệp trong

nước phát triển nhất so với các nước còn lại trong ASEAN. Số liệu thống kê

cũng cho thấy, tổng trị giá hàng hóa trao đổi với 4 đối tác này chiếm tới hơn

80% tổng kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam với ASEAN (Năm

2006 chiếm 87,4% và năm 2016 chiếm 81,4%). Trong đó, kim ngạch nhập

khẩu hàng hoá từ Thái Lan có sự tăng lên mạnh mẽ vượt qua Singapore và

chiếm vị trí số 1, đặc biệt là năm 2016 chiếm đến 36,83% kim ngạch nhập

khẩu hàng hoá từ các nước ASEAN tập trung chủ yếu vào các mặt hàng gia

dụng tiêu dùng, điện tử, ô tô nguyên chiếc, v. v.

Xét về vị thế trong quan hệ thương mại cho thấy, về thị trường xuất khẩu

của Việt Nam trong AEC thì Thái Lan đứng số 1, tiếp theo là Malaysia đứng

thứ 2 và Indonesia đứng thứ 3. Đáng chú ý, thị trường Campuchia và

Philippin cùng có mức tăng trưởng rất nhanh với kim ngạch nhập khẩu hàng

hoá từ Việt Nam năm 2016 đã vượt qua mức 2,2 tỷ USD.

137

Ở chiều ngược lại, Thái Lan ở vị trí số 1 và Singapore ở vị trí số 2 là hai

đối tác lớn nhất cung cấp hàng hoá cho Việt Nam với tỷ trọng khoảng 56,5%

tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ AEC năm 2016.

Hình 3.10. Thương mại giữa Việt Nam với các nước ASEAN 2006 & 2016

3.5. NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN

CỦA NHỮNG HẠN CHẾ KHI THỰC HIỆN QUY TẮC XUẤT XỨ

HÀNG HOÁ VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI TRONG

AEC CỦA VIỆT NAM.

3.5.1.Những kết quả đạt được.

Thứ nhất, đã xây dựng và ban hành kịp thời các quy định pháp luật có

liên quan đến lĩnh vực xuất xứ hàng hoá, trong đó có các quy định liên quan

đến thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong ASEAN. Điều đó đã tạo điều

kiện cho doanh nghiệp hưởng lợi từ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế và

phục vụ cho công tác điều hành, quản lý hoạt động xuất nhập khẩu liên quan

138

đến lĩnh vực xuất xứ hàng hóa. Cụ thể từ năm 2006 đến nay, Chính phủ và

các Bộ, ngành đã ban hành 34 văn bản pháp lý về xuất xứ hàng hóa15, trong

đó có Nghị định số 19/2006/NĐ-CP ngày 20/2/2006 của Chính phủ quy định

chi tiết Luật Thương mại về xuất xứ hàng hóa và các thông tư, quyết định

hướng dẫn thực hiện quy tắc xuất xứ. Đối với quy định về xuất xứ ASEAN,

bên cạnh chịu áp dụng các quy định chung về xuất xứ trong luật thương mại,

luật hải quan, luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu và các văn bản hướng dẫn các

luật này thì Bộ công thương đã ban hành một loạt các thông tư quy định cụ

thể về quy tắc xuất xứ hàng hoá áp dụng trong ASEAN. Trong đó, để thực

hiện việc gia nhập AEC thì hiện nay Bộ công thương đã hoàn thiện ban hành

hai văn bản áp dụng quy định về xuất xứ đối với những hàng hoá có xuất xứ

ASEAN đó là: Thông tư 22/2016/TT-BCT ban hành ngày 03/10/2016 (thay

thế cho thông tư 21/2010/TT-BTC ban hành 17/05/2010 và thông tư

42/2014/TT-BTC ban hành 18/11/2014) để thực hiện Quy tắc xuất xứ hàng

hóa trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN; và thông tư 28/2015/TT-

BCT ban hành ngày 20/08/2015 quy định việc thực hiện thí điểm tự chứng

nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN. Ngoài

ra, các bên liên quan cũng đã cho xuất bản những tài liệu cung cấp đầy đủ

thông tin về các quy tắc, thủ tục kiểm tra, mẫu kê khai. v. v. để các doanh

nghiệp có thể tiếp cận và thư ̣c hiện nhanh chóng. Bên cạnh đó, để phục vụ do

công tác quản lý, kiểm tra, xác định, xác minh và xử lý các vi phạm về xuất

xứ hàng hoá thì chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan cũng đã ban

hành các văn bản pháp lý về xác định, kiểm tra, xác minh và chống gian lận

xuất xứ làm cơ sở cho việc thực thi pháp luật về xuất xứ hàng hoá cho cơ

quan hải quan Việt Nam.

Thứ hai, xây dựng và triển khai hoạt động hệ thống quản lý và cấp

15 Thống kê tại http://www.ecosys.gov.vn/

139

chứng nhận xuất xứ điện tử. Hệ thống được cung cấp tại địa chỉ website:

www.ecosys.gov.vn từ ngày 14 tháng 05 năm 2015. Chính nhờ vậy mà đã góp

phần giảm thiểu thủ tục hành chính, chi phí và minh bạch hóa quá trình cấp

giấy chứng nhận xuất xứ (C/O), từ đó làm tăng cơ hội và cạnh tranh cho các

doanh nghiệp Việt Nam khi xin C/O cho hàng xuất khẩu sang các nước

ASEAN. Đồng thời với hệ thống Ecosys, Bộ công thương cũng đã xây dựng

mạng lưới gồm 86 tổ chức được phép cấp C/O mẫu D tại Việt Nam là các

phòng quản lý XNK khu vực, ban quản lý các khu công nghiệp, khu kinh tế,

khu chế xuất tạo điều kiện thuận lợi tối đa có các doanh nghiệp trong việc xin

cấp C/O. Thêm vào đó, từ tháng 9/2015, cơ chế một cửa quốc gia của Việt

Nam đã kết nối kỹ thuật thành công với 4 nước ASEAN (Indonesia, Malaysia,

Thái Lan và Singapore) để trao đổi giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D cho hàng

hoá xuất khẩu có xuất xứ ASEAN. Theo đó C/O mẫu D ATIGA điện tử được

cấp và truyền theo phương thức điện tử giữa các nước thành viên thông qua

Cơ chế một cửa ASEAN theo các quy định về an toàn và bảo mật thông tin

nêu tại Điều 9 của Nghị định thư về Khung pháp lý thực hiện Cơ chế một cửa

ASEAN (PLF).

Thứ ba, doanh nghiệp Việt Nam đã có sự quan tâm và chủ động tích cực

trong việc tı̀m hiểu thông tin về AEC, những cam kết thuế quan và quy tắc xuất xứ. Từ đó tận dụng được những lợi ích của thuế quan ưu đãi để tăng

cường tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu. Cùng với đó các

hiệp hội ngành hàng chủ động và tích cư ̣c trong việc phổ biến thông tin tớ i

các doanh nghiệp thuộc hiệp hội. Đồng thời, các hiệp hội cũng rất nỗ lư ̣c hỗ

trơ ̣ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về quy tắc xuất xứ C/O. Nhờ đó, kim

ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sử dụng mẫu C/O D ưu đãi đều tăng

qua các năm thể hiện qua bảng thống kê 3.5 về tình hình sử dụng C/O ưu đãi

tới thị trường ASEAN so với tổng kim nghạch xuất khẩu của cả nước trong

140

giai đoạn từ 2006-2016.

Bảng 3.5 . Tình hình sử dụng C/O mẫu D đối với hàng hoá xuất khẩu

sang ASEAN giai đoạn 2006-2016

Kim ngạch sử

Tỷ lệ kim ngạch sử dụng

Kim ngạch xuất

Năm

dụng C/O16

C/O trên tổng kim ngạch

khẩu (Triệu USD)

XK (%)

(Triệu USD)

450,2

7,10

2006

6.300

733,49

9,41

2007

7.790

901,6

10,49

2009

8.591,87

1.453

14,04

2010

10.350,95

2.712

19,97

2011

13.583,28

3.757

21,70

2012

17.312,11

5.362

29,03

2013

18.470,19

4.772,547

25,2

2014

19.090,19

4.430

24,2

2015

18.300

5.320,7

30

2016

17.473

(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ Bộ công thương & Tổng cục thống kê 2017)

Qua số liệu thống kê tại bảng 3.5 cho thấy, tỷ lệ sử dụng C/O ưu đãi mẫu

D của các doanh nghiệp ở Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá sang ASEAN có

sự tăng lên qua các năm từ mức chỉ có khoảng 7,1% (năm 2006) kim ngạch

xuất khẩu sang ASEAN sử dụng C/O mẫu D đã tăng lên mức 29,03% (năm

2013) và 25,2% (năm 2014). Năm 2016, tỷ lệ tận dụng ưu đãi C/O mẫu D là

30%. Một số nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đều đạt tỷ lệ tận

dụng cao, như chè (99%); gỗ và sản phẩm gỗ, giày dép đều đạt tỷ lệ trên dưới

16 Bộ công thương (2014), Báo cáo xuất nhập khẩu việt nam 2013. Trang 107

17 Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2016, trang 158

80%.17

141

Thứ tư, công tác quản lý và kiểm tra việc sử dụng C/O mẫu D đối với

hàng hoá nhập khẩu từ các nước ASEAN cũng đã được quan tâm và chú

trọng. Những kết quả đạt được trong công tác quản lý và kiểm tra đã góp

phần vào việc đảm bảo sử dụng C/O theo đúng quy định, ngăn chặn, phát hiện

và xử lý các hành vi gian lận xuất xứ hàng hoá, gây thiện hại cho cộng đồng

doanh nghiệp và nhà nước. Điển hình là các vụ như: 43 lô hàng thép của 16

doanh nghiệp Việt Nam sử dụng C/O mẫu D với tỷ lệ RVC gian lận là 46,9%

từ phía Philippines bị hải quan thành phố Hồ Chí Minh phát hiện và từ chối

cho hưởng thuế quan ưu đãi CEPT năm 2007 hay vụ phát hiện 23 lô hàng sản

phẩm điện tử, điện lạnh nhập khẩu trị giá 730.000 USD có C/O mẫu D gian

lận RVC là 100% giá trị sản phẩm xuất xứ từ Thái Lan. Công tác phối hợp

giữa hải quan Việt Nam với hải quan các nước và các tổ chức chứng nhận

xuất xứ đã được thiết lập giúp cho việc xác minh xuất xứ hàng hoá được

thuận lợi hơn.

Ngoài ra, trong thời gian gần đây, nhất là khi Việt Nam chính thức gia

nhập AEC thì công tác tuyên truyền, phổ biến về nội dung của các thoả thuận

trong AEC và các cơ hội, thách thức, lơ ̣i ích mà AEC mang lại cho doanh

nghiệp, cho hàng xuất khẩu... tớ i cộng đồng doanh nghiệp thông qua các cuộc

hội thảo đã đươ ̣c tổ chức khắp các vùng miền trong cả nướ c. Các chuyên gia

đến từ Bộ Công Thương, Bộ Tài chính đã cung cấp cho doanh nghiệp thông

tin về những ưu đãi thuế quan mà hàng xuất, nhập khẩu đươ ̣c hưở ng. Các

chương trình phổ biến kiến thức, khoá đào tạo về quy tắc xuất xứ hàng hoá

cho doanh nghiệp được Bộ công thương phối hợp với Phòng Thương mại và

Công nghiệp Việt Nam (VCCI) và sở công thương các tỉnh thành phố được tổ

chức một cách bài bản và thường xuyên hơn. Điều này đã giúp các doanh

nghiệp nâng cao nhận thức và khả năng tận dụng những ưu đãi qua việc áp

dụng các quy định về xuất xứ hàng hoá trong trao đổi thương mại với các

142

doanh nghiệp của các nước thành viên AEC. Quan hệ đối tác Hải quan –

Doanh nghiệp được đẩy mạnh góp phần cải cách thủ tục hành chính, kịp thời

giải quyết những vướng mắc phát sinh, tạo thuận lợi nhiều hơn cho các doanh

nghiệp trong quá trình sử dụng C/O đối với hàng hoá xuất nhập khẩu.

3.5.2. Những hạn chế và nguyên nhân.

3.5.2.1. Những hạn chế.

Thứ nhất, mức độ sử dụng C/O ưu đãi mẫu D của các doanh nghiệp ở

Việt Nam vẫn còn chiếm một tỷ lệ rất thấp. Theo số liệu thống kê tại bảng 3.5

cho thấy cao nhất mới đạt 30% năm 2016. Tỷ lệ này thấp hơn mức bình quân

sử dụng C/O mẫu D của các nước ASEAN là 51,5%18. Như vậy có nghĩa là,

hơn 70% hàng từ Việt Nam xuất khẩu sang các nước trong khu vực ASEAN

không sử dụng các ưu đãi nguồn gốc xuất xứ theo quy định. Đây có thể được

xem là một hạn chế rất lớn của các doanh nghiệp Việt Nam khi không tận

dụng được những lợi ích do AEC đem lại, nhất là việc được hưởng thuế quan

ưu đãi đặc biệt ở mức 0% khi đáp ứng xuất xứ hàng hoá để gia tăng sức cạnh

tranh và xuất khẩu hàng hoá vào thị trường các nước ASEAN. Trong khi ở

chiều ngược lại, các nước ASEAN, đặc biệt là các đối tác chủ yếu trong

ASEAN xuất khẩu hàng sang Việt Nam là Thái lan, Singapore, Malaysia và

Indonesia thì tỷ lệ các doanh nghiệp tận dụng lợi thế khi được hưởng xuất xứ

ASEAN để xuất khẩu rất cao. Thí dụ như theo điều tra khảo sát của Suksri, P.,

S. Sermcheep and P. Srisangnam (2015)19 thì các doanh nghiệp Thái lan sử

dụng C/O mẫu D chiếm tỷ lệ 72% hàng hoá xuất khẩu hàng hoá sang Việt

Nam, Malaysia, Indonesia. Chính bởi vậy, các hàng hoá nhập khẩu vào Việt

18 The Use of FTA in ASEAN, ERIA study, forthcoming, 2015 19 Suksri, P., S. Sermcheep and P. Srisangnam (2015), ‘Survey on the Use of Free Trade Agreements in Thailand’, in Ing, L.Y. and S. Urata (eds.), The Use of FTAs in ASEAN: Survey-based Analysis. ERIA Research Project Report 2013-5, Jakarta: ERIA, pp.243-270

Nam từ các nước thành viên ASEAN khi mức độ cắt giảm thuế càng sâu thì

143

khả năng tận dụng những ưu đãi về xuất xứ hàng hoá để thâm nhập vào thị

trường trong nước, tăng sức ép cạnh tranh ngày càng lớn. Số liệu phân tích tại

hình 3.4 cũng đã chứng minh điều này khi trong 10 năm qua, cán cân thương

mại của Việt Nam luôn ở tình trạng nhập siêu và với mức độ ngày càng tăng

theo tiến trình cắt giảm thuế quan.

Thứ hai, hoạt động cung cấp thông tin về các quy định liên quan đến

xuất xứ hàng hoá nói chung trong đó có xuất xứ hàng hoá của AEC còn rất

hạn chế. Mặc dù các quy định về xuất xứ hàng hoá của ASEAN đã được nội

luật hoá tuy nhiên các quy trình, văn bản hướng dẫn áp dụng quy định xuất xứ

còn phức tạp, các quy định về thủ tục còn chưa tạo thuận lợi tốt nhất cho

người thực hiện. Cơ chế đối thoại, hỗ trợ chưa được xây dựng hoặc đã được

xây dựng nhưng chưa thường xuyên liên tục để giải quyết kịp thời những

vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình áp dụng, đặc biệt là các doanh

nghiệp nhỏ và vừa trong việc tuân thủ các yêu cầu xuất xứ. Do vậy, trong

nhiều trường hợp các doanh nghiệp còn gặp khó khăn, nhầm lẫn khi áp dụng

các quy định xuất xứ của ATIGA với các quy định xuất xứ khác đang triển

khai đồng thời ở Việt Nam.

Thứ ba, chưa xây dựng được một hệ thống các quy định pháp luật và

khung chính sách thương mại đồng bộ và toàn diện tương thích với những

quy định về xuất xứ hàng hoá. Thể hiện qua việc chưa có sự kết hợp và

giao thoa giữa các các quy định pháp luật và chính sách ngoại thương, chính

sách đầu tư, chính sách cạnh tranh, chính sách điều tiết thị trường và các

chính sách liên quan khác với các quy định về xuất xứ hàng hoá. Bởi vậy, các

hàng hoá sản xuất trong nước của Việt Nam chưa có sự bảo vệ, dễ bị tổn

thương bởi sự cạnh tranh của hàng hoá từ các nước ASEAN khi hàng rào về

thuế quan được dỡ bỏ theo lộ trình. Bên cạnh đó là thiếu chiến lược và các

giải pháp phát triển nền sản xuất hàng hoá đảm bảo đáp ứng được các quy

144

định về tiêu chí xuất xứ hàng hoá ASEAN. Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư,

tái cơ cấu sản xuất của các doanh nghiệp để đáp ứng các tiêu chí giấy chứng

nhận xuất xứ còn rất chậm, chưa đáp ứng đươ ̣c yêu cầu.

Thứ tư, hệ thống thủ tục hành chính của Việt Nam liên quan đến công

tác cấp xuất xứ hàng hoá xuất khẩu có C/O mẫu D còn chưa kịp thời và nhiều

bất cập. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn sử dụng C/O. Cụ

thể là việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp lý triển khai áp dụng

thường chậm, như đến 2006 thì mới có các quy định về quy chế cấp giấy

chứng nhận xuất xứ hàng hoá mẫu D (trong khi gia nhập triển khai hiệp định

CEPT/AFTA từ 1996), cơ chế tự chứng nhận xuất xứ được nhiều nước trên thế

giới trong đó có các nước ASEAN áp dụng từ lâu nhưng tận cuối năm 2015

Việt Nam mới có văn bản quy định cụ thể hướng dẫn áp dụng, v.v. Bên cạnh

đó, các quy định về thủ tục hành chính và yêu cầu về chứng từ chứng minh

liên quan đến hình thức xin cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá còn phức tạp,

nhiều giấy tờ, thời gian xin cấp C/O còn lâu. Điều này khiến cho nhiều doanh

nghiệp gặp khó khăn trong việc đáp ứng các thủ tục hành chính liên quan đến

xin cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam. Đối với hình

thức tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá, quy định về thừa nhận, công nhận hình

thức tự chứng nhận của hàng hoá nhập khẩu của các nước ASEAN và sử dụng

các tiêu chí xuất xứ của hình thức tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá tương

thích với hình thức xin chứng nhận xuất xứ hàng hoá hiện nay vẫn chưa có

những quy định cụ thể để doanh nghiệp áp dụng. Quy định về tiêu chuẩn để

tham gia dự án tự chứng nhận xuất xứ ASEAN của Việt Nam theo thông tư

28/2015/TT-BCT đòi hỏi doanh nghiệp phải có kim ngạch xuất khẩu đi thị

trường ASEAN được cấp C/O mẫu D năm trước liền kề đạt tối thiểu 10 triệu

đô la Mỹ. Đây được xem là một trong những tiêu chí thách thức và là rào cản

lớn với nhiều doanh nghiệp sản xuất trong nước hiện nay. Điều này xuất phát

145

từ thực tế là phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ

nên mức kim ngạch xuất khẩu đặt ra như vậy là cao. Đối với những doanh

nghiệp khác thì kim ngạch xuất khẩu của họ có thể cao hơn 10 triệu đô la

Mỹ/năm ở các thị trường khác trên thế giới, nhưng sẽ rất khó đạt được nếu chỉ

khoanh vùng ở khu vực ASEAN, vốn không phải là thị trường xuất khẩu

chính lâu nay của doanh nghiệp Việt Nam. Thêm vào đó là tình trạng bị xử

phạt về chấp hành pháp luật nhất là thuế, hải quan, XNK cũng diễn ra khá phổ

biến vì cả những lý do khách quan và chủ quan khi hệ thống pháp luật của

Việt Nam chưa được minh bạch hoá và hay có sự thay đổi liên tục khiến cho

việc tuân thủ gặp nhiều khó khăn. Do vậy, hai tiêu chí này đang khiến cho

các doanh nghiệp và các cơ quan thẩm tra, cấp phép gặp nhiều khó khăn khi

thực hiện. Chính vì vậy mà hiện ở Việt Nam mới chỉ có 2 doanh nghiệp được

tham gia thí điểm tự chứng nhận xuất xứ trong khi các nước khác trong khu

vực như Thái Lan, Lào có số doanh nghiệp tham gia lớn hơn nhiều.

Thứ năm, những hạn chế trong việc thực hiện cấp C/O của các cơ quan

có thẩm quyền. Trên thực tế việc cấp C/O mẫu D của các cơ quan được phép ở

Việt Nam chủ yếu dựa trên các chứng từ hàng hoá, các giải trình mà doanh

nghiệp xin cấp C/O cung cấp, còn rất hạn chế tiến hành kiểm tra nguồn gốc

xuất xứ của sản phẩm. Việc phụ thuộc hoàn toàn vào sự chính xác, trung thực

trong khai báo và các chứng từ do doanh nghiệp cung cấp dẫn đến sự bị động

của các cơ quan có thẩm quyền cấp C/O. Từ đó, dẫn đến việc không thể đảm

bảo được mức độ chính xác về xuất xứ hàng hoá theo quy định nếu trường hợp

doanh nghiệp cố tình gian lận khi khai báo xin cấp C/O. Bên cạnh đó, mạng

lưới các điểm cấp C/O với việc phân cấp cấp C/O mẫu D bố trí chưa hợp lý

nên các doanh nghiệp tại các tỉnh/thành phố không có điểm cấp C/O gặp nhiều

khó khăn và phải tốn kém nhiều thời gian và chi phí để có được C/O.

Thứ sáu, việc kiểm soát, kiểm tra, giám sát, phát hiện và xử lý vi phạm

146

bằng luật pháp từ phía các cơ quan quản lý nhà nước đối với việc thực hiện

các quy định về xuất xứ hàng hoá còn chưa được chú trọng đúng mức và theo

kịp với thực tiễn. Việc thu thập thông tin về dấu hiệu vi phạm xuất xứ hàng hoá của cơ quan hải quan còn nhiều hạn chế và chủ yếu là do kiểm tra trực tiếp C/O

mà không phải từ công tác rà soát, tra cứu phát hiện trên hệ thống cơ sở dữ liệu

điện tử của Ngành hoặc các nguồn thông tin khác (như thông tin tố giác của các

tổ chức, cá nhân; thông tin từ các Hiệp hội ngành nghề,...). Việc kiểm tra xuất

xứ đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được thực hiện bởi cơ quan hải quan

nhưng lại chưa có một quy trình, cách thức hướng dẫn một cách đầy đủ về xác

định, kiểm tra xuất xứ hàng hoá trong hệ thống quy định pháp luật. Thêm vào

đó, việc kiểm tra, xác minh xuất xứ hàng hoá đặc biệt là tại nước cấp C/O, tại

nơi sản xuất là rất phức tạp, đòi hỏi phải tập trung nguồn lực và kinh phí,

thường kéo dài gây khó khăn cho doanh nghiệp nên gặp khó khăn khi muốn

triển khai. Trên thực tế, việc cơ quan hải quan Việt Nam cử công chức sang

nước xuất khẩu đề nghị thẩm tra xuất xứ hàng hoá hầu như không được sử

dụng vì cơ chế tài chính, quy định đi nước ngoài chưa rõ ràng, mặt khác công

chức bị hạn chế bởi nghiệp vụ, bởi ngoại ngữ và sự không hợp tác của doanh

nghiệp xuất khẩu. Biện pháp chủ yếu là cơ quan Hải quan Việt Nam đề nghị cơ

quan thẩm quyền bên nước ASEAN xuất khẩu thẩm tra thông tin xuất xứ hàng

hoá khi có nghi ngờ. Tuy nhiên, biện pháp này chưa đem lại hiệu quả cao do

công tác phối hợp giữa các các nước chưa chặt chẽ, còn chậm trễ và bị hạn chế

bởi rào cản ngôn ngữ, thủ tục hành chính của các quốc gia. Ngoài ra, sự không

thống nhất trong việc kiểm tra, chấp nhận chứng từ chứng minh xuất xứ, cũng

như những lỗi trên C/O cũng làm cản trở việc sử dụng C/O đối với doanh

nghiệp. Việc kiểm tra xuất xứ mới chủ yếu là kiểm tra C/O đối với hàng nhập

khẩu và phát hiện ra các lỗi về hình thức và nội dung của giấy chứng nhận xuất

xứ mà chưa thực hiện được việc kiểm tra xem lô hàng có đáp ứng tiêu chuẩn

147

xuất xứ theo Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA) quy định. Việc

kiểm tra đối với hàng hóa xuất khẩu có đủ điều kiện tiêu chí về hàm lượng xuất

xứ để được cấp chứng nhận xuất xứ Việt Nam gần như chưa được để ý. Chỉ có

01 vụ kiểm tra do Hải quan Đồng Nai thực hiện trong năm 2013 nhưng lại là

xuất khẩu đi Mỹ chứ chưa phát hiện sang thị trường AEC. Bên cạnh đó, mức

độ xử phạt về các hành vi gian lận xuất xứ hàng hoá hiện nay vẫn còn thấp nên

hiện tượng gian lận về xuất xứ vẫn xảy ra gây thiệt hại cho các doanh nghiệp

trong nước và thất thu cho ngân sách nhà nước.

3.5.2.2.Nguyên nhân của những hạn chế.

Qua những phân tích ở trên cho thấy, thực tế sử dụng xuất xứ hàng hoá

để hưởng ưu đãi thuế quan của các doanh nghiệp ở Việt Nam còn hạn chế

nhiều so với các nước ASEAN. Điều này có thể xuất phát từ một số nguyên

nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất, mức độ hưởng lợi từ việc sử dụng C/O so với chi phí bỏ ra

thấp. Để có được C/O nộp cho hải quan nước nhập khẩu, nhà sản xuất hay

nhà xuất khẩu phải đảm bảo hàng hóa của họ đáp ứng các quy tắc xuất xứ

phức tạp, cùng với đó là phải chuẩn bị sẵn, lưu giữ các chứng từ liên quan và

xuất trình kèm theo đơn đề nghị được cấp chứng nhận xuất xứ với cơ quan

cấp C/O ở nước xuất khẩu. Trong nhiều trường hợp, nhà xuất khẩu sau khi

phải thực hiện nhiều việc để có được C/O phù hợp yêu cầu lại không được

hưởng khoản tiền tiết kiệm được từ thuế nhập khẩu, mà người hưởng lợi lại là

nhà nhập khẩu. Nếu nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu có quan hệ sâu, điều này

không phải vấn đề. Nhưng nếu giữa bên xuất khẩu và bên nhập khẩu không

có mối quan hệ lâu dài, điều này có thể trở thành chuyện khó xử lý do người

bán hàng trên thực tế phải làm mọi việc nhưng lại không có lợi gì. Tuy lợi ích

của người xuất khẩu là bán được hàng, nhưng nếu đơn hàng quy mô nhỏ thì

không đủ thuyết phục để họ cất công và chịu chi phí thực hiện các công đoạn

148

xin C/O phức tạp phù hợp với yêu cầu của hiệp định ATIGA. Thực tế tại Việt

Nam cho thấy, chi phí, thủ tục hành chính để xin cấp C/O còn phức tạp, mất

thời gian nên chưa khuyến khích được doanh nghiệp tham gia.

Thứ hai, những rắc rối liên quan đến việc sử dụng C/O trong việc hưởng

thuế quan ưu đãi còn nhiều. Nhà nhập khẩu tuy tiết kiệm được thuế khi được

áp dụng các mức thuế thấp hoặc bằng không nhưng cũng phải chấp nhận một

số rủi ro. Đó là những sai sót, lỗi gặp phải liên quan đến sử dụng C/O như lỗi

chính tả, lỗi chữ ký người cấp, ngày tháng trên C/O, lỗi các thông tin liên quan

đến hàng hoá như số lượng, trị giá, đơn vị tính, mã HS (do cách hiểu khác nhau

giữa cơ quan cấp C/O và hải quan nước nhập khẩu), lỗi về các chứng từ có liên

quan đến hàng hoá, .v .v. Những lỗi này có thể làm chậm trễ việc doanh nghiệp

được nhận ưu đãi thuế quan hay thậm chí tệ hại hơn là rủi ro mất quyền được

hưởng ưu đãi, bị truy thu thuế, bị áp dụng các khoản phạt, .v. v.

Thứ ba, các doanh nghiệp ở Việt Nam thiếu các thông tin và kiến thức

hiểu biết về xuất xứ hàng hoá áp dụng trong AEC. Chiếm phần lớn trong số các

doanh nghiệp ở Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với nền tảng phát

triển thấp, đội ngũ nhân lực có am hiểu về xuất xứ hàng hoá và xuất nhập khẩu

còn nhiều hạn chế và chưa được có sự hỗ trợ một cách đầy đủ, thường xuyên

về đào tạo, cung cấp các thông tin từ các cơ quan chuyên trách của nhà nước.

Các quy định về xuất xứ hàng hoá trong hiệp định ATIGA về cơ bản phức tạp

và không dễ áp dụng nếu nhà sản xuất, xuất khẩu không có kiến thức về mã

HS, xuất xứ hàng hóa và không được đào tạo, hướng dẫn cụ thể để áp dụng

đúng. Trong đó, phức tạp nhất là các quy tắc cụ thể mặt hàng (PSR) được chi

tiết cho từng mã HS trong từng ngành hàng và gắn với trình độ, công nghệ sản

xuất sản phẩm hàng hoá. Bởi vậy, nhiều doanh nghiệp vừ a và nhỏ của Việt Nam không nắm đươ ̣c những cam kết, ưu đãi, lộ trı̀nh xóa bỏ thuế quan được thực hiện một thời gian trước khi AEC ra đời. Một số nhà sản xuất, nhà xuất

149

khẩu còn không nắm đươ ̣c các tiêu chí chuyển đổi mã số hàng hóa (CTC), công

đoạn gia công chế biến cụ thể (SP) mà chỉ biết tiêu chí hàm lươ ̣ng giá trị gia

tăng truyền thố ng (RVC). Tính đến thời điểm này, Việt Nam có một số trang

web cung cấp thông tin về AEC như: trang web của Bộ Công Thương, của Ủy

Ban Quố c gia về Hơ ̣p tác kinh tế quố c tế, của VCCI . Trong đó nổi bật là trang

web hội nhập của VCCI (http://www.aecvcci.vn/) đăng tải nhiều thông tin về

AEC. Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp và bài bản khi so

sánh vớ i trang web của các nước Singapore, Malaysia, Thái lan. So vớ i trang

web của Singapore, trang web hội nhập của VCCI còn thiếu những thông tin

sau: phân tích lơ ̣i ích của các quy định trong AEC, các chuyên gia tư vấn tận

dụng ưu đãi (địa chỉ, số điện thoại, cơ quan công tác…), các đường link tớ i các

cơ quan chức năng liên quan đến thực thi AEC, thường xuyên cập nhật thông

tin mớ i về AEC. Trang web của VCCI cập nhật thông tin mớ i về AEC vẫn còn

chậm. Chính vì vậy, theo công bố ngày 28-12-2015 của Trường Doanh nhân

PACE và Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục về kết quả Dự án nghiên cứu

khảo sát “Nhận thức hội nhập kinh tế quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam” cho

thấy tỉ lệ phần trăm doanh nghiệp chưa biết đến và hầu như không quan tâm tới

AEC (56,8%) và có tới 85,5% doanh nghiệp được khảo sát không nắm được

những điều khoản cụ thể của AEC. Sự thiếu thông tin, yếu kém về kiến thức về

xuất xứ hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam còn thể hiện qua việc nhiều

doanh nghiệp không có sự chuẩn bị đầy đủ về các chứng từ dùng để chứng

minh nguồn gốc hàng hoá khi hệ thống kế toán của doanh nghiệp không có sự

hạch toán, lưu trữ. Bên cạnh đó, nhiều trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam

uỷ thác toàn bộ cho các công ty vận tải và giao nhận, đại lý hải quan, các công

ty thuê tàu làm thủ tục xin cấp C/O cho hàng hoá xuất khẩu. Điều này mặc dù

có thuận lợi là các công ty này có đội ngũ nhân viên có kiến thức, trình độ và

am hiểu làm thủ tục hồ sơ nhanh chóng. Tuy nhiên sẽ là bất lợi đối với trường

150

hợp hàng hoá phức tạp, cần giải trình cặn kẽ nguồn gốc của từng thành phần,

nguyên liệu cấu thành sản phẩm thì các công ty uỷ thác dịch vụ do không trực

tiếp thu mua, sản xuất hay chế biến sản phẩm nên không thể hiểu rõ để có thể

giải trình được trước những yêu cầu của cơ quan cấp C/O. Từ đó dẫn đến việc

tăng chi phí, mất nhiều thời gian và có thể khiến nhiều doanh nghiệp bỏ lỡ

những cơ hội kinh doanh có lợi cho chính họ. Thêm vào đó, do các doanh

nghiệp Việt Nam, kể cả các doanh nghiệp trực tiếp hoạt động thương mại

và/hoặc sử dụng đầu vào từ nhập khẩu, còn nhận thức chưa đầy đủ về tận dụng

ưu đãi trong khuôn khổ ASEAN nên chỉ lưu tâm đến ưu đãi thuế nhập khẩu

nếu mức ưu đãi là đủ lớn. Trong khi đó, rất ít doanh nghiệp quan tâm đến việc

đòi hỏi chứng nhận xuất xứ cho hàng nhập khẩu (kể cả khi thuế nhập khẩu ưu

đãi trong ASEAN không khác so với thuế nhập khẩu tối huệ quốc). Vì vậy, khi

xuất khẩu sang một nước ASEAN khác, ít doanh nghiệp đáp ứng được quy tắc

xuất xứ gộp và không được hưởng thuế suất ưu đãi. Đây cũng chính là một

nguyên nhân khiến hàm lượng ASEAN trong xuất khẩu của Việt Nam chậm

được cải thiện. Ở chiều ngược lại, vấn đề này sẽ hạn chế khả năng cạnh tranh

của doanh nghiệp Việt Nam khi chào hàng xuất khẩu vào các nước ASEAN.

Thứ tư, trình độ và mức độ sản xuất hàng hoá của các doanh nghiệp ở

Việt Nam vẫn còn thấp. Có thể thấy qua cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt

Nam vẫn tập trung chủ yếu vào các sản phẩm thô, mặt hàng nông sản, thuỷ

sản, khoáng sản, các mặt hàng công nghiệp sử dụng nhiều lao động, các mặt

hàng nguyên nhiên vật liệu, …như dệt may, da giày. Thêm vào đó, cơ cấu

ngành hàng xuất khẩu của nước ta có nhiều điểm tương đồng với các nước

ASEAN, trong khi sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu nước ta còn hạn

chế so với các nước trong khu vực. Một số mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, giá

trị xuất khẩu lớn nhưng giá trị gia tăng thấp, chủ yếu vẫn nằm trong nhóm

hàng gia công như dệt may, giầy dép, máy vi tính… mới chỉ dừng ở giai đoạn

151

gia công, lắp ráp nên hàm lươ ̣ng gia công, chế biến thấp. Đối với những mặt

hàng này quy định về xuất xứ chủ yếu là xuất xứ thuần túy (WO) hoặc giá trị

RVC với mức độ tham gia của Việt Nam không cao, chưa đạt mức 40% hàm

lượng giá trị khu vực do chủ yếu sử dụng nguyên vật liệu nhập khẩu từ các

nước ngoài ASEAN hoặc mức độ gia công chuyển đổi CTC không đạt quy

định theo yêu cầu của tiêu chí xuất xứ nên khó tận dụng hết những ưu đãi về

xuất xứ trong ASEAN. Cùng với đó, hệ thống cơ sở thông tin, dữ liệu về hệ

thống sổ sách, hóa đơn, chứng từ kế toán, báo cáo tài chính, quản lý nguồn

nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp Việt Nam còn chưa được quan tâm

đúng mức, chưa rõ ràng, minh bạch. Đặc biệt nguồn nguyên liệu đầu vào liên

quan nhiều đến ngưồn nguyên liệu của Trung Quốc. Ngoài ra, do ngành công

nghiệp hỗ trơ ̣ của Việt Nam kém phát triển, chưa đáp ứng đươ ̣c nguồn nguyên

liệu, phụ liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu nên một số nhóm hàng

xuất khẩu chủ lư ̣c của nướ c ta như dệt may, da giày vẫn phụ thuộc chủ yếu

vào nguyên phụ liệu nhập khẩu từ Trung Quố c, Hàn Quố c, Đài Loan nên

không đáp ứng đươ ̣c quy tắc xuất xứ. Trong khi đó các đối tác trong ASEAN

(nhất là các nước có trình độ phát triển công nghiệp cao như Singapore, Thái

Lan, Malaysia và Indonesia) lại tận dụng rất tốt các ưu đãi liên quan đến xuất

xứ và thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào Việt Nam tạo ra sự

thâm hụt thương mại ngày càng lớn cùng với tiến trình cắt giảm thuế quan.

Điều đó có được là nhờ các nước này có trình độ sản xuất và cạnh tranh tốt

hơn rất nhiều so với Việt Nam. Thể hiện qua báo cáo năng lực cạnh tranh toàn

cầu 2015-2016 của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), chỉ số năng lực cạnh

tranh toàn cầu của Việt Nam chỉ xếp thứ 56/140 nền kinh tế, so với các nước

20 Singapore (xếp hạng 2/140), Malaysia (18/140), Thái Lan (32/140), Indonesia (37/140) và Philippines (47/140).

ASEAN-6 thì Việt Nam đều đứng sau rất xa20. Trong đó, đặc biệt là các chỉ số

152

thể hiện liên quan đến mức độ giá trị sản xuất tạo ra ở Việt Nam có tác động

rất lớn đến tiêu chí về xuất xứ hàng hoá, như mức độ tham gia vào chuỗi giá

trị sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam chỉ xếp thứ 109/14021, sự tham

gia vào quá trình sản xuất ở mức độ cao đứng thứ 101/14022. Chính vì vậy,

cùng với tiến trình cắt giảm thuế quan thì hàng hoá từ các quốc gia này đang

gây sức sép cạnh tranh rất lớn với hàng hóa sản xuất trong nước và trong một

mức độ nhất định đã có những tác động không tốt đến sự tăng trưởng kinh tế

của Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam bị động khi xảy ra những biến

động từ những thị trường nhập khẩu vừ a làm cho doanh nghiệp giảm sút năng lư ̣c cạnh tranh do không nâng cao năng lư ̣c của mı̀nh thông qua tận dụng ưu đãi đem lại từ quy tắc xuất xứ hàng hoá. Hiện tại, một số ngành sản xuất của

Việt Nam đang đứng trước nguy cơ phải thu hẹp sản xuất hoặc đóng cửa vì

không cạnh tranh được với hàng hoá của những nước này.

Thứ năm, nguồn nhân lực có chất lượng cao am hiểu về xuất xứ hàng

hoá và các kiến thức có liên quan trong các doanh nghiệp cũng như các cơ

quan quản lý nhà nước thiếu hụt. Thí dụ như công việc của các cán bộ làm

công tác cấp chứng nhận xuất xứ không chỉ đòi hỏi họ nắm vững nghiệp vụ,

kỹ thuật chuyên môn về C/O, về xuất nhập khẩu hàng hoá mà còn phải có sự

hiểu biết rộng về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, tình hình hoạt động của doanh

nghiệp, kiến thức về địa bàn, mùa vụ, đặc điểm, đặc tính của hàng hoá, quy

trình cách thức sản xuất, chế biến sản phẩm, .v .v . Đối với cán bộ làm công

tác kiểm tra C/O bên cạnh kiến thức về xuất xứ hàng hoá là các kiến thức về

kỹ thuật kiểm tra nhận biết chứng từ thật/giả, kiến thức về tài chính kế toán để

có thể thẩm tra chứng từ số sách kế toán của doanh nghiệp, . v.v. Thực tế

21 Malaysia là 11, Singapore là 12, Indonesia là 31, Thái Lan là 32 và Philippines là 39. 22 Malaysia là 22, Singapore là 14, Indonesia là 48, Thái Lan là 53 và Philippines là 50.

trong công tác cấp C/O ở Việt Nam thời gian qua cho thấy đội ngũ nhân viên

153

làm công tác cấp C/O nhất là đội ngũ nhân viên tại các Ban quản lý các khu

công nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất chưa được đào tạo đầy đủ về quy tắc

xuất xứ, không được phân công chuyên trách về cấp C/O và không hiểu nhiều

về quá trình sản xuất các sản phẩm. Điều này gây ra những khó khăn, chậm

trễ, lãng phí về thời gian và chi phí trong việc giải quyết các vấn đề liên quan

đến cấp C/O mẫu D. Từ đó ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh hay thậm chí

khiến doanh nghiệp đánh mất những cơ hội kinh doanh với đối tác và khách

hàng vì sự chậm trễ chờ cấp C/O hay không có được C/O. Đối với doanh

nghiệp nguồn nhân lực hầu hết chưa được đào tạo một cách đầy đủ về xuất xứ

hàng hoá, khiến cho việc hiểu và vận dụng còn rất nhiều hạn chế. Thí dụ như

cơ chế xác định trước xuất xứ hàng hoá đã được áp dụng từ lâu nhưng hiện

nay vẫn chưa có doanh nghiệp nào đề nghị xác định trước xuất xứ đối với

hàng hóa xuất nhập khẩu. Đây là thiệt thòi rất lớn cho hoạt động thương mại

của Việt Nam, bởi nếu hàng hóa được xác định trước mã số, giá trị và xuất xứ

sẽ giúp cho người khai hải quan chủ động xác định trước số thuế phải nộp khi

làm thủ tục thông quan, làm minh bạch hóa và thống nhất các thủ tục hải quan trên toàn quốc, ngăn chặn tiêu cực trong ngành hải quan.

Việc tồn tại những hạn chế trên còn xuất phát từ nguyên nhân là Việt

Nam chưa xây dựng và hoàn thiện một khung pháp lý làm nền tảng cho việc

triển khai và áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hóa của hiệp định ATIGA

trong AEC. Các quy định về xuất xứ hàng hoá trong hiệp định có nhiều điểm

phức tạp, không rõ ràng và khó hiểu khiến cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan

quản lý rất lúng túng trong việc triển khai áp dụng. Chưa có một văn bản pháp

lý đầy đủ quy định về cách thức xác định, kiểm tra và xử lý vi phạm xuất xứ

hàng hoá trong cơ quan hải quan làm cơ sở cho việc thực hiện công tác kiểm

tra xuất xứ đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Hướng dẫn kiểm tra và xử

lý lỗi C/O hiện nay của cơ quan hải quan mới chỉ mang tính chất vụ việc, xử

154

lý nhỏ lẻ với từng trường hợp cụ thể. Về việc KTSTQ xuất xứ hàng hoá, hiện

nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể mà được quy định tại nhiều văn bản

khác nhau. Các quy định này cũng chưa đầy đủ, rõ ràng về việc cách thức

kiểm tra và giải quyết các trường hợp vướng mắc về C/O. Mặt khác, quy định

về kiểm tra C/O còn có sự chưa thống nhất với các quy định về KTSTQ dẫn

đến gây khó khăn, vướng mắc cho cơ quan Hải quan trong việc thực hiện

KTSTQ, xử lý kết quả KTSTQ về xuất xứ, xử lý các vướng mắc về xuất xứ

hàng hoá. Vì vậy, có sự chưa thống nhất, đồng bộ trong việc kiểm tra, xử lý

kết quả kiểm tra về C/O. Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong

công tác quản lý và áp dụng xuất xứ hàng hóa còn chậm triển khai. Đội ngũ

cán bộ làm công tác liên quan đến việc triển khai áp dụng xuất xứ còn thiếu

và hạn chế về chuyên môn sâu. Sự hợp tác giữa cơ quan Hải quan và các

doanh nghiệp, các Hiệp hội doanh nghiệp ngành hàng chưa chặt chẽ. Tất cả

những điều đó đã và đang khiến cho việc vận dụng và áp dụng các quy định

về xuất xứ hàng hóa trong AEC của Việt Nam chưa đem lại hiệu quả cao và

đôi khi còn gây khó khăn bất lợi cho hàng hóa của Việt Nam ngay tại thị

trường trong nước.

155

Kết luận chương 3

Trong chương 3, qua nghiên cứu và phân tích thực trạng thực hiện quy

tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong

cộng đồng kinh tế ASEAN, những vấn đề chính đã được phân tích và làm rõ

như sau:

1. Những điểm chính trong chiến lược phát triển của Cộng đồng kinh tế

ASEAN (AEC), hệ thống các quy định về xuất xứ hàng hoá và thuế quan ưu

đãi trong AEC đã được hình thành trên cơ sở kế thừa các quy định của hiệp

định CEPT và hiệp định ATIGA.

2. Thực trạng thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế

quan ưu đãi của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN được xem xét và

làm rõ trên các khía cạnh: xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện

quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN, áp dụng tiêu chí xuất xứ hàng hoá theo

biểu thuế quan ưu đãi đặc biệt của Việt Nam trong AEC, thực thi quy tắc xuất

xứ hàng hoá ASEAN trong áp dụng thuế quan ưu đãi của các cơ quan nhà

nước Việt Nam, thực thi quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN trong áp dụng

thuế quan ưu đãi của các doanh nghiệp.

3. Tác động của thực hiện quy tắc xuất xứ hàng hoá trong áp dụng thuế

quan ưu đãi đặc biệt của Việt Nam trong AEC được đánh giá qua việc sử

dụng mô hình trọng lực để đánh giá các nhân tố tác động và số liệu phân tích

thống kê thực tiễn trong trao đổi thương mại giữa Việt Nam và các nước

thành viên AEC từ 2006 đến 2016.

4. Phân tích, đánh giá những kết quả đạt được trong việc thực hiện quy

tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi của Việt Nam trong

cộng đồng kinh tế ASEAN trên các khía cạnh về xây dựng pháp luật, quản lý

và cấp chứng nhận xuất xứ, tình hình sử dụng C/O và công tác quản lý, kiểm

tra sử dụng C/O ở Việt Nam. Đồng thời cũng chỉ ra những hạn chế về tỷ lệ sử

156

dụng C/O thấp của các doanh nghiệp Việt Nam, hệ thống quy định pháp luật

còn phức tạp và khung chính sách thương mại chưa đồng bộ, cũng như sự

thiếu hụt về nguồn nhân lực có chất lượng và công tác kiểm tra, kiểm soát

việc thực hiện các quy định về xuất xứ. Trên cơ sở đó, chỉ ra những nguyên

nhân chủ yếu của những hạn chế trên xuất phát cả về phía nhà nước và doanh

nghiệp. Tất cả những điều này đòi hỏi cần phải có những giải pháp một cách

toàn diện để khắc phục và đem lại hiệu quả cao trong việc áp dụng quy tắc

xuất xứ hàng hoá của Việt Nam trong cộng đồng kinh tế ASEAN.

157

Chương 4

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN TỐT QUY TẮC XUẤT XỨ

HÀNG HÓA VỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ QUAN ƯU ĐÃI CỦA VIỆT

NAM TRONG CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN

4.1. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI

TỰ DO VÀ CÁC QUY ĐỊNH XUẤT XỨ HÀNG HÓA TRÊN THẾ GIỚI

TÁC ĐỘNG TỚI VIỆT NAM.

4.1.1. Xu hướng phát triển của các hiệp định thương mại tự do tác động

tới Việt Nam.

Xu hướng ký kết các FTA trên thế giới thời gian qua đang phát triển rất

mạnh, đặc biệt là từ sau khi vòng đàm phán thương mại đa phương Uruguay

theo Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT) hầu như không

đạt được tiến triển gì đáng kể, các vòng đàm phán thương mại đa phương mới

theo WTO (Chương trình nghị sự Phát triển Doha) rơi vào bế tắc thì các nước

trên thế giới trong đó có khu vực ASEAN bắt đầu có xu hướng chuyển sang

tư ̣ tı̀m hướ ng giải quyết bằng cách đàm phán ký kết các hiệp định thương mại tư ̣ do (FTA) song phương và đa phương khu vực. Theo đó, các Hiệp định

FTA như là phương tiện hiệu quả, một cách thức mới nhằm thúc đẩy tự do

hóa thương mại trong mở cửa thị trường hơn là các cuộc đàm phán đa

phương. Cụ thể, tính đến tháng 6 năm 2017 theo thống kê của ban thư ký

WTO có tất cả tổng số 65923 thông báo về RTAs báo cáo lên GATT/WTO, số

hiệp định được ký kết là 445 hiệp định (trong đó có 279 hiện còn hiệu lực) và

trong số này chiếm khoảng 90% là dưới dạng FTA.

FTA hiện nay về bản chất, không chỉ đơn thuần là một phương pháp tự do

hóa thương mại ở mức bằng hoặc cao hơn WTO, mà đã trở thành một trong 23 Số liệu tại https://www.wto.org/english/tratop_e/region_e/regfac_e.htm

158

những công cụ ngoại giao gây ảnh hưởng theo xu hướng mới ngày càng phát

triển theo chiều sâu. Cùng với các mục tiêu truyền thống là dỡ bỏ các rào cản,

nhiều thỏa thuận thương mại đang hướng đến tự do hóa dịch vụ thương mại,

đầu tư nước ngoài cũng như đơn giản hoá các thủ tục giải quyết các tranh chấp

thương mại. Xu hướng hiện nay cũng xuất hiện những dạng thức mới của thỏa

thuận thương mại khu vực với phạm vi tự do hóa mang tính mở rộng và toàn

diện hơn khuôn khổ thương mại đa phương GATT/WTO như các Hiệp định

đối tác kinh tế (EPA) và khuôn khổ Đối tác kinh tế toàn diện (CEP). FTA Nhật

Bản – Singapore và EU là những ví dụ điển hình. FTA Nhật Bản – Singapore

không chỉ là thỏa thuận thương mại tự do về tự do hóa và đơn giản hóa trong

lĩnh vực hàng hóa, dịch vụ, thương mại, đầu tư nước ngoài mà còn là quy tắc

chung về dịch chuyển lao động, sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, khoa học

và công nghệ, phát thanh truyền hình và du lịch. Chính vì vậy, AEC đã ra đời

như là một bước phát triển mới của sự liên kết kinh tế giữa các thành viên

ASEAN từ liên kết về thuế quan và thương mại trước đây. Từ đó giúp cho các

nước ASEAN củng cố và phát triển trên cả chiều rộng và chiều sâu trong hơ ̣p

tác kinh tế và thương mại quố c tế trong khu vực.

Tuy nhiên, cho dù các nước đến với FTA với những động cơ khác nhau

nhưng có thể tựu chung lại ở các điểm sau:

Thứ nhất, các nước ký FTA để duy trì và mở rộng xuất khẩu thông qua

những ưu đãi về thuế quan và thương mại. Trong đó, những ràng buộc quy

định về xuất xứ hàng hoá ngày càng chặt chẽ giữa các nước thành viên trở

thành một công cụ được sử dụng để đem lại lợi thế cạnh tranh cho các doanh

nghiệp của các nước thành viên trong việc tiếp cận thị trường, hưởng những

chênh lệch về thuế quan ưu đãi. Minh chứng cho điều này có thể thấy qua

việc: khi Mỹ, EU ký FTA với Mexico và hàng hóa được miễn thuế vào nước

này khi đáp ứng quy định về xuất xứ hàng hoá, trong khi Nhật chưa ký FTA

159

với Mexico đã khiến các công ty của Nhật không có lợi thế cạnh tranh so với

các công ty của Mỹ hay EU tại Mexico. Vì vậy, các công ty Nhật đã gây áp

lực khiến chính phủ phải đàm phán ký kết FTA với Mexico. Hiện nay, với sự

thất bại của vòng đàm phán Doha đang khiến các nước thành viên WTO quan

tâm nhiều hơn tới FTA. Tiếp cận thị trường là một động cơ quan trọng của

các nước Đông Á do các nước trong khu vực này vẫn duy trì nhiều rào cản

thương mại khắt khe.

Thứ hai, các nước sử dụng FTA như là một cách gây áp lực khiến các

ngành kinh tế trong nước phải tái cấu trúc nhằm đạt được tăng trưởng cao

hơn. Đặc biệt là những ngành sản xuất đòi hỏi phải đáp ứng những điều kiện

cao về tiêu chuẩn xuất xứ hàng hoá. Minh chứng cho điều này thể hiện qua

việc Hàn Quốc theo đuổi FTA với Hoa Kỳ nhằm cải tổ kinh tế trong nước.

Cùng với đó nhờ ký FTA với Trung Quốc (một cường quốc mới trỗi dậy) và

Nhật Bản (một nền kinh tế chất lượng cao), Hàn Quốc đã triển khai tái cấu

trúc nhằm duy trì và nâng cao lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế.

Thứ ba, các cường quốc thông qua FTA để củng cố tầm ảnh hưởng của

mình tại khu vực. Trung Quốc và Nhật Bản dùng FTA để thắt chặt hơn mối

quan hệ với ASEAN, Hàn Quốc và các nước khác. Tháng 11/2002, Nhật Bản

đề xuất khung hợp tác kinh tế với ASEAN chỉ 1 ngày sau khi Trung Quốc

khởi động đàm phán FTA với khu vực này. ASEAN, Hàn Quốc và các nước

khác cũng sử dụng FTA như một cách duy trì và củng cố tầm ảnh hưởng tại

Đông Á. ASEAN theo đuổi FTA với các nước lớn nhằm chiếm lĩnh vị trí chủ

chốt trong tiến trình hội nhập khu vực tại Đông Á. Trong khi đó, Hàn Quốc

đang vượt qua Nhật Bản và Trung Quốc để vươn tới vị trí dẫn đầu.

Thứ tư, thông qua FTA để giảm bớt rủi ro tài chính và thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế khu vực. Rút kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính vào

cuối thập kỷ 90 tại Đông Á khiến chính phủ các nước thấy rằng hợp tác khu

160

vực, đặc biệt là hợp tác trong lĩnh vực tài chính sẽ giúp tránh được một cuộc

khủng hoảng tương tự và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khu vực. Cụ thể, các

thỏa thuận hoán đổi ngoại tệ song phương giúp giải quyết vấn đề thiếu ngoại

tệ và điều này đã được đưa ra trong sáng kiến Chiang – Mai năm 2000. Hơn

nữa, các nước ASEAN + 3 đang tiến hành thành lập Thị trường trái phiếu

Châu Á nhằm nâng cao tính thanh khoản và hiệu quả của thị trường trái phiếu

Đông Á, tận dụng đầu tư tốt hơn các khoản tiết kiệm và góp phần giảm bớt sự

bất cân xứng về loại tiền và thời gian đáo hạn trong lĩnh vực tài chính giữa

các nước.

Thứ năm, các nước sử dụng FTA nhằm cải thiện môi trường kinh doanh,

đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư FDI nhằm tạo ra mạng lưới sản xuất và chuỗi

cung ứng toàn cầu dựa trên lợi thế địa lý và nhân công tại các nước đang phát

triển mới nổi. Nhật Bản chú trọng FTA với Đông Á vì có rất nhiều công ty đa

quốc gia của Nhật Bản đầu tư vào khu vực này và xây dựng lên chuỗi giá trị

thương mại giúp thúc đẩy sự phát triển của Nhật Bản sau một thời gian dài

suy thoái.

Không nằm ngoài xu hướng này các nước thành viên ASEAN đang tích

cực hình thành các FTA theo hai chiều hướng, một là cách tiếp cận FTA tập

thể của cả khối theo phương thức FTA ASEAN+1, hai là phương thức tiếp

cận FTA song phương của riêng từng nước thành viên ASEAN. Tuy vậy, hai

xu hướng này có thể dẫn đến trạng thái trùng lắp đối tác đàm phán FTA và kết

quả là quá nhiều lộ trình FTA trùng lắp giữa các quốc gia ASEAN và có

nhiều bộ quy tắc xuất xứ hàng hoá riêng biệt. Cụ thể như các nước thành viên

ASEAN là Singapore, Thái Lan, Malaysia, v.v. vừa đàm phán FTA với các

đối tác lớn trong khu vực Châu Á như Trung Quốc (ACFTA), Hàn Quốc

(AKFTA), Nhật Bản (AJFTA), Ấn Độ (AIFTA), Úc, New Zealand

(AANZFTA) nói chung, và các nước này cũng tiến hành nhiều FTA song

161

phương riêng rẽ với các đối tác trên. Bởi vậy, khi thực thi đồng thời nhiều

cam kết theo các lộ trình của FTA và áp dụng nhiều bộ quy tắc xuất xứ hàng

hoá cùng lúc với cùng một đối tác sẽ có nhiều điểm trùng lặp, tăng sự phức

tạp, khó khăn khi triển khai và không có tác dụng.

Như vậy có thể nói rằng Xu hướng FTA không còn là sự lựa chọn có

hoặc không, mà đã thực sự trở thành một xu hướng bắt buộc đối với Việt Nam

trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (cũng giống như yêu cầu bắt buộc

gia nhập WTO) và xu hướng này đang tác động rất lớn đến toàn bộ hoạt động

hội nhập của Việt Nam.

Việt Nam hiện nay với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN đã

có rất nhiều thuận lợi khi cùng tham gia với các nước ASEAN vào các FTA

chung của khu vực đồng thời cũng tự mình đặt quan hệ ký kết các FTA song

phương một số nước. Tuy nhiên, về mặt bản chất, Việt Nam vẫn chỉ tham gia

vào xu hướng này với tính chất bị động, chưa có đường lối và chiến lược cụ

thể, chưa có mục tiêu chiến lược rõ ràng khi tham gia vào xu hướng này. Điều

này đã gây trở ngại không nhỏ cho các nhà đàm phán trong việc xác định đối

tượng, phạm vi, lĩnh vực và mức độ các cam kết nói riêng, và ảnh hưởng tới

quyền lợi của Việt Nam trong các FTA đã tham gia. Nghị quyết Đại hội Đảng

XII mới đây cũng đã khẳng định chủ trương “thực hiện đầy đủ các cam kết

trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do

thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn

trước”, “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”, “mở

rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua

thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục

nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”. Bởi vậy, xu

hướng phát triển của các FTA trong thời gian tới sẽ có ảnh hưởng nhiều và tác

động chi phối rất lớn đến những quy định về xuất xứ hàng hoá, cũng như việc

162

áp dụng những quy định này trong quan hệ thương mại của Việt Nam những

năm tới.

4.1.2. Xu hướng xây dựng và áp dụng các quy định xuất xứ hàng hóa mới

trên thế giới.

Trên thế giới hiện nay, các quy định về xuất xứ đang được xây dựng theo

xu hướng đó là tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong việc cấp và

kiểm tra xuất xứ hàng hóa thông qua hệ thống xuất xứ điện tử. Hiện nay, một

số cơ quan Hải quan vẫn chủ yếu áp dụng vào những mô hình quản lý xuất xứ

đã được sử dụng từ lâu như cấp chứng nhận xuất xứ, trao đổi mẫu chữ ký

hoặc niêm phong chứng nhận… Thực tế, những biện pháp này đã trở thành

những hàng rào phi thuế quan và cản trở quá trình tự do hóa thương mại.

Trong khi đó, xu hướng mới là bãi bỏ các yêu cầu trao đổi chữ ký của cấp có

thẩm quyền chứng nhận xuất xứ, điều đó cũng đồng nghĩa với việc giảm thiểu

chi phí cho sự lưu thông của hàng hóa. Thay vào đó, có thể xem xét áp dụng

một hình thức khai báo của người xuất khẩu được cơ quan Hải quan chấp

nhận. Kèm theo cải tiến này sẽ là các biện pháp giám sát và kiểm tra sau

thông quan của cơ quan Hải quan. Khai báo xuất xứ khi được xuất trình tại

cửa khẩu nhập của một nước sẽ được cơ quan Hải quan kiểm tra, đối chiếu

với cơ sở dữ liệu để xác thực tính chính xác của thông tin. Nếu khai báo hợp

lệ, hàng hóa nhập khẩu sẽ được áp mã số thuế với thuế suất tương ứng. Việc

kiểm tra sau thông quan đối với người khai báo sẽ là một phần của phương

pháp quản lý này. Cùng với đó, việc áp dụng cơ chế xác định trước xuất xứ là

một biện pháp đang được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Đây được xem là xu

hướng khó tránh khỏi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay nói

chung và một số FTA mà Việt Nam đã thực thi và đang đàm phán. Xu hướng

xuất xứ này đã tạo ra nhiều thay đổi và cải cách đối với hệ thống cấp C/O

truyền thống cũng như hệ thống kiểm tra và giám sát của các cơ quan liên

163

quan, trong đó có sự chuyển dịch vai trò và trách nhiệm của cơ quan quản lý.

Bên cạnh đó, áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ đang trở thành xu thế

bắt buộc trong đàm phán một số Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới

như Hiệp định FTA Việt Nam – EU, Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương

TPP . . .Chứng nhận xuất xứ thay vì được cấp bởi các cơ quan có thẩm quyền

được chuyển sang phát hành bởi các nhà sản xuất hay nhà xuất khẩu hàng hoá.

Trong AEC, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hiện đang được một số nước thành

viên thí điểm áp dụng. Tuy nhiên, những quy định về mặt pháp lý của cơ chế tự

chứng nhận xuất xứ còn đang được xây dựng và chưa thống nhất chung trong

AEC. Ở Việt Nam, cơ chế tự chứng nhận xuất xứ mới được áp dụng thử

nghiệm bắt đầu cuối năm 2015, song song với hệ thống chứng nhận xuất xứ do

Bộ công thương cấp hiện tại. Tuy nhiên, những nội dung và cách thức triển

khai của cơ chế này ở Việt Nam vẫn còn rất mới và chắc chắn sẽ cần phải

nhiều thời gian để có thể áp dụng một cách có hiệu quả trong AEC.

4.2. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC.

4.2.1.Tạo dựng khuôn khổ pháp lý xuất xứ hàng hoá hoàn chỉnh trên cơ

sở nền tảng các quy định về xuất xứ trong AEC.

Các quy định về xuất xứ hàng hoá trong AEC được kế thừa từ các quy

định xuất xứ hàng hoá của hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung

(CEPT/AFTA) áp dụng từ Việt Nam bắt đầu năm 1996 và sau đó là hiệp định

thương mại ATIGA áp dụng từ 2010 đã và đang phát huy những tác dụng tích

cực đối với việc áp dụng và hưởng ưu đãi thuế quan ở Việt Nam. Tuy nhiên,

có thể thấy hiện nay Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn Luật thương

mại có nội dung trực tiếp liên quan đến xuất xứ hàng hoá đã được ban hành từ

hơn 10 năm (Luật thương mại được ban hành từ 2005, Nghị định

19/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về xuất xứ hàng hoá được

ban hành 2006, . . .). Do vậy, nhiều nội dung đã không còn phù hợp với thực

164

tiễn hiện nay về xuất xứ hàng hoá và xu hướng phát triển của các quy định về

xuất xứ hàng hoá trong các cam kết của hiệp định FTA thế hệ mới, trong đó

có các quy định về xuất xứ hàng hoá của ASEAN, như quy định về tự chứng

nhận xuất xứ hàng hoá. Thêm vào đó, trong thực tế việc áp dụng các quy định

pháp luật về xuất xứ hàng hoá của Việt Nam trong ASEAN vẫn còn tồn tại

nhiều bất cập, gây cản trở đến việc thực hiện. Do đó, việc tạo dựng một khuôn

khổ pháp lý áp dụng xuất xứ hàng hoá thuận lợi cho các doanh nghiệp dựa

trên cơ sở nền tảng các quy định về xuất xứ trong AEC là hết sức cần thiết.

Cụ thể, cần phải có sự rà soát, nghiên cứu, đánh giá toàn diện về các quy định

liên quan đến xuất xứ hàng hoá ở Việt Nam hiện nay để có sự sửa đổi, bổ

xung cho phù hợp với thực tiễn, có sự hài hoà giữa các quy định về xuất xứ

hàng hoá của hệ thống pháp luật Việt Nam với quy tắc xuất xứ hàng hoá

ASEAN, quy tắc xuất xứ hàng hoá trong các FTA. Bởi vì ngoài các quy định

về quy tắc xuất xứ hàng hoá của hiệp định ATIGA, hiện Việt Nam cũng đồng

thời thực hiện nhiều bộ quy tắc xuất xứ hàng hoá từ các FTA khác. Các bộ

quy tắc xuất xứ hàng hoá này cũng có nhiều điểm khác biệt gây cho các

doanh nghiệp gặp khó khăn, nhầm lẫn khi áp dụng các quy định xuất xứ hàng

hoá của hiệp định ATIGA. Do đó, để tạo ra sự rõ ràng, dễ hiểu nhà nước cần

sớm ban hành khung cơ sở chung pháp lý liên quan đến xuất xứ hàng hóa chứ

không để phân tán, thiếu sự liên kết theo các FTA riêng biệt như hiện nay.

Đối với hoạt động kiểm tra, cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá cần sớm

chuẩn hoá và hoàn thiện các quy trình, văn bản hướng dẫn một cách cụ thể và

toàn diện tạo ra sự minh bạch, thuận lợi trong quá trình áp dụng. Đặc biệt, các

quy định liên quan đến tính pháp lý khi triển khai áp dụng cấp và kiểm tra

C/O mẫu D điện tử. Các quy định về chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử giữa cơ

quan hải quan với các cơ quan có liên quan nhằm xây dựng cơ sở pháp lý cho

hoạt động kiểm tra xuất xứ hàng hoá. Cơ chế, các biện pháp và cách thức

165

kiểm tra, xử lý liên quan đến việc cấp và từ chối C/O cũng cần phải luật hoá

cụ thể làm cơ sở cho các cơ quan quản lý cấp phép, cơ quan kiểm tra có đủ

căn cứ pháp lý khi triển khai, tạo sự đồng thuận từ phía doanh nghiệp. Đối với

việc áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa còn rất mới ở Việt Nam,

các cơ quan nhà nước cần phải sớm đẩy nhanh việc hoàn thiện khung pháp lý

cụ thể cho việc thực thi cơ chế này như quy định cụ thể cách thức thừa nhận,

công nhận tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa, quy định về việc chuyển đổi, tính

tương thích giữa hình thức tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá với hình thức xin

chứng nhận xuất xứ hàng hoá. . .Với tiêu chuẩn tham gia tự chứng nhận xuất

xứ hàng hoá Quy định của thông tư 28/2015/TT-BCT, Doanh nghiệp muốn

tham gia thí điểm tự chứng nhận xuất xứ kim ngạch xuất khẩu đi ASEAN

được cấp C/O mẫu D năm trước liền kề đạt tối thiểu 10 triệu USD, có quá

trình chấp hành tốt pháp luật nhất là thuế, hải quan, XNK. Quy định này hiện

đang gây khó khăn cho doanh nghiệp Việt Nam khi thực tế quy mô kim ngạch

XNK còn hạn chế với thị trường ASEAN và việc chấp hành tốt pháp luật bị

ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khách quan. Do vậy, nên hạ mức kim ngạch XK

đi ASEAN xuống mức 1 triệu USD hoặc thay đổi tính chung kim ngạch XK

của doanh nghiệp sang tất cả các thị trường chứ không tính riêng thị trường

ASEAN. Cùng với đó xem xét các tiêu chí về chấp hành tốt pháp luật phù hợp

với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam. Ngoài ra, cần hợp lý hóa và thuận lợi

hóa các thủ tục cấp và kiểm tra chứng nhận xuất xứ hàng hoá bằng cách

vận dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá bởi các doanh nghiệp

nhưng có sự kiểm soát và giám sát bằng luật pháp chặt chẽ từ phía các cơ

quan quản lý nhà nước. Các quy tắc hiện hành về quản lý quy tắc xuất xứ

hàng hoá hiện nay được các doanh nghiệp nhận định là quá phức tạp và

nặng nề đối với doanh nghiệp do đó cần thiết phải đẩy mạnh cải cách thủ tục

hành chính, cắt giảm những quy định không cần thiết, gây cản trở đến việc áp

166

dụng thuận lợi quy định xuất xứ hàng hoá trong lĩnh vực thuế, hải quan. Bên

cạnh đó cần phải có những quy định rõ ràng về chức năng, vai trò quản lý,

thanh tra, kiểm tra của các cơ quan có liên quan như Bộ công thương và các

bộ ngành khác (trong đó nổi bật là vai trò của cơ quan hải quan Việt Nam)

trong kiểm tra và xử lý các vi phạm về xuất xứ hàng hoá nhằm giúp cho hoạt

động quản lý nhà nước về lĩnh vực này được chặt chẽ, rõ ràng và đồng bộ. Cơ

quan Hải quan hiện nay là cơ quan trực tiếp kiểm tra, giám sát tuân thủ pháp

luật trong hoạt động áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá ASEAN và cho hưởng

ưu đãi thuế quan đặc biệt ATIGA với hàng hoá nhập khẩu từ các nước thành

viên AEC. Vì vậy, Luật hải quan số 54/2014/QH13 năm 2014, Nghị định số

08/2015/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Luật Hải quan và Thông

tư 38/2015/TT-BTC của Bộ Tài chính cũng cần được rà soát, bổ sung nội

dung kiểm tra về xuất xứ hàng hoá, trong đó có quy định về tự chứng nhận

xuất xứ hàng hoá trong ASEAN. Đặc biệt, trong ngành hải quan cần sớm ban

hành quy trình kiểm tra trong thông quan và kiểm tra sau thông quan thống

nhất và cụ thể đối với hàng hóa nhập khẩu sử dụng chứng từ xuất xứ hàng hoá

trong ASEAN, bao gồm cả hình thức áp dụng hóa đơn tự chứng nhận xuất xứ.

Thêm vào đó, cần ban hành các quy định về cơ chế tài chính, quy trình nghiệp

vụ kiểm tra hồi tố trực tiếp về chứng nhận xuất xứ tại doanh nghiệp nước xuất

khẩu nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra hải quan về

xuất xứ hàng hoá.

Khi cơ sở pháp lý liên quan đến xuất xứ hàng hoá được hoàn thiện và cụ

thể hoá sẽ là cơ sở vững chắc cho công tác thực hiện, áp dụng từ khâu đàm

phán các quy định mới đến việc triển khai các quy định theo lộ trình cam kết

gia nhập AEC. Tạo thành định hướng xuyên suốt và thống nhất cho các khâu

nghiệp vụ từ việc chuẩn bị hồ sơ xin cấp C/O, thẩm định kiểm tra hồ sơ, cấp

C/O, kiểm tra C/O, minh bạch hóa các thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất,

167

nhập khẩu, thuế và hải quan để giảm chi phí xuất khẩu, nhập khẩu, tận dụng

các lợi ích đem lại từ xuất xứ hàng hóa để nâng cao sức cạnh tranh của hàng

hóa Việt Nam. Đồng thời, một hệ thống pháp luật về xuất xứ hàng hóa hoàn

chỉnh sẽ giúp thiết lập các nguyên tắc, cơ chế phối hợp và phân công nhiệm

vụ, trách nhiệm của các cơ quan hữu quan nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực

của bộ máy quản lý nhà nước phù hợp với thực tế, đòi hỏi khách quan của bản

thân nền kinh tế, góp phần tạo thuận lợi hóa cho hoạt động kinh doanh xuất –

nhập khẩu của các doanh nghiệp, tạo lòng tin cho các đối tác thương mại

nước ngoài.

Bên cạnh đó, có thể thấy rằng các quy định về xuất xứ hàng hóa trong

AEC là một phần không thể tách rời khỏi chính sách thương mại quốc gia. Do

đó, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách thương mại với các quy định về pháp

luật đẩy đủ cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam khi tham gia AEC và

không gây xung đột với các cam kết trong các FTA mà chúng ta đã hoặc sẽ

tham gia. Xây dựng một khung khổ chính sách thương mại mới, đồng bộ và

toàn diện; kết hợp với các chính sách đầu tư, chính sách cạnh tranh và chính

sách điều tiết thị trường bởi vì các quy định cam kết thực hiện của Việt Nam

gia nhập AEC không chỉ gồm các điều khoản liên quan đến thương mại thuần

túy mà còn đến nhiều lĩnh vực khác nữa như đầu tư, cạnh tranh, sở hữu trí tuệ,

môi trường và lao động.v.v. Do đó, một khung khổ chính sách thương mại mới,

đồng bộ và toàn diện sẽ là sự kết hợp và giao thoa giữa các chính sách ngoại

thương, chính sách đầu tư, chính sách cạnh tranh và chính sách điều tiết thị

trường và các chính sách liên quan khác. Các chính sách thương mại nên

hướng cả vào chiếm lĩnh những ngành hàng, xâm nhập vào các chuỗi giá trị,

chứ không chỉ là thâm nhập thị trường các nước thành viên AEC. Hơn nữa,

cùng với quá trình phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế theo các tuyến FTA,

thương mại nội khối sẽ gia tăng tác động lớn đến quan hệ giữa Việt Nam với

168

các nước thành viên AEC, do đó cần phải xây dựng chiến lược thương mại có

tính đến yếu tố thương mại nội khối. Đồng thời, giá trị xuất khẩu chỉ được cải

thiện một cách bền vững và hệ thống nếu có chiến lược tham gia chuỗi giá trị

và chuỗi sản xuất cung ứng toàn cầu, thay vì chỉ tham gia các chuỗi giá trị rời

rạc. Thực tế cho thấy, việc tham gia của Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu ở

mức kém rất xa với các nước ASEAN-5. Vì vậy, chính sách nhập khẩu cũng

hết sức quan trọng. Thực tiễn thương mại của các nước công nghiệp hóa mới

đã cho thấy chính sách nhập khẩu là động lực cho quá trình đổi mới công nghệ

và du nhập những thực tiễn tốt nhất về phát triển nguồn nhân lực, kỹ năng quản

lý và thể chế phát triển hiện đại. Nói cách khác, chính sách nhập khẩu phải

hướng trực tiếp tới tăng năng lực sản xuất trong nước nhằm đáp ứng cả thị

trường trong nước và xuất khẩu. Theo các cam kết của AEC thì sau khi rào cản

thuế quan dỡ bỏ thì các rào cản phi thuế quan cũng sẽ phải điều chỉnh theo các

cam kết hội nhập. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra, khi các biện pháp thuế

quan giảm, các biện pháp phi thuế quan sẽ phát triển và tinh vi hơn. Do đó, cần

nghiên cứu, ban hành và áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hoá kết hợp với

các công cụ bảo vệ thị trường nội địa nhằm bảo vệ các nhóm hàng hóa của Việt

Nam dễ bị tổn thương, bảo vệ việc cạnh tranh công bằng và ổn định nhưng vẫn

phù hợp với quy định của Hiệp định TBT, FTA và cam kết gia nhập AEC.

Thực tế trong giai đoạn vừa qua, các quy định pháp lý của Việt Nam để áp

dụng còn hạn chế về năng lực thiết kế và đánh giá tác động của các hàng rào

đấy. Thêm vào đó, để những quy định về xuất xứ hàng hoá thực sự đem lại

hiệu quả thì cần khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp trong quá

trình đưa ra các ý kiến xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến

xuất xứ hàng hoá nhất là trong thời gian tới khi Việt Nam bước vào những giai

đoạn cam kết sâu thực hiện cắt giảm hoàn toàn thuế quan trong AEC.

169

4.2.2. Đẩy mạnh việc hỗ trợ, phối hợp trao đổi thông tin và kiến thức về

thuế quan và xuất xứ hàng hoá trong AEC giữa các cơ quan nhà nước và

các doanh nghiệp.

Qua những phân tích đánh giá về tình hình áp dụng C/O mẫu D ở Việt

Nam cho thấy, các doanh nghiệp ở Việt Nam sử dụng vẫn chiếm tỷ lệ rất

thấp. Trong đó có thể thấy được, việc nắm bắt thông tin cũng như hiểu biết về

các quy định liên quan đến xuất xứ hàng hoá nói chung, trong đó có xuất xứ

hàng hoá của AEC còn rất hạn chế. Vì vậy, các cơ quan nhà nước mà cụ thể là

Bộ công thương và Hải quan cần phối hợp với các bộ ngành liên quan, các

hiệp hội, tổ chức nghề nghiệp cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình đẩy

mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp về những nội

dung của các quy định trong AEC. Phát hành các cẩm nang, bảng hướ ng dẫn

các doanh nghiệp cách thức để tính toán hưở ng lơ ̣i khi xuất khẩu hàng hóa

sang các đối tác AEC theo quy định về xuất xứ hàng hoá mà quan trọng là

cách tính cộng gộp xuất xứ trong C/O của các lô hàng xuất khẩu cũng như

cách phố i hơ ̣p vớ i các cơ quan chức năng có thẩm quyền để giải quyết các

vấn đề phát sinh nếu có. Tổ chức các hội thảo tổng kết và phổ biến kinh

nghiệm trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang các đối tác AEC cho doanh

nghiệp: Chỉ ra những lơ ̣i ích cụ thể cũng như những vướ ng mắc có thể gặp

trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa sang các nướ c này; Phổ biến kinh nghiệm

về tận dụng ưu đãi của các nướ c trong AEC để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa

sang các nước thành viên.

Thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo, tập huấn, hội nghị, hội thảo . ..

để bên cạnh cung cấp những thông tin cơ bản về những nội dung, những cam

kết về thương mại hàng hoá, những ưu đãi và cách thức được hưởng ưu đãi từ

thị trường AEC, các quy định văn bản pháp lý liên quan đến xuất xứ hàng

hoá, thông tin về những ưu đãi thuế quan và ưu đãi khác mang lại khi sử dụng

170

C/O thì rất cần những thông tin cụ thể thông qua việc đào tạo chi tiết, bồi

dưỡng kiến thức chuyên sâu về xuất xứ hàng hoá để doanh nghiệp hiểu và

thực hiện, áp dụng một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời những quy định

này trong thực tiễn. Từ đó làm tiền đề cho việc đẩy mạnh xây dựng chiến lược

“tuân thủ pháp luật tự nguyện” của các doanh nghiệp khi thực hiện cơ chế tự

chứng nhận xuất xứ, phê phán, đấu tranh mạnh mẽ các hành vi gian lận xuất

xứ hàng hoá.

Để doanh nghiệp có thể nắm bắt và tận dụng hiệu quả hơn nữa thì cơ chế

hỗ trợ thông tin qua hệ thống Website của các cơ quan Việt Nam như Bộ công

thương, VCCI cần phải có sự nâng cấp, cập nhật thêm các thông tin để hỗ trợ

cho các doanh nghiệp như bổ sung thêm phần: phân tích lơ ̣i ích của các FTA

(trong đó có AEC), cùng vớ i những hướ ng dẫn cụ thể cho doanh nghiệp về

những ưu đãi đươ ̣c hưở ng theo Hiệp định và những điều kiện cụ thể để đươ ̣c

hưở ng ưu đãi, quy tắc xuất xứ C/O...), thành lập bộ phận tư vấn kết nối với

các chuyên gia trong các lĩnh vực (địa chỉ, số điện thoại, cơ quan công tác…)

để có thể tư vấn tại chỗ hay tư vấn từ xa giúp đỡ các doanh nghiệp tìm hiểu

các vấn đề liên quan đến xuất xứ hàng hoá và quy tắc xuất xứ hàng hoá, thiết

lập các đường link tớ i các cơ quan chức năng liên quan đến thư ̣c thi các Hiệp

định, thường xuyên cập nhật thông tin mớ i về Hiệp định (nếu có những điều

chỉnh về biểu thuế HS mớ i, quy tắc xuất xứ hàng hoá …) để doanh nghiệp

nắm đươ ̣c thông tin, tránh bị động trong sản xuất và xuất khẩu hàng hóa sang

các nướ c tham gia AEC. Bên cạnh đó, cần phân nhóm các doanh nghiệp theo

ngành nghề và đưa ra một kế hoạch, lộ trình cụ thể để phối hợp, tư vấn cho

doanh nghiệp cần làm gì, làm như thế nào, làm trong bao lâu, cần bao nhiêu

nguồn lực để có thể tham gia chính thức vào chương trình tự chứng nhận xuất

xứ hàng hoá. Ngoài ra, các cơ quan có thẩm quyền cũng cần tư vấn, khuyến

cáo các doanh nghiệp sửa đổi, hoàn thiện hệ thống quản trị dữ liệu thông tin,

171

hệ thống sổ sách kế toán theo chuẩn mực nhằm chuẩn bị trước cho những yêu

cầu kiểm tra về xuất xứ hàng hoá có thể xảy ra.

Các cơ quan chức năng cần thường xuyên đánh giá tác động của những

cam kết trong AEC và những quy định nhập khẩu hàng hoá của các nước

trong AEC đến việc thúc đẩy trao đổi thương mại của Việt Nam với các đối

tác trong AEC. Theo kinh nghiệm của Singapore và Malaysia thì định kỳ

khoảng 2 năm nên tổ chức hội thảo để đánh giá tác động đối với hoạt động

xuất khẩu hàng hoá, đồng thời nắm bắt phản hồi của doanh nghiệp về những

khó khăn, rào cản gặp phải trong quá trı̀nh xuất khẩu hàng hóa sang các nước thành viên AEC. Để từ đó, đưa ra những khuyến cáo, giải pháp hỗ trợ doanh

nghiệp tháo gỡ khó khăn và tận dụng lơ ̣i thế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng

hóa. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện và xây dựng cơ chế đối thoại, hỗ trợ thường

xuyên liên tục, xử lý kịp thời giải quyết những vướng mắc, các tranh chấp liên

quan đến xuất xứ hàng hoá giữa các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh

nghiệp nhỏ và vừa, trong quá trình áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hoá

với các cơ quan quản lý nhà nước liên quan. Thêm vào đó, khi có những vấn

đề mớ i phát sinh trong quá trı̀nh thư ̣c thi các cam kết trong AEC và thực hiện các quy định về xuất xứ hàng hoá, thuế quan trong AEC cần tổ chức các cuộc

hội thảo để thông tin đến các hiệp hội ngành hàng và cộng đồng doanh nghiệp

những thông tin mớ i và cách thức để tận dụng ưu đãi đẩy mạnh xuất khẩu

hàng hóa.

Thương vụ Việt Nam tại các nước ASEAN cần tích cư ̣c hơn nữa trong

việc hỗ trơ ̣ các doanh nghiệp tı̀m kiếm bạn hàng và các cơ hội xuất khẩu hàng hóa; Trơ ̣ giúp doanh nghiệp trong việc giải quyết các vướ ng mắc đố i vớ i

những lô hàng nhập khẩu; Làm tố t hơn nữa công tác thông tin và hướ ng dẫn

thị trường cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam đặc biệt là các thông tin về

các quy định pháp luật thay đổi áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu; hỗ trợ

172

cho doanh nghiệp nâng cao năng lực pháp lý liên quan đến quá trình giải trình

và làm việc với hải quan nước nhập khẩu. Tiếp tục triển khai, hỗ trơ ̣ tổ chức

thị trường cho các mặt hàng có tiềm năng và các mặt hàng bị sụt giảm.

4.2.3. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành nghề sản xuất nhằm

đáp ứng được các tiêu chí xuất xứ hàng hoá trong AEC.

Để có thể tận dụng tốt những lợi ích do AEC đem lại, vận dụng tốt

những quy định về xuất xứ đặc biệt là các quy định xuất xứ cụ thể với hàng

hoá có mức độ yêu cầu về hàm lượng giá trị RVC hay chuyển đổi mã số hàng

hoá CTC thì Việt Nam cần phải có sự gia tăng về mức độ giá trị tăng thêm

của hàng hoá xuất khẩu tại Việt Nam. Vì vậy, chính phủ cần phải tiến hành

nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện các ngành hàng để xác định được

những lợi thế của từng ngành hàng. Từ đó đưa ra các giải pháp đồng bộ tăng

cường đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh

theo hướng phát triển sản xuất xuất khẩu với mô hình tăng trưởng bền vững

và hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô xuất khẩu, vừa

chú trọng nâng cao giá trị gia tăng xuất khẩu. Cụ thể:

Thứ nhất, thực hiện chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu một cách

hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung nâng nhanh tỷ

trọng các sản phẩm xuất khẩu có giá trị tăng cao, sản phẩm chế biến sâu, các

sản phẩm chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Tiếp tục thực hiện

tái cơ cấu sản xuất công nghiệp cả về ngành kinh tế kỹ thuật, vùng và giá trị

mới, tăng hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị nội địa trong sản

phẩm. Tập trung phát triển sản xuất công nghiệp theo chiều sâu để từng bước

tạo ra những sản phẩm có thương hiệu quốc gia và có sức cạnh tranh trong

chuỗi giá trị toàn cầu. Đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển ngành công nghiệp

hỗ trợ đáp ứng nguyên liệu đầu vào, từ đó giảm nhập khẩu; đồng thời tăng

cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, cung ứng

173

sản phẩm. Chủ động điều chỉnh nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa,

đồng thời phát triển sản xuất nguyên nhiên, phụ liệu phục vụ các ngành hàng,

đáp ứng nhu cầu trong nước và phát triển công nghiệp phụ trợ, kiểm soát chặt

việc nhập khẩu mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu, góp phần giảm

nhập siêu trong dài hạn nhất là đối với các đối tác chủ yếu trong AEC khi giai

đoạn hội nhập sâu sẽ bắt đầu trong những năm tới.

Thứ hai, tăng cường sử dụng nguyên liệu trong nước, hoặc nhập khẩu

nguyên liệu của các nước thành viên AEC để thay thế các nước ngoài AEC

nhằm đáp ứng tốt nhất các quy định về xuất xứ hàng hoá tận dụng được lợi

ích ưu đãi của AEC để tăng kim ngạch xuất khẩu đối với những ngành gia

công, chế biến, lắp ráp, như: dệt may, da giày, điện tử, gỗ.. .Trong những năm

qua có sự tăng trưởng cao, tuy nhiên giá trị gia tăng của sản phẩm chưa cải

thiện nhiều, chủ yếu vẫn thực hiện theo hình thức gia công, lắp ráp với tốc độ

đổi mới công nghệ, thiết bị chưa đạt yêu cầu phát triển, nguyên liệu đầu vào

cho sản xuất vẫn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ các nước ngoài AEC là

chủ yếu vì vậy việc đáp ứng các quy định về xuất xứ hàng hoá của AEC là rất

khó khăn.

Thứ ba, thực hiện chính sách thúc đẩy phát triển đối với ngành công

nghiệp hỗ trơ ̣. Đó là các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng, linh

kiện, phụ kiện để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản

phẩm hoàn chỉnh. Sản phẩm của công nghiệp hỗ trơ ̣ là các loại vật liệu, phụ

tùng, linh kiện mang tính chất bán thành phẩm, đươ ̣c sản xuất để cung cấp

cho khâu lắp ráp, sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh tớ i tay người tiêu dùng. Công

nghiệp hỗ trơ ̣ phát triển đem lại nhiều lơ ̣i ích cho quố c gia, các ngành kinh tế

và các doanh nghiệp: giúp tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu các nguyên liệu đầu

vào cho sản xuất, giúp các doanh nghiệp và ngành kinh tế chủ động không bị

lệ thuộc vào nguồn cung từ nướ c ngoài, đảm bảo hàng xuất khẩu đươ ̣c hưở ng

174

các ưu đãi thuế quan theo các FTA do đáp ứng yêu cầu về hàm lươ ̣ng xuất xứ

trong sản phẩm xuất khẩu .v.v. Công nghiệp hỗ trơ ̣ phát triển sẽ là tiền đề cho

việc phát triển các ngành công nghiệp của Việt Nam trong tương lai và giúp

cho doanh nghiệp tận dụng hiệu quả ưu đãi từ các FTA nói chung, AEC nói

riêng. Đây là kinh nghiệm của Thái Lan và Malaysia. Ngành công nghiệp hỗ

trơ ̣ của nướ c ta kém phát triển đã làm cho hiệu quả xuất khẩu một số nhóm

hàng xuất khẩu chủ lực thấp (hàng dệt may, da giày, hàng điện tử). Khoảng

70-80% nguyên phụ liệu của ngành dệt may và da giày Việt Nam phải nhập

khẩu từ Trung Quố c. Nguyên phụ liệu nhập khẩu làm cho giá thành sản phẩm

xuất khẩu cao kém sức cạnh tranh, thêm vào đó là không đáp ứng được các

tiêu chí xuất xứ hàng hoá và vì vậy mà hiệu quả thu đươ ̣c từ xuất khẩu thấp.

Trong thời gian tới, Nhà nước cần đưa ra nhiều hơn các chính sách ưu tiên

đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ cụ thể là: chính phủ cần có chiến lươ ̣c và

kế hoạch tổng thể, có chính sách đầu tư thỏa đáng để để thu hút được sự quan

tâm của các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài vào phát triển mạnh

ngành công nghiệp hỗ trơ ̣ nhằm đảm bảo tạo ra nguồn cung nội địa cho phần

lớ n các linh phụ kiện cho ngành công nghiệp lắp ráp, đáp ứng nhu cầu nguyên

phụ liệu cho ngành dệt may, da giày. Từ đó giảm phụ thuộc vào nhập khẩu

khiến cho giá thành sản phẩm hàng hoá của Việt Nam giảm đi, tăng mức độ

hàm lươ ̣ng xuất xứ Việt Nam trong hàng hoá đạt yêu cầu đươ ̣c hưở ng ưu đãi

thuế nhập khẩu để có cạnh tranh được khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường

AEC với sản phẩm cùng loại của các nước thành viên AEC.

Thứ tư, Khuyến khích hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ

phục vụ phát triển công nghiệp hỗ trơ ̣ thông qua việc quy định các mức ưu đãi

về các loại thuế, hỗ trơ ̣ kinh phí, hỗ trơ ̣ về tiền thuê đất…đố i vớ i từ ng trường

hơ ̣p cụ thể. Khuyến khích ứng dụng và chuyển giao công nghệ trong sản xuất

công nghiệp hỗ trơ ̣ phù hơ ̣p vớ i chính sách: quy định những biện pháp thúc

175

đẩy đố i vớ i các hoạt động ứng dụng và chuyển giao công nghệ cụ thể, các ưu

đãi về thuế, phí, hỗ trơ ̣ kinh phí,.v.v.. Tập trung đầu tư hỗ trơ ̣, phát triển nhân

lư ̣c cho các ngành công nghiệp hỗ trơ ̣.

Thứ năm, thực hiện đồng bộ các chính sách sách thuế, chính sách thương

mại, tỷ giá, thủ tục hành chính, chính sách tín dụng,. . . nhằm điều kiện thuận

lợi thúc đẩy DN hội nhập, nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu của hàng

hoá của Việt Nam sang các nước AEC. Thí dụ như: cần đẩy mạnh hợp tác với

các nước trong AEC theo hướng tiếp tục xây dựng và áp dụng các tiêu chuẩn

chung về chất lượng, an toàn, thực hiện chứng nhận chung trong cả sản xuất

lẫn XK các mặt hàng nông, lâm, thủy sản; đồng thời xây dựng các giải pháp

thực hành sản xuất nông nghiệp tốt, áp dụng chung cho khu vực thông qua sử

dụng hướng dẫn chung. Ký các thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong lĩnh vực

nông sản, thủy sản, thực phẩm, nhằm tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh xuất

khẩu các mặt hàng này vào thị trường AEC.

4.2.4. Tăng cường nâng cao năng lực quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực

hiện và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật về xuất xứ hàng hoá trong AEC

của các cơ quan quản lý nhà nước.

Việc đáp ứng được những quy định xuất xứ hàng hoá trong AEC thì

hàng hoá xuất nhập khẩu sẽ được hưởng ưu đãi rất lớn so với những hàng hoá

không đáp ứng được xuất xứ. Do vậy, sẽ không thể tránh khỏi việc có những

hành vi gian lận về xuất xứ hàng hoá nhằm hưởng lợi. Vì vậy, nhà nước cũng

cần phải có những giải pháp đồng bộ nâng cao năng lực của các cơ quan quản

lý nhà nước trong hoạt động quản lý, kiểm tra, kiếm soát, ngăn chặn và xử lý

kịp thời những hành vi gian lận về xuất xứ hàng hoá. Cụ thể đó là:

Thứ nhất, Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang bị các thiết

bị và hỗ trợ kỹ thuật theo yêu cầu của việc áp dụng hệ thống eCoSys của Bộ

Công Thương, hệ thống VNACCS/VCIS của hải quan, hệ thống một cửa

176

quốc gia. Từ đó đẩy mạnh kết nối giữa các hệ thống này với hệ thống một cửa

ASEAN trên cơ sở hợp tác và phối hợp giữa các Bộ và các cơ quan của Chính

phủ theo mô hình thương mại điện tử không có trao đổi các tài liệu bằng giấy.

Điều này giúp tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp trong thực

hiện thủ tục hành chính, đồng thời nâng cao hiệu quả trao đổi thông tin và

kiểm soát chặt chẽ việc gian lận thương mại trong sử dụng C/O. Ngoài ra để

khắc phục được những bất hợp lý khi mạng lưới cấp C/O chưa thuận tiện như

hiện nay thì nghiên cứu phân cấp việc cấp C/O mẫu D cho VCCI để có thể tận

dụng được được cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ tại những điểm cấp C/O của

VCCI trên cả nước. Khi đó, các doanh nghiệp chỉ cần đến điểm cấp C/O gần

nhất, thuận tiện nhất để được cấp C/O và do đó sẽ giúp rút ngắn thời gian làm

thủ tục và giảm chi phí cho doanh nghiệp.

Thứ hai, Tăng cường hợp tác hơn nữa với các đối tác trong AEC bởi

những quy định về xuất xứ hàng hóa không chỉ bó hẹp hay liên quan trong

một nước mà tác động và liên quan đến rất nhiều nước khác nhau. Từ đó, Việt

Nam có thể học hỏi kinh nghiệm trong công tác quản lý, tận dụng những lợi

ích do quy tắc xuất xứ hàng hóa đem lại cũng như hạn chế, giảm thiểu những

rủi ro trong quá trình áp dụng. Đặc biệt là vấn đề gian lận xuất xứ hàng hóa

đang đem lại những tác động xấu đến hoạt động xuất nhập khẩu cũng như nền

kinh tế Việt Nam. Thông qua đẩy mạnh hợp tác trao đổi thông tin dữ liệu về

xuất xứ giữa các nước thành viên AEC sẽ giúp cho Việt Nam kiểm soát và

ngăn chặn các hành vi giả mạo xuất xứ đối với hàng nhập khẩu gây thiệt hại

cho nền kinh tế. Xây dựng cơ chế hợp tác hỗ trợ xác minh xuất xứ giữa cơ

quan hải quan các nước với hải quan Việt Nam khi có sự nghi ngờ về nguồn

gốc xuất xứ của hàng hoá. Bên cạnh đó, với xu hướng đẩy mạnh sử dụng giấy

chứng nhận xuất xứ điện tử mẫu D và cơ chế tự chứng nhận xuất xứ trong

AEC thì việc tăng cường hợp tác giữa các cơ quan quản lý xuất xứ Việt Nam

177

và các nước thành viên AEC là một đòi hỏi tất yếu. Điều này sẽ giúp cho cơ

quan quản lý Việt Nam dễ dàng hơn trong hoạt động kiểm tra xuất xứ qua hệ

thống mạng dữ liệu điện tử liên kết cũng như giúp các doanh nghiệp Việt

Nam thuận tiện trong việc sử dụng giấy chứng nhận xuất xứ cho hàng xuất

khẩu sang những nước thành viên AEC.

Thứ ba, Đẩy mạnh nghiên cứu, xây dựng, quản lý và ứng dụng danh mục

cơ sở dữ liệu phục vụ công tác quản lý và kiểm tra xuất xứ hàng hoá. Việc

xây dựng danh mục cơ sở dữ liệu này sẽ đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ

và kịp thời cho các cơ quan quản lý nhà nước là Bộ công thương và Hải quan

trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Từ đó tạo thuận lợi có việc rút ngắn được

thời gian kiểm tra và cấp C/O của các đơn vị thuộc Bộ công thương. Còn đối

với cơ quan Hải quan, danh mục này đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ và

kịp thời cho việc xử lý dữ liệu tự động, phân luồng kiểm tra xuất xứ hàng hoá

chính xác gắn liền với việc kiểm tra hàng hoá trước, trong và sau thông quan.

Qua đó sẽ cung cấp thông tin về các trường hợp có nguy cơ cao về gian lận và

vi phạm quy định xuất xứ, liên quan đến mẫu C/O, mặt hàng, doanh nghiệp,

thị trường. Điều này sẽ giúp cơ quan Hải quan kịp thời phát hiện, ngăn chặn

chuyển tải trái phép và giả mạo xuất xứ hàng hoá XK, bảo vệ uy tín, chất

lượng và khả năng cạnh tranh cho hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế;

kịp thời phát hiện gian lận, vi phạm xuất xứ đối với hàng hoá NK, chống thất

thu thuế cho ngân sách Nhà nước và thực hiện đúng chính sách thương mại.

Hệ thống cơ sở dữ liệu này phải đảm bảo cập nhật liên tục và có hệ thống hoá

các quy định mới về xuất xứ hàng hoá, thu thập một cách có hiệu quả thông

tin liên quan đến xuất xứ hàng hóa từ khâu kiểm tra tại Chi cục Hải quan,

khâu đăng ký hồ sơ thương nhân tại các đơn vị được phép cấp C/O. Bên cạnh

đó còn kết nối có hiệu quả với cổng thông tin một cửa quốc gia trong hoạt

động thu thập, trao đổi thông tin phục vụ công tác quản lý và kiểm tra xuất xứ

178

hàng hoá với các đơn vị có liên quan. Hệ thống có sự kết nối qua hệ thống

một cửa ASEAN để cập nhật thông tin nhanh chóng, kịp thời về mẫu dấu, chữ

ký, mẫu C/O của các quốc gia ASEAN. Đồng thời, thông qua hệ thống, cơ

quan hải quan Việt Nam có thể nắm được tình hình cấp chứng nhận xuất xứ

hàng hoá ở các nước, thu thập và trao đổi thông tin liên quan đến xuất xứ

hàng hóa với Hải quan các nước trong khu vực và qua đó xác minh tính chính

xác của các chứng nhận xuất xứ hàng hoá. Từ đó nhanh chóng thu thập thông

tin, kiểm tra và xử lý kịp thời đối với các trường hợp gian lận xuất xứ hàng

hoá nhập khẩu vào Việt Nam.

Thứ tư, Phát triển nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn sâu về xuất xứ

hàng hóa cho các cơ quan quản lý nhà nước. Đối với đội ngũ cán bộ công

chức làm công tác cấp và kiểm tra chứng nhận xuất xứ hàng hóa xuất khẩu

hiện nay tập trung tại Bộ công thương. Bộ công thương được Chính phủ giao

là cơ quan quản lý nhà nước về chứng nhận xuất xứ và trực tiếp cấp toàn bộ

các C/O ưu đãi. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương có ủy quyền cho một số Ban

quản lý khu Công nghiệp và khu chế xuất cấp chứng nhận xuất xứ ATIGA

mẫu D đi ASEAN. Vì vậy, việc đẩy mạnh hiện đại hóa cải cách hành chính,

trong đó đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ đủ trình độ ứng dụng công

nghệ thông tin vào cải cách hành chính, triển khai nhanh chóng có hiệu quả

dịch vụ công trực tuyến và hiện đại hóa hành chính tiến tới một nền hành

chính phi giấy tờ là một đòi hỏi cấp thiết. Điều này giúp đơn giản hóa thủ tục

hành chính, giảm chi phí và thời gian cho doanh nghiệp. Giúp cho cộng đồng

doanh nghiệp có thể tiếp cận tốt hơn việc sử dụng các chứng nhận xuất xứ với

hàng hóa xuất khẩu nhằm nâng cao lợi ích. Đối với cán bộ công chức Hải

quan làm nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát phát hiện gian lận giả mạo chứng nhận

xuất xứ, khai báo sai về xuất xứ và các hình thức vi phạm khác về xuất xứ

hàng hoá xuất khẩu nhập khẩu. Việc tăng cường năng lực của cơ quan Hải

179

quan trong việc kiểm tra và xác định xuất xứ hàng hóa thông qua hoạt động

đào tạo, nâng cao trình độ kiến thức về xuất xứ, qua các buổi tổng kết, hội

nghị chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ về kiểm tra, phát hiện gian lận

C/O của cán bộ công chức Hải quan. Bên cạnh đó, cần đào tạo thêm ngoại

ngữ, kiến thức về chứng từ, hóa đơn, sổ sách kế toán, kiểm toán và báo cáo tài

chính, kỹ năng phối hợp làm việc với chuyên gia, cơ quan hải quan nước

ngoài, để thực hiện hiệu quả biện pháp cử chuyên gia tham gia đoàn kiển tra

trực tiếp doanh nghiệp nước ngoài có hàng xuất khẩu vào Việt Nam bị tình nghi gian lận xuất xứ. Điều này sẽ giúp cơ quan Hải quan chủ động trong

công tác nghiệp vụ, phát hiện và ngăn chặn sự gian lận, vi phạm pháp luật về

xuất xứ hàng hoá nhưng vẫn đảm bảo thông quan hàng hoá nhanh chóng, thủ

tục đơn giản và thống nhất giảm bớt khiếu kiện và tăng cường tính tự giác

tuân thủ pháp luật của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng cần tập trung chú

trọng xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia am hiểu sâu, đạt trình độ

quốc tế về xuất xứ hàng hóa để đảm nhận tốt những vị trí, khâu quan trọng

trong hoạt động kiểm tra xuất xứ cũng như tham gia tốt vào việc xây dựng

chính sách, tham gia đàm phán, thực thi các cam kết quốc tế liên quan đến

xuất xứ hàng hóa trong thời gian tới. Tranh thủ tận dụng sự hỗ trợ, giúp đỡ

của WTO, WCO và các tổ chức quốc tế, các quốc gia phát triển trong việc

đào tạo và nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác xuất xứ hàng

hoá, trợ giúp về mặt kỹ thuật trong việc xác định, kiểm tra và phát hiện các

gian lận về xuất xứ hàng hoá.

Thứ năm, Xây dựng và đẩy mạnh chương trình hợp tác giữa các cơ

quan quản lý nhà nước (cơ quan hải quan và Bộ công thương) về xuất xứ với

các hiệp hội ngành hàng, các phòng thí nghiệm và tổ chức giám định. Bởi

xuất xứ hàng hoá là một lĩnh vực khó khăn và phức tạp đòi hỏi phải có hiểu

biết về mặt hàng, công nghệ sản xuất, năng lực sản xuất, giá thành sản phẩm,

180

giá cả thị trường (thế giới, khu vực, nội địa), giám định và phân tích hàng

hoá,. . . nên các cơ quan quản lý nhà nước thường gặp khó khăn trong việc

kiểm tra, phát hiện những vi phạm về xác định xuất xứ hàng hóa. Trong khi

đây là những lĩnh vực mà các Hiệp hội ngành hàng, các phòng thí nghiệm, tổ

chức giám định có nhiều lợi thế. Vì vậy rất cần tranh thủ có được sự giúp đỡ

từ phía các Hiệp hội ngành hàng, các phòng thí nghiệm, tổ chức giám định

qua việc đẩy mạnh thực hiện ký kết thoả thuận cung cấp thông tin với các

hiệp hội ngành hàng trong nước để tố giác những đối tượng giả mạo xuất xứ

trốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh, những mặt hàng nước xuất khẩu

không có năng lực sản xuất đáp ứng yêu cầu nhưng vẫn cấp C/O, thoả thuận

hỗ trợ về công nghệ kỹ thuật phân tích giám định xuất xứ với các phòng thí

nghiệm, tổ chức giám định, v. v .để các cơ quan quản lý nhà nước kịp thời

kiểm tra, ngăn chặn và xử lý những hành vi gian lận xuất xứ hàng hoá, đảm

bảo sự tuân thủ pháp luật và tạo môi trường kinh doanh lành mạnh.

Thứ sáu, Xây dựng cơ chế ưu tiên cho doanh nghiệp tuận thủ tự nguyện

và cơ chế quản lý chặt chẽ, xử phạt thật nghiêm đối với các doanh nghiệp cố

tình gian lận về xuất xứ hàng hoá. Vận động doanh nghiệp hướng tới sự tuân

thủ tự nguyện trong công tác khai báo xuất xứ hàng hoá cũng như tuân thủ tự

nguyện về pháp luật trong hoạt động xuất nhập khẩu.

4.3. GIẢI PHÁP VỀ PHÍA DOANH NGHIỆP.

4.3.1. Chủ động, tích cực nắm bắt và áp dụng các quy định về xuất xứ

hàng hoá, thuế quan vào trong hoạt động kinh doanh.

AEC ra đời tiếp nối phát triển những kết quả đạt được của khu vực tự do

hoá thương mại ASEAN lên một mức mới và đây được xem là một trong

những cơ hội vàng cho các doanh nghiệp Việt Nam nhằm vươn ra thị trường

ASEAN đầy tiềm năng. Cơ hội này đòi hỏi các doanh nghiệp phải chủ động

nắm bắt, thông qua việc một mặt tích cực tìm hiểu thông tin về AEC, tận dụng

181

một cách tốt nhất các quy định liên quan đến xuất xứ hàng hóa thông qua

nghiên cứu, vận dụng một cách tốt nhất những ưu đãi do AEC đem lại để tăng

cường nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm thích nghi được trong bối cảnh tự

do hóa toàn diện như hiện nay. Để làm được điều đó các doanh nghiệp cần:

(cid:5) Chủ động trong hội nhập, tìm kiếm và tiếp cận thông tin về xuất xứ

hàng hoá, ưu đãi thuế quan và các quy định có liên quan đối với hàng hoá

xuất khẩu nhập khẩu giữa các nước thành viên AEC. Để có thể tận dụng một

cách hiệu quả những ưu đãi trong AEC, doanh nghiệp phải nhận thức rõ lợi

ích và yêu cầu vận dụng các ưu đãi theo quy định của AEC. Trước hết, cần

phải hiểu nội dung từng điều khoản đối với lĩnh vực mình quan tâm, nắm

được những ưu đãi trong AEC, lộ trình giảm thuế của các nước thành viên đối

với từng nhóm hàng và những yêu cầu để được hưởng ưu đãi có liên quan đến

mặt hàng và ngành hàng mà mình kinh doanh. Muốn làm được điều này,

doanh nghiệp cần chủ động trong việc tìm kiếm thông tin về AEC, cũng như

các thông tư, văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành chức năng liên quan đến

việc thực thi gia nhập AEC. Tham gia và hình thành các hiệp hội, câu lạc bộ

ngành hàng để từ đó có những trao đổi thông tin vớ i doanh nghiệp cùng

ngành hàng, giúp đỡ nhau cũng như chia sẻ những bài học và kinh nghiệm

trong xuất khẩu hàng hoá.

(cid:5) Chủ động học hỏi để tìm kiếm cơ hội kinh doanh dựa trên những lợi

thế so sánh và năng lực của bản thân; phải học cách kết nối để cùng chấp

nhận cạnh tranh; học cách huy động vốn và tận dụng hợp lý các công cụ huy

động vốn, cách quản trị doanh nghiệp, cách đối thoại pháp lý cũng như phải

đồng hành cùng Chính phủ trong việc thực hiện cải cách. Bên cạnh đó, doanh

nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập và đối mặt với xu

thế tự do hóa đầu tư, thương mại, giảm và xóa bỏ thuế quan, đơn giản hóa thủ

tục hành chính… Từ đó, điều chỉnh chiến lược sản phẩm, chiến lược kinh

182

doanh thích ứng với những thay đổi trong chính sách sản xuất toàn cầu, đáp

ứng được các yêu cầu về quy tắc xuất xứ nhằm tận dụng được các ưu đãi về

thuế quan.

AEC tạo ra một thị trường khu vực rộng lớn, sẽ đem lại cơ hội cho các

doanh nghiệp mạnh đủ sức cạnh tranh vươn xa nhờ lợi thế kinh tế theo quy

mô (sản xuất và phân phối quy mô càng lớn thì giá thành sản phẩm càng

giảm), đồng thời các doanh nghiệp cũng có cơ hội phát triển thị trường ngách

(phục vụ nhu cầu đa dạng của các doanh nghiệp và người dân ASEAN với

danh mục sản phẩm và dịch vụ ngày càng mở rộng. Vì vậy, các doanh nghiệp

cần chủ động tìm kiếm thông tin và đưa ra các biện pháp phù hợp với thực

tiễn để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp trong khối ASEAN.

4.3.2. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ, am hiểu về xuất

xứ hàng hoá.

Thực tế hiện nay, đã chỉ ra rằng việc nhận thức và áp dụng các quy định

về xuất xứ hàng hóa tại cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam thời gian qua chưa

cao một phần chủ yếu do nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn và am hiểu

về về xuất xứ hàng hoá tại các doanh nghiệp còn yếu. Xét tổng thể, nền kinh

tế Việt Nam có đặc trưng là có một số lượng lớn các doanh nghiệp vừa và

nhỏ (SME) chiếm khoảng 90% với vốn ít, lượng lao động ít được đào tạo

chuyên môn sâu và phần còn lại là các doanh nghiệp nhà nước (SOE), doanh

nghiệp FDI chiểm tỷ trọng nhỏ nhưng lại nắm giữ phần lớn lượng vốn và

nhân lực có trình độ. Với đặc thù như vậy cho thấy sự hạn chế của phần lớn

các doanh nghiệp Việt Nam khi tiếp cận các nội dung mới và phức tạp liên

quan đến xuất xứ và các cam kết, quy định phức tạp có liên quan áp dụng

trong AEC khi thiếu đội ngũ cán bộ am hiểu cũng như nguồn thông tin phục

vụ cho công tác phân tích, đánh giá, xây dựng chiến lực phù hợp, chủ động

trong cạnh tranh khi hội nhập. Chỉ khi áp dụng đúng, chính xác quy tắc xuất

183

xứ ưu đãi, nhà sản xuất, xuất khẩu mới có được C/O (hoặc Tự chứng nhận

xuất xứ) ưu đãi để được hưởng thuế quan ưu đãi khi xuất khẩu tới các nước

thành viên AEC. Do vậy, đội ngũ cán bộ tại các doanh nghiệp Việt Nam phần

lớn vốn chưa quen với việc áp dụng các quy trình, hệ thống quản trị sản xuất,

không tuân thủ chặt chẽ các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật nên không thực

hiện đầy đủ các công đoạn gia công, chế biến cần thiết đối với các đầu vào

nhập khẩu, chưa đưa ra được các biện pháp kiểm soát, phân bổ các nguồn

nguyên liệu đầu vào từ đó có thể đáp ứng được các tiêu chí xuất xứ hàng hoá

trong AEC. Bên cạnh đó, việc quản trị, quản lý các hồ sơ, chứng từ minh

chứng đáp ứng yêu cầu xác minh thường xuyên và đột xuất, xây dựng bộ

phận chuyên trách về xuất xứ hàng hóa để phục vụ các yêu cầu xác minh khi

cần thiết...để đáp ứng các thủ tục liên quan đến cấp C/O, áp dụng C/O còn

nhiều hạn chế và chưa đáp ứng được yêu cầu vì vậy thường xuyên gặp sai sót,

mất nhiều thời gian và chi phí thực hiện. Thậm chí bị từ chối cấp C/O hay cho

hưởng C/O và dẫn đến bỏ lỡ những ưu đãi đáng ra được hưởng để tăng khả

năng cạnh tranh. Do vậy, việc tuyển dụng và thường xuyên đào tạo nâng cao

trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu và liên

quan đến xuất xứ hàng hoá tại các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Điều này

có thể được tiến hành qua việc các doanh nghiệp tăng cường liên kết chặt chẽ

với các cơ quan chính phủ, hiệp hội, các cơ sở đào tạo để cử các cán bộ của

mình tham gia các hội thảo, toạ đàm, lớp tập huấn chuyên sâu cập nhật các

thông tin, kiến thức về xuất xứ hàng hoá cũng như có những phản hồi đến các

cơ quan chính phủ về các tác động của việc áp dụng xuất xứ hàng hoá đến

doanh nghiệp của mình. Qua đó, Chính phủ sẽ nắm bắt được tình hình của

doanh nghiệp và có những biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời khi thực

hiện. Cụ thể như đưa ra các biện pháp cải cách tạo thuận lợi hơn việc cấp giấy

chứng nhận xuất xứ thông qua các hướng dẫn cụ thể và đơn giản hóa quy

184

trình thực hiện. Cùng với đó, khi trình độ đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp

được nâng lên thì cùng với đó các doanh nghiệp cũng cần nâng cao ý thức

tuân thủ pháp luật, trong đó có pháp luật về xuất xứ hàng hoá. Đặc biệt, với

xu hướng đẩy mạnh áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý hoạt động xuất nhập

khẩu và xu hướng áp dụng cơ chế tự chứng nhận xuất xứ hàng hoá thì điều

này càng trở lên rất quan trọng. Đối với những doanh nghiệp được xếp vào có

mức độ tuân thủ cao sẽ được hưởng nhiều ưu tiên và cơ chế ưu đãi tạo điều

kiện thuận lợi trong việc áp dụng C/O trong hoạt động xuất nhập khẩu. Từ đó

có thể tận dụng được nhiều lợi thế, ưu đãi hơn các doanh nghiệp khác để tăng

cạnh tranh và đẩy mạnh phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Vì vậy, có thể nói rằng chỉ khi doanh nghiệp có một đội ngũ cán bộ đủ trình

độ nhận thức và áp dụng các quy định trong AEC, đặc biệt về quy tắc xuất xứ

hàng hoá thì tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ AEC mới được cải thiện, từ đó nâng cao

giá trị gia tăng và hàm lượng chế biến sâu trong các sản phẩm xuất khẩu của

Việt Nam, góp phần tạo nên sự tăng trưởng xuất khẩu bền vững cho nền kinh

tế đất nước.

4.3.3. Đầu tư nâng cao trình độ, năng lực sản xuất để đáp ứng được các

yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hoá trong AEC.

Một trong những vấn đề cốt lõi của việc áp dụng C/O cho hàng hoá xuất

khẩu vào AEC là hàng hoá phải đáp ứng được các tiêu chí về xuất xứ hàng

hoá, đặc biệt là các tiêu chí xuất xứ cụ thể hàng hoá gắn liền với tiêu chí RVC

và CTC. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải nâng cao năng lực sản xuất hàng

hoá. Năng lực sản xuất của một doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như

máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào, trình độ người lao động, trình độ

quản lý và đặc biệt là khả năng áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ

vào sản xuất. v.v . Trong đó, máy móc thiết bị là một trong những yếu tố tham

gia trực tiếp của quá trình sản xuất chính vì thế việc tăng cường đầu tư, đổi

185

mới hiện đại hoá máy móc thiết bị hay đổi mới công nghệ là hết sức quan

trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Một doanh nghiệp sản xuất công nghiệp

muốn tồn tại và phát triển được cần phải xây dựng cho mình một kế hoạch đổi

mới công nghệ. Cần đánh giá đúng những máy móc, thiết bị phải nâng cấp,

đổi mới, tránh mua phải những máy móc đã lạc hậu về công nghệ. chủ động

trong việc nâng cấp trang thiết bị, máy móc phụ vụ cho hoạt động sản xuất.

Đối với những doanh nghiệp có nguồn tài chính thì sắm mới; đối với những

doanh nghiệp eo hẹp về nguồn tài chính có thể thông qua các hoạt động như

thuê máy móc, thiết bị từ đó tiến hành chuyển giao công nghệ phù hợp với

nhu cầu của doanh nghiệp mình. Tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới công

nghệ sẽ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm tạo ra nhiều sản phẩm mới,

đa dạng hoá sản phẩm, tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp

lý tiết kiệm nguyên vật liệu từ đó đẩy nhanh việc tăng năng lực sản xuất, mức

độ chuyển đổi của hàng hoá.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cần chủ động nguồn cung ứng nguyên

vật liệu trong nước cũng như nguồn nguyên liệu từ các nước thành viên AEC

để thay thế cho nguồn nguyên vật liệu có nguồn cung ứng từ các nước ngoài

AEC. Với việc sử dụng các loại nguyên vật liệu như vậy sẽ tăng tính chủ

động cho các doanh nghiệp cũng như tăng giá trị hàm lượng chế biến RVC

trong hàng hoá xuất khẩu từ đó đáp ứng được yêu cầu về xuất xứ hàng hoá để

được hưởng thuế quan ưu đãi khi xuất khẩu vào các nước AEC. Để có thể làm

được điều này thì đối với các nguồn phụ liệu phục vụ cho các ngành công

nghiệp dệt may, da giày, đồ gỗ, điện tử, hoá chất,... các doanh nghiệp chủ

động tiến hành việc lập đề án xây dư ̣ng các trung tâm nguyên phụ liệu. Từ các

đề án này, doanh nghiệp có thể đươ ̣c vay vố n ưu đãi từ ngân hàng để xây

dư ̣ng trung tâm, theo kinh nghiệm của doanh nghiệp Thái Lan. Tích cư ̣c phố i

hơ ̣p vớ i các cơ quan chức năng trong phát triển các ngành công nghiệp hỗ trơ ̣

186

giai đoạn tớ i. Kết hơ ̣p chặt chẽ vớ i các doanh nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu

trong nướ c có chất lươ ̣ng để đảm bảo nguồn cung ứng nguyên phụ liệu đầu

vào ổn định cho sản xuất hàng xuất khẩu. Đồng thời, các doanh nghiệp cần

chủ động tham gia liên kết với mạng lưới các doanh nghiệp cung ứng đầu vào

ở các nước ASEAN, để có thể cung ứng những nguyên phụ liệu trong nướ c

chưa sản xuất đươ ̣c, hoặc sản xuất nhưng chất lươ ̣ng chưa tố t. Từ đó có thêm

hàm lượng giá trị khu vực và đáp ứng yêu cầu xuất xứ cộng gộp khi xuất khẩu

vào một nước ASEAN khác. Đối với các nguồn nguyên liệu phục vụ cho xuất

khẩu hàng nông, thủy sản cần thiết lập mố i quan hệ mật thiết vớ i các nhà sản

xuất như người nông dân, người nuôi trồng thủy sản nâng cao về kỹ thuật

nuôi, trồng, thu hoạch, bảo quản đáp ứng tiêu chuẩn chất lươ ̣ng, vệ sinh an

toàn thư ̣c phẩm thı̀ đầu vào nguyên liệu của doanh nghiệp mớ i ổn định, từ đó đảm bảo về đầu ra là thành phẩm xuất khẩu.

Thêm vào đó, để tăng năng lực sản xuất thì các doanh nghiệp cần phải

tăng cường tham gia vào trong chuỗi liên kết trong sản xuất xuất khẩu thông

qua việc xây dựng và áp dụng mô hình liên kết trong xuất khẩu với những quy

mô và mức độ khác nhau. Có như vậy mới đảm bảo sự phát triển ổn định và

lâu dài của bản thân mỗi doanh nghiệp và từ đó thúc đẩy sự phát triển của các

ngành sản xuất của đất nước.

187

Kết luận chương 4

1. Trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của các hiệp định thương mại tự

do trên thế giới như hiện nay đang có sự tác động rất lớn đến hoạt động giao

thương và áp dụng quy tắc xuất xứ của Việt Nam. Chương 4 đã đánh giá

những điểm chính về các xu hướng phát triển của các FTA trên thế giới và tác

động đến Việt Nam, cũng như chỉ ra xu hướng xây dựng và áp dụng các quy

định xuất xứ hàng hóa mới trên thế giới.

2. Nội dung chương 4 cũng đã đề xuất các giải pháp tăng cường thực

hiện tốt quy tắc xuất xứ hàng hoá với việc áp dụng thuế quan ưu đãi trong

AEC xét trên hai khía cạnh đó là:

• Về phía nhà nước cần: Tạo dựng khuôn khổ pháp lý xuất xứ hàng hoá

hoàn chỉnh dựa trên cơ sở nền tảng các quy định về xuất xứ trong AEC; Đẩy

mạnh việc hỗ trợ, phối hợp trao đổi thông tin và kiến thức về thuế quan và

xuất xứ hàng hoá giữa các cơ quan nhà nước với các doanh nghiệp; Thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ngành nghề sản xuất nhằm đáp ứng được các tiêu

chí xuất xứ hàng hoá trong AEC; Tăng cường nâng cao năng lực quản lý,

kiểm tra, giám sát việc thực hiện và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật về xuất xứ

hàng hoá trong AEC của các cơ quan quản lý nhà nước..

• Về phía các doanh nghiệp Việt Nam cần: Chủ động, tích cực nắm bắt

và áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hoá, thuế quan vào trong hoạt động

kinh doanh; Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có trình độ, am hiểu về xuất

xứ hàng hoá; Đầu tư nâng cao trình độ, năng lực sản xuất để đáp ứng được

các yêu cầu về quy tắc xuất xứ hàng hoá trong AEC.

188

KẾT LUẬN

Qúa trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đang ngày càng đi vào

chiều sâu, đặc biệt là việc tham gia vào hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN

(AEC) vào năm 2015. Với AEC, nền kinh tế của Việt Nam đang đứng trước

thách thức lớn khi phải mở rộng cách cửa cho hàng hóa từ các nước thành

viên AEC vào Việt Nam, đặc biệt thông qua việc cắt giảm, loại bỏ thuế quan

mạnh mẽ từ sau 2015. Vì vậy, việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá càng

đóng một vai trò quan trọng trong hội nhập của Việt Nam vào AEC.

Luận án đã hệ thống hóa về mặt lý luận và thực tiễn các quy định liên

quan đến quy tắc xuất xứ hàng hóa và thuế quan ưu đãi áp dụng trên thế giới

cũng như trong AEC. Trên cơ sở đó, đưa ra những nhìn nhận, phân tích về

việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hóa trong AEC liên quan đến lộ trình

cắt giảm thuế quan, cũng như tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu

của Việt Nam trong thời gian qua và những kết quả đạt được, hạn chế trong

việc áp dụng quy tắc xuất xứ hàng hoá trong AEC của Việt Nam cũng như

những nguyên nhân của những hạn chế này. Trên cơ sở đó, luận án đưa ra

các giải pháp, các kiến nghị chính sách liên quan trực tiếp đến quy tắc xuất

xứ hàng hóa với việc áp dụng thuế quan ưu đãi và các giải pháp có liên quan

để thực hiện tốt các quy định xuất xứ hàng hoá trong thời gian tới nhằm gia

tăng hoạt động xuất nhập khẩu và hạn chế nhập siêu trên hai giác độ là về

phía nhà nước và về phía các doanh nghiệp.

Các chính sách và giải pháp thúc đẩy tăng cường thực hiện tốt các quy

định xuất xứ hàng hóa trong áp dụng thuế quan ưu đãi liên quan đến nhiều bộ,

ngành, các cấp, cũng như cả cộng đồng doanh nghiệp. Vì thế để có thể thực

hiện được cần có sự chung sức, nỗ lực của cả Nhà nước và doanh nghiệp.

thì mới có thể đáp ứng được những yêu cầu của quá trình hội nhập vào AEC.

189

DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN

1. PGS.,TS.Nguyễn Thị Thương Huyền, Ths.Nguyễn Hoàng Tuấn

(2010), Giáo trình phân loại và xuất xứ hàng hóa, Học viện Tài chính.

2. Nguyễn Hoàng Tuấn (2013), “Thống nhất về cách hiểu khi sử dụng

hóa đơn thương mại trong áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hóa theo các

FTA của Việt Nam’’, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, số 12(125), tr.

43-46.

3. Nguyễn Hoàng Tuấn, Thái Bùi Hải An (2014), Áp dụng hiệu quả các

quy định về xuất xứ hàng hóa trong các hiệp định thương mại tự do của Việt

Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện Tài chính.

4. Nguyễn Hoàng Tuấn (2014), “Thực hiện cơ chế hải quan một cửa và

hải quan điện tử: những chuyển biến mạnh mẽ”, Tạp chí tài chính, số 8(598),

tr.31-33.

5. Nguyễn Hoàng Tuấn, Nguyễn Thị Lan Hương (2016), Cải cách và

hiện đại hoá quản lý nhà nước về hải quan khi Việt Nam tham gia cộng đồng

kinh tế ASEAN, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện Tài chính.

6. Nguyễn Hoàng Tuấn (2017), “Vấn đề thuế quan và áp dụng quy tắc

xuất xứ hàng hoá trong thương mại Việt Nam- ASEAN”, Tạp chí Tài chính, kỳ

1 – tháng 4/2017(654), tr 83-84.

7. Nguyễn Hoàng Tuấn (2017), “Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu

Việt Nam trong AEC”,Tạp chí Tài chính, kỳ 2– tháng 4/2017(655), tr 11-12.

8. Nguyễn Hoàng Tuấn (2017), “Tận dụng các ưu đãi thuế khi áp dụng

tiêu chí xuất xứ hàng hoá xuất khẩu trong AEC”, Tạp chí Thanh tra Tài chính,

số 179 (5-2017), tr 43-44.

9. Nguyễn Hoàng Tuấn, Vũ Duy Nguyên (2017), Cơ chế tự chứng nhận

xuất xứ hàng hóa: kinh nghiệm các nước và giải pháp áp dụng tại Việt Nam,

đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện Tài chính năm 2017.

190

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Từ Thuý Anh và Đào Nguyên Thắng (2008), các nhân tố ảnh hưởng đến

mức độ tập trung thương mại của Việt Nam với các nước ASEAN+3,

Trung tâm nghiên cứu và chính sách-trường đại học Kinh tế, Đại học Quốc

gia Hà Nội, 2008.

2. Barry Larking (2006), Thuật ngữ thuế quốc tế, NXB Hà Nội.

3. Bộ công Thương (2010), Thông tư 21/2010/TT-BCT ngày 17/05/2010 thực

hiện Quy tắc xuất xứ trong Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN.

4. Bộ công Thương (2010), Hợp tác kinh tế Việt Nam với ASEAN và ASEAN

mở rộng, NXB Công thương.

5. Bộ công Thương (2014), Thông tư 42/214/TT-BCT ngày 18/11/2014 sửa

đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 21/2010/TT-BCT ngày

17/05/2010 của Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện Quy tắc xuất xứ

trong Hiệp định thương mại hàng hoá ASEAN.

6. Bộ công Thương (2014), Tài liệu hội thảo “Tự chứng nhận xuất xứ” tại Hà

nội ngày 17/06/2014, Hà Nội.

7. Bộ công Thương (2015), Thông tư 28/2015/TT-BTC Quy định việc thực

hiện thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định thương mại

hàng hóa ASEAN.

8. Bộ Công Thương, Dự án EU – MUTRAP (2015), Tài liệu hội thảo “Cơ chế

tự chứng nhận xuất xứ - kinh nghiệm của các nước và khuyến nghị cho

Việt Nam”, Hà nội

9. Bộ công Thương (2016), Tận dụng ưu đãi trong hiệp định thương mại tự do

ASEAN- Úc- Niu Di Lân để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam,

NXB công thương, Hà Nội 2015.

10. Bộ công Thương (2016), Tài liệu về cộng đồng kinh tế ASEAN, Hà Nội.

191

11. Bộ công Thương (2016), Thông tư số 22/2016/TT-BCT ngày 03 tháng 10

năm 2016 thực hiện Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Thương

mại hàng hóa ASEAN.

12. Bộ công Thương (2016), Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015- kết quả hội

nhập và cơ hội cho doanh nghiệp, người dân Việt Nam, NXB thế giới

13. Bộ công Thương (2017), Báo cáo xuất nhập khẩu Việt Nam 2016, Hà Nội 14. Bộ Tài chính (2006), Quyết định 39/2006/QĐ-BTC ngày 28/07/2006 của

Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế

nhập khẩu ưu đãi.

15. Bộ Tài chính (2006), Quyết định số 09/2006/QĐ-BTC ngày 28/02/2006

của Bộ trưởng Bộ Tài chính về ban hành danh mục hàng hoá và mức thuế

suất thuế nhập khẩu của Việt Nam để thực hiện hiệp định CEPT/AFTA

giai đoạn 2006-2013.

16. Bộ Tài chính (2015), Thông tư 182/2015/TT-BTC của Bộ trưởng Bộ Tài

chính về việc ban hành biểu thuế xuất khẩu, biểu thuế nhập khẩu ưu đãi

theo danh mục mặt hàng chịu thuế.

17. Brian Staples (2015), Báo cáo Hỗ trợ Bộ Công Thương về Sáng kiến tự

chứng nhận xuất xứ, MUTRAP.

18. TS.Phạm Văn Chất (2013), Tài liệu tập huấn về WTO và hội nhập kinh tế

quốc tế dành cho đối tượng doanh nghiệp, TP. Hồ Chí Minh.

19. Chính phủ (2006), Nghị định 19/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật

Thương mại về xuất xứ hàng hóa, Hà Nội.

20. Cục Xuất Nhập khẩu, Bộ Công Thương (2014), Báo cáo Xuất nhập khẩu

Việt Nam 2013, Hà Nội.

21. Nguyễn Cương (2015), “Cơ chế chứ ng nhâ ̣n xuất xứ hàng hoá trong các FTA và vấn đề đă ̣t ra vớ i Viê ̣t Nam”, Tạp chı́ Nghiên cứ u Thương mại số 13& 14 tháng 04/2015.

192

22. Nguyễn Tiến Dũng (2011), “Tác động của Khu vực thương mại tự do

ASEAN-Hàn Quốc đến thương mại Việt Nam”, tạp chí kinh tế và kinh

doanh, đại học quốc gia Hà Nội, 27(2011),219.

23. Khương Duy (2014), “Vai trò bảo hộ của quy tắc xuất xứ trong thương

mại quốc tế”, tạp chí kinh tế đối ngoại số 56, trường đại học Ngoại thương

Hà Nội.

24. Khương Duy (2015), “Cộng đồng kinh tế ASEAN và những tác động đến

Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, Kỳ I-tháng 12/2015(622), Tr.54-56.

25. Hà Văn Hội (2013), “Tham gia cộng đồng kinh tế ASEAN và những tác

động đến thương mại quốc tế của Việt Nam”, tạp chí khoa học ĐHQGHN,

Kinh tế và kinh doanh, tập 29, số 4(2013) tr.44-53.

26. Stefano Inama, Hồ Quang Trung, Trần Bá Cường, Phan Sinh (2011), “Báo

cáo đánh giá tác động của quy tắc xuất xứ trong các hiệp định thương mại

tự do của Việt Nam”, MUTRAP.

27. Nguyễn Phúc Khanh (2005), Nghiên cứu việc hình thành cộng đồng kinh

tế ASEAN (AEC) và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, đề tài nghiên

cứu khoa học và công nghệ cấp Bộ giáo dục và đào tạo, trường Đại học

Ngoại thương.

định thương mại hàng hoá ASEAN (ATIGA), 28. Hiệp

http://www.trungtamwto.vn/cachiepdinhkhac/hiep-dinh-thuong-mai-hang-

hoa-asean-atiga.

29. Phan Thị Thu Hiền (2014), “Hoàn thiện chính sách kiểm tra xuất xứ hàng

hóa nhập khẩu của Tổng cục hải quan Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ

chuyên ngành kinh tế đối ngoại Đại học Kinh tế quốc dân.

30. PGS.,TS.Nguyễn Thị Thương Huyền, Ths.Nguyễn Hoàng Tuấn (2010),

Giáo trình phân loại và xuất xứ hàng hóa, Học viện Tài chính.

193

31. TS.Nguyễn Thị Thương Huyền (2010), “Kỹ thuật nghiệp vụ hải quan và

xuất nhập khẩu lý thuyết và tình huống ứng dụng”, nhà xuất bản Tài chính,

Hà Nội.

32. Lê Thị Hồng Lan (2008), “Phương pháp xác định xuất xứ hàng hóa xuất

nhập khẩu ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp”, Luận văn thạc sỹ quản

trị kinh doanh đại học ngoại thương.

33. Nguyễn Thị Liên (2009), Giáo trình thuế, NXB Tài chính.

34. Ngọc Linh (2014), “Quản lý xuất xứ hàng hóa trước yêu cầu mới”, báo hải

quan Online 29/11/2014. http://www.baohaiquan.vn/pages/quan-ly-xuat-

xu-hang-hoa-truoc-yeu-cau-moi.aspx.

35. MUTRAP (2010), Báo cáo đánh giá tác động của các hiệp định thương

mại tự do đối với kinh tế Việt Nam, Hà Nội.

36. MUTRAP III (2012), Hiệp định Thương mại tự do: Một số khái niệm cơ

bản, Hà Nội.

37. Quốc hội (2005), Luật Thương mại Việt Nam, Hà Nội.

38. Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Anh Thu (2015), Cộng đồng kinh tế ASEAN

(AEC): Bối cảnh và kinh nghiệm quốc tế, nhà xuất bản đại học quốc gia

Hà Nội.

39. Nguyễn Hồng Sơn, TS. Nguyễn Mạnh Hùng (2014), “Cộng đồng kinh tế

ASEAN trong bối cảnh quốc tế mới”, Tạp chí Những vấn đề kinh tế &

Chính trị Thế giới, tháng 7/2014.

40. Trần Thị Thanh Tâm (2015), “Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi

tham gia AEC”, Tạp chí Tài chính/ 2015, Số 606 (Tháng 4), tr. 8 – 11..

41. Nguyễn Anh Thu, Vũ Thanh Hương, Vũ Văn Trung, Lê Thị Thanh Xuân

(2015), “Tác động của cộng đồng kinh tế ASEAN đến thương mại Việt

Nam”, Tạp chí khoa học ĐHQGHN-kinh tế và kinh doanh, tập 31, số

4(2015) 39-50.

194

42. Nguyễn Anh Tuấn (2015), “Cộng đồng Kinh tế ASEAN: Triển vọng và

những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam”, Tạp chí cộng sản số tháng 6/2015.

43. Nguyễn Hoàng Tuấn, Thái Bùi Hải An (2014), Áp dụng hiệu quả các quy

định về xuất xứ hàng hóa trong các hiệp định thương mại tự do của Việt

Nam, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Học viện Tài chính.

44. Nguyễn Hoàng Tuấn (2012), “Gian lận thuế nhập khẩu qua mã số và xuất

xứ hàng hoá”, Kỷ yếu hội thảo khoa học khoa Thuế và hải quan tháng

09/2012: “Chống gian lận thuế ở Việt Nam-Những vấn đề lý luận và thực

tiễn”.

45. Nguyễn Hoàng Tuấn (2013), “Thống nhất về cách hiểu khi sử dụng hóa

đơn thương mại trong áp dụng các quy định về xuất xứ hàng hóa theo các

FTA của Việt Nam’’, Tạp chí nghiên cứu tài chính kế toán, số 12(125), tr.

43-46.

46. Nguyễn Ngọc Túc (2008), Hoàn thiện các biện pháp kiểm tra xuất xứ

hàng hoá xuất nhập khẩu của hải quan Việt Nam, đề tài NCKH cấp Bộ Tài

chính.

47. Nguyễn Hoàng Tuấn (2017), “Vấn đề thuế quan và áp dụng quy tắc xuất

xứ hàng hoá trong thương mại Việt Nam- ASEAN”, tạp chí Tài chính, kỳ 1

– tháng 4/2017(654), tr 83-84.

48. Từ điển bách khoa Việt Nam tập 4 (2005), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà

Nội.

49. Từ điển Luật học, http://luatvietnam.vn/default.aspx?tabid=779&p=264.

50. VCCI (2015), Báo cáo nghiên cứu Tự do thương mại quốc tế ở Việt Nam,

Hà Nội.

51. VCCI (2013), Báo cáo nghiên cứu hiệu quả tham vấn doanh nghiệp trong

đàm phán các hiệp định thương mại tự do, Hà Nội.

195

52. Viện nghiên cứu thương mại (2016), Kỷ yếu hội thảo phát triển thương

mại Việt Nam giai đoạn 2016-2025, Hà Nội.

53. WCO (1999), Công ước Kyoto về đơn giản hóa và hài hòa hóa thủ tục hải

quan (sửa đổi năm 1999).

quy

Hiệp

định

về

tắc

xuất

(1994),

xứ,

54. WTO

http://www.trungtamwto.vn/wto/hiep-dinh-ve-quy-tac-xuat-xu

Tiếng Anh

55. Aigner, D., Lovell, C., & Schmidt P. (1977), “Formulation and estimation

of stochastic frontier production function models”, Journal of

Econometrics, 6(1), 21-37.

56. Armstrong, S. (2007), “Measuring Trade and Trade Potential: A Survey”,.

Asia Pacific Economic Papers, No. 368, 1-19.

57. Anne van de Heetkamp and Ruud Tusveld (2011), Origin Management:

Rules of Origin in Free Trade Agreements, Springer Heidelberg Dordrecht

58. Antoni Estevadeordal và Kati Suominen (2003), “Rules of Origin in the

World Trading System”, WTO.

59. Antoni Estevadeordal and Kati Suomien (2005), what are the effects of

origin on trade?, World bank.

Jeremy Harris, Kati Suominen (2009), 60. Antoni Estevadeordal,

“Multilateralising Preferential Rules of Origin around the World”, IDB

WORKING PAPER SERIES # IDB-WP-137.

61. Atsushi Tanaka (2011), World Trends in Preferential Origin Certification

and Verification, WCO.

62. Archanun Kohpaiboon and Juthathip Jongwanich (2015), Use of FTAs

from Thai Experience, ERIA Discussion Paper Series 2015-02

196

63. Baldwin, R. & Taglioni, D. (2006). Gravity for Dummies and Dummies

for Gravity Equations. NBER Working Papers 12516, National Bureau of

Economic Research, Inc.

64. Biswajit Nag and Debdeep De (2011), “Rules of origin and development of

regional production network in Asia : case studies of selected industries’’,

Working Papers 10111, Asia-Pacific Research and Training Network on

Trade (ARTNeT)

65. Carolina Bjuggren and Elenor Hanson Lundström (2012), The Impact of

Rules of Origin on Trade, National Board of Trade, March 2012.

66. Colleen Carroll, Dylan Geraets, Arnoud R. Willems, (2014), “Reconciling

rules of origin and global value chains: the case for reform”, Leuven

Centre for Global Governance Studies – Institute for International Law,

KU Leuven.

67. Christopher Findlay & Shujiro Urata (2010), Free Trade Agreeents In The

Asia Pacific,World Scientific Studies in International Economics - Vol.11.

68. Cheewatrakoolpong, Kornkarun, Sabhasri, Bunditwattanawong, Nath,

Chayodom (2013): “Impact of the ASEAN economic community on ASEAN

production networks”, ADBI Working Paper Series, No. 409.

69. Duttagupta và Panagariya (2003), Free Trade Areas and Rules of Origin

Economics and Politics, MF Working Paper No. 03/229.

70. Erlinda M. Medalla, Jenny Balboa (2009), ASEAN Rules of Origin:

Lessons and Recommendations for Best Practice, Philippine Institute for

Development Studies (PIDS), Philippines.

71. Erlinda M. Medalla and Josef T. Yap (2008), “Policy Issues for the

ASEAN Economic Community: the Rules of Origin”, Philippine Institute

for Development Studies.

197

72. Estevadeordal, A. and K. Suominen (2003), Rules of Origin in FTAs in

Europe and in the Americas: Issues and Implications for the EU-Mercosur

Inter-Regional Association Agreement, in: Valladão, A. G. A. and R.

Bouzas, eds., Market Access for Goods & Services in the EU-Mercosur

Negotiations (Chaire Mercosur de Sciences Po, Paris).

73. Hiratsuka, D., K. Hayakawa, K. Shino and S. Sukegawa (2009),

Maximizing Benefits

from FTAs

in ASEAN, Deepening East

AsianEconomic Integration, ERIA Research Project Report 2008-1

74. Hiro Lee, Michael G.Plummer (2011), “Assessing the Impact of the

ASEAN Economic Community”, OSIPP Discussion Paper: DP-2011-E-002

75. Jayant Menon and Anna Cassandra Melendez (2015), “Realizing an

ASEAN Economic Community: Progress and Remaining Challenges”,

ADB Economics Working Paper Series

76. Kala Krishna (2004), Understanding rules of origin, Pennsylvania State

University and NBER .

77. Kazunobu Hayakawa (2013), Impacts of common rules of origin on FTA

Utilization, IDE discussion paper No.429

78. Lili Yan Ing, Shujiro Urata (2015), The Use of FTAs in ASEAN: Survey-

based Analysis, Economic Research Institute for ASEAN and East Asia,

2015

79. Lili Yan Ing, Olivier Cadot (2014), “How Restrictive Are ASEAN’s

RoO?”, ERIA-DP-2014-18

80. Lili Yan Ing, Olivier Cadot (2016), “Facilitating ASEAN trade in goods”,

ERIA Discussion Paper Series

81. Maria Donner Abreu (2013), Preferential rules of origin in regional trade

agreements, Economic Research and Statistics Division March, WTO.

198

82. Meeusen, W., & Van den Broeck, J. (1977), “Efficiency Estimation from

Cobb-Douglas Production Function with Composed Errors”, International

Economic Review,18(2):435-444.

83. Michael F. Martin (2012), International Trade: Rules of Origin,

Congressional Research Service.

84. Mina Mashayekhi (2011), “Rules of origin and origin procedures

applicable to exports from least developed countries”, UNCTAD

85. Misa OKABE, Shujiro URATA (2013), “The Impact of AFTA on Intra-

AFTA Trade”, ERIA Discussion Paper Series -2013-05, Indonesia.

86. Normaz Wana Ismail and Collin Wong Koh King (2013), “The Effects of

ASEAN Free Trade Agreement (AFTA) on Intra ASEAN Trade: 1986-

2010”, Pertanika J. Soc. Sci. & Hum. 21 (S): 115 - 124 (2013).

87. Olivier Cadot, Antoni Estevadeordal, Akiko Suwa-Eisenmann và Thiery

Verdier (2006), The Origin of Goods, Oxford University Press

88. Olivier Cadot, Jaime de Melo, Alberto Portugal-Perez (2006), Rules of

Origin for Preferential trading arrangements : implications for the ASEAN

free trade area of EU and US experience , Washington, DC,World bank

89. Patricia Augier, Michael Gasiorek và Charles Lai-Tong (2005), “The

impact of rules of origin on trade flows”, Econ Policy (2005) 20 (43): 568-

624

90. Peter A.Petri, Michael G.Plummer and Fan Zhai (2012), “ASEAN

Economic Community: A General Equilibrium Analysis”, Asian Economic

Journal, 26(2), 93–118

91. Peter Clark (2013), “Free Trade Areas and Rules of Origin : Economics

and Politics”, IMF

92. Ponciano Intal, Jr., Yoshifumi Fukunaga, Fukunari Kimura, Phoumin Han,

Philippa Dee, Dionisius Narjoko, Sothea Oum (2014), ASEAN RISING:

199

ASEAN and AEC Beyond 2015, Economic Research Institute for ASEAN

and East Asia (ERIA), Indonesia.

93. Sangkyom Kim, Innwon Park, and Soonchan Park (2012), “Trade-creating

Regime-wide Rules of Origin: A Quantitative Analysis”, the Marine

Economy, Innovation and International Trade, China, October 30–31,

2012

94. Stefano Inama (2009), Rules of origin on international trade, Cambridge

University Press

95. Doan Ngoc Thang (2016 ), Free trade agreements, rules of origin and

trade efficiency- a stochastic frontier gravity model approach, thesis

Macroeconomic Policy Program, Japan National Graduate Institute for

Policy Studies

96. Nguyen Anh Thu, “Assessing the Impact of Vietnam’s Integration under

AFTA and VJEPA on Vietnam’s Trade Flows, Gravity Model Approach”,

Yokohama Journal of Sciences, 17 (2012) 2, 137.

97. Teruo UJIIE (2006), Rules of origin: conceptual explorations and lessons

from the generalized system of preferences, ADB.

98. Teruo Ujiie (2006), “Rules of Origin: Conceptual Explorations and

Lessons from the Generalized System of Preferences”, ERD Working

Paper No. 89

99. The ASEAN Secretariat (2015), ASEAN Statistical Yearbook 2015

100. Uwe Kaufmann (2014), Determinants and Impacts of rules of origin in

Australia’s free trade agreements, thesis in the University of Adelaide

101. Verdeja, Luis F. (2012), “Empirical assessment of the impact on trade of

product specific preferential rules of origin”, PhD thesis, University of

Nottingham

102. WCO (1999), Revised Kyoto Convention

200

103. WCO (2014), Comparative study on certification of origin, Belgium.

104. WCO (2013), Glossary of International Customs Terms, Belgium.

105. World economic forum (2015), Global Competitiveness report 2015.

106. Luc De Wulf and Jose B. Sokol (2005 ), Customs modernization

handbook, Washington, DC,World bank

107. Xinxuan Cheng (2010), “The Development of FTA Rules of Origin

Functions”, Asian Social Science, Vol. 6, No. 12; December 2010.

201

PHỤ LỤC 1

(Trích điều 27 chương 3 của hiệp định ATIGA)

Điều 27. Hàng hoá có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ

Trong phạm vi Điều 26 (a), những hàng hoá sau đây phải được xem là có

xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại Quốc gia Thành viên xuất

khẩu:

(a) Thực vật và các sản phẩm từ thực vật, bao gồm trái cây, hoa, rau, cây,

tảo biển, nấm và các thực vật sống, được trồng và thu hoạch, hái và thu lượm

tại Quốc gia Thành viên xuất khẩu;

(b) Động vật sống, bao gồm động vật có vú, chim, cá, loài giáp xác, loài

không xương sống, loài bò sát, vi khuẩn và vi rút, sinh trưởng và được nuôi

dưỡng tại Quốc gia Thành viên xuất khẩu;

(c) Hàng hoá thu được từ Quốc gia Thành viên xuất khẩu;

(d) Hàng hoá thu được từ săn bắn, bẫy, câu, trồng trọt, nuôi trồng thuỷ

sản, thu gom và đánh bắt được tiến hành tại Quốc gia Xuất khẩu thành viên;

(e) Khoáng sản và các chất sản sinh tự nhiên khác, chưa được liệt kê từ

khoản (a) đến (d) của Điều này và được chiết xuất hoặc lấy ra từ đất, nước,

đáy biển hoặc dưới đáy biển;

(f) Sản phẩm đánh bằng tàu được đăng ký với một Quốc gia Thành viên

và có treo cờ của Quốc gia Thành viên đó và các sản phẩm khác24 được khai

thác từ vùng lãnh hải, đáy biển hoặc dưới đáy biển bên ngoài vùng lãnh hải25

24 “Các sản phẩm khác” chỉ các khoáng sản và các chất hình thành tự nhiên khác được khai thác từ vùng lãnh hải, đáy biển hoặc dưới đáy biển bên ngoài vùng lãnh hải.

25 Đối với các sản phẩm đánh bắt ngoài vùng lãnh hải (ví dụ Vùng đặc quyền kinh tế), sản phẩm được coi là có xuất xứ của Quốc gia Thành viên nếu tàu khai thác sản phẩm đó được đăng ký tại Quốc gia Thành viên và treo cờ của Quốc gia Thành viên đó, với điều kiện là Quốc gia Thành viên đó có quyền khai thác vùng đó theo luật quốc tế;

của Quốc gia Thành viên đó, với điều kiện Quốc gia Thành viên đó có quyền

202

khai thác vùng lãnh hải, đáy biển và dưới đáy biển đó theo luật quốc tế26;

(g) Sản phẩm đánh bắt và các sản phẩm từ biển khác được đánh bắt từ

vùng biển cả bằng được đăng ký với một Quốc gia Thành viên và được phép

treo cờ của Quốc gia Thành viên đó;

(h) Sản phẩm được chế biến và/hoặc được sản xuất ngay trên tàu được

đăng ký với một Quốc gia Thành viên và được phép treo cờ của Quốc gia

Thành viên đó, trừ các sản phẩm được quy định trong khoản (g) của Điều này;

(i) Các vật phẩm được thu nhặt tại nước đó nhưng không còn thực hiện

được những chức năng ban đầu hoặc cũng không thể sửa chữa hay khôi phục

được và chỉ có thể vứt bỏ hoặc dùng làm các nguyên vật liệu, hoặc sử dụng

vào mục đích tái chế;

(j) Phế thải và phế liệu có nguồn gốc từ:

i. quá trình sản xuất tại Quốc gia Thành viên xuất khẩu; hoặc

ii. hàng hoá đã qua sử dụng được thu nhặt tại Quốc gia Thành viên xuất

khẩu; với điều kiện những hàng hoá đó chỉ phù hợp làm nguyên vật liệu thô;

(k) Hàng hoá thu được hoặc được sản xuất tại Quốc gia Thành viên xuất

26 Theo luật quốc tế, việc đăng ký tàu chỉ có thể được thực hiện tại một Quốc gia Thành viên.

khẩu từ các sản phẩm được quy định từ khoản (a) đến (j) của Điều này.[27]

203

PHỤ LỤC 2: MẪU C/O MẪU D

Original (Duplicate/Triplicate)

Reference No.

1. Goods consigned from (Exporter's business name,

ASEAN TRADE IN GOODS AGREEMENT/

address, country)

ASEAN INDUSTRIAL COOPERATION SCHEME

CERTIFICATE OF ORIGIN

(Combined Declaration and Certificate)

2. Goods consigned to (Consignee's name, address,

FORM D

country)

Issued in ______________

(Country)

See Overleaf Notes

3. Means of transport and route (as far as know n)

4. For Official Use

Departure date

Preferential Treatment Given Under ASEAN Trade in Goods Agreement

Vessel's name/Aircraft etc.

Preferential Treatment Given Under ASEAN Industrial Cooperation Scheme

Port of Discharge

Preferential Treatment Not Given (Please state reason/s)

..................................................................................

Signature of Authorised Signatory of the Importing Country

7. Number and type of

5. Item number

8. Origin criterion (see Overleaf Notes)

10. Number and date of invoices

6. Marks and numbers on packages, description of goods (including quantity packages w here appropriate and HS number of the importing country)

9. Gross w eight or other quantity and value (FOB) w here RVC is applied

11. Declaration by the exporter

12. Certification

The undersigned hereby declares that the above details and statement are correct; that all the goods w ere produced in

It is hereby certified, on the basis of control carried out, that the declaration by the exporter is correct.

.............................................................

(Country)

and that they comply w ith the origin requirements specified for these goods in the ASEAN Trade in Goods Agreement for the goods exported to

.............................................................

(Importing Country)

.............................................................

................................................................................

Place and date, signature of authorised signatory

Place and date, signature and stamp of certifying authority

13 □ Third Country Invoicing

□ Exhibition

□ Accumulation

□ De Minimis

□ Back-to-Back CO

□ Issued Retroactively

□ Partial Cumulation

PHỤ LỤC 3: Tổng hợp áp dụng tiêu chí xuất xứ hàng hoá của hiệp định ATIGA theo các phần của danh mục HS

Phần

STT

II

I

III

IV

V

VI VII VIII

IX X

XI XII XIII XIV XV XVI XVII XVIII XIX XX XXI

Tiêu chí xuất xứ

1 WO

50

131

12

3

6

18

1

2

RVC(40) hoặc CTSH + x

2

1

1

4

3

RVC(40) hoặc CTH hoặc x

8

15

4

RVC(40) hoặc CTH + x

52

5

RVC(40) hoặc CC + x

77

6

RVC(40)

6

30

61

50

7

RVC(40) hoặc CC hoặc x

35

8

RVC(40) hoặc CC

85

96

12

124

12

28

39

4

1

2 0 4

9

109

33

RVC(40) hoặc CTH hoặc CTSH+RVC(35)

10 RVC(40) hoặc CTSH

32

22

5

23

75

5

15

61

431

6

5

56

46

11

167

RVC(40) hoặc CC hoặc Quy tắc hàng dệt may

12

1

330

1

1

RVC (40) hoặc CTH hoặc Quy tắc hàng dệt may

13

265

RCV(40) hoặc Quy tắc hàng dệt may hoặc CC + x

14

1

RVC(40) hoặc Quy tắc hàng dệt may hoặc CTH + x

2

15 RVC hoặc CTH

169

49

1

81

129

762

211

51

19

136

47

142

28

266

188

67

107

18

71

7

336

304

48

211

148

787

211

94

69

141

796

142

563

771

130

211

118

47

18

53

Tổng

7 (Nguồn: Tổng hợp từ phụ lục quy tắc xuất xứ hàng hoá của hiệp định ATIGA)

PHỤ LỤC 4: BẢNG TỔNG HỢP DỮ LIỆU THU THẬP ĐỀ TÀI

Quốc gia

Năm

Tvnjt

Tjvnt

ER (đồng)

GDP (triệu USD)

Chênh lệch thu nhập INCOMEGAP (USD)

Nhập khẩu IM (triệu USD)

Xuất khẩu EX (triệu USD)

Dân số POP (nghìn người)

2 0 5

780,60 957,90 95,00 1254,00 16,50 782,80 1811,70 930,20

169,50 1012,80 166,60 1482,00 64,60 342,60 6273,90 3034,40

1041,10 1153,20 109,70 1555,00 21,80 965,10 2234,40 1030,00

205,50 1353,90 211,30 2289,90 75,40 414,20 7613,70 3744,20

365,00 14081,00 222747,00 5747,00 26550,00 48983,00 86973,00 4401,00 65574,00 370,00 14364,00 225642,00 5873,00 27058,00 49334,00 88546,00 4589,00 66041,00 375,00 13396,00 228523,00 6000,00

10066,03 3,90 1,75 1,57 4360,27 2737,36 311,69 10066,03 422,21 10686,16 3,97 1,76 1,68 4685,03 2867,27 348,99 10686,16 466,57 11503,41 4,02 1,68 1,86

Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos

2006 2006 2006 2006 2006 2006 2006 2006 2006 2007 2007 2007 2007 2007 2007 2007 2007 2007 2008 2008 2008 2008

1531,60 751,20 160,30

11464,00 7258,00 364371,00 3309,00 163550,00 13187,00 122419,00 147797,00 207328,00 12281,00 8636,00 431024,00 4224,00 193901,00 19132,00 152126,00 179981,00 247178,00 14483,00 11073,00 512753,00 5291,00

30654,00 -283,00 838,00 -222,00 5362,00 -530,00 610,00 32782,00 2587,00 32371,00 -317,00 992,00 -199,00 6248,00 -549,00 800,00 38306,00 3066,00 37370,00 -338,00 1079,00 -283,00

4,56 4,56 4,56 4,56 4,56 4,56 4,56 4,56 4,56 4,53 4,53 4,53 4,53 4,53 4,53 4,53 4,53 4,53 2,86 2,86 2,86 2,86

1,18 8,82 1,93 3,05 2,30 4,20 2,37 0,00 2,47 0,73 8,23 1,66 1,80 1,04 3,47 2,42 0,00 2,29 0,73 7,13 0,99 1,28

214,30 1728,90 278,70

2596,10 75,60 389,10 9378,00 4905,60

197,10 1452,70 254,20 2561,30

59,10 450,70 7015,20

2030,40 32,60 1824,70 2713,80 1288,50 7,70 1166,50 754,10 172,20 1775,20 33,90 1461,90 2075,60 1314,20

2 0 6

27568,00 49708,00 90457,00 4839,00 66482,00 380,00 14085,00 231370,00 6128,00 28082,00 50110,00 92227,00 4988,00 66903,00 387,00 14303,00 238519,00 6256,00 28589,00 50537,00 93135,00 5077,00 67313,00 393,00 14521,00 241991,00 6385,00 29062,00 50149,00

4887,01 2995,94 367,80 11522,16 489,36 11732,05 4,12 1,64 2,00 4841,84 3060,25 357,91 11732,49 497,73 13650,74 4,45 2,05 2,25 5778,46 3303,16 412,61 13650,75 587,42 16304,59 5,05 2,34 2,55 6702,53 3767,33

Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar

2008 2008 2008 2008 2008 2009 2009 2009 2009 2009 2009 2009 2009 2009 2010 2010 2010 2010 2010 2010 2010 2010 2010 2011 2011 2011 2011 2011 2011

14,20 1563,80 1433,40 200,00 2093,10 49,50 1706,40 2121,30 1182,80 15,40 2519,00 2358,90 286,60 2770,80 82,50

231382,00 25435,00 173427,00 192240,00 272946,00 10815,36 10353,66 545854,46 5594,91 202627,38 26961,51 168643,86 192408,39 281916,46 12401,94 11229,31 710068,34 6752,02 250772,87 41003,63 199975,94 236421,80 341338,45 16691,36 12803,91 846522,62 8060,60 298141,84 56501,99

7228,00 -674,00 752,00 38559,00 3224,00 27221,56 -497,36 1126,81 -319,41 5983,26 -694,38 596,15 37344,92 2981,38 30725,11 -552,71 1639,16 -258,57 7433,95 -526,47 809,33 45232,15 3733,09 40888,80 -660,95 1955,47 -280,27 8716,13 -416,01

2,86 2,86 2,86 2,86 2,86 2,97 2,97 2,97 2,97 2,97 2,97 2,97 2,97 2,97 2,90 2,90 2,90 2,90 2,90 2,90 2,90 2,90 2,90 2,76 2,76 2,76 2,76 2,76 2,76

0,95 2,83 0,96 0,00 1,03 0,61 5,83 1,05 1,54 0,94 1,11 1,01 0,00 1,01 0,00 4,62 0,06 1,53 0,04 1,10 0,19 0,00 0,01 2,66 4,83 0,06 1,31 0,04 1,10

4471,10 10,00 276,60 1909,20 291,70 3413,40 102,80 700,30 4101,10 5602,30 189,20 429,60 2247,60 460,00 3919,70 84,80

2 0 7

94824,00 5184,00 67597,00 400,00 14741,00 245425,00 6514,00 29510,00 50667,00 96511,00 5312,00 67911,00 406,00 14963,00 248818,00 6679,00 29915,00 51184,00 98197,00 5399,00 68251,00 412,00 15184,00 252165,00 6809,00 30262,00 51486,00 99880,00 5470,00

473,52 16306,36 672,63 16668,17 5,16 2,22 2,60 6743,07 32,51 493,22 16666,72 670,07 16731,13 5,20 2,00 2,66 6643,61 22,42 493,18 16729,33 681,29 16690,87 5,24 1,78 2,63 6461,63 21,48 476,36 16690,74

Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore

2011 2011 2011 2012 2012 2012 2012 2012 2012 2012 2012 2012 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2013 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014 2014

1535,30 2149,30 1938,30 16,90 2929,90 2357,70 432,60 4500,30 117,80 1871,50 2367,70 2832,20 17,50 2934,00 2502,20 423,20 4984,50 229,70 1732,30 2691,50 3069,60 49,60 2685,40 2890,40 484,00 3926,40 345,00 2310,30 2942,00

224107,80 275198,90 370721,98 16969,71 14027,02 874638,92 9398,30 314895,05 60281,66 250602,99 289274,17 397494,83 18100,39 15221,39 904691,89 10771,30 322224,51 61863,82 268883,06 300288,50 420156,83 17096,04 16771,44 889057,79 11853,15 337497,11 65750,41 285108,30 305777,54

820,72 51546,59 3941,61 40690,95 -803,01 1809,22 -311,86 8916,24 -564,79 842,08 52698,09 4098,62 42652,76 -890,24 1728,42 -294,80 8863,69 -698,88 830,68 53709,69 4248,52 39452,78 -947,99 1473,17 -311,72 9100,09 -775,47 801,97 53851,37

2,76 2,76 2,76 2,05 2,05 2,05 2,05 2,05 2,05 2,05 2,05 2,05 1,96 1,96 1,96 1,96 1,96 1,96 1,96 1,96 1,96 1,90 1,90 1,90 1,90 1,90 1,90 1,90 1,90

0,18 0,00 0,01 0,00 3,31 0,05 0,95 0,04 0,56 0,16 0,00 0,01 0,00 2,31 0,05 0,85 0,05 0,55 0,14 0,00 0,01 0,00 2,31 0,04 0,78 0,05 0,55 0,13 0,00

805,10 6390,60 6383,60 610,60 542,60 2247,40 450,90 3412,00 109,50 964,50 6691,00 5791,90 607,00 503,60 2367,40 668,70 4095,90 123,50 952,30 5685,20 6283,40 102,30 623,40 2488,50 802,10 4203,60 134,60 674,90 6834,70

651,11 15781,07 5,33 1,62 2,66 5555,64 18,66 476,84 15782,06 633,55

1,90 1,04 1,04 1,04 1,04 1,04 1,04 1,04 1,04 1,04

3473,50 25,59 2421,70 2854,75 542,92 3517,07 383,34 2031,12 3090,09 3177,02

0,01 0,00 0,72 0,03 0,47 0,05 0,20 0,11 0,00 0,01

7053,30 52,40 968,50 2754,76 583,62 4159,06 56,47 907,50 6071,18 8327,68

3839,91 28833,25 -910,32 1248,25 -277,66 7547,96 -862,69 741,68 50635,09 3628,09

2 0 8

68610,00 417,00 15405,00 255462,00 6902,00 30485,00 52476,00 101562,00 5535,00 68979,00 83311,00 84218,00 85118,00 86024,00 86932,00 87860,00 88809,00 89760,00 90729,00 91713,00

404280,26 12909,03 18462,98 857603,30 12639,34 294389,63 65391,77 289502,82 291937,62 395726,32 66244,00 77429,00 97452,00 106018,28 116299,91 135541,10 155820,01 171219,28 186223,56 193406,66

2014 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2015 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Thailand Brunei Campuchia Indonesia Laos Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thailand Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam *EX: Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang các nước theo năm. Nguồn tại http://data.aseanstats.org/

IM: Kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ các nước của Việt Nam theo năm. Nguồn tại http://data.aseanstats.org/ GDP: của các nước theo năm. Nguồn tại http://data.aseanstats.org/ POP: dân số cuả các nước theo năm. Nguồn tại http://data.aseanstats.org/ ER :Tỷ giá giữa đồng tiền các nước và Việt Nam theo năm. Nguồn tại http://data.aseanstats.org/ INCOMEGAP chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa các nước và Việt Nam theo năm. Nguồn tại http://data.aseanstats.org/ Tjvnt Thuế nhập khẩu nước j áp dụng đối với hàng hoá từ Việt Nam theo năm t. Nguồn tại http://tao.wto.org/ Tvnjt Thuế nhập khẩu Việt Nam áp dụng cho hàng hoá nước j theo năm t. Nguồn tại http://tao.wto.org/