VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THẠCH KIM HIẾU

QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2013

Ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 62 22 03 13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. PHAN XUÂN BIÊN

TS. TRẦN THỊ NHUNG

HÀ NỘI - 2021

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các tư liệu, số

liệu được sử dụng trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận

án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

THẠCH KIM HIẾU

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................ 6 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ....................................................................... 6 1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố và những vấn đề đặt ra đối với luận án ......................................................................................... 27 CHƢƠNG 2. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2000 ............................... 29 2.1. Hệ thống chính trị Thành phố Hồ Chí Minh trước Đổi mới ........................... 29 2.2. Đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh .................................. 35 CHƢƠNG 3. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2013 ................................... 84 3.1. Yêu cầu tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh ........ 84 3.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đảng viên; đổi mới công tác cán bộ và phương thức lãnh đạo của đảng ........................ 86 3.3. Đổi mới tổ chức bộ máy chính quyền, đẩy mạnh cải cách hành chính ........ 102 3.4. Đổi mới nội dung và phương thức vận động quần chúng nhân dân của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội ............................................................. 115 CHƢƠNG 4. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .......................................................................................................... 128 4.1. Nhận xét về quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013 .................................................................................. 128 4.2. Tác động của quá trình đổi mới hệ thống chính trị đối với sự phát triển kinh tế, xã hội Thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................... 146 4.3. Một số bài học kinh nghiệm .......................................................................... 149 KẾT LUẬN ......................................................................................................... 157 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ .......................... 160 LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................ 160 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 161

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNXH : Chủ nghĩa xã hội

HĐND: Hội đồng nhân dân

UBND : Ủy ban nhân dân

MTTQ: Mặt trận Tổ quốc

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là quan hệ cơ bản, tồn tại khách quan trong mọi xã hội có phân chia giai cấp và có nhà nước; là mối quan hệ mật thiết giữa cơ

sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng; quan hệ giữa cái khách quan và cái chủ quan;

giữa cái tất yếu và cái có thể… Nhận thức đúng và giải quyết thành công quan hệ giữa kinh tế và chính trị là vấn đề có ý nghĩa quyết định chiều hướng, nội dung,

nhịp độ, hiệu quả và mức độ bền vững của sự phát triển. Thực hiện đường lối đổi

mới của Đảng cộng sản Việt Nam từ năm 1986, hệ thống chính trị ở Việt Nam đã có

nhiều cải cách quan trọng ở tất cả các thành tố cấu thành. Quá trình cải cách đã có sự tác động mạnh mẽ lên mọi mặt đời sống của đất nước cả về đối nội và đối ngoại.

Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, trải qua hơn 30 năm Đổi mới, đã vươn lên trở

thành “đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, giáo dục đào tạo, khoa

học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực, có sức thu

hút và sức lan tỏa lớn của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có vị trí chính trị quan

trọng của cả nước.” [25]. Trong sự phát triển chung này của Thành phố Hồ Chí Minh

có sự đóng góp trực tiếp của quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cụ thể là công tác

xây dựng, chỉnh đốn đảng, công tác cải cách hành chính, hoàn thiện và tăng cường

hiệu quả quản lý nhà nước của các cấp chính quyền, công tác cán bộ, hoạt động của

Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể. Đây có thể xem là một động lực quan trọng mang

tính quyết định, thúc đẩy sự phát triển của tất cả các lĩnh vực còn lại. Đồng thời đó

cũng là một cơ sở vững chắc để Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

đưa ra những chủ trương cụ thể về xây dựng mô hình chính quyền đô thị, đáp ứng

mục tiêu đưa thành phố trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ của đất nước và khu vực Đông Nam Á.

Tuy nhiên, so với việc nghiên cứu về quá trình đổi mới kinh tế, xã hội thì việc nghiên cứu về quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua mới chỉ dừng lại ở những kết quả bước đầu mà vẫn chưa có một công trình nghiên cứu có tính hệ thống và toàn diện, đặc biệt là dưới góc độ khoa học lịch sử. cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc tổng kết những thành tựu, hạn chế cũng như những đóng góp của Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình đổi mới nói chung của đất nước. Hơn thế nữa, vì chưa có một nghiên cứu toàn diện nên nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về đổi mới hệ thống chính trị

chưa đầy đủ, chưa thấy hết tầm quan trọng của vấn đề nên trong ban hành và thực

1

hiện chủ trương về đổi mới còn thiếu đồng bộ và cụ thể. Từ đó, trong thực tế đã

xuất hiện những vướng mắc, khó khăn và không ít khuyết điểm, ảnh hưởng đến

phát triển kinh tế, xã hội của thành phố.

Do đó, việc nghiên cứu về quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố

Hồ Chí Minh có một ý nghĩa cấp thiết về mặt khoa học và thực tiễn. Về khoa học, từ việc tổng kết về quá trình lịch sử của vấn đề này sẽ góp phần xây dựng hệ thống lý

luận, rút ra những quy luật và kinh nghiệm liên quan đến việc đổi mới hệ thống

chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh. Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo cho các cấp chính quyền trong việc xây dựng các chủ trương, chính sách

cụ thể, phù hợp về đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời

đề tài có thể phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy về Thành phố Hồ Chí

Minh ở cấp phổ thông, đại học cũng như trong đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức trên địa bàn thành phố.

Với mong muốn góp phần giải quyết những vấn đề như trên, tác giả lựa chọn

đề tài nghiên cứu “Quá trình đổi mới hệ thống chính trị tại Thành phố Hồ Chí

Minh từ năm 1986 đến năm 2013” làm luận án Tiến sĩ Sử học, chuyên ngành Lịch

sử Việt Nam.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích của luận án Luận án phục dựng lại quá trình thực hiện đổi mới hệ thống chính trị ở Thành

phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013, từ đó rút ra một số kinh nghiệm

trong tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị thành phố hiện nay.

2.1. Nhiệm vụ của luận án Để thực hiện mục đích trên, luận án sẽ giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau:

Thứ nhất, trình bày thực trạng hệ thống chính trị Thành phố Hồ Chí Minh

trước năm 1986 và những nhu cầu bức thiết đặt ra đối với việc đổi mới hệ thống chính trị ở thành phố.

Thứ hai, trình bày và phân tích quá trình đổi mới hệ thống chính trị trên từng

thành tố và tổng thể ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013.

Thứ ba, đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những thành

tựu, hạn chế trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ tư, rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở

Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013

2

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu

Là những đổi mới của hệ thống chính trị trên tổng thể các thành tố của nó tại

Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013.

3.2. Phạm vi nghiên cứu Về không gian, luận án tập trung nghiên cứu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí

Minh theo phạm vi hành chính thay đổi qua các thời kỳ.

Về thời gian, luận án tập trung nghiên cứu quá trình đổi mới hệ thống chính

trị ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013 với hai giai đoạn cụ thể là từ năm 1986 đến năm 2000 và từ năm 2001 đến năm 2013. Tuy nhiên, để

có cái nhìn tổng thể trong tiến trình lịch sử nhằm rút ra những đánh giá, kết luận

xác đáng, luận án cũng đề cập đến một số nội dung liên quan đến giai đoạn trước

thời gian nêu trên. Thời điểm nghiên cứu quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu từ năm 1986 vì đây là thời điểm Đảng Cộng sản

Việt Nam chính thức khởi xướng đường lối đổi mới toàn diện, trong đó có nội

dung đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị. Luận án chia thành hai giai đoạn

nghiên cứu là 1986 – 2000 và 2001 – 2013 vì năm 2001 là thời điểm Quốc hội

Khóa X (1997 – 2002) quyết định tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của

Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 1992) bằng Nghị

quyết 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001, trong đó đề cập đến những

thay đổi quan trọng trong tổ chức của bộ máy nhà nước các cấp, điều này đã có

sự tác động trực tiếp đến hoạt động của hệ thống chính trị ở các địa phương

trong những năm tiếp theo. Thời điểm nghiên cứu được lựa chọn kết thúc vào

năm 2013 vì đây là lúc mà công cuộc đổi mới đất nước đã trải qua được gần 30

năm với nhiều thành tựu và hạn chế đã được tổng kết. Đặc biệt, năm 2013 là thời

điểm mà Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII (2011-

2016) tại kỳ họp thứ lần 6, ngày 28/11/2013 đã chính thức ban hành Hiến pháp mới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013), đánh dấu những

chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động của chính quyền các cấp. Điều này đánh dấu sự kết thúc của một thời kỳ và mở ra một thời kỳ đổi mới khác.

Về nội dung, luận án nghiên cứu quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh trên các mặt: công tác xây dựng đảng; xây dựng và hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp; nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận tổ quốc cùng các đoàn thể chính trị - xã hội; và những biến đổi của cả hệ thống chính trị dựa trên sự đổi mới từng thành tố. Từ đó, luận án sẽ rút ra những nhận xét và bài học kinh nghiệm cho việc đổi mới hệ thống chính trị Thành phố Hồ Chí Minh trong

3

giai đoạn hiện nay.

4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Luận án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch

sử và phương pháp luận sử học. Ngoài ra, luận án còn dựa trên các các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng và chính

quyền nhà nước làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu về đổi mới hệ thống chính trị

ở Thành phố Hồ Chí Minh.

4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp chủ đạo được sử

dụng trong luận án nhằm giải quyết những nhiệm vụ của luận án. Phương pháp lịch sử

được sử dụng để tái hiện trung thực những bước thay đổi theo lịch đại của quá trình đổi mới của hệ thống chính trị Thành phố Hồ Chí Minh qua hai thời kỳ là từ năm 1986 đến

năm 2000 và từ năm 2001 đến năm 2013. Phương pháp logic được sử dụng để luận

giải các thay đổi mang tính tích cực trong quá trình đổi mới đó, đồng thời để khái quát

các thành tựu, hạn chế cũng như rút ra những bài học kinh nghiệm.

Ngoài ra, luận án còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như phân

tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, nhằm làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra trong luận án.

4.3. Nguồn tài liệu Tài liệu gốc: luận án được xây dựng dựa trên nguồn tài liệu gốc là các văn bản

của Đảng bộ, chính quyền và Mặt trận tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh ban hành

liên quan đến vấn đề đổi mới hệ thống chính trị; các báo cáo, số liệu tổng kết và

đánh giá về các nội dung đổi mới hệ thống chính trị từ năm 1986 đến năm 2013.

Tài liệu khác: luận án cũng tham khảo, kế thừa các kết quả nghiên cứu trong

như các sách chuyên khảo, chuyên luận, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài

nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Thứ nhất, luận án đã phục dựng lại quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở

Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013.

Thứ hai, luận án phân tích và làm rõ tác động của quá trình đổi mới hệ thống

chính trị đến sự phát triển kinh tế, xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đổi mới.

Thứ ba, luận án đánh giá về các thành tựu và hạn chế của quá trình đổi mới hệ

thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ tư, luận án rút ra những đặc điểm và những bài học kinh nghiệm cho việc đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện tại và

4

tương lai.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án đã làm rõ thêm vai trò, vị trí của các thành tố trong hệ thống chính trị

và mối liên hệ mật thiết, ảnh hưởng lẫn nhau giữa chúng trong quá trình đổi mới, để tạo nên sự đổi mới chung đồng bộ của hệ thống chính trị.

Luận án đã rút ra được một số nguyên tắc và quy luật trong quá trình đổi mới

hệ thống chính trị ở thành phố, có thể vận dụng cho những việc đổi mới trong những năm tiếp theo ở thành phố nói riêng và cả nước nói chung.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn Nghiên cứu về quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh

từ năm 1986 đến 2013 có thể đưa ra nhiều gợi ý cho các cấp chính quyền trong việc trong việc tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị trong quá

trình đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ hiện nay. Đồng thời, những

kết quả của luận án còn có thể là tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập,

nghiên cứu về Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm 4 chương chính:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án

Chương 2. Hệ thống chính trị Thành phố Hồ Chí Minh và quá trình đổi mới từ

năm 1986 đến năm 2000

Chương 3. Đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2001

đến năm 2013

Chương 4. Nhận xét và một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình đổi mới hệ

5

thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh

CHƢƠNG 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị Trước khi bước vào nghiên cứu tổng quan cũng như toàn bộ đề tài, cần thống

nhất khái niệm “hệ thống chính trị”. Vì ngay trong tổng quan này, khái niệm hệ thống chính trị cũng được đề cập và nhắc đến nhiều lần. Khái niệm “hệ thống chính

trị” được Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng lần đầu tiên trong Hội nghị lần thứ 6

Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) tháng 3/1989, sau đó Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã khẳng định: “Toàn bộ tổ

chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây

dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm quyền lực

thuộc về nhân dân”[38, tr. 19]. Về mặt pháp lý, khái niệm HTCT Việt Nam được đề

cập đầu tiên vào năm 1992, trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam năm 1992. Từ đó cho đến nay, trong những văn kiện, sách, báo, tạp chí, công

trình nghiên cứu chính trị ở nước ta ngày càng sử dụng rộng rãi khái niệm HTCT,

HTCT xã hội chủ nghĩa thay cho khái niệm hệ thống chuyên chính vô sản trước

đây. Từ tất cả những nghiên cứu đã được tổng kết có thể hiểu HTCT xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam là một chỉnh thể gồm các thiết chế chính trị là: Đảng Cộng sản

Việt Nam, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, MTTQ Việt Nam và

các đoàn thể nhân dân (bao gồm Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam; Đoàn Thanh

niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt

Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam) được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, hoạt động nhằm duy trì và bảo vệ quyền lực, lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao

động và của dân tộc Việt Nam. So với HTCT của một số nước, HTCT Việt Nam có tính đặc thù sau đây: Một là, HTCT Việt Nam là một hệ thống tổ chức nhất nguyên chính trị; bảo đảm tính thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Hai là, tổ chức bộ máy của HTCT Việt Nam vừa thể hiện được tính giai cấp sâu sắc, vừa thể hiện được tính nhân dân rộng rãi. Ba là, tổ chức bộ máy của HTCT Việt Nam vừa bảo đảm được tính dân chủ rộng rãi, đồng thời bảo đảm được tính nghiêm minh, tối thượng của pháp luật. Bốn là, tổ chức của HTCT Việt Nam vừa bảo đảm tính tập trung thống nhất trong hoạt động, đồng thời cũng phát huy được tính năng động, chủ động của

6

các cấp từ Trung ương đến cơ sở.

Từ những đặc điểm chung đó của HTCT Việt Nam thì cũng như HTCT của

các địa phương khác, HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh được cấu tạo bởi các bộ

phận: Đảng bộ thành phố giữ vai trò lãnh đạo HTCT; chính quyền thành phố là cơ

quan thực hiện quyền lực của nhân dân, giữ chức năng quản lý xã hội; MTTQ thành phố và các tổ chức thành viên thực hiện chức năng đoàn kết toàn dân tiến hành các

phong trào cách mạng đồng thời giám sát, phản biện xã hội tại Thành phố Hồ Chí

Minh. Ba bộ phận này được cấu thành trên nguyên tắc dân chủ nhưng có sự phân công về chức năng, nhiệm vụ khác nhau trong việc thực thi quyền lực của nhân dân

thành phố. Các thành tố trong HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh có mối liên hệ hữu

cơ với nhau tạo thành một hệ thống. Mỗi thành tố trong HTCT ở Thành phố Hồ Chí

Minh có cơ cấu tổ chức, vị trí, vai trò và chức năng riêng nhưng có liên hệ, tác động qua lại với nhau thành một hệ thống thống nhất, vận hành vì mục tiêu phát triển

chung của Thành phố Hồ Chí Minh.

Nghiên cứu về đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam nói chung và đổi mới hệ

thống chính trị Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng là một vấn đề đã được thực hiện

từ rất sớm, bằng nhiều chuyên ngành, góc độ tiếp cận khác nhau với nhiều công

trình có giá trị cao của các nhà khoa học. Qua khảo sát các công trình nghiên cứu

khoa học gồm các sách chuyên khảo, các bài viết trên các tạp chí nghiên cứu khoa

học chuyên ngành, các luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ có liên quan đến nội dung

nghiên cứu trong Luận án, tác giả Luận án thấy nổi lên các công trình tiêu biểu trên

các nội dung sau đây:

1.1.2. Các công trình nghiên cứu về đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam Với nội dung nghiên cứu về đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam, các công

trình nghiên cứu đã công bố được tập trung trên các 3 nhóm vấn đề chính như sau:

Thứ nhất, về tính tất yếu và những vấn đề đặt ra đối với việc đổi mới hệ thống chính trị, tiêu biểu có nhóm tác giả Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, Đoàn Trọng

Truyến (đồng chủ biên), (1999), với công trình “Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình đã đề cập những vấn đề lý luận, phương pháp luận, đặc trưng và nguyên tắc cơ bản xây dựng hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; thực trạng hệ thống chính trị trong giai đoạn chuyển sang kinh tế thị trường và tăng cường hệ thống chính trị đưa sự nghiệp đổi mới đất nước lên từng bước vững chắc.

Ngoài ra còn có cuốn sách “Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005 – 2020” của Trần Đình Hoan (2008) NXB Chính trị

Quốc gia, Hà Nội và Lê Quốc Lý (2014) với cuốn sách “Đổi mới, hoàn thiện hệ

7

thống chính trị ở nước ta”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Theo các tác giả từ sự

biến đổi của bối cảnh tình hình chính trị - xã hội thế giới và yêu cầu của sự nghiệp

đổi mới, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi tất yếu phải có sự đổi mới,

hoàn thiện HTCT. Từ đó, các tác giả đã tập trung làm rõ đặc điểm của quá trình ra đời và xây dựng HTCT ở Việt Nam; xác định đặc trưng cơ bản của HTCT ở Việt

Nam; những biến đổi và phát triển của HTCT với các yếu tố như: mối quan hệ

tương tác giữa HTCT với cơ sở kinh tế, cơ cấu xã hội - giai cấp, sự ảnh hưởng của nhân tố văn hoá truyền thống dân tộc, những quan điểm đạo đức, những tư tưởng

triết học - chính trị, những truyền thống cộng đồng, truyền thống lịch sử và bản sắc

dân tộc...

Lê Quốc Lý (2014) với cuốn sách “Đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, trên cơ sở phân tích bối cảnh tình hình

chính trị - xã hội thế giới và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, tiếp tục đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa đã chỉ rõ đòi hỏi tất yếu phải có sự đổi mới, hoàn thiện HTCT. Việc

đổi mới và hoàn thiện HTCT luôn là một đòi hỏi cấp thiết để bảo đảm cho đổi mới

và phát triển kinh tế thành công. Từ đó, tác giả đã tập trung làm rõ đặc điểm của quá

trình ra đời và xây dựng HTCT Việt Nam; xác định đặc trưng cơ bản của HTCT ở

Việt Nam hiện nay; những biến đổi và phát triển của HTCT với các yếu tố như: mối

quan hệ tương tác giữa HTCT với cơ sở kinh tế, cơ cấu xã hội - giai cấp, sự ảnh

hưởng của nhân tố văn hoá truyền thống dân tộc, những quan điểm đạo đức, những

tư tưởng triết học - chính trị, những truyền thống cộng đồng, truyền thống lịch sử và

bản sắc dân tộc...

Nội dung có giá trị tham khảo trực tiếp đối với luận án từ những công trình

này là các vấn đề đã được các tác giả tổng kết một cách có hệ thống về lý luận và thực tiễn, về phương pháp luận cũng như thực trạng, đặc trưng và nguyên tắc cơ bản

trong xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đây là cơ sở cần thiết để so sánh, đối chiếu, tổng kết, đánh giá về những vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ hai, về quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay đã được làm rõ qua các công trình của các tác giả gồm có Phạm Hồng Chương (chủ nhiệm đề tài) (2004) với đề tài nghiên cứu cấp bộ “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng nền dân chủ chính trị ở nước ta (1986-2001) - Lịch sử và kinh nghiệm”, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội là một nghiên

cứu quan trọng về lĩnh vực đổi mới chính trị ở Việt Nam. Đề tài đã tập trung làm rõ

8

ba vấn đề quan trọng: khái quát lịch sử quá trình Đảng cộng sản Việt Nam xác lập

quyền lãnh đạo và xây dựng nền dân chủ chính trị trong thời kỳ 1945 -1985; đã đi

sâu phân tích quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển nền dân chủ chính trị

thời kỳ 1986 – 2001 trên các nội dung: sự vận động, phát triển của tình hình trong

nước và quốc tế, những thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đối với sự nghiệp đổi mới, quá trình Đảng lãnh đạo tiếp tục xây dựng và phát triển dân chủ chính trị,

thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

văn minh; rút ra một số bài học kinh nghiệm xây dựng nền dân chủ chính trị và kiến nghị về xây dựng và phát triển nền dân chủ chính trị hiện nay.

Nguyễn Đăng Dung (chủ biên), (2006), Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam

theo các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 1992 sửa đổi, bổ sung 2001, NXB

Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đây có thể xem là một công trình nghiên cứu công phu mang tính tổng quan, toàn diện về việc quy định tổ chức bộ máy nhà nước trong các

bản Hiến pháp của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ trong lịch sử

cho đến nay. Đặc biệt, tác giả đã tập trung phân tích sâu những quy định về tổ chức

bộ máy nhà nước của Hiến pháp năm 1992 đồng thời chỉ ra những điểm hạn chế,

bất cập dẫn đến nhu cầu tất yếu phải sửa đổi Hiến pháp 1992. Vấn đề có ý nghĩa của

công trình khoa học này là cùng với việc phân tích, so sánh về cơ cấu tổ chức bộ

máy các cơ quan nhà nước, các tác giả đã nêu bật được những điểm mới, những

bước phát triển của các cơ quan qua các bản hiến pháp (mô hình tổ chức, phương

thức hoạt động, các mối quan hệ tương tác trong vận hành...) và đưa ra những hạn

chế, bất cập đòi hỏi phải có định hướng khắc phục, đổi mới để nâng cao hiệu lực,

hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và từng cơ quan, hệ thống cơ

quan nhà nước nói riêng. Những kết quả của công trình này là những gợi mở để tiếp

tục nghiên cứu, hoàn thiện bộ máy nhà nước ta, trong đó có bộ máy chính quyền địa

phương trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền, hội nhập quốc tế, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới hiện nay.

Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa (đồng chủ biên) (2006), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Công trình này đã góp phần tổng kết quá trình đổi mới tư duy về Nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo; ngoài ra tác giả đã phân tích toàn diện những luận điểm khoa học về nhà nước pháp quyền, về phát huy dân chủ, về mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; về tổ chức và phân công quyền lực nhà nước, về mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong

việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước pháp quyền

9

xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những kết luận, luận giải được thể hiện trong công trình

này đã tạo những cơ sở lý luận cơ bản cho việc phân tích, đánh giá yêu cầu và định

hướng đổi mới, hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh trong điều kiện hiện nay.

Cuốn “Tổ chức Nhà nước Việt Nam 1945 - 2007” của Bộ Nội Vụ (2007),

NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội đã phân tích về tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1945 đến năm 2007 trên cơ sở các quy định

của các bản Hiến pháp, Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành. Điểm nhấn quan

trọng của cuốn sách là đề cập đến từng thiết chế trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, trong đó nêu bật được những bước phát triển, hoàn thiện của

từng thiết chế dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn trong từng thời kỳ, điều

kiện lịch sử cụ thể của đất nước. Cuốn sách cũng dành 01 chương để phân tích,

đánh giá tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương, trong đó có bộ máy chính quyền cấp tỉnh. Kết quả nghiên cứu trong công trình này chỉ đề cập đến

khía cạnh lịch sử tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương mà

chưa có điều kiện phân tích, đánh giá toàn diện về bộ máy chính quyền một cấp cụ

thể là cấp tỉnh, thành phố. Tuy vậy, các kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học và

thực tiễn cho việc tiếp tục nghiên cứu sâu và tiếp cận cụ thể hơn về bộ máy chính

quyền cấp tỉnh, thành phố.

Phạm Ngọc Trâm (2011) với cuốn sách “Quá trình đổi mới hệ thống chính trị

ở Việt Nam từ 1986 đến 2011”, NXB Chính trị quốc Quốc gia, Hà Nội đã phân tích

cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đổi mới HTCT ở Việt Nam, tác giả đã khái quát

quá trình hình thành và phát triển HTCT ở qua 2 giai đoạn: 1986-1996 và 1996-

2011. Các nội dung chủ yếu được đề cập là quá trình đổi mới công tác xây dựng

đảng của Đảng cộng sản Việt Nam; đổi mới hoạt động của bộ máy nhà nước; đổi

mới và tăng cường vai trò của mặt trận và các đoàn thể - phát huy dân chủ, mở rộng

khối đại đoàn kết toàn dân. Trên cơ sở đó, tác giả đã có sự đánh giá toàn diện, hệ thống về những thành tựu và bài học kinh nghiệm của quá trình đổi mới HTCT ở

Việt Nam hơn 20 năm qua. Có thể nói đây là công trình nghiên cứu quan trọng để tác giả luận án dùng làm căn cứ xây dựng nên những nội dung nghiên cứu cụ thể và các luận điểm khoa học về quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh trong cùng thời gian trong quá trình đổi mới chính trị ở Việt Nam nói chung.

Lý Vĩnh Long (2012) với Luận án chính trị học “Hệ thống chính trị ở Việt Nam từ 1986 đến nay” bảo vệ tại Đại học KHXH&NV – Đại học Quốc gia Hà Nội đã làm rõ được tính tất yếu của việc đổi mới HTCT ở Việt Nam từ 1986 đến nay trong mối quan hệ với quá trình đổi mới kinh tế. Từ đó, luận án đã xác định cụ thể

những nội dung cơ bản trong mục tiêu, quan điểm và kết quả đổi mới HTCT ở Việt

10

Nam thời gian qua. Bằng những luận cứ khoa học và phương pháp nghiên cứu so

sánh, đối chiếu, tác giả đã xây dựng những giải pháp thiết thực để góp phần đẩy

mạnh quá trình đổi mới HTCT ở Việt Nam trong giai đoạn 2011 – 2020. Vì góc độ

tiếp cận của luận án là lĩnh vực chính trị học, do đó tác giả không nhấn mạnh đến

góc độ lịch sử của vấn đề đổi mới HTCT ở Việt Nam trên từng lĩnh vực, tuy nhiên những luận điểm khoa học được tác giả phân tích và trình bày trong luận án này là

cơ sở có giá trị cho những công trình nghiên cứu về đổi mới HTCT, trong đó có các

nghiên cứu về lịch sử.

Đào Trí Úc và Phạm Hữu Nghị (đồng chủ biên) (2009) trong cuốn sách“Xây

dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay -

Một số vấn đề lý luận và thực tiên”, NXB Tư pháp, Hà Nội đã phân tích, nêu bật

những định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta trong điều kiện tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản; những đòi hỏi phải đảm bảo sự vận hành

khoa học, sự minh bạch trong tổ chức và hoạt động, sự phân cấp của các cơ quan nhà

nước nhằm đảm bảo các quyền con người, quyền công dân trên cơ sở pháp luật. Một

trong những nội dung quan trọng của cuốn sách đã đề cập đến các yêu cầu phải phân

cấp quản lý nhà nước; các tiêu chỉ đảm bảo sự phân cấp, phân quyền hợp lý và mối

quan hệ giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và bộ máy chính quyền ở địa

phương. Những kết quả nghiên cứu trong cuốn sách sẽ là cơ sở để kế thừa, nghiên

cứu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh.

Bên cạnh các công trình chuyên sâu về đổi mới HTCT ở Việt Nam như trên

thì còn có nhiều công trình nghiên cứu cụ thể về từng lĩnh vực của đổi mới chính trị,

như: luận án triết học “Bệnh quan liêu của bộ máy nhà nước và phương hướng khắc

phục trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay” của tác giả

Trần Thành (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2004); luận án luật học

“Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước phường trong điều kiện cải cách hành chính ở nước ta” của Phan Văn Hùng (Học viện Khoa học

xã hội Việt Nam, năm 2012); luận án Triết học “Thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay” của Đỗ Quang Khắc (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2000); luận án Triết học “Đổi mới các tổ chức chính trị - xã hội trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Viết Thông (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1994); sách “Hệ thống chính trị cơ sở: thực trạng và một số giải pháp đổi mới” của tác giả Chu Văn Thành (NXB Chính trị quốc gia, Hà nội năm 2004); luận án chính trị học “Thực hiện chức năng giám sát và phản biện

xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thọ Ánh (Học viện

11

Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2010)…. Tất cả các công trình

này đã chỉ ra một cách hệ thống về ưu điểm và hạn chế của các bộ phận cấu thành

trong hệ thống chính trị Việt Nam như Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra: tổ chức

bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; chức

năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong HTCT chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Do đó, để đổi

mới thành công HTCT ở nước ta hiện nay, đòi hỏi phải tiến hành đổi mới một cách

đồng bộ cả cơ chế vận hành và các bộ phận cấu thành của nó. Từ đó các tác giả đã chỉ ra những yêu cầu và nguyên tắc cơ bản trong đổi mới của từng bộ phận cấu

thành HTCT Việt Nam là:

Đối với Đảng, cần nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng và bảo đảm sự lãnh

đạo của Đảng có hiệu lực, hiệu quả... nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với quy luật khách quan và đặc điểm của Việt Nam, tạo bước

đột phá để phát triển. Để đạt được điều đó, đòi hỏi phải xây dựng Đảng thật sự trí

tuệ, tiên phong, trong sạch, vững mạnh. Đồng thời, cần sắp xếp lại hệ thống tổ chức,

bộ máy của Đảng để bảo đảm tinh gọn, khoa học, hoạt động hiệu quả; kiện toàn tổ

chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng; tăng

cường công tác kiểm tra, giám sát đối với đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng...

Đối với nhà nước, phải hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với

việc tiến hành đồng bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trước

hết, cần tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tính khoa học,

tính thực tiễn, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân, tạo hành lang pháp

lý cho các chủ thể kinh tế, các quan hệ kinh tế phát triển lành mạnh, thúc đẩy kinh

tế phát triển. Đồng thời, cần xây dựng nhà nước theo hướng tinh gọn về tổ chức bộ

máy, bởi có như vậy thì nhà nước mới phản ứng nhanh nhạy trước những nhu cầu

và biến động của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, cần xây dựng nhà nước theo hướng nhà nước phục vụ tốt hơn cho các thành phần kinh

tế phát triển. Do đó, xây dựng nhà nước theo hướng phục vụ, phát triển sẽ tăng cường được sự quản lý kinh tế của nhà nước, sớm khắc phục được những hạn chế của nhà nước từ trước đến nay trong lĩnh vực quản lý này.

Đổi mới MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội theo hướng hoạt động thực chất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, tránh tình trạng hoạt động rời rạc, thiếu sự phối hợp giữa các đoàn thể chính trị - xã hội. Đặc biệt, cần nâng cao năng lực phản biện xã hội và giám sát của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đối với việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách, kế

12

hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, cơ sở, nhất là phát hiện, giám sát đối

với việc tổ chức thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế, đầu tư xây dựng

kết cấu hạ tầng, xóa đói, giảm nghèo bền vững... ở địa phương, cơ sở.

Những kết quả nghiên cứu như trên của các tác giả đã được luận án kế thừa cả

về mặt phương pháp và nội dung để đối chiếu, so sánh với thực tế đổi mới tổ chức và hoạt động của từng thành tố cấu thành hệ thống chính trị Thành phố Hồ Chí

Minh trong thời kỳ đổi mới gồm Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các

đoàn thể chính trị - xã hội thành phố, đặt trong bối cảnh đổi mới chung của hệ thống chính trị Việt Nam.

Thứ ba, về đổi mới hệ thống chính trị ở địa phương, có các công trình

nghiên cứu tiêu biểu gồm:

Cuốn sách “Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương - Lịch sử và hiện tại” của Nguyễn Đăng Dung (1997), Nxb Đồng Nai đã khái quát, phân tích lịch sử hình

thành, phát triển của tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương; đưa ra khái niệm,

vị trí, vai trò của chính quyền địa phương và khái quát các bước phát triển trong tổ

chức và hoạt động của chính quyền địa phương trong lịch sử. Kết quả nghiên cứu

của tác giả là cơ sở khoa học quan trọng cho việc xây dựng, hoàn thiện bộ máy

chính quyền địa phương nói chung.

Nhóm tác giả Tô Tử Hạ, Nguyễn Hữu Trị, Nguyễn Hữu Đức (1998) trong

cuốn “Cải cách hành chính địa phương - lý luận và thực tiên”, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội đã nêu và phân tích tập trung về những vấn đề lý luận và thực tiễn về

cải cách hành chính; chức năng, vị trí, vai trò của cải cách hành chính địa phương

trong cải cách nền hành chính nhà nước, đánh giá thực trạng chính quyền địa

phương và xác định xu hướng cải cách. Các tác giả đã đưa ra các giải pháp cụ thể để

cải cách hành chính đối với bộ máy hành chính địa phương theo các góc độ, phạm

vi như: mô hình tổ chức bộ máy, thể chế, sự phân chia theo đơn vị hành chính lãnh thổ... Vì vậy, kết quả nghiên cứu là cơ sở cho việc nghiên cứu, tiếp cận, xác định

mô hình tổ chức bộ máy chính quyền cấp tỉnh, thành phố trong từng thời kỳ cụ thể.

Trong cuốn “Kinh nghiệm xây dựng và quản lý chính quyền các cấp trong lịch sử” của tác giả Văn Tạo (2000), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội gồm 5 chương đã đề cập cụ thể và rõ ràng về các vấn đề lý luận chung về chính quyền địa phương; lịch sử phát triển của chính quyền cơ sở; kinh nghiệm lịch sử về xây dựng, quản lý chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện. Đặc biệt là tác giả đã phân tích được những đặc trưng, nét riêng biệt của việc xây dựng chính quyền đô thị trong lịch sử và hiện tại; phân tích, đánh giá những tồn tại, hạn chế của chính quyền đô thị để từ đó luận giải

các phương hướng, giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền đô thị.

13

Những kết quả nghiên cứu của tác giả có liên quan chặt chẽ và là nguồn tham khảo

quan trọng để nghiên cứu, hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp tỉnh, thành phố ở

nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Cuốn “Đổi mới nội dung hoạt động các cấp chính quyền địa phương trong kinh

tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả Nguyễn Văn Thảo (2006), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội đã khái quát quá trình hình thành các cấp chính quyền địa

phương và những điều chỉnh lớn về địa giới hành chính ở nước ta. Phân tích những

yêu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế đối với các cấp chính quyền địa phương; nhu cầu đổi mới mô hình tổ chức và hoạt động của chính

quyền địa phương trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Điểm đáng lưu ý là tác giả đã đưa ra nhiều kiến nghị có tính gợi mở về việc đổi mới

tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta.

Đề tài khoa học cấp Bộ “Thiết lập mô hình tổ chức chính quyền đô thị” do

Phạm Hồng Thái (2003) làm chủ nhiệm đã đưa ra những nghiên cứu có giá trị tham

khảo về tổ chức chính quyền đô thị. Trên cơ sở Luật Tổ chức HĐND và UBND, các

tác giả đã phân tích mô hình tổ chức chính quyền đô thị dưới góc độ thể chế, đánh

giá thực tiễn vận hành để chỉ ra những hạn chế, bất cập, những đòi hỏi, yêu cầu cần

phải hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền đô thị để phù hợp với thực tiễn Việt

Nam và xu hướng tổ chức chính quyền đô thị của các nước trên thế giới. Tuy những

kết quả nghiên cứu của đề tài không đề cập cụ thể về chính quyền cấp tỉnh, thành

phố nhưng có giá trị rất quan trọng cho việc tiếp cận, đánh giá mô hình tổ chức và

bộ máy chính quyền cấp tỉnh, thành phố trong mối quan hệ với bộ máy chính quyền

địa phương nói chung.

Đề tài khoa học cấp Bộ “Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiên nhằm xây dựng

mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền địa phương theo tinh thần Nghị quyết

Trung ương 5 khoá X” do Lê Thị Vân Hạnh (2009) làm chủ nhiệm đã nêu và phân tích khá rõ nét những vấn đề lý luận đặt ra từ Nghị quyết Trung ương 5 khoá X liên

quan đến tổ chức bộ máy chính quyền địa phương; nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về tổ chức chính quyền địa phương và kinh nghiệm tổ chức chính quyền địa phương trên thế giới. Trên cơ sở các luận cứ khoa học, các tác giả thực hiện đề tài đã phân tích, khái quát cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền địa phương Việt Nam trong lịch sử và chỉ ra những bất cập, hạn chế làm cơ sở thực tiễn nhằm xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khoá X. Kết quả nghiên cứu của đề tài có giá trị cả về lý luận và thực tiễn là tài liệu tham khảo quý cho những nhà nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của chính quyền

địa phương ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu tổ chức bộ máy

14

chính quyền địa phương trong phạm vi những định hướng của Nghị quyết Trung

ương 5 khoá X, mà không đề cập sâu về bộ máy chính quyền cấp tỉnh, thành phố do

đó vẫn còn những vấn đề cần tiếp cận cụ thể và rõ nét hơn như: mô hình tổ chức bộ

máy chính quyền cấp tỉnh; tiêu chí xác định chức năng, nhiệm vụ của bộ máy chính

quyền cấp tỉnh; mối quan hệ giữa bộ máy chính quyền cấp tỉnh và bộ máy chính quyền cấp huyện, cấp xã...

Luận án của Trần Thị Diệu Oanh (2012) về “Phân cấp quản lý và địa vị pháp

lý của chính quyền địa phương trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam’’, Học viện Khoa học xã hội đã đề cập đến nội dung của pháp luật về phân cấp

nhiệm vụ, quyền hạn cho chính quyền địa phương mà bản chất nội dung phân cấp

được nghiên cứu trong luận án này có tính chất của phân quyền nhiều hơn. Chính sự

không rõ ràng về mặt khái niệm này là điểm hạn chế của công trình nghiên cứu nói trên. Nội dung luận án đề cập khá rộng trên các phương diện phân cấp nhiệm vụ,

quyền hạn, tài chính, ngân sách, các vấn đề lý luận về phân cấp quản lý cùng với

những đánh giá thực trạng phân cấp quản lý và địa vị pháp lý của chính quyền địa

phương trong quá trình cải cách bộ máy nhà nước ở Việt Nam; đề xuất các giải

pháp đẩy mạnh phân cấp. Tuy vậy, do công trình nghiên cứu này là một luận án tiến

sĩ mà chủ đề và mục đích nghiên cứu là “ xác định rõ địa vị pháp lý của chính

quyền địa phương ” nên nội dung của luận án chưa đề cập sâu về cơ sở lý luận hay

nội dung của pháp luật về phân cấp/phân quyền. Ngoài ra, Luận án này chỉ xác định

mối quan hệ giữa trung ương - địa phương là mối quan hệ của cấp trung ương đối

với cấp tỉnh mà không nghiên cứu nội dung phân cấp cho chính quyền địa phương

cấp huyện, cấp xã là chưa hợp lý, đây cũng là điểm hạn chế của luận án.

Bài viết của Thái Vĩnh Thắng, “Tổ chức chính quyền địa phương của Nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam - quá trình hình thành và phát triển, những

bất cập và phương hướng đổi mới”, Tạp chí Luật học số 4/2002 và bài viết của Bùi Xuân Đức, “Đổi mới tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay”, Tạp chí

Nghiên cứu lập pháp số 9/2002 đã khái quát về quá trình hình thành và phát triển của tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam từ khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cho đến nay. Qua phân tích những ưu điểm và hạn chế về tổ chức chính quyền địa phương qua mỗi thời kỳ, các tác giả đã chỉ ra những bất cập, hạn chế trong tổ chức chính quyền địa phương hiện nay và chỉ ra phương hướng để khắc phục những hạn chế, bất cập đó. Bên cạnh đó các tác giả đã trình bày những quan điểm chung khi đổi mới mô hình tổ chức chính quyền địa phương và đề xuất một số phương án đổi mới cụ thể. Đồng thời hai bài viết cũng nhấn mạnh đến sự đa

dạng hoá các mô hình chính quyền địa phương theo các cấp hành chính, thiết kế lại

15

các mối quan hệ giữa các cơ quan trong chính quyền địa phương và giữa cơ quan

chính quyền địa phương với cơ quan nhà nước cấp trên, khẳng định tính chất tự

quản của chính quyền địa phương.

Bài viết “Bàn về cải cách chính quyền nhà nước ở địa phương” của tác giả

Nguyễn Đăng Dung (2007) đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 5/10/2007 đã phân tích tầm quan trọng của chính quyền địa phương trong bộ máy nhà nước,

khẳng định tính tất yếu của việc cải cách chính quyền nhà nước ở địa phương trong

điều kiện hiện nay. Đồng thời, bài viết cũng đã chỉ ra một số nội dung chủ yếu của công tác cải cách chính quyền nhà nước ở địa phương như: về mặt nhận thức, phải

gạt bỏ tất cả hay chí ít về cơ bản những nhận thức thể hiện tư duy bao cấp về chính

quyền địa phương; phải tổ chức đa dạng mô hình chính quyền các cấp; việc phân

quyền giữa trung ương và địa phương cần được tiến hành theo pháp luật nhằm bảo đảm một sự kiềm chế quyền lực. Những nội dung này đã được tác giả gợi mở, theo

đó chúng ta có thể vận dụng và tiếp tục nghiên cứu sâu để đưa ra được mô hình tổ

chức chính quyền địa phương hợp lý.

Ngoài những tài liệu tham khảo quan trọng như trên thì còn có các bài viết của

nhiều tác giả đăng trên các tạp chí, website chuyên ngành trình bày, phân tích về mô

hình cũng như kinh nghiệm xây dựng chính quyền địa phương ở nhiều nước trên thế

giới như: bài viết “Tìm hiểu về xây dựng chính quyền đô thị ở Nhật Bản” của

Hoàng Minh Hằng, Viện nghiên cứu Đông Bắc Á năm 2012 đăng trên trang web

http://cjs.inas.gov.vn; bài viết “Về tổ chức chính quyền đô thị ở Xơ-un - Hàn Quốc”

của tác giả Nguyễn Thị Hoàng trên Tạp chí Quản lý Nhà nước số 2 năm 2007; bài

“Kinh nghiệm phân cấp quản lý chính quyền ở Nhật Bản” của tác giả Trương Thu

Trang trên tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 7 năm 2008 ; bài “Kinh nghiệm tổ

chức chính quyền địa phương và xác lập đơn vị hành chính ở Liên bang Malaixia”

viết của Lê Anh Tuấn, Viện Khoa học tổ chức nhà nước - Bộ Nội vụ trên trang web http://www. duthaoonline.quochoi.vn ; bài viết “Kinh nghiệm cải cách của Nhật

Bản và việc xây dựng mô hình chính quyền địa phương ở Việt Nam” của Phan Thị Lan Hương (Khoa Luật, Trường đại học Nagoya, Japan) đăng trên trang web của Viện nghiên cứu Lập pháp tại địa chỉ http://vnclp.gov.vn/. Các bài viết này đã cho thấy một thực tế việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương tại các quốc gia đều có một ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của kinh tế, xã hội. Và thực chất công việc nâng cao chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương luôn là một yêu cầu thường xuyên của chính phủ các nước. Trong quá trình đó đã xuất hiện nhiều cách thức sáng tạo mà Việt Nam có thể

nghiên cứu để vận dụng cho phù hợp với điều kiện thực tế của mình, trong đó có

16

Thành phố Hồ Chí Minh.

Từ tất cả những công trình trên có thể thấy rằng, việc nghiên cứu về đổi mới

HTCT ở Việt Nam trong những năm qua được thực hiện rất đa dạng và phong phú ở

nhiều cấp trong HTCT cũng như ở nhiều lĩnh vực chuyên ngành. Nội dung nghiên

cứu về đổi mới HTCT, cũng rất hệ thống và cụ thể từ những vấn đề chung nhất cho đến từng vấn đề độc lập. Đây là một cơ sở quan trọng cho luận án trong việc xác

định phương pháp cũng như những nội dung nghiên cứu cụ thể về đổi mới HTCT ở

Thành phố Hồ Chí Minh gắn với thực tiễn của đất nước. Tuy vậy, số lượng các công trình nghiên cứu về quá trình đổi mới HTCT ở các địa phương là chưa nhiều,

chủ yếu chỉ những nghiên cứu, những báo cáo kinh nghiệm về từng khía cạnh của

vấn đề này dưới góc độ luật học, hành chính hoặc xây dựng đảng mà chưa có nhiều

những công trình dưới góc độ lịch sử. Kết quả nghiên cứu của các công trình trên sẽ được tác giả luận án hệ thống một cách khoa học nhằm phục vụ trực tiếp cho việc

xây dựng những luận điểm và mô tả một cách chân thực, chính xác về quá trình đổi

mới HTCT tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến 2013.

1.1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đổi mới hệ thống chính trị

tại Thành phố Hồ Chí Minh

Đặc biệt có giá trị tham khảo đối với luận án là những công trình nghiên cứu

về quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua.

Có thể thấy quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh đã diễn ra từ năm

1986, song song với quá trình đổi mới trên các lĩnh vực khác. Tuy vậy, cho đến nay

những công trình nghiên cứu về đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh chỉ được

tập trung các tác giả nghiên cứu dưới góc độ khoa học chính trị, khoa học quản lý

hành chính, luật học và triết học… Một số công trình nghiên cứu liên quan của các

chuyên ngành khác có thể kể ra như:

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Tổ chức chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh: lịch sử, hiện tại và phuơng hướng đổi mới trong tiến trình đổi mới hệ thống

chính trị ở Việt Nam” của tập thể các nhà nghiên cứu tại Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh do Trương Đắc Linh (2009) làm chủ nhiệm. Đây có thể xem là công trình nghiên cứu chuyên sâu về tổ chức chính quyền ở Thành phố Hồ Chí Minh qua chiều dài lịch sử của nó, trong đó có giai đoạn từ đổi mới đến nay.

Một công trình khác cũng nghiên cứu về hệ thống chính trị tại Thành phố Hồ Chí Minh là luận án tiến sĩ “Quan hệ biện chứng giữa chính quyền với các thành tố trong hệ thống chính trị của Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đổi mới” của tác giả Huỳnh Thành Lập (2009) (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành

phố Hồ Chí Minh. Trong công trình này, dưới góc độ triết học, tác giả đã tập trung

17

nghiên cứu, phân tích về các thành tố trong HTCT tại Thành phố Hồ Chí Minh; các

đặc điểm cơ bản của các thành tố đó; cũng như mối quan hệ biện chứng giữa chính

quyền với các thành tố đó.

Sách “Thành phố Hồ Chí Minh, 35 năm xây dựng và phát triển (1975 –

2010)” do Phan Xuân Biên (2012) làm chủ biên, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, là công trình của nhiều tác giả về sự phát triển của thành phố từ sau năm

1975 đến nay dưới nhiều góc độ nghiên cứu. Trong đó “Chương X: Xây dựng hệ

thống chính trị, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân” của Huỳnh Thanh Hải đã có sự phác thảo một cách hệ thống về quá trình hình thành và phát triển của

HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh từ sau 1975 với những giai đoạn cụ thể. Giai

đoạn thứ nhất là từ 1975 đến 1976: củng cố sự lãnh đạo của Đảng bộ, xác lập

HTCT, phát động phong trào cách mạng quần chúng để ổn định tình hình, khắc phục hậu quả chiến tranh. Giai đoạn thứ hai là từ 1976 đến 1986: giữ vững vai trò

lãnh đạo của Đảng bộ và HTCT, phát huy tính năng động, sáng tạo của nhân dân

vượt qua khó khăn, tìm đường đổi mới. Giai đoạn thứ ba là từ 1986 đến nay: xây

dựng HTCT trong sạch, vững mạnh, phát huy sức mạnh toàn dân trong công cuộc

đổi mới. Trong từng giai đoạn, tác giả đã trình bày những nội dung chủ yếu của

công tác xây dựng HTCT thành phố với trên cả 3 lĩnh vực là xây dựng đảng, xây

dựng chính quyền và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Với những kết quả đạt

được trong lĩnh vực này, tác giả cho rằng đảng bộ và nhân dân thành phố đã giành

được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đưa Thành phố Hồ Chí Minh trở

thành thành phố xã hội chủ nghĩa, văn minh, hiện đại.

Các công trình nghiên cứu trên đây đã trực tiếp luận giải một số vấn đề có tính

quy luật trong đổi mới HTCT ở thành phố thời kỳ vừa qua. Kết quả nghiên cứu này

có giá trị tham khảo quan trọng, góp phần vào việc xác định phương pháp nghiên

cứu cho nhiều đề tài liên quan thuộc các chuyên ngành khác nhau trong đó có luận án của tác giả khi nghiên cứu về lịch sử đổi mới HTCT. Hơn thế nữa, các công trình

cũng đã đi sâu phân tích được những đặc trưng cơ bản của tổ chức chính quyền tại Sài Gòn trước đây cũng như Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay; đồng thời chỉ ra những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hơn nữa trong thời gian tới. Đây là tư liệu cần thiết để tác giả luận án trực tiếp sử dụng làm tư liệu để nghiên cứu về hệ thống chính quyền trong lịch sử với những đặc điểm nổi bật. Tuy vậy, việc đề cập đến quá trình đổi mới chính quyền ở Thành phố Hồ Chí Minh trong những công trình này vẫn chỉ là những nội dung mang tính khái quát nhằm phục vụ trực tiếp cho mục đích nghiên cứu riêng của từng tác giả, do đó đòi hỏi cần phải có một sự hệ thống

hóa chi tiết và cụ thể với từng giai đoạn trên từng lĩnh vực, từng bộ phận cấu thành

18

để làm rõ hơn những bước biến chuyển của HTCT thành phố.

Ngoài những nghiên cứu về đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh nói

chung như trên thì còn có các công trình nghiên cứu cụ thể về sự đổi mới trong hoạt

động của từng bộ phận cấu thành HTCT. Nghiên cứu về sự đổi mới hoạt động của

Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh có các công trình nổi bật như:

Công trình “Nâng cao sức thuyết phục, tính chiến đấu trong công tác tư tưởng

của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh: Kỷ yếu toạ đàm kỷ niệm 80 năm ngày truyền

thống ngành Tuyên giáo của Đảng (1/8/1930 - 1/8/2010)” (NXB Văn hoá Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2011). Công trình này đã tập hợp và giới thiệu 47 báo cáo

khoa học về sự hình thành, phát triển và vai trò, vị trí, nhiệm vụ công tác tuyên

truyền của Đảng ở Sài Gòn trước đây và Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Đồng

thời, các tác giả đã phân tích, lý giải về những thành quả, hạn chế, yếu kém cùng những bài học kinh nghiệm, những giải pháp đổi mới nhằm nâng cao sức thuyết

phục, tính chiến đấu trong công tác tư tưởng của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh.

Luận án "Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo phòng, chống tham

nhũng trong giai đoạn hiện nay" của nghiên cứu sinh Vũ Thị Nghĩa (2013) bảo vệ

tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã tập trung trình bày 4

đặc điểm nổi bật của tình trạng tham nhũng thường xảy ra trong 7 lĩnh vực quản lý

ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Trên cơ sở này, luận án cũng đã hệ thống hóa

được những nội dung cùng các phương thức lãnh đạo phòng, chống tham nhũng của

Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, luận án này đã xác định được những kinh

nghiệm quan trọng làm căn cứ để xây dựng hệ thống những mục tiêu, phương

hướng nhằm tăng cường hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng.

Ngoài các công trình nghiên cứu mang tính chuyên sâu trong hoạt động lãnh

đạo của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh như trên thì còn có nhiều bài viết được

đăng tải trên các tạp chí cũng đã nêu lên được các hoạt động đổi mới, sáng tạo, thể hiện được tính đặc thù của thực tiễn xây dựng đảng tại Thành phố Hồ Chí Minh

trong nhiều năm qua. Có thể kể ra các bài viết như:

“Từ thực tiễn xây dựng Ðảng ở Thành phố Hồ Chí Minh, vài khía cạnh về công tác cán bộ” của tác giả Trương Tấn Sang (1996) đăng trên Tạp chí Xây dựng Ðảng số ra tháng 9 năm 1996. Qua bài viết này, tác giả đã có sự đánh giá bước đầu về công tác cán bộ ở thành phố sau 10 năm đổi mới, trong đó đưa ra một thực tế rất quan trọng là sự “hụt hẫng” của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý đồng thời cũng có một bộ phận cán bộ bị sa ngã, không giữ được phẩm chất đạo đức lối sống. Đồng chí Trương Tấn Sang, lúc đó là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Thành phố

19

Hồ Chí Minh cũng đã xác định những giải pháp cơ bản đối với công tác cán bộ của

thành phố, trong đó nhấn mạnh đến các vấn đề về cụ thể là công tác dự báo, quy

hoạch và công tác cán bộ nữ.

Bài viết “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh,

thành (qua thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh)” của Phan Xuân Biên (2005) trên tạp chí Lịch sử Đảng, số 9 năm 2005 đã phân biệt sự khác nhau về phương thức lãnh

đạo của Đảng ở tỉnh, thành với cấp trung ương và cơ sở. Trên cơ sở thực tiễn đổi

mới HTCT tại Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã khái quát 4 phương thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền cấp tỉnh, thành, làm cơ sở xây dựng những giải

pháp quan trọng nhằm tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng hiện nay.

Từ những công trình kể trên cho thấy qua hơn 30 năm đổi mới, HTCT Thành

phố Hồ Chí Minh đã thật sự chuyển đổi thành công từ một hệ thống chính quyền trong thời kỳ bao cấp, kế hoạch hóa sang một HTCT hoạt động đồng bộ, hiệu quả

trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế

sâu rộng với những đòi hỏi ngày càng cao của nhân dân thành phố. Qua đó đã trực

tiếp đưa thành phố từ trong khủng hoảng kinh tế - xã hội với những khó khăn, thử

thách to lớn vươn lên trở thành một trung tâm hàng đầu về nhiều mặt và là đầu tàu

kinh tế của cả nước. Trong đó vấn đề quyết định hàng đầu của đổi mới HTCT ở

Thành phố Hồ Chí Minh là đổi mới công tác xây dựng đảng. Thấu suốt quan điểm

xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, toàn Đảng bộ đã thực hiện đổi mới, nâng cao

hiệu quả xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu

của tổ chức đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên, giữ vững được vai trò lãnh

đạo của Đảng bộ trong công cuộc đổi mới của nhân dân thành phố. Chính vì vậy,

trải qua hơn 30 năm đổi mới công tác xây dựng Đảng bộ về chính trị, tư tuởng và tổ

chức được đã không ngừng được tăng cường; Đảng bộ đã thực hiện nhiều biện pháp

nâng cao chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng; tiến hành đồng bộ, hiệu quả mọi mặt công tác cán bộ. Vai trò lãnh đạo của nhiều tổ chức Đảng, tính

tiên phong gương mẫu của phần lớn cán bộ, đảng viên được củng cố và phát huy, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, giữ vững niềm tin của đại đa số quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ kết quả đó đã tạo động lực và điều kiện để đổi mới hoạt động của các cấp chính quyền cũng như của MTTQ và đoàn thể chính trị - xã hội. Những thực trạng, bài học kinh nghiệm và giải pháp được đưa ra trong các công trình trên đã cho thấy một thực tế rất phong phú và sáng tạo của công tác xây dựng đảng ở các tổ chức cơ sở đảng tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Tuy nhiên, với giới hạn là các công

trình, bài viết, tham luận của Hội thảo khoa học nghiên cứu cụ thể về một số vấn đề

20

thì các kết quả nghiên cứu ở đây chưa được đặt trong một tổng kết hệ thống, chuyên

sâu về toàn bộ công tác xây dựng đảng của Đảng bộ thành phố trên các mặt chính

trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức từ khi bước vào đổi mới. Hơn thế nữa, những công

trình này cũng chưa đưa ra được sự đánh giá đầy đủ về tác động của việc đổi mới

công tác xây dựng đảng đến các thành tố khác trong HTCT nói riêng và đối với sự phát triển của thành phố nói chung.

Nghiên cứu về quá trình đổi mới hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp ở

Thành phố Hồ Chí Minh có thể kể đến các công trình sau đây:

Luận án “Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo cải cách hành chính nhà

nước trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Hữu Nhân (2012), Học viện Chính trị -

Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh đã xác định những cơ sở lý luận và thực tiễn của

quá trình cải cách hành chính tại Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, tác giả tập trung phân tích và làm rõ thực trạng lãnh đạo của Thành ủy bao gồm ưu điểm và hạn chế

cùng nguyên nhân của thực trạng đó. Cuối cùng, tác giả đã nêu ra 6 giải pháp nhằm

tăng cường vai trò lãnh đạo của Thành ủy đối với công tác cải cách hành chính cho

đến năm 2020.

Công trình nghiên cứu “Lực cản và động lực cải cách hành chính ở Thành

phố Hồ Chí Minh” của Hồ Bá Thâm và Nguyễn Thị Hồng Diễm (2008) (đồng chủ

biên), NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh đã bước đầu khái quát được quá

trình cải cách hành chính ở Thành phố Hồ Chí Minh từ khi được tiến hành vào năm

2001 đến nay. Nội dung chính của công trình được các tác giả trình bày về những

lực cản và động lực cơ bản liên quan đến cải cách hành chính ở thành phố. Trên cơ

sở nội dung chính như trên các tác giả cũng chỉ ra những giải pháp cơ bản cùng 6

kiến nghị liên quan để khắc phục lực cản và phát huy động lực của cải cách hành

chính ở Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tiếp theo. Cuốn sách “Cải cách

hành chính ở Thành phố Hồ Chí Minh (1995-1999) - Thành tựu và bài học” của tập thể tác giả Bùi Thế Vĩnh, Phạm Phương Thảo, Mai Quốc Bình, Bùi Thiện Tích

(2000), NXB Chính trị Quốc gia đã tập trung đi sâu phân tích những khó khăn, thành tựu trong 5 năm (1995-1999) cải cách hành chính ở Thành phố Hồ Chí Minh, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và giải pháp về cải cách hành chính cho giai đoạn tiếp theo.

Các bài viết “Nâng cao hiệu quả quản lý đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Tiến Dũng, Đoàn Ngọc Phúc (2004) trên Tạp chí Cộng sản số 7 năm 2004; Kết quả sau hai năm thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước ở Thành phố Hồ Chí Minh” của Đào Đăng Kiên (2004) đăng trên Tạp chí

Quản lý nhà nước, số 97 năm 2004 và bài viết “Cơ chế hành chính một cửa liên

21

thông ở Thành phố Hồ Chí Minh” của Trịnh Đức Thảo (2008) trên Tạp chí Lý luận

chính trị, số 4 năm 2008 đã đánh giá trên nhiều góc độ về những thành tựu cũng

như hạn chế của quá trình cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả

hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp ở Thành phố Hồ Chí Minh thời gian

qua. Với hơn 30 năm đổi mới, hệ thống chính quyền thành phố đã không ngừng được củng cố và đổi mới về mọi mặt, đáp ứng yêu cầu quản lý trên một địa bàn đô

thị, là trung tâm của đất nước. Chính quyền thành phố đã triển khai chương trình

tổng thể cải cách hành chính: cải cách tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, cải cách nền hành chính công và hiện đại hóa nền hành chính phù

hợp yêu cầu đổi mới kinh tế; thực hiện cơ chế “một cửa, một dấu”, tiếp tục triển

khai mở rộng mô hình “một cửa liên thông” đã phát huy hiệu quả tích cực thời gian

qua tại các quận huyện, sở – ngành thành phố; không những vậy, chính quyền thành phố còn đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý nhà nước và

cung cấp dịch vụ hành chính cho các tổ chức và nhân dân, từng bước xây dựng và

triển khai phần mềm quản lý các lĩnh vực; công khai thủ tục hành chính, văn bản

pháp quy, tình trạng thụ lý hồ sơ và các thông tin khác; thường xuyên tổ chức lấy ý

kiến khách hàng, nhanh chóng trả lời ý kiến của người dân qua mạng. Có thể nhận

thấy điểm nổi bật nhất trong quá trình đổi mới HTCT các cấp ở thành phố trong

mấy chục năm qua chính là công tác cải cách hành chính được diễn ra mạnh mẽ,

đồng bộ, tác động tích cực đến sự phát triển chung. Điều này đã được các tác giả

phản ánh một cách trung thực, khách quan, khoa học bằng nhiều phân tích, đánh giá

cụ thể. Dưới nhiều góc độ tiếp cận, các công trình này đã làm rõ được khái niệm cải

cách hành chính ở Thành phố Hồ Chí Minh, những quan điểm, chủ trương, giải

pháp của Thành ủy với công tác này. Từ cơ sở đó, những thành công, hạn chế và bài

học kinh nghiệm cùng giải pháp khắc phục đã được các tác giả chỉ ra một cách cụ

thể. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu trên đây vẫn chưa hệ thống hóa được từng hoạt động của việc đổi mới hoạt động chính quyền các cấp ở Thành phố Hồ Chí

Minh, chưa làm rõ được căn cứ về lý luận và đặc biệt là căn cứ thực tiễn của quá trình này, mà chủ yếu chỉ tập trung vào một hoạt động nổi bật nhất là cải cách hành chính. Do đó, các tác giả cũng chưa nêu bật được nội dung, phương thức và kết quả trong qua từng giai đoạn của việc đổi mới hoạt động hệ thống chính quyền các cấp; đặc biệt là chưa có sự đánh giá toàn diện, tổng hợp về những tác động quan trọng của quá trình này vào sự phát triển nói chung và nền kinh tế của thành phố nói riêng. Các bài học kinh nghiệm và giải pháp kiến nghị ở những công trình trên cũng chưa thật sự đầy đủ và hệ thống, đòi hỏi cần phải có sự đánh giá một cách tổng hợp

và chi tiết hơn. Đây sẽ là những nội dung quan trọng mà luận án cần tiếp tục làm rõ

22

trong nghiên cứu của mình.

Một trong những điểm nổi bật của quá trình xây dựng chính quyền tại Thành

phố Hồ Chí Minh thời gian vừa qua chính là chủ trương xây dựng mô hình chính

quyền đô thị. Vấn đề này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa

học, nhà quản lý của thành phố cũng như cả nước nói chung. Trong đó có thể kể đến là cuốn sách “Một số vấn đề về xây dựng chính quyền đô thị từ thực tiễn Thành phố

Hồ Chí Minh” Phan Xuân Biên (2007) (chủ biên), NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

Đây là công trình tập hợp các bài tham luận của các nhà lãnh đạo, nhà hoạt động chính trị - xã hội, nhà khoa học, nhà nghiên cứu trên mọi miền đất nước trình bày tại

hội thảo “Xây dựng chính quyền đô thị Thành phố Hồ Chí Minh - một yêu cầu cấp

thiết của cuộc sống”, về các vấn đề lý luận, những kinh nghiệm thực tiễn của các

nước trên thế giới, những bài học rút ra từ thực tiễn vận hành của chính quyền thành phố hiện nay, những gợi ý về việc xây dựng mô hình chính quyền đô thị hiện đại cho

Thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài nghiên cứu “Khảo sát và đánh giá việc thí điểm mô

hình chính quyền đô thị Thành phố Hồ Chí Minh” do Học viện Chính trị chủ trì và

Phạm Minh Tuấn là chủ nhiệm đề tài. Đề tài đã khảo sát, đánh giá thực trạng tổ chức

triển khai áp dụng thí điểm mô hình chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh.

Trên cơ sở đó, các tác giả đã đề xuất các phương án cho việc xây dựng chính quyền

đô thị tại Thành phố Hồ Chí Minh; đưa ra các giải pháp hoàn thiện cơ cấu tổ chức,

hoạt động và lộ trình áp dụng mô hình chính quyền đô thị.

Một trong những điểm nổi bật khác của quá trình đổi mới HTCT tại Thành

phố Hồ Chí Minh được giới nghiên cứu đánh giá cao chính là việc phát huy được

vai trò của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội trên địa bàn thành phố. Đây là

kết quả của nhiều chủ trương và cách làm đúng đắn, sáng tạo được vận dụng trong

hoạt động của từng tổ chức. Trên lĩnh vực này cũng có nhiều đánh giá, tổng kết

trong đó có thể kể đến như:

Luận văn thạc sỹ chính trị học “Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh với

việc thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động" của Nguyễn Thị Hiền Oanh (2002), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trong luận văn này tác giả đã đánh giá toàn diện, hệ thống về vai trò của MTTQ Thành phố Hồ Chí Minh trên 3 nội dung là tham gia tuyên tuyền, giáo dục chính trị, vận động nhân dân thực hiện các chương trình kinh tế - văn hóa - xã hội - an ninh quốc phòng gắn với cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư; tổ chức hiệp thương chính trị, giới thiệu đại biểu dân cử, tham gia triển khai Quy chế dân chủ cơ sở; thực hiện chức năng giám sát hoạt động của chính quyền, đại biểu dân cử và viên chức

23

nhà nước. Trên cơ sở đánh giá đó, tác giả đã xác định 4 giải pháp để tiếp tục phát

huy quyền lực chính trị của nhân dân lao động thông qua MTTQ Thành phố Hồ Chí

Minh trong giai đoạn hiện nay.

Sách “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh và sức mạnh đại

đoàn kết dân tộc”(2008), NXB. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, là một tập hợp các bài viết giới thiệu về hoạt động của MTTQ thành phố và các đoàn thể chính trị -

xã hội trong những năm vừa qua. Đồng thời, cuốn sách cũng trình bày một số các

phong trào tiêu biểu của nhân dân thành phố trong những năm đổi mới.

Đối với hoạt động cụ thể của các đoàn thể chính trị - xã hội thành phố, đáng

chú ý có Luận án tiến sĩ Lịch sử “Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh với quá trình

thực hiện các chính sách xã hội của Thành phố trong công cuộc đổi mới (1996 –

2006)” của tác giả Trần Xuân Thảo (2011). Qua luận án này tác giả đã trình bày một cách có hệ thống hoạt động của Hội liên hiệp phụ nữ thành phố trong việc thực

hiện chính sách xã hội đối với phụ nữ trong 30 năm đổi mới. Đồng thời trên cơ sở

đó đã có sự đánh giá về vai trò của Hội phụ nữ thành phố cũng như những bài học

kinh nghiệm rút ra trong quá trình thực hiện vấn đề này.

Ngoài công trình trên còn có bài viết “Phản biện xã hội trong quá trình xây

dựng và phát triển ở Thành phố Hồ Chí Minh” của Nguyễn Điển (2009) trên Tạp chí

Tuyên giáo, số 7, năm 2009 cũng đã có sự đánh giá toàn diện về kết quả hoạt động và

nêu bật được những cách làm sáng tạo, hiệu quả, thiết thực trong việc MTTQ Thành

phố Hồ Chí Minh tham gia phản biện những chủ trương, chính sách của Ủy ban Nhân

dân (UBND) thành phố trong thời gian qua. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra 5 điều

kiện cơ bản cần triển khai nhằm thực hiện tốt cơ chế phản biện xã hội

Có thể nói, nghiên cứu về nội dung này trong thời gian qua ở Thành phố Hồ

Chí Minh là chưa nhiều so với những lĩnh vực khác của HTCT. Tuy nhiên, về bước

đầu các tác giả đã chỉ ra được những kết quả quan trọng trong việc phát huy dân chủ ở Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm đổi mới. Trên cơ sở phát huy truyền

thống quý báu là gắn bó với nhân dân, làm tròn chữ hiếu với nhân dân, trong những năm đổi mới, Đảng bộ và chính quyền thành phố đã không ngừng dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chính quyền; xem đây là vấn đề có ý nghĩa cốt lõi nhằm phát huy dân chủ, đồng thời cũng là động lực và là mục tiêu của tiến trình đổi mới. Do vậy, đảng bộ đã không ngừng phát huy dân chủ và sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chăm lo xây dựng mặt trận và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh. Mặt trận và các đoàn thể thành phố đã ngày càng phát huy tốt vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố, nâng cao chất lượng tổ chức, đa dạng hóa các

hình thức; tổ chức các phong trào hành động cách mạng đều khắp có chất lượng và

24

hiệu quả ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng thiết thân của các tầng lớp

nhân dân. Đồng thời với đó là việc phát huy dân chủ đại diện, đẩy mạnh dân chủ

trực tiếp thông qua việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; tăng cường việc tiếp

công dân, đối thoại với các giới, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng thiết thân của các

tầng lớp nhân dân. Tuy nhiên, điểm hạn chế là các công trình đã công bố vẫn chưa trình bày được nội dung đổi mới của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, chưa

chỉ ra được những chủ trương, biện pháp, kết quả cũng như những bài học kinh

nghiệm cụ thể hiện nay. Đây sẽ là một nội dung nghiên cứu đòi hỏi luận án phải giải quyết với rất nhiều nhiệm vụ nhằm đánh giá toàn diện, hệ thống, khoa học để thấy

được sự tham gia cụ thể của các tầng lớp nhân dân một cách chủ động, tích cực vào

sự phát triển chung của thành phố trong tiến trình đổi mới.

1.1.4. Các nghiên cứu của tác giả nước ngoài Đến nay, tuy chưa có một công trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống nào

của các tác giả nước ngoài về đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh

nhưng cũng đã có những nghiên cứu đề cập đến sự tác động trực tiếp của hệ thống

chính trị đến sự phát triển của thành phố trên nhiều mặt. Tiêu biểu có thể kể ra

những công trình như: Cling Jean-Pierre ... [et al.] (2010), The informal sector in

Vietnam : a focus on Hanoi and Ho Chi Minh city, The Gioi, Ha Noi; David Dapice,

Jose A. Gomez-Ibanez, Nguyen Xuan Thanh (2009), Ho Chi Minh City : the

challenges of growth, United Nations Development Programme in Vietnam;

William Taylor ...(2012), Civil society in Vietnam : a comparative study of civil

society organizations in Hanoi and Ho Chi Minh City, Social - Labour Pub. House,

Ha Noi; UNDP (2006), Deepening Democracy and Increase popular participation

in Vietnam, Hanoi. Những nghiên cứu này đã tập trung làm rõ một số vấn đề trong

hoạt động của hệ thống chính quyền ở thành phố Hồ Chí Minh như sau:

Thứ nhất là vấn đề tham nhũng trong bộ máy công quyền của thành phố. Cụ thể như tác động của tham nhũng đối với hoạt động kinh tế phi chính thức (bao gồm

các hoạt động kinh tế không có đăng ký về mặt pháp lý, không có số liệu thống kê và không được kiểm soát bởi nhà nước). Theo kết quả nghiên cứu của tác giả Cling Jean-Pierre (2010) trong cuốn sách The informal sector in Vietnam: a focus on Hanoi and Ho Chi Minh city, The Gioi, Ha Noi thì hoạt động của các hộ kinh doanh phi chính thức ở Thành phố Hồ Chí Minh đã có sự ảnh hưởng không nhỏ từ vấn đề tham nhũng. Qua khảo sát, nhóm tác giả chỉ ra ở cả Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 14% hộ kinh doanh không chính thức chọn giải quyết vấn đề của họ với chính quyền thông qua việc thanh toán “quà tặng” bất hợp pháp [179,

tr.181]. Từ đó nhóm tác giả cũng đã đưa ra một số khuyến nghị nhằm hạn chế ảnh

25

hưởng của tham nhũng đến sự phát triển của những ngành kinh tế phi chính thức

nhằm tạo môi trường cho khu vực này phát triển như các cấp chính quyền cần tạo

điều kiện cho các hộ kinh doanh phi chính thức được đăng ký để chuyển đổi sang

khu vực chính thức…

Thứ hai là những thách thức mà các cấp chính quyền ở Thành phố Hồ Chí Minh cần tập trung giải quyết trong quá trình đổi mới kinh tế ở thành phố. Cụ thể,

theo các tác giả David Dapice, Jose A. Gomez-Ibanez, Nguyen Xuan Thanh (2009)

trong công trình nghiên cứu Ho Chi Minh City: the challenges of growth, United Nations Development Programme in Vietnam thì hai thách thức chính mà Thành

phố Hồ Chí Minh hiện đối mặt khi quản lý sự chuyển đổi nhanh chóng là tình trạng

tắc nghẽn giao thông và sự phát triển những vùng đô thị mới. Trên cơ sở nghiên

cứu, các tác giả đưa ra khuyến nghị: năng lực thực hiện của các cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm hình thành và triển khai chính sách giao thông và sử dụng đất của

thành phố là rất quan trọng. Từ đó, việc chuẩn bị các qui hoạch giao thông và sử

dụng đất đến năm 2025 là hoạt động rất hữu ích khi thành phố phải đối mặt với

những vấn đề phát sinh từ tăng trưởng kinh tế [180, tr.21]

Thứ ba là một số vấn đề mới xuất hiện trong quản lý của chính quyền thành

phố. Cụ thể như liên quan đến hoạt động của các tổ chức xã hội dân sự (những tổ

chức được đăng ký hoạt động chính thức) ở Thành phố Hồ Chí Minh, theo tác giả

William Taylor (2012) và các cộng sự trong công trình nghiên cứu Civil society in

Vietnam : a comparative study of civil society organizations in Hanoi and Ho Chi

Minh City, Social - Labour Pub. House, Ha Noi và công trình Deepening

Democracy and Increase popular participation in Vietnam của tổ chức UNDP

(2006), Hanoi thì có nhiều điểm khác nhau giữa hoạt động của các tổ chức này ở

Thành phố Hồ Chí Minh so với Hà Nội. Các tổ chức xã hội dân sự ở Thành phố Hồ

Chí Minh có nhiều khả năng phát triển từ các nhóm xã hội phi chính thức hoặc các tổ chức dựa trên tín ngưỡng. Trong khi đó, các tổ chức xã hội dân sự ở Hà Nội có

nhiều khả năng được kết nối với các cơ quan chính phủ và phát triển từ một số kết nối trước đó với chính phủ. Hoặc các tổ chức xã hội dân sự của Thành phố Hồ Chí Minh mong muốn có nhiều cơ hội đào tạo hơn và việc thiếu nguồn tài trợ hơn so với các tổ chức xã hội dân sự tại Hà Nội…

Những kết quả nghiên cứu của các tác giả nước ngoài liên quan đến hoạt động của hệ thống chính quyền Thành phố hồ Chí Minh đều là những công trình công phu, có hàm lượng khoa học cao, dựa trên những nguồn tài liệu và khảo sát đáng tin cậy. Đây là một nguồn tham khảo có giá trị cho tác giả luận án trong việc nghiên

26

cứu về đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh.

1.2. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố và

những vấn đề đặt ra đối với luận án

Thứ nhất, việc nghiên cứu về đổi mới HTCT ở Việt Nam đã được tiến hành

một cách rộng rãi và có hệ thống với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý dưới các góc độ chuyên môn khác nhau. Một số nghiên cứu đã khái quát

được những giai đoạn chính của quá trình đổi mới HTCT ở Việt Nam với những nội

dung và các kết quả cụ thể.

Thứ hai, từng lĩnh vực cụ thể của việc đổi mới HTCT ở Việt Nam cũng được

các nhà nghiên cứu tập trung phân tích, làm rõ những vấn đề có tính nguyên tắc như

công tác xây dựng đảng, công tác cải cách hành chính, xây dựng chính quyền các

cấp, hoạt động của MTTQ Việt Nam cùng vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức (cán bộ, công chức), viên chức. Đây chính là cơ sở lý luận quan trọng khi tiến

hành nghiên cứu, đánh giá, tổng kết về hoạt động đổi mới HTCT ở các địa phương

hiện nay, trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ ba, các công trình nghiên cứu về đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí

Minh nói riêng đã khẳng định được tính tất yếu của hoạt động này trong quá trình

đổi mới, phát triển của thành phố. Từ kết quả nghiên cứu trên nhiều góc độ, các tác

giả cũng đánh giá bước đầu một cách khoa học về tác động nhiều mặt của đổi mới

HTCT đến sự phát triển của thành phố từ sau năm 1986 đến nay đồng thời chỉ ra

được những phương hướng, giải pháp, kiến nghị nhằm đẩy mạnh hơn nữa quá trình

này trong những năm tiếp theo.

Thứ tư, từng lĩnh vực, nội dung cụ thể của đổi mới HTCT và mối liên hệ biện

chứng giữa các lĩnh vực này với nhau ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng được các tác

giả nghiên cứu ở nhiều mức độ với nhiều công trình từ đề tài nghiên cứu, luận án,

luận văn, báo cáo đến bài viết tạp chí… Đây là cơ sở quan trọng để các công trình nghiên cứu đi sau có thể kế thừa nhằm khai thác sâu hơn, cụ thể hơn nội dung của

vấn đề.

Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu từ nhiều công trình đã được công bố đồng thời từ những vấn đề mà các công trình này còn chưa đề cập, luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu những nội dung cụ thể sau:

Thứ nhất, luận án sẽ trình bày, phân tích về những nhân tố trong nước và quốc tế, đặc biệt bối cảnh khó khăn của Thành phố Hồ Chí Minh sau chiến tranh tạo nên nhu cầu bức thiết phải đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh vào những năm 80 của thế kỷ XX và các giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2013.

Thứ hai, luận án sẽ xác định các giai đoạn cụ thể của quá trình đổi mới HTCT

27

ở Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ 1986 - 2013. Trong từng giai đoạn của

từng lĩnh vực, luận án sẽ tập trung làm rõ những chủ trương, chính sách cùng quá

trình triển khai thực hiện trong thực tế, những kết quả đạt được và vấn đề mới nảy

sinh, đồng thời đánh giá một cách khoa học về hiệu quả đem lại. Đồng thời, luận án

sẽ tập trung nghiên cứu về sự tác động lẫn nhau giữa các thành tố cấu thành HTCT trong quá trình đổi mới ở thành phố trong những năm qua để từ đó thấy được vị trí,

vai trò cụ thể của từng bộ phận, cũng như sự cần thiết phải đổi mới đồng bộ ở tất cả

các thành tố của HTCT thành phố.

Thứ ba, từ việc phục dựng toàn bộ quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ

Chí Minh, luận án sẽ rút ra những đặc điểm của quá trình đổi mới HTCT, đánh giá

một cách toàn diện về các thành tựu, hạn chế, và nguyên nhân của thành tựu, hạn

chế đó, đưa ra những kinh nghiệm quan trọng trên từng lĩnh vực cụ thể. Bên cạnh đó, luận án cũng sẽ đánh giá một cách khoa học về những chương trình thí điểm

liên quan đến đổi mới HTCT mà Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang được cho

phép áp dụng trong thực tế.

Những kết quả trên đây sẽ làm nổi bật lên vai trò quan trọng của đổi mới

HTCT với quá trình đổi mới ở thành phố nói riêng và cả nước nói chung, đánh giá

một cách đúng đắn hơn nữa những thành tựu mà thành phố đã đạt được qua gần 30

28

năm đổi mới.

CHƢƠNG 2

HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2000

2.1. Hệ thống chính trị Thành phố Hồ Chí Minh trƣớc Đổi mới

2.1.1. Khái quát về Thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương

của cả nước (Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hải Phòng, Thành phố Đà Nẵng và Thành phố Cần Thơ). Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí địa

lý nằm ở khu vực Đông Nam Bộ, trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và

Tây Nam Bộ (phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông

và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang). Theo quy định tại điểm a Khoản 3

Điều 3 của Luật Tổ chức chính quyền địa phương (năm 2015), Thành phố Hồ Chí

Minh (cùng với Hà Nội) được xếp là đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt với

tổng diện tích tự nhiên là 2.095,06 km², dân số 8.993.082 người với mật độ là 4.292 người/km2. Đây cũng là thành phố đông dân nhất, chiếm tỷ trọng 9,35% dân số cả nước và 50,44% dân số vùng Đông Nam bộ [201].

Về tổ chức hành chính, đến năm 2013, Thành phố Hồ Chí Minh được phân

chia thành 24 quận, huyện với 322 xã, phường và thị trấn (gồm 259 phường, 58 xã

và 5 thị trấn), trong đó khu vực nội thành gồm 19 quận (Quận 1, Quận 2, Quận 3,

Quận 4, Quận 5, Quận 6, Quận 7, Quận 8, Quận 9, Quận 10, Quận 11, Quận 12, Tân

Bình, Bình Thạnh, Phú Nhuận, Thủ Đức, Gò Vấp, Bình Tân, Tân Phú) với 259

phường, khu vực ngoại thành gồm 5 huyện (Nhà Bè, Cần Giờ, Hóc Môn, Củ Chi,

Bình Chánh) với 63 xã và thị trấn.

Trong quá trình đổi mới, phát triển và hội nhập, Thành phố Hồ Chí Minh luôn khẳng định vị trí là một trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại và dịch vụ lớn của

cả nước; là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đóng góp lớn cho nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể, giai đoạn 1996-2000,

n giai quy mô kinh te Thành phố chie m bình qua n khoảng 17% kinh te cả nu o c, đe

thành phố đoạn 2001 - 2010 tỉ l này ta ng le n 20% và giai đoạn 2011-2019 kinh te

chie m ho n 22% kinh te cả nu o c. Vị trí đa u tàu của Thành phố Hồ Chí Minh kho ng

đóng góp với tỉ trọng chỉ thể hiện ở việc ta ng tru o ng kinh tế liên tục tăng mà còn o

lớn cho nga n sách quốc gia. Giai đoạn 2001 - 2010, bình qua n thành phố đóng góp

c

29

khoảng 26,5% nga n sách, giai đoạn 2011 - 2019 đóng góp 27,5% nga n sách cả nu o [202]. Ngoài vị trí là trung tâm kinh tế, thương mại lớn, Thành phố Hồ Chí Minh

còn là trung tâm về văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học kỹ thuật, đầu mối giao

thông quốc tế của đất nước.

Với những đặc điểm nổi bật như trên về kinh tế, xã hội, trong quá trình phát

triển của Thành phố Hồ Chí Minh, việc xây dựng, kiện toàn và đổi mới hệ thống chính trị có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng; góp phần trực tiếp vào sự tăng

trưởng kinh tế, ổn định xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân

dân; qua đó, giữ vững và phát huy được vai trò đầu tàu, vị trí trung tâm đối với khu vực và cả nước.

2.1.2. Sự thiết lập hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng ngày 30/4/1975 đã kết thúc cuộc kháng

chiến chống Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm đầy hy sinh và gian khổ, mở ra một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử hiện đại Việt Nam: giành lại độc lập hoàn toàn và thống

nhất Tổ quốc. Thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định đã được giải phóng khỏi

ách thống trị hơn một trăm năm của chủ nghĩa thực dân cũ và mới.

Ngày 3/5/1975, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt

Nam ra quyết định thành lập Ủy ban Quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định, thực

thi nhiệm vụ của cơ quan quyền lực cao nhất đầu tiên của nhân dân thành phố sau

30/4/1975. Ủy ban Quân quản được chỉ định gồm 11 thành viên, do Trần Văn Trà

làm Chủ tịch. “Ủy ban quân quản thành phố Sài Gòn - Gia Định cử 5.500 cán bộ

chiến sĩ, tổ chức 4 đoàn, 34 đội công tác” [39] nhằm thực hiện một loạt công tác

quan trọng với một khối lượng công việc bộn bề ở thời điểm chuyển giao lịch sử tại

một địa bàn trọng điểm, từ chiến tranh sang hòa bình; từ thủ phủ, đầu não của bộ

máy chiến tranh xâm lược sang một thành phố lớn của đất nước Việt Nam hòa bình,

thống nhất. Đầu năm 1976, tình hình mọi mặt của Sài Gòn - Gia Định đi vào ổn

định. Ngày 24/1/1976, UBND Cách mạng thành phố Sài Gòn - Gia Định làm lễ ra mắt tại Nhà hát Lớn thành phố. Đến đây, Ủy ban Quân quản Sài Gòn - Gia Định

hoàn thành sứ mệnh lịch sử và giải thể. Ngày 25/6/1976, thể theo nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân thành phố, trong phiên họp đầu tiên của Quốc hội thống nhất, Quốc hội đã nhất trí thông qua Nghị quyết đặt tên thành phố Sài Gòn - Gia Định là Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng từ đây đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bước vào một thời kỳ mới: thời kỳ ổn định, khắc phục khó khăn và xây dựng thành phố thành một trung tâm hàng đầu của cả nước.

2.1.2.1. Đảng bộ thành phố sau giải phóng Ngay sau khi thành phố được giải phóng, nhiệm vụ trung tâm của Đảng bộ

thành phố là chuyển từ lãnh đạo hoạt động bí mật sang công khai và nắm chính

30

quyền để bước vào thời kỳ cách mạng mới nhằm nhanh chóng ổn định tình hình

mọi mặt, khôi phục và xây dựng lại thành phố sau chiến tranh. Để nhanh chóng

thiết lập hệ thống tổ chức đảng các cấp, trong tháng 6 và tháng 7/1975, Ban Thường

vụ Thành ủy đã ra quyết định chỉ định Ban chấp hành đảng bộ lâm thời các quận,

huyện. Hệ thống tổ chức của Đảng bộ thành phố được tổ chức theo hệ thống chính quyền các cấp gồm có Thành ủy; quận (huyện) ủy; chi bộ phường (xã); chi bộ khóm

(ấp). Thành ủy đã tăng cường một số cán bộ của Thành Đoàn, ban ngành, của Trung

ương Cục và một số địa phương cho các quận ủy. Đến giữa năm 1976, số lượng đảng viên của đảng bộ thành phố đã lên đến hơn 20.000 đảng viên (hơn 11.000

đồng chí được chi viện) sinh hoạt trong 1.134 chi bộ cơ sở; hệ thống tổ chức cơ bản

được củng cố và kiện toàn một bước, theo kịp với tình hình; các mặt công tác xây

dựng đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức được đẩy mạnh, đã thể hiện được vai trò trong tình hình mới [21, tr. 330]. Trong 6 năm (1980 – 1985), đảng bộ thành phố đã

phát triển thêm được 21.000 đảng viên mới [13, tr.140]. Về tổ chức bộ máy, đối với

Thành ủy, các ban đảng được củng cố và tăng thêm: thành lập thêm Ban Kinh tế và

phân phối lưu thông, Ban Dân vận, Phân Ban nông thôn; đồng thời tiến hành bổ

sung, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác cho phù hợp với chức

năng. Đặc biệt, trong giai đoạn này, Đảng bộ thành phố bắt đầu có những chủ

trương mang tính cải cách, sáng tạo nhằm nâng cao vai trò của từng tổ chức đảng,

xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, phù hợp với nhiệm vụ

chính trị. Điển hình là việc đảng bộ thành phố có chủ trương thí điểm thành lập các

Đảng bộ Khối đối với các cơ quan sự nghiệp, xí nghiệp, công ty của thành phố và

trung ương đóng trên địa bàn thành phố. Trước đây, các cơ sở đảng này đều thuộc

các đảng bộ quận, huyện trên địa bàn. Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế

thành phố, các cơ sở đảng này ngày càng đông; một số quận, huyện ủy đã gặp khó

khăn trong việc quản lý lãnh đạo quản lý, nhất là công tác xây dựng đảng không gắn với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị (nhiệm vụ chuyên môn) của các đơn vị cơ

sở nên Ban Thường vụ Thành ủy kiến nghị và được Ban Bí thư Trung ương cho thành phố thực hiện thí điểm thành lập một số đảng bộ cấp trên cơ sở, gọi là đảng bộ khối. Đảng bộ Khối tổ chức theo Bộ, Sở, Tổng công ty hoặc một số cơ quan có chức năng, nhiệm vụ gần giống như các ban của Thành ủy, các cơ quan quản lý nhà nước (chính quyền)…Đến năm 1984, Thành ủy đã tổ chức lại hệ thống tổ chức đảng cấp trên cơ sở khối Trung ương, từ 145 đảng bộ trực thuộc Thành ủy thành 13 đảng bộ cấp trên cơ sở ở các Bộ. Công tác sắp xếp như trên là một chủ trương sáng tạo của Thành ủy nhằm thu gọn các đầu mối trong công tác đảng, giảm bớt số lượng

tổ chức đảng trực thuộc Thành ủy đồng thời gắn công tác đảng và công tác cán bộ

31

với nhiệm vụ chuyên môn.

Để góp phần xây dựng và củng cố đội ngũ cán bộ, ngày 10/8/1979, Ban

Thường vụ Thành ủy ra Thông báo số 20/TB-TU Về những nguyên tắc cơ bản của

công tác cán bộ, nội dung công tác cán bộ và phân công phân cấp quản lý cán bộ.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trẻ cũng được thành phố rất chú trọng trong đó có chủ trương nổi bật là xây dựng đội ngũ cán bộ từ đối tượng là công nhân đang

trực tiếp lao động, sản xuất tại các xí nghiệp, công ty. Ban Tổ chức Thành ủy đã

phối hợp với Trường Đảng Nguyễn Văn Cừ lựa chọn một số công nhân trẻ bồi dưỡng lý luận chính trị sau đó tăng cường cho các quận, huyện. Các xí nghiệp, công

ty cũng lựa chọn khoảng 100 công nhân sản xuất giỏi đưa đi học văn hóa cấp 3 rồi

đặc cách tuyển vào học ở Đại học Kinh tế và một số Đại học khác. Sau khi tốt

nghiệp, một số công nhân đã được Ban Tổ chức bố trí công tác tại các ban, ngành, quận – huyện. Điều này vừa có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị vừa đáp ứng

được yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ và có thực tiễn của thành phố

trong quá trình phát triển kinh tế.

2.1.2.2. Xây dựng chính quyền thành phố

Theo Nghị quyết ngày 9/5/1975 của Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Lao động

Việt Nam, thành phố Sài Gòn - Gia Định mới lập được tổ chức lại thành 14 quận nội

thành và 7 quận ngoại thành. Ngày 20/5/1976, tổ chức hành chính thành phố Sài Gòn

- Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20/5/1976 của

UBND Cách mạng thành phố Sài Gòn - Gia Định), theo đó hệ thống chính quyền từ 4

cấp (bỏ cấp khóm) còn 3 cấp: thành phố; quận – huyện; phường – xã đồng thời thống

nhất tên gọi chính quyền các cấp là “Ủy ban nhân dân”. Sau khi sắp xếp lại, thành

phố Sài Gòn - Gia Định có 12 quận (Quận 1; Quận 3; Quận 4; Quận 5; Quận 6; Quận

8; Quận 10; Quận 11; Quận Bình Thạnh; Quận Phú Nhuận; Quận Gò Vấp; Quận Tân

Bình) và 5 huyện (Củ Chi, Bình Chánh, Hóc Môn, Nhà Bè và Thủ Đức). Đối với các phường, qua sự sắp xếp cho phù hợp với tình hình mới, đến năm 1977 toàn thành phố

có 353 đơn vị, gồm: 268 phường, 83 xã và 02 thị trấn [13, tr.129].

Ngày 15 và 29/5/1977, nhân dân thành phố đã chính thức tham gia vào cuộc bầu cử HĐND ba cấp (thành phố, quận - huyện, phường – xã) khóa I (1977 – 1979). Sau khi bầu cử thành công, HĐND các cấp đã đi vào hoạt động, thực hiện chức năng cơ quan quyền lực cao nhất mà trước hết là bầu ra UBND các cấp. Từ đây, hệ thống chính quyền cấp xã, phường và quận - huyện của thành phố đã được hoàn thiện về cơ bản và đi vào hoạt động một cách ổn định. Cuối năm 1975, Ủy ban Quân quản ra quyết định thành lập 15 sở, ngành. Qua sự rà soát, sắp xếp, tính đến

cuối năm 1985, bộ máy các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố có 55 đơn

32

vị bao gồm: 32 sở, ban, ngành, 13 đơn vị giúp việc về một số lĩnh vực, 10 đơn vị sự

nghiệp. Từ đó, hoạt động của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố đã

có nhiều kết quả, đóng góp quan trọng; tạo điều kiện cần thiết cho sự ổn định của

HTCT và là cơ sở quan trọng cho những đổi mới về cơ cấu tổ chức cũng như chức

năng nhiệm vụ và hoạt động trong giai đoạn sau.

Để tăng cường sự gắn bó giữa chính quyền với quần chúng nhân dân, chủ

trương hướng về cơ sở để từ đó xây dựng chính quyền đáp ứng được nhu cầu, đòi

hỏi bức thiết của người dân, một trong những chủ trương mang tính đột phá của thành phố là hướng về xây dựng chính quyền phường, xã vững mạnh. Trên cơ sở

đó, UBND thành phố đã ban hành các Quyết định Về cơ chế tổ chức cấp cơ sở

phường (tháng 8/1981); Về cơ chế tổ chức xã (tháng 12/1982). UBND thành phố đã

thể chế hóa về mặt nhà nước các quy chế tổ chức của phường và xã bằng các văn bản quy định cụ thể. Kết quả thực hiện cơ chế này sau 3 năm là cả tổ chức bộ máy

của phường, xã đã giảm bớt nhiều phòng, ban (mỗi phường, xã chỉ còn 5 ban); biên

chế các phường giảm xuống hơn 5.000 người (mỗi phường chỉ còn 15 -20 người);

cơ quan phường, xã được tập trung làm việc ở một nơi. Công việc được giải quyết

nhanh chóng, giảm bớt phiền hà cho nhân dân khi liên hệ công tác.

2.1.2.3. Xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội của thành phố

Tháng 5/1975, khi các đơn vị hành chính của thành phố được hình thành, bộ

máy đảng và chính quyền được hoàn thiện thì việc xây dựng bộ máy Mặt trận thành

phố và các quận, huyện cũng đồng thời được đặt ra. Ngày 27/7/1975, Đại hội Đại

biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng thành phố Sài Gòn – Gia Định được tổ chức trọng

thể theo chỉ đạo của Trung ương MTTQ Việt Nam và Thành ủy thành phố Sài Gòn

– Gia Định, với sự tham gia của hơn 300 đại biểu thuộc 14 tổ chức đoàn thể, ban

ngành của Thành phố cùng đại biểu của 21 quận, huyện. Đại hội đã nhất trí thông

qua Nghị quyết đổi tên theo tên chung của cả nước sau ngày Tổ quốc thống nhất là MTTQ Việt Nam thành phố Sài Gòn – Gia Định. Sau khi MTTQ Việt Nam thành

phố ra đời, hầu hết các quận, huyện đều lần lượt tổ chức Đại hội thành lập Mặt trận, một số quận, huyện tiến hành thành lập Mặt trận phường, xã. Cùng với sự hình thành hệ thống Mặt trận thì các tổ chức chính trị - xã hội khác như Công Đoàn, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ cũng đã bắt đầu được hình thành từ thành phố đến quận (huyện), phường (xã), khóm (ấp) các nhà máy, xí nghiệp, cơ quan công sở. Bằng việc nhanh chóng ổn định tổ chức và phát triển hội viên mà “đến đầu năm 1976, Công đoàn có hơn 46.000 đoàn viên, Thanh niên có 131.000 hội viên, Hội Phụ nữ có gần 233.000 hội viên, Nông dân có hơn 37.000 hội viên” [21, tr. 332] .

Như vậy, cùng với công tác xây dựng đảng và hệ thống chính quyền, đến cuối

33

năm 1976, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội của thành phố cũng đã được lần

lượt ra đời và hoạt động ở tất cả các cấp. Điều này không chỉ góp phần vận động

mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào việc ổn định đời sống, khắc phục hậu quả chiến

tranh, khôi phục sản xuất – kinh doanh, mà còn thông qua hoạt động của mình các

đoàn thể này còn trực tiếp cung cấp một đội ngũ nhân lực quan trọng cho việc kiện toàn bộ máy đảng và chính quyền ở các quận, huyện. MTTQ thành phố đã cùng các

thành viên khác đã tập trung thực hiện các phong trào quần chúng rộng lớn nhằm

giải quyết những vấn đề về kinh tế, xã hội đối với thành phố trong giai đoạn này. Tiêu biểu trong trong hoạt động của Hội Phụ nữ thành phố giai đoạn 1976 – 1986 là

việc hình thành và phát triển hệ thống nhà trẻ trong chế độ mới. Có thể nói, thành tựu

của hệ thống nhà trẻ thành phố hôm nay có những nền tảng ban đầu do Hội Liên hiệp

Phụ nữ thành phố xây dựng nên. Đó là sự đóng góp thiết thực nhất của Hội trong những ngày đầu hòa bình đầy khó khăn và thử thách. Công nhân lao động thành phố

có phong trào “Bàn tay vàng”, “Luyện tay nghề thi thợ giỏi”, “Tuổi trẻ sáng tạo”

động viên giới trẻ dấn thân vào hoạt động khoa học kỹ thuật. Chỉ tính riêng hai năm

1976 – 1977, công nhân thành phố đã có 8.175 sáng kiến, làm lợi cho công quỹ 44

triệu đồng. Năm 1978 có 60.838 sáng kiến có giá trị kinh tế, kỹ thuật cao, làm lợi cho

công quỹ hơn 22 triệu đồng [73, tr. 682]. Giới trí thức thành phố đã phát động phong

trào “Thi đua xây dựng đất nước”, “Khoa học phục vụ đời sống và sản xuất”, “Nhanh

chóng đưa kiến thức khoa học kỹ thuật đến với công nhân và nông dân”,…thu hút

trên 50.000 lượt người tham gia vào các đợt sinh hoạt chính trị của thành phố. Đối

với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh thành phố thì đây là thời kỳ phong trào đoàn và thanh

thiếu nhi đã tập hợp và lôi cuốn được thanh niên để hình thành nên những phong trào

rộng khắp, đóng góp trực tiếp vào việc cải tạo và xây dựng thành phố trên mọi địa

bàn dân cư, trong mọi ngành nghề. Trong 2 năm 1978 và 1979, phong trào tòng quân

bảo vệ biên giới Tây Nam, phong trào “Đi hồng binh” (thanh niên tình nguyện nhập ngũ) thu hút hàng trăm ngàn thanh niên đăng ký tham gia “Lực lượng thanh niên

xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, nhanh chóng trở thành phong trào chung của thanh niên cả nước trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Một trong những lực lượng đông đảo và mạnh mẽ nhất mà thành phố đã xây dựng nên là lực lượng Thanh niên Xung phong. Ngày 28/3/1976, nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Đoàn, tổ chức Lực lượng Thanh niên xung phong thành phố đã ra đời với lễ ra quân của 15.000 thanh niên tình nguyện và hơn 1 vạn thanh niên xung phong, mở hướng đi đầu trong mặt trận khai hoang, xây dựng các công trình thủy lợi và tham gia sản xuất tại các vùng ven thành phố. Lực lượng Thanh niên

Xung phong thành phố cũng là lực lượng đi đầu trong chiến đấu và tham gia chiến

34

đấu trong chiến tranh biên giới Tây Nam cũng như tham gia giáo dục, cải tạo thanh

niên chậm tiến. Sự ra đời và tham gia phát triển kinh tế, xã hội của Lực lượng

Thanh niên xung phong thành phố đã tạo những bước đột phá cùng Đảng bộ, chính

quyền và nhân dân vượt ra khỏi những khó khăn của thời kỳ sau chiến tranh, từng

bước xác lập hướng đi bền vững, tạo đà cho những bước đột phá tiếp theo trong thời kỳ đổi mới kể từ sau Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng.

Như vậy, từ năm 1976 đến 1986 trong khi phải giải quyết nhiều nhiệm vụ rất

to lớn và nặng nề, để thực hiện được trách nhiệm của mình, đảng bộ và chính quyền thành phố đã có những chủ trương cải cách, tìm tòi nhằm nâng cao hơn nữa vai trò,

chức năng của từng bộ phận trong HTCT. Với một quyết tâm chính trị và một sự

thận trọng, khoa học, những cải cách bước đầu này đã đáp ứng được yêu cầu quản

lý về kinh tế, xã hội, trở thành điển hình cho các địa phương khác, được Trung ương đánh giá cao và đặc biệt qua đó đã mở ra nhiều giải pháp mang tính rộng lớn, đồng

bộ, mạnh mẽ hơn trong những năm đổi mới sau này.

2.2. Đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh 2.1.1. Bối cảnh dẫn đến yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị Những năm 80 đầu năm 90 của thế kỷ XX là giai đoạn mà tình hình thế giới

cũng như tình hình trong nước và Thành phố Hồ Chí Minh có những biến đổi căn

bản và sâu sắc về mọi mặt.

Thời kỳ này, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng làm

thay đổi trật tự trong quan hệ chính trị thế giới. Sau một thời gian dài phát triển, hệ

thống các nước xã hội chủ nghĩa đã bộc lộ những hạn chế, yếu kém, không theo kịp

yêu cầu của thời đại. Tình hình đó buộc các đảng cộng sản cầm quyền ở các nước

xã hội chủ nghĩa phải cải tổ, cải cách để khác phục khó khăn, vượt qua khủng

hoảng. Bên cạnh đó, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ trên

thế giới cũng trở thành một nhân tố mới tác động đến Việt Nam. Những thành tựu và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã làm cho lực lượng sản xuất

có bước phát triển mới, làm thay đổi cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xu thế hoá quốc tế hoá, làm gia tăng mối quan hệ, sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ, xu thế toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến tất cả các lĩnh vực của đời sống như chính trị, kinh tế, xã hội, giao lưu văn hóa… đặt ra những thách thức và cơ hội đối với tất cả các nước. Những xu thế quốc tế hóa đó đã tác động mạnh mẽ vào Việt Nam, đòi hỏi Việt Nam phải có những đổi mới căn bản trên mọi lĩnh vực trong đó có HTCT để đảm bảo sự ổn định chính trị và phát triển đất nước.

Tình hình trong nước lúc này cũng đặt ra những nhu cầu hết sức bức xúc vì

35

cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội của Việt Nam đã diễn ra nghiêm trọng, đời sống

của các tầng lớp nhân dân sa sút nghiêm trọng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình

hình khó khăn của đất nước, như do thiên tai liên tiếp xảy ra, hậu quả nặng nề của

hơn 30 năm chiến tranh ác liệt (1945 - 1975), lại phải đối phó với hai cuộc chiến

tranh biên giới Tây - Nam và biên giới phía Bắc; sự bao vây cấm vận của các lực lượng quốc tế; tuy nhiên, sai lầm về lãnh đạo và quản lý được xem là nguyên nhân

chủ yếu làm cho nền kinh tế - xã hội của Việt Nam bị khủng hoảng. Từ tình hình

thực tế đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bước đầu có những đột phá về tư duy nhằm tìm tòi con đường đổi mới cho đất nước. Trên cơ sở này, từ ngày 5 đến 18/12/1986

tại Thủ đô Hà Nội đã diễn ra Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng

sản Việt Nam. Đại hội đã chính thức xác lập đường lối đổi mới toàn diện, từ đổi

mới kinh tế đến đổi mới chính trị; từ đổi mới tư duy lý luận, nhận thức, tư tưởng đến đổi mới hoạt động thực tiễn của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể

nhân dân. Bên cạnh những quan điểm đột phá trong quản lý kinh tế, với tinh thần

tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại

hội cũng đã tự phê phán nghiêm túc những hạn chế của HTCT ở Việt Nam. Đó là

một hệ thống còn mang nặng tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, đã vấp phải những sai lầm

chủ quan, nóng vội, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân thiếu gắn bó,

tình trạng quan liêu trong các cơ quan lãnh đạo, quản lý và các tổ chức chuyên trách

về công tác quần chúng. Trong điều kiện đó nếu không bắt đầu từ đổi mới tư duy về

HTCT thì không thể đổi mới đất nước. Đổi mới HTCT là con đường tất yếu phải đi

qua để sửa chữa một cách căn bản những khuyết điểm và sai lầm đã mắc phải trong

thực tiễn, hình thành những quan điểm mới cho đường lối xây dựng xã hội chủ

nghĩa và triển khai có kết quả hơn những nhiệm vụ mà thực tiễn đặt ra. Phương

hướng của đổi mới là Đảng phải chăm lo xây dựng mình vững mạnh về chính trị, tư

tưởng, tổ chức, để từ đó tác động quyết định đến sự phát triển của cách mạng; tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là công tác cấp bách, là điều kiện tất yếu bảo

đảm huy động lực lượng to lớn của quần chúng nhân dân để hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra, đáp ứng được yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân. Đặc biệt, Đại hội VI của Đảng chủ trương đổi mới HTCT phải dựa vào sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây là những định hướng đặc biệt quan trọng cho quá trình đổi mới HTCT ở nước ta từ năm 1986, được áp dụng ở các địa phương trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Thành phố Hồ Chí Minh, HTCT được thiết lập từ sau năm 1975 và hoạt

động ổn định, bước đầu khắc phục được hậu quả do chiến tranh gây ra; giải quyết

36

được những vấn đề gay gắt về kinh tế, xã hội mà chế độ cũ để lại; quốc phòng, an

ninh chính trị được giữ vững. Nhưng cũng như tình hình chung của đất nước, những

năm 1980, thành phố đang trải qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm

trọng; đời sống nhân dân rơi vào bấp bênh, thấp kém ở nhiều mặt. Trước tình hình

đó, thành phố đã mạnh dạn từng bước áp dụng những cơ chế, chính sách mới trong quản lý ở một số đơn vị kinh tế; qua đó từng bước tháo gỡ những rào cản để tìm ra

hướng đi phù hợp. Đường lối đổi mới được xác lập lập tại Đại hội Đại biểu toàn

quốc lần thứ VI của Đảng là cơ sở đặc biệt quan trọng cho sự đổi mới và phát triển mọi mặt của Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, để có thể triển khai một cách hiệu

quả và sáng tạo đường lối của Đảng thì một yêu cầu tất yếu khách quan cần giải

quyết trước tiên là HTCT thành phố phải được đổi mới một cách mạnh mẽ và đồng

bộ. Vì tuy mới thành lập, HTCT thành phố trong 10 năm trước đổi mới ra đời và lãnh đạo, quản lý trong điều kiện nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hóa do đó khi

chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường thì cũng cần một quá trình chuyển đổi

cho phù hợp. Hơn nữa, trong 10 năm xây dựng và phát triển, HTCT thành phố cũng

bộc lộ nhiều hạn chế kéo dài chưa được khắc phục. Theo đánh giá của Đại hội Đại

biểu Đảng bộ thành phố lần thứ IV (diễn ra từ ngày 22 đến 30/10/1986) những hạn

chế trên là do không cảnh giác đầy đủ với những biểu hiện phát sinh của bệnh quan

liêu nên kỷ cương sinh hoạt của đảng lỏng lẻo, kỷ luật thiếu nghiêm minh, chưa

đảm bảo tốt chế độ tập trung dân chủ, coi nh tự phê bình và phê bình...Và cũng từ

đó mà phát sinh nhiều biểu hiện suy thoái tiêu cực khác, như: tham ô, hối lộ, tự tư

tự lợi, thu vén cá nhân, công thần địa vị, cục bộ địa phương, bảo thủ trì trệ, bao che,

cửa quyền, trấn áp, trù dập, vi phạm quyền làm chủ tập thể của quần chúng. Về

chính quyền thành phố thì bộ máy từ trên xuống dưới còn quá cồng kềnh, trùng lắp,

chưa phân định rõ giữa chức năng quản lý hành chính - kinh tế với chức năng quản

lý sản xuất kinh doanh; nhiều thủ tục rườm rà, hoạt động thiếu đồng bộ…phong cách làm việc quan liêu, hành chính còn nặng; bộ máy chính quyền chưa thực hiện

tốt việc thể chế hóa kịp thời và tổ chức thực hiện có hiệu quả một số chủ trương của Thành ủy; việc phân công phân cấp chưa thực hiện triệt để gây ra tình trạng quá phân tán và tùy tiện ở bên dưới; bên cạnh đó vai trò làm chủ của nhân dân cũng chưa được phát huy hiệu quả bởi vì phương thức hoạt động của các đoàn thể bị hành chính hoá, bộ máy cồng kềnh, chưa bám sát cơ sở và quần chúng lao động. Nhiều vấn đề xã hội đặt ra trong các tầng lớp quần chúng chưa được cấp uỷ đảng, chính quyền và đoàn thể các cấp nghiên cứu, đề xuất những chính sách thoả đáng, phù hợp với tâm sự nguyện vọng của từng đối tượng. Những thực tế tồn tại như trên

đòi hỏi HTCT Thành phố Hồ Chí Minh phải được đổi mới một cách mạnh mẽ, đồng

37

bộ bằng những chủ trương, giải pháp vừa mang tính cấp bách và lâu dài bằng một tư

duy khoa học, sáng tạo trên cơ sở đường lối chung đồng thời phải xuất phát từ

những đặc thù riêng có của thành phố.

Như vậy có thể thấy, đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh là một nhu

cầu tất yếu khách quan xuất phát từ bối cảnh chung của thế giới và trong nước, từ thực tiễn của thành phố. Nhu cầu này còn trở nên cấp bách và quan trọng bởi vì

thành phố là đầu tàu về kinh tế đồng thời cũng là trung tâm về nhiều mặt của cả

nước; sự phát triển của thành phố sẽ đóng góp trực tiếp vào sự phát triển chung của đất nước. Bối cảnh này đặt ra những yêu cầu đối với việc đổi mới tổ chức và hoạt

động của tất cả các bộ phận cũng như mối quan hệ giữa những bộ phận trong HTCT

thành phố lúc này.

2.1.2. Đổi mới công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng 2.1.2.1. Công tác chỉnh đồn, nâng cao sức chiến đấu của Đảng Đại hội Đại biểu lần thứ IV của Đảng bộ thành phố (từ ngày 22 đến

30/10/1986), trên cơ sở yêu cầu của sự nghiệp đổi mới thành phố đã xác định vấn đề

có ý nghĩa quyết định hàng đầu đối với công tác xây dựng đảng của Đảng bộ thành

phố giai đoạn này là phải tạo ra sự thống nhất về nhận thức, tư tưởng trong toàn bộ

đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân thành phố về những đòi hỏi gay gắt, cấp

bách của sự nghiệp đổi mới cũng như những nhiệm vụ to lớn, nặng nề mà thành phố

phải giải quyết, trong đó có những nhiệm vụ liên quan đến công tác xây dựng

HTCT, xây dựng đảng của đảng bộ. Từ đó, Đại hội đặt ra mục tiêu chung trong

công tác xây dựng đảng lúc này là phải xây dựng một Ðảng bộ có lập trường giai

cấp công nhân kiên định; triệt để cách mạng, thực sự gắn bó với quần chúng, lấy

dân làm gốc, sâu sát cơ sở, sâu sát thực tế, có đầu óc thực tiễn; gắn liền với việc xây

dựng nền văn hóa mới, con người mới trên cơ sở kết hợp đạo đức truyền thống dân

tộc và đạo đức xã hội chủ nghĩa; tương xứng với một trung tâm công nghiệp, khoa học kỹ thuật, giao lưu quốc tế của khu vực và phía nam Ðông Dương.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra những nội dung đổi mới HTCT với những chủ trương mới, sáng tạo như: thực hiện chế độ bãi miễn cán bộ; thừa nhận những mặt yếu kém và tiến tới hoàn thiện HTCT… Tuy một số nội dung đã được đề cập từ những Đại hội trước, nhưng lần này cách đặt vấn đề mới hơn, thực tế hơn như: chống tham nhũng, chống đặc quyền đặc lợi, đưa lên phương tiện thông tin đại chúng những vụ sai lầm về phẩm chất; tạo điều kiện để quần chúng tham gia xây dựng Đảng; thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”…

Trên cơ sở Nghị quyết Đại hội VI, ngày 12/9/1987, Bộ Chính trị đã ban hành

38

Nghị quyết 04-NQ/TW Về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến

đấu của tổ chức Đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội.

Tinh thần cơ bản của Nghị quyết là mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa xây dựng con

người mới, nếp sống mới xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, lập lại

kỷ cương trong Đảng và ngoài xã hội. Để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, các tổ chức Đảng phải được xây dựng trong sạch, vững mạnh, luôn giữ mối quan hệ máu

thịt giữa Đảng với dân. Cuộc vận động theo tinh thần Nghị quyết 04-NQ/TW của

Bộ Chính trị được tiến hành từ tháng 12/1987 đến hết quý I năm 1988.

Sau Nghị quyết 04-NQ/TW, Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục có Nghị

quyết số 05-NQ/HNTW Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng của Hội nghị

BCHTW lần thứ 5 (khóa VI). Căn cứ vào các nghị quyết của Trung ương, Ban

Thường vụ Thành ủy đã ban hành Kế hoạch 03-KH/TU ngày 24/2/1988 triển khai tổ chức thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TW của Bộ Chính trị. Kế hoạch 03-KH/TU

cũng nhấn mạnh đây là một cuộc vận động lớn, toàn diện, phạm vi rộng, tiến hành

trong một thời gian tương đối dài. Để triển khai cuộc vận động, Thành ủy chỉ đạo

các tổ chức đảng phải tiến hành một đợt tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng bộ

thành phố, tiếp đó tiến hành kiểm tra, phân tích chất lượng đảng viên. Theo yêu cầu

của Thành ủy, trong kiểm điểm, các tổ chức đảng có chú ý cả việc phê phán, xử lý

những đảng viên sai phạm với biểu dương, phát huy những đảng viên phấn đấu tốt.

Thông qua việc thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TW của Bộ Chính trị bằng Kế hoạch

03-KH/TU của Thành ủy, qua tự phê bình và phê bình, kiểm tra phân tích chất

lượng đảng viên và chất lượng cơ sở đảng nhìn chung các tổ chức đảng ở cơ sở, cấp

ủy và đội ngũ đảng viên của Đảng bộ thành phố được củng cố nâng cao một mức.

Tuy nhiên, theo đánh giá của Thành ủy thì nhiều tổ chức cơ sở đảng chưa phát huy

được vai trò hạt nhân lãnh đạo; sinh hoạt thiếu nội dung, kém chất lượng; không có

kế hoạch giáo dục và kiểm tra, quản lý đảng viên. Một số đảng viên đã thực sự tha hóa biến chất. Trước những khó khăn thử thách về kinh tế, chính trị trong nước và

thành phố, trước những biến động chính trị ban đầu ở một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô, nhiều tổ chức đảng, nhất là tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên đã bộc lộ những mặt yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu của một Đảng lãnh đạo (Phụ lục 1). Đánh giá này cho thấy việc nâng cao chất lượng xây dựng, chỉnh đốn đảng của Đảng bộ thành phố thật sự là một đòi hỏi cấp bách và mang tính quyết định để đáp ứng cho yêu cầu ngày càng cao của công cuộc Đổi mới.

Vào tháng 6/1990, Thành ủy đã ban hành tiếp Nghị quyết 11-NQ/TU Về củng cố một bước tổ chức đảng với nội dung: tiến hành một bước quan trọng củng cố tổ

chức đảng, đặc biệt là tổ chức cơ sở đảng, làm trong sạch và nâng cao sức chiến

39

đấu, nâng cao chất lượng đảng viên, đưa ra khỏi đảng một số đảng viên không còn

đủ tư cách, tăng cường đoàn kết nhất trí trong đảng, tăng cường mối quan hệ giữa

đảng và nhân dân. Đây là một Nghị quyết có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác

xây dựng đảng của đảng bộ thành phố trong những năm sau đổi mới. Thực hiện

Nghị quyết 11-NQ/TU, tính đến cuối năm 1991, qua phân loại chất lượng đảng viên của gần 1.500 đảng bộ, chi bộ cơ sở (chiếm 60% số cơ sở đảng) cho thấy: có

khoảng 35 – 40% đảng viên phấn đấu tốt, phát huy được vai trò tiền phong gương

mẫu và có tác dụng lãnh đạo, khoảng 50% đảng viên đủ tư cách nhưng còn một số mặt yếu như năng lực hạn chế, nhiệt tình giảm sút, hiệu quả công tác thấp, ít được

quần chúng tín nhiệm; từ 10% - 15% thuộc loại yếu kém cần xem xét tư cách đảng

viên, trong đó, tùy mức độ sai phạm phải thi hành kỷ luật từ khiển trách đến khai trừ

hoặc đưa ra khỏi Đảng [190]. Tính chung trong 5 năm (1986 – 1991), toàn đảng bộ đã xử lý bằng các hình thức kỷ luật 4.189 đảng viên (bằng 5,34% số đảng viên của

đảng bộ) trong đó cảnh cáo 1.168 (27,9%), cách chức 320 (7,6%), khai trừ 992

(23,7%) xoá tên 817 (19,5%). Như vậy số đưa ra khỏi đảng bằng hình thức khai trừ

và xoá tên là 1.809, bằng 2,3% số đảng viên của đảng bộ [190]. Việc thực hiện Nghị

quyết 11-NQ/TU của Thành ủy là một đợt sinh hoạt chính trị sâu, rộng trong toàn

đảng bộ, đặc biệt với điểm nhấn quan trọng là có sự tham gia ý kiến của quần chúng

cốt cán đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng của đảng bộ. Kết quả là đã chấn

chỉnh được một bước đội ngũ đảng viên, nâng cao được phẩm chất chính trị, phẩm

chất đạo đức, xử lý được những đảng viên thoái hóa, sai trái, vi phạm tư cách, xử lý

được các tồn đọng, loại ra khỏi đảng những người không còn xứng đáng. Qua đó,

đảng bộ thành phố đã củng cố được tổ chức, nâng cao được chất lượng đảng viên;

khẳng định được niềm tin của quần chúng, tạo tiền đề quan trọng để lãnh đạo sự

nghiệp Đổi mới.

Mặt hạn chế trong việc thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TU là: chưa làm cho đảng viên, kể cả một số cấp ủy cơ sở quán triệt sâu sắc chủ trương, mục đích, yêu cầu của

việc củng cố một bước tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, do vậy vẫn còn một bộ phận đảng viên chưa tự giác trong tự phê bình và phê bình, nể nang, né tránh, ngại đụng chạm trong phê bình, nhất là phê bình cấp lãnh đạo, một số cơ sở đảng thực hiện thiếu chặt chẽ, dễ dãi, qua loa, không phản ánh thực chất chất lượng đảng viên. Một trong những nguyên nhân là do tiêu chuẩn đánh giá chưa thật sát và cụ thể, nhất là giữa đảng viên đủ tư cách nhưng còn yếu một số mặt với đảng viên phải xem xét tư cách. Chưa gắn chặt chỉnh đốn đảng viên với đổi mới công tác cán bộ.

Tuy nhiên, nhìn chung việc thực hiện Nghị quyết 11-NQ/TU của Thành ủy đã

củng cố một bước tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đảng viên, tạo đà cho

40

cuộc vận động đổi mới và chỉnh đốn đảng toàn diện tiếp theo.

2.1.2.2. Xây dựng tổ chức đảng và công tác cán bộ Một phần quan trọng của đổi mới HTCT nói riêng thì việc kiện toàn tổ chức

bộ máy đảng của Đảng bộ thành phố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu

của đảng. Vì vậy, tháng 9/1988, Thành ủy ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VI) Về một số vấn đề cấp bách trong công tác

xây dựng đảng, trong đó đề ra yêu cầu phải nghiên cứu sắp xếp lại tổ chức bộ máy

đảng, chính quyền, đoàn thể từ thành phố đến cơ sở; củng cố Thành ủy và các ban của Thành ủy; kiện toàn UBND thành phố, sắp xếp lại các sở, ban, ủy ban thuộc

UBND, bộ máy quận, huyện và cơ sở nhằm tránh sự chồng chéo, trùng lắp trong

hoạt động. Để thực hiện chương trình hành động này, Ban Tổ chức Thành ủy đã xây

dựng kế hoạch kiện toàn tổ chức bộ máy, trình Ban Thường vụ Thành ủy thông qua, đồng thời lập một tổ nghiên cứu theo dõi việc kiện toàn tổ chức bộ máy do Trưởng

ban Tổ chức Thành ủy trực tiếp phụ trách. Kế hoạch này được tiến hành trong 2

năm 1988 – 1989. Qua tổ chức sắp xếp, đến năm 1990, cơ quan Thành ủy đã giảm

được 3 ban, cụ thể: nhập Ban Công nghiệp với Ban Kinh tế thành Ban Kinh tế

Thành ủy; nhập Ban Nông nghiệp vào Phân ban nông thôn; giải thể Ban Đối ngoại

Thành ủy, giao một phần nhiệm vụ về Sở Ngoại vụ, phần còn lại giao Văn phòng

Thành ủy đảm nhiệm. Ở cấp quận, huyện đã giảm được 2 ban là Ban Dân vận, Ban

Nội chính. Tuy nhiên, về tổng thể có thể nhận thấy, giai đoạn này công tác kiện toàn

tổ chức bộ máy của đảng bộ thành phố mới chỉ dừng ở mức sắp xếp tổ chức, thu

gọn đầu mối, giảm biên chế. Việc chuyển đổi sang cơ chế quản lý mới về kinh tế vì

thế vẫn còn khó khăn do việc phân định chức năng lãnh đạo của đảng và quản lý,

điều hành của nhà nước cũng như chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản

lý sản xuất kinh doanh của cơ sở còn chưa rõ ràng. Chức năng, nhiệm vụ của một số

tổ chức đảng chưa được phân định rõ; nội dung và phương thức lãnh đạo chưa đổi mới nên trong quan hệ làm việc giữa cấp ủy và chính quyền thường lúng túng, hoặc

bao biện làm thay, hoặc buông lơi sự lãnh đạo của cấp ủy. Nhiều cấp ủy sa vào sự vụ, chưa làm tốt chức năng kiểm tra, tổng kết. Các ban của Thành ủy có nhiều cố gắng làm tham mưu cho cấp ủy về công tác xây dựng đảng, nhưng còn nhiều mặt yếu; biên chế tuy có giảm nhưng vẫn còn cồng kềnh; trình độ, năng lực cán bộ lãnh đạo và đội ngũ chuyên viên không đều, chưa sâu sát cơ sở; có ban đảng chưa được kiện toàn, củng cố. Đây là những đòi hỏi cần phải được giải quyết trong những giai đoạn tiếp theo nhằm nâng cao một bước vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng thuộc Đảng bộ thành phố, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc Đổi mới.

Cùng với việc kiện toàn tổ chức đảng thì công tác cán bộ là vấn đề then chốt

41

mà đảng bộ thành phố phải đặc biệt quan tâm, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố

lần thứ IV (họp từ ngày 22 đến 30/10/1986) đã chỉ rõ: “Công tác tổ chức và cán bộ

có tiến bộ hơn so với trước, nhưng vẫn còn làm theo đường mòn, chậm đổi mới,

ứng phó nhất thời đối với từng nơi, từng lúc, chưa có quy hoạch cán bộ. Việc đào

tạo bồi dưỡng, bố trí cán bộ còn nhiều chắp vá, chất lượng, hiệu quả còn thấp, xử lý các vụ kỷ luật có trường hợp còn chưa nghiêm và kéo dài” [189]. Do vậy, một hệ

quả tất yếu là việc đề bạt, bố trí cán bộ thường bị động, chắp vá, có trường hợp còn

nặng về cơ cấu, không bảo đảm tiêu chuẩn; tình trạng “hụt hẫng” cán bộ vẫn chưa được khắc phục, chưa chuẩn bị tốt lực lượng kế cận, dự bị để thay thế số kém năng

lực, số nghỉ hưu và số vi phạm kỷ luật.

Từ thực tế này, ngày 25/7/1989, Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Chỉ thị

19-CT/TU Về quy hoạch và phân cấp quản lý cán bộ, trong đó yêu cầu yêu cầu đến cuối năm 1989, phải tiến hành quy hoạch cán bộ dự bị cho các chức danh lãnh đạo

chủ chốt của thành phố và quận - huyện; đồng thời chỉ đạo, hướng dẫn quận - huyện

và các ban, ngành quy hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý cơ sở, tập trung vào các cơ

sở quan trọng. Ban Tổ chức Thành ủy đã ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện

Chỉ thị 19-CT/TU kèm theo tiêu chuẩn cụ thể một số chức danh cán bộ lãnh đạo chủ

chốt cấp thành phố và quận, huyện. Ban Tổ chức cũng chọn 2 đơn vị làm thí điểm

(Quận 10 và Đảng bộ Xí nghiệp Liên hiệp Điện cơ thuộc Sở Công nghiệp) đồng

thời tổ chức phân tích, nhận xét cán bộ lãnh đạo chủ chốt 18 quận - huyện, các ban

ngành, sở, một số công ty trọng yếu trực thuộc UBND thành phố để phục vụ cho

công tác quy hoạch cán bộ và chuẩn bị nhân sự bổ sung Thành ủy trong Hội nghị

giữa nhiệm kỳ. Qua khảo sát, phân loại năm 1990, trong số cán bộ lãnh đạo và quản

lý diện Thành ủy quản lý (774 cán bộ) có 15% cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, có

triển vọng; 53% cán bộ đảm nhiệm được nhiệm vụ nhưng có một số mặt yếu về

trình độ năng lực phải tiếp tục bồi dưỡng nâng lên; 11% cán bộ yếu cả về năng lực và phẩm chất đạo đức cần phải thay; 17% cán bộ lớn tuổi, sức khỏe yếu, không thể

tiếp tục được công việc. Như vậy, trong số cán bộ lãnh đạo và quản lý thuộc diện Thành ủy quản lý có 28% cán bộ phải thay thế, tập trung nhiều nhất vào một số chánh, phó giám đốc sở, trưởng phó ban cấp thành phố và một số giám đốc đơn vị sản xuất kinh doanh, sự nghiệp… [13, tr.155]. Qua triển khai công tác quy hoạch cán bộ theo Chỉ thị 19-CT/TU, Thành ủy nhận thấy một số đảng bộ đã làm tốt, nhưng không kịp thời tổng kết để phát huy. Nhiều đơn vị triển khai chậm, không đạt yêu cầu (sau 3 năm thực hiện chỉ có 50% đơn vị triển khai khá, trong đó phần lớn là quận, huyện). Tuy nhiên, đây có thể xem như một sự đánh giá toàn diện, qua đó cho

thấy những hạn chế, yếu kém rất lớn đang tồn tại trong đội ngũ cán bộ chủ chốt, đòi

42

hỏi phải đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, nhất là công tác quy hoạch cán bộ.

Trong khi Việt Nam đang bước vào những năm đầu của sự nghiệp Đổi mới thì

tình hình thế giới có những biến động phức tạp, đặc biệt là sự sụp đổ của chế độ xã

hội chủ nghĩa tại Liên Xô và Đông Âu. Điều này làm cho tư tưởng của cán bộ, đảng

viên cũng như các tầng lớp nhân dân chuyển biến theo nhiều chiều hướng khác nhau. Trong bối cảnh đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng

sản Việt Nam (từ ngày 24 đến 27/6 /1991) vẫn xác định đổi mới HTCT giữ vai trò

rất quan trọng trong công cuộc đổi mới; không chấp nhận chế độ chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập; kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và quyết tâm thực hiện

những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội nhiều nước bị

khủng hoảng và sụp đổ. Đây là sự chọn lựa duy nhất đúng đắn có ý nghĩa đặc biệt

quan trọng về tư tưởng, chính trị và thực tiễn.

Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, trải qua 5 năm đầu đổi mới, theo đánh giá

của Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ V (từ ngày 22/10/1991 đến

26/10/1991), nhìn chung, bên cạnh những kết quả cơ bản làm được, công tác xây

dựng Đảng của Đảng bộ còn một số tồn tại chính là: chưa phát hiện và loại trừ được

phần tử cơ hội, tham nhũng trong hàng ngũ Đảng và Nhà nước; chưa chọn lựa, đào

tạo và bố trí được cán bộ chủ chốt có tầm cỡ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, tạo lại

lòng tin của quần chúng; nhiều cơ sở đảng thiếu gắn bó với quần chúng, chưa đủ

bản lĩnh, năng lực bảo đảm nhiệm vụ chính trị tại cơ sở… Trên cơ sở những tồn tại

đó, Đại hội khẳng định vấn đề có ý nghĩa quyết định là phải chỉnh đốn Đảng theo

tinh thần Nghị quyết Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam; khắc phục các mặt

yếu kém, nâng cao năng lực và sức chiến đấu, khôi phục uy tín của Đảng. Đảng bộ

xác định trong 5 năm tới, cần tập trung thực hiện 3 nhiệm vụ cụ thể là: xây dựng đội

ngũ đảng viên trong sạch về chính trị và phẩm chất, có năng lực lãnh đạo và sức

chiến đấu, tiếp tục quy hoạch cán bộ, đào tạo lại và đào tạo mới cán bộ; tập trung củng cố tổ chức cơ sở đảng.

Tháng 9/1992, Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Kế hoạch số 16/KH/TU Về tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) về đổi mới và chỉnh đốn đảng. Kế hoạch đã xác định bốn nội dung đổi mới và chỉnh đốn Đảng, bao gồm: đổi mới và chỉnh đốn tổ chức cơ sở đảng và chỉnh đốn đội ngũ đảng viên, trong đó có vấn đề sàng lọc đảng viên; đổi mới một bước công tác cán bộ, trong đó có vấn đề quy hoạch và đào tạo cán bộ; chỉnh đốn hệ thống tổ chức bộ máy đảng các cấp; tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng. Thành ủy cũng quyết định thành lập Ban chỉ đạo đổi mới và chỉnh đốn Đảng do đồng chí Bí thư Thành ủy phụ trách. Kế

hoạch cũng xác định thời gian thực hiện Chương trình hành động là từ năm 1992

43

đến năm 1995. Đồng thời với Kế hoạch số 16/KH/TU, trong cùng thời gian này,

Ban Thường vụ Thành ủy cũng ban hành Kế hoạch 21/KH-TU Về đổi mới và chỉnh

đốn đảng trong các doanh nghiệp trọng yếu của nhà nước và Hướng dẫn 05/HD-TU

Về tiến hành xem xét, phân loại, sàng lọc đảng viên. Theo đó, nội dung trọng tâm

của Hướng dẫn là yêu cầu các tổ chức đảng phân tích chất lượng đảng viên theo bốn loại, kèm theo chính sách xử lý đối với mỗi loại, gồm: đảng viên đủ tư cách, phấn

đấu tốt; đảng viên đủ tư cách nhưng còn yếu và hạn chế một số mặt; đảng viên vi

phạm tư cách, có những biếu hiện sai phạm cần kiểm điểm, xử lý kỷ luật, nhưng chưa đến mức đưa ra khỏi Đảng; đảng viên phạm những sai lầm khuyết điểm

nghiêm trọng, không còn đủ tư cách, phải đưa ra khỏi Đảng.

Vào quý 4 năm 1992, Ban Chỉ đạo đổi mới chỉnh đốn đảng của Thành ủy đã

chọn 5 đơn vị (1 phường, 1 xã, 3 doanh nghiệp nhà nước) làm thí điểm đồng thời chỉ đạo các quận, huyện và đảng ủy cấp trên cơ sở, mỗi đơn vị chọn một số cơ sở

làm thí điểm. Ban Tổ chức Thành ủy cũng đã cụ thể hoá các quy định của Trung

ương về chức năng, nhiệm vụ của một số loại hình cơ sở đảng như doanh nghiệp nhà

nước, phường, xã. Riêng phường, xã, Ban Tổ chức Thành ủy cụ thể hoá chức năng,

nhiệm vụ của chi bộ (bộ phận) khu phố, ấp. Đồng thời hướng dẫn quy trình đổi mới

và chỉnh đốn đảng ở đảng bộ, chi bộ cơ sở. Đến tháng 6 năm 1993, tổng cộng đã có

876 cơ sở đảng triển khai Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), chiếm 39% tổng số

cơ sở đảng. Đến cuối năm 1993, đã có 92,6% cơ sở đảng triển khai Nghị quyết Trung

ương 3 (khóa VII). Ban chỉ đạo Thành ủy cũng đã có chỉ đạo uốn nắn những nơi làm

lướt, làm chưa đạt yêu cầu [13, tr.169]. Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết sau

hơn 3 năm (từ quý IV năm 1992 đến năm 1995), có thể thấy những kết quả đạt được

đối với đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh là đã góp phần củng cố hơn nữa tổ chức cơ

sở đảng về vai trò lãnh đạo, chế độ sinh hoạt, quy chế hoạt động. Đã cơ bản khắc

phục tình trạng lỏng lẻo về tổ chức và sinh hoạt của một số tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Đối với đội ngũ đảng viên của đảng bộ thì việc thực hiện Nghị quyết

Trung ương 3 (khóa VII) đã trực tiếp củng cố sự thống nhất về chính trị và tư tưởng, niềm tin tuyệt đối với vai trò lãnh đạo của đảng, đường lối đối mới; nâng cao ý thức trách nhiệm của các cấp ủy và đảng viên đối với công tác xây dựng Đảng; khắc phục tình trạng mơ hồ, hoài nghi, thậm chí dao động, mất phương hướng trong một số cán bộ, đảng viên; khuynh hướng đa nguyên, đa đảng bị đẩy lùi.

Trong những năm này, với tình hình khó khăn của đất nước cũng như bối cảnh thế giới đã làm cho một bộ phận đảng viên giảm sút ý chí, đặc biệt có một số tổ chức đảng không chú trọng đến việc kết nạp đảng viên làm cho công tác phát triển

đảng bị ảnh hưởng (năm 1992, chỉ có 22,42% tổ chức cơ sở đảng của đảng bộ thành

44

phố phát triển được đảng viên mới). Đó là một thực tế không chỉ tại đảng bộ thành

phố mà còn là của toàn Đảng (năm 1991, số lượng đảng viên của Đảng là 2.155.022

đảng viên thì đến năm 1996 giảm xuống còn 2.130.000 đảng viên) [1]. Chính vì

vậy, khi có Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), nhiều cấp ủy đảng đã kiểm điểm

việc phát triển đảng và đưa công tác phát triển đảng vào chương trình hành động. Đối với Thành ủy, đầu năm 1995, Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Chỉ thị 15-

CT/TU Về mở đợt phát triển đảng viên mới nhân kỷ niệm 65 năm thành lập Đảng,

chia thành 4 đợt nhỏ (3/2; 19/5; 2/9; cuối năm 1995), trong đó Thành ủy chú trọng đến việc tăng tỷ lệ đảng viên nữ, đảng viên là công nhân trực tiếp sản xuất, sinh

viên, học sinh, quần chúng ở địa bàn dân cư, đồng bào có đạo, đồng bào người Hoa.

Từ đó làm cho công tác phát triển đảng năm 1995 được kết quả cao nhất kể từ năm

1989. Tổng cộng toàn đảng bộ đã phát triển được 3.544 đảng viên mới, tăng gấp hơn 3 lần năm 1992; gần gấp đôi năm 1994 [13, tr.174].

Năm 1993, sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 19-CT/TU của Thành ủy, công tác

quy hoạch cán bộ của đảng bộ thành phố đã đạt được những kết quả quan trọng,

nhất là ở khối quận - huyện. Thông qua rà soát, phân loại cán bộ chủ chốt (thường

vụ quận - huyện ủy) đã xác định được: 41,9% hoàn thành tốt nhiệm vụ (trong đó có

19,25% có triển vọng); 50,1% đảm đương được nhiệm vụ, nhưng còn một số mặt

yếu; 9% phải thay (do năng lực yếu, phạm một số khuyết điểm hoặc lớn tuổi). Đồng

thời, đã quy hoạch 1.467 đồng chí vào các chức danh chủ chốt quận - huyện; bình

quân mỗi quận, huyện có 29 cán bộ dự bị (nữ chiếm 21,93%); số đồng chí từ 40 tuổi

trở xuống chiếm gần 60% [13, tr.177]. Tháng 5/1994, Ban Thường vụ Thành ủy đã

thông qua Chương trình hành động số 18-CTR/TU Về công tác cán bộ nữ đồng thời

thành lập Tiểu ban công tác cán bộ nữ Thành ủy gồm đại diện một số ban, ngành,

đoàn thể thành phố. Việc ban hành Chương trình hành động số 18-CTR/TU đã góp

phần tạo ra những chuyển biến tích cực ở nhiều quận - huyện và một số ban, ngành cả về nhận thức, quan điểm và quy hoạch, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, thực hiện

chính sách, phát triển đảng viên nữ và sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong công tác cán bộ nữ. Năm 1994, số cán bộ nữ học tập lý luận chính trị ở Trường Đảng Nguyễn Văn Cừ, Trung tâm giáo dục chính trị thành phố, các Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện là 28,5%. Một số quận, huyện tỷ lệ cán bộ nữ được đào tạo cao hơn: Quận 5: 32,37%; Quận 6: 36,29%; huyện Thủ Đức: 39,44%. Tỷ lệ đảng viên nữ được kết nạp vào đảng mỗi năm đều tăng: năm 1992: 22,2%; năm 1993: 25,7%; năm 1994: 27,89%; năm 1995: 29,09%. [13, tr.179]

Mặt hạn chế trong công tác cán bộ của Đảng bộ thành phố lúc này là: đội ngũ

cán bộ thành phố tuy đông về số lượng, nhưng trước nhiệm vụ mới, ở nhiều cấp,

45

nhiều ngành, đã có tình trạng hụt hẫng, nhất là cán bộ quản lý nhà nước, quản lý kinh

tế, kinh tế đối ngoại, cán bộ pháp luật; cán bộ làm công tác đảng, đoàn thể gặp nhiều

khó khăn. Số đông cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp thành phố và một số quận, huyện

lớn tuổi, sức khoẻ hạn chế, đã nghỉ hưu hoặc sắp nghỉ hưu, nhưng nhiều nơi chưa

chuẩn bị lực lượng kế cận, gặp lúng túng trong thay thế. Cán bộ trẻ chưa được quy hoạch để đào tạo bồi dưỡng một cách căn cơ, đồng bộ, có nơi chưa mạnh dạn sử dụng

và phát huy cán bộ trẻ, cán bộ nữ. Tình hình trên theo đánh giá của đảng bộ thành phố

là do các cấp uỷ chưa đầu tư đúng mức cho công tác quy hoạch và đào tạo các loại cán bộ, chính sách, chế độ đãi ngộ còn chưa phù hợp nhưng chậm sửa đổi.

Tuy còn tồn tại những hạn chế, bất cập do mới thực hiện và ít kinh nghiệm

nhưng công tác cán bộ giai đoạn này đã có kết quả ban đầu là góp phần cung cấp

một số cán bộ chủ chốt cho các sở, ban ngành, quận - huyện, khắc phục được hạn chế của đội ngũ cán bộ quản lý lúc đó của thành phố. Đáng chú ý, đợt quy hoạch

cán bộ năm 1993 là đã tạo nên nền tảng cho quá trình quy hoạch cán bộ những năm

sau được tiến hành một cách đồng bộ và khoa học hơn. Đồng thời, qua đó cũng tạo

ra sự chuyển biến trong nhận thức của cấp ủy và chính quyền các cấp về tầm quan

trọng của công tác này đối với việc xây dựng HTCT nói chung.

2.1.2.3. Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng Ngoài những nội dung chỉ đạo về công tác chỉnh đốn tổ chức đảng và đảng

viên thì một trong những nội dung quan trọng được đề cập trong Nghị quyết số 03-

NQ/TW của Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) Về

một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng là vấn để đổi mới phương thức lãnh

đạo của Đảng. Nghị quyết đã định hướng cho sự đổi mới phương thức lãnh đạo của

đảng ở địa phương gồm bốn nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận và các đoàn thể

nhân dân.

Thứ hai, cải tiến việc ra các nghị quyết, quyết định của cấp uỷ

Thứ ba, thực hiện nghiêm túc các chế độ kiểm tra, bảo đảm thực hiện tốt các

nghị quyết của Đảng.

Thứ tư, cải tiến lề lối làm việc, giảm bớt các cuộc họp, dành thời gian đi

nghiên cứu, khảo sát thực tế; hướng mạnh về cơ sở, chỉ đạo tại chỗ.

Trên cơ sở các nhiệm vụ cụ thể như trên, Nghị quyết cũng đưa ra quan điểm mang tính định hướng là sự lãnh đạo của cấp uỷ đối với chính quyền cần dựa theo cách thức ở trung ương và có sự vận dụng thích hợp với đặc điểm của địa phương mình. Tuy trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ V (năm

46

1991) không đề cập trực tiếp đến những nội dung về đổi mới phương thức lãnh đạo

của đảng bộ nhưng những quan điểm của Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) cũng

đã được Đảng bộ quán triệt và triển khai trên những mặt cụ thể.

Qua việc triển khai quy chế hoạt động của các cấp ủy đảng, Thành ủy nhận

thấy “nhiều nơi quy chế còn chung chung, chưa làm đúng mức độ, phạm vi và mối quan hệ cụ thể giữa Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và hoạt động của các đoàn

thể. Có nơi cấp uỷ bàn quá sâu các công tác của chính quyền, không làm tốt nhiệm

vụ đi cơ sở, sơ kết tổng kết, rút kinh nghiệm, nhất là những khâu trọng tâm và địa bàn trọng yếu. Trái lại, có cấp uỷ lơi lỏng lãnh đạo, thiếu kiểm tra đối với chính

quyền, đoàn thể.” [191]

Về mặt tổ chức, để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo tinh thần

Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), việc thành lập, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng trong các cơ quan chính quyền, đoàn thể và

cơ sở là một nội dung quan trọng được các cấp ủy của thành phố triển khai một cách

có hệ thống trong giai đoạn này. Thành ủy đã ra quyết định thành lập Đảng đoàn

Hội đồng nhân dân, Đảng đoàn MTTQ và Ban cán sự đảng UBND Thành phố. Sự

ra đời các tổ chức đảng này là một bước cải tiến quan trọng trong đổi mới phương

thức lãnh đạo của Đảng. Từ những Nghị quyết của Thành ủy mà Đảng đoàn và Ban

cán sự đảng đã cụ thể hóa thành những nội dung lãnh đạo đối với HĐND, UBND

và MTTQ để những tổ chức này thể chế hóa thành các quy định, chính sách và kế

hoạch cụ thể. Như vậy, qua đó vừa tăng cường sự lãnh đạo trực tiếp của Thành ủy

với chính quyền và đoàn thể nhưng đồng thời cũng tạo ra sự độc lập tương đối trong

hoạt động của các tổ chức này; khắc phục được tình trạng bao biện, làm thay của

Đảng đối với chính quyền và đoàn thể như trước đây. Tuy nhiên, vì đây là một cách

thức tổ chức mới được thực hiện nên tuy Đảng đoàn và Ban cán sự Đảng đã bước

đầu phát huy được tác dụng trong lãnh đạo, nhưng còn lúng túng về nội dung và phương thức hoạt động; sinh hoạt thiếu thường xuyên.

Đối với các đảng ủy cơ sở, căn cứ vào Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII), Ban Tổ chức Thành ủy cũng đã cụ thể hoá các quy định của Trung ương về chức năng, nhiệm vụ của một số loại hình cơ sở đảng như doanh nghiệp nhà nước, phường xã. Thành ủy đã cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ của chi bộ (bộ phận) khu phố, ấp bằng Quy định số 83/QĐ-TU và 84/QĐ-TU năm 1993 Về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của chi bộ khu phố, chi bộ ấp. Việc thực hiện các quy định này đã giúp các chi bộ khu phố, ấp xác định được chức năng, nhiệm vụ cụ thể và nâng cao vai trò lãnh đạo của chi bộ khu phố trên địa bàn dân cư, nhất là trên lĩnh vực chăm lo và

cải thiện đời sống vật chất và văn hoá cùa nhân dân, giữ gìn trật tự trị an, xây dựng

47

đảng. Thông qua lãnh đạo các phong trào xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm,

phân công đảng viên làm công tác vận động quần chúng..., mối quan hệ giữa Đảng

với quần chúng ở cơ sở gắn bó hơn. Nhiều chi bộ khu phố, ấp đã phân công được

công tác cụ thể cho đảng viên; cải tiến và nâng cao chất lượng nội dung sinh hoạt

chi bộ, xây dựng mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Vai trò, vị trí của khu phố, ấp được các cấp uỷ cơ sở nhận thức đúng và quan tâm chỉ đạo sâu sát hơn so với trước

đây. Mặt hạn chế của tổ chức đảng ở phường, xã lúc này là chưa đủ sức lãnh đạo

thực hiện tốt lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn.

Một trong những nội dung quan trọng trong đổi mới phương thức lãnh đạo của

Đảng trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) là đổi mới việc ban hành nghị

quyết của các tổ chức đảng. Thực hiện chủ trương này, Thành uỷ và các cấp uỷ đã

đi xuống cơ sở, tổ chức nhiều đợt sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết trung ương 3 trong các năm 1993, 1994, 1995. Đối với việc ban hành nghị quyết, Thành

ủy đã cải tiến bằng việc xây dựng các chương trình hành động vừa cụ thể hoá nghị

quyết của Trung ương, vừa vạch được kế hoạch, biện pháp chỉ đạo thực hiện. Trên

cơ sở kiểm tra thực tế, Ban Thường vụ Thành ủy ra thông báo tiếp tục chỉ đạo thực

hiện các nghị quyết đã có, không ra nghị quyết mới; đề xuất kiến nghị với Trung

ương những vấn đề phát sinh mới. Các ban của Thành ủy tiếp tục sắp xếp, kiện

toàn. Nhiều ban đã làm tốt chức năng tham mưu, giúp Thành ủy trong quá trình

chuẩn bị ra các quyết định và kiểm tra việc thực hiện quyết định, nhưng thực chất

kết quả chưa cao, nhất là chưa tổ chức tổng kết thực tiễn và nghiên cứu những vấn

đề có tính chiến lược.

Để đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng thì việc tăng cường và đổi mới

công tác kiểm tra đảng cũng là một nhiệm vụ tất yếu. Đối với đảng bộ thành phố,

nhiệm vụ này càng trở nên quan trọng và cấp bách vì “Trong điều kiện và môi

trường mới, có một số cán bộ lãnh đạo và quản lý vi phạm khuyết điểm, phổ biến là về phẩm chất đạo đức: ăn nhậu, tiêu xài phung phí tiền của Nhà nước, tham ô hối lộ,

làm giàu bất chính, tha hoá về lối sống; một số cán bộ tính toán, thu vén cá nhân, kèn cựa địa vị, gây mất đoàn kết nội bộ... làm giảm uy tín Đảng và Nhà nước. Nguyên nhân là do bản thân số cán bộ, đảng viên này không tự giác tu dưỡng, không tự kềm chế trước những cám dỗ; bên cạnh đó cơ chế quản lý còn nhiều sơ hở; công tác quản lý cán bộ đảng viên, sinh hoạt đảng và đấu tranh xây dựng nội bộ ở nhiều nơi còn buông lỏng kéo dài.” [191]. Chính vì vậy qua 5 năm (1991 – 1996), công tác kiểm tra đảng đã được tăng cường hơn gắn với việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa VII). Uỷ ban Kiểm tra các cấp chú trọng bên cạnh thực

hiện nhiệm vụ kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên còn thực hiện chức năng giáo dục

48

nhằm ngăn ngừa cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước. Trong

nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ lần thứ V (1991 – 1995), qua công tác kiểm tra, toàn

đảng bộ đã xử lý bằng các hình thức “kỷ luật 2.738 đảng viên, tăng 285 trường hợp

so với nhiệm kỳ trước, trong đó khai trừ và xoá tên 2.487 trường hợp”[191]

Tuy có nhiều cố gắng của cơ quan kiểm tra các cấp nhưng thực chất tình hình vi phạm kỷ luật của đảng viên không giảm, tính chất lại phức tạp, có nơi vi phạm

tập thể. Trong số đảng viên bị kỷ luật một số có chức, có quyền hoặc ở các đơn vị

kinh tế; số bị xoá tên gấp hơn 2 lần số bị khai trừ (phần lớn là những đảng viên gặp nhiều khó khăn về đời sống việc làm nên bỏ sinh hoạt đảng). Hành vi vi phạm nhiều

nhất là về chính sách, chế độ quản lý kinh tế, nhà đất, cố ý làm trái, tham ô, hối lộ;

về phẩm chất, lối sống và nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng. Trong khi đó, công

tác kiểm tra chưa chủ động kiểm tra việc thực hiện nghị quyết đảng; việc kiểm tra ngăn ngừa vi phạm hiệu quả thấp; còn tình trạng xử lý chưa nghiêm, có vụ việc kéo

dài... Đôi ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra chưa đáp ứng yêu cầu về số lượng và

chất lượng, thiếu cán bộ chuyên trách ở các ban, ngành, sở, các đơn vị kinh tế lớn

và uỷ ban kiểm tra cơ sở. Đây là những hạn chế không nhỏ, đòi hỏi đảng bộ phải

khắc phục trong những năm tiếp theo nhằm đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng

theo đúng định hướng đã đề ra.

Như vậy, nội dung xuyên suốt và bao trùm công tác xây dựng đảng của Đảng

bộ thành phố trong suốt 10 năm đầu sau Đổi mới (1986 – 1996) là tiến hành các cuộc

vận động chỉnh đốn đảng theo tinh thần của các Nghị quyết Trung ương Khóa VI và

Khóa VII, cũng như các Nghị quyết triển khai của Thành ủy và Ban Thường vụ

Thành ủy về tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ cũng như đổi mới phương

thức lãnh đạo của đảng. Kết quả thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng của

đảng bộ thành phố giai đoạn này đã trực tiếp góp phần làm trong sạch bộ máy đảng

và đội ngũ đảng viên, củng cố được lập trường tư tưởng và phẩm chất đạo đức, loại bỏ được những đảng viên thoái hóa, biến chất để nâng cao được vai trò lãnh đạo và

uy tín của đảng bộ trước nhân dân thành phố. Đây là một nội dung đặc biệt quan trọng, tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện thành công đường lối đổi mới nói chung và đường lối về kinh tế nói riêng đối với Thành phố Hồ Chí Minh.

2.1.2.4. Tiếp tục thực hiện chỉnh đốn đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo

sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII

Từ ngày 28/6 đến ngày 1/7/1996 đã diễn ra Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Căn cứ Cương lĩnh của Đảng và tình hình thực tế, Đại hội VIII đề ra những định hướng chủ yếu tiếp tục thực hiện quá trình đổi

mới HTCT, trong đó nhấn mạnh: chính trị là lĩnh vực cực kỳ phức tạp; khi chưa

49

chuẩn bị được các tiền đề cần thiết mà đã vội vàng đẩy nhanh đổi mới chính trị và

đổi mới không đúng sẽ dẫn đến mất ổn định về chính trị, mà chính trị đã không ổn

định thì toàn bộ công cuộc đổi mới sẽ gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Trên cơ sở đó,

Đại hội cũng xác định 6 nhiệm vụ trung tâm đổi mới trong công tác xây dựng đảng

gồm: đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên và nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng; đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn

các cơ quan lãnh đạo và quản lý; đổi mới phong cách làm việc, giữ vững các

nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt trong Đảng; nâng cao chất lượng đảng viên, đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực; nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở; tăng

cường đoàn kết nhất trí trong Đảng.

Để triển khai những nhiệm vụ cụ thể của Đại hội VIII của Đảng, ngày

16/7/1998 Hội nghị lần thứ 5 BCHTW (khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết Về đấu tranh chống các quan điểm sai trái, bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ và đường lối của

Đảng. Trên cơ sở Nghị quyết này, tháng 10/1998, Bộ Chính trị ban hành Kế hoạch

01-KH/TW về sinh hoạt chính trị tự phê bình và phê bình theo tinh thần của Hội

nghị Trung ương 5 (khóa VIII) trong toàn đảng. Tiếp đó, Hội nghị lần thứ 6 (lần 2)

BCHTW Đảng (khoá VIII) đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW (ngày

02/02/1999) Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng đảng

hiện nay. Đến ngày 19/5/1999 Trung ương Đảng đã phát động Cuộc vận động xây

dựng chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị

Ban chấp hành Trung ương lần thứ 6 (khóa VIII) - lần 2. Đây là đợt tự phê bình và

phê bình sâu rộng nhất từ trước đến lúc này.

Sau 10 năm tiến hành đổi mới theo đường lối của Đảng và thực tiễn thành phố,

về tổng thể, Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu quan trọng trên

nhiều mặt, nhất là về kinh tế. Cụ thể, từ năm 1991 đến 1995, “tổng sản phẩm nội địa

(GDP) tăng liên tục và tương đối đều đặn, bình quân 12,6%/năm, chiếm 17% trong GDP cả nước. GDP bình quân đầu người từ 644 USD năm 1991, tăng lên 912 USD

năm 1995. Bình quân hàng năm, khu vực công nghiệp tăng 16,8%; khu vực dịch vụ tăng 10,1%; khu vực nông nghiệp tăng 4,7%. Mức tăng trưởng trên là cơ sở tăng thu ngân sách trên địa bàn, đóng góp nhiều hơn cho ngân sách quốc gia, bước đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế.”[191]. Từ những kết quả về phát triển kinh tế mà các lĩnh vực khác như cơ sở hạ tầng, văn hoá xã hội, khoa học – công nghệ, giáo dục đào tạo, quốc phòng – an ninh đều tăng cường và phát triển. Đạt được điều này chính là nhờ những sự đổi mới phù hợp của HTCT mà then chốt hàng đầu là từ những kết quả của công tác xây dựng đảng. Tuy nhiên, trong điều kiện mới và so

với nguồn lực, điều kiện mà thành phố đang có thì những kết quả như trên còn

50

nhiều hạn chế mà theo Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ VI (tháng

5/1996) đánh giá: “kinh tế tăng trưởng chưa thật vững chắc và chưa tương xứng với

tiềm năng của thành phố; thiết bị công nghệ còn lạc hậu; thị trường vốn chưa đáp

ứng yêu cầu; khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập còn yếu, hiệu quả kinh tế

chưa cao; cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Về mặt xã hội, sự phân hoá giàu – nghèo ngày càng rộng, tệ nạn xã hội vẫn chưa giảm, nhất là nạn mại dâm, ma tuý biến

tướng dưới nhiều hình thức tinh vi, phức tạp hơn….”[191] Bên cạnh đó, hoạt động

của HTCT thành phố tuy đã có nhiều đổi mới phù hợp và đúng hướng nhưng vẫn còn nhiều hạn chế cần phải tiếp tục khắc phục. Trong đó, quan trọng nhất là những tồn tại

trong công tác xây dựng đảng trên các mặt như: tình hình tư tưởng đảng viên, công

tác cán bộ, công tác kiểm tra đảng, tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức lãnh đạo.

Để khắc phục những hạn chế, tồn tại này, góp phần thúc đẩy đổi, phát triển trên địa bàn thành phố, công tác xây dựng đảng được Đảng bộ xác định là nhiệm vụ then

chốt. Phương hướng chung về xây dựng đảng được Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành

phố lần thứ VI (tháng 5/1996) chỉ rõ: “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 3

về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên

phong của Đảng; xây dựng Đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,

trong sạch về phẩm chất đạo đức, đoàn kết thống nhất nội bộ và gắn bó mật thiết với

nhân dân,... [191]. Đặc biệt, Đảng bộ cho rằng cần phải đi sâu đột phá về công tác

xây dựng đảng đối với các Đảng bộ hành chính, sự nghiệp, doanh nghiệp, tổ chức

đảng ở cơ sở ngoài quốc doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, để xây dựng

phương thức lãnh đạo có hiệu quả ở các loại hình tổ chức này.

Ngày 5/12/1998, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Kế hoạch số

33-KH/TU hướng dẫn kiểm điểm, tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng bộ, nội

dung tập trung vào những vấn đề về tư tưởng chính trị; đạo đức lối sống; trách

nhiệm đối với nhiệm vụ được phân công. Thành ủy cũng đã thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Kế hoạch số 33-KH/TU do đồng chí Bí thư Thành ủy làm Trưởng ban

cùng 10 tổ công tác do các Ủy viên Thường vụ Thành ủy làm tổ trưởng để giúp Thành ủy theo dõi, chỉ đạo việc kiểm điểm các cấp ủy và cán bộ đảng viên. Việc kiểm điểm tiến hành với cả đội ngũ đảng viên và cơ sở đảng và được thực hiện từng bước. Trước tiên là tiến hành kiểm điểm với Ban Thường vụ Thành ủy và 12 ủy viên Thường vụ Thành ủy (thực hiện xong vào tháng 10/1999). Sau đó, Thành ủy tiến hành kiểm điểm đối với cấp ủy cơ sở và đảng viên (thực hiện xong vào tháng 11/1999). Qua kiểm điểm bằng tiêu chí mới theo hai mức là đảng viên đủ tư cách và đảng viên vi phạm tư cách (theo Hướng dẫn 08-HD/TC tháng 9/1999 của Ban Tổ

chức Thành ủy về phân tích chất lượng đảng viên), toàn đảng bộ đã phân loại một

51

cách cụ thể về chất lượng đảng viên và tổ chức đảng. Cụ thể năm 1999 có 98,84%

đảng viên đủ tư cách, 1,16% đảng viên vi phạm tư cách, đã xử lý bằng các hình

thức. Năm 2001 có 98,57% đảng viên đủ tư cách, trong đó có 20,83% đảng viên

được biểu dương ở cơ sở; 1,36% đảng viên vi phạm tư cách, trong đó có 0,58%

trường họp không đủ tư cách phải đưa ra khỏi Đảng. Đối với tổ chức đảng, năm 1999, các đảng bộ thuộc Đảng bộ thành phố đã xem xét, phân tích chất lượng

2.341/2.402 cơ sở đảng (97,46% số cơ sở đảng), với kết quả có 59,41% cơ sở đảng

trong sạch, vững mạnh; 37% cơ sở đảng khá; 3,54%. cơ sở đảng yếu kém [13, tr.193]. Nhìn chung, việc thực hiện kiểm điểm theo Kế hoạch số 33-KH/TU của

Thành ủy là nội dung quan trọng trong công tác xây dựng đảng của Đảng bộ thành

phố trong 5 năm (1996 – 2001). Với tinh thần nghiêm túc, khoa học, cuộc kiểm

điểm đã tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức về những nguy cơ làm suy yếu Đảng, để từ đó mỗi đảng viên phấn đấu góp phần khắc phục, mỗi tổ chức đảng

tự chỉnh đốn và đổi mới cho phù hợp với nhiệm vụ lãnh đạo tại đơn vị (Phụ lục 2).

Đồng thời, qua kiểm điểm cũng đã cảnh báo cho nhiều cán bộ, đảng viên về đạo

đức, lối sống, tinh thần trách nhiệm, được số đông tiếp thu phê bình tốt, có ý thức

khắc phục thiếu sót, hạn chế của bản thân. Tuy vậy, trong đợt kiểm điểm này một số

hạn chế vẫn chưa được khắc phục triệt để như kiểm điểm chung chung, thiếu đi sâu

phân tích nguyên nhân, làm rõ trách nhiệm, vẫn còn tình trạng nể nang, ngại đụng

chạm, không dám thẳng thắn phê bình những sai sót của cấp trên hoặc đồng cấp.

Để tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng, ngày 16/8/1999, Hội nghị lần thứ 7

BCHTW Đảng (khoá VIII) đã Nghị quyết số 13-NQ/TW Một số vấn đề về tổ chức,

bộ máy của HTCT và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước. Triển

khai thực hiện Nghị quyết của Hội nghị là bước phát triển mới của quá trình tiến

hành đổi mới HTCT ở Việt Nam từ sau Đại hội VI của Đảng đến lúc này. Trên cơ

sở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa VIII), Hội nghị Thành ủy lần thứ 14 (tháng 11/1999) đã thông qua 7 đề án về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy các ban

đảng và HTCT, trong đó liên quan đến bộ máy đảng có các đề án: kiện toàn tổ chức, bộ máy Thành ủy, Quận, Huyện ủy; tổ chức đảng cấp trên cơ sở khối ban, ngành, sở thành phố; tổ chức đảng cấp trên cơ sở khối Trung ương. Qua việc thực hiện các đề án này, đến cuối năm 2000, số đầu mối đảng bộ cấp trên cơ sở trực thuộc Thành ủy giảm từ 63 còn 59, đảng bộ cơ sở trực thuộc Thành ủy từ 3 còn 2 đảng bộ (Khu chế xuất và Công nghiệp tập trung; Khối Dầu khí) [13, tr.197]. Đối với tổ chức bộ máy các Ban Thành ủy, Quận, Huyện ủy, Thành ủy đã hợp nhất Ban Kinh tế Thành ủy vào Viện Kinh tế thành phố; sáp nhập Ban Bảo vệ chính trị nội bộ quận, huyện ủy

52

vào Ban Tổ chức Quận - Huyện ủy và Ban, Tổ bảo vệ chính trị nội bộ vào Ban Tổ

chức Đảng bộ cấp trên cơ sở khối và cơ sở trực thuộc Thành ủy. Chính vì vậy đã góp

phần giảm số Ban của Thành ủy từ 16 Ban xuống còn 12 Ban, đơn vị sự nghiệp.

Cùng với đó, Ban Thường vụ Thành uỷ cũng đã có văn bản hướng dẫn thực

hiện các quy định của Ban Bí thư về chức năng nhiệm vụ của các loại hình cơ sở Đảng; ban hành quy định về tổ chức đảng ở các đơn vị kinh tế có vốn đầu tư nước

ngoài, về tổ chức đảng ở chi bộ đường phố, ấp, từ đó nhiều tổ chức cơ sở đảng được

củng cố và bước đầu nâng cao vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Đặc biệt với Quy định của Thành uỷ về chức năng, nhiệm vụ của các chi bộ đường phố, chi bộ

ấp đã giúp nâng cao vai trò, trách nhiệm lãnh đạo chăm lo đời sống quần chúng lao

động, xây dựng nền nếp và cải tiến nội dung sinh hoạt chi bộ, tổ đảng, tăng cường

quản lý đảng viên. Thông qua lãnh đạo các phong trào xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, phân công đảng viên làm công tác vận động quần chúng..., mối quan hệ

giữa Đảng với quần chúng ở cơ sở gắn bó hơn. Vai trò, vị trí của khu phố, ấp được

các cấp uỷ cơ sở nhận thức đúng và quan tâm chỉ đạo. Tuy vậy, những hạn chế của

các loại hình cơ sở đảng, tổ chức chi bộ ở đường phố, ấp vẫn chậm được khắc phục.

Giai đoạn từ năm 1996 đến 2000 là giai đoạn mà Đảng bộ thành phố chú trọng

công tác cán bộ, tạo nhiều chuyển biến tích cực và hiệu quả ở cả việc quy hoạch cán

bộ cũng như công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Sau Đại hội Đảng bộ thành phố

lần thứ VI, Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TU ngày

22/1/1997 Về quy hoạch và đào tạo cán bộ. Đây là một Nghị quyết chuyên đề quan

trọng về công tác cán bộ, đề cập chủ yếu công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ, một

khâu mấu chốt của công tác cán bộ. Nghị quyết này có một vấn đề mới là xác định

rõ mục tiêu và nội dung quy hoạch đào tạo cán bộ dài hạn, cán bộ dự bị sau năm

2000. Trên cơ sở đó, Thành ủy đã ban hành Kế hoạch 09-KH/TU chỉ đạo các cấp ủy

tổ chức thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TU. Ban Thường vụ Thành ủy cũng ra Quyết định thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 13-NQ/TU. Ban chỉ đạo quy hoạch

cán bộ Thành ủy ban hành Chương trình công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ theo Nghị quyết 13-NQ/TU đến năm 2000. Đến tháng 6/1997, Hội nghị lần thứ 3 BCHTW (khóa VIII) đã ban hành Nghị quyết Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Thành ủy đã xây dựng Chương trình hành động số 10-CTr/TU thực hiện Nghị quyết trên và Nghị quyết số 13-NQ/TU của Thành ủy Về quy hoạch và đào tạo cán bộ. Chương trình gồm 10 điểm với các nội dung: quy hoạch đào tạo, quản lý cán bộ, kiểm tra công tác cán bộ, bổ nhiệm cán bộ có thời hạn, chính sách đào tạo, sử dụng cán bộ, đổi mới, chỉnh đốn cơ quan

tổ chức làm công tác cán bộ… Bắt đầu từ quý II năm 1997, Thành phố Hồ Chí

53

Minh bắt đầu triển khai quy hoạch cán bộ dự bị và cán bộ đương nhiệm thuộc diện

Thành ủy quản lý. Từ việc phân tích kết quả ở 17 quận - huyện, đã đưa vào danh

sách cán bộ dự bị cho 10 chức danh với số lượng cán bộ là 339 đồng chí (trung bình

mỗi quận - huyện có 19 cán bộ dự bị (30% là nữ), với độ tuổi bình quân là 43,5

tuổi. Đối với các ban, ngành, sở: phân tích kết quả ở 29/42 đơn vị đã làm xong vào năm 2000, đưa vào danh sách cán bộ dự bị là 215 cán bộ (25,6% là nữ) [13, tr.185].

Kết quả trực tiếp của việc quy hoạch cán bộ đã phục vụ tốt cho việc chuẩn bị nhân

sự HĐND và UBND thành phố và quận - huyện nhiệm kỳ 1999 – 2004 và Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VII.

Ngày 3/5/1999 Bộ Chính trị đã ban hành các Quy chế đánh giá cán bộ; Quy

chế bổ nhiệm cán bộ; Quy chế kiểm tra cán bộ và công tác cán bộ; Quy định về giải

quyết tố cáo đối với cán bộ; Quy định về phân cấp quản lý cán bộ. Đây là những nội dung rất quan trọng, thể chế hóa công tác cán bộ của Đảng trong thời kỳ đổi mới,

một biểu hiện sinh động của quá trình tiến hành đổi mới HTCT. Từ các quan điểm

đổi mới của Đảng về công tác cán bộ, Thành phố cũng đã có những sự vận dụng

phù hợp trong điều kiện thực tiễn mà điển hình nhất trong giai đoạn này là việc lần

đầu Thành ủy tiến hành thí điểm công tác quy hoạch cán bộ dài hạn. Trong ba năm

(từ 1998 đến 2000), đã tiến hành thí điểm ở một số quận - huyện, sở, ngành, đoàn

thể, doanh nghiệp, trường học và đã xét chọn được 554 học sinh, sinh viên ưu tú,

cán bộ công chức trẻ, công nhân để bố trí về công tác tập sự ở một số đơn vị và có

chương trình đào tạo tiếp một số theo yêu cầu công tác. Công việc này là một nội

dung mới trong công tác cán bộ của thành phố nên phải vừa làm vừa rút kinh

nghiệm, còn nhiều lúng túng, đặc biệt là ở định hướng và phương pháp. Đối với

công tác bố trí, bổ nhiệm và luân chuyển cán bộ, từ năm 1997 đến 2000, Ban

Thường vụ Thành ủy đã điều động, luân chuyển, sắp xếp, bố trí 220 cán bộ từ quận,

huyện về sở, ngành thành phố và ngược lại. Tuy đã có nhiều thay đổi so với các năm trước nhưng công tác quy hoạch cán bộ được tiến hành như trên mới chỉ đáp

ứng được yêu cầu trước mắt; việc tạo nguồn quy hoạch cán bộ dài hạn còn nhiều khó khăn. Vẫn còn một tỷ lệ nhất định số cán bộ được quy hoạch chưa đạt yêu cầu, do đối tượng quy hoạch còn hạn h p, chỉ xoay quanh những “cấp phó”; trong cấp ủy còn tình trạng nể nang, ngại đụng chạm, thiếu trách nhiệm và chưa thẳng thắn phát biểu chính kiến; tư tưởng “sống lâu lên lão làng” còn nặng. Việc quy hoạch cán bộ ở cơ sở, nhất là quy hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý doanh nghiệp nhà nước có nhu cầu bức bách nhưng do chỉ đạo thiếu kiên quyết và cụ thể, do vậy đã không thực hiện được [13, tr.186]

Từ tất cả những mặt như trên, có thể nhận thấy những kết quả trong đổi mới

54

nội dung và phương thức hoạt động của Đảng bộ thành phố trong 5 năm (1996 –

2000) là rất quan trọng, góp phần trực tiếp vào sự phát triển mọi mặt của Thành

phố. Đánh giá một cách tổng quát, Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ VII

(tháng 12/2000) đã chỉ rõ những kết quả cơ bản là: Đảng bộ đã có trên 50% tổ chức

cơ sở trong sạch vững mạnh, với nhiều điển hình tốt trong thực hiện vai trò lãnh đạo chính trị, chuyên môn, vận động quần chúng. Trong doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân trong nước, trường đại học dân lập… hầu hết đều

có tổ chức Công đoàn; một số đã có cơ sở Đảng, Đoàn Thanh niên Cộng sản. Công tác phát triển đảng viên mới được chú trọng thường xuyên. Số đảng viên trẻ, đảng

viên là công nhân trực tiếp sản xuất, đảng viên có trình độ học vấn và trình độ khoa

học kỹ thuật cao đều tăng. Công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ đạt được kết quả

bước đầu. Các cấp ủy, ban, ngành đã chú trọng công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ; coi trọng chất lượng chính trị, đạo đức, năng lực thực tiễn của cán bộ khi đưa

vào qui hoạch, và đã có được một số kinh nghiệm cụ thể. Cùng với việc quy hoạch

cán bộ dự bị trực tiếp, trước mắt, đã chú ý việc quy hoạch tạo nguồn cán bộ cho lâu

dài trong công nhân, viên chức trẻ và trong sinh viên học sinh ưu tú. Công tác bảo

vệ chính trị nội bộ đã đáp ứng tốt hơn cho yêu cầu xây dựng Đảng. Hoạt động kiểm

tra, thanh tra được tăng cường, đã xử lý nghiêm và kịp thời những cá nhân và tổ

chức vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước.

Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy rằng, công tác xây dựng đảng nhất là việc

chỉnh đốn đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ thành phố còn rất

nhiều hạn chế cần phải khắc phục bằng những nhiệm vụ, giải pháp mang tính hệ

thống và đồng bộ. Cụ thể là: tổ chức cơ sở đảng trong một số cơ quan, xí nghiệp,

trường học, sự nghiệp chưa thể hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo, hoạt động còn

sự vụ, hình thức. Đây là giai đoạn ở thành phố xảy ra những vụ án kinh tế lớn, chấn

động dư luận như: Công ty xuất nhập khẩu Tân Bình (TAMEXCO), EPCO – Minh Phụng, Tân Trường Sanh, trong đó có sự liên quan của một số cán bộ, đảng viên với

hành vi nhận hối lộ. Qua những vụ án kinh tế lớn này cho thấy, tổ chức cơ sở đảng ở đó bị vô hiệu hoá, đảng viên bị thoái hoá, biến chất nghiêm trọng; một bộ phận đảng viên suy thoái đạo đức, phai nhạt lý tưởng, trong đó có một số sống quan cách, cửa quyền, ức hiếp dân; công tác giáo dục và tự giáo dục về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống cách mạng trong đảng viên chưa được chú ý đúng mức; tổ chức đảng cấp trên cơ sở của ngành, khối (thành phố, trung ương) còn bất hợp lý, hiệu quả lãnh đạo hạn chế. Nhiều nơi nhận thức chưa đúng mức vai trò lãnh đạo của Đảng, xem nh công tác xây dựng đảng; ý thức chính trị của một số cán bộ quản lý đứng

55

đầu còn mờ nhạt; cán bộ chuyên trách công tác đảng còn thiếu và yếu.

Những hạn chế, yếu kém trên cho thấy, công tác quy hoạch cán bộ chất lượng

còn thấp; chưa có cách phát triển đúng và mạnh dạn tiến cử những người có tài, có

đức. Một bộ phận cán bộ có chức, có quyền vi phạm pháp luật nghiêm trọng (điển

hình như vụ án buôn lậu xảy ra tại Công ty Tân Trường Sanh năm 1999 đã có 32 cán bộ điều tra, hải quan và cảnh sát bị xét xử về hành vi nhận hối lộ) – hàng ngàn

cán bộ bị xử lý kỷ luật, trong đó có hàng trăm bị phạt tù, nhiều người bị xử với mức

án cao - chứng tỏ công tác quản lý, giáo dục cán bộ còn khuyết điểm nghiêm trọng

2.1.3. Kiện toàn tổ chức, đổi mới hoạt động của hệ thống chính quyền 2.1.3.1. Kiện toàn tổ chức hoạt động của UBND Thành phố Giai đoạn trước đổi mới, trên cơ sở quan điểm phát triển nền kinh tế kế hoạch

hóa tập trung, quan liêu, bao cấp nên một thực trạng chung trong việc xây dựng nhà nước và pháp luật ở Việt Nam là còn có nhiều hạn chế, bất cập. Hệ thống pháp luật

chưa có sự hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch và khả thi; chưa

đáp ứng đầy đủ yêu cầu quản lý đất nước bằng pháp luật; nhiều lĩnh vực bức xúc

của đời sống xã hội vẫn chưa được pháp luật điều chỉnh. Tình trạng bao biện, làm

thay của đảng đối với nhà nước vẫn còn, chưa minh định rõ sự quản lý của nhà

nước trên thực tế, khiến nhà nước bị hình thức hóa. Trong cơ chế đó, bộ máy chính

quyền các cấp của Thành phố Hồ Chí Minh tuy đã trải qua nhiều lần củng cố và có

bước trưởng thành trong việc quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội,

chăm lo đời sống quần chúng trên địa bàn, nhưng bộ máy từ trên xuống dưới còn

quá cồng kềnh, trùng lắp, chưa phân định rõ giữa chức năng quản lý hành chính -

kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động của các cơ

quan nhà nước, còn có nhiều thủ tục rườm rà, hoạt động thiếu đồng bộ, chồng chép

nhau, gây phiền hà trong nhân dân và ách tắc trong sản xuất, lưu thông. Bộ máy

chính quyền chưa thể chế hóa kịp thời và tổ chức thực hiện có hiệu quả một số chủ trương của Thành ủy. Việc phân công phân cấp trong hệ thống chính quyền chưa

thực hiện triệt để nhằm phát huy đúng mức tiềm năng của cơ sở, đồng thời các ngành chức năng cũng thiếu hướng dẫn, kiểm tra chặt chẽ để gây ra tình trạng phân tán và tùy tiện ở bên dưới.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986) khởi xướng đường lối đổi mới và chủ trương thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng: “Xây dựng và thực hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp” [37;tr.118], với bộ máy nhà nước thống nhất từ trung ương

đến cơ sở. Nhà nước được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ, trong đó

56

phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn và nhiệm vụ của từng cấp; phân biệt rõ chức

năng quản lý hành chính – kinh tế với sản xuất – kinh doanh, kết hợp quản lý theo

ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ.

Quán triệt tinh thần đổi mới HTCT, kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực của

bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ kinh tế xã hội, trong 2 năm 1987 – 1998, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng tập trung chỉ đạo, các tỉnh,

thành ủy xây dựng và triển khai phương án kiện toàn tổ chức, giảm nh biên chế.

Theo tinh thần này, Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ IV (từ ngày 22 đến ngày 30/10/1986) cũng đã xác định những nội dung cơ bản của

việc đổi mới hệ thống chính quyền thành phố là:

Thứ nhất, bộ máy chính quyền các cấp phải gọn nh , mọi hoạt động của chính

quyền phải xuất phát từ quyền lợi của nhân dân, khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng.

Thứ hai, thực hiện đầy đủ chức năng quản lý của Nhà nước theo nguyên tắc

“Ðảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, chính quyền quản lý”, xây dựng chế độ việc làm

theo pháp luật, chấm dứt tình trạng tùy tiện tự đề ra quy định trái với pháp luật.

Thứ ba, tiếp tục thực hiện và hoàn chỉnh việc phân công, phân cấp toàn diện

cho quận huyện và cơ sở. Phân định rõ chức năng quản lý hành chính - kinh tế của

các cơ quan nhà nước và chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh của các tổ chức,

đơn vị kinh tế, sắp xếp lại bộ máy, tinh giản lực lượng gián tiếp, giảm bớt các tầng

nấc trung gian.

Trên cơ sở những chủ trương chung của Trung ương và của Đảng bộ thành

phố, tháng 9 năm 1988, thực hiện chương trình hành động Về kiện toàn tổ chức,

nâng cao hiệu lực của bộ máy đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ kinh tế, xã hội, UBND

thành phố đã sắp xếp lại các sở, ban, ngành, bộ máy quận - huyện và cơ sở. Việc

kiện toàn được tiến hành trong 2 năm 1988 – 1989. Đến năm 1991, để kiện toàn tổ chức và hoạt động của UBND thành phố, trên tinh thần tiếp tục cải cách bộ máy

đồng thời với việc thực hiện Quyết định 111/HĐBT ngày 12/4/1991 của Hội đồng Bộ trưởng Về một số chính sách trong việc sắp xếp biên chế, UBND thành phố đã tiến hành xác định, sắp xếp và phân loại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố thành 3 loại:

Thứ nhất, là cơ quan nghiệp vụ giúp việc do UBND thành phố thành lập khi có yêu cầu và giải thể khi không cần thiết và các cơ quan này không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Trong giai đoạn này, loại cơ quan này có 7 đơn vị.

Thứ hai, là các cơ quan chuyên môn giúp việc UBND thành phố, được UBND

57

thành phố ủy quyền thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước theo ngành,

lĩnh vực. Các cơ quan này nằm trong hệ thống cơ quan quản lý hành chính nhà nước

do Hội đồng Bộ trưởng quyết định chấp thuận cho thành lập hay giải thể. Để tránh

trùng lắp, chồng chéo trong việc thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước,

UBND thành phố đã tổ chức sáp nhập một số đơn vị. Đồng thời, thành phố cũng khẳng định một số đơn vị chỉ làm sản xuất kinh doanh, không làm chức năng quản lý

nhà nước như việc chuyển Sở Ăn uống Khách sạn thành Liên hiệp nhà hàng khách

sạn, sau đó giao Liên hiệp này cho Công ty Du lịch thành phố quản lý. Chính vì vậy, các cơ quan chuyên môn loại này đã giảm được 9 đơn vị xuống còn 24 đơn vị.

Thứ ba, các cơ quan thuộc ngành dọc trung ương nằm trên địa bàn thành phố,

mang tên thành phố, do ngành trung ương ra quyết định thành lập như: Bộ Chỉ huy

Quân sự thành phố, Công an thành phố, Hải quan thành phố… Loại cơ quan này có 09 đơn vị.

Việc sắp xếp lại hoạt động của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành

phố như trên đã góp phần giảm được 16,6% ban, sở; giảm 29,8% phòng, ban (thuộc

Sở); giảm 36% biên chế [13, tr.158]. Bên cạnh việc sắp xếp lại các cơ quan chuyên

môn, đây cũng là giai đoạn mà thành phố đã có nhiều cố gắng và quyết tâm tách

chức năng quản lý sản xuất - kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý hành chính nhà

nước đối với các sở và quận-huyện. Tiến hành sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp và

đơn vị sản xuất kinh doanh theo Chỉ thị 500/TTg của Thủ tướng Chính phủ; thành

lập doanh nghiệp hoạt động công ích theo Nghị định 56 của Chính phủ; tiến hành cổ

phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Tuy vậy, theo đánh giá chung thì đa số sở, ngành

vẫn còn bị hút vào việc chỉ đạo trực tiếp các cơ sở kinh tế quốc doanh, xem nh

quản lý nhà nước vì chưa giải quyết đồng bộ các mặt phân công, phân cấp quản lý,

vấn đề kế hoạch, tài chính, ngân sách…

2.1.3.2. Sắp xếp tổ chức bộ máy UBND quận, huyện và phường, xã; nâng cao

chất lượng hoạt động của HĐND các cấp

Sau những năm đầu đổi mới, Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, vì vậy đến ngày 15/4/1992, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp mới 1992. Thực hiện Hiến pháp mới, ngày 21/6/1994, Quốc hội thông qua Luật tổ chức HĐND và UBND mới thay thế cho Luật tổ chức HĐND và UBND ban hành ngày 30/6/1989. Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng cho quá trình đổi mới hoạt động của hệ thống chính quyền tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn này.

Trên cơ sở của Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994, thành phố đã tiến

hành sắp xếp lại tổ chức, biên chế cấp xã, phường theo Quyết định số 231/QĐ-UB

58

ngày 24/7/1991 và Quyết định số 1852/QĐ-UB ngày 10/12/1993. Trước đó, biên

chế của 282 phường- xã, thị trấn có 8.460 người, bình quân 30 người/phường-xã; về

tổ chức có Văn phòng UBND và 12 Ban trực thuộc. Sau khi sắp xếp đến năm 2000,

có 303 phường-xã, thị trấn hiện với 6.352 biên chế (giảm 2.108 biên chế), bình quân

có 21 công chức/phường-xã, so với định biên theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ, biên chế còn thấp hơn 2,80%; về tổ chức thì còn

lại 3 Ban là : Công an, Quân sự và Ban Tài chính. Cấp quận, huyện cũng được sắp

xếp lại cơ cấu, bộ máy theo tinh thần: “Khẩn trương cải tiến tổ chức, sắp xếp lại bộ máy hành chính, xác định nội dung hoạt động theo hướng tinh gọn, tăng cường hiệu

lực và hiệu quả công tác, nâng cao trách nhiệm trước công việc được giao, thực hiện

chế độ uỷ nhiệm công vụ thích hợp để giảm số lượng các cơ quan hành chính và

giảm bớt đầu mối.” [191]. Đầu năm 1994, cấp quận, huyện có 21 phòng, ban với biên chế 2.520 người, bình quân có 140 người/quận-huyện; sau khi kiện toàn, sắp

xếp lại theo Quyết định 442/QĐ-UB-NCVX ngày 25/01/1995 của UBND thành

phố, thì cấp quận có 11 phòng và huyện có 13 phòng, với biên chế 2.048 người,

bình quân 93 người/quận-huyện (giảm 472 cán bộ) [13, tr. 199]. Trụ sở UBND các

quận-huyện được tu bổ, nâng cấp thành Khu hành chính tập trung cấp quận-huyện,

chuyển các phòng, ban về cùng trụ sở UBND, từng bước hiện đại hóa công sở, đặc

biệt là Phòng tiếp nhận và trả hồ sơ cho nhân dân, tiết kiệm hàng trăm căn nhà dùng

làm trụ sở. Bên cạnh việc sắp xếp lại bộ máy hành chính quận, huyện, UBND thành

phố cũng đã ra Quyết định số 1965/QĐ-UB-KT ngày 11/4/1996 Về việc ban hành

“Quy chế làm việc tạm thời (mẫu) của UBND các quận, huyện thuộc Thành phố Hồ

Chí Minh”, làm cơ sở cho hoạt động của chính quyền quận, huyện. Quy định này đã

cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của UBND và các thành viên UBND quận, huyện;

chế độ làm việc cũng như các mối quan hệ công tác của UBND quận, huyện với các

ngành, các cấp trong đảng bộ, chính quyền từ thành phố xuống phường, xã.

Tuy có những đổi mới như trên nhưng đánh giá chung thì công tác đổi mới

tổ chức bộ máy chính quyền các cấp giai đoạn này của thành phố chỉ dừng lại ở việc sắp xếp tổ chức, thu gọn đầu mối, giảm biên chế mà chưa đạt được nhiều kết quả mạnh mẽ. Một số ít sở, ngành bước đầu tách chức năng quản lý nhà nước về kinh tế ra khỏi chức năng chỉ đạo sản xuất kinh doanh, nhưng đa số vẫn còn bị hút vào việc chỉ đạo trực tiếp các cơ sở kinh tế quốc doanh, xem nh quản lý nhà nước vì chưa giải quyết đồng bộ các mặt phân công, phân cấp quản lý, vấn đề kế hoạch, tài chính, ngân sách… Nhiều sở, ban, ngành, phòng, ban quận - huyện vẫn còn muốn chỉ đạo sản xuất kinh doanh, hạn chế phát huy quyền tự chủ của cơ sở. Một số đơn vị lẽ ra

có thể sắp xếp sớm nhưng vì khó khăn trong việc bố trí cán bộ lãnh đạo và quản lý

59

chủ chốt nên còn kéo dài việc kiện toàn tổ chức. Chính vì vậy, thành phố xác định

đối với việc sắp xếp lại hoạt động của các sở, ngành, quận, huyện là nhằm mục tiêu

đổi mới cơ chế quản lý, làm rõ và tách dần chức năng quản lý nhà nước và quản lý

kinh doanh, phát huy vai trò chủ động của cơ sở; thực hiện thí điểm việc thống nhất

quản lý đối với các ngành sự nghiệp: giáo dục, y tế, văn hóa… trên địa bàn. Việc kiện toàn tổ chức bộ máy không chỉ giảm bớt đầu mối, bớt tổ chức, giảm biên chế

mà chủ yếu và quan trọng là sắp xếp hợp lý tổ chức, xác định rõ loại việc và trách

nhiệm của từng cơ quan [13, tr. 158]

Cùng với việc tiến hành sắp xếp lại tổ chức bộ máy cấp quận, huyện và

phường xã, ngày 17/11/1990, UBND Thành phố đã ban hành Chỉ thị số 47/CT-UB

Về phát động phong trào thực hiện 4 cuộc vận động lớn gồm: chống buôn lậu và

tích cực dùng hàng nội hóa; chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; cải tiến thủ tục hành chính, chống gây phiền hà nhân dân, nhằm thúc đẩy sản xuất

góp phần tăng thêm nguồn thu cho ngân sách, bảo vệ và ủng hộ các nhân tố mới,

trừng trị các loại tội phạm, xây dựng nội bộ trong sạch vững mạnh và lành mạnh xã

hội. Chỉ thị đã chỉ ra những nội dung cụ thể trong việc triển khai 4 cuộc vận động

(tổng kết vào tháng 10/1991) nhằm thông qua đó góp phần xây dựng Đảng trong

sạch vững mạnh; củng cố hiệu lực quản lý Nhà nước, xây dựng nội bộ đoàn kết,

chống chia rẽ bè phái trong từng đơn vị cơ quan, trong từng địa phương. Tuy nhiên

theo đánh giá của Đại hội Đại biểu lần thứ V Đảng bộ thành phố ( tháng 5/1991) thì

việc triển khai 4 cuộc vận động này “hiệu quả còn thấp, do chưa có kế hoạch đồng

bộ giải quyết từ gốc” [190]

Một điểm đổi mới trong hoạt động của chính quyền các cấp tại Thành phố

từ sau khi Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức UBND và HĐND năm 1994 được

ban hành là tổ chức và hoạt động của HĐND các cấp đã có những cải tiến quan

trọng. Theo quy định của Luật mới, vai trò của HĐND địa phương được tăng cường hơn so với quy định trong Luật ban hành năm 1989; đã có những quy định riêng về

tổ chức chính quyền ở tỉnh và chính quyền ở thành phố; có sự phân định nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND và UBND các cấp; quy định HĐND xã, phường, thị trấn cũng có Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND. Những điều chỉnh như trên đã góp phần phân định về chức năng, nhiệm vụ đồng thời khẳng định được vai trò của HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Từ năm 1994, nội dung hoạt động của HĐND các cấp ở thành phố đã được cải tiến. Trong các kỳ họp không khí tranh luận diễn ra dân chủ và thẳng thắn hơn. Hội đồng đã giám sát và chất vấn hoạt động của ban ngành

Nhà nước. Thực hiện chức năng, thẩm quyền này, HĐND thành phố đã thông qua

60

các hình thức giám sát như: xem xét báo cáo của UBND thành phố, của Tòa án

nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân thành phố; thông qua việc tổ chức các đoàn

giám sát của thường trực HĐND và các Ban của HĐND… Một điểm cải tiến cơ bản

là hoạt động giám sát của các đoàn giám sát, khảo sát của HĐND thành phố được

triển khai theo kế hoạch từng năm, 6 tháng và hàng tháng thay cho việc chỉ giám sát vào trước kỳ họp như trước đây. Đồng thời, khi cần thiết HĐND còn tổ chức các

cuộc giám sát đột xuất. Các đơn vị được giám sát đa số đều chuẩn bị nội dung báo

cáo đầy đủ. Các đại biểu HĐND đã đóng góp ý kiến thẳng thắn, nghiêm túc giúp các cơ quan được giám sát thấy rõ ưu điểm để phát huy và giải pháp khắc phục

những mặt hạn chế của cơ quan, địa phương mình.

Ngoài ra, để công tác giám sát đi vào chiều sâu, tùy theo nội dung và tính chất

giám sát mà HĐND thành phố tổ chức riêng từng Ban HĐND hoặc có sự phối hợp giữa hai, ba ban; giữa Thường trực HĐND với từng ban hoặc các ban để tránh trùng

lắp trong chức năng giám sát của các ban. Chính vì những cải tiến này mà số cuộc

giám sát của HĐND thành phố đã tăng lên qua hàng năm. Cụ thể, nhiệm kỳ HĐND

khóa VI (1999 – 2004), HĐND thành phố đã thực hiện 447 cuộc giám sát, tăng 15%

so với nhiệm kỳ V (1994 – 1999) [55]. Đặc biệt các cuộc giám sát của HĐND các

cấp của Thành phố đã có tác dụng trực tiếp thúc đẩy 4 cuộc vận động lớn của thành

phố theo Chỉ thị số 47/CT-UB của UBND Thành phố. Hoạt động của Đại biểu

HĐND các cấp qua đó cũng có những thay đổi tích cực. Các Đại biểu HĐND đã có

lịch định kỳ tiếp xúc cử tri, tập hợp ý kiến của dân để kiến nghị lên trên hoặc đưa ra

thảo luận giải quyết trong các kỳ họp HĐND các cấp.

Bên cạnh việc thực hiện chức năng, thẩm quyền giám sát thì các kỳ họp của

HĐND các cấp cũng là một hoạt động quan trọng để thực hiện chức năng, thẩm

quyền của HĐND. Chất lượng, hiệu quả của kỳ họp là thể hiện kết quả hoạt động

giữa hai kỳ họp và tại kỳ họp, xoay quanh các nội dung như: công tác giám sát, tiếp xúc cử tri, chuẩn bị nội dung, điều hành kỳ họp, phát huy trách nhiệm của đại biểu,

ban hành nghị quyết của kỳ họp. Do đó, từ nhiệm kỳ 1994 – 1999 của HĐND các cấp tại thành phố, chất lượng các kỳ họp đã được nâng lên, ngày càng đi vào nền nếp; liên tục được đổi mới, đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Trong mỗi nhiệm kỳ V (1994 – 1999) và nhiệm kỳ VI (1999 – 2004), HĐND thành phố đã tiến hành 9 kỳ họp thường lệ vào đầu và giữa năm và một số kỳ họp bất thường để bầu bổ sung các chức danh HĐND và UBND thành phố. Các kỳ họp này đều được chuẩn bị chu đáo, có sự phối hợp chặt chẽ giữa Thường trực HĐND, UBND, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ thành phố và các ban của HĐND. Trước khi tiến hành kỳ họp, HĐND thành

phố đã tổ chức giám sát để phục vụ các kỳ họp, các ban của HĐND đã thẩm tra chu

61

đáo các báo cáo tại kỳ họp. Việc này góp phần quan trọng cho HĐND thành phố thảo

luận và quyết định các chủ trương, biện pháp sát với thực tiễn, có tính khả thi cao,

góp phần tích cực vào quá trình phát triển mọi mặt của thành phố.

Nhìn chung, giai đoạn từ nhiệm kỳ 1994 – 1999 trở đi, hoạt động của HĐND

các cấp tại thành phố đã có nhiều cải tiến tích cực trên các chức năng, nhiệm vụ được giao theo quy định. Việc này đã góp phần thúc đẩy nâng cao chất lượng hoạt

động của chính quyền các cấp, phát huy được dân chủ đối với các tầng lớp nhân

dân, nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, qua đó thúc đẩy cho sự tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội trên địa bàn. Tuy nhiên, mặt hạn chế

trong hoạt động của HĐND các cấp lúc này là thời gian hoạt động trong các kỳ họp

ngắn, mỗi năm 2 kỳ với 2 đến 4 ngày làm việc. Điều này làm cho hoạt động của

HĐND khó có thể thực hiện đầy đủ được chức năng, thẩm quyền theo quy định. Ngoài ra HĐND thành phố chủ yếu là đại biểu kiêm kiêm nhiệm, ít đại biểu chuyên

trách, nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng hoạt động nói chung. Đối với

HĐND cấp phường, xã thì nhiều nơi chỉ hoạt động hình thức. Một số nghị quyết

của HĐND thành phố, quận, huyện chưa được UBND và các ngành chức năng thi

hành nghiêm túc.

2.1.3.3. Đổi mới hoạt động phương thức hoạt động của chính quyền Sau 10 năm tiến hành Đổi mới, tình hình chung của đất nước có bước chuyển

biến tốt về mọi mặt, trong đó có những đổi mới của hệ thống chính quyền các cấp.

Một sự kiện đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình tiến hành đổi mới

HTCT ở Việt Nam thời kỳ này là Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương

Đảng khóa VII (tháng 1/1995) đã ban hành Nghị quyết Về tiếp tục xây dựng và

hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước

nền hành chính Nhà nước. Nghị quyết đã nêu lên những quan điểm chỉ đạo trong

việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, việc cải cách hành chính và những nội dung cơ bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và Chính phủ.

Đối với Thành phố Hồ Chí Minh, tuy cũng đã có những thay đổi trên một số mặt cụ thể nhưng sau 10 năm đổi mới, hệ thống chính quyền Thành phố vẫn còn những tồn tại, hạn chế lớn cần phải tiếp tục giải quyết. Theo đánh giá của Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ VI (từ ngày 8 đến ngày 11/5/1996) thì tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền thành phố chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ quản lý hành chính, kinh tế - xã hội, quản lý đô thị. Mối quan hệ lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền tuy có tiến bộ nhưng còn thiếu rạch ròi về trách nhiệm, có lĩnh vực còn bao biện, có lĩnh vực buông lỏng. Vai trò trách nhiệm của Đảng đoàn, Ban

cán sự đảng các cấp chưa được xác định rõ ràng và chưa phát huy tác dụng đúng

62

mức. Việc thể chế hoá môt số chủ trương của Đảng chưa kịp thời. Mối quan hệ giữa

chính quyền với nhân dân còn phải tiếp tục củng cố thông qua các quyết định về

chính sách, chế độ tiếp dân định kỳ và trong giao tiếp hàng ngày của cơ quan hành

chính các cấp. Tệ quan liêu, cửa quyền còn tồn tại kéo dài, thể hiện ở ý thức, trách

nhiệm phục vụ nhân dân, tác phong thái độ công nhân viên chức nhà nước; còn tình trạng đùn đẩy, thiếu trách nhiệm trong giải quyết yêu cầu của nhân dân. Trình độ và

năng lực của đội ngũ công chức chưa ngang tầm với nhiệm vụ, trong đó có một bộ

phận thoái hoá, biến chất, nhũng nhiễu, ức hiếp nhân dân chưa được sàng lọc loại trừ. Công sở và các phương tiện hoạt động vừa lãng phí, vừa thiếu, kỹ thuật còn thô sơ.

Nguyên nhân của tình hình trên là do cải cách nền hành chính ở thành phố

chưa đạt yêu cầu. Một số mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng mà Nghị quyết Đại hội

Đảng bộ lần thứ V đề ra chưa được triển khai thực hiện đầy đủ như: tách chức năng quản lý hành chính nhà nước và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh; xây dựng

cơ chế rõ ràng trong phân công, phân cấp quản lý nhà nước theo ngành, theo cấp

hành chính, yếu kém trong quy hoạch, đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ, chính sách đãi

ngộ cán bộ hành chính, nhất là phường xã chưa thoả đáng...

Trên cơ sở những hạn chế, tồn tại đó, Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VI

cũng đã xác định mục tiêu chung trong đổi mới hoạt động hệ thống chính quyền

Thành phố là: “Củng cố mối quan hệ mật thiết giữa chính quyền với nhân dân. Hoạt

động của chính quyền phải thể hiện được “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”, lấy

nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu và nội

dung hoạt động của mình. Chính quyền phải thực sự là “công bộc của nhân dân”

trong quản lý mọi hoạt động xã hội, xây dựng pháp luật và đấu tranh với những

hành vi vi phạm pháp luật.” [191]. Để thực hiện mục tiêu này Đại hội cũng đã xác

định các nhiệm vụ, trọng tâm là thực hiện Nghị quyết Hội nghị BCHTW 8 (khóa

VII) Về cải cách một bước nền hành chính Nhà nước ở thành phố, với những giải pháp căn bản:

Thứ nhất, khẩn trương cải tiến tổ chức, sắp xếp lại bộ máy hành chính, xác định nội dung hoạt động theo hướng tinh gọn, tăng cường hiệu lực và hiệu quả công tác, nâng cao trách nhiệm trước công việc được giao, thực hiện chế độ uỷ nhiệm công vụ thích hợp để giảm số lượng các cơ quan hành chính và giảm bớt đầu mối.

Thứ hai, cải cách thể chế hành chính, trước hết là thủ tục hành chính, đi đôi với cải cách tổ chức và cán bộ là biện pháp quan trọng cấp bách hiện nay. Trước hết, cần tập trung cải cách thủ tục hành chính ở các lĩnh vực có yêu cầu cấp bách và liên quan nhiều nhất đến đời sống của nhân dân, các khâu có tính đột phá để tiếp tục

63

cải cách toàn diện nền hành chính nhà nước ở thành phố cụ thể như: trong các lĩnh

vực sản xuất kinh doanh, nhà đất, xây dựng, đầu tư trong nước, đầu tư nước

ngoài.... Thực hiện chế độ công khai, giảm bớt đầu mối trong thủ tục hành chính.

Thứ ba, thực hiện chế độ trách nhiệm công vụ của công chức, cơ sở của việc

tuyển dụng và quản lý hoạt động đội ngũ công chức. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, viên chức, tăng cường cán bộ đủ trình độ, năng lực và phẩm chất chính trị cho các

cấp, các ngành trọng yếu.

Trên cơ sở thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ VI và Nghị quyết số 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ Về cải cách một bước thủ tục hành chính trong

giải quyết công việc của công dân và tổ chức, từ năm 1995, Thành phố Hồ Chí Minh

đã lựa chọn thí điểm mô hình “một cửa, một dấu” làm khởi đầu đột phá cho tiến trình

cải cách hành chính của thành phố trong giai đoạn này và cũng là điểm nhấn nổi bật, sáng tạo trong việc đổi mới hoạt động của hệ thống chính quyền. Việc thực hiện cơ

chế này ở thành phố xuất phát từ các lí do sau: thứ nhất, đây là bước khởi đầu nhằm

chấn chỉnh lại hoạt động quản lý nhà nước trên địa bàn quận - huyện vốn trước đây đã

trở nên cồng kềnh, nặng nề, kém hiệu quả, đặc biệt là trong lĩnh vực thủ tục hành

chính. Thứ hai, quận - huyện là cấp chính quyền trung gian giữa thành phố với cấp cơ

sở phường – xã. Việc cải cách này sẽ có ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ giữa chính

quyền với nhân dân vì một khối lượng lớn công việc (trên 80%) do cấp quận - huyện

thực hiện có liên quan đến người dân làm thủ tục hành chính.

Trong 3 năm đầu 1995 – 1997, đề án thí điểm tổ chức hoạt động của UBND

cấp quận, huyện tại một khu hành chính theo mô hình “Một cửa, một dấu” mới chỉ

thực hiện thí điểm tại UBND Quận 1, Quận 5 và huyện Củ Chi. Ngày 13/2/1997,

UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã có Báo cáo số 490/UBND gửi Thủ tướng Chính

phủ về phương án mở rộng thực hiện cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa,

một dấu” đối với tất cả quận, huyện thuộc thành phố. Sau khi xem xét đề nghị của UBND thành phố, ngày 13/5/1997, Văn phòng Chính phủ có văn bản số

2331/CCHC đồng ý cho mở rộng diện thí điểm cải cách hành chính theo mô hình “Một cửa, một dấu” ở các quận, huyện còn lại và thí điểm ở Văn phòng UBND thành phố, một số sở, ban, ngành thuộc UBND Thành phố Hồ Chí Minh. Đến cuối năm 1997, thành phố bắt đầu thí điểm cơ chế “Một cửa” tại 6 đơn vị cấp sở, ngành thuộc UBND Thành phố Hồ Chí Minh, đó là: Văn phòng UBND, Văn phòng Kiến trúc sư trưởng, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Địa chính – Nhà đất và Sở Xây dựng. Từ mô hình của Thành phố Hồ Chí Minh, từ năm 1996 và 1997, cả nước có thêm 4 địa phương là: Hà Nội, Hải Phòng, Bình Dương và Hòa Bình thực hiện thí điểm cơ chế

“một cửa”. Đến tháng 5/2003 đã có 35 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thí

64

điểm thực hiện cơ chế “một cửa” tại 196 đơn vị cấp sở, 160 đơn vị cấp huyện [69].

Các kết quả từ việc áp dụng cơ chế “Một cửa, một dấu” tại thành phố đạt được

là rất quan trọng cả đối với cơ quan quản lý nhà nước, đối với cán bộ, công chức và

cả đối với người dân. Thứ nhất, đã tăng cường được hiệu quả hoạt động của UBND

cấp quận – huyện. Cụ thể là đã giúp cơ quan hành chính xác định rõ hai chức năng: chức năng quản lý nhà nước theo phân công và chức năng đáp ứng, giải quyết các

thủ tục hành chính cho nhân dân cũng như các tổ chức trong xã hội theo thẩm

quyền. Nhờ đó số lượng lớn hồ sơ hành chính đã được giải quyết đúng hạn (đạt tỷ lệ 99,7% cho 22 quận, huyện vào năm 1998) [63, tr.58].

Thứ hai, bộ máy được sắp xếp lại một cách hiệu quả, tinh gọn phù hợp với

phương hướng tổ chức hoạt động mới. Cơ cấu tổ chức “phòng chuyên môn” được

chuyển thành cơ cấu “Tổ chuyên viên” (hoặc các phòng quản lý đa ngành) theo 4 khối: nội chính, kinh tế, văn xã và quản lý đô thị (đối với cấp quận) hoặc địa chính

(đối với cấp huyện) do lãnh đạo UBND trực tiếp phụ trách. Theo đó, khi người dân

đến làm thủ tục hành chính thì chỉ cần nộp hồ sơ vào tổ tiếp nhận, công chức tiếp

nhận sẽ trình qua tất cả các khâu xử lý mà người dân không cần phải tự mình nhận

hồ sơ rồi đi qua tất cả các khâu như trước đây (một cửa). Khi có kết quả giải quyết

hồ sơ, người dân chỉ cần theo giấy h n đến bộ phận trả kết quả để nhận lại. Đồng

thời con dấu của các phòng ban, chức năng cũng sẽ được thu hồi và chỉ còn lại một

con dấu là của UBND huyện để đóng lên tất cả các giấy tờ hành chính (một dấu).

65

Hình 2.1: Quy trình hoạt động của mô hình “một cửa, một dấu”

Hình 2.2: Tổ chức UBND theo mô hình “một cửa, một dấu”

Thứ ba, đã tạo một bước chuyển biến lớn đối với chất lượng đội ngũ cán bộ,

công chức. Các hoạt động liên quan đến giải quyết thủ tục hành chính được thực

hiện qua các khâu (tiếp nhận và trả hồ sơ, thụ lý, nghiên cứu hồ sơ, tham mưu) đòi

hỏi về trình độ, năng lực chuyên môn và phẩm chất của đội ngũ công chức trong

công việc. Những yêu cầu này dẫn đến nhu cầu đào tạo và đào tạo lại đối với đội

ngũ công chức, khắc phục tình trạng đào tạo tràn lan, không đúng đối tượng, đúng

mục tiêu, không có địa chỉ. Thứ tư, phương thức tổ chức “một cửa” công khai,

thuận tiện cũng đã tạo nên sự gần gũi giữa cơ quan chính quyền với nhân dân, tạo

điều kiện cho người dân được tham gia giám sát các hoạt động giải quyết thủ tục

hành chính của cơ quan chính quyền theo hướng “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân

kiểm tra”, giảm bớt hiện tượng nhũng nhiễu, phiền hà của cán bộ, công chức đối với

người dân. Việc giảm bớt một số thủ tục không cần thiết cùng với việc công khai

hóa các quy trình thủ tục rõ ràng, thời gian giải quyết và lệ phí đã giúp cho người

dân tránh được sự tốn kém về thời gian và vật chất trong giải quyết thủ tục hành

chính, tạo cho họ một tâm trạng thoải mái, giải tỏa được những thắc mắc do sự thiếu minh bạch, rõ ràng trước đây.

Tháng 12/1999, trên cơ sở đề nghị của UBND thành phố, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 230/1999/QĐ-TTg ngày 17/12/1999 cho phép Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện thí điểm khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính tại một số cơ quan, thời gian thực hiện khoán trong 3 năm (từ 2000 – 2002), bao

gồm: Quận 1, 3, 5, 11, huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Củ Chi, Sở Tư pháp, Sở Giao

66

thông – Công chính, Sở Lao động Thương binh – xã hội. Quá trình thực hiện thí điểm cơ chế khoán ở 10 đơn vị đã đạt được những kết quả quan trọng trên 3 lĩnh

vực là về tổ chức bộ máy, về biên chế và về thu nhập của cán bộ, công chức. Thứ

nhất, trên cơ sở rà soát chức năng, nhiệm vụ, các đơn vị đã tiến hành sắp xếp, điều

chỉnh lại cơ cấu bộ máy tinh gọn hơn, giảm được 23 đầu mối trực thuộc các đơn vị.

Thứ hai, tổng số biên chế được duyệt của 10 đơn vị là 1.076 công chức, tổng số biên chế thực tế là 1.173 công chức, sau sắp xếp giảm được 221 biên chế, đạt tỷ lệ

giảm (so với hiện trạng) là 18,84% [32, tr.31]. Thứ ba, về kinh phí khoán và phân

phối thu nhập từ tiết kiệm do giảm biên chế và kinh phí quản lý hành chính. Căn cứ thông tư hướng dẫn của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, sau khi tính toán phần kinh phí

tiết kiệm được, các đơn vị thực hiện thí điểm khoán trích theo tỷ lệ như sau: dành để

tăng thêm thu nhập cho cán bộ, công chức là 70%; 20% cho Quỹ khen thưởng; 10%

cho Quỹ phúc lợi. Trước khi thực hiện khoán thì lương và phụ cấp theo lương chiếm tỷ trọng 25,32% trong tổng chi. Khi thực hiện khoán thì lương theo quy định

và thu nhập chiếm tỷ trọng 46,85% trong tổng chi tăng thêm[32, tr.32]. Từ những

kết quả cụ thể như trên có thể thấy việc áp dụng thí điểm khoán biên chế và kinh phí

của thành phố đã tạo điều kiện cho các đơn vị được quyền chủ động sắp xếp lại tổ

chức bộ máy, khắc phục được tình trạng chồng chéo về chức năng nhiệm vụ giữa

các bộ phận. Việc củng cố sàng lọc lại đội ngũ cán bộ, công chức được thực hiện

kiên quyết hơn, tạosự thay đổi cơ bản về chất, góp phần từng bước nâng cao hiệu

lực, hiệu quả trong quản lý nhà nước. Các đơn vị có thể giải quyết tinh giản biên

chế mà không có trường hợp thắc mắc, khiếu nại nào; thậm chí các đơn vị tự

nguyện thực hiện thí điểm khoán để giải quyết hỗ trợ thêm cho số cán bộ, công

chức nghỉ. Khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính là một trong những biện

pháp tích cực và có hiệu quả để đạt mục tiêu về kiện toàn tổ chức, tinh giản biên

chế, góp phần từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cũng như

tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy quản lý nhà nước.

Có thể thấy quá trình đổi mới hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp tại

Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 1996 đến năm 2000 đã đạt được những kết quả quan trọng, nguyên nhân là do thành phố có tư tưởng quyết tâm đổi mới gắn với sáng tạo và sự chỉ đạo cương quyết, thống nhất của lãnh đạo thành phố. Thành phố đã chọn hướng đi đúng, đột phá vào những vấn đề bức xúc nhất của tổ chức và người dân. Thành phố cũng có những biện pháp và các bước đi phù hợp, trong đó đặc biệt chú trọng đến công tác chuẩn bị tư tưởng, làm quán triệt và thông suốt về mục đích, ý nghĩa, nội dung cải cách hành chính trong nội bộ từng cơ quan, đơn vị. Nhờ đó, cán bộ, công chức thống nhất được nhận thức, tham gia thực hiện cải cách

67

hành chính với tinh thần trách nhiệm và quyết tâm cao. Phương châm tiến hành cải

cách hành chính là kiên quyết, khẩn trương nhưng thận trọng; thực hiện thí điểm

trước để rút kinh nghiệm rồi mới triển khai đại trà.

Tuy đạt được những kết quả cụ thể như trên nhưng nhìn chung trong thời kỳ từ

năm 1996 đến năm 2000, quá trình đổi mới hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn một số những hạn chế, tồn tại. Năng lực và

hiệu lực quản lý hành chính Nhà nước còn yếu trên nhiều lĩnh vực; kỷ cương lỏng

lẻo, tính pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa nghiêm. Còn nhiều văn bản pháp quy của chính quyền chưa sát thực tế, chồng chéo, hiệu lực điều chỉnh thấp; còn có tình

trạng cấp dưới thiếu nghiêm chỉnh chấp hành quyết định của cấp trên. Việc tổ chức

phối hợp giữa các ban, ngành, sở cấp ở thành phố chưa tốt; mối quan hệ phối hợp

giữa các ngành, sở thành phố với quận, huyện còn có chỗ chưa rõ. Sự phối hợp giữa các cơ quan của thành phố với cơ quan Trung ương trên địa bàn chưa đặt ra đúng

mức… Những hạn chế như trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau mà cụ thể là:

khi tiến hành cải cách hành chính không ít cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức, kể cả

cán bộ lãnh đạo và quản lý lúc đầu còn ngán ngại, chưa thật nhiệt tình, vì sợ đụng

chạm đến lợi ích cục bộ của đơn vị và của chính bản thân mình. Một bộ phận cán

bộ, công chức còn thiếu kiến thức, kinh nghiệm quản lý nhà nước và chưa tận tâm,

do đó còn sức ỳ trong nếp nghĩ, phong cách làm việc, ảnh hưởng đến kết quả cải

cách hành chính. Trong quá trình thực hiện cải cách hành chính, sự chỉ đạo và phối

hợp của sở-ngành, quận-huyện, phường-xã, thị trấn thiếu kiên quyết, thiếu đồng bộ

và chưa chặt chẽ nên có việc giải quyết còn chậm trễ, kém hiệu quả. Về khách quan,

cải cách hành chính tiến hành thiếu sự chỉ đạo đồng bộ và thống nhất từ Trung ương

đến địa phương, trong đó có thành phố. Vì vậy có nhiều việc thành phố muốn “cải

cách” nhưng vướng mắc bởi cơ chế do Trung ương quy định. Đây sẽ là những hạn

chế mà thành phố sẽ phải khắc phục hoặc kiến nghị với trung ương để tiến hành khắc phục nhằm đi đến kết quả cao hơn trong giai đoạn tiếp theo.

2.1.4. Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị -

xã hội các cấp

2.1.4.1. Đổi mới nội dung và phương thức vận động nhân dân, góp phần giải

quyết các khó khăn về kinh tế - xã hội

Bên cạnh việc đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng cũng như đổi mới hệ thống chính quyền các cấp thì việc phát huy dân chủ, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc cũng là một nội dung trong quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh mặc dù phong trào quần chúng của thành phố có nhiều tiến bộ qua 10

năm đầu sau giải phóng nhưng do sự quan tâm chưa đúng mức của các cấp uỷ đảng

68

nên tính tự giác của phong trào chưa cao. Sự nghiệp cải tạo, xây dựng và bảo vệ

thành phố chưa thực sự bắt nguồn từ quần chúng. Nhiều hoạt động được thực hiện

từ những chỉ thị mệnh lệnh từ trên xuống, thay thế cho việc bàn bạc dân chủ với

nhân dân, tình trạng thiếu sâu sát cơ sở của cán bộ đoàn thể còn nặng nề và phổ

biến. Quyền làm chủ của quần chúng còn bị vi phạm nghiêm trọng. Một số chủ trương, chính sách kinh tế chưa phù hợp, việc phân phối không công bằng, tình

trạng thoái hoá, biến chất, ức hiếp quần chúng của một số cán bộ đảng viên làm ảnh

hưởng tiêu cực tâm lý, niềm tin và phong trào hành động cách mạng của quần chúng. Việc phát triển đoàn viên, hội viên chưa thật sự bắt nguồn từ phong trào của

quần chúng, nên chất lượng chưa cao. Các đoàn thề quần chúng và MTTQ là thế

mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, nhưng cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp chưa

quan tâm đúng mức xây dựng các lực lượng này làm công cụ vững chắc để quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể của mình. Phương thức hoạt động của các

đoàn thể bị hành chính hoá, bộ máy cồng kềnh, chưa bám sát cơ sở và quần chúng

lao động. Ở một số khu vực như: thương nghiệp, sản xuất tiểu thủ công, người Hoa,

tôn giáo.. tổ chức và hoạt động của các của các đoàn thể chưa mạnh. Lực lượng cốt

cán mỏng và yếu. Nhiều vấn đề xã hội đặt ra trong các tầng lớp quần chúng chưa

được cấp uỷ Đảng, chính quyền và đoàn thể các cấp nghiên cứu, đề xuất những

chính sách thoả đáng, phù hợp với tâm sự nguyện vọng của từng đối tượng. [189]

Từ thực trạng trên mà Đại hội Đại biểu lần thứ IV Đảng bộ thành phố (từ 22

đến 30/10/1986) đã xác định nội dung cơ bản của việc đổi mới hoạt động của

MTTQ và các đoàn thể của thành phố là: “Các đoàn thể và mặt trận phải chủ động

trong việc phát huy vai trò của mình là người đại diện lợi ích và quyền làm chủ tập

thể của quần chúng. Trách nhiệm của các đoàn thể và Mặt trận là giáo dục phát huy

lòng yêu nước, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và tinh thần tự giác của quần

chúng thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Các đoàn thể phải chủ động tích cực tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh quốc

phòng, kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ quan chính quyền, mở rộng mô hình tổ chức đời sống xã hội trên địa bàn dân cư.” [189].

Để phát huy hơn nữa vai trò tập hợp quần chúng, từ năm 1986 đến năm 1996, các tổ chức thành viên của MTTQ thành phố ngày càng mở rộng, có thêm nhiều tổ chức tập hợp quần chúng khác được ra đời. Tính đến thời điểm năm 1996, các tổ chức, đoàn thể có số lượng đoàn viên, hội viên đông nhất phải kể đến là: Liên đoàn Lao động thành phố có 323.294 đoàn viên trong tổng số 382.042 công chức, viên chức và công nhân lao động, trong đó có 174.472 nữ đoàn viên trong tổng số

206.354 nữ công chức, viên chức và công nhân lao động. Hội Nông dân thành phố

69

có 96.920 hội viên, chiếm tỷ lệ 80% số hộ nông nghiệp. Liên hiệp các Hội khoa học

kỹ thuật bao gồm 28 Hội chuyên ngành, tập hợp được 20.000 hội viên. Hội Nhà báo

thành phố với trên 800 hội viên. Hội Liên hiệp thanh niên thành phố, trong đó, lực

lượng nòng cốt là Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh với 754 cơ sở Đoàn với

111.390 đoàn viên, đã dấy lên nhiều phong trào, đáp ứng được những lợi ích thiết thân của thanh niên. Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố có số lượng 321.964 hội viên.

Hội Cựu chiến binh đã hình thành hệ thống Hội từ thành phố đến phường, xã với

17.103 hội viên. Hội Phụ lão ở phường, xã ngày càng phát huy tốt vai trò nòng cốt của công tác Mặt trận ở cơ sở, tập hợp được 81% người cao tuổi vào Hội để sinh

hoạt theo khẩu hiệu “sống vui, sống khỏe, sống có ích [86, tr.31]

Bên cạnh việc đẩy mạnh phát triển đoàn viên, hội viên thông qua các hình

thức phù hợp thì nội dung quan trọng nhất trong hoạt động của MTTQ thành phố trong 10 năm đầu sau Đổi mới chính là phát động và vận động quần chúng nhân dân

tham gia vào những phong trào rộng lớn nhằm giải quyết trực tiếp những khó khăn,

thách thức về kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần cùng Đảng bộ và chính quyền

các cấp tháo gỡ những cản trở cho con đường phát triển đi lên của Thành phố Hồ

Chí Minh, trong đó tiêu biểu phải kể đến là Phong trào “xóa đói giảm nghèo”, Cuộc

vận động xây nhà tình nghĩa, các hoạt động cứu tế xã hội. Tháng 5/1991, tại Đại hội

Đảng bộ thành phố lần thứ V, chương trình “Xóa đói giảm nghèo” được chính thức

đặt ra trong Nghị quyết Đại hội với phương châm từng bước thu h p dần số hộ

nghèo bằng việc tạo điều kiện vật chất để mở mang sản xuất, làm dịch vụ; mở rộng

và quản lý tốt các hoạt động từ thiện để giúp đỡ những người tàn tật, cô đơn, trẻ mồ

côi. Vào đầu năm 1992, toàn thành phố có 192.000 hộ nghèo; ở ngoại thành, số hộ

nghèo chiếm 10,23% hộ dân và chiếm 28,71% hộ nông dân. Tại 12 quận nội thành,

số hộ nghèo chiếm tỷ lệ 5,6 %, trong đó Quận 8 và Gò Vấp là hai nơi tập trung

nhiều hộ nghèo nhất. Mức thu nhập bình quân của hộ nghèo đói lúc đó là 72.500 đồng/người/tháng và hàng ngàn hộ dân ngoại thành vẫn đang trong tình trạng nghèo

đói [73, tr.102].

Từ tháng 2/1992, thành phố là địa phương đầu tiên khởi xướng chương trình “xóa đói giảm nghèo” với mục tiêu cụ thể là đến ngày 30/4/1995, thành phố sẽ xóa được hộ đói, cơ bản giải quyết được cái ăn hàng ngày và chống tái đói. Để thực hiện chương trình này, các ngành, các cấp đã có những nỗ lực rất lớn để thực hiện với quyết tâm chính trị rất cao. Đáng kể như Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố đã có nhiều biện pháp tổ chức dạy nghề cho hàng trăm ngàn lượt lao động nữ, trợ vốn cho phụ nữ đứng vay. Hệ thống tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố cũng có nhiều

nguồn vốn như: Quỹ “Tín dụng tiết kiệm”, quỹ vận động “Ngày tiết kiệm vì phụ nữ

70

nghèo” ...Tổng cộng đã có trên hàng chục tỷ đồng giúp cho hàng trăm ngàn lượt

phụ nữ vay vốn học nghề, giải quyết việc làm. Ở quận, huyện và cơ sở phường, xã

cũng có nhiều mô hình chăm lo, hỗ trợ phụ nữ nghèo, khó khăn, bất hạnh như: “Câu

lạc bộ đồng cảnh” (Quận 11), “Lớp dạy nghề phụ nữ hoàn lương” (Quận 4), ủy thác

vốn cho Hội phụ nữ giúp hội viên, phụ nữ nghèo (Quận 10) ...Từ những, hoạt động đa dạng ở nhiều ngành, nhiều cấp đã tạo thành phong trào xã hội hóa chăm lo, giúp

đỡ bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ để họ vươn lên thoát nghèo. Hệ thống tổ

chức Công đoàn thành phố, thông qua hoạt động của Quỹ trợ vốn (CEP) do Liên đoàn Lao động thành phố thành lập năm 1991, đã thực sự phát huy hiệu quả trong

việc giúp cho công đoàn viên các cấp vươn lên thoát nghèo. Thực hiện chủ trương

xóa đói giảm nghèo của thành phố, hội viên Hội Cựu chiến binh thành phố đã cho

nhau vay vốn bằng tiền, vàng không lấy lãi, cho và mượn thóc giống, con giống, sức kéo… Chính nhờ những hoạt động và đóng góp như trên của Mặt trận và các

đoàn thể mà tính chung từ năm 1994 đến 1998, Quỹ vận động trong nhân dân toàn

thành phố cho phong trào xóa đói giảm nghèo đã có 60 tỷ đồng, trong đó hệ thống

Mặt trận vận động được là 14 tỷ đồng [86, tr.67]. Từ đó, đã góp phần cùng chính

quyền thành phố kéo giảm số hộ nghèo của thành phố xuống còn 1 nửa vào năm

1998 và tiêu chí giảm nghèo (tính theo đơn vị VNĐ/người/năm) lần lượt tăng lên

qua các năm: năm 1992 là 500.000đ (cả nội thành và ngoại thành). Năm 1993 -

1994 là 700.000đ (ngoại thành) và 1.000.000đ (nội thành). Năm 1995 - 1996 là

1.000.000đ (ngoại thành) và 1.500.000đ (nội thành) [3]. Từ những kết quả đó mà

Hội nghị Đại biểu Đảng bộ thành phố giữa nhiệm kỳ khóa V (tháng 3/1994) đã cụ

thể hóa thêm một bước chương trình, mục tiêu xóa đói giảm nghèo: “Tiếp tục mở

rộng cuộc vận động và đi vào chiều sâu chương trình “xóa đói giảm nghèo”, gắn với

quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của thành phố và có trọng điểm trên

từng địa bàn”. Đây là chủ trương làm cơ sở cho việc thành phố nói chung và các đoàn thể thành phố nói riêng tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng các phong trào vì

người nghèo trong những năm tiếp theo.

Sau ngày hòa bình lập lại, song song với việc phát triển kinh tế, chính quyền thành phố cũng có sự quan tâm đặc biệt đến thương binh, gia đình liệt sĩ nhằm hàn gắn những mất mát và nỗi đau mà chiến tranh để lại. Chính vì vậy mà Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên trên cả nước tiến hành phong trào xây dựng “nhà tình nghĩa” vào năm 1982. Đến tháng 6/1989, Thành ủy, HĐND, UBND, Ủy ban MTTQ Thành phố Hồ Chí Minh đã phát động phòng trào “đền ơn đáp nghĩa” mà trọng tâm là phong trào xây dựng nhà tình nghĩa. Đây là một phong trào hợp với

lòng dân, nên đã nhanh chóng lan tỏa cả chiều rộng lẫn chiều sâu qua số lượng đơn

71

vị, địa phương tham gia tăng dần theo từng năm và huy động được sức đóng góp

của mọi tầng lớp nhân dân, từ đó ổn định dần cuộc sống, giảm bớt những khó khăn

của các gia đình chính sách. Phong trào đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của

toàn bộ HTCT thành phố. Các quận - huyện và nhiều cơ quan, đơn vị kinh tế thành

phố, Trung ương hằng năm khi xây dựng chỉ tiêu sản xuất - kinh doanh đã lên kế hoạch tham gia công tác đền ơn đáp nghĩa. Cán bộ, công nhân viên khu vực hành

chính sự nghiệp đã trích từ một đến nhiều ngày lương, trích quỹ phúc lợi đóng góp

cho phong trào thông qua các tổ chức đoàn thể.... Kết quả đạt được cụ thể là từ năm 1992 đến năm 1997, toàn thành phố đã xây dựng được 9.640 căn nhà tình nghĩa với

tổng kinh phí là 109,208 tỷ đồng. Trong đó số lượng nhà tình nghĩa từ nguồn vận

động các tầng lớp nhân dân của đoàn thể các cấp là 6.833 căn với 79,763 tỷ đồng.

Ngoài ra, hệ thống Mặt trận và các đoàn thể còn vận động sổ tiết kiệm cho các gia đình chính sách từ các tầng lớp nhân dân, từ năm 1988 đến 1998 được 6.311 sổ với

tổng số tiền là 7,224 tỷ đồng. Đối với việc vận động nuôi dưỡng Bà m Việt Nam

Anh hùng và đỡ đầu thương binh nặng, từ năm 1988 đến năm 1993, toàn bộ hệ

thống MTTQ đã vận động đỡ đầu 823 thương binh nặng với tổng số tiền 847 triệu

đồng. Từ năm 1995 đến năm 1997, hệ thống MTTQ vận động nuôi dưỡng 131/390

bà m Việt Nam anh hùng hiện còn sống với mức trợ cấp nuôi dưỡng: 300.000 -

500.000đ/tháng [86, tr.68]

2.1.4.2. Tham gia giám sát hoạt động của chính quyền, hướng mạnh về cơ sở Qua gần 5 năm đổi mới (1986 - 1991) thực tế cho thấy, để đổi mới và kiện toàn

HTCT, xây dựng và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa thì “vấn đề mấu chốt là phân

định rõ chức năng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và các đoàn

thể nhân dân; kiên quyết chống quan liêu, chống những hành vi xâm phạm quyền làm

chủ của nhân dân, đồng thời khắc phục những khuynh hướng lệch lạc khác” [38,

tr.42]. Trên cơ sở đó, từ ngày 12 đến 27/3/1990, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) đã thông qua Nghị quyết 8A về tình hình các nước xã

hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta; thông qua Nghị quyết 8B về đổi mới công tác quần chúng của Đảng và nhân dân. Hội nghị nhận định mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân vô cùng hệ trọng, có quan hệ đến vận mệnh chính trị của Đảng và sự sống còn của cách mạng nước ta.

Từ những quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết của Đảng, Đại hội Đại biểu lần thứ V Đảng bộ thành phố (từ ngày 22/10 đến ngày 26/10/1991) đã xác định mục tiêu công tác vận động quần chúng trong trong giai đoạn tiếp theo là: “trên cơ sở tăng cường khối liên minh công nhân – nông dân – trí thức, không ngừng mở rộng

khối đoàn kết dân tộc, động viên các tầng lớp đồng bào thành phố, các tôn giáo và

72

dân tộc ra sức giữ vững ổn định chính trị, xây dựng thành phố giàu mạnh”. [190]

Để thực hiện mục tiêu đó, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống

MTTQ và các đoàn thể được Đảng bộ thành phố xem là một nội dung có ý nghĩa

đặc biệt quan trọng với 3 nội dung chủ yếu sau đây:

Thứ nhất, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận và vận động quần chúng. Các cấp ủy đảng cần nắm sát tình hình quần chúng để đề ra nghị

quyết về công tác vận động quần chúng của đảng bộ. Đặc biệt, các tổ chức đảng cơ

sở phải lấy công tác vận động quần chúng và chăm lo lợi ích của quần chúng làm nội dung cơ bản trong hoạt động của mình. Phân công cấp ủy viên và đảng viên làm

công tác quần chúng; nghe đảng viên phản ảnh tình hình quần chúng và hoạt động

của các đoàn thể để có chủ trương sát hợp nhằm giải quyết những vấn đề do quần

chúng và các đoàn thể đặt ra.

Thứ hai, phát huy vai trò của chính quyền các cấp trong công tác vận động

quần chúng. Trong đó, một mặt, Mặt trận và các đoàn thể tham gia tích cực hoạt

động của HĐND các cấp thông qua đại biểu của mình trong cơ quan dân cử; mặt

khác, HĐND và UBND phải chủ động phối hợp với Ủy ban Mặt trận và Ban Chấp

hành các đoàn thể xây dựng quy chế về vai trò và trách nhiệm của Mặt trận, các

đoàn thể và quần chúng tham gia công việc quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, UBND

các cấp cần có sự phối hợp, tham khảo ý kiến của các đoàn thể và Mặt trận trước

khi ban hành những chủ trương công tác có liên quan đến việc làm ăn và đời sống

của quần chúng. UBND và Ủy ban MTTQ thành phố cần tổ chức tốt cho nhân dân

tham gia xây dựng Hiến pháp, các dự luật quan trọng và những chủ trương, chính

sách có quan hệ đến lợi ích của quần chúng.

Thứ ba, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận, các đoàn

thể và tổ chức xã hội. Căn cứ vào Nghị quyết của Đảng và tình hình thực tế của

từng đoàn thể và quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của quần chúng hội viên, Ủy ban Mặt trận và Ban Chấp hành các đoàn thể xây dựng chương trình hành động

thiết thực, tổ chức và phát động phong trào quần chúng. Các đoàn thể cần đề xuất với Đảng những chủ trương công tác và kiến nghị với nhà nước sửa đổi, bổ sung những chính sách đã có, hoặc ban hành những chính sách mới đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của quần chúng. Các đoàn thể có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực hiện các đạo luật và chính sách có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của đoàn viên, hội viên, lấy việc giải quyết những vấn đề bức xúc do cơ sở đặt ra làm nội dung hoạt động chủ yếu của đoàn thể các cấp [190].

Những chủ trương này thể hiện sự chuyển hướng mạnh mẽ trong hoạt động

của hệ thống Mặt trận và các đoàn thể quần chúng thành phố nhằm theo kịp với yêu

73

cầu của sự nghiệp đổi mới, trọng tâm chính là gắn hoạt động của các đoàn thể với

quyền và lợi ích chính đáng, thiết thực của đoàn viên và hội viên, thật sự phát huy

được dân chủ trong xã hội. Đặc biệt, từ thời điểm này, bên cạnh sự phân định về

chức năng và nhiệm vụ của các tổ chức trong HTCT được xác định rõ ràng hơn thì

trách nhiệm của các tổ chức đảng và chính quyền trong việc tham gia vào công tác vận động quần chúng cũng được chỉ ra một cách cụ thể. Ngoài ra, điểm đổi mới

quan trọng lần đầu tiên được đề cập một cách cụ thể là việc tham gia xây dựng

đảng, chính quyền của hệ thống mặt trận và các đoàn thể quần chúng thành phố.

Bên cạnh những chủ trương trên của Đảng bộ thành phố, để mở rộng mặt trận

đại đoàn kết, tiếp tục giữ vững môi trường hòa bình, đẩy mạnh phát triển kinh tế -

xã hội, ngày 17/11/1993, Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII)

cũng đã ra Nghị quyết số 07 NQ/TW Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất. Triển khai thực hiện chủ trương của Đảng bộ thành phố

cũng như thực hiện Nghị quyết 07 NQ/TW của Bộ Chính trị, Mặt trận và các đoàn

thể nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc,

phát triển phong trào quần chúng bằng các hình thức đa dạng từ thấp đến cao, sáng

tạo thêm nhiều hình thức hoạt động phong phú. Đặc biệt thông qua hoạt động thực

tiễn của hệ thống Mặt trận, nhân dân thành phố đã có điều kiện tham gia giám sát,

kiểm tra, góp ý xây dựng các chủ trương của chính quyền trên các lĩnh vực kinh tế,

văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Mặt trận các cấp đã tổng hợp kịp thời những

tâm tư nguyện vọng chính đáng của quần chúng với các cấp thẩm quyền để yêu cầu

làm rõ các vấn đề quần chúng phát hiện, thắc mắc nhằm lành mạnh hóa các quan hệ

xã hội, mở rộng dân chủ ở từng địa bàn dân cư. Cụ thể, Mặt trận đã tập hợp sự giám

sát của cử tri với đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp, xét chọn những đại biểu tiêu

biểu đề nghị biểu dương khen thưởng đồng thời có kiến nghị bãi miễn tư cách đại

biểu HĐND nếu đại biểu không đủ tư cách. Ủy ban MTTQ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh xác định việc giám sát đại biểu dân cử là nhiệm vụ của Mặt trận các

cấp phải làm một cách nghiêm túc, vì Luật Bầu cử Quốc hội và HĐND đã giao cho MTTQ Việt Nam nhiệm vụ thay mặt cử tri hiệp thương, bàn bạc với các ngành các giới, hỏi ý kiến nơi ở và nơi làm việc của ứng cử viên để cuối cùng lựa chọn danh sách ứng cửu viên chính thức công bố cho dân bầu. Dân bầu ra các cơ quan dân cử và các cơ quan dân cử bầu các chức danh của nhà nước. Do đó, trách nhiệm pháp lý của người đề cử, giới thiệu là phải theo dõi thường xuyên hoạt động của các đại biểu dân cử để hàng năm đánh giá hoạt động của họ, nhất là đại biểu HĐND; trên cơ sở đó báo cáo cho cử tri ở từng khu vực bầu cử biết để họ cùng tham gia giám

sát. Chính vì vậy, trong giai đoạn đoạn này, Ủy ban MTTQ thành phố đã tiến hành

74

theo dõi hoạt động của các đại biểu Quốc hội, HĐND trước, trong và sau kỳ họp

cũng như giữa hai kỳ họp để xem đại biểu nào thực hiện tốt nhiệm vụ của mình là

tham gia đầy đủ các kỳ họp, có nhiều ý kiến chất vấn hoặc phát biểu có giá trị phản

ánh được tâm tư, nguyện vọng của cử tri và đại biểu nào không thực hiện tốt nhiệm

vụ đại biểu của mình cũng như không tham dự đầy đủ các kỳ họp, các cuộc tiếp xúc cử tri, không có trách nhiệm trong việc giải quyết các kiến nghị của cử tri…

Hoạt động đặc biệt có hiệu quả trong vai trò giám sát là việc Mặt trận phối hợp

với thanh tra nhân dân (được bầu chọn ở cộng đồng dân cư) thực hiện các chủ trương, các quy định của nhà nước, giúp cho việc giám sát thực hiện các nghị quyết

của HĐND phường và pháp luật của Nhà nước thuận lợi. Các Ban Thanh tra nhân

dân ra đời từ quy định trong Pháp lệnh Thanh tra ngày 29/3/1990 và Nghị định

241/HĐBT ngày 5/9/1991 của Hội đồng Bộ trưởng đã nhanh chóng được thành lập ở tất cả các phường, xã trên địa bàn thành phố. Đến 1996, thành phố có 18 quận,

huyện đã củng cố tổ chức thanh tra nhân dân phường, xã. Năm 1997, thành phố có 5

quận mới được thành lập (nâng tổng số quận, huyện lên 22) nên phải xây dựng lại

ban thanh tra nhân dân từ đầu. Đầu năm 1998, 16/22 quận, huyện có 206 ban thanh

tra nhân dân [86, tr.45]. Hoạt động giám sát của các Ban Thanh tra nhân dân ở

thành phố được thực hiện trên hai lĩnh vực chủ yếu sau:

Thứ nhất, giám sát việc thực hiện chính sách pháp luật, các quy định của

HĐND và UBND bao gồm chính sách nhà, đất, Luật đất đai; chính sách xã hội,

thực hiện Pháp lệnh người có công với nước, việc thu chi quỹ đền ơn đáp nghĩa theo

Pháp lệnh; việc thực hiện Pháp lệnh nghĩa vụ lao động công ích; về chính sách kinh

tế, thực hiện các luật thuế, các khoản thu phí và lệ phí tại địa phương; về thực hiện

Luật nghĩa vụ quân sự; thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo, xây dựng nhà tình

nghĩa, nhà tình thương. Qua hoạt động giám sát này mà các Ban thanh tra nhân dân

đã phát hiện ra một số sai phạm của cán bộ, công chức ở các địa bàn như vụ việc tham ô tiền trợ cấp ở phường Linh Xuân, quận Thủ Đức; làm giả giấy tờ gia đình

liệt sĩ để hưởng chính sách ở phường 7, Quận 10. Ban thanh tra nhân dân phường 8, Quận 5 phối hợp các ngành phát hiện 2 cán bộ thuế nhận tiền hối lộ của hộ sản xuất. Ban thanh tra nhân dân phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức phát hiện một đảng viên lợi dụng chức quyền chiến đoạt tiền vốn xóa đói giảm nghèo và tiền lao động công ích…[73, tr.371]. Các Ban thanh tra nhân dân quận Bình Thạnh đã giám sát và phát hiện 121 trường hợp có dấu hiệu vị phạm pháp luật. Ban thanh tra nhân dân phường 14, Quận 3 đã giám sát, góp ý giải quyết 797/884 vụ việc khiếu nại trong hai năm qua. Ban thanh tra nhân dân phường Cầu ông Lãnh, quận 1 đã kiến

nghị với UBND phường giải quyết thu về trả lại cho xã viên 50.422.585 đồng mà

75

ban chủ nhiệm đã sử dụng không đúng nguyên tắc, bảo vệ quyền lợi cho 03 người

bị ban chủ nhiệm sa thải không đúng. Qua hoạt động giám sát này mà các Ban

Thanh tra nhân dân đã trực tiếp góp phần ngăn ngừa, khắc phục được thiệt hại, thu

hồi được tài sản cho nhà nước và nhân dân.

Thứ hai, giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của UBND phường, xã. Các Ban Thanh tra nhân dân đã dựa vào nhân dân để giám sát việc giải quyết khiếu nại,

tố cáo của UBND phường, xã. Ban Thanh tra nhân dân đã tiếp xúc với người dân,

tiếp nhận thông tin, phản ánh về việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo ở xã, phường; chủ yếu là giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại kéo dài, vi

phạm thời gian giải quyết theo quy định. Nhiều Ban Thanh tra nhân dân đã giám sát

việc giải quyết khiếu nại, tố cáo với các vụ việc tranh chấp đất đai, hôn nhân gia

đình, tranh chấp dân sự. Đồng thời Ban thanh tra nhân dân đã phối hợp với tư pháp các phường hòa giải đạt nhiều kết quả [73 tr. 372]. Trong hai năm từ 1997-1999 các

Ban thanh tra nhân dân huyện Hóc Môn đã nhận và xử lý 450 đơn, trong đó có 60%

được giải quyết thông qua hòa giải (chủ yếu là tranh chấp đất đai trong thân tộc,

sang nhượng tài sản và hôn nhân gia đình) [86, tr.39].

Cùng với việc tăng cường vai trò giám sát, trong giai đoạn này để nâng cao

hiệu quả chất lượng công tác dân vận, Mặt trận và đoàn thể quần chúng các cấp ở

thành phố đã bước đầu thực hiện việc xây dựng quy chế phối hợp hoạt động với

chính quyền mà cụ thể là UBND các cấp. Quy chế đã xác định rõ cơ chế phối hợp

hoạt động trên các mặt công tác giữa UBND với Mặt trận và các đoàn thể chính trị -

xã hội. Quy chế này đã trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận và các đoàn

thể hoạt động có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó, HĐND các cấp cũng đã chủ động phối

hợp với hệ thống Mặt trận tổ chức nhiều đợt sinh hoạt để nhân dân góp ý xây dựng

pháp luật, duy trì định kỳ các cuộc tiếp xúc cử tri. Về phía các tổ chức đảng thì Ban

Dân vận các cấp cũng đã xây dựng và ban hành quy chế làm việc định kỳ với các đoàn thể quần chúng; đồng thời tăng cường đi cơ sở, nghe ý kiến, tìm hiểu tâm tư,

nguyện vọng nhân dân. Các tổ chức đảng cơ sở, nhất là trên địa bàn dân cư cũng đã quan tâm hơn công tác vận động quần chúng, lấy việc chăm lo đời sống quần chúng, nhất là quần chúng lao động, làm nội dung chính trong chương hoạt động. Những hoạt động này đã góp phần làm cho các tổ chức đảng đưa ra những chủ trương lãnh đạo công tác dân vận một cách sát hợp và cụ thể hơn, nâng cao hơn trách nhiệm của đội ngũ đảng viên đối với công tác này.

Như vậy, có thể thấy, thông qua các phong trào cách mạng rộng lớn, MTTQ thành phố và các đoàn thể chính trị - xã hội đã thật sự vận động được mọi tầng lớp

nhân dân cùng tham gia quần chúng giải quyết những vấn đề to lớn mà thành phố

76

đang gặp phải, tạo nên những hiệu quả xã hội mạnh mẽ đối với nhân dân, nhất là

những đối tượng đông đảo như người nghèo, gia đình chính sách. Đặc biệt, trên cơ

sở đổi mới công tác dân vận từ chủ trương của Trung ương cũng như của Đảng bộ

thành phố mà từ năm 1991 trở đi hoạt động của hệ thống MTTQ và đoàn thể quần

chúng các cấp đã đi vào chiều sâu thông qua hoạt động giám sát đối với các đại biểu dân cử và việc thực thi pháp luật trên địa bàn dân cư cũng như xây dựng được quy

chế phối hợp với chính quyền các cấp. Đây là cơ sở quan trọng để Mặt trận tiếp tục

đẩy mạnh các phong trào quần chúng đồng thời phát động nhân dân phát huy dân chủ, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng trong các giai đoạn sau. Tuy nhiên, tồn tại

lớn trong công tác vận động quần chúng là, quan điểm dân vận chưa thật sự thấm

nhuần trong toàn Đảng bộ. Một số nơi, cấp uỷ và đảng viên thiếu tự giác trong công

tác quần chúng; chậm đổi mới phương thức lãnh đạo công tác quần chúng, chưa chú trọng tăng cường cán bộ có năng lực cho các Ban Dân vận, Mặt trận và đoàn thể.

Nhiều cán bộ, đảng viên thiếu gương mẫu, thoái hoá, biến chất làm giảm lòng tin

trong quần chúng. Vai trò hiệp thương phối hợp của Mặt trận, chức năng đại diện

nhân dân của các đoàn thể tham gia quản lý và giám sát hoạt động của chính quyền

chưa phát huy đúng mức. Sự phối hợp giữa các đoàn thể, giữa đoàn thể với chính

quyền, các ngành còn thiếu quy chế chặt chẽ và đồng bộ. Công tác xây dựng lực

lượng chính trị, lực lượng nòng cốt chưa tương xứng với quy mô phát triển phong

trào; phát triển đoàn viên, hội viên còn chậm; chưa tập hợp đầy đủ các đối tượng quần

chúng ở cơ sở. Nhiều cơ quan đoàn thể chỉ quan tâm lợi ích đơn thuần, chưa coi trọng

giáo dục chính trị - tư tưởng và nghĩa vụ của quần chúng đối với sự nghiệp chung.

2.1.4.3. Nâng cao chất lượng các phong trào quần chúng và tăng cường dân

chủ ở cơ sở

Đại hội Đại biểu lần thứ VI Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh (nhiệm kỳ 1996

– 2000) từ ngày 8 đến ngày 11 tháng 5 năm 1996 trên cơ sở đánh giá những yêu cầu nhiệm vụ mới nhằm đưa thành phố đẩy nhanh công cuộc đổi mới, thực hiện công

nghiệp hóa – hiện đại hóa đã xác định những nhiệm vụ cơ bản của công tác vận động quần chúng là: phải thông qua việc chăm lo lợi ích thiết thực của nhân dân mà giáo dục, khơi dậy lòng yêu nước, khai thác tiềm lực của mọi tầng lớp nhân dân vào các phong trào hành động cách mạng; xây dựng hệ thống cơ chế thích hợp để bảo đảm và phát huy quyền “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo điều kiện để nhân dân hiểu rõ hiện tình đất nước, thành phố, tham gia xây dựng chính quyền và các chính sách chủ trương phù hợp với thực tế cuộc sống; đa dạng hoá các loại hình tập hợp quần chúng, chuyển mạnh trọng tâm công tác quần chúng và hoạt động của

77

các đoàn thể xuống cơ sở, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức

cơ sở, nhất là chi đoàn, chi hội; xây dựng các mô hình hoạt động ở cơ sở, biểu

dương kịp thời và nhân rộng các mô hình tiên tiến.

Sau đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam

(từ ngày 28/6 đến ngày 1/7/1996) cũng đã xác định chủ trương đối với công tác vận động quần chúng là phải bằng các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng

lớp, các dân tộc trong nước, tạo ra những động lực mới thúc đẩy phong trào cách

mạng của nhân dân; xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với chủ trương, chính sách lớn của Đảng và

Nhà nước; tiếp tục đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận và các

đoàn thể chính trị – xã hội.

Để triển khai Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, ngày 6/1/1996, Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các tỉnh,

thành phố trực thuộc Trung ương chủ động phối hợp với Ủy ban MTTQ Việt Nam

trong cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” và

coi cuộc vận động này là nội dung trọng tâm trong chương trình phối hợp giữa

chính quyền với Ủy ban Mặt trận các cấp.

Trên cơ sở chủ trương chung đó, trong giai đoạn này, MTTQ và các đoàn thể

chính trị - xã hội Thành phố Hồ Chí Minh tập trung nâng cao chất lượng các phong

trào đã có và phát động các phong trào mới với những cách làm sáng tạo, điển hình

như “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư”, “Phong trào xây

dựng nhà tình thương”, “Cuộc vận động xây dựng Công sở văn minh - sạch đ p - an

toàn”… Các cuộc vận động này đã được triển khai nhanh và rộng khắp trên toàn

thành phố. Nhìn chung, các tổ chức quần chúng đã đóng góp rất quan trọng trong

các phong trào hành động cách mạng, chăm lo cho người nghèo, thực hiện dân chủ

ở cơ sở, tăng cường đoàn kết trong nội bộ nhân dân và giữa Đảng với dân. Việc triển khai các cuộc vận động này cũng đã đáp ứng những yêu cầu, nhiệm vụ về phát

triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, giữ gìn an ninh trật tự, đẩy lùi các tệ nạn xã hội trên địa bàn thành phố. Điển hình như cuộc vận động xây dựng “Công sở văn minh - sạch đ p - an toàn” được triển khai từ tháng 5/1998 đã góp phần trực tiếp vào việc xây dựng một hình ảnh mới của hệ thống chính quyền thành phố. Dựa trên ba nội dung cơ bản là văn minh - sạch đ p - an toàn và các nội dung cụ thể gắn với các pháp lệnh về cán bộ, công chức (Pháp lệnh Thực hành tiết kiệm, Pháp lệnh Chống lãng phí, Pháp lệnh Chống tham nhũng), qua đó xây dựng phong cách ứng xử văn minh của đội ngũ cán bộ, công chức tại công sở, ân cần lịch thiệp khi tiếp

dân, tận tụy, có trách nhiệm trong giải quyết công việc, góp phần nâng cao hiệu lực

78

quản lý nhà nước và năng lực quản lý chuyên ngành ở các cấp chính quyền và các

ngành, đồng thời tiếp tục công cuộc cải cách hành chính, thực hiện cơ chế “Một

cửa, một dấu”. Mô hình “Đơn vị văn hóa” được triển khai từ sự kế thừa và phát

triển của cuộc vận động xây dựng Công sở văn minh - sạch đ p - an toàn, với các

nội dung, tiêu chí phù hợp với từng ngành. Thông qua sự đồng thuận của các ngành để xây dựng các đơn vị văn hóa, như trường học có đời sống văn hóa tốt, ký túc xá

sinh viên đạt chuẩn văn hóa, chung cư đạt chuẩn văn hóa, bệnh viện, trung tâm y tế

đạt chuẩn văn minh - y đức, chợ, siêu thị đạt chuẩn văn minh - thương nghiệp; xây dựng bến xe, rạp hát, bến tàu, nhà ga, công viên đạt chuẩn văn minh - sạch đ p - an

toàn…Đối với Thanh niên thành phố, từ phong trào Ánh sáng văn hóa hè (dạy chữ

cho đồng bào ngoại thành) được triển khai từ năm 1994, Ban Thường vụ Thành

Đoàn quyết định đẩy mạnh phong trào tình nguyện trong sinh viên, học sinh thành phố lên một bước cao hơn với tên gọi, phương thức, nội dung, cách vận động hoàn

toàn khác trước. Vì vậy, Chiến dịch tình nguyện Mùa hè Xanh chính thức được ra

đời từ năm 1997 và dần trở thành một phong trào rộng lớn trong sinh viên thành

phố. Đến chiến dịch tình nguyện Mùa hè xanh 2000, địa bàn của chiến dịch đã mở

rộng ra ngoài địa bàn thành phố, đến 2 tỉnh Bến Tre, Trà Vinh. Từ đây, Trung ương

Đoàn cũng chính thức chọn mô hình của Thành phố Hồ Chí Minh để phát động ra

cả nước, trở thành phong trào chung của sinh viên toàn quốc.

Không chỉ dừng lại ở việc phát động và vận động quần chúng tham gia vào

những phong trào cách mạng rộng lớn, trong giai đoạn này, hoạt động của MTTQ

thành phố và các đoàn thể chính trị - xã hội cũng có những đổi mới mạnh mẽ thông

qua việc hướng về cơ sở, gắn với quần chúng, đoàn viên, hội viên và đặc biệt là

phát huy được vai trò của quần chúng trong hoạt động của chính quyền các cấp.

Qua đó đã thể hiện được quyền làm chủ của nhân dân trong việc đóng góp cho chủ

trương, chính sách của Đảng bộ và chính quyền thành phố, thực hiện giám sát đối với hoạt động của chính quyền, đại biểu dân cử và đội ngũ công chức, viên chức.

Đặc biệt từ cuộc bầu cử HĐND năm 1999, hệ thống Mặt trận từ thành phố đến quận, huyện, phường, xã đã tham gia cuộc bầu cử HĐND các cấp một cách chủ động tích cực. MTTQ thành phố đã phối hợp với các ngành chức năng tổ chức hội nghị tập huấn cho các bộ Mặt trận, các tổ chức thành viên, các cơ quan có liên quan, cán bộ phường, xã, khu phố, tổ dân phố; quán triệt nội dung công tác bầu cử, luật bầu cử, các bước của quy trình hiệp thương; đảm bảo cuộc bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng luật, tiết kiệm, an toàn và thành công. Nhờ tổ chức tuyên truyền và vận động tốt nên số lượng cử tri thành phố tham gia các cuộc tiếp xúc cử tri đông

(có 12.860 cuộc tiếp xúc và 285.549 lượt cử tri đến dự) [86, tr.40]. Để đảm bảo

79

cuộc bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng luật, hệ thống Mặt trận các cấp phân

công cán bộ tham gia giám sát trực tiếp tại các đơn vị bầu cử trong ngày bầu cử.

Qua đó đã góp phần cho cuộc bầu cử HĐND 3 cấp thành công tốt đ p.

Ngày 18/2/1998, Ban chấp hành Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 30/CT-

TW Về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Sau đó Chính phủ đã ra Nghị định số 29/1998/NĐ-CP Về việc ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã.

Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã quy định những việc chính quyền địa phương

phải thông tin và công khai để dân biết, những việc dân bàn và quyết định trực tiếp, những việc dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan nhà nước ra quyết định, những

việc dân giám sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện quy chế dân chủ.

Ở Thành phố Hồ Chí Minh do có sự chỉ đạo chặt chẽ của Thành uỷ và UBND

Thành phố Hồ Chí Minh, Quy chế dân chủ cơ sở đã dần dần đi vào cuộc sống và phát huy được tác dụng trong việc nâng cao quyền dân chủ cho nhân dân thành phố.

Ủy ban MTTQ cấp quận được cơ cấu vào ban chỉ đạo thực hiện dân chủ ở cơ sở,

tham gia xây dựng kế hoạch thực hiện. Mặt trận các cấp đã tham gia công tác tuyên

truyền, phổ biến quy chế dân chủ ở cơ sở trong các tầng lớp nhân dân bằng nhiều

hình thức như: Ban công tác Mặt trận phối hợp Ban điều hành khu phố họp dân

tuyên truyền, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu... Đồng thời, trong từng khâu của việc

thực hiện quy chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đều có sự tham gia

tích cực và cụ thể của hệ thống Mặt trận ở cơ sở. Nhìn chung, những việc thực hiện

Quy chế dân chủ ở cơ sở bước đầu đã có kết quả tốt, đáp ứng được nhu cầu bức xúc

về phát huy dân chủ được nhân dân tán thành, hưởng ứng. Chính quyền cùng Mặt

trận và các ban ngành tích cực triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở tại 38 điểm trong

toàn thành phố, với những việc cụ thể như sau:

Về dân biết: UBND phường, xã cho tiến hành các hình thức nhằm phổ biến

chính sách, pháp luật cho dân biết, cụ thể là: công khai thủ tục hành chính, báo cáo việc thu chi các quỹ do nhân dân đóng góp, việc sửa chữa, nâng cấp, xây dựng các

công trình cơ sở hạ tầng, việc quy hoạch, thực hiện các dự án quy hoạch để chỉnh trang và phát triển đô thị, các chính sách, pháp luật mới... tại các bảng thông báo của UBND phường, xã.

Về dân bàn: Đa số các công trình như làm đường hẻm, tráng xi măng hẻm, xây nhà tình nghĩa, tình thương, các công trình khác liên quan đến khu phố... mà có vận động nhân dân đóng góp, phải được đưa ra dân bàn bạc và dân quyết định các mức đóng góp cụ thể. Dân quyết định hình thức đóng góp đa dạng như: đóng góp bình quân từng hộ, chia ra nhiều mức tùy hộ giàu hay nghèo, các công ty, xí nghiệp,

80

cơ sở sản xuất kinh doanh trong khu phố đóng góp cao hơn các hộ dân.

Về dân bàn, tham gia ý kiến, HĐND, UBND xã quyết định: Đối với những

việc dân bàn, tham gia ý kiến, HĐND, UBND xã quyết định theo Điều 9 của Quy

chế. Riêng việc Mặt trận phường, xã tổ chức hội nghị lấy ý kiến nơi cư trú của

những người ứng cử đại biểu HĐND các cấp, đã được cử tri nhiệt tình đóng góp nhiều ý kiến thẳng thắn, có tinh thần xây dựng, đã được hầu hết các nơi thực hiện có

kết quả.

Những việc nhân dân giám sát, kiểm tra: Theo báo cáo nhiều nơi, những việc thu chi các loại quỹ theo quy định của nhà nước, các khoản đóng góp của nhân dân,

việc giám sát kết quả nghiệm thu, quyết toán công trình do nhân dân đóng góp và

giám sát việc thực hiện chế độ, chính sách xã hội đã được nhân dân phản ánh cho

Ban thanh tra nhân dân, thông qua ủy ban MTTQ và các đoàn thể. Việc giám sát thực hiện các công trình trong khu dân cư, thường là lập Ban giám sát công trình có

một đại diện khu phố, tổ dân phố tham gia.

Trên cơ sở quy chế dân chủ, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân các cấp ở

thành phố đã thường xuyên tập hợp ý kiến của các tầng lớp nhân dân, thông qua

hoạt động thanh tra nhân dân và các hình thức khác để thẳng thắn góp ý kiến với

các cấp ủy Đảng và chính quyền về chủ trương, chính sách, pháp luật, cơ chế quản

lý, lề lối làm việc, đạo đức, lối sống của cán bộ công chức, đại biểu dân cử; phê

bình thẳng thắn những việc làm tiêu cực, sai trái, xa rời và thiếu trách nhiệm với

dân. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, các cấp chính quyền có điều kiện sát dân

hơn, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội có hiệu quả hơn, qua đó

nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước, tăng cường hiệu lực của chính quyền,

khắc phục những yếu kém của bộ máy chính quyền. Việc triển khai thực hiện Quy

chế dân chủ ở cơ sở đã tạo ra một động lực mới. Thông qua việc thực hiện các chủ

trương đó, quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội đã từng bước được phát huy, góp phần tích cực động viên

nhân dân phấn khởi đẩy mạnh sản xuất, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội. Vai trò, vị trí của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong xã hội được nâng cao, nội dung hoạt động phong phú, thiết thực hơn, lôi cuốn được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.

Ngoài ra, để thực hiện việc giám sát và góp ý đối hoạt động của các cấp chính quyền, MTTQ các cấp đã phối hợp tốt với các tổ chức thành viên chủ động tổ chức lấy ý kiến của các tầng lớp nhân dân về các dự án luật và các văn bản quy phạm pháp luật. Đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật

phù hợp với từng đối tượng, nhất là các giới do Mặt trận phụ trách và tập trung

81

những vấn đề cấp bách trước mắt. Đồng thời, vai trò giám sát của Mặt trận cũng

được phát huy thông qua việc phối hợp tổ chức thực hiện các Pháp lệnh chống tham

nhũng, Pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Pháp lệnh cán bộ, công chức.

Dưới sự hướng dẫn của Mặt trận cấp trên, MTTQ phường, xã, thị trấn đã quan tâm

củng cố tổ chức và hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, soạn thảo đề cương về hoạt động thanh tra nhân dân, Pháp lệnh hòa giải ở cơ sở và Luật MTTQ Việt Nam

để báo cáo tại các lớp tập huấn về công tác Mặt trận cơ sở và công tác thanh tra

nhân dân, nhằm bảo đảm quyền giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với mọi tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện chính sách, pháp luật ở phạm vi cơ sở.

Nhìn chung, hoạt động của MTTQ thành phố trong giai đoạn 1996 - 2000 đã

đạt được những thành tựu có ý nghĩa quan trọng, góp phần xây dựng Đảng, chính

quyền, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, ổn định tình hình chính trị, tạo sự thống nhất về chính trị, tinh thần trong nhân dân. Đặc biệt, trong quá trình dân chủ

hóa ngày càng mở rộng, hệ thống Mặt trận thành phố ngày càng giữ vai trò quan

trọng trong tiến trình đổi mới HTCT của thành phố, thực sự đại diện cho quyền làm

chủ về chính trị của nhân dân. Mặt trận các cấp cũng đã thể hiện rõ hơn vai trò,

trách nhiệm đại biểu cho ý chí và nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Mặt hạn chế của công tác Mặt trận lúc này là công tác tuyên truyền vận động

trong hệ thống Mặt trận mới đạt kết quả bề nổi, chưa phản ánh được đầy đủ tâm tư

nguyện vọng của các giới, các tầng lớp nhân dân. Bộ máy chuyên trách công tác

Mặt trận chưa được đầu tư đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ để đáp ứng yêu cầu

nhiệm vụ. Mặt trận cũng chưa thực hiện tốt chức năng giám sát hoạt động thanh tra

nhân dân và công tác giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân trong hệ thống Mặt

trận tuy có được quan tâm nhưng chưa mạnh. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết

xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” có được nâng lên về cả chất lượng và số

lượng theo yêu cầu mới nhưng còn khó khăn trong việc phối hợp với các ngành chức năng [73, tr. 46]

Tiểu kết chƣơng 2 Từ năm 1986, cùng với nhân dân cả nước, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt đầu bước vào công cuộc Đổi mới với nhiều khó khăn, thử thách phải giải quyết trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội. Một yêu cầu gay gắt đặt ra lúc này là HTCT thành phố phải được đổi mới mạnh mẽ nhằm tạo ra sự đồng bộ với đổi mới kinh tế. Do đó, với vị trí hạt nhân trung tâm của hệ thống chính trị, để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, Đảng bộ thành

phố đã tiến hành chỉnh đốn, làm trong sạch đội ngũ đảng viên, tổ chức lại cơ quan

82

các cấp, ngành, đổi mới phương thức lãnh đạo. Đối với hệ thống chính quyền các

cấp, việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy từ thành phố xuống cấp quận – huyện,

phường – xã gắn với việc tách chức năng quản lý nhà nước với quản lý sản xuất

kinh doanh, xây dựng quy chế làm việc rõ ràng, khoa học. Đây là một nội dung

quan trọng trong đổi mới giai đoạn này. Bên cạnh đó, việc đổi mới phương thức quản lý hành chính, tiến hành cải cách hành chính bằng cơ chế, chính sách mới

cũng đã góp phần trực tiếp nâng cao vai trò quản lý nhà nước, quản lý xã hội của

các cấp chính quyền. Các tầng lớp nhân dân thông qua hoạt động của hệ thống Mặt trận các cấp đã xây dựng và phát động được các phong trào to lớn, có ý nghĩa quan

trọng đến đời sống kinh tế, xã hội cũng như phát huy được vai trò làm chủ của nhân

dân đối với hoạt động của chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

thông qua hoạt động góp ý, giám sát. Tuy hoạt động đổi mới HTCT giai đoạn này còn nhiều tồn tại, khó khăn nhưng đây chính là những tiền đề quan trọng cho HTCT

83

thành phố tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, phù hợp trong các giai đoạn tiếp theo.

CHƢƠNG 3

QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2013

3.1. Yêu cầu tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh Trải qua 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, Việt Nam đã

đạt được nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt mà nổi bật nhất là trong phát triển kinh tế. Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990) với mức tăng trưởng GDP bình

quân hàng năm chỉ đạt 4,4%, nền kinh tế Việt Nam đã trải qua gần 10 năm với mức

tăng trưởng rất ấn tượng: giai đoạn 1991-1995, GDP bình quân tăng 8,2%/năm gấp

đôi so với 5 năm trước đó; giai đoạn 5 năm tiếp theo 1996 - 2000, mặc dù cùng chịu

tác động của khủng hoảng tài chính khu vực (1997-1999), GDP vẫn duy trì bình quân tăng 7,6%/ năm [56]. Bên cạnh đó, văn hoá, xã hội có những tiến bộ; đời sống

nhân dân tiếp tục được cải thiện. Giáo dục và đào tạo phát triển về quy mô và cơ sở

vật chất. Trình độ dân trí và chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên, đã đạt chuẩn

quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Công tác xoá đói, giảm nghèo

trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bật, được dư luận thế giới đánh giá cao. Tình

hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh được tăng cường.

Quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế quốc tế được tiến

hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt; tăng cường quan hệ với các nước phát triển

và nhiều nước, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế khác; có quan hệ thương mại với

hơn 140 nước, quan hệ đầu tư với gần 70 nước và vùng lãnh thổ, thu hút được nhiều

nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài [196]. Có thể thấy, đóng góp trực tiếp cho những thành tựu này chính là từ quá trình đổi mới hoạt động của HTCT được diễn ra đồng

thời với quá trình đổi mới kinh tế. HTCT Việt Nam sau 15 năm đổi mới đã có

những thay đổi mạnh mẽ, phù hơp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội. Dân chủ

trong xã hội đã được mở rộng và phát huy cụ thể trên tất cả các lĩnh vực, góp phần

đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân. Các tổ chức trong HTCT xác định rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mình và mối quan hệ lẫn nhau trong một thiết chế thống nhất: Đảng vừa là bộ phận, vừa là hạt nhân lãnh đạo toàn bộ HTCT. Nhà nước pháp quyền đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, có chức năng thể chể hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, quản lý toàn diện xã hội. MTTQ và các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị, giữ vai trò củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tham gia thực hiện đường lối của đảng và chính sách của nhà nước, phản biện và giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, phát huy quyền làm chủ

84

của nhân dân.

Tuy nhiên, do sự tác động của nhiều mặt, nền kinh tế của đất nước vẫn phát

triển chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu, trình độ của lực lượng sản xuất

còn thấp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, nhiều vấn đề văn hóa xã hội bức

xúc chậm được giải quyết. Nạn quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, đảng viên vẫn

nghiêm trọng. Vấn đề bức xúc nhất là tổ chức và hoạt động của HTCT nước ta vẫn

còn nhiều mặt bất cập. Bộ máy Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân còn cồng kềnh, chồng chéo, nhiều tầng nấc trung gian không cần thiết, gây trở

ngại lớn cho sản xuất và quản lý xã hội. Hiệu quả hoạt động của các tổ chức Đảng,

chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân không cao. Mối quan hệ giữa

Đảng và nhân dân có mặt giảm sút. Dân chủ trong Đảng và trong xã hội chưa phát huy đầy đủ. Do vậy, quá trình đổi mới HTCT ở Việt Nam vẫn phải tiếp tục được

tiến hành trong điều kiện mới, nếu chưa giải quyết rốt ráo các vấn đề từ thực tiễn

đặt ra, như: đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp

quyền, xây dựng một nền dân chủ tiến bộ, phát triển nền kinh tế thị trường trong

bối cảnh hội nhập quốc tế.

Là một trung tâm về nhiều mặt của khu vực phía Nam và cả nước, có một vị

trí quan trọng trong khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh luôn chịu sự

tác động sâu sắc bởi bối cảnh đất nước và quốc tế. Do đó, từ yêu cầu chung đặt ra

trong việc đổi mới HTCT của cả nước thì việc đổi mới HTCT ở Thành phố trong

những năm tiếp theo vẫn là một đòi hỏi tất yếu và cấp thiết. Điều này càng trở nên

có ý nghĩa hơn vì sau những năm đổi mới cùng đất nước, tuy đã đạt được nhiều kết

quả quan trọng trong phát triển, nhưng kinh tế, xã hội Thành phố Hồ Chí Minh vẫn

còn nhiều yếu kém, tồn tại cần khắc phục. Cụ thể là, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa

tương xứng với tiềm lực; cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý còn bộc lộ nhiều yếu kém. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm dần trong suốt 4 năm 1996 – 1999. Nhiều chỉ

tiêu Đại hội Đại biểu Đảng bộ lần thứ VI (năm 1996) đề ra không đạt, như: mức tăng GDP bình quân hàng năm và GDP bình quân đầu người, kim ngạch xuất khẩu, về cấp – thoát nước, mở rộng đô thị về hướng Đông thành phố gắn với giảm mật độ dân số nội thành, về công nghiệp hoá nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới… Hoạt động khoa học – công nghệ và giáo dục – đào tạo còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển thành phố. Những yếu kém, khuyết điểm trong hoạt động văn hoá – xã hội chậm được khắc phục; trật tự an toàn xã hội còn diễn biến phức tạp. Về hệ thống chính trị, theo đánh giá của Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ VII (từ

ngày 19 đến ngày 23/12/2000) thì hoạt động của HTCT thành phố vẫn chưa ngang

85

tầm với yêu cầu nhiệm vụ. Tổ chức bộ máy còn nhiều yếu kém, bất hợp lý; hiệu lực,

hiệu quả hoạt động thấp. Đội ngũ cán bộ còn hạn chế về trình độ năng lực; phương

pháp quản lý, sử dụng và xây dựng đội ngũ chưa tốt; chậm xử lý một số cán bộ

thoái hoá biến chất. Phương thức lãnh đạo của đảng chậm đổi mới. Năng lực và

hiệu lực quản lý hành chính nhà nước còn yếu trên nhiều lĩnh vực; kỷ cương lỏng lẻo, tính pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa nghiêm. Quan hệ giữa chính quyền với

MTTQ và các đoàn thể thiếu gắn bó; các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp

chưa phát huy vai trò tư vấn, phản biện, cần nối giữa nhân dân với chính quyền. Tình trạng hành chính hoá tổ chức và hoạt động của các đoàn thể chậm khắc phục.

Bộ máy chuyên trách của các đoàn thể chính trị còn lớn, hoạt động thiếu chiều sâu.

Tất cả những hạn chế, tồn tại như trên đòi hỏi HTCT Thành phố Hồ Chí Minh vẫn

phải tiếp tục có những đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt hơn nữa để không ngừng khẳng định được vai trò là nền tảng quyết định cho sự phát triển mọi mặt của thành phố,

đồng thời đóng góp cho tiến trình đổi mới chung của đất nước.

3.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng và

đảng viên; đổi mới công tác cán bộ và phƣơng thức lãnh đạo của đảng

3.2.1. Chỉnh đốn tổ chức Đảng và đảng viên; củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy Qua nhiều nhiệm kỳ kể từ khi bắt đầu tiến hành đường lối đổi mới, công tác

xây dựng và chỉnh đốn đảng gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo luôn được Đảng

bộ thành phố xem là nội dung có ý nghĩa then chốt trong đổi mới HTCT. Thực tế

cho thấy rằng, những thành tựu to lớn mà Thành phố Hồ Chí Minh đạt được trên các

lĩnh vực đều bắt nguồn từ những kết quả cụ thể của công tác xây dựng đảng của

đảng bộ. Tuy nhiên, trong điều kiện lãnh đạo ở một thành phố là trung tâm kinh tế, đầu tàu của khu vực và cả nước với nhiều đặc thù thì vai trò lãnh đạo của Đảng bộ

đến lúc này vẫn nhiều yếu kém, bất hợp lý. Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần

thứ VII (từ ngày 19 đến 23/12/2000) đã chỉ rõ những tồn tại nổi bật là: một số tổ

chức cơ sở đảng chưa thể hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo, thậm chí bị vô hiệu

hóa. Công tác quy hoạch cán bộ chất lượng còn thấp; chưa có cách phát triển đúng và mạnh dạn tiến cử những người có tài, có đức. Một bộ phận cán bộ có chức, có quyền vi phạm pháp luật nghiêm trọng – hàng ngàn cán bộ bị xử lý kỷ luật, trong đó có hàng trăm người bị phạt tù, nhiều người bị xử với mức án cao - chứng tỏ công tác quản lý, giáo dục cán bộ còn khuyết điểm nghiêm trọng. Phương thức lãnh đạo của Đảng chậm đổi mới. Việc triển khai các Nghị quyết của cấp ủy và kiểm tra việc thực hiện còn nhiều khiếm khuyết; chất lượng sơ kết, tổng kết còn kém. Nhiều vấn đề trọng tâm trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đảng, chính quyền

86

và đoàn thể của thành phố chưa được tập trung chỉ đạo một cách đồng bộ [192]

Trên cơ sở đó, Đại hội xác định phương hướng chung trong công tác xây dựng

đảng của Đảng bộ trong giai đoạn mới là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến

đấu của tổ chức Đảng và đảng viên; coi trọng công tác cán bộ và đổi mới phương

thức lãnh đạo” [192], với bốn nhiệm vụ trọng tâm gồm:

Thứ nhất, tăng cường giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng

viên để tạo sự thống nhất cao trong toàn Đảng bộ về lý tưởng, quan điểm, đường lối

và các nguyên tắc của Đảng, về định hướng, mục tiêu phát triển thành phố.

Thứ hai, sắp xếp lại và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống tổ chức

Đảng, xác định rõ chức năng nhiệm vụ để tăng hiệu quả hoạt động; xây dựng phát

triển tổ chức cơ sở đảng và các đoàn thể chính trị trong doanh nghiệp tư nhân,

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần, các trường ngoài công lập, hợp tác xã; gắn việc xây dựng cơ sở đảng với quá trình thực hiện dân chủ hoá

cơ sở; đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên mới.

Thứ ba, đổi mới công tác cán bộ của đảng nhằm mục tiêu bao trùm là: xây

dựng được đội ngũ cán bộ trung thành và trung thực, biết phát huy truyền thống

cách mạng cao cả, giàu tri thức, liêm chính, năng động sáng tạo, hết lòng hết sức

cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành phố, sự nghiệp công

nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Thứ tư, đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng. Phân định rõ giữa lãnh đạo với

quản lý và điều hành trách nhiệm giữa tập thể và cá nhân; đẩy mạnh phân cấp, thực

hiện sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế, kiện toàn cơ quan tham mưu của cấp ủy.

Từ chủ trương chung đó, có thể thấy điểm nổi bật nhất trong công tác xây

dựng đảng của Đảng bộ thành phố giai đoạn này là việc triển khai Cuộc vận động

xây dựng, chỉnh đốn đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (2) Khóa VIII

tháng 2/1999 Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng đảng hiện nay. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đảng bộ thành phố luôn xác định xây dựng đảng là

nhiệm vụ then chốt nên khi có Nghị quyết Trung ương 6 (2) và Kết luận 04, Thành uỷ đã ban hành các chỉ thị như: Chỉ thị số 04-CT/TU ngày 5/12/2001 Về việc tăng cường lãnh đạo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Chỉ thị số 06-CT/TU ngày 4/11/2002 Về lập lại kỷ cương, chấp hành pháp luật, nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước trên địa bàn thành phố, Chỉ thị số 15-CT/TU ngày 20/10/2003 Về cuộc vận động tu dưỡng đạo đức, xây dựng lối sống lành mạnh trong cán bộ, đảng viên với nội dung 3 xây 3 chống; Quy định 428-QĐ/TU ngày 21/10/2002 Về xử lý trách nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý khi để xảy ra các vụ tham nhũng, tiêu cực

trong cơ quan, đơn vị nhằm cụ thể hoá hơn nữa Nghị quyết Trung ương 6 (2) giúp

87

cho cấp dưới dễ thực hiện. Từ những chủ trương trên, công tác phòng, chống tham

nhũng của Đảng bộ thành phố giai đoạn này đã có những chuyển biến tích cực, hiệu

quả. Thành ủy đã chỉ đạo tăng cường thanh tra, kiểm tra, điều tra tập trung vào các

ngành, các lĩnh vực nhà, đất, xây dựng các công trình, các dự án, chi tiêu ngân sách.

Kết quả là trong 4 năm, từ 2001 đến 2004, các cơ quan chuyên môn trực thuộc Thành ủy đã tiến hành 1.519 cuộc thanh tra, kiểm tra, điều tra. Thu hồi được 635 tỷ

đồng, 3,8 triệu USD; 2.500 viên kim cương, 145 lượng vàng; 11 căn nhà; 354 ha đất

dự án lãng phí không xây dựng ; 102.942 m2 đất và 53.448 m2 nhà [62]. Đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng, vì đây là yêu cầu, mục tiêu của Nghị quyết

Trung ương 6 (2), nên các cấp uỷ của Đảng bộ đã tập trung chỉ đạo, tăng cường

công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm nâng cao nhận thức, tinh thần trách

nhiệm, tu dưỡng đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Thành ủy đã tiến hành củng cố tổ chức cơ sở đảng, nhất là các nơi yếu kém, xảy ra tiêu cực, tham nhũng,

mất đoàn kết; kiên quyết xử lý cá nhân và tập thể vi phạm. Tổ chức đảng các cấp

của Đảng bộ Thành phố đã tiến hành tiến hành kỷ luật 16 tập thể cấp ủy và 2.238

đảng viên, trong đó phạt tù giam 26 trường hợp [62] . Đồng thời, Thành ủy cũng

chú trọng xây dựng, ban hành quy định về chức năng nhiệm vụ cho từng loại hình

cơ sở đảng; thực hiện bảo đảm nguyên tắc tự phê bình và phê bình; đánh giá chất

lượng hàng năm để không ngừng làm cho tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, nâng

cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong sự nghiệp đổi mới. “Mặc dù

đạt được một số kết quả nhất định song việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (2),

Kết luận 04-KL/TW của BCHTW Đảng Khoá IX về cuộc vận động xây dựng chỉnh

đốn đảng trên địa bàn thành phố vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa tạo được sự

chuyển biến cơ bản, chưa chặn đứng và đẩy lùi được tệ tham nhũng, lãng phí nhất là

trong xây dựng cơ bản, nhà đất, tài chính, chi tiêu ngân sách. Tình trạng suy thoái

về phẩm chất đạo đức, lối sống, nhất là biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu của một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên còn tồn tại làm cho nhân

dân bất bình, giảm lòng tin đối với Đảng và Nhà nước” [62]

Trong đổi mới HTCT từ năm 2000, Đảng bộ đã chú ý chỉ đạo xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng trong các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân…. Cụ thể, hoạt động của tổ chức đảng ở các doanh nghiệp có vốn nhà nước khi chuyển sang cổ phần hóa với nhiều khó khăn vì vậy Đảng bộ đã thực hiện Hướng dẫn số 12-HD-BTC/TW ngày 24/01/2000 của Ban Tổ chức Trung ương. Đến năm 2003 trên địa bàn thành phố đã có 105 công ty có vốn nhà nước đã cổ phần hóa hình

thành được tổ chức đảng, gồm 12 đảng bộ và 83 chi bộ cơ sở, 9 chi bộ bộ phận, 1 tổ

88

đảng với 1.825 đảng viên; trong đó, khối quận, huyện ủy có 2 đảng bộ cơ sở; 30 chi

bộ cơ sở và 2 chi bộ bộ phận; khối đảng ủy cấp cấp trên cơ sở các bộ ngành trung

ương có 7 đảng bộ cơ sở, 21 chi bộ cơ sở, 4 chi bộ bộ phận và 1 tổ đảng [78]. Các tổ

chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã xây dựng được quy chế làm việc

hiệu quả, nâng cao được vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng với đảng viên và quần chúng; đồng thời làm tốt công tác tư tưởng, tạo ra sự yên tâm cho quần chúng,

người lao động trong quá trình chuyển sang cổ phần hóa. Bên cạnh việc nâng cao

chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng trong doanh nghiệp cổ phần hóa có vốn nhà nước thì việc nâng cao chất lượng hoạt động của đảng, đoàn thể và phát triển

đảng trong doanh nghiệp tư nhân cũng được Thành ủy đặc biệt chú trọng. Ngày

19/5/2003, Thành ủy đã ban hành Chỉ thị số 11-CT/TU Về đẩy mạnh công tác xây

dựng tổ chức đảng, đoàn thể và phát triển đảng viên, đoàn viên trong các doanh nghiệp tư nhân nhằm giải quyết nhiệm vụ quan trọng này. Chỉ tính từ khi Chỉ thị

11-CT/TU được ban hành đến tháng 7/2004, trên địa bàn thành phố đã xây dựng

được 31 đảng bộ, chi bộ, đồng thời tiếp nhận 20 tổ chức đảng từ loại hình khác

chuyển sang doanh nghiệp tư nhân, nâng tổng số tổ chức đảng hiện có trong các

doanh nghiệp tư nhân lên 80 đơn vị, với 688 đảng viên. Số tổ chức Công đoàn và

Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Thanh niên cũng được quan tâm xây dựng. Đến

tháng 7/2004 đã có 2.881 tổ chức công đoàn với 266.214 công đoàn viên, 105 chi

đoàn với 1.913 đoàn viên, 194 chi hội với 5.004 hội viên [84]. Kết quả trên cho thấy

chủ trương xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể của thành phố trong các doanh nghiệp

tư nhân đã đi vào cuộc sống, phù hơp với tình hình và đáp ứng được nguyện vọng,

mong muốn của đa số người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân, kể cả một số

chủ doanh nghiệp, tạo điều kiện đế đẩy mạnh hơn nữa công tác này.

Việc phát triển đảng viên mới cũng là một điểm nhấn nổi bật trong công tác

xây dựng đảng của Đảng bộ thành phố trong giai đoạn này mà cụ thể là việc đẩy mạnh kết nạp đảng trong sinh viên các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên

nghiệp. Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 30/5/1998 của Bộ Chính trị (khoá VIII) Về tăng cường công tác chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng và công tác phát triển đảng viên trong các trường học công tác xây dựng đảng và phát triển đảng viên tại các trường trên địa bàn thành phố đã có bước phát triển. Tuy nhiên, con số được kết nạp còn rất ít ỏi. Năm 2002 chỉ có 60 sinh viên được kết nạp đảng từ khoảng 300.000 sinh viên đang học tập tại Thành phố Hồ Chí Minh (tương đương với số sinh viên được kết nạp của trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội trong cùng năm) [78]. Từ thực tế trên, Chỉ thị số 09-CT/TU ngày

24/4/2003 Về việc đẩy mạnh công tác phát triển đảng trong các trường đại học, cao

89

đẳng, trung học chuyên nghiệp từ nay đến năm 2005 của Thành ủy đã yêu cầu các

cấp ủy, đảng viên và đoàn thể quần chúng trong các trường cần nhận thức được vấn

đề kết nạp đảng đối với cán bộ giảng dạy và sinh viên là góp phần nâng cao chất

lượng đào tạo, xây dựng một đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên, chuẩn bị tốt lực

lượng kế thừa nhằm thực hiện chiến lược cán bộ của Đảng bộ thành phố. Trên cơ sở Chỉ thị, các cấp ủy đã xây dựng Nghị quyết chuyên đề về công tác phát triển đảng,

đề ra kế hoạch, chỉ tiêu cụ thể và phân công thực hiện rõ ràng ở từng chi bộ, từng

đoàn thể. Mô hình chi bộ sinh viên có phân công giảng viên là đảng viên trẻ về sinh hoạt hoạt và mô hình tổ đảng cán bộ trẻ và sinh viên tại khoa được nhiều trường áp

dụng. Sau một năm thực hiện Chỉ thị, số lượng sinh viên được phát triển đảng được

thực hiện đã vượt xa so với chỉ tiêu đề ra. Nhiệm kỳ 2000 – 2005, Đảng bộ khối các

trường Đại học – Cao đẳng – Trung học chuyên nghiệp đề ra chỉ tiêu cả nhiệm kỳ là kết nạp 250 đảng viên, năm 2001 kết nạp 43 sinh viên, năm 2002 kết nạp 50 sinh

viên, nhưng chỉ trong một năm thực hiện Chỉ thị 09 đã kết nạp được 133 sinh viên.

Theo số liệu báo cáo của Ban Tổ chức Thành ủy thì sau 1 năm thực hiện Chỉ thị 09

đã có 63/70 trường đại học – cao đẳng – trung học chuyên nghiệp (chiếm 90%) phát

triển được 485 đảng viên (trong đó có 206 giảng viên, 200 sinh viên, 79 cán bộ,

nhân viên). Như vậy, so với năm 2002 (phát triển được 141 đảng viên) thì con số

này đã tăng lên 3,4 lần [65]

3.2.2. Nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở, xã, phường, thị trấn và

đổi mới công tác dân vận

Một nội dung quan trọng được Thành ủy tập trung lãnh đạo một cách đồng bộ

và có hiệu quả vững chắc trong giai đoạn này chính là triển khai một cách mạnh mẽ

quy chế dân chủ ở cơ sở; xem đó là một vấn đề trọng yếu trong việc phát huy dân

chủ cũng như nâng cao chất lượng hoạt động của HTCT các cấp, nhất là cấp cơ sở

vì đây là địa bàn sinh sống của các cộng đồng dân cư, là nơi bắt đầu mọi cuộc vận động xã hội. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khóa IX),

họp từ ngày 18/2 đến ngày 2/3/2002 đã ra ba nghị quyết, trong đó có hai nghị quyết liên quan đến việc đổi mới HTCT. Trong đó đặc biệt có ý nghĩa đối với quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh là việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 17-NQ/TW, ngày 18/3/2002 Về đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT cơ sở xã, phường, thị trấn.

Trên cơ sở triển khai những chủ trương của Đảng, cùng với thực tế việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn tồn tại một số hạn chế bất cập: như việc chỉ đạo tổ chức thực hiện ở nhiều nơi chưa đạt yêu cầu đề ra, nhất là khu vực cơ quan và

doanh nghiệp Nhà nước; chưa xác lập nội dung và cơ chế để nhân dân biết, bàn và

90

kiểm tra; vai trò giám sát của Mặt trận và các đoàn thể còn nhiều hạn chế... ngày

19/2/2002, Thành ủy đã ban hành Chỉ thị số 05-CT/TU Về tiếp tục lãnh đạo thực

hiện quy chế dân chủ cơ sở. Chỉ thị đã nhấn mạnh đến những yêu cầu cụ thể đối với

các cơ quan, ban, ngành trong việc tiếp tục thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở thành

phố bao gồm cấp ủy, chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, MTTQ và các đoàn thể thành phố, UBND thành phố và các sở, ngành thành

phố. Trong Chỉ thị này, Thành ủy cũng quyết định thành lập Tổ công tác của Thành

ủy, tham mưu giúp Thành ủy chỉ đạo, kiểm tra các cấp, các ngành tổ chức thực hiện Chỉ thị này và những vấn đề liên quan đến dân chủ cơ sở. Kết quả chung của việc

thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh là cả HTCT từ các

quận, huyện đến phường, xã đều nhận thức việc tổ chức thực hiện Quy chế dân chủ

cơ sở là một cuộc vận động chính trị sâu rộng; qua thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, Đảng bộ các quận, huyện có điều kiện để tiếp tục củng cố niềm tin của nhân dân

vào sự lãnh đạo của Đảng; người dân thấy được chủ trương của Đảng được nhà

nước thể chế hóa một cách rõ ràng, cụ thể, đáp ứng được nguyện vọng của nhân

dân, thấy được vai trò làm chủ của mình trong bàn bạc, góp ý vào các chủ trương

hoặc trực tiếp quyết định những việc có lợi ích trực tiếp cho người dân, thấy được

sự chuyển động của bộ máy chính quyền trong quản lý nhà nước, cải cách thủ tục

hành chính, công khai hóa các quy định, nhất là việc quy hoạch, thực hiện các chế

độ chính sách, tạo điều kiện phát huy quyền kiểm tra, giám sát, tinh thần tự quản

của nhân dân… góp phần chống tham nhũng, tiêu cực. Cũng qua việc thực hiện quy

chế dân chủ ở cơ sở, vai trò của cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên được nâng

cao hơn; các tổ chức đoàn thể thấy được trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ

quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Tuy nhiên, việc thực hiện Quy chế dân

chủ cơ sở ở địa bàn dân cư tại thành phố vẫn còn những tồn tại, hạn chế cần được

khắc phục. Quá trình thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở chưa thật sự gắn với cải tiến thủ tục hành chính, lề lối làm việc, với công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố

cáo, những bức xúc của người dân. Một số cán bộ, nhân viên khi tiếp xúc, giải quyết công việc cho dân có biểu hiện thiếu tôn trọng dân, giải thích chưa đến nơi, đến chốn, kém thuyết phục, để dân chờ đợi lâu.

Cùng với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, trong giai đoạn này Đảng bộ thành phố đã có sự đổi mới mạnh mẽ trong hệ thống cơ quan dân vận các cấp trên cơ sở thực hiện Hướng dẫn 01- HDLB/TC-DV-TW ngày 25/5/2000 của Ban Tổ chức và Ban Dân vận Trung ương. Thành ủy đã ban hành Quyết định số 196- QĐ/TU, ngày 27/8/2001 Về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, quan hệ làm

việc của Ban Dân vận Thành ủy, xác định: Ban Dân vận Thành ủy là cơ quan thuộc

91

hệ thống các Ban đảng trực thuộc Thành ủy, có chức năng tham mưu giúp Thành ủy

lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân vận, công tác tôn giáo dân tộc của Đảng bộ thành

phố. Ở cấp quận, huyện, bộ máy tổ chức của Ban Dân vận được củng cố tương đối

hoàn chỉnh. Ban Dân vận được xác định là một Ban Đảng, có chức năng, nhiệm vụ

rõ ràng; được quận, huyện ủy ban hành quy chế hoạt động theo nhiệm kỳ của cấp ủy. Ở cấp xã – phường, các Ban Dân vận quận, huyện ủy đã tham mưu cho cấp ủy

chỉ đạo thành lập khối dân vận xã, phường, thị trấn. Theo nội dung đó, Khối Dân

vận xã, phường, thị trấn do đồng chí Phó Bí thư thường trực đảng ủy làm Trưởng khối. Thành viên khối ngoài Chủ tịch Mặt trận, Truởng các đoàn thể, Chủ tịch các

Hội quần chúng, còn có Thường trực HĐND, Phó Chủ tịch UBND, Trưởng Công

an. Kết quả thực hiện Hướng dẫn 01 đã làm cho Ban Dân vận các cấp được củng cố,

kiện toàn, nâng cao chức năng tham mưu cho cấp ủy tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác dân vận, đặc biệt chú trọng công tác dân vận ở khu dân cư,

những địa bàn trọng điểm, phức tạp, tăng cường vai trò chủ trì liên tịch phối hợp

hoạt động giữa MTTQ và các đoàn thể nhân dân cùng cấp với lực lượng vũ trang...

Các cấp ủy huyện, quận đã ban hành nghị quyết chuyên đề về công tác vận động

quần chúng theo nhiệm kỳ, đã chú trọng xây dựng lực lượng nòng cốt trong các giới

quần chúng, quan tâm mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác dân vận cho cán bộ,

công chức, viên chức trong HTCT (từ năm 2000 đến 2003, đã tổ chức mở 135 lớp,

có 20.500 nguời tham dự) [79]

3.2.3. Đổi mới công tác giáo dục đảng viên; đẩy mạnh phòng, chống tham

nhũng, lãng phí

Trong tình hình mới, về công tác xây dựng đảng, Đại hội Đại biểu Đảng bộ

thành phố lần thứ VIII (từ ngày 6 đến ngày 9/12/2005) đã đề ra phướng hướng là

“Xây dựng Đảng bộ thành phố ngày càng trong sạch vững mạnh, không ngừng nâng

cao vai trò lãnh đạo chính trị của tổ chức Đảng và tính tiền phong gương mẫu của người đảng viên”. Đại hội cũng đã xác định bốn nhiệm vụ trọng tâm gồm:

Thứ nhất, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; gắn lý luận với thực tiễn, nâng cao tính chiến đấu và thuyết phục của công tác tư tưởng, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong mọi hoạt động của cán bộ, đảng viên.

Thứ hai, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; phát hiện và có chính sách thu hút sử dụng, bồi dưỡng nhân tài. Thực hiện tốt công tác quản lý, đánh giá cán bộ thông qua kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị và phẩm chất đạo đức, uy tín đối với nhân dân.

Thực hiện có hiệu quả hơn công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ, đáp ứng nguồn

92

cán bộ trước mắt đến năm 2010 và những năm tiếp theo.

Thứ ba, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, coi

đây là một nhiệm vụ quan trọng, trực tiếp của cả HTCT, nhằm nâng cao hiệu quả

của cuộc đấu tranh, củng cố niềm tin của nhân dân. Tăng cường phối hợp chặt chẽ

giữa các cơ quan chức năng trong công tác kiểm tra, thanh tra; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các địa phương, đơn vị.

Thứ tư, không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đảng theo

hướng: nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chủ trương, nghị quyết của đảng; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ; đề cao trách nhiệm cá

nhân; lãnh đạo toàn diện đi đôi với chỉ đạo trọng tâm, trọng điểm và kiên quyết;

tăng cường kiểm tra việc tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước; sâu sát cơ sở,

phát huy dân chủ và tính chủ động của cơ sở; giảm hội họp, giấy tờ không cần thiết. Để triển khai những nhiệm vụ trọng tâm này, từ năm 2006 đến 2013, Thành ủy

Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều chủ trương và giải pháp phù hợp nhằm tiếp tục

đổi mới, nâng cao hiệu quả xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh

đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên, gắn với thực

hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo

Chỉ thị số 06-CT/TW. Bắt đầu từ năm 2007, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã

thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương

đạo đức Hồ Chí Minh”. Tất cả 70 tổ chức đảng trực thuộc Thành ủy và 2.579 tổ

chức cơ sở đảng của Đảng bộ thành phố cũng đã hình thành nên hệ thống tổ chức

chỉ đạo cuộc vận động trên toàn thành phố [60]. Kết quả quan trọng và dễ thấy nhất

là qua việc thực hiện những nội dung của cuộc vận động mà công tác xây dựng,

chỉnh đốn Đảng của các cấp ủy, đặc biệt là của tổ chức cơ sở đảng được tăng cường,

nền nếp sinh hoạt đảng được chấn chỉnh. Cùng với việc thực hiện Cuộc vận động

“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, các cơ sở đảng cũng tập trung thực hiện việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ theo tinh thần của Chỉ thị

10-CT/TW, ngày 30/3/2007 của Ban Bí thư. Nhờ đó, nội dung sinh hoạt chi bộ đã phong phú hơn, đảng viên được nâng cao nhận thức, nắm bắt kịp thời và tự giác chấp hành nghiêm túc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; thực hiện tốt nghị quyết của chi bộ và của cấp ủy cấp trên. Cuộc vận động cũng đã góp phần làm cho những chuyển biến trong thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí của tổ chức đảng, cơ quan quản lý, đoàn thể các cấp từng bước được phát huy. Đặc biệt, bằng việc cụ thể hóa nội dung học tập theo cuộc vận động mà công tác cải cách thủ tục hành chính được thực hiện sâu rộng gắn với

chương trình cải cách hành chính của Chính phủ và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ

93

thành phố lần thứ VIII từng bước nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cấp

chính quyền, giảm phiền hà cho tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân. Nhiều thủ tục

hành chính không phù hợp được bãi bỏ. Ý thức phục vụ nhân dân của cán bộ, công

chức được nâng lên; mức độ hài lòng với cơ quan nhà nước ở các lĩnh vực thiết yếu

ngày càng cao hơn. Hầu hết ở các cơ quan hành chính nhà nước, các đơn vị có liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân đều đã tích cực cải cách hành chính, nâng cao

nghiệp vụ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại kết hợp với nâng cao sự tôn trọng

nhân dân bằng nhiều phong trào như “nụ cười công chức”, “sát cơ sở”, “hãy đứng ở vị trí của người dân” …để phục vụ nhân dân có hiệu quả hơn. Đây có thể xem là

một hiệu quả từ việc thực hiện cuộc vận động đối với việc đổi mới HTCT thành phố

trong giai đoạn này. Từ năm 2011, khi Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị 03-CT/TW

ngày 14/5/2011 Về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện chỉ đạo của Thành ủy, các đảng bộ trực thuộc đã chọn đơn

vị làm điểm thực hiện và đưa nội dung học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo

đức, phong cách Hô Chí Minh vào sinh hoạt chi bộ. Đặc biệt, Ban Tuyên giáo

Thành ủy tham mưu Thường trực Thành ủy tổ chức giao ban chuyên đề với thường

trực các quận ủy, huyện ủy, đảng ủy cấp trên cơ sở, cơ sở Đảng trực thuộc Thành ủy

với nội dung “Cách làm kinh nghiệm của người đứng đầu các cấp ủy đảng, chính

quyền thực hiện gương mẫu học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức,

phong cách Hồ Chí Minh”. Công tác kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện Chỉ thị 03-

CT/TW của Bộ Chính trị cũng được Thành ủy chú trọng; đã tổ chức 4 đoàn kiểm

tra, qua đó đã kiểm điểm, rút kinh nghiệm, nhân rộng các mô hình sáng kiến thực

hiện tốt và chấn chỉnh những hạn chế, thiếu sót. Các cơ sở đảng, ban, ngành, địa

phương, đơn vị xây dựng chuẩn mực đạo đức, phong cách theo tư tưởng, tấm gương

đạo đức, phong cách Hồ Chi Minh phù hợp với tình hình, đặc điểm, điều kiện ở cấp

ủy, chi bộ, cơ quan, đơn vị từng địa bàn, lĩnh vực công tác. Cùng với việc thực hiện cuộc vận động, Thành ủy triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)

Về một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng. Cấp ủy các cấp đều đưa việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh thành giải pháp hàng đầu của công tác giáo dục chính trị tư tưởng gắn với thực hiện Quy định 101- QĐ/TW, ngày 7/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã đạt được chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động, tạo thêm động lực, trách nhiệm gương mẫu, đi đầu trong thực hiện nhiệm vụ.

Trong những năm đổi mới, tình trạng tham nhũng là một vấn đề có nhiều ảnh

hưởng lớn đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội tại Thành phố Hồ Chí Minh;

94

để lại những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí đặc biệt nghiêm trọng. Tuy Thành phố

đã đạt được những kết quả quan trọng trong việc phòng chống tham nhũng, lãng phí

từ việc thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn đảng theo tinh thần Nghị

quyết Trung ương 6 (lần 2) (khóa VIII) nhưng hiệu quả vẫn chưa cao. Tình trạng

tham nhũng vẫn diễn ra phổ biến ở tất cả các cấp, trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và hành vi tham những diễn ra với những thủ đoạn rất tinh vi. Do vậy,

một điểm nổi bật trong giai đoạn này trong lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố Hồ

Chí Minh là đổi mới mạnh mẽ trong công tác phòng chống, tham nhũng, lãng phí trong HTCT nhằm tạo điều kiện mạnh mẽ cho kinh tế, xã hội thành phố phát triển.

Đại hội lần thứ VIII Đảng bộ thành phố (nhiệm kỳ 2006 – 2010) đã xác định

chương trình cải cách hành chính và chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí là

chương trình đầu tiên trong 5 chương trình mang tính đòn bẩy của nhiệm kỳ Đại hội. Do vậy, sau khi Hội nghị lần thứ ba BCHTW (khóa X) đã ban hành Nghị quyết

số 04/NQ-TW ngày 21/8/2006 Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công

tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Thành ủy đã ban hành Chương trình hành

động số 13-Ctr/TƯ ngày 20/10/2006 Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí để thực hiện Nghị quyết 04-NQ/TW.

Ban Thường vụ Thành ủy đã thành lập Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng, lãng

phí của Thành phố Hồ Chí Minh do Chủ tịch UBND Thành phố làm Trưởng ban. Ở

cấp quận, huyện cũng thành lập Ban chỉ đạo. Ở cấp cơ sở không quy định thành lập

Ban Chỉ đạo, trừ các đơn vị thành lập theo yêu cầu của ngành, lĩnh vực do thành

phố quy định, các đơn vị còn lại công tác phòng chống tham nhũng sẽ giao cho thủ

trưởng đơn vị chịu trách nhiệm trực tiếp theo hướng dẫn của Ban Chỉ đạo phòng

chống tham nhũng quận, huyện. “Với việc ban hành quyết định thành lập Ban Chỉ

đạo phòng chống tham nhũng ở các đơn vị trực thuộc Thành phố, Thành phố Hồ

Chí Minh trở thành địa phương đầu tiên của cả nước vận dụng Nghị quyết 04- NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng trong công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí tới cấp quận, huyện và cơ sở” [80, tr. 93]. Để đổi mới công tác phòng chống tham nhũng theo hướng hiệu quả và thiết thực, trong 5 năm (2006 - 2010), Thành ủy, UBND Thành phố và Ban Chỉ đạo phòng chống tham nhũng Thành phố đã ban hành 21 văn bản định hướng cho các cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương cơ sở triển khai thực hiện nhiệm vụ phòng chống tham nhũng. Tính đến năm 2010, đảng bộ của 17/17 sở - ngành, 24/24 quận huyện, 322/322 xã - phường, thị trấn đã xây dựng kế hoạch, chương trình hành động về phòng chống tham nhũng. Đồng thời “trong 5 năm

(2006 - 2010), các đoàn kiểm tra của Thành ủy đã tiến hành kiểm tra việc thực hiện

95

Nghị quyết 04-NQ/TW đối với 12 cấp ủy trực thuộc Thành ủy. Các cấp ủy trực

thuộc Thành ủy đã chỉ đạo tiến hành tự kiểm tra, đã triển khai hàng ngàn cuộc kiểm

tra, thanh tra việc thực hiện Nghị quyết 04- NQ/TW và Luật phòng chống tham

nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí” [80, tr.97]. Qua đó đã có 2.357

đảng viên bị thi hành kỷ luật với tất cả các hình thức kỷ luật đảng; đối tượng bị xử lý là từ Thành ủy viên cho đến chi ủy viên. Trong đó, số lượng đảng viên bị khiển

trách là 1.160, cảnh cáo là 838, cách chức là 105, khai trừ là 254 trường hợp. Đối

với đảng viên giữ chức vụ thì có 1 Thành ủy viên, 62 huyện ủy viên và tương đương, 289 đảng ủy viên, 291 chi ủy viên. Kết quả đạt được một cách tổng thể là số

đảng viên vi phạm kỷ luật trong giai đoạn 2006 – 2010 giảm 10,3% so với nhiệm kỳ

trước đó [132]. Có nhiều trường hợp ngoài xử lý về mặt đảng và chính quyền đã

phải xử lý về mặt pháp luật một cách nghiêm khắc, kể cả là những người giữ chức vụ cao trong HTCT. Trong số 197 bị can bị khởi tố (từ năm 2007-1010) về các tội

phạm tham nhũng có 01 bị can nguyên là Thứ trưởng; 01 bị can nguyên là Phó vụ

trưởng; 01 bị can nguyên là Bí thư quận; 08 bị can nguyên là Chủ tịch, Phó chủ tịch

UBND các cấp; 19 bị can nguyên là giám đốc, phó giám đốc sở, ngành, doanh

nghiệp nhà nước; 07 bị can nguyên là trưởng, phó phòng các cơ quan nhà nước; 02

bị can nguyên là hiệu trưởng, phó hiệu trưởng; 04 bị can nguyên là chủ tịch, phó

chủ tịch các tổ chức đoàn thể, hội; 01 bị can nguyên là công an viên; 04 bị can

nguyên là thanh tra viên; 03 bị can nguyên là chấp hành viên; 04 bị can nguyên là

đội trưởng, phó đội trưởng thi công, giám sát xây dựng; 12 bị can nguyên là giám

đốc, phó giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty

nước ngoài [173].

Văn kiện Đại hội Đảng bộ lần thứ IX đã đánh giá: “công tác thanh tra công vụ,

phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí có chuyển biến tích cực; những vụ án

nghiêm trọng được phát hiện, xử lý nghiêm minh” [194]. Đó là cơ sở để đẩy mạnh việc chống tham nhũng trong những giai đoạn sau.

3.2.4. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Thành ủy đối với HĐND và

UBND Thành phố

Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với HTCT không chỉ là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ VIII mà còn là một nội dung quan trọng được xác định trong công tác xây dựng đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 4/2006). Đại hội xác định nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng là rà soát lại phương pháp lãnh đạo của đảng, trong đó xác định rõ, Đảng lãnh

đạo phải bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương

96

lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát

và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác

cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong các cơ quan của HTCT. Đảng lãnh đạo

thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của HTCT, tăng

cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng lãnh đạo HTCT, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng

và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu

sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.

Trên cơ sở những chủ trương chung đó trong giai đoạn từ 2006 đến năm 2013,

Đảng bộ thành phố đã tiếp tục có sự đổi mới trong phương thức lãnh đạo của đảng,

trước hết là của Thành ủy đối với chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần

chúng. Khuynh hướng chung là ngày càng sâu sát, thiết thực hơn; tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy đối với những vấn đề trọng yếu, đồng thời phát huy trách

nhiệm, tính năng động, sáng tạo của chính quyền, mặt trận và các đoàn thể, giữ

vững nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu;

chú trọng mở rộng, phát huy dân chủ trong đảng. Thành ủy đã chỉ đạo xây dựng và

thực hiện quy chế làm việc chặt chẽ, đúng chức năng của mỗi cấp; có phân công cụ

thể trách nhiệm tập thể và tăng cường trách nhiệm cá nhân cán bộ lãnh đạo trong

việc triển khai thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết.

Trước hết là về mối quan hệ công tác giữa Thành ủy với HĐND và UBND

thành phố. So với giai đoạn trước, đến lúc này, mối quan hệ công tác này được xác

định cụ thể hơn, thông qua mối quan hệ giữa Thành ủy với Đảng đoàn HĐND thành

phố và Ban Cán sự Đảng UBND thành phố. Cụ thể, trong điểm 2, Điều 10 của Nghị

quyết số 01-NQ/TU ngày 26/6/2001 về Quy chế làm việc của BCH Đảng bộ thành

phố Hồ Chí Minh Khoá VII (2001 - 2005) chỉ rõ: “HĐND, UBND Thành phố có

trách nhiệm thể chế hoá, cụ thể hóa và chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố, các Nghị quyết của Thành uỷ, của Ban Thường vụ Thành uỷ đối với

những vấn đề thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình; chủ trì chuẩn bị các chương trình kinh tế, xã hội để trình Hội nghị Thành uỷ hoặc Ban Thường vụ Thành uỷ thảo luận và quyết định”. Đến Quyết định số 242-QĐ/TU ngày 20/10/2006 của Thành ủy về Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố, Ban Thường vụ Thành ủy và Thường trực Thành ủy khóa VIII đã xác định cụ thể hơn là:

Thành ủy chỉ đạo Đảng đoàn HĐND thành phố chuẩn bị trình Ban Thường vụ Thành ủy cho ý kiến về những định hướng, chủ trương quan trọng trong chương

trình hoạt động, các kỳ họp và những quyết định của HĐND thành phố về kinh tế,

97

xã hội , ngân sách, quốc phòng - an ninh, những vấn đề liên quan đến đời sống nhân

dân, những vấn đề về tổ chức và cán bộ thuộc diện Thành ủy quản lý trước khi trình

HĐND thành phố quyết định. Đồng thời, Thành ủy chỉ đạo Ban cán sự Đảng

UBND thành phố chuẩn bị trình Ban Thường vụ Thành ủy cho ý kiến về các

chương trình, kế hoạch, đề án cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ về kinh tế, xã hội , ngân sách, quốc phòng - an ninh, mở rộng hợp tác liên doanh, liên

kết, những vấn đề về tổ chức và cán bộ thuộc diện Thành ủy quản lý trước khi tổ

chức thực hiện hoặc trình HĐND thành phố quyết định. Trong quá trình chuẩn bị những vấn đề trên, Đảng đoàn HĐND thành phố và Ban cán sự Đảng UBND thành

phố lựa chọn những vấn đề xét thấy đặc biệt quan trọng hoặc nhạy cảm để báo cáo

xin ý kiến Thường trực Thành ủy trước khi họp. Đặc biệt, công tác lãnh đạo của

Thành ủy đối với các cơ quan khác trong HTCT cũng được tập trung hơn vào những nội dung trọng yếu. Với HĐND, Thành ủy cho ý kiến về những định hướng,

chủ trương quan trọng trong chương trình hoạt động, các kỳ họp và những quyết

định của HĐND thành phố về kinh tế, xã hội, ngân sách, quốc phòng - an ninh,

những vấn đề liên quan đến đời sống nhân dân, những vấn đề về tổ chức và cán bộ

thuộc diện Thành ủy quản lý. Với UBND thành phố, Thành ủy cho ý kiến về các

chương trình, kế hoạch, đề án cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ về

kinh tế, xã hội , ngân sách, quốc phòng - an ninh, mở rộng hợp tác liên doanh, liên

kết, những vấn đề về tổ chức và cán bộ. Với các đoàn thể, Thành ủy cho ý kiến chỉ

đạo về những định hướng và chương trình công tác trong từng thời kỳ; về tổ chức

và cán bộ, về nhân sự cấp trưởng và cấp phó các đoàn thể. Với các cấp ủy trực

thuộc, Ban Thường vụ Thành ủy nắm và chỉ đạo các vấn đề cơ mật, trọng yếu về

quốc phòng - an ninh ở thành phố; bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối và trực tiếp của

đảng đối với Quân đội và Công an (thông qua cơ chế Bí thư Thành ủy làm Bí thư

Đảng ủy quân sự thành phố và tham gia Đảng ủy Quân khu; Phó Bí thư phụ trách Đảng ủy Công an thành phố). Các cấp ủy trực thuộc phải chịu trách nhiệm trước

Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy về toàn bộ hoạt động ở địa phương, đơn vị mình; kịp thời tổ chức triển khai có hiệu quả các chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và các chính sách, pháp luật của Nhà nước; thực hiện nghiêm chế độ báo cáo định kỳ và đột xuất về tình hình ở địa phương, đơn vị cho Ban Thường vụ Thành ủy. Việc xác định về mối quan hệ công tác như trên đã góp phần làm cho Đảng đoàn HĐND thành phố và Ban cán sự Đảng UBND thành phố thực sự là cầu nối, thực hiện tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện từ Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy đến HĐND, Thường trực HĐND và các Ban của HĐND thành phố, cũng như đến

UBND thành phố. Đồng thời cũng làm cho sự lãnh đạo và chỉ đạo của Thành ủy

98

được tập trung hơn vào những vấn đề trọng yếu, tăng cường tính chủ động cho

HĐND và UBND thành phố thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo luật định; ban

hành nhiều nghị quyết quan trọng, phát huy vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước

ở địa phương, góp phần phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh,

củng cố bộ máy chính quyền và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Thứ hai, Quy chế làm việc của Thành ủy cũng xác định một cách cụ thể về

trách nhiệm và quyền hạn của Ban Thường vụ Thành ủy cũng như của các Ủy viên

Ban Thường vụ Thành ủy (vấn đề chưa được đề cập cụ thể trong quy chế của nhiệm kỳ trước)

Thứ ba, Thành ủy cũng đề cao chế độ tự phê bình, phê bình và chất vấn trong

hoạt động của Thành ủy với những quy định cụ thể. Trong các Hội nghị Thành ủy,

dành thời gian cần thiết để các đồng chí Thành ủy viên thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình, chất vấn và cho ý kiến với báo cáo của Ban Thường vụ Thành ủy về

những công việc quan trọng mà Ban Thường vụ Thành ủy đã giải quyết giữa 2 kỳ

Hội nghị Thành ủy và những vấn đề mà Ban Thường vụ Thành ủy sẽ ban hành và

quyết định trong thời gian tới. Tại các Hội nghị Thành ủy cuối năm, Ban Thường vụ

Thành ủy có báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ Thành ủy

trong năm để Thành ủy xem xét, góp ý.

Một điểm nhấn nổi bật trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ thành

phố giai đoạn 2006 - 2013 là việc thực hiện thí điểm mô hình Bí thư cấp ủy đồng thời

là Chủ tịch UBND ở cấp xã và địa phương không tổ chức HĐND theo tinh thần Nghị

quyết Hội nghị BCHTW 6 (khóa X) ngày 2/2/2008 Về nâng cao năng lực lãnh đạo,

sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên và

Thông báo số 223-TB/TW, ngày 24/2/2009 của Bộ Chính trị BCHTW (Khóa X) về

thực hiện thí điểm đồng chí Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND ở cấp xã và

các cấp không tổ chức HĐND. Tuy nhiên, trước khi có Nghị quyết Trung ương 6 (Khóa X) của Đảng thì căn cứ vào tình hình thực tế tại thành phồ Hồ Chí Minh,

những năm cuối 1990 đầu 2000, Thành ủy thành phố đã từng có chủ trương thí điểm cơ chế bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch UBND phường. Thành ủy đã chọn Quận 1 và Quận 3, mỗi quận một phường để thực hiện thí điểm. Quận 1 là phường Bến Nghé; Quận 3 là Phường 2. Phường Bến Nghé chính thức thực hiện mô hình này từ tháng 1/2000. Phường 2, Quận 3 bắt đầu thí điểm mô hình Bí thư đảng ủy kiêm Chủ tịch UBND phường vào tháng 5/2001. Đến khi bắt đầu triển khai chủ trương của Đảng từ năm 2009 cho đến cuối năm 2013, thành phố đã có 04 quận - huyện (Quận 10, 11, Phú Nhuận và huyện Nhà Bè) và có 65/259 phường, 05 xã, 01 thị trấn) đã thực hiện

thí điểm Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch UBND. Kết quả của việc thực hiện mô

99

hình này tại Thành phố Hồ Chí Minh đã cho thấy những chuyển biến có hiệu quả cao

trong hoạt động của chính quyền cơ sở, trong đó nổi bật ở những điểm sau: Thứ nhất,

tạo được sự đồng bộ, thống nhất, kịp thời trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành các mặt

công tác ở địa phương, đẩy nhanh việc thực hiện đường lối chủ trương của Đảng,

chính sách pháp luật của Nhà nước, các nhiệm vụ trọng tâm ở cơ sở. Thứ hai, đề cao tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu, tạo sự thống

nhất, liên thông trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ giữa tổ chức đảng,

UBND, các tổ chức trong HTCT ở cơ sở, khắc phục tình trạng cấp ủy lấn sân, bao biện làm thay chính quyền hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo. Thứ ba, nâng cao vai trò

lãnh đạo của tổ chức đảng ở phường, xã. Mô hình nhất thể hóa cán bộ phù hợp với

chủ trương cải cách hành chính, tinh gọn bộ máy của Đảng, đảm bảo tiết kiệm về cơ

sở vật chất, kinh phí. Mô hình này còn góp phần giảm bớt cồng kềnh, chồng chéo về tổ chức, có lợi cho cải cách hành chính và thực hành tiết kiệm, giảm bớt được một

biên chế ở mỗi địa phương, làm cho tổ chức bộ máy gọn nh [109]

Nhìn chung, tuy đạt được nhiều kết quả như trên nhưng theo đánh giá của

Thành ủy việc đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đối với HTCT trong

giai đoạn này vẫn còn chậm; hội họp còn nhiều, cải cách thủ tục hành chính trong

Đảng chưa mạnh; công tác chuẩn bị, thẩm định các đề án, dự thảo Nghị quyết trước

khi ban hành còn hạn chế; chức năng, nhiệm vụ một số đảng đoàn, ban cán sự đảng,

đảng ủy cấp trên cơ sở không có chính quyền cùng cấp chưa được xác định rõ, hoạt

động còn lúng túng. Phương thức lãnh đạo của các cấp ủy đối với MTTQ và các

đoàn thể chậm đổi mới.

3.2.5. Đổi mới công tác cán bộ Để nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bộ thành phố thì công tác cán bộ

trong giai đoạn 2006 đến 2013 của Thành ủy được chú trọng hơn. Sau khi Bộ Chính

trị ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Ban

Thường vụ Thành ủy đã tiến hành sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII) về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ đồng thời ban hành Chỉ thị số 02-CT/TU, Kế hoạch số 05 - KH/TU ngày 12/7/ 2006 Về quy hoạch và đào tạo cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Quyết định số 199-QĐ/TU ngày 21/7/2006 Về tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trên cơ sở chỉ đạo của Ban Thường vụ Thành ủy, các đảng đoàn, ban cán sự đảng, các quận ủy, huyện ủy, đảng ủy cấp trên cơ sở và cơ sở trực thuộc Thành ủy, lãnh đạo các đơn vị, địa phương ngày càng nhận thức sâu sắc hơn Nghị quyết của Bộ

Chính trị về công tác quy hoạch cán bộ, xác định đây là một nhiệm vụ vừa mang

100

tính cấp bách trước mắt, vừa mang tính chiến lược lâu dài, có sự chuyển biến trong

chỉ đạo thực hiện công tác này tại từng địa phương, cơ quan, đơn vị, nhất là cấp

quận, huyện ngày càng chặt chẽ, nền nếp hơn, từng bước xây dựng được đội ngũ

cán bộ dự bị dồi dào về số lượng, được đào tạo cơ bản về chuyên môn, có phẩm

chất chính trị, đạo đức tốt; tỷ lệ cán bộ trẻ tuổi, cán bộ nữ từng bước được nâng lên. Một nội dung đổi mới rất có ý nghĩa của Thành ủy trong công tác quy hoạch cán bộ

giai đoạn này là việc xây dựng Chương trình tạo nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo,

quản lý xuất thân từ công nhân. Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 28/1/2008 của BCHTW (khóa X) Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt

Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và Chương trình hành động số 38-

CTrHĐ/TU ngày 8/7/2008 của Thành ủy Về thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW,

Ban Thường vụ Thành ủy đã xây dựng Chương trình tạo nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân nhằm thu hút, tuyển chọn sinh viên tốt

nghiệp đại học các ngành kỹ thuật, có lịch sử chính trị rõ ràng, không vi phạm tiêu

chuẩn theo quy định, là đảng viên hoặc đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí

Minh, tự nguyện tham gia chương trình và chấp hành sự phân công của tổ chức, có

triển vọng phát triển thành cán bộ lãnh đạo, quản lý. Khi được tuyển chọn, sinh viên

sẽ được bố trí làm việc tại các doanh nghiệp trong thời gian 3 năm và sẽ được cử đi

học cao cấp lý luận chính trị hệ tập trung. Sau khi hoàn thành khóa học, các đối

tượng này được bố trí công tác tại các quận, huyện. Tuy nhiên, trong các chương

trình tạo nguồn cán bộ thì chương trình tạo nguồn cán bộ xuất thân từ công nhân

còn rất mỏng về quy mô và kết quả; chưa tương xứng với khả năng to lớn của một

trung tâm kinh tế, một địa bàn có giai cấp công nhân đông nhất cả nước.

Bên cạnh những vấn đề trên, một thực thực trạng còn tồn tại của thành phố sau

nhiều năm là đội ngũ cán bộ, công chức khá đông nhưng một bộ phận không nhỏ

còn yếu kém về năng lực, trình độ so với yêu cầu, trách nhiệm trong thực thi công vụ. Nhiều cán bộ, công chức chưa quen với phương thức hoạt động của bộ máy nhà

nước trong nền kinh tế thị trường mang tính đa ngành đa lĩnh vực. Vì vậy, giải pháp đột phá là nâng cao năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức thông qua việc đào tạo, bồi dưỡng. Do đó, từ năm 2001, thành phố đã triển khai Đề án “Bảo đảm nguồn nhân lực cho HTCT của thành phố giai đoạn 2001 – 2005”, xây dựng kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng hàng năm nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức để phù hợp với yêu cầu trình độ của chức danh mà cán bộ, công chức đó đảm nhiệm; cử cán bộ, công chức tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng về tin học, ngoại ngữ, quản lý nhà nước…(Phụ lục 7). Đồng thời, thành phố cũng

đã tổ chức các lớp bồi dưỡng chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND và UBND

101

quận - huyện; bồi dưỡng trang bị kiến thức và kỹ năng hoạt động cho đại biểu

HĐND các cấp, kiến thức về chuyên môn cho các chức danh ở phường, xã, thị trấn

đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu nhiệm vụ quản lý nhà nước trên các lĩnh vực

và từng bước chuyên môn hóa đội ngũ cán bộ, công chức. Ngoài ra, để xây dựng

một đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ cao cho HTCT, Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ từ năm 2001 nhằm thu hút, tuyển

chọn cán bộ, công chức, viên chức và sinh viên mới tốt nghiệp đại học hệ chính quy

loại giỏi, có hạnh kiểm tốt. Sau khi được tuyển chọn, họ được cử đi đào tạo ở trong và ngoài nước, khi hoàn thành chương trình đào tạo sẽ được bố trí công tác tại các sở,

ngành, quận, huyện. (Phụ lục 2, 3). Nhìn chung, công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ,

công chức trong giai đoạn này đã có sự thay đổi vượt bậc so với các giai đoạn trước

đó, thể hiện ở số lượng lớn cán bộ, công chức tham gia đào tạo; nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng đa dạng và thiết thực với từng nhóm đối tượng cán bộ, đặc

biệt là gắn với chức danh công tác của từng cơ quan, đơn vị. Đặc biệt bên cạnh việc

đào tạo kiến thức chuyên môn, bắt đầu trong giai đoạn này, việc bồi dưỡng các kỹ

năng cho cán bộ là một nội dung được thành phố quan tâm nhằm phục vụ trực tiếp

cho mục tiêu cải cách hành chính. Phạm vi đào tạo cán bộ, công chức cũng được mở

rộng là không chỉ đào tạo trong nước mà còn có nhiều chương trình đào tạo nâng cao

ở nước ngoài. Tất cả những chuyển biến như trên đã góp phần hình thành đội ngũ cán

bộ, công chức thành phố theo hướng chuyên nghiệp trong một nền hành chính hiện

đại, phát triển phù hợp với những đòi hỏi ngày càng cao về yêu cầu quản lý trên địa

bàn một đô thị đặc biệt như Thành phố Hồ Chí Minh.

Có thể thấy, từ sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện khá tốt công tác quy

hoạch cán bộ trong thời gian này, việc sắp xếp, bố trí, kiện toàn đội ngũ cán bộ

được thuận lợi, có sự nhất trí cao trong nội bộ cấp ủy và lãnh đạo đơn vị; chất lượng

đội ngũ cán bộ trong quy hoạch ngày càng được nâng lên, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị, địa phương, bổ sung, tăng cường đội ngũ

chuyên gia, cán bộ kỹ thuật phục vụ yêu cầu quản lý, phát triển đô thị, thực hiện chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, 12 chương trình, công trình trọng điểm, 5 công trình đòn bẩy và 6 chương trình đột phá đề ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VII, VIII, IX.

3.3. Đổi mới tổ chức bộ máy chính quyền, đẩy mạnh cải cách hành chính 3.3.1. Kiện toàn tổ chức của UBND Thành phố và sắp xếp các đơn vị hành chính Điểm nổi bật đầu tiên trong việc đổi mới hệ thống chính quyền ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn này là bên cạnh việc hợp lý hóa chức năng, nhiệm vụ và quy

chế tổ chức và hoạt động của các cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND thành phố

102

thì UBND thành phố còn tích cực chỉ đạo củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy chính

quyền quận - huyện, phường - xã, thị trấn và hệ thống các cơ quan chuyên môn trực

thuộc UBND quận - huyện theo hướng tinh gọn, làm việc có hiệu quả, từng bước

cải tiến lề lối làm việc của các cơ quan nêu trên. Thông qua đó phát huy được chức

năng tham mưu và giúp UBND các cấp thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước trên địa bàn. Thực hiện Nghị định số 171/2004/NĐ-CP của Chính phủ, UBND thành

phố đã ban hành các Quyết định đổi tên Văn phòng UBND thành phố thành Văn

phòng HĐND và UBND thành phố, Văn phòng tiếp dân thành Văn phòng tiếp công dân Thành phố; Ban Tổ chức Chính quyền thành Sở Nội vụ; Sở Tài chính - Vật giá

thành Sở Tài chính, Sở Khoa học - Công nghệ và Môi trường thành Sở Khoa học và

Công nghệ; Hợp nhất Ủy ban Dân số - Kế hoạch hóa gia đình và Ủy ban Bảo vệ -

Chăm sóc trẻ em thành Ủy ban Dân số - Gia đình và Trẻ em Thành phố; chuyển Ban Chỉ đạo Xóa đói giảm nghèo thành Ban Chỉ đạo Xóa đói giảm nghèo và việc

làm Thành phố; chuyển Văn phòng Ban Chỉ đạo Xóa đói giảm nghèo và việc làm

về trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội. Thành phố cũng tiến hành sắp

xếp lại các sở, ngành liên quan lĩnh vực quản lý đô thị theo quy định của Chính phủ

và đặc điểm yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của Thành phố: thành lập Sở Tài

nguyên và Môi trường trên cơ sở tổ chức lại Sở Địa chính - Nhà đất, đồng thời

chuyển một số nhiệm vụ của Sở Địa chính - Nhà đất sang Sở Xây dựng; thành lập

mới Sở Bưu chính Viễn thông, Ban Quản lý khu đô thị Tây Bắc, Ban Quản lý Khu

đô thị mới Thủ Thiêm, Ban Chỉ đạo Nông nghiệp - Nông thôn. Thành phố đã thành

lập Trung tâm Xúc tiến thương mại và đầu tư trực thuộc UBND Thành phố trên cơ

sở tổ chức lại Trung tâm phát triển ngoại thương và đầu tư. Kiện toàn tổ chức Ban

Chỉ đạo cải cách hành chính thành phố và hợp nhất Viện Kinh tế Thành phố và Ban

Kinh tế Thành ủy thành Viện Kinh tế thành phố. Sau khi sắp xếp, bộ máy các cơ

quan chuyên môn thuộc UBND thành phố có 23 cơ quan chuyên môn; 12 đơn vị trực thuộc và 9 đơn vị sự nghiệp. Đối với các phòng, ban chuyên môn trực thuộc

UBND quận - huyện: thực hiện Nghị định số 172/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 9 năm 2004 của Chính phủ, UBND Thành phố đã ban hành Quyết định số 341/2004/QĐ-UB ngày 31/12/2004 về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc quận - huyện, theo đó quy định thống nhất quận - huyện tổ chức thành 13 phòng chuyên môn va 4 đơn vị sự nghiệp. Ngoài ra, để thực hiện Nghị quyết của HĐND Thành phố, UBND Thành phố đã thành lập Phòng Y tế trực thuộc UBND quận - huyện nhằm tăng cường chức năng quản lý nhà nước về y tế tại cơ sở, đồng thời chỉ đạo sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp y tế trực thuộc UBND quận - huyện theo hướng

103

phân định rõ hai chức năng điều trị và dự phòng.

Đồng thời với việc kiện toàn lại các cơ quan chuyên môn của UBND Thành

phố và quận - huyện, từ ngày 05/11/2003, thành phố cũng đã có sự sắp xếp lại các

đơn vị quận – huyện và phường – xã trên cơ sở chia tách và sáp nhập, do đó đã

nâng tổng số đơn vị cấp xã – phường lên là 317, bao gồm: 254 phường, 58 xã và 05 thị, số quận, huyện lên 24 đơn vị. Từ ngày 23/11/2006 số đơn vị cấp xã của Thành

phố được điều chỉnh là 322, bao gồm: 259 phường, 58 xã và 05 thị trấn. Việc phân

chia lại địa giới hành chính của các quận - huyện, phường – xã, thị trấn tại Thành phố là phù hợp với yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế, xã hội Thành phố khi

mà tốc độ đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng đồng thời với quy mô dân số ngày

càng đông. Việc điều chỉnh, chia tách những đơn vị hành chính có diện tích rộng,

dân số đông cũng được coi là một biện pháp có hiệu quả phù hợp với trình độ, năng lực quản lý, điều hành của cơ quan chính quyền địa phương thay vì phải áp dụng

các biện pháp khác như cơ chế đầu tư, chính sách tài chính, tăng cường cán bộ,

chính sách tiền lương. Chính điều này đã đáp ứng những đòi hỏi về việc chuyển đổi

mô hình quản lý ở các địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở từ đó dẫn đến đổi mới trong

hoạt động của HTCT theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, đáp ứng ngày càng cao

nhu cầu của nhân dân đối với nhà nước.

3.3.2. UBND Thành phố thực hiện phân cấp quản lý và xây dựng nền hành

chính hiện đại

Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2013 là giai đoạn mà việc đổi mới hoạt động

của hệ thống chính quyền thành phố diễn ra một cách toàn diện và đồng bộ nhất so

với giai đoạn trước đó. Về mặt chủ trương, Thành ủy và UBND thành phố đã có

nhiều Nghị quyết, Chương trình hành động để thực hiện việc cải cách hành chính,

đổi mới hoạt động của hệ thống chính quyền. Trên cơ sở Chương trình tổng thể cải

cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VII và thứ VIII, đồng thời trên cơ sở Nghị

định số 93/2001/NĐ-CP Chính phủ ngày 12/12/2001 Về phân cấp quản lý một số lĩnh vực cho Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24/10/2002, UBND thành phố đã ban hành Quyết định 119/2002/QĐ-UB Về việc ban hành chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2001-2005 của Thành phố Hồ Chí Minh trong đó xác định mục tiêu chung của cải cách hành chính là “Xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, từng bước hiện đại hóa nền hành chính, thể hiện rõ bản chất chính quyền của dân, do dân, vì dân và phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn ; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, có

104

năng lực đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển của thành phố ; triển khai và thực

hiện có hiệu quả Nghị định của Chính phủ về phân cấp quản lý một số lĩnh vực cho

thành phố” [149]

Do đặc thù của Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị, Chính phủ đã ban hành

nhiều nghị quyết, chỉ thị riêng cho thành phố như: Nghị định số 93/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/12/2001 Về phân cấp quản lý một số lĩnh vực cho Thành

phố Hồ Chí Minh, Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 18/11/2002 của Bộ Chính trị Về

phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010, Nghị định số 124/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ Về một số cơ chế tài chính

ngân sách đặc thù đối với Thành phố Hồ Chí Minh... Trên cơ sở những chủ trương

đó, ngay từ đầu Thành phố đã chủ động chuẩn bị trước những nội dung cần thiết

nên khi các quy định có hiệu lực đã triển khai nhanh chóng các văn bản thuộc thẩm quyền để tổ chức thực hiện. Chính sự chủ động này đã tạo điều kiện để thành phố

phát huy sự năng động, sáng tạo trong công tác quản lý nhà nước tại địa phương,

huy động nhiều nguồn lực xã hội cho sự phát triển kinh tế, xã hội ; giúp thành phố

có cơ sở tiến hành phân cẩp, ủy quyền cho các cơ quan đơn vị, qua đó đã giảm thiểu

tình trạng hồ sơ bị tồn đọng do quá tải vì phải tập trung về một đầu mối, góp phần

rút ngắn thời gian hoàn tất hồ sơ, tăng cường khả năng quản lý điều hành, nâng cao

tinh thần tự chủ, tự chịu trách nhiệm.

Quá trình cải cách nền hành chính, đổi mới hoạt động của chính quyền các cấp

không thể tách rời việc hiện đại hóa công tác quản lý nhà nước trên cơ sở áp dụng

các công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin. Từ yêu cầu đó, cùng với việc

thực hiện Quyết định 112/QĐ-TTg ngày 25/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ (Đề

án 112), từ năm 2001 đến 2013 là giai đoạn mà Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện

triển khai việc tin học hóa quản lý nhà nước một cách mạnh mẽ. Các ngành, các cấp

từ thành phố đến cơ sở đều đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành và phục vụ nhân dân. Qua đề án này, mạng thông tin diện rộng của Văn

phòng Chính phủ, Văn phòng HĐND và UBND thành phố đã được kết nối đến hầu hết các đơn vị cơ sở. Có 26 sở, ngành, quận - huyện và tổng công ty đã tham gia mạng cityweb. Qua đó đã cung cấp được thông tin pháp luật và thông tin ngành, địa phương mà công dân và doanh nghiệp quan tâm. Đồng thời cũng đã cung cấp một số dịch vụ hành chính công qua mạng. Kết quả là trong giai đoạn 1 của chương trình cải cách hành chính 10 năm, cityweb của thành phố đã có 28 dịch vụ trên mạng với số lượt truy cập trung bình 9 triệu lượt/tháng, trong đó có việc cấp phép thành lập doanh nghiệp qua mạng của Sở Kế hoạch và Đầu tư. Theo đánh giá

chung, việc ứng dụng công nghệ thông tin ở các cấp, ngành từ thành phố đến cơ sở

105

bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần từng bước nâng cao hiệu

lực, hiệu quả quản lý nhà nước và đáp ứng các nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, việc thực

hiện Đề án 112 vẫn còn nhiều hạn chế, thậm chí bị đánh giá là còn lãng phí, kém

hiệu quả và chưa đúng tầm. Một bước cải tiến quan trọng trong hoạt động của

Thành phố Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Chính phủ điện tử giai đoạn này là thí điểm đưa vào hoạt động Hệ thống Đối thoại doanh nghiệp – chính quyền thành phố

từ tháng 5/2003 bằng Quyết định Số 133/2002/QĐ-UB của UBND thành phố ngày

18/11/2002. Tính đến tháng 9/2007, sau 4 năm hoạt động với sự tham gia của 23 sở, ban ngành, hệ thống đối thoại đã giải đáp trên 4.884 câu hỏi, liên quan đến nhiều

lĩnh vực như thuế, hải quan, Lao động - Thương Binh - Xã hội, Tài nguyên - Môi

trường, Xây dựng… góp phần cung cấp thông tin hai chiều giữa chính quyền -

doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong quá trình đầu tư và giúp chính quyền điều chỉnh cơ chế chính sách phù hợp với môi trường đầu tư mới. Qua

đó các cơ quan chuyên môn của UBND thành phố sẽ có điều kiện tiếp nhận nhiều

hơn những yêu cầu, đóng góp của doanh nghiệp đối với chính sách quản lý của

thành phố [166].

Bên cạnh việc thực hiện đề án tin học hóa thành phố còn có sáng kiến mạnh

dạn đề xuất áp dụng quản lý chất lượng cung cấp dịch vụ hành chính công theo tiêu

chuẩn quản lý chất lượng tiên tiến ISO-9000 thí điểm tại quận 1 (tháng 6/2000),

được cấp chứng chỉ phù hợp tiêu chuẩn ISO ngày (3/2/2002). Sau đó, Thành phố

Hồ Chí Minh có chủ trương áp dụng ISO-9000 đại trà cho các sở-ngành, quận-

huyện. Thực hiện mô hình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO-9000 trong cơ

quan hành chính là đã thiết lập một công nghệ hành chính tiên tiến trong hoạt động

của các cơ quan quản lý nhà nước. Kết thúc giai đoạn 1 của chiến lược cải cách

hành chính (2001 – 2005), thành phố có 17 đơn vị sở - ngành triển khai áp dụng hệ

thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 trong quản lý và phục vụ công dân, doanh nghiệp, trong đó có 9 đơn vị đã được đánh giá, cấp giấy chứng

nhận; 16 quận - huyện triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 trong quản lý hành chính và cung ứng dịch vụ hành chính cho công dân và doanh nghiệp, trong đó có 2 quận (quận 1 và quận 6) đã được đánh giá, cấp giấy chứng nhận.

Đối với việc thực hiện cơ chế “một cửa, một dấu” đã được thành phố tiến hành trong giai đoạn trước thì sang giai đoạn này để tiếp tục hoàn thiện mô hình, ngày 30/8/2004, UBND Thành phố Hồ Chí Minh ban hành quyết định phê duyệt đề án thí điểm thành lập Tổ nghiệp vụ hành chính công tại các Quận 3, 11, Bình Thạnh. Năm

2005, nhận thấy đây là mô hình tốt, UBND Quận Tân Bình xin được thành lập tổ

106

nghiệp vụ hành chính công theo mô hình của 3 quận được chọn làm thí điểm và

được UBND thành phố đồng ý. Tổ nghiệp vụ hành chính công trực thuộc UBND

quận, hoạt động theo qui trình khép kín, đảm nhiệm từ khâu tiếp nhận hồ sơ, trực

tiếp thụ lý đến đề xuất lãnh đạo UBND ký quyết định và hoàn trả tận tay công dân.

Khi người dân có nhu cầu giải quyết hồ sơ hành chính chỉ cần đến nộp hồ sơ hợp lệ tại bộ phận tiếp nhận của Tổ nghiệp vụ hành chính công. Đúng ngày h n trong biên

nhận, người dân đến để lấy hồ sơ đã được giải quyết. Trong thời gian làm thí điểm,

tổ giải quyết hồ sơ giới hạn ở các lĩnh vực: cấp giấy phép kinh doanh, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất, cấp giấy phép xây dựng, giấy

phép đào đường... Mô hình Tổ nghiệp vụ hành chính công là sự cố gắng tìm tòi một

hình thức có tính đổi mới để đạt mục đích nâng cao hiệu quả giải quyết thủ tục hành

chính của Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, điểm tồn tại căn bản nhất (mặc dù vẫn trong khuôn khổ thí điểm) là mô hình này đã đụng chạm đến mô hình tổ chức

cơ quan tham mưu giúp việc cấp quận, huyện (Nghị định 172/2004/NĐ-CP ngày

29/9/2004) và đặc biệt là tính pháp lý của Tổ nghiệp vụ hành chính công. Vì về mặt

tổ chức, tổ không có tên trong bộ máy hành chính cấp quận và tổ trưởng cũng

không có vị trí nào trong bộ máy. Chính vì thiếu tính pháp lý nên tổ gặp khó khăn

trong phối hợp với các phòng ban khác trong công tác, làm ảnh hưởng đến thời gian

thụ lý hồ sơ, gây ảnh hưởng đến tổ chức bộ máy cấp quận, huyện. Tổ nghiệp vụ

hành chính công cũng không thay thế được các cơ quan chuyên môn, không đủ

nhiệm vụ chức năng để giải quyết các lĩnh vực. Do Tổ không đủ thẩm quyền nên

không thể bao quát hết và như vậy người dân vẫn phải đi lại nhiều lần. Thậm chí đã

có dấu hiệu tiêu cực khi thực hiện chức năng của tổ nghiệp vụ hành chính công mà

dư luận đã có từng phản ánh. Điều này cần phải có sự điều chỉnh cho phù hợp trong

giai đoạn sau. Đối với Thành phố Hồ Chí Minh thì một trong những vấn đề nổi lên

hàng đầu trong quản lý hành chính nhà nước là vấn đề đất đai, thủ tục nhà đất. Do đó, từ năm 2002, Sở Tài nguyên và Môi trường đã tiến hành thành lập hai trung tâm

dịch vụ hành chính hoạt động tách khỏi cơ quan quản lý là Trung tâm thông tin và đăng ký nhà đất (đến năm 2010 được đổi tên thành Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất) do phòng cấp chủ quyền nhà và phòng quản lý đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường đảm nhiệm trước đây và Trung tâm kiểm định bản đồ và tư vấn địa ốc, được tách ra từ bộ phận đo đạc bản đồ thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường. Đây đều là hai đơn vị sự nghiệp công có thu. Việc tách một bộ phận công việc giải quyết hồ sơ đăng ký về giao dịch nhà đất từ phòng, ban thuộc Sở (quản lý nhà nước) để chuyển giao cho hai mô hình dịch vụ công này đã cho thấy nhiều ưu điểm. Ngoài ra,

UBND Thành phố Hồ Chí Minh cũng cho phép huyện Cần Giờ được thí điểm thành

107

lập Trung tâm dịch vụ hành chính nhà đất trên cơ sở nâng cấp đội đo đạc dịch vụ

địa chính huyện, đi vào hoạt động từ cuối năm 2003 theo Quyết định số

285/2003/QĐ-UB ngày 8/12/2003. Tuy nhiên qua thực tế, hoạt động của trung tâm

trở nên trùng lắp với các đơn vị như Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cũng

như bộc lộ nhiều sai sót trong công tác.

Trong quá trình thực hiện mô hình “một cửa, một dấu” trong hoạt động của

các cơ quan hành chính đã xuất hiện nhiều bất cập về mặt kỹ thuật và pháp lý nên từ

năm 2008, thành phố đã bỏ cơ chế “một dấu”. Từ đó, cùng với yêu cầu trong việc thực hiện Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 của Thủ tướng Chính

phủ Về thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính

nhà nước ở địa phương, thành phố đã triển khai việc thực hiện cơ chế “một cửa” và

“một cửa liên thông” ở các cơ quan hành chính các cấp. Đến năm 2010, việc thực hiện cơ chế “một cửa” đã được áp dụng tại tất cả các sở, ngành và 24/24 quận -

huyện cũng như 322/322 phường – xã, thị trấn. Hầu hết các lĩnh vực áp dụng đều

xây dựng quy trình có hướng dẫn chi tiết, toàn bộ quy trình, thủ tục, thời hạn giải

quyết công việc của người dân và doanh nghiệp đều được niêm yết công khai tại

bảng hướng dẫn và trang web của cơ quan. Việc thực hiện giải quyết hồ sơ hành

chính thực hiện tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả ở quận - huyện. Có 24/24

UBND quận - huyện đã triển khai quy trình liên thông hoàn chỉnh giữa UBND quận

- huyện và UBND phường - xã, thị trấn trên lĩnh vực đất đai, xây dựng, đăng ký

kinh doanh, đăng ký mã số thuế và hộ tịch, bảo hiểm y tế, đăng ký, quản lý cư trú.

Ngày 30/01/2013, UBND thành phố ban hành Quyết định số 07/2013/QĐ-UBND

Về quy chế phối hợp thực hiện liên thông nhóm thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực

hộ tịch, bảo hiểm y tế và đăng ký, quản lý cư trú trên địa bàn. Sau 1 năm thực hiện

đã có 100% phường - xã, thị trấn triển khai thực hiện liên thông nhóm thủ tục trên.

Quy trình liên thông này được đánh giá mang lại lợi ích, thiết thực và được người dân rất đồng tình ủng hộ. Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân

trong việc giải quyết thủ tục hành chính, Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Xây dựng, Quận 3, 8, 12, Tân Bình, Bình Tân, Tân Phú, huyện Bình Chánh, Củ Chi… đã phối hợp với Bưu điện thành phố thực hiện dịch vụ chuyển phát kết quả giải quyết hồ sơ hành chính; UBND huyện Hóc Môn xây dựng phần mềm nhắn tin tự động báo kết quả giải quyết thủ tục hành chính cho người dân; Sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện việc gửi thông tin về quá trình xử lý hồ sơ đăng ký đầu tư đến các nhà đầu tư và doanh nghiệp thông qua hệ thống email tự động nhằm giúp theo dõi tiến độ xử lý hồ sơ một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất.

Thành phố Hồ Chí Minh cũng là địa phương đầu tiên trong cả nước áp dụng

108

mô hình “Một cửa điện tử” để giải quyết các công việc liên quan đến thủ tục hành

chính. Để có thể cung cấp thông tin cho “Một cửa điện tử”, từ năm 2005 Thành phố

Hồ Chí Minh đã tập trung thực hiện chương trình chính phủ điện tử với việc ứng

dụng công nghệ thông tin bắt đầu từ các quận huyện với mục tiêu là chuyển dịch vụ

công thông thường sang dịch vụ công trực tuyến; chuyển từ xử lý hồ sơ bằng tay sang xử lý bằng máy tính; kết nối các máy tính riêng lẻ vào một hệ thống máy tính.

Đồng thời, thành phố cũng xác định mục đích của chính phủ điện tử là phục vụ

người dân; giúp cơ quan quản lý xử lý thông tin nhanh, nhiều và chính xác; công khai, minh bạch hóa hoạt động của cơ quan nhà nước và là công cụ đồng thời là nội

dung của cải cách hành chính. Các lĩnh vực cần tập trung thực hiện trước gồm: đất

đai-xây dựng, đăng ký kinh doanh và văn phòng điện tử (môi trường làm việc điện

tử). Việc đầu tư được thực hiện trước tiên ở cấp quận - huyện nơi phục vụ người dân nhiều nhất, trực tiếp nhất và có khối lượng thông tin cần xử lý nhiều nhất. Từ

kết quả thực hiện thí điểm thì hệ thống “một cửa điện tử” chính thức đã được triển

khai vào ngày 15/12/2007 và là hệ thống “Một của điện tử” đầu tiên trong cả nước

được xây dựng với mục tiêu giám sát chất lượng dịch vụ công. Sở Bưu chính - Viễn

thông Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức khai trương trang thông tin “Một cửa

điện tử” nhằm phục vụ cải cách hành chính trên địa bàn thành phố vào ngày

16/3/2007. Đến ngày 15/12/2008, hệ thống “một cửa điện tử” của thành phố chính

thức được đưa lên mạng Internet tại địa chỉ www.hochiminhcity.gov.vn. Qua hệ

thống này, mọi người dân đều có thể biết được tình trạng giải quyết hồ sơ của toàn

thành phố, của từng quận –huyện, sở. Dịch vụ này sẽ giúp người dân có được thông

tin chính xác, ở mọi nơi mọi lúc, không phụ thuộc vào thái độ, tác phong làm việc

của cán bộ hành chính. Đến năm 2010, Thành phố Hồ Chí Minh đã có 78 đơn vị

thành viên và các sở ngành thành lập website cung cấp thông tin về các dịch vụ

công trực tuyến và hướng dẫn thủ tục hành chính cho người dân. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là đơn vị đi đầu trong cấp phép trực tuyến gồm cấp giấy phép qua mạng

đối với giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đầu tư và giấy phép thành lập văn phòng đại diện. Hàng năm, có hàng chục ngàn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và có trên 50% doanh nghiệp đăng ký trực tuyến.

3.2.4. Nâng cao hiệu quả ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đơn giản

hóa thủ tục hành chính

Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2013 là giai đoạn mà việc đổi mới hoạt động của hệ thống chính quyền với trọng tâm là cải cách hành chính được tiếp tục đẩy mạnh từ kết quả của giai đoạn trước. Trên cơ sở tiếp tục thực hiện Chương trình

tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 của Thủ tướng Chính

109

phủ, UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 117/2006/QĐ-UBND ngày

21/7/2006 Về kế hoạch triển khai Chương trình hành động thực hiện Chương trình

cải cách hành chính, chống quan liêu giai đoạn 2006 – 2010. Đây là văn bản quan

trọng định hình toàn bộ việc đổi mới hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp

hướng đến mục tiêu tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế thành phố phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng, gồm: đổi mới quy trình, nâng

cao chất lượng xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cấp có

thầm quyền; điều chỉnh và kiện toàn hệ thống quản lý hành chính Nhà nước từ thành phố đến cơ sở; tiếp tục đổi mới việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ,

công chức của thành phố.

Trong quá trình đổi mới hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp, Thành

phố Hồ Chí Minh luôn xác định công tác ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những nội dung quan trọng nhằm từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản

pháp quy, tạo cơ sở pháp lý để các ngành, các cấp thực hiện quản lý nhà nước, nhất

là đối với những vấn đề mang tính đặc thù đô thị. Trong giai đoạn 2001 – 2013,

HĐND và UBND thành phố đã ban hành hơn 2.000 văn bản quy phạm pháp luật để

giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các văn bản của Trung

ương và điều chỉnh những quan hệ xã hội nảy sinh trong thực tế, góp phần hoàn

thiện hệ thống pháp luật, giữ vững ổn định chính trị, nâng cao hiệu lực, hiệu quả

quản lý nhà nước của chính quyền. Để chấn chỉnh và tăng cường công tác soạn

thảo, ban hành văn bản, UBND thành phố đã ban hành nhiều Chỉ thị, Quyết định có

liên quan công tác xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn.

Đồng thời, để nâng cao năng lực của cán bộ, công chức soạn thảo, góp ý, thẩm định

văn bản quy phạm pháp luật, UBND thành phố đã ban hành Quyết định phê duyệt

Chương trình hoàn thiện và nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, ban hành văn bản

quy phạm pháp luật giai đoạn năm 2006 - 2010, trong đó đã đề ra giải pháp lâu dài và giải pháp trước mắt nhằm chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của các cơ

quan, đơn vị trong công tác xây dựng và ban hành văn bản. Bốn đề án được UBND thành phố triển khai bao gồm: (1) Hoàn thiện quy trình xây dựng ban hành văn bản quy phạm pháp luật của UBND các cấp; (2) Xây dựng và kiện toàn tổ chức pháp chế tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố; (3) Tăng cường năng lực soạn thảo văn bản của đội ngũ cán bộ các ngành, các cấp trực tiếp tham gia công tác xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật; (4) Xây dựng cơ sở dữ liệu văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền thành phố từ năm 1975 đến nay, đưa ra giải pháp lâu dài và trước mắt nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, đơn

vị, chấn chỉnh và khắc phục những hạn chế trong công tác xây dựng và ban hành

110

văn bản. Ngày 27/6/2008, UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 2739/QĐ-

UBND về việc ban hành Kế hoạch tổng rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm

pháp luật tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1976 đến năm 2008. Việc tổng rà soát

được tiến hành theo 2 giai đoạn và được triển khai một cách đồng bộ, có hiệu quả

với một khối lượng lớn các văn bản pháp luật được kiểm tra. Sở Tư pháp đã kiểm tra 2.178 văn bản do HĐND, UBND thành phố ban hành và đã phát hiện 57 văn bản

có nội dung không phù hợp pháp luật, Sở đã tham mưu xử lý 46 văn bản bằng hình

thức bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung các văn bản khác thay thế [166]. Đối với văn bản do HĐND, UBND quận - huyện ban hành, Sở Tư pháp đã kiểm tra 979/1.093 văn bản

và phát hiện 69 văn bản có nội dung không phù hợp pháp luật, đã thông báo cho cơ

quan ban hành văn bản tự kiểm tra và xử lý 55 văn bản; đối với các văn bản do cá

nhân, tổ chức không có thẩm quyền ban hành, Sở đã phối hợp với các cơ quan kiểm tra kiến nghị UBND thành phố chỉ đạo thu hồi, bãi bỏ 3 văn bản [166]. Từ năm

2011 đến cuối năm 2013, thành phố đã thực hiện rà soát 08 chuyên đề, với 1.887

văn bản, trong đó: triển khai Nghị định số 16/2013/NĐ-CP ngày 6/2/2013 của

Chính phủ về rà soát, hệ thống hóa VBQPPL trên địa bàn thành phố, Sở Tư pháp đã

chủ trì và phối hợp các sở ngành rà soát 879 văn bản với 33 lĩnh vực. Kết quả, tổng

số văn bản hết hiệu lực toàn bộ 58 văn bản, còn hiệu lực 821 (trong đó, số văn bản

hết hiệu lực một phần 67/821 văn bản, số văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi

bỏ 357/821 văn bản) [166].

Việc kiểm tra, rà soát và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật đã tạo

nên một bước cải tiến quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước của chính quyền

các cấp; góp phần làm cho công tác ban hành văn bản được thực hiện chặt chẽ hơn,

đúng thẩm quyền, không vi phạm các văn bản pháp luật của các cơ quan cấp trên.

Đồng thời với việc rà soát thì việc công bố các văn bản quy phạm pháp luật mà

thành phố ban hành đã tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp và người dân có điều kiện tìm hiểu một cách nhanh chóng và thuận lợi nhất, góp phần trực tiếp vào quá

trình cải cách hành chính.

Ngày 10/01/2007 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 30/QĐ-TTg Phê duyệt Đề án Đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 – 2010 (gọi là Đề án 30). Đây là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2006- 2010 của Chính phủ, với mục tiêu nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, đơn giản, công khai, minh bạch của thủ tục hành chính; tạo sự thuận lợi cho cá nhân và tổ chức trong tiếp cận và thực hiện thủ tục hành chính; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý

nhà nước và thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội; góp phần phòng, chống tham nhũng

111

và lãng phí. Trên cơ sở này, UBND thành phố đã ban hành Quyết định số 4358/QĐ-

UBND ngày 14/10/2008 Về kiện toàn Tổ công tác thực hiện Đề án đơn giản hóa thủ

tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 – 2010 của Thành

phố Hồ Chí Minh. UBND thành phố đã chỉ đạo việc rà soát các thủ tục hành chính

theo hướng xem xét thủ tục nào cần loại bỏ, giảm bớt hoặc cần điều chỉnh cho phù hợp, thực hiện công khai minh bạch, hướng dẫn rõ ràng và thường xuyên cập nhật

thông tin để người dân và doanh nghiệp dễ hiểu, dễ thực hiện. Thành phố cũng đã

hoàn chỉnh công tác thống kê thủ tục hành chính và công bố bộ thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của sở, ban, ngành (1.681 thủ tục hành chính). UBND

thành phố đã ban hành Quyết định số 3792/QĐ-UBND ngày 21/7/2009 công bố bộ

thủ tục hành chính chung áp dụng tại quận - huyện là 638 thủ tục hành chính; Quyết

định số 3451/QĐ-UBND ngày 17/7/2009 công bố bộ thủ tục hành chính chung áp dụng tại phường – xã, thị trấn là 172 thủ tục hành chính. Cùng với đó, UBND thành

phố đã ban hành Quyết định số 4915/QĐ-UBND ngày 11/9/2013 Về việc thông qua

phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính thuộc phạm vi quản lý nhà nước với 77

thủ tục hành chính được rà soát. Kết quả đã đơn giản hóa được 15,6% trong tổng số

77 thủ tục hành chính tiết kiệm được 446 triệu đồng [166]. Điều này đã góp phần

quan trọng vào việc xây dựng một nền hành chính thống nhất, đồng bộ và minh

bạch; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong mối quan hệ với

các cơ quan nhà nước, phòng chống tiêu cực, nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ,

công chức trong thực thi công vụ.

3.2.5. Cải cách tài chính công đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực

thuộc chính quyền cấp thành phố và quận, huyện

Để đổi mới hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp thì một nội dung cũng

được thành phố chỉ đạo thực hiện một cách mạnh mẽ và có những thay đổi quan

trọng trong giai đoạn này chính là việc thực hiện cải cách tài chính công. Công tác này đã tiếp tục được mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo sự chuyển biến tích cực trong

việc quản lý tài sản công, tài chính công; phát huy nội lực, tăng cường khai thác các nguồn thu, đồng thời với việc huy động toàn xã hội chăm lo phát triển kinh tế, phát triển sự nghiệp văn hóa - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội của thành phố. Thực hiện Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi và Nghị định số 124/2004/NĐ-CP ngày 18/5/2004 của Chính phủ về một số cơ chế tài chính ngân sách đặc thù đối với Thành phố Hồ Chí Minh, việc quản lý và điều hành thu chi ngân sách, phân cấp quản lý ngân sách của thành phố đã tiếp tục được đổi mới theo hướng tăng tính chủ động, tăng thẩm quyền và trách nhiệm của quận – huyện và cấp

cơ sở trong quản lý tài chính, ngân sách. Đặc biệt, thẩm quyền quyết định ngân sách

112

địa phương của HĐND cấp thành phố đã được bảo đảm. Việc phân cấp quản lý

ngân sách cho cấp quận - huyện đã có kết quả thực sự phát huy sự chủ động của

chính quyền địa phương trong khai thác nguồn thu để phục vụ cho nhu cầu chi ngân

sách đảm bảo nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội tại địa phương. Đến năm 2006,

Chính phủ ban hành Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài

chính đối với sự nghiệp công lập. Trên cơ sở Quyết định của Thủ tướng Chính phủ,

các Nghị định của Chính phủ và văn bản hướng dẫn của các Bộ ngành liên quan, UBND thành phố đã giao nhiệm vụ cho các sở - ngành chức năng phổ biến, hướng

dẫn, triển khai và tổ chức thực hiện việc giao quyền tự chủ cho tất cả các đơn vị sự

nghiệp công lập trực thuộc thành phố cũng như quận - huyện. Nhìn chung, các

ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị trên địa bàn thảnh phố đã quán triệt đầy đủ và nghiêm túc thực hiện các chủ trương của Chính phủ. Đến năm 2010, UBND thành

phố và các quận - huyện đã thực hiện giao quyền tự chủ cho hầu hết các đơn vị sự

nghiệp công lập trực thuộc. Khối thành phố: có 297/299 đơn vị thực hiện giao tự

chủ theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, đạt 99% đơn vị (còn 02 đơn vị thuộc Sở

Lao động - Thương binh và Xã hội chưa giao do có 01 đơn vị mới thành lập và 01

đơn vi mới chia tách). Các đơn vị được giao tự chủ đều quản lý và điều hành theo

Quy chế chi tiêu nội bộ, tiết kiệm chi tăng thu nhập bình quân ước khoảng 0,8 lần

so với mức tiền lương quy định. Khối quận - huyện: Có 1.370/1.370 đơn vị thực

hiện giao tự chủ theo Nghị định sô 43/2006/NĐ-CP, đạt 100% tổng số đơn vị sự

nghiệp công lập. Các đơn vị thực hiện giao quyền tự chủ đã xây dựng và thực hiện

Quy chế chi tiêu nội bộ theo quy định [166]. Nhìn chung, việc giao tự chủ tài chính

cho các đơn vị sự nghiệp công lập đã giúp mở rộng và đa dạng hóa các loại hình

cung ứng dịch vụ đáp ứng yêu cầu hoạt động của đơn vị; bảo đảm chi tiêu hiệu quả,

tiết kiệm, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, phân định rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước và dịch vụ đối với các đơn vị sự nghiệp có thu. Các nguồn thu

từ hoạt động sự nghiệp và hoạt động dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp góp phần tạo thêm nguồn vốn đầu tư, nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ công, nhất là những dịch vụ thiết yếu phục vụ người dân. Việc thực hiện cải cách tài chính công là một chủ trương rất đúng đắn, phù hợp với nhu cầu thực tiễn ở Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này đã góp phần nâng cao trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị, tăng cường sự giám sát của cán bộ, công chức, viên chức trong việc sử dụng biên chế, kinh phí để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời từng bước hạn chế tình trạng cấp trên can thiệp quá sâu vào công việc cấp dưới, cấp dưới trông chờ vào sự chỉ

đạo cụ thể của cấp trên; chủ động phân bổ tài chính theo nhu cầu. Cùng với chính

113

sách về tinh giản biên chế, cơ chế tự chủ đã tạo động lực để các cơ quan, đơn vị tích

cực rà soát, cơ cấu lại biên chế, lao động theo hướng hợp lý, gọn nh hơn. Hiệu quả

còn thể hiện rõ là thu nhập của người cán bộ, công chức, viên chức, người lao động

từng bước được cải thiện; thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính trong khâu phân bổ,

chấp hành và quyết toán ngân sách Nhà nước...

3.2.6. Thí điểm mô hình quận, huyện, phường không tổ chức HĐND Ngoài những giải pháp được triển khai nhằm đổi mới hoạt động của hệ thống

chính quyền từ chủ trương của UBND thành phố thì từ năm 2008, Thành phố Hồ Chí Minh được chọn làm thí điểm mô hình chính quyền không tổ chức HĐND

quận, huyện, phường cùng với các địa phương là: Lào Cai; Vĩnh Phúc; Nam Định;

Quảng Trị; thành phố Đà Nẵng; Phú Yên; Bà Rịa - Vũng Tàu; Kiên Giang, theo

Nghị quyết số 724/2009/UBTVQH12 ngày 16/01/2009 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội. Trên cơ sở chủ trương đó của Quốc hội, ngày 30/3/2009, UBND Thành

phố Hồ Chí Minh đã ban hành Kế hoạch số 1323/UBND-VX của UBND thành phố

Về thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường tại Thành phố Hồ

Chí Minh. Việc thí điểm này chính thức được triển khai thực hiện tại thành phố từ

ngày 25/4/2009. Để thực hiện kế hoạch này UBND đã ban hành tiếp Quyết định số

19/2010/QĐ-UBND ngày 29/3/2010 Về “Ban hành Quy chế làm việc (mẫu) của

UBND quận - huyện thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND”. Nhìn chung, Thành

phố Hồ Chí Minh đã đạt được kết quả quan trọng trong việc thí điểm mô hình này,

đó là: không làm xáo trộn tổ chức, hoạt động của chính quyền các cấp của thành

phố và đời sống nhân dân; bộ máy chính quyền vận hành thông suốt, việc thực hiện

các nhiệm vụ linh hoạt và hiệu quả kinh tế, xã hội được nâng cao, quyền làm chủ

của nhân dân được đảm bảo tốt. Đối với Thành phố Hồ Chí Minh mô hình này càng

trở nên có ý nghĩa vì tổ chức và hoạt động của chính quyền như thí điểm cơ bản là

hợp lý và phù hợp với mô hình một chính quyền đô thị. Quá trình thí điểm vẫn còn một số hạn chế và vướng mắc trong tổ chức và vận hành chính quyền khi không tổ

chức HĐND quận, huyện, phường chẳng hạn: MTTQ cùng cấp thực hiện chức năng giám sát hoạt động của UBND nhưng giám sát của MTTQ chưa thể thay thế việc giám sát của HĐND (giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước); sức ép công việc tại các UBND huyện, quận và phường, nhất là công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại gia tăng, tạo áp lực lên UBND nên nhiều đơn vị đề nghị tăng biên chế; quy định pháp luật về các chức danh chuyên môn của các phòng thuộc huyện và chức danh chuyên môn tại UBND phường chưa được xác định rõ. Tuy nhiên, một số vướng mắc trên đây không phải là hệ quả tất yếu, trực tiếp của việc không tổ chức HĐND

114

huyện, quận và phường mà đã tồn tại trước đó.

Như vậy, việc đổi mới hoạt động của hệ thống chính quyền thành phố trong

giai đoạn này đã thật sự đã đạt được những thay đổi đáng kể mà quan trọng nhất là

việc cải cách hành chính được triển khai một cách mạnh mẽ, đặc biệt là việc ứng

dụng công nghệ thông tin trong quản lý của các cấp chính quyền nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân và doanh nghiệp trong mối quan hệ với các cấp chính

quyền. Qua đó cũng đã góp phần cải cách đáng kể hoạt động của các cơ quan nhà

nước theo hướng công khai, minh bạch, hướng đến sự hài lòng của người dân. Đồng thời đây cũng là giai đoạn mà công tác đào tạo cán bộ, công chức của thành phố

cũng được đẩy mạnh cả về số lượng và chất lượng nhằm xây dựng một đội ngũ cán

bộ, công chức hoạt động theo hướng chuyên nghiệp, hiệu quả. Việc thực hiện thí

điểm không tổ chức HĐND quận, huyện, phường cũng đã tạo nên những tác động tích cực trong điều kiện thực tiễn của thành phố.

3.4. Đổi mới nội dung và phƣơng thức vận động quần chúng nhân dân

của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội

3.4.1. Đa dạng hóa các hình thức tập hợp quần chúng; đẩy mạnh hoạt động

về cơ sở

Trải qua 15 năm Đổi mới với những chuyển hướng quan trọng trong nội dung

và phương thức hoạt động, hệ thống MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội Thành

phố đã có những bước tiến mạnh mẽ, đạt được nhiều kết quả quan trọng như đánh

giá của Đại hội Đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ VII (từ ngày 19/12 đến ngày

23/12/2000) là: “Vai trò đoàn kết tập hợp rộng rãi các tổ chức, đồng bào các giới,

các dân tộc của Mặt trận được phát huy. Các đoàn thể chính trị tiếp tục phát huy tác

dụng trong vận động chính trị, giáo dục truyền thống, chăm lo xây dựng tổ chức, đa

dạng hoá nội dung và phương thức hoạt động. Nhìn chung, các tổ chức quần chúng

đã đóng góp rất quan trọng trong các phong trào hành động cách mạng, chăm lo cho người nghèo, thực hiện dân chủ ở cơ sở, tăng cường đoàn kết trong nội bộ nhân dân

và giữa Đảng với dân” [192]. Tuy nhiên, điểm hạn chế lớn nhất trong hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng thời gian này theo Đảng bộ thành phố chính là “quan hệ giữa chính quyền với MTTQ và các đoàn thể thiếu gắn bó; các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp chưa phát huy vai trò tư vấn, phản biện, cần nối giữa nhân dân với chính quyền.” [192]

Trên cơ sở đó, để định hướng cho hoạt động của các đoàn thể, Đảng bộ thành phố đã xác định phương hướng cơ là: “MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội cần tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động cho phù hợp với quyền lợi và

nguyện vọng của đoàn viên, hội viên; thiết lập mối quan hệ phối hợp có nề nếp giữa

115

MTTQ , các đoàn thể với chính quyền các cấp, các ngành; khắc phục tình trạng

“hành chính hoá” quan liêu, xa dân; thực hiện tốt hơn vai trò cầu nối giữa chính

quyền với nhân dân” [192]. Đặc biệt một nội dung chỉ đạo rất quan trọng trong hoạt

động hoạt động của Mặt trận là phải hướng mạnh về cơ sở để phát triển và tổ chức

lực lượng; phát huy chức năng bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của nhân dân, có trách nhiệm giải thích để người dân hiểu rõ trách nhiệm của mình với đất

nước, lợi ích của dân với lợi ích chung; tổ chức các phong trào hành động cách

mạng của nhân dân để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị - kinh tế - văn hóa xã hội – an ninh quốc phòng; phát huy vai trò của đoàn thể trong việc bảo vệ quyền

lợi của hội viên, đoàn viên giám sát chính quyền, tham gia xây dựng Đảng.

Cùng với đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt

Nam (năm 2001) đã khẳng định đại đoàn kết toàn dân là truyền thống quý báu của dân tộc, là đường lối chiến lược của cả HTCT và toàn xã hội. Mặt trận và các đoàn

thể nhân dân có vai trò quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân, phát huy

dân chủ, giữ gìn kỷ cương xã hội, thắt chặt mối quan hệ giữa các tầng lớp nhân dân

với Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở này, để củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết

toàn dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập,

thống nhất của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa

đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,

ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ 7 (khóa IX) Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã

ra Nghị quyết số 23/NQ-TW Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; Nghị quyết số 24/NQ-TW

Về công tác dân tộc; Nghị quyết số 25/NQ-TW Về công tác tôn giáo.

Bước đổi mới quan trọng được thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp

hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) là lấy “mục tiêu giữ vững độc lập, thống

nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng, tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích

chung, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, giai cấp, thành phần, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai”[197]. Mục tiêu mà toàn Đảng, toàn dân hướng đến là “bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân và lợi ích toàn xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng”[197]

Trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCHTW Đảng (khoá IX) Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,

dân chủ, văn minh, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Nghị quyết số

116

10-NQ/TU ngày 18/4/2003 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung

ương 7 (khóa IX). Nghị quyết này đã đánh giá một cách khái quát về việc xây dựng,

củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, khơi dậy và phát huy tiềm năng của đồng bào

các giới, các dân tộc, tôn giáo, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng, phát triển và bảo

vệ thành phố từ sau Đổi mới. Những nội dung cơ bản của Nghị quyết số 10-NQ/TU ngày 18/4/2003 của Thành ủy cũng đã xác định một cách toàn diện các nhiệm vụ cụ

thể đối với HTCT trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trên địa bàn thành

phố. Từ đó, Thành ủy cũng như Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác dân vận nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động cũng

như đổi mới mô hình tổ chức của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thành

phố, góp phần vào việc xây dựng khối đại đoàn kết, đổi mới HTCT, phát triển kinh

tế, xã hội, như: Chỉ thị số 10-CT/TU ngày 14/5/2003 Về lãnh đạo phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; Chỉ thị số

11-CT/TU ngày 19/5/2003 Về đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể

và phát triển đảng viên, đoàn viên trong các doanh nghiệp tư nhân; Chỉ thị số 13-

CT/TU ngày 28/7/2003 Về một số nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân thành

phố; Chỉ thị số 18-CT/TU ngày 2/11/2004 của Ban Thường vụ Thành ủy Về đổi

mới công tác thi đua - khen thưởng và đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước…

Đặc biệt, ngày 21/9/2004, Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Quy định 1043-

QĐ/TU Về phân công đảng viên trực tiếp làm công tác vận động quần chúng ở cơ

sở. Đây là một quy định được xem như là điểm nổi bật trong đổi mới công tác vận

động quần chúng tại Thành phố Hồ Chí Minh thời gian này. Có thể thấy, những văn

bản mang tính chỉ đạo như trên là những cơ sở quan trọng mang tính định hướng

sâu sắc về đổi mới tổ chức cũng như phương thức hoạt động mà trước hết là phương

thức tập hợp quần chúng cho MTTQ và đoàn thể các cấp của Thành phố Hồ Chí

Minh trong giai đoạn này.

Ở cấp quận, huyện và cơ sở, các cấp ủy tiếp tục đổi mới nội dung, phương

thức lãnh đạo đối với chính quyền, MTTQ và các đoàn thể, đề ra các biện pháp bước đầu nâng cao chất lượng đoàn viên, hội viên; chú ý đến việc quản lý, giúp đỡ, giáo dục đối với quần chúng chậm tiến; hướng Mặt trận và đoàn thể thực hiện chức năng giám sát cộng đồng, phản biện xã hội; giám sát cán bộ, đảng viên, công chức ở khu dân cư; tăng cường khảo sát thực tế, qua đó kiến nghị với các cấp thẩm quyền kịp thời giải quyết những bức xúc của nhân dân. Các cấp ủy cũng quan tâm công tác quy hoạch, bồi dưỡng, nâng cao năng lực cán bộ; thường xuyên đi cơ sở, nắm tình hình, tổ chức các buổi tiếp xúc, đối thoại, gặp gỡ của lãnh đạo với nhân dân, đoàn

viên, hội viên các giới. Các chi bộ đã tăng cường thực hiện Quy định 1043-QĐ/TU

117

năm 2004 của Ban Thường vụ Thành ủy Về Phân công trực tiếp đảng viên làm công

tác vận động quần chúng ở cơ sở, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên trong

công tác vận động quần chúng. Qua 2 năm thực hiện Quy định, đã có 78% đảng

viên thuộc khu vực quận, huyện ủy, 43% đảng viên thuộc khu vực Đảng ủy cấp trên

cơ sở và cơ sở trực thuộc Thành ủy thực hiện công tác vận động quần chúng. Qua đó, đã góp phần phản ánh được tâm tư nguyện vọng của quần chúng trong quá trình

thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước [77]

Bên cạnh đó, các đoàn thể chính trị - xã hội cũng chủ động đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở để tập hợp đoàn viên và hội viên.

Cụ thể, Liên đoàn Lao động thành phố đã có nhiều mô hình nổi bật, sáng tạo như

mô hình “Tổ công nhân tự quản khu nhà trọ” được thành lập tại các khu nhà trọ có

đông công nhân lao động nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; nắm bắt và giải quyết nhanh những bức xúc của công

nhân nhằm hạn chế tình trạng ngưng việc tập thể không đúng pháp luật; thành lập

các nghiệp đoàn xe ôm, nghiệp đoàn vệ sinh dân lập đã tạo điều kiện cho việc xây

dựng lực lượng nòng cốt của tổ chức công đoàn; đồng thời tạo thuận lợi trong việc

chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân lao động… Đối với

Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Nghị quyết Đại hội Đoàn thành phố khóa

VII (tháng 5/2001) đã đề ra chương trình mở rộng và nâng chất các loại hình tập

hợp thanh niên. Theo đó, mở rộng diện đối tượng tập hợp và phạm vi tác động của

tổ chức Đoàn với thanh niên: “Phấn đấu nâng tỉ lệ thanh niên tham gia vào các loại

hình tập hợp của Đoàn lên 45% vào cuối nhiệm kỳ”. Với những định hướng đó,

công tác tập hợp thanh niên đã phát triển theo nhiều hình thức và giải pháp đa dạng,

như: tổ chức các hoạt động theo lĩnh vực nghề nghiệp, ở phạm vi cụm hoặc toàn

thành phố; đẩy mạnh xây dựng và phát triển các loại hình tập hợp thanh niên; coi

trọng tổ chức hình thành các câu lạc bộ đội nhóm, đội hình thanh niên theo môi trường lao động, học tập, hoạt động xã hội của thanh niên và theo các chương trình

lĩnh vực hoạt động của Đoàn; tập trung nhiều giải pháp cho công tác vận động, tập hợp thanh niên lao động ngoài quốc doanh trong đó cấp thành phố tập trung thực hiện tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, đơn vị 100% vốn nước ngoài; cấp quận huyện và tương đương tập trung thực hiện tại các đơn vị do ngành, địa phương quản lý... Ban Thường vụ Thành Đoàn cũng đã ban hành Nghị quyết 08/NQ-TV năm 2002 Về tăng cường các giải pháp đẩy mạnh công tác tập hợp thanh niên lao động tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đến năm 2005 nhằm tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho công tác tập hợp thanh niên lao động ngoài quốc doanh. Thực hiện

Nghị quyết này, Thành Đoàn đã tổ chức các hoạt động tập trung tại khu chế xuất -

118

khu công nghiệp và các quận huyện có đông thanh niên lao động nhập cư nhằm

tuyên truyền và từng bước tiếp cận, tập hợp thanh niên đến với các hoạt động Đoàn

- Hội; tổ chức gặp gỡ lãnh đạo các doanh nghiệp để trao đổi và thông tin các hoạt

động Đoàn - Hội. Chính vì vậy, đến năm 2006, các cơ sở Đoàn đã thành lập mới

109 chi đoàn, 428 chi hội ngoài quốc doanh với 8.069 đoàn viên và hội viên, nâng tổng số cơ sở Đoàn ngoài quốc doanh là 541 và 506 chi hội ngoài quốc doanh [104].

Công tác xây dựng và phát triển Hội Sinh viên ở các trường đại học cũng được đẩy

mạnh và có bước phát triển khá vững chắc. Từ năm 2000 đến năm 2006, có 41 trường đã thành lập Hội Sinh viên (tăng 24 trường so với năm học 2000-2001) và

phát triển 54.125 hội viên trong năm học 2005-2006 (tăng gấp 4 lần so với năm

trước) [104]. Đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ, với phương châm “Hướng mạnh các

hoạt động về cơ sở; ở đâu có phụ nữ ở đó có tổ chức Hội” đã thành lập nhiều mô hình câu lạc bộ như Câu lạc bộ Phụ nữ nhập cư, Phụ nữ nhà trọ, Phụ nữ xa quê, Phu

nữ chậm tiến..., tổ chức nhiều hình thức phong phú trong các đối tượng đặc thù như

phong trào “Tự rèn luyện” trong nữ tu, “Gương sáng phụ nữ Hoa”, “Người kinh

doanh mới” trong tiểu thương, cùng các loại hình câu lạc bộ nữ nhà báo, nữ nghệ sĩ,

nữ doanh nhân..., đã góp phần phát triển hội viên. Các cấp Hội đã kiện toàn bộ máy

hệ thống Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ ở 30 sở, ngành, đoàn thế, 24 quận - huyện và

322 phường xã nhằm động viên, phát huy và tạo điều kiện cho các tài năng nữ phát

triển. Để động viên các cấp Hội tiếp tục phát huy tính năng động, sáng tạo, xây

dựng các mô hình tập hợp mới phù hợp với tình hình thực tế tại cơ sở, Hội Liên

hiệp phụ nữ thành phố đã mạnh dạn đề xuất Thành ủy cho phép thành lập Giải

thưởng Nguyễn Thị Định của Hội Liên hiệp phụ nữ thành phố dành tặng cho các tập

thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong thực hiện đổi mới nội dung, phương thức

hoạt động Hội; phát động Hội thi ý tưởng “Đổi mới nội dung, phương thức hoạt

động Hội” trong hệ thống Hội. Qua phát động, đã có 21 đề tài tham gia dự thi với nhiều ý tưởng thể hiện nét mới, đột phá trong cách nghĩ, cách làm, đề xuất được

nhiều mô hình tập hợp mới, đáp ứng nhu cầu của phụ nữ trong giai đoạn hiện nay. Sau hội thi, một số mô hình đã đi vào hoạt động và mang lại hiệu quả thiết thực tại địa phương, được nhân rộng ở các quận, huyện như: câu lạc bộ “Nữ trí thức” Quận 3, “Sân chơi của phụ nữ” Quận 4, “Chi-Tổ Hội kiểu mẫu” Quận 10, câu lạc bộ “Nữ chủ nhà trọ” Quận 7, câu lạc bộ “Tiền hôn nhân” Quận 8, “Địa chỉ tin cậy cộng đồng” quận Tân Phú, Câu lạc bộ “Nữ sinh viên nhà trọ” Quận 5, câu lạc bộ “Nữ công nhân nhập cư” của quận Thủ Đức, “Tổ may gia công” huyện Nhà Bè… Đến năm 2013, toàn thành phố có 63 loại hình tập hợp của Hội với 5.117 câu lạc bộ, tổ,

nhóm, thu hút 185.608 thành viên [86, tr.38]. Hội Cựu chiến binh là lực lượng nòng

119

cốt trong việc thành lập và tham gia vào tổ cán sự xã hội ở cơ sở, tích cực giúp nhau

xóa đói giảm nghèo, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục thanh niên, học sinh,

sinh viên; sâu sát giúp đỡ các gia đình có con em thi hành nghĩa vụ quân sự; phát

huy vai trò cựu chiến binh trong công tác giúp đỡ người sau cai nghiện; đẩy mạnh

phong trào thi đua “Cựu chiến binh gương mẫu” gắn với phong trào thi đua yêu nước ... Về tổ chức Hội, nếu vào tháng 5/2002 có 115 đơn vị với 154 cơ sở hội, thì

đến năm 2006, toàn thành phố có 552 tổ chức hội cơ sở gồm 322 phường, xã, thị

trấn; 230 cơ sở; có 27 hội trên cơ sở, bao trùm khắp địa bàn dân cư [85]. Đối với Hội Nông dân thành phố bằng việc tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Nông dân sản

xuất, kinh doanh giỏi, giúp nhau xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng” đã

hình thành các câu lạc bộ nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi, vận động hội viên,

nông dân phát triển sản xuất theo hướng nông nghiệp đô thị tạo ra sản phẩm nông nghiệp có giá trị kinh tế cao, đã xuất hiện nhiều mô hình, điển hình mới trong

chuyển đổi vật nuôi, cây trồng ở Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Gò Vấp, Quận 12

và Củ Chi.

3.4.2. Nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước Bên cạnh việc đổi mới cách thực tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên, trong

giai đoạn này MTTQ thành phố và các đoàn thể cũng chú trọng đổi mới cách thức

hoạt động, nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước

trên các lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua đó chăm lo và bảo vệ lợi ích hợp

pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, trong đó trọng tâm là những

hoạt động vì người nghèo. Bước sang năm 2001, trên cơ sở hưởng ứng cuộc vận

động “Ngày vì người nghèo” do Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam phát động và cũng để tiếp tục đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo theo tinh thần Nghị quyết

Đại hội Đảng bộ lần thứ VII, ngày 9/4/2001, Ban Thường vụ Thành ủy đã có công

văn số 38/CV-TU về việc mở cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” của thành phố.

Sau đó UBND thành phố đã có Quyết định số 1973/QĐ-UBND Về việc thành lập

“Ban vận động vì người nghèo cấp thành phố” và các quận huyện, phường xã. Trên cơ sở đó, Ủy ban MTTQ thành phố đã ban hành Kế hoạch số 20/UBMT ngày 10/4/2001 để triển khai thực hiện cuộc vận động này. Ban Thường trực Uỷ ban MTTQ thành phố cũng đã kịp thời tham mưu cho lãnh đạo thành phố thống nhất về chủ trương, xác định nội dung, đối tượng cần vận động chăm lo theo đúng hướng dẫn của Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Ban vận động “Vì người nghèo” Trung ương. Cụ thể, Thành uỷ đã có công văn chỉ đạo phát động cuộc vận động “Vì người nghèo” và UBND thành phố đã ban hành quy chế tổ chức hoạt động “Quỹ vì

người nghèo” và chuẩn y danh sách Ban vận động, Ban quản lý quỹ các cấp đúng

120

quy định. Quỹ vì người nghèo thành phố được chính thức thành lập và đi vào hoạt

động do Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố kiêm Trưởng Ban Vận động

“Ngày vì người nghèo” thành phố làm Trưởng ban Quản lý Quỹ. Ở cấp quận -

huyện, phường - xã, thị trấn cũng thành lập Ban Quản lý Quỹ theo cơ cấu, thành

phần như Quỹ Vì người nghèo thành phố. Ban vận động Vì người nghèo thành phố đã có sự phân công cụ thể và hợp lý, nhờ vậy đã phát huy tốt nhất vai trò của các

thành viên trong Ban vận động, cụ thể như: Đối với Hội Nông dân thành phố, Ban

vận động “Vì người nghèo” thành phố đã ủy thác vốn để Hội Nông dân giúp các hộ nông dân nghèo mượn vốn (không lấy lãi) để gắn đồng hồ điện (từ năm 2001 đến

năm 2007) và giúp các hộ đầu tư cây, con, ngành nghề, làm ăn kinh tế từng bước

vươn lên thoát nghèo; đối với Hội Liên hiệp Phụ nữ thành phố, Ban vận động đã ủy

thác vốn để Hội Phụ nữ cho các hộ dân nghèo ở các huyện Củ Chi, Cần Giờ, Nhà Bè... mượn vốn (không lấy lãi) để xây nhà vệ sinh tự hoại, giúp cải tạo môi trường

và giữ vẻ mỹ quan, văn minh đô thị, đồng thời cũng giúp các chị em phụ nữ mượn

vốn đầu tư phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, may gia công...; đối với

Hội Liên hiệp Thanh niên thành phố, Ban vận động đã ủy thác vốn để giúp thanh

niên khó khăn khởi nghiệp, phát triển làm ăn kinh tế gia đình... Kết quả, việc ủy

thác vốn cho các Hội đã giúp đỡ các hộ nghèo có vốn làm ăn, phát triển kinh tế gia

đình, thoát nghèo một cách căn cơ. Từ những hoạt động cụ thể đó, đến cuối năm

2003, thành phố đã công bố hoàn thành cơ bản mục tiêu không còn hộ nghèo theo

tiêu chí 2,5 triệu đồng/người/năm ở ngoại thành và 3 triệu đồng/người/năm ở nội

thành. Tiêu chí giảm nghèo được tăng lên (tính theo đơn vị VNĐ/người/năm) lần

lượt cụ thể là: Năm 2004 – 2005 là 4.000.000đ (cả ngoại thành và nội thành). Năm

2006 – 2007 là 6.000.000đ (cả nội thành và ngoại thành). Từ năm 2008 là

12.000.000đ (cả nội thành và ngoại thành) [45]

Bên cạnh việc góp phần vào các hoạt động phát triển kinh tế, MTTQ và các đoàn thể còn tích cực vận động các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng đời sống

văn hóa trên địa bàn thành phố với những hiệu quả thiết thực. Tiếp nối cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” được triển khai từ năm 1995 thì đến tháng 10/2000, Ban chỉ đạo cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa thành phố đã chỉ đạo triển khai thí điểm xây dựng phường đạt chuẩn văn hóa tại phường Phước Bình, Quận 9. Từ mô hình ban đầu, sau đó đã có nhiều phường - xã - thị trấn ở 24 quận - huyện đăng ký xây dựng đạt chuẩn văn hóa. Tại các địa bàn đã đăng ký xây dựng phường - xã - thị trấn văn hóa, dưới sự tham gia vận động của MTTQ và đoàn thể các cấp đã có sự chuyển biến rõ

nét, mức sống của người dân được cải thiện, các địa phương duy trì, phát triển

121

ngành nghề truyền thông, chất lượng giáo dục đào tạo được nâng cao, công tác

khuyến học, khuyến tài, các vấn đề về giáo dục, y tế, an sinh xã hội được quan tâm,

an ninh trật tự được đảm bảo, tệ nạn xã hội, ma túy, mại dâm, tội phạm từng bước

bị đẩy lùi; cơ sở hạ tầng được xây dựng đồng bộ, nhân dân tích cực tham gia giám

sát và đóng góp xây dựng chính quyền, đoàn thể, quan tâm đầu tư các thiết chế văn hóa như nhà văn hóa phường - xã, phòng đọc sách, điểm sinh hoạt của các câu lạc

bộ thơ ca, văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao để góp phần nâng cao mức hưởng

thụ và sáng tạo văn hoa cho nhân dân, xây dựng nếp sống văn minh tại đơn vị, tâp thể, nơi công cộng, góp phần xác lập và tạo nên môi trường văn hóa lành mạnh trên

địa bàn phường, thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội , văn

hóa, an ninh, quốc phòng của từng địa phương. Bằng những giải pháp mang tính

sáng tạo, linh hoạt và đồng bộ của hệ thống Mặt trận và đoàn thể các cấp mà các cuộc vận động “Vì người nghèo”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở

khu dân cư” “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam’’ (được phát động từ

năm 2009) đã thực sự được triển khai sâu rộng, đạt được những kết quả quan trọng,

tạo ra sự chuyển biến không chỉ về nhận thức và hành động của các tầng lớp nhân

dân Thành phố trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. (Phụ lục 10)

3.4.3. Tăng cường hoạt động phản biện, giám sát của Ủy ban MTTQ thành

phố đối với hoạt động của UBND Thành phố và chính quyền các cấp

MTTQ và các đoàn thể là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, là hình

ảnh thu nhỏ của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nơi gửi gắm tâm tư nguyện vọng

của nhân dân, là nền tảng chính trị của Đảng, nhà nước, là nơi nhân dân thực hiện

quyền làm chủ của mình, là nòng cốt trong các phong trào thi đua yêu nước.

Tuy nhiên, tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2006 đến 2013, bên cạnh

những thành tựu đạt được thì còn một loạt vấn đề tồn tại thậm chí gây bức xúc quá

lâu mà các cấp chính quyền vẫn chưa tìm được giải pháp khả dĩ, giải quyết triệt để. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau mà một trong những nguyên

nhân quan trọng là do “Mặt trận và các đoàn thể chưa thể hiện rõ vai trò người đại diện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hội viên. Lòng tin của nhân dân với Đảng và chính quyền từng nơi, từng lúc bị suy giảm”. “Vai trò của MTTQ trong việc tham gia hiến kế, xây dựng, định hình những chủ trương, chính sách của Thành phố về pháp luật, phát triển kinh tế-xã hội, giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong xã hội… còn nhiều hạn chế” [193]

Chính vì vậy, Ủy ban MTTQ thành phố đã xác định một nội dung quan trọng trong hoạt động của mình là phải tăng cường giám sát đặc biệt là phản biện đối với

các hoạt động của cơ quan nhà nước, chủ yếu là giám sát, phản biện việc ban hành

122

và thi hành các chủ trương, chính sách, chế độ, pháp luật của Nhà nước nói chung,

trực tiếp và cụ thể là những Nghị quyết của HĐND và các quyết định của UBND

thành phố, tập trung vào trọng tâm là những chính sách, chủ trương liên quan mật

thiết đến lợi quyền, lợi ích và nghĩa vụ công dân, của các tầng lớp xã hội, trong đó

chú ý đến những người lao động, những người có thu nhập thâp, người nghèo. Qua đó để kịp thời phản ánh, kiến nghị với HĐND và UBND, các cơ quan chuyên môn

của thành phố khi phát hiện sai sót, vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người

dân hoặc chưa phù hợp thực tế cuộc sống với những đề xuất cụ thể điều chỉnh, bổ sung nếu thấy chưa hợp lý và bãi bỏ nếu vi phạm quyền lợi chính đáng của cộng

đồng. Đây được xem là một nội dung hoạt động đặc biệt quan trọng của MTTQ các

cấp thành phố trong giai đoạn này, góp phần phát huy vai trò trực tiếp của các tầng

lớp nhân dân đối với hoạt động của các cấp chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức. Trong lĩnh vực này, nếu họat động giám sát đã được bảo đảm bằng hành lang

pháp lý (Điều 12, Luật MTTQ Việt Nam năm 1999) thì phản biện xã hội còn là vấn

đề phải được khai thông bằng một cơ chế làm cho hoạt động này được pháp luật

bảo đảm. Đến khi Quyết định số 217-QĐ/TW ngày 12/12/2013 của Bộ chính trị Về

việc ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các

đoàn thể chính trị - xã hội được ban hành thì mới có quy định cụ thể. Tuy nhiên, từ

rất sớm công tác phản biện xã hội của MTTQ thành phố đã được thực hiện và thật

sự phát huy được tinh thần trách nhiệm của Mặt trận các cấp, phản ánh đúng những

bức xúc, yêu cầu của nhân dân, mang lại nhiều hiệu quả xã hội. Để thực hiện được

vai trò phản biện, MTTQ đã chủ động nắm thông tin qua phát hiện của quần chúng

và phản ánh của báo chí về những bất cập của những chủ trương được các cấp chính

quyền đưa ra. Sau đó, Ủy ban MTTQ thành phố chủ động đề nghị UBND thành phố

cung cấp tài liệu, thông tin cần thiết và sau đó tổ chức khảo sát thực tế trước khi tổ

chức hội nghị, hội thảo lấy ý kiến của giới chuyên môn, khoa học để có ý kiến phản biện chính thức. MTTQ thành phố đã hình thành 6 khối tư vấn chuyên sâu một số

lĩnh vực của công tác Mặt trận. Bước đầu khối văn hóa - xã hội và dân chủ pháp luật đã tổ chức sinh hoạt, trao đổi tham mưu cho Mặt trận thành phố nhiều vấn đề cần được quan tâm trên lĩnh vực này như, góp ý cho kế hoạch tổ chức “Tuần lễ việc tốt - việc thiện”, dự kiến danh sách giới thiệu Hội thẩm nhân dân, Tòa án nhân dân thành phố, chương trình công tác dân chủ pháp luật của Mặt trận thành phố năm 2000.... Ủy ban MTTQ Thành phố đã dựa vào các khối tư vấn bao gồm nhiều trí thức và chuyên gia có trình độ chuyên môn cao trong nhiều lĩnh vực tham gia đóng góp ý kiến, đề nghị các khối tư vấn phát huy trí tuệ tập thể đóng góp vào việc phân

tích khoa học các vấn đề cần phản biện. Chỉ riêng giai đoạn 2007 - 2013, Ủy ban

123

MTTQ Việt Nam thành phố và Liên hiệp các Hội Khoa học - Kỹ thuật, một thành

viên của Mặt trận thông qua đội ngũ trí thức “đã tổ chức và thực hiện phản biện xã

hội đối với 45 dự án” [73, tr.203] trong số đó có các dự án tiêu biểu như: “Thí điểm

chính quyền đô thị Thành phố Hồ Chí Minh”, “Xây dựng sân bay Long Thành”…

Ngoài ra, Ủy ban MTTQ thành phố còn tham gia phản biện xã hội các dự án do UBND thành phố chủ động đề nghị như: việc di dời cảng Sài Gòn, nhà máy Ba Son

ra khỏi nội thành; Chống ngập nước trong mùa mưa và trong mùa khô do triều

cường; Chống ùn tắc giao thông ngày càng phức tạp; Tái định cư tại các nơi quy hoạch di dời, giải tỏa; nhà cho người thu nhập thấp, lao động nghèo… Qua phản

biện của Ủy ban MTTQ thành phố, nhiều ý kiến đã được chính quyền thành phố

tiếp thu để điều chỉnh thậm chí thay đổi quyết định trong nhiều vấn đề như chủ

trương cổ phần hóa Bệnh viện Bình Dân; tái định cư khu đô thị mới Thủ Thiêm; cấm xe 3-4 bánh tự chế; chủ trương không bắn pháo hoa trong dịp Tết Đinh Hợi

(2007); chủ trương tăng học phí và bình chọn số “sao” cho các trường học thuộc Sở

Giáo dục - Đào tạo, vụ xây cống hộp gian dối không đúng quy chuẩn tại Phường 15

Quận 10...

Đối với việc giám sát đội ngũ cán bộ, công chức, ngoài việc giám sát trực tiếp

đối với những chức danh như giai đoạn trước thì từ năm 2006, Ủy ban MTTQ thành

phố đã triểu khai thực hiện thí điểm Quy chế MTTQ Việt Nam giám sát cán bộ,

công chức, đảng viên ở khu dân cư theo Nghị quyết liên tịch số 05/2006/ NQLT-

CP-UBMTTQVN ngày 21/4/2006 giữa Chính phủ và Ủy ban Trung ương MTTQ

Việt Nam. Quy chế này áp dụng ở một số xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã);

thôn, làng, ấp, bản, khu phố, tổ dân phố, cụm dân cư (gọi chung là khu dân cư) tại 5

địa phương trên cả nước bao gồm Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và

các tỉnh: Ninh Bình, Quảng Bình, Tiền Giang. Nội dung cụ thể của Quy chế này

quy định hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam đối với cán bộ, công chức, đảng viên cư trú, làm việc ở xã, phường, thị trấn, khu dân cư và những cá nhân tuy ở nơi

khác nhưng công tác trên địa bàn dân cư; giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đóng trên địa bàn cấp xã, tập trung vào những tổ chức thường xuyên tiếp xúc với dân, phụ trách những việc liên quan đến quyền lợi của dân. Là một trong 5 địa phương thực hiện thí điểm Quy chế này, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố đã hướng dẫn Ban Thường trực Ủy ban MTTQ quận, huyện, xã, phường, thị trấn tổ chức thực hiện việc giám sát cán bộ, công chức, đảng viên theo nội dung Quy chế. Trong đó, chú trọng việc hướng dẫn các Ban Công tác mặt trận khu phố, ấp phối hợp với chi ủy, ban điều hành khu phố,

tổ dân phố tiến hành đánh giá thực trạng, nắm chắc tình hình cán bộ, đảng viên,

124

công chức, viên chức đang làm việc và cư trú tại địa phương. Ủy ban MTTQ các

quận, huyện hướng dẫn MTTQ cơ sở và vận động nhân dân thực hiện giám sát cán

bộ, công chức, đảng viên theo đúng quy định; phương pháp giám sát phù hợp với

đặc điểm, tình hình của địa phương; chọn những nội dung giám sát thiết thực liên

quan đến tinh thần trách nhiệm, đạo đức của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên… Bám sát hướng dẫn của Ban

Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam thành phố, Ban Thường trực Ủy ban MTTQ

các xã, phường, thị trấn cùng các Ban Công tác mặt trận khu phố, ấp đã có nhiều hình thức để vận động nhân dân tham gia giám sát. Trong đó, MTTQ và các tổ chức

thành viên đã tích cực động viên nhân dân, đoàn viên, hội viên giám sát thái độ

phục vụ của cán bộ, công chức trong quá trình tiếp dân, giải quyết các hồ sơ hành

chính theo yêu cầu của dân tại UBND quận, huyện, phường, xã, thị trấn. Bên cạnh việc duy trì hộp thư góp ý tại trụ sở phường, xã, thị trấn và khu dân cư, nhiều đơn vị

còn tổ chức phát phiếu để người dân góp ý và vận động nhân dân tham gia góp ý

thông qua các hội nghị nhân dân định kỳ hoặc các hội nghị đối thoại, tiếp xúc giữa

lãnh đạo với đại diện các giới nhân dân… Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt

được, việc triển khai thực hiện Quy chế trong hệ thống MTTQ thành phố vẫn còn

những hạn chế. Việc tổ chức triển khai, quán triệt trong cán bộ, công chức, đảng

viên ở các sở, ban, ngành thành phố chưa được quan tâm đúng mức, còn một bộ

phận chưa nhận thức được mình chịu sự giám sát của nhân dân thông qua MTTQ và

các đoàn thể chính trị - xã hội ở địa phương; chưa có hình thức giới thiệu cán bộ,

công chức về địa phương để MTTQ giám sát, vẫn còn một bộ phận cán bộ MTTQ,

đoàn thể và nhân dân chưa thực sự quan tâm đến công tác giám sát này hoặc có tư

tưởng ngại đụng chạm, e dè, nể nang. Bên cạnh đó, trình độ, năng lực một số thành

viên Ban Công tác mặt trận khu phố, ấp không đồng đều nên việc thực hiện công

tác giám sát còn hạn chế.

Từ những hiệu quả quan trọng trong việc thực hiện chức năng giám sát, phản

biện của Ủy ban MTTQ Thành phố, để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác này cũng như tạo ra sự thống nhất, đồng bộ trong cơ chế phối hợp giữa MTTQ và chính quyền, từ năm 2005, Thường trực HĐND - UBND - Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh đã thống nhất ban hành Quy chế về phối hợp công tác giữa Thường trực HĐND, UBND và Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Việc thông qua Quy chế phối hợp đã hình thành một cơ chế đồng bộ giữa 3 Thường trực trong những công tác chung bao gồm: phối hợp thực hiện công tác bầu cử; vận động nhân dân tham gia góp ý kiến xây dựng

văn bản quy phạm pháp luật; phối hợp tuyên truyền và phổ biến, giáo dục pháp luật

125

cho nhân dân; xây dựng chính quyền và quản lý nhà nước; phối hợp giúp đỡ đại

biểu dân cử. Ngoài ra, Quy chế cũng xác định một cách cụ thể nội dung phối hợp

giữa Thường trực HĐND và Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam Thành phố

Hồ Chí Minh cũng như giữa Thường trực UBND và Ban Thường trực Ủy ban

MTTQ Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh. Việc xây dựng quy chế phối hợp này sau đó đã được thực hiện ở cả cấp quận, huyện và phường, xã, thị trấn trên toàn địa

bàn Thành phố.

Như vậy, qua quá trình hoạt động của MTTQ và đoàn thể các cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2001 đến năm 2013 có thể thấy đã đạt được nhiều kết quả

to lớn, mang lại hiệu quả xã hội cao. Nhận thức của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng,

chính quyền và hoạt động của MTTQ, các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp của

thành phố đã có những chuyển biến tích cực; vai trò, vị trí của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội thành phố tiếp tục được khẳng định và nâng cao; hệ thống tổ

chức từ thành phố đến cơ sở đã được quan tâm củng cố, kiện toàn. MTTQ và các

đoàn thể chính trị - xã hội các cấp thành phố đã bám sát tôn chỉ, mục đích hoạt động

của tổ chức mình, thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng người đại diện, bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, là chỗ dựa

để nhân dân thành phố phát huy quyền làm chủ, tham gia ý kiến xây dựng Đảng,

chính quyền trong sạch, vững mạnh; qua thực hiện chức năng giám sát đã kiến nghị

với các cấp ủy, chính quyền giải quyết kịp thời nhiều vấn đề bức xúc của nhân dân;

chú trọng đẩy mạnh hoạt động tại cơ sở, phối hợp vận động, tập hợp, giáo dục các

đối tượng chậm tiến, lạc hậu đạt một số kết quả.

Tiểu kết Chƣơng 3 Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2013 là một giai đoạn có nhiều vấn đề mới

nảy sinh từ thực tiễn của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung cũng như từ hoạt động của HTCT nói riêng đòi hỏi cần phải giải quyết một cách đồng bộ, quyết liệt. Do

đó, HTCT thành phố đã có những đổi mới rất căn bản nhằm đáp ứng yêu cầu đó.

Đảng bộ thành phố đã đổi mới nội dung, phương thức hoạt động nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo toàn diện mà trong đó trọng tâm vẫn là đẩy mạnh việc xây dựng chỉnh đốn đảng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên có phẩm chất đạo đức, có năng lực hoạch định và tổ chức thực hiện đường lối. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ thông qua đổi mới quy chế lãnh đạo là nội dung quan trọng tạo nên mối quan hệ công tác khoa học, ổn định giữa các cơ quan trong HTCT thành phố. Từ đó hướng đến việc xây dựng một HTCT hoạt động hiệu quả, đồng bộ. Hệ

thống chính quyền thành phố đã cải cách hành chính một cách mạnh mẽ bằng nhiều

126

mô hình thí điểm nhằm xây dựng một chính quyền hoạt động thông suốt, minh

bạch, hướng đến sự hài lòng của người dân và doanh nghiệp. Đặc biệt với việc ứng

dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong quản lý, chính quyền thành phố đã tạo

điều kiện thuận lợi nhất cho người dân trong việc giải quyết thủ tục hành chính,

tăng cường đối thoại với chính quyền. Mặt trận và các đoàn thể cũng đã thể hiện vai trò quan trọng và hiệu quả trong việc giám sát và phản biện đối với hệ thống chính

quyền và đội ngũ cán bộ, công chức. Qua đó, đã phát huy được dân chủ rộng rãi

trong các tầng lớp nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân kiểm soát quyền lực của các cơ quan công quyền và đội ngũ công chức.

Nhìn chung, toàn bộ quá trình đổi mới hoạt động của HTCT thành phố giai

đoạn này đã góp phần xây dựng một hệ thống hoạt động hiệu quả, minh bạch, thông

suốt và đồng bộ, góp phần phát huy dân chủ, đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân thành phố; hướng đến một HTCT thật sự phục vụ nhân dân. Đó chính

là những điều kiện căn bản để phát huy được sức mạnh tổng hợp của mọi tầng lớp

nhân dân cũng như HTCT cho sự phát triển chung của thành phố trong giai đoạn

127

này cũng như tạo nên tiền đề cho các giai đoạn sau.

CHƢƠNG 4

NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

4.1. Nhận xét về quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí

Minh từ năm 1986 đến năm 2013

4.1.1. Đặc điểm của quá trình đổi mới hệ thống chính trị Thành phố Hồ Chí Minh Trải qua quá trình xây dựng, hoạt động và đổi mới với nhiều sự thay đổi về bộ

máy tổ chức và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành, có thể thấy quá trình đổi mới

hệ thống chính trị ở Thành phố Hồ Chí Minh có những đặc điểm nổi bật sau đây:

Thứ nhất, quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu được

thực hiện trên nền tảng hệ thống chính quyền mới được thiết lập sau giải phóng với thời gian hơn 10 năm nên có thuận lợi là hệ thống chưa tồn tại quá lâu để tạo nên

lực cản lớn cho quá trình đổi mới. Chính vì vậy, thành phố sớm có những đóng góp

thiết thực trong việc xây dựng đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tuy nhiên đây cũng là một khó khăn vì một bộ phận cán bộ chưa có nhiều kinh

nghiệm trong lãnh đạo, quản lý nhất là trong quản lý kinh tế, nên trong quá trình đổi

mới dễ rơi vào tình trạng buông lơi định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, với sự

lãnh đạo của Đảng bộ thành phố, việc đổi mới HTCT được tiến hành liên tục và đạt

được nhiều thành tựu to lớn.

Thứ hai, quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng

của lịch sử phát triển thành phố. Do đây là một thành phố trẻ, là nơi quy tụ của dân

cư đến từ nhiều vùng miền trong nước, là trung tâm giao lưu kinh tế, giao thoa văn hóa trong hơn 300 năm qua nên dễ tiếp thu cái mới và sự đa dạng, có tính năng

động và cở mở. Những phẩm chất riêng có này của thành phố đã thúc đẩy cho quá

trình đổi mới HTCT được diễn ra và có nhiều cách làm sáng tạo.

Thứ ba, quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh được diễn ra ngay

sau năm 1975 với những tìm tòi, khảo nghiệm bước đầu cho đến sau này với mức độ ngày càng nhiều hơn, phạm vi rộng hơn, mang tính nhân bản hơn, đáp ứng ngày càng cao hơn các quyền con người, quyền công dân của nhân dân thành phố, thúc đẩy cho kinh tế thành phố tăng trưởng và phát triển.

Thứ tư, quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh có sự đóng góp to lớn của các tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là của MTTQ thành phố. Nhiều phong trào do MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội thành phố phát động không chỉ phát huy trong phạm vi thành phố mà còn có ảnh hưởng rộng lớn ra toàn quốc

128

như các phong trào “Mùa hè xanh”, xây “Nhà tình nghĩa”, “Nhà tình thương”. Hoạt

động cùa MTTQ và các đoàn thể đã tạo nên một lực lượng chính trị trong nhân dân,

tạo thành lực đẩy để HTCT tiếp tục đổi mới với tinh thần lấy dân làm gốc.

4.1.2. Những thành tựu của quá trình đổi mới hệ thống chính trị Thành phố

Hồ Chí Minh

Thành tựu nổi bật đầu tiên là các tổ chức trong hệ thống chính trị được sắp

xếp từng bước theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Ngay từ khi quá trình đổi mới được tiến hành Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh đã đặt ra yêu cầu cần phải sắp xếp HTCT, “hoàn thiện cơ cấu bộ máy tổ chức

đảng, chính quyền đoàn thể, các ngành và đơn vị kinh tế, văn hoá và xã hội… từ

thành phố đến cơ sở theo hướng có hiệu lực, hợp lý, tinh gọn” [189]. Trên cơ sở đó,

Thành ủy và HĐND cũng như UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã nhiều lần ban hành và thông qua những chủ trương cụ thể về sắp xếp tổ chức, bộ máy của HTCT

bắt nguồn từ các chủ trương chung của Trung ương cũng như từ thực tiễn của thành

phố nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới. Chính vì vậy, bộ máy của HTCT

các cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm đổi mới đã có một sự chuyển

biến sâu sắc. Từ một hệ thống có tính chất cồng kềnh, nặng nề, nhiều cơ quan, tổ

chức đã được sắp xếp lại ngày càng tinh gọn, biên chế được tinh giảm nhưng lại

tăng cường được vai trò lãnh đạo và quản lý đồng thời phát huy được vai trò làm

chủ của nhân dân.

Đối với Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, ngay từ năm 1990, các Ban của

Thành ủy đã được sắp xếp theo hướng giảm đầu mối thông qua việc sáp nhập và

giải thể một số Ban đảng với chủ trương cụ thể là “tiến hành kiện toàn, củng cố và

sắp xếp các ban đảng, các trường đảng, trung tâm giáo dục chính trị và các trường

quản lý của thành phố; sắp xếp và kiện toàn các đảng bộ cấp trên cơ sở, quy định rõ

chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động và mối quan hệ giữa tổ chức đảng – chính quyền – đoàn thể cùng cấp; nghiên cứu tổ chức các đảng bộ và chi bộ ở

phường xã theo đúng Điều lệ Đảng phù hợp với đặc điểm từng nơi..” [190]. Từ đó, qua triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VI) Về một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, đối với Thành ủy đã giảm được 3 ban bằng cách sáp nhập một số ban theo chức năng, nhiệm vụ.

Đến năm 2000, trên cơ sở Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCHTW Đảng (khoá VIII) tháng 8/1999 Về một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của HTCT và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã thông qua 7 đề án về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy các Ban Đảng và HTCT.

Đến cuối năm 2000, số đầu mối đảng bộ cấp trên cơ sở trực thuộc Thành ủy giảm từ

129

63 còn 59, đảng bộ cơ sở trực thuộc Thành ủy từ 3 còn 2 đảng bộ (Khu chế xuất và

Công nghiệp tập trung; Khối Dầu khí) [13, tr.197]. Đối với tổ chức bộ máy các Ban

Thành ủy, Quận, Huyện ủy, Thành ủy đã giảm số Ban của Thành ủy từ 16 Ban

xuống còn 12 Ban, đơn vị sự nghiệp.

Trên cơ sở Nghị quyết Số 10-NQ/TW ngày 09 tháng 02 năng 2007 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X và Kế hoạch số 02-KH/TW ngày 11 tháng 4

năm 2007 của Bộ Chính trị về tổ chức thực hiện Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, MTTQ và các đoàn

thể chính trị - xã hội, ngày 20/6/2007, Ban Thường vụ Thành ủy đã ban hành Kế

hoạch số 17-KH/TU Về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định

hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội. Trong đó đáng chú ý là việc sắp xếp lại 3 cơ quan thuộc Thành ủy thông qua

việc hợp nhất 7 ban thành 3 ban gồm: Văn phòng Thành ủy, Ban Tuyên giáo, Ban

Dân vận thành ủy. Đồng thời, Thành phố cũng thành lập Đảng bộ khối Dân Chính

Đảng Thành phố trên cơ sở hợp nhất đảng bộ khối cơ quan đảng, đoàn thể thành

phố và Đảng bộ khối cơ quan Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh.

Đến năm 2008, Chương trình hành động số 39-CtrHĐ/TU của Thành ủy thành

phố tiếp tục sắp xếp và hoàn thiện mô hình tổ chức của các loại hình cơ sở đảng

được xác định là theo hướng gắn tổ chức cơ sở đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm

vụ chính trị và lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội; chăm lo kết nạp đảng viên,

nhất là ở những địa bàn, đơn vị chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có đảng viên.

Kết quả, đến năm 2011, thành phố đã thành lập 3 đảng bộ cơ sở ở khu chế xuất, khu

công nghiệp; 15 đảng bộ cơ sở khối doanh nghiệp quận, huyện; 312 tổ chức đảng

trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và doanh nghiệp

tư nhân liên doanh với nước ngoài; 20 đảng bộ cơ sở cơ quan đảng - đoàn thể và đảng bộ cơ sở cơ quan chính quyền; 34 đảng bộ bộ phận ở khu phố có từ 30 đảng

viên trở lên và có nhiều chi bộ. Các mô hình này đã phát huy tác dụng, hoạt động có hiệu quả trong thực tế, góp phần trực tiếp vào việc lãnh đạo phát triển kinh tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Một thực trạng trong tổ chức bộ máy của chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh trước đổi mới là “từ trên xuống dưới còn quá cồng kềnh, trùng lắp, chưa phân định rõ giữa chức năng quản lý hành chánh - kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh. Nhiều thủ tục rườm rà, hoạt động thiếu đồng bộ, chồng chép nhau, gây phiền hà trong nhân dân và ách tắc trong sản xuất, lưu thông. Phong cách làm việc

quan liêu, hành chính còn nặng.” [189]. Đảng bộ thành phố đặt ra mục tiêu phải cải

130

cách mạnh mẽ về tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, hiệu quả, hiệu lực. Tháng

9/1988, Thành ủy đề ra Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương

5 (khoá VI) trong đó xác định trọng tâm là kiện toàn UBND thành phố, sắp xếp lại

các sở, ban, ủy ban thuộc UBND, bộ máy quận, huyện và cơ sở. Qua sắp xếp đã

giảm 9 sở ngành chỉ còn 7 sở, ngành thuộc UBND thành phố. Tính theo tỷ lệ, qua quá trình sáp nhập đã giảm 16,6% ban, sở, giảm 29,8% phòng ban (thuộc sở), giảm

36% biên chế. Đối với các quận, huyện cũng giảm được 37,2% phòng, ban và

36,5% biên chế. Bên cạnh việc sắp xếp lại các cơ quan chuyên môn, đây cũng là giai đoạn mà Thành phố đã có nhiều cố gắng và quyết tâm tách chức năng quản lý

sản xuất-kinh doanh ra khỏi chức năng quản lý hành chính Nhà nước đối với các sở

và quận-huyện. Tiến hành sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp và đơn vị sản xuất kinh

doanh theo Chỉ thị 500/TTg của Thủ tướng Chính phủ; thành lập doanh nghiệp hoạt động công ích theo Nghị định 56 của Chính phủ; tiến hành cổ phần hóa doanh

nghiệp Nhà nước. Tại thời điểm cuối năm 1995, toàn thành phố có 408 doanh

nghiệp Nhà nước, đến năm 2000 đã tổ chức lại thành 7 Tổng Công ty 90; 53 doanh

nghiệp hoạt động công ích; 95 doanh nghiệp cổ phần. Tuy vậy, theo đánh giá chung

thì đa số sở, ngành vẫn còn bị hút vào việc chỉ đạo trực tiếp các cơ sở kinh tế quốc

doanh, xem nh quản lý nhà nước vì chưa giải quyết đồng bộ các mặt phân công,

phân cấp quản lý, vấn đề kế hoạch, tài chính, ngân sách…

Từ tháng 9/2004, căn cứ theo các quy định tại Nghị định Nghị định

171/2004/NĐ-CP, UBND thành phố đã quyết định thành lập các cơ quan chuyên

môn theo yêu cầu tinh, gọn, không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ nhưng vẫn đảm

bảo được sự phát triển của thành phố, nhất là trong giai đoạn hội nhập. Thành phố

có 24 cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố, 09 cơ quan chịu sự chỉ đạo

quản lý của UBND thành phố, đồng thời chịu sự quản lý chỉ đạo của Bộ quản lý

ngành, lĩnh vực, 11 cơ quan giúp việc Ủy ban về một số lĩnh vực. Qua quá trình sắp xếp, đến năm 2008, thành phố còn 18 cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành phố,

số cơ quan khác vẫn giữ nguyên.

Đối với các phòng, ban chuyên môn trực thuộc UBND quận - huyện, thực hiện quy định thống nhất giảm từ 21 phòng, ban xuống còn 13 phòng chuyên môn và 4 đơn vị sự nghiệp. Sau 7 năm thực hiện, đến năm 2011 thì các quận, huyện đã thực hiện xong theo quy định. Không chỉ sắp xếp lại các cơ quan thuộc quận, huyện, để xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan này, UBND Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã ban hành quy chế tổ chức và hoạt động (mẫu) làm cơ sở xây dựng quy chế tại các quận, huyện.

Có thể thấy công tác kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước đối với các cơ quan

131

chuyên môn thuộc UBND thành phố đã được thực hiện một cách quyết liệt. Chức

năng, nhiệm vụ của các sở, ban, ngành được xác định rõ ràng, giảm đi rất nhiều tình

trạng trùng lắp, chồng chéo. Cơ chế xin - cho giữa người dân với cơ quan nhà nước

đã được dần xóa bỏ, thay vào đó là cơ chế “Người phục vụ và người được phục vụ”,

công dân và tổ chức trở thành khách hàng “thân thiện” của cơ quan công quyền, đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân được xã hội đồng tình, ủng

hộ, nhân dân đã có sự thay đổi cách nhìn đối với cơ quan công quyền, hiểu rõ hơn

về bản chất của “Nhà nước của dân, do dân và vì dân”.

Thành tựu thứ hai là vai trò và mối quan hệ giữa các bộ phận trong HTCT

được xác định một cách cụ thể, đồng bộ về chức năng, nhiệm vụ. Qua đó đã từng

bước khắc phục được tình trạng bao biện, chồng chéo về chức năng nhiệm vụ giữa

các bộ phận trong HTCT trước đổi mới.

Trong quá trình phân định về chức năng và mối quan hệ giữa các bộ phận

trong HTCT Thành phố Hồ Chí Minh thì vấn đề có ý nghĩa quyết định, then chốt

nhất là sự đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ đối với chính quyền và các

đoàn thể quần chúng. Nội dung này đã luôn được đảng bộ qua nhiều kỳ đại hội

khẳng định là một giải pháp lớn, trọng tâm trong công tác xây dựng đảng của đảng

bộ. Qua quá trình đổi mới từ năm 1986, Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh đã xác

định được vai trò lãnh đạo cụ thể của mình thông qua nhiều nội dung khác nhau mà

trước tiên là thông qua việc tập trung vào việc quyết định các nhiệm vụ chính trị

mang tầm chủ trương, chính sách để xây dựng và phát triển thành phố thông qua các

kỳ đại hội và các hội nghị thành ủy. Để quyết định được những nhiệm vụ chính trị

đúng đắn, phản ánh được thực tiễn thành phố, Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo các cơ

quan tham mưu của thành ủy và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND… cùng

nghiên cứu, phân tích. Do đó, trong thời kỳ đổi mới Đảng bộ thành phố Hồ Chí

Minh đã có nhiều chủ trương đổi mới sáng tạo, đột phá làm cơ sở cho sự phát triển của thành phố cũng như đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước. Không chỉ

dừng lại ở đó, sự đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2013 còn thể hiện ở việc đảng bộ đã tập trung lãnh đạo việc kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ của cả HTCT theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Ngoài ra quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ đối với chính quyền và mặt trận còn được thể hiện thông qua việc xây dựng hệ thống tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan này, gắn với việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để thực hiện vai trò lãnh đạo toàn diện của đảng bộ. Đặc biệt trong quá trình hoạt động, đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh đã thực

hiện nhiều chủ trương mang tính đột phá và hiệu quả trong mối quan hệ giữa đảng

132

bộ với chính quyền như việc thực hiện Bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND ở

cấp huyện và phường, xã từ năm 2009, được đánh giá là có nhiều ưu điểm trong

lãnh đạo, quản lý. Trong mối quan hệ với các đoàn thể chính trị - xã hội, đảng bộ đã

thực hiện một cách mạnh mẽ quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 1998, qua đó đã tạo

được sự đồng thuận cao của các tầng lớp nhân dân trong phát huy dân chủ và phản biện xã hội. Đảng bộ thành phố đã triển khai những cuộc vận động, những đợt sinh

hoạt chính trị lớn như việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách

Chủ tịch Hồ Chí Minh (từ năm 2006), thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI (năm 2011), Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII (năm 2016) về xây dựng, chỉnh

đốn đảng. Qua đó đã chủ động phòng ngừa, kiên trì giáo dục, đấu tranh, xử lý

những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những trường

hợp “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ đảng viên. Công tác tổ chức, công tác cán bộ cũng được thực hiện đồng bộ, chặt chẽ. Thành ủy đã xây

dựng, bổ sung các quy định về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, quan hệ công

tác của các tổ chức đảng; quy chế phối hợp của các cơ quan trong HTCT; tiêu chuẩn

chức danh cán bộ. Ngoài ra, Thành ủy đã rà soát, bổ sung hoàn thiện và thực hiện

nghiêm túc quy chế làm việc của Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy, Thường trực

Thành ủy; nâng cao chất lượng, hiệu quả đi cơ sở, kiểm tra, giám sát việc thực hiện

nhiệm vụ chính trị. Qua đó đã góp phần tăng cường mối quan hệ với nhân dân, nỗ

lực chăm lo tốt hơn đời sống nhân dân, giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân

dân; nâng cao ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân của cán bộ, đảng viên.

Bên cạnh việc đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng bộ, quá trình đổi mới

hệ thống chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013 đã có

những kết quả to lớn, thiết thực; khắc phục được sự chồng chéo trong chức năng

quản lý nhà nước với hoạt động sản xuất kinh doanh; tạo ra sự chuyển biến một

cách mạnh mẽ, vai trò quản lý của chính quyền các cấp được thể hiện một cách cụ thể, tích cực và năng động trong phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, qua quá trình

đổi mới, hệ thống chính quyền đã trở thành một hệ thống quản lý mang tính chất hiện đại, khoa học, hiệu quả hơn thông qua hoạt động cải cách hành chính và ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ tiên tiến. Đây có thể nói là một quá trình đổi mới liên tục và lâu dài mà mục đích là đảm bảo và tăng cường được vai trò quản lý của hệ thống chính quyền đồng thời hướng đến việc phục vụ lợi ích lâu dài của nhân dân.

Đối với hệ thống chính quyền Thành phố, 10 năm đầu sau Đổi mới là giai đoạn mà các cấp, các ngành đã tiến hành sắp xếp lại tổ chức, bộ máy nhằm góp

phần tăng cường hiệu lực quản lý và điều hành của bộ máy Nhà nước, đổi mới cơ

133

chế quản lý và tổ chức bộ máy chính quyền các cấp ở thành phố. Thành phố đã tiến

hành xác định, sắp xếp và phân loại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thành

phố gồm 3 loại: cơ quan nghiệp vụ giúp việc Ủy ban do UBND thành phố thành

lập; cơ quan chuyên môn giúp việc UBND thành phố; các cơ quan thuộc ngành dọc

Trung ương nằm trên địa bàn thành phố, mang tên thành phố, do ngành Trung ương ra quyết định sau khi có thỏa thuận với thành phố. Ngoài ra, trong giai đoạn này,

các đơn vị hành chính cấp quận - huyện và xã – phường ở Thành phố cũng đã có

một quá trình sáp nhập, thay đổi trên một số địa bàn nhằm phù hợp hơn với đặc điểm kinh tế, xã hội và để tăng cường chức năng quản lý cho chính quyền cơ sở.

Đồng thời, Thành phố cũng đã tiến hành sắp xếp lại tổ chức, biên chế cấp xã -

phường, quận – huyện theo Quyết định số 231/QĐ-UB ngày 24 tháng 7 năm 1991;

Quyết định số 1852/QĐ-UB ngày 10 tháng 12 năm 1993 và Quyết định 442/QĐ- UB-NCVX ngày 25 tháng 01 năm 1995 của UBND Thành phố.

Từ năm 1996 đến năm 2000, hệ thống chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh

đã có nhiều đổi mới, cải tiến trong mô hình tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà

nước các cấp như chủ động thí điểm thực hiện áp dụng cơ chế giải quyết công việc

theo mô hình “Một cửa” hoặc “Một cửa, một dấu” thực hiện thí điểm cơ chế khoán

biên chế, kinh phí ở 10 đơn vị đã đạt được những kết quả quan trọng thể hiện trên 3

lĩnh vực là về tổ chức bộ máy, về biên chế và về thu nhập của cán bộ công chức.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin ở các cấp, ngành từ thành phố đến cơ sở bước

đầu đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần từng bước nâng cao hiệu lực,

hiệu quả quản lý nhà nước và đáp ứng các nhu cầu xã hội. Thành phố cũng thực

hiện mô hình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO-9000 trong cơ quan hành

chính nhằm thiết lập một công nghệ hành chính tiên tiến trong quản lý nhà nước. Từ

năm 2001, Thành phố đã triển khai Đề án “Bảo đảm nguồn nhân lực cho HTCT của

Thành phố giai đoạn 2001 – 2005”, xây dựng kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng hàng năm nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức. ban

hành nhiều chủ trương, chính sách cu thể nhằm tạo điều kiện ổn định cuộc sống cho đội ngũ cán bộ công chức như Chương trình nhà ờ cho người có thu nhập thấp, chính sách cho cán bộ công chức, chế độ trợ cấp ưu đãi đối vói cán bộ, công chức - viên chức. Đặc biệt trong giai đoạn này, hệ thống chính quyền Thành phố bắt đầu tiến hành cải cách hành chính thông qua việc triển khai chương trình tổng thể về cải cách hành chính theo quy định của Chính phủ với 5 nội dung cơ bản là cải cách thể chế hành chính; sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hợp lý theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; thực hiện phân cấp và ủy quyền cho cấp dưới và sở - ngành; xây

dựng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức; từng bước hiện đại hóa nền hành chính

134

theo chủ trương chung; đổi mới cơ chế tài chính theo tiến trình của cả nước.

Từ năm 2006 đến năm 2013 là giai đoạn mà việc đổi mới hoạt động của hệ

thống chính quyền Thành phố với trọng tâm là cải cách hành chính được tiếp tục

đẩy mạnh trên cơ sở kết quả của giai đoạn trước. Thành phố đã hoàn chỉnh công tác

thống kê thủ tục hành chính để qua đó đơn giản hóa thủ tục nhằm phục vụ nhân dân tốt hơn. Thành phố cũng đã có cải cách mạnh mẽ trong tài chính công, đặc biệt là

việc giao tự chủ về kinh phí cho nhiều cơ quan, đơn vị có điều kiện nhằm tăng tính

tự chủ trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Thành phố cũng đã triển khai việc thực hiện cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” ở các cơ quan hành chính các cấp,

đồng thời là địa phương đầu tiên trong cả nước áp dụng mô hình “một cửa điện tử”

để giải quyết các công việc liên quan đến thủ tục hành chính; đã triển khai ứng dụng

công nghệ thông tin cho tất cả quận, huyện và sở, ngành. Thành phố cũng tham gia thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường từ năm 2009.

Ngoài việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ đối với chính quyền và

đoàn thể cũng như hoạt động của hệ thống chính quyền các cấp, từ năm 1986 đến

năm 2013, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh

cũng có sự đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương thức hoạt động, đặc biệt là

trong mối quan hệ với đảng bộ và chính quyền, thực sự phát huy được vai trò làm

chủ của quần chúng nhân dân. Trong những năm đổi mới, các phong trào do MTTQ

thành phố phát động đã thu hút, huy động được sức manh to của hàng triệu quần

chúng, giải quyết được những vấn đề bức xúc và gay gắt đặt ra cho Thành phố Hồ

Chí Minh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là thành công của các

phong trào này đã có tính lan tỏa rộng rãi trên phạm vi cả nước như phong trào

“Xóa đói, giảm nghèo”, “Nhà tình thương”, “Nhà tình nghĩa”, chiến dịch tình

nguyện “Mùa hè xanh” của thanh niên thành phố…. Một nội dung quan trọng và có

ý nghĩa trong hoạt động của MTTQ các cấp ở Thành phố Hồ Chí Minh những năm đổi mới chính là đã phát huy được vai trò làm chủ của nhân dân trong mối quan hệ

với các tổ chức đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức thành phố. Cụ thể là Mặt trận cùng với đảng bộ và chính quyền đã triển khai một cách có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Từ đó không chỉ góp phần đảm bảo về quyền và lợi ích của nhân dân trong từng chủ trương, chính sách mà còn thay đổi mối quan hệ giữa nhân dân với HTCT theo hướng công khai, minh bạch. Trên cơ sở này, trong những năm đổi mới, đặc biệt là trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2013, MTTQ và các đoàn thể quần chúng Thành phố Hồ Chí Minh đã phát huy vai trò một cách đặc biệt tích cực

và thiết thực trong việc thực hiện chức năng phản biện, giám sát đối với hoạt động

135

của hệ thống chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức bằng những cách làm cụ thể

như xây dựng quy chế giám sát đối với cán bộ công chức; tham gia góp ý, phản biện

vào các chủ trương, chính sách bằng đội ngũ chuyên gia; tham gia giám sát quá

trình thực hiện chính sách trong thực tế. MTTQ và các đoàn thể đã thực hiện ngày

càng tốt hơn chức năng người đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, là chỗ dựa để nhân dân thành phố phát huy

quyền làm chủ, tham gia ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững

mạnh; qua thực hiện chức năng giám sát đã kiến nghị với các cấp ủy, chính quyền giải quyết kịp thời nhiều vấn đề bức xúc của nhân dân; qua đó tạo ra sự đồng thuận

giữa chính quyền và nhân dân về mặt lợi ích và tư tưởng. Đây là nguyên nhân then

chốt dẫn đến sự thành công trong quá trình Đổi mới ở Thành phố Hồ Chí Minh.

Thành tựu thứ ba của quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh là đã tạo ra sự thay đổi đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Từ một đội ngũ

cán bộ làm việc trong cơ chế bao cấp với một số biểu hiện trì trệ, quan liêu đã từng

bước chuyển sang một đội ngũ làm việc hiệu quả, hiện đại, đáp ứng được đòi của

quá trình đổi mới kinh tế, xã hội.

Quá trình đổi mới công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tại Thành phố Hồ Chí

Minh từ năm 1986 là một quá trình chuyển biến liên tục gắn liền với quá trình đổi

mới HTCT nói chung. Từ những nội dung đổi mới mang tính tình thế, thiếu đồng

bộ trong giai đoạn đầu (từ 1986 đến 1996), công tác cán bộ ở Thành phố đã thực

hiện có hệ thống và mang tính chiến lược lâu dài trong những giai đoạn sau. Nội

dung đổi mới được thực hiện trên nhiều mặt của công tác này, trong đó thể hiện một

cách cụ thể nhất trong việc quy hoạch cán bộ, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, công

chức, thay đổi cơ chế chính sách đối với cán bộ, công chức.

Qua thực tế trong 10 năm đầu sau giải phóng, Thành ủy Thành phố Hồ Chí

Minh nhận thấy khuyết điểm lớn nhất trong trong công tác cán bộ là chậm làm quy hoạch cán bộ dự bị, gây ra tình hình “hụt hẫng” cán bộ ở nhiều nơi; việc bố trí, bổ

nhiệm cán bộ thường bị động, chắp vá. Mặt khác công tác quản lý cán bộ chưa tốt, chưa đảm bảo nguyên tắc tập thể và tập trung dân chủ, thiếu dân chủ công khai, diện cán bộ Thành ủy quản lý quá nhiều (quản lý cả quận ủy viên, huyện ủy viên) nhưng chậm sửa đổi. Vì vậy, trong 10 năm đầu đổi mới, thành phố đã có sự chú trọng đến công tác quy hoạch đội ngũ cán bộ quản lý, một yêu cầu hàng đầu trong việc đổi mới HTCT. Tuy rằng còn tồn tại những hạn chế, bất cập do mới thực hiện và ít kinh nghiệm thực tế nhưng bước đầu đã góp phần cung cấp một số những cán bộ chủ chốt cho các sở, ban ngành, quận - huyện, khắc phục được hạn chế của đội

ngũ cán bộ quản lý lúc đó. Điều quan trọng nhất là qua các đợt quy hoạch cán bộ đã

136

tạo nên nền tảng ban đầu cho quá trình quy hoạch cán bộ những năm sau được tiến

hành một cách đồng bộ và khoa học hơn cũng như tạo ra sự chuyển biến trong nhận

thức của cấp ủy và chính quyền các cấp về tầm quan trọng của công tác này đối với

việc xây dựng HTCT nói chung, góp phần nâng cao một bước chất lượng của đội

ngũ cán bộ công chức.

Từ năm 1996 trở đi, công tác cán bộ của Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu có

nhiều chuyển biến tích cực và hiệu quả ở cả việc quy hoạch cũng như công tác đào

tạo, bồi dưỡng và chế độ chính sách đối với đội ngũ cán bộ. Đặc biệt là vấn đề quy hoạch cán bộ dài hạn đã được Thành phố thực hiện một cách hiệu quả thông qua các

chương trình cụ thể với nhiều nhóm đối tượng khác nhau. Điều này cho thấy tầm

quan trọng của vấn đề con người trong HTCT đã được các cấp, ngành ở Thành phố

nhận thức đầy đủ, khoa học hơn. Trên cơ sở đó cũng đã góp phần cung cấp một nguồn cán bộ có trình độ, năng lực cho toàn bộ HTCT của Thành phố. Quy hoạch

cán bộ dài hạn của Thành phố nhằm đạt đến mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng một đội

ngũ cán bộ trẻ có năng lực và phẩm chất, được rèn luyện thử thách, phát triển từ

thực tiễn ở cơ sở, trở thành lực lượng bổ sung vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý

chủ chốt của các cơ quan đảng, đoàn thể, quản lý nhà nước cấp sở ngành và quận,

huyện. Vì vậy, cán bộ kế cận phải được đào tạo cơ bản về chuyên môn, có phẩm

chất chính trị vững vàng, đạo đức tốt để bổ sung nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý ở

các cơ quan của Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội

thuộc HTCT cũng như cán bộ khoa học trong các lĩnh vực khoa học - công nghệ

mũi nhọn của Thành phố. Trên cơ sở đó, Thành phố đã triển khai nhiều chương

trình đột phá tạo nguồn nhân lực trong HTCT. Trong đó có 3 chương trình: Chương

trình tạo nguồn quy hoạch cán bộ dài hạn; Chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ;

Chương trình tạo nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân.

Các chương trình trên đều tập trung vào mục tiêu chính là xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị cung cấp nguồn lực về lâu dài cho sự phát triển của Thành phố.

Công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức Thành phố đã có sự thay đổi vượt bậc so với các giai đoạn trước đổi mới thể hiện ở số lượng lớn cán bộ, công chức đã được đào tạo dưới nhiều hình thức; nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng đa dạng và thiết thực với từng nhóm đối tượng cán bộ, đặc biệt là gắn với chức danh công tác của từng cơ quan, đơn vị. Đặc biệt bên cạnh việc đào tạo kiến thức chuyên môn, việc bồi dưỡng các kỹ năng cho cán bộ là một nội dung được thành phố quan tâm nhằm phục vụ trực tiếp cho mục tiêu cải cách hành chính, hướng đến nhân dân. Phạm vi đào tạo cán bộ, công chức cũng được mở rộng là

không chỉ đào tạo trong nước mà còn có nhiều chương trình đào tạo nâng cao ở

137

nước ngoài. Tất cả những chuyển biến như trên đã góp phần hình thành đội ngũ cán

bộ, công chức Thành phố theo hướng chuyên nghiệp trong một nền hành chính hiện

đại, phát triển phù hợp với những đòi hỏi ngày càng cao về yêu cầu quản lý trên địa

bàn một đô thị đặc biệt như Thành phố Hồ Chí Minh.

Một điểm nổi bật trong công tác cán bộ là việc Thành phố đã mạnh dạn áp dụng thí điểm cơ chế mới về chính sách đối với đội ngũ cán bộ, công chức thông

qua việc thực hiện khoán kinh phí quản lý và biên chế từ tháng 12 năm 1999 và sau

đó đã được thực hiện rộng rãi trên toàn Thành phố. Đây là cơ sở thực tế quan trọng để ngày 17/10/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số

130/2005/NĐ-CP (Nghị định 130) quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về

sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước, yêu

cầu tất cả các cơ quan nhà nước thực hiện cơ chế này ngay từ đầu năm 2006. Có thể xem đây là một đóng góp quan trọng từ kết quả đổi mới công tác cán bộ của Thành

phố Hồ Chí Minh đối với quá trình cải cách hành chính của cả nước nói chung.

Nguyên nhân của những thành tựu trong quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố

Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013 xuất phát từ những yếu tố khách quan và

chủ quan sau đây:

Về mặt khách quan, trước tiên do Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm

về kinh tế đầu tàu của cả nước và khu vực kinh tế trọng điểm phía nam. Điều này

đã tác động một cách to lớn và sâu sắc đến quá trình đổi mới HTCT ở thành phố,

vì để có thể duy trì vị trí trung tâm này, đòi hỏi HTCT phải luôn có sự đổi mới

trong tổ chức và hoạt động nhằm đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã

hội. Trong nhiều giai đoạn, điều này đã tạo ra một áp lực mạnh mẽ lên HTCT,

đòi hỏi phải có sự đổi mới phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế. Hơn thế nữa, ở

vị trí là đầu tàu về kinh tế, có nguồn thu ngân sách lớn nhất cả nước, đồng thời là

trung tâm khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo nên Thành phố Hồ Chí Minh có một nguồn lực dồi dào cả về vật chất và con người phục vụ cho quá trình đổi

mới HTCT, đặc biệt là trong điều kiện phải ứng dụng các thành tựu về khoa học, công nghệ trong hoạt động của HTCT.

Thứ hai, thành công trong quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh còn xuất phát từ một đặc điểm quan trọng về mặt văn hóa là sự năng động, sáng tạo của con người thành phố. Chính sự năng động, sáng tạo này đã góp phần hình thành nên nhiều chủ trương đổi mới, đột phá không chỉ trong kinh tế mà còn trong lĩnh vực chính trị. Thực tế cho thấy có những chủ trương được tiến hành thí điểm nhưng sau đó tỏ ra không phù hợp (như việc áp dụng cơ chế “một dấu” trong hoạt động

của chính quyền cấp quận, huyện), nhưng cũng có nhiều chủ trương phù hợp, hiệu

138

quả, được áp dụng lâu dài và được nhân rộng, áp dụng trên phạm vi cả nước. Do đó,

quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh có ý nghĩa không chỉ đối với sự

phát triển của thành phố mà còn là một sự đóng góp đối với quá trình đổi mới trên

phạm vi cả nước.

Thứ ba, việc đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh đạt được sự thành công trên nhiều mặt còn là do có sự ủng hộ về mặt chủ trương của các cơ quan trung ương.

Vì là một địa bàn đặc thù, lại là trung tâm về kinh tế - xã hội của cả nước và khu vực

kinh tế trọng điểm phía nam nên sự phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa đối với thành phố mà còn có ý nghĩa chung đối với khu vực và cả nước. Do

đó, nhu cầu về đổi mới của thành phố luôn nhận được sự quan tâm, ủng hộ của các cơ

quan trung ương. Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đã có ba lần ban hành

các nghị quyết chuyên đề về Thành phố Hồ Chí Minh là Nghị quyết số 01-NQ/TW ngày 14/9/1982 (Nghị quyết 01), Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 18/11/2002 (Nghị

quyết 20) và Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 10/8/2012 (Nghị quyết 16). Các nghị

quyết này đều xác định việc cho phép Thành phố Hồ Chí Minh “được thực hiện thí

điểm đối với những vấn đề mới phát sinh mà thực tiễn Thành phố đặt ra trong quá trình

phát triển, nhưng chưa có quy định hay những quy định hiện hành của Nhà nước không

còn phù hợp. Khi thực hiện thí điểm, Thành phố phải có đề án xin Chính phủ cho thí

điểm về từng vấn đề cụ thể và chịu sự theo dõi, giám sát của Chính phủ, đặc biệt với

những vấn đề lớn, nhạy cảm” [25]. Đây chính là cơ sở rất quan trọng để Thành phố Hồ

Chí Minh có nhiều kiến nghị cụ thể liên quan đến đổi mới HTCT và đã được thực hiện

trong thực tế những năm đổi mới vừa qua.

Về mặt chủ quan, trước tiên thành công trong quá trình đổi mới HTCT ở

Thành phố Hồ Chí Minh là do ngay từ khi bắt đầu thời kỳ đổi mới, Đảng bộ thành

phố đã xác định được những yêu cầu gay gắt đặt ra về đổi mới HTCT. Văn kiện Đại

hội lần thứ IV của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh (tháng 10/1986) đã xác định: “Ðổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới

tổ chức, đổi mới cán bộ, đổi mới phong cách làm việc trong tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng nhằm đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, nhất là trong sản xuất và kinh doanh….Tăng cường hiệu lực quản lý và điều hành của bộ máy Nhà nước, đổi mới cơ chế quản lý và tổ chức bộ máy chính quyền các cấp ở thành phố. …. Xây dựng một Ðảng bộ sâu sát cơ sở, sâu sát thực tế, có đầu óc thực tiễn, nắm vững quy luật và biết vận dụng quy luật…Từ đó mà đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, đổi mới phong cách, đổi mới tổ chức và cán bộ cho phù hợp với tình hình và yêu cầu của nhiệm vụ chính trị” [189]. Qua tất

cả các kỳ đại hội sau đó của Đảng bộ thì đây vẫn luôn được coi là một chủ trương

139

trọng tâm, then chốt được xác định bằng những nhiệm vụ và giải pháp cụ thể. Chính

vì vậy, quá trình đổi mới hoạt động của HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh là một

quá trình được diễn ra liên tục theo một phương hướng khá nhất quán, tạo ra một bề

dày kinh nghiệm và hiệu quả cao trong nhiều lĩnh vực.

Thứ hai, quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh có được sự thành công còn là do thành phố luôn bám sát thực tiễn, nhận định sát đúng tình hình, tìm

trong thực tiễn lời giải cho các vấn đề đặt ra đối với HTCT. Điều này được thể hiện

qua nhiều chủ trương cụ thể như xây dựng Đảng; đoàn thể trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các đơn vị sự nghiệp ngoài công

lập theo cách tiếp cận “xóa trắng”; từ không có đảng viên đến có đảng viên, hình

thành chi bộ; thành lập tổ chức đảng tại doanh nghiệp; tại từng khu chế xuất; khu

công nghiệp; kết nạp được đảng viên ở các khâu quan trọng về công nghệ; về kỹ thuật; kiên trì phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị của tổ chức đảng trong

doanh nghiệp. Tập trung việc tạo nguồn; bổi dưỡng; thử thách phát triển Đảng trong

sinh viên, phóng viên, biên tập viên báo chí, xuất bản;... Hoặc trong công tác đào

tạo cán bộ; tạo nguồn quỵ hoạch cán bộ lãnh đạo; quản lý gắn với tăng cường cán

bộ trẻ tuổi về cơ sở phường - xã; thị trấn; doanh nghiệp gắn với thử thách; rèn luyện

cán bộ trẻ tuổi đã hình thành chương trình đào tạo cán bộ trẻ tuổi; chương trình đào

tạo thạc sĩ - tiến sĩ trong nước và nước ngoài; chương trình tạo nguồn cán bộ xuất

thân từ công nhân; chương trình bồi dưỡng tiếng Anh cho cán bộ lãnh đạo; quản lý;

kiên trì; tập trung quy hoạch; đào tạo; bồi dưỡng; luân chuyển; bố trí cán bộ nữ liên

tục nhiều nhiệm kỳ; thí điểm chính sách thu hút trí thức trong nước và kiều bào vào

các cơ quan nghiến cứu của Thành phố…

Thứ ba, thành công của quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh

còn là do thành phố đã xác định được những trọng tâm quan trọng trong đổi mới

phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn. Cụ thể, từ năm 1986 đến năm 2000, quá trình đổi mới HTCT được tập trung vào trọng tâm chính là xây dựng đảng bộ, trong

sạch, vững mạnh, chống các biểu hiện quan liêu, trì trệ vốn tồn tại đã lâu thời kỳ trước đổi mới bằng việc tiến hành nhiều cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn đảng. Trong giai đoạn này, công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, đặc biệt là đã đẩy lùi được nhiều biểu hiện tiêu cực kéo dài trong lãnh đạo của đảng bộ. Không chỉ vậy, đây là giai đoạn mà Thành phố Hồ Chí Minh có một sự sắp xếp mạnh mẽ trong các tổ chức đảng, chính quyền theo hướng tinh, gọn, hiệu quả, hiệu lực. Bên cạnh đó, để phát huy vai trò của quần chúng nhân dân, giai đoạn này, MTTQ và các đoàn thể Thành phố Hồ Chí Minh đã phát động rất

nhiều phong trào hiệu quả, thiết thực và lan tỏa nhằm giải quyết những khó khăn đặt

140

ra trong cuộc sống nhân dân khi chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường. Giai

đoạn từ năm 2001 đến năm 2013, là giai đoạn mà HTCT Thành phố Hồ Chí Minh

có bước chuyển biến quan trọng trong nội dung và phương thức hoạt động. Đảng bộ

thành phố tập trung vào việc đổi mới phương thức lãnh đạo đối với chính quyền và

MTTQ thông qua việc xây dựng quy chế, quy định cụ thể. Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh lúc này bắt đầu đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng một nền

hành chính chuyên nghiệp, hiện đại, phục vụ nhân dân. MTTQ và các đoàn thể

chính trị - xã hội hướng mạnh vào các hoạt động giám sát, phản biện đối với Đảng bộ và chính quyền các cấp cũng như đội ngũ cán bộ, công chức. Do đó, mối quan hệ

Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ được thể hiện một cách rõ nét,

hiệu quả, tạo nền tảng cho quá trình phát triển kinh tế, xã hội.

Thứ tư, một nguyên nhân quyết định cho thành công của quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh là đảng bộ và chính quyền thành phố luôn phát

huy được sự đóng góp nhiều mặt của nhân dân thành phố. Trên cơ sở đó, Ban

Thường vụ Thành ủy nhiều nhiệm kỳ đã rất chú trọng tổ chức các đợt vận động

nhân dân góp ý kiến xây dựng chính quyền và đã nhận được rất nhiều ý kiến xác

đáng, tâm huyết, trách nhiệm. Ngay trong những năm đầu sau giải phóng, Thành ủy

đã chỉ đạo chính quyền các cấp, nhất là cơ sở, tự kiểm điểm trước quần chúng;

khuyến khích quần chúng góp ý kiến phê bình, xây dựng chính quyền, phát hiện,

loại trừ những phần tử xấu ra khỏi chính quyền các cấp. Nhân kỷ niệm 50 năm ngày

thành lập Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, từ tháng 6 đến tháng

12/1995, hưởng ứng chủ trương vận động của Ban Thường vụ Thành ủy, 300.000

người với trên 44.000 ý kiến đóng góp xây dựng chính quyền các cấp [73, tr.780];

đã được các cấp ủy chỉ đạo, tiếp thu, khắc phục, hoàn thiện. Hoặc chủ trương nhân

dân thông qua Ủy ban MTTQ Việt Nam ở phường, xã, thị trấn góp ý định kỳ chủ

tịch, phó chủ tịch UBND cùng cấp. Hoặc đợt lấy ý kiến nhân dân góp ý vào dự thảo. Hiện nay trong cải cách hành chính, việc Nhân dân nhận xét về thái độ, trách

nhiệm của công chức trong thực hành công vụ là phổ biến, tác dụng rất thiết thực đối với hoạt động của các cơ quan chính quyền.

4.1.3. Những hạn chế trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị Thành phố

Hồ Chí Minh

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu của HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được thì việc đổi mới HTCT ở thành phố từ năm 1986 đến năm 2013 vẫn còn những tồn tại hạn chế, yếu kém cần khắc phục. Một cách cụ thể có thể nhận thấy những hạn chế qua những vấn đề sau:

Thứ nhất, trên tất cả các mặt của công tác xây dựng đảng, Đảng bộ thành phố

141

đều có những hạn chế lâu dài và những vấn đề mới phát sinh khó khắc phục. Hiệu

quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa cao, tính chiến đấu, sức thuyết phục

còn yếu; việc nắm tình hình, xử lý các vấn đề bức xúc phát sinh còn chậm. Năng lực

lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức cơ sở đảng còn yếu. Công tác xây

dựng tổ chức đảng, tổ chức chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm. Kết quả xây dựng tổ chức đảng trong

sạch vững mạnh có những năm chưa đạt chỉ tiêu đề ra; việc đánh giá chất lượng tổ

chức đảng và đảng viên của một số đơn vị còn chưa phản ánh đúng thực chất. Chất lượng sinh hoạt chi bộ ở một số cơ sở đảng chưa cao; tự phê bình và phê bình còn

yếu. Một bộ phận cán bộ, đảng viên kể cả cán bộ cao cấp còn thiếu gương mẫu,

giảm sút ý chí phấn đấu, phai nhạt lý tưởng, mất niềm tin, quan liêu, tham nhũng,

suy thoái đạo đức, lối sống,… ảnh hưởng xấu đến uy tín, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Công tác quản lý, đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu; chất lượng

quy hoạch và đào tạo cán bộ chưa cao. Kiểm tra, giám sát, nhất là phòng, chống

tham nhũng, lãng phí chưa được tập trung đúng mức; tình hình tham nhũng còn

diễn biến phức tạp; việc phát hiện những điển hình tốt, cách làm hay để nhân rộng

và động viên khen thưởng còn ít; một số cấp ủy chưa lãnh đạo ủy ban kiểm tra các

cấp thực hiện tốt vai trò tham mưu giúp cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo ngăn ngừa sai

phạm, đặc biệt ở những ngành dễ phát sinh tiêu cực; chất lượng tự kiểm tra ở một số

đơn vị, địa phương còn hạn chế, việc theo dõi, chỉ đạo khắc phục hậu quả sau kiểm

tra chưa chặt chẽ; tỉ lệ đảng viên sai phạm tuy có giảm nhưng chưa nhiều, mức độ vi

phạm nghiêm trọng còn xảy ra. Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy

đối với HTCT còn chậm; hội họp còn nhiều, cải cách thủ tục hành chính trong Đảng

chưa mạnh; công tác chuẩn bị, thẩm định các đề án, dự thảo Nghị quyết trước khi

ban hành còn hạn chế; chức năng, nhiệm vụ một số đảng đoàn, ban cán sự đảng,

đảng ủy cấp trên cơ sở không có chính quyền cùng cấp chưa được xác định rõ, hoạt động còn lúng túng.

Thứ hai, dù trải qua hàng chục năm đổi mới nhưng hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của các cấp chính quyền thành phố trên một số lĩnh vực còn hạn chế, nhất là quy hoạch, quản lý quy hoạch, quản lý xã hội; công tác cải cách hành chính cũng như việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chưa theo kịp yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Những tồn tại yếu kém của chính quyền không chỉ thể hiện ở việc giải quyết những vấn đề bức xúc xã hội chưa triệt để mà còn thể hiện ở công tác quản lý xã hội chưa tốt, một số tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn. Quy trình, thủ tục hành chính còn phức tạp, gây phiền hà cho nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức vừa

thiếu, vừa thừa, nhiều cán bộ còn yếu về năng lực, kinh nghiệm thực tiễn. Tình

142

trạng cửa quyền, nhũng nhiễu, thái độ thờ ơ trong giải quyết công việc còn tồn tại

trong một bộ phận cán bộ, công chức gây bức xúc trong xã hội. Một số cán bộ, công

chức chưa gương mẫu, chưa chú ý rèn luyện phẩm chất đạo đức, thiếu trách nhiệm

để xảy ra hậu quả, có trường hợp bị xử lý hình sự, làm ảnh hưởng đến uy tín của

Đảng bộ, chính quyền thành phố. Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy chính quyền chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mà chính quyền cơ sở có nơi, có lúc còn yếu kém, chưa

gắn với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, chưa phối hợp chặt chẽ với cải cách,

đổi mới hoạt động tư pháp, chưa tương xứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội ở thành phố trong tình hình mới. Việc chấp hành kỷ luật hành chính chưa nghiêm,

nhất là chấp hành chế độ thông tin báo cáo trong bộ máy hành chính. Công tác kiểm

tra thi hành văn bản còn chậm triển khai, chưa rõ trách nhiệm; việc theo dõi tình

hình thực hiện các kết luận, chỉ đạo thực hiện mới ở bước đầu, chưa thúc đẩy tạo ra những chuyển biến đáng kể trên thực tế. Công tác phối hợp trong soạn thảo và lấy ý

kiến liên quan đến văn bản dự thảo cũng chưa tốt; nhiều cơ quan không trả lời, trả

lời chậm hoặc trả lời mang tính hình thức, chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình hình hội họp

còn mang tính hình thức nhiều và mang tính sự vụ; có việc phải họp nhiều lần

nhưng giải quyết chưa triệt để, gây lãng phí công sức, thời gian. Một số sở, ngành ở

thành phố chưa phát huy đầy đủ trách nhiệm trong công tác quản lý nhà nước, chưa

đầu tư đúng mức vai trò tham mưu và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chức trách

chuyên môn, một số mặt công tác chưa cao, thiếu toàn diện. Một số cán bộ, công

chức thậm chí là cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị thiếu tu dưỡng

rèn luyện, gương mẫu, vi phạm nghiêm trọng trong quản lý, lãnh đạo gây bức xúc

trong quần chúng nhân dân.

Thứ ba, đối với MTTQ và đoàn thể các cấp thì việc tuyên truyền, vận động

nhân dân tham gia các phong trào chưa thật sự sâu rộng, thường xuyên, phát huy

vai trò làm chủ của nhân dân có mặt còn chưa thật hiệu quả. Công tác tuyên truyền giáo dục, tập hợp, phát triển các tầng lớp nhân dân vào các tổ chức chính trị – xã hội

– nghề nghiệp còn hạn chế, nhất là bộ phận nhân dân có nhiều khó khăn. Số lượng hội viên, đoàn viên của các đoàn thể đông, nhưng chưa mạnh. Mặt trận và các đoàn thể chưa thể hiện rõ vai trò người đại diện bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của hội viên. Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở một số nơi còn hình thức, nhiều vấn đề bức xúc của nhân dân chưa được giải quyết kịp thời, kéo dài, ảnh hưởng đến uy tín của hệ thống chính trị; hiệu quả hoạt động của một số đoàn thể chính trị - xã hội còn hạn chế; tình trạng “hành chính hóa”, bệnh hình thức trong hoạt động của một số đoàn thể chậm được khắc phục; chất lượng đoàn viên, hội viên chưa cao. Tổ

143

chức bộ máy cơ quan Đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể chính trị - xã hội các

cấp chưa thật tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Lòng tin của nhân dân với Đảng và chính

quyền có nơi, có lúc bị suy giảm.

Thứ tư, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và mối quan hệ giữa các cơ quan

của Đảng bộ, chính quyền thành phố với các tổ chức đoàn thể nhân dân còn có sự trùng lắp, chồng chéo. Trong thực tế chưa xác định rõ, đầy đủ mối quan hệ cơ chế

hoạt động giữa các thành tố và tổ chức trong HTCT của thành phố với nhau, như

xác định chức năng, nhiệm vụ giữa Thường vụ cấp ủy với thường trực UBND, giữa một số ban với tổ chức đảng, với một số cơ quan nhà nước đồng cấp,... Thẩm

quyền, trách nhiệm của các cấp, các ngành chưa được chế định đồng bộ, chặt chẽ;

vừa thể hiện tình trạng tập trung quá mức dẫn đến duy trì cơ chế “xin - cho”, nơi

này nơi khác, khi này khi khác có những biểu hiện phân tán, thậm chí rơi vào cục bộ ở các ngành, các cấp làm cho cơ chế quản lý của chính quyền chưa đạt hiệu quả

theo yêu cầu. Nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp ủy và tổ chức đảng chưa

thật hiệu quả, vẫn còn tình trạng bao biện, làm thay, chưa nhận thức đúng đắn, sâu

sắc vai trò lãnh đạo của Đảng, buông lỏng vai trò quan trọng, chủ yếu nhất của

Đảng là vai trò lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối của mình, bằng tính tổ chức

cao và bằng tính tiên phong, gương mẫu của mình. Việc phân định về chức năng,

nhiệm vụ, cơ chế phối hợp giữa các thành tố trong HTCT ở Thành phố Hồ Chí

Minh còn một số vấn đề chưa được giải quyết, chưa khắc phục được sự chống chéo,

vướng mắc làm ảnh hưởng đến sự thống nhất trong công tác quản lý hành chính của

chính quyền. Sự phân cấp đi đôi với phân định trách nhiệm chưa rõ ràng, dứt khoát.

Trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu tổ chức không rõ, thường dựa dẫm

vào tập thể, thậm chí trốn tránh trách nhiệm.

Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế và tồn tại như trên trong quá trình đổi

mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2013 trước hết là do những yếu tố khách quan sau đây:

Thứ nhất, HTCT thành phố được hình thành và phát triển trước khi tiến hành đổi mới là một HTCT không trải qua một quá trình hoạt động ổn định lâu dài và có tính kế thừa. Trước khi chuyển sang thực hiện nhiệm vụ xây dựng thành phố vào năm 1975, hoạt động chủ yếu của HTCT thành phố trong kháng chiến là lãnh đạo nhân dân bằng đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang tiến lên giành chính quyền, giải phóng thành phố. Do đó, khi bắt tay vào nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý trong thời bình, HTCT thành phố phải đối diện với nhiều nhiệm vụ mới mẻ, nặng nề, mà trong đó có những nhiệm vụ chưa từng có trong đường lối lãnh đạo trước

đây. Hơn thế nữa, giai đoạn HTCT thành phố bắt đầu xây dựng và từng bước lãnh

144

đạo từ sau năm 1975 đồng thời cũng lại là thời điểm mà cả nước bước vào thời kỳ

đổi mới, đòi hỏi cả hệ thống phải chuyển mình, thay đổi để thích ứng cho phù hợp.

Không giống như HTCT ở nhiều địa phương thuộc miền Bắc (như Hà Nội, Hải

Phòng…) đã từng có một quá trình hình thành và hoạt động lâu dài từ sau năm 1954

nên khi đổi mới thì có sẵn một nền tảng quan trọng về bộ máy, thể chế và đội ngũ cán bộ để chuyển đổi; HTCT của thành phố không có nền tảng ban đầu đó nên gặp

nhiều khó khăn, vướng mắc, nhiều vấn đề cả về lý luận và thực tiễn cần giải quyết.

Đây là nguyên nhân khách quan quan trọng làm cho quá trình đổi mới HTCT của thành phố còn nhiều hạn chế, tồn tại cần phải giải quyết.

Thứ hai, HTCT Thành phố Hồ Chí Minh làm nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý trên

một địa bàn đặc thù được hình thành từ lịch sử phát triển của thành phố mà các địa

phương khác trong cả nước không có. Tính đặc thù này thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau như về kinh tế, dân cư, xã hội, văn hóa, con người, dân tộc… Do đó, khi

áp dụng những chủ trương, đường lối, chính sách chung của Đảng và Nhà nước vào

địa bàn thành phố sẽ gặp nhiều khó khăn, thậm chí là không thể thực hiện. Chính vì

vậy, việc đổi mới HTCT của thành phố cũng phải được tiến hành dựa trên việc nắm

vững các đặc thù này để vận dụng cho phù hợp. Tuy nhiên, do nhiều lí do mà khi

tiến hành đổi mới HTCT, đã có một số chủ trương, chính sách của thành phố chưa

phản ánh hết được tính đặc thù từ đó dẫn đến việc gặp khó khăn, thậm chí không

thành công, cần phải thay đổi.

Thứ ba, HTCT Thành phố Hồ Chí Minh đổi mới trong quá trình hội nhập quốc

tế ngày càng nhanh và sâu, rộng. Với vị trí là trung tâm hàng đầu của cả nước về

kinh tế, quá trình phát triển của thành phố đòi hỏi tất yếu là phải không ngừng hội

nhập quốc tế trên mọi lĩnh vực. Từ đó đặt ra yêu cầu HTCT thành phố cũng cần

phải đổi mới để thích ứng và đáp ứng cho quá trình này, đặc biệt là trong những lĩnh

vực quản lý có liên quan đến yếu tố quốc tế của chính quyền thành phố cũng như hoạt động giao lưu quốc tế của Mặt trận và đoàn thể thành phố. Tuy nhiên, đây là

một vấn đề khó khăn trên nhiều mặt, đặc biệt là đối với năng lực và kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ, công chức của thành phố. Do đó, quá trình đổi mới HTCT của thành phố còn những tồn tại, hạn chế là do kết quả đổi mới vẫn chưa theo kịp với yêu cầu hội nhập, giao lưu quốc tế của thành phố trong những năm vừa qua.

Ngoài những nguyên nhân khách quan như trên thì những tồn tại trong quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013 còn xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan sau:

Thứ nhất, cho đến hiện nay thành phố vẫn chưa tiến hành tổng kết một cách

toàn diện cả về lý luận và thực tiễn về vấn đề đổi mới HTCT ở thành phố trong thời

145

kỳ đổi mới. Những đặc điểm cơ bản và nổi bật của quá trình đổi mới của HTCT ở

thành phố vẫn chưa được đánh giá và tổng kết một cách đầy đủ chính vì vậy dù đã

trải qua hàng chục năm nhưng việc đổi mới HTCT của thành phố vẫn chưa tạo nên

những đột phá mang tính điển hình, tiêu biểu như công cuộc đổi mới kinh tế. Cũng

vì chưa được tổng kết đầy đủ mà HTCT thành phố vẫn còn sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng và nhiệm vụ, dẫn đến những hạn chế, yếu kém trong tổ chức và hoạt

động. Ngoài ra vì chưa có sự tổng kết nên “trong quá trình cải cách và kiện toàn tổ

chức HTCT ở thành phố vẫn chưa có cái nhìn tổng thể, nên thực hiện chưa đồng bộ. Sắp xếp lại tổ chức, bộ máy không đi đôi với đổi mới, chính sách và cách thức hoạt

động nên kết quả thực hiện chưa được như mong muốn. Hiện tượng cải cách hành

chính ấy tỏ ra lúng túng thể hiện ở chỗ khi tách, lúc nhập; một cửa nhưng thực chất

chưa hiệu quả, biên chế không giảm mà ngày một phình to.” [66, tr.138]

Thứ hai, việc đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng như trên phạm vi

cả nước, trong một số lĩnh vực còn là vấn đề nhạy cảm, thậm chí phức tạp, đặc biệt

là ở những chủ trương liên quan đến con người, đến tổ chức bộ máy, đến cơ chế

quan hệ quyền lực giữa các tổ chức, cơ quan trong hệ thống nên quá trình thực hiện

khó đi đến triệt để. Điều này là do nó liên quan đến lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp,

đến lợi ích chung và lợi ích riêng của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy. “Nhưng

thực chất quá trình cải cách đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh thiếu tính

thống nhất, thiếu kiên quyết, đôi lúc tỏ ra dễ dãi, tùy tiện, dễ làm khó bỏ, ngại đụng

chạm, vị nể, lợi ích cá nhân còn phổ biến trong quá trình tổ chức, thực hiện.” [66,

tr.139]. Do đó, để tiến hành đổi mới HTCT vững chắc và thành công, đòi hỏi những

tầm nhìn mang tính chiến lược của với một quyết tâm chính trị cao độ.

4.2. Tác động của quá trình đổi mới hệ thống chính trị đối với sự phát

triển kinh tế, xã hội Thành phố Hồ Chí Minh

Từ năm 1986 đến năm 2013 với gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã đạt được những thành tựu to lớn,

có ý nghĩa lịch sử, trở thành trung tâm hàng đầu của đất nước về kinh tế, văn hóa, xã hội và hội nhập quốc tế. Đóng góp trực tiếp và quyết định cho kết quả đó là quá trình đổi mới hoạt động của HTCT thành phố với việc không ngừng củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, hiệu lực và hiệu quả quản lý của chính quyền, mở rộng dân chủ, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Thành công trong quá trình đổi mới HTCT của Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ đáp ứng hoàn thành nhiệm vụ đã qua mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài cho giai đoạn cách mạng hiện nay và sắp tới trên con đưòng xây dựng, phát triển và bảo

vệ thành phố. HTCT của Thành phố Hồ Chí Minh đã chuyển đổi thành công từ cơ

146

chế quản lý kinh tế có kế hoạch, tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế nhiều

thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ

nghĩa; phát triển kinh tế gắn liền với an ninh quốc phòng. Những thành tựu về sắp

xếp, đổi mới hoạt động của HTCT thành phố đã được Bộ Chính trị đánh giá một

cách cụ thể trong Nghị quyết số 20 ngày 18/11/2002, Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010: “HTCT ở Thành phố được quan

tâm củng cố; tổ chức bộ máy chính quyền các cấp có bước đổi mới theo hướng ngày

càng tinh gọn, hiệu quả; phương pháp, lề lối làm việc được cải tiến theo hướng sát với thực tế, sát với cơ sở, giảm bớt các thủ tục hành chính phiền hà. Vai trò mặt trận

và các đoàn thể được tăng cường để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân vào

công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [25]

Có thể khẳng định chính quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013 đã có những đóng góp quyết định đối với sự thành công

trong sự nghiệp đổi mới của thành phố cũng như sự phát triển của đất nước, đặc biệt

chính những thành tựu trong đổi mới HTCT là nguyên nhân then chốt đưa Thành

phố Hồ Chí Minh trở thành một trung tâm về nhiều mặt của vùng kinh tế trọng điểm

phía nam và của cả nước.

Về kinh tế, từ năm 1975 đến năm 2010, kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh tăng

trưởng bình quân 8,24%/năm, tốc độ tăng trưởng nhanh hơn 1,5 lần so với cả nước,

quy mô GDP giá so sánh 1994, năm 2010 gấp 16 lần so với năm 1975 (Phụ lục 12).

Vai trò đầu tàu của kinh tể Thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước không chỉ thể

hiện ở tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh cao gấp 1,5 lần so

với cả nước mà còn thể hiện ở việc kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp khá

cao vào tốc độ tăng trưởng của cả nước trong một thời gian dài và có xu hướng

tăng, đặc biệt là giai đoạn 2001-2010. Năm 2001, kinh tế cả nước tăng trưởng

6,89%, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp tương đương với 26,67%. Năm 2010, kinh tể cả nước tăng trưởng 6,78%, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh đóng

góp tương đương 45,35%. Điều này cho thấy vai trò đầu tàu của kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh so với cả nước ngày càng to lớn. Tương tự như vậy, sự đóng góp của kinh tế thành phố đối với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng rất to lớn. Năm 2001, Vùng kinh tế trọng điềm phía Nam tăng trưởng 10,28% so với năm 2000, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh đóng góp 4,81 điểm phần trăm vào tốc độ tăng trưởng (tương đương 46,85%), các địa phương còn lại đóng góp 5,47 điềm phần trăm (tương đương 53,15%). Năm 2009, Vùng kinh tế trọng điềm phía Nam tăng trưởng 7,47% so vói năm 2008, trong đó kinh tế Thành phố đóng góp tương đương

60,72%; các tỉnh còn lại đóng góp tương đương 39,28%. Rõ ràng là đối với Vùng

147

kinh tế trọng điểm phía Nam, kinh tể Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ đóng vai

trò đầu tàu mà còn đóng vai trò hạt nhân của Vùng. Thành phố Hồ Chí Minh cũng

đóng vai trò hết sức quan trọng về thu ngân sách của cả nước. Tổng thu ngân sách

nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chiếm tỷ trọng cao trong tồng thu

ngân sách của cà nước và có xu hướng gia tăng. Năm 1980, tổng thu ngân sách nội địa trên địa bàn Thành phố chiếm 19,8% so với tồng thu ngân sách nội địa cả nước;

đến năm 2010 chiếm đến 35,2% tổng thu ngân sách cả nước. [19, tr.50-51]

Về mặt xã hội, chính tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao trong một thời gian dài đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao mức sống dân cư trên địa bàn Thành

phố Hồ Chí Minh. Tốc độ tăng trường kinh tế bình quân cao hơn nhiều lần so với

tốc độ tăng dân số qua các thời kỳ làm cho tốc độ tăng GDP bình quân đầu người

không ngừng được cải thiện. Giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình quân đầu người tăng bình quân gần 10%/năm, giai đoạn 1996 - 2010, GDP bình quân đầu người tăng

trưởng bình quân 7,3%/năm. Thu nhập bình quân đầu người của người dân Thành

phố đã tăng lên đáng kể. Năm 1995, thu nhập bình quân đầu người của người dân

Thành phố đạt 450 ngàn đồng/người/tháng, chiếm 67,8% GDP bình quân đầu người

theo giá thực tế; năm 2008, thu nhập bình quân đầu người đạt 2,3 triệu

đồng/người/tháng, chiếm 65,6% GDP bình quân đầu người theo giá thực tế. Thành

phố Hồ Chí Minh cũng là địa phương đi đầu cả nước về xóa đói giảm nghèo.

Chương trình xóa đói giảm nghèo của Thành phố được sự tham gia đông đảo của

mọi tầng lớp nhân dân với nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Chỉ trong năm

2009, tổng nguồn vốn huy động, vận động để thực hiện chương trình giảm nghèo

của Thành phố là 2.326 tỷ đồng, tăng 565 tỷ đồng so với cùng kỳ năm trước. Từ

năm 1992 - 2008 đã có hơn 200 ngàn lượt hộ nghèo được vay vốn trực tiếp để xóa

nghèo và vươn lên khá giả. Những nỗ lực này đã mang lại kết quả tích cực. Đến

năm 2010, sau 18 năm thực hiện “Chương trình xóa đói, giảm nghèo”, Thành phố Hồ Chí Minh về cơ bản không còn hộ nghèo theo tiêu chuẩn 6 triệu đồng/

người/năm, còn 5,7% hộ nghèo theo tiêu chuẩn 12 triệu đồng/ người/năm và tỷ lệ này có xu hướng giảm nhanh chóng (năm 2009 là 7,6%). Với kết quả tích cực này, “Chương trình xóa đói, giảm nghèo” của Thành phố được chuyền thành “Chương trình giảm nghèo, tăng hộ khá”. [134, tr.150]

Thành phố Hồ Chí Minh được xem là trung tâm khoa học và công nghệ của cả nước trên các khía cạnh tiềm lực về khoa học công nghệ, những đóng góp của khoa học và công nghệ của Thành phố đối với cả nước, về tiềm lực khoa học và công nghệ, đến năm 2009, số trường đại học và cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí

Minh chiếm 17,6% so với cà nước, giáo viên chiếm 20,1% và sinh viên chiếm

148

22,3%. Thành phố Hồ Chí Minh có 32 ngàn lao động làm việc trong lĩnh vực khoa

học và công nghệ. Theo tổng điều tra dân số năm 2009, dân số Thành phố Hồ Chí

Minh chiếm 6,7% dân số cả nước, tuy nhiên tỷ lệ sinh viên theo học tại các trường

đại học và cao đẳng trên địa bàn Thành phố chiếm đến 22,3% và tỷ lệ học sinh tốt

nghiệp năm 2009 chiếm 23,8% so với cả nước. Điều này cho thấy, ngoài việc học sinh Thành phố Hồ Chí Minh có tỷ lệ vào đại học và cao đẳng cao hơn mức bình

quân chung cả nước còn một tỷ lệ đáng kể học sinh từ các địa phương khác học đại

học và cao đẳng trên địa bàn thành phố [134, tr.202]. Giáo dục đại học và cao đẳng trên địa bàn thành phố không những đóng vai trò đào tạo cho người dân thành phố

mà còn cho cả khu vực và cả nước. Ngành y tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí

Minh trong những năm đổi mới cũng đã phát triển nhanh chóng cả về lượng lẫn về

chất, xứng đáng là trung tâm y tế cùa cả nước. Y tế Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh cho người dân Thành phố mà còn cho cả khu

vực phía Nam và miền Trung. Cơ sở vật chất không ngừng được đầu tư và hiện đại

hóa, nguồn nhân lực thường xuyên được đào tạo, từng bước tiếp cận những thành

tựu mới nhất của thế giới về khám và chữa bệnh.

4.3. Một số bài học kinh nghiệm Từ những thành tựu và hạn chế của quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ

Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013; trên cơ sở những nguyên nhân khách quan và

chủ quan, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cơ bản về việc đổi mới HTCT ở

Thành phố Hồ Chí Minh như sau:

Thứ nhất, đổi mới hệ thống chính trị thành phố phải thật sự xuất phát từ nhu

cầu, đòi hỏi thực tế của nhân dân địa phương để quay trở lại phục vụ nhân dân.

Đây là bài học có ý nghĩa sâu sắc đối với đổi mới nói chung và đổi mới hệ

thống chính trị nói riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình tìm tòi đến

việc tiến hành đổi mới hệ thống chính trị, về cơ bản các chủ trương, chính sách đổi mới tổ chức và hoạt động của Đảng bộ, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc thành phố

đều xuất phát từ những yêu cầu thực tế của người dân và doanh nghiệp. Ngay từ những chủ trương đổi mới ban đầu trong công tác xây dựng đảng của Đảng bộ Thành phố từ năm 1986 với việc làm trong sạch đội ngũ cán bộ đảng viên, tăng cường kỷ luật và đưa ra khỏi đảng những đảng viên không đủ tiêu chuẩn đã thể hiện quyết tâm của Thành ủy trong việc củng cố lại niềm tin của nhân dân vào tổ chức đảng khi có không ít đảng viên trong giai đoạn trước đó rơi vào suy thoái, biến chất và quan liêu. Đến những chủ trương khác trong các giai đoạn sau như: đổi mới công tác dân vận, hướng về cơ sở, lãnh đạo triển khai Quy chế dân chủ ở cơ sở (từ năm

1998), là đảng bộ đầu tiên thành lập Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng (năm

149

2006)… đều là những chủ trương được đánh giá là hợp lòng dân, tăng cường được

sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với nhân dân thành phố. Đối với chính quyền thành

phố, những chủ trương đổi mới như: tiến hành cuộc vận động cải tiến thủ tục hành

chính, chống gây phiền hà cho nhân dân (năm 1990), đổi mới hoạt động của HĐND

các cấp (từ năm 1992), xây dựng chính quyền quận, huyện theo mô hình “một cửa, một dấu” (từ năm 1995), cải cách hành chính (từ năm 2001), đưa vào hoạt động Hệ

thống đối thoại doanh nghiệp – chính quyền thành phố (từ tháng 5/2003), thí điểm

thành lập Tổ nghiệp vụ hành chính công (từ tháng 8/2004), thí điểm mô hình quận, huyện, phường không tổ chức HĐND (từ năm 2008) đều là những chủ trương quan

trọng nhằm hướng đến việc “lấy sự hài lòng của người dân, của doanh nghiệp làm

thước đo hiệu quả công tác cải cách hành chính”. Thực tế cũng cho thấy có chủ

trương khi được thí điểm nhưng lại xuất hiện những hạn chế, bất cập, ảnh hưởng đến quyền lợi của người dân và doanh nghiệp, được dư luận phản ánh đã được

thành phố ngừng triển khai như mô hình “một dấu” trong hoạt động của chính

quyền cấp quận, huyện. Đối với hoạt động hệ thống Mặt trận Tổ quốc và các đoàn

thể thành phố, các phong trào quần chúng được phát động và triển khai trong những

năm đổi mới đều là những phong trào có tính lan tỏa rộng rãi, hiệu quả thiết thực

đối với các tầng lớp nhân dân. Đặc biệt có nhiều phong trào đã trở thành mô hình

chung của cả nước như xóa đói giảm nghèo, nhà tình thương, tình nghĩa, mùa hè

xanh. Hơn thế nữa, để phát huy dân chủ, Mặt trận Tổ quốc Thành phố đã sáng tạo

và thực hiện những phương thức phản biện, giám sát phù hợp đối với đội ngũ cán

bộ, công chức cũng như chính quyền các cấp tại Thành phố. Một thực tế hiển nhiên

là sự phản biện, giám sát của nhân dân khi được các cấp chính quyền lắng nghe,

điều chỉnh sẽ đạt được sự đồng thuận, đem lại những hiệu quả thiết thực. Ngược lại,

cũng có những nội dung phản biện chưa được lắng nghe, tiếp thu đầy đủ đã dẫn đến

hạn chế, bất cập khi triển khai thậm chí khuyết điểm nghiêm trọng, kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào hệ thống chính trị.

Thứ hai, để đổi mới cần dựa trên những đặc điểm đặc thù của thành phố, phải phát huy tính năng động, sáng tạo và dám chấp nhận thử thách trong việc kiến nghị và đưa ra chủ trương đổi mới, đồng thời phải kiên quyết, kiên trì trong quá trình triển khai.

Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm của cả nước về nhiều mặt, do đó có những điểm đặc thù riêng biệt về kinh tế, xã hội, dân cư (dân số đông nhất cả nước, có nhiều dân tộc cùng sinh sống nhất trên cả nước…; có những quận, huyện mà dân số đông hơn một số tỉnh; có những phường, xã có dân số đông hơn một số quận,

huyện…) nhưng về tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức lại phải theo quy

150

định chung như các địa phương khác trên cả nước. Điều này tạo nên áp lực rất lớn

cho bộ máy và con người trong hệ thống chính trị trong quá trình hoạt động. Chính

vì vậy Từ năm 1981 đến nay, theo kiến nghị của thành phố, Bộ Chính trị đã 3 lần

ban hành nghị quyết về Thành phố Hồ Chí Minh cho phép Thành phố được thực

hiện thí điểm đối với những vấn đề mới phát sinh mà thực tiễn Thành phố đặt ra trong quá trình phát triển, nhưng chưa có quy định hay những quy định hiện hành

của Nhà nước không còn phù hợp. Điều này tạo ra cơ chế cho Thành phố có thể xây

dựng những chủ trương, chính sách về đổi mới hệ thống chính trị cho phù hợp với điều kiện đặc thù của Thành phố. Trong thực tế, nhiều chủ trương đổi mới trong

những năm qua về cơ bản đều xuất phát từ đặc điểm quan trọng này. Cụ thể như chủ

trương thành lập các Đảng bộ Khối trực thuộc Thành ủy nhằm thu gọn các đầu mối

trong công tác đảng vì có quá nhiều tổ chức đảng, gây khó khăn trong quản lý. Năm 1990, Thành ủy có trương thí điểm cơ chế bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch UBND

phường nhằm nâng cao hiệu quả lãnh đạo quản lý trên địa bàn các phường thuộc

trung tâm thành phố. Năm 1996, Thành phố có chủ trương như khoán biên chế và

kinh phí cho các đơn vị hành chính nhằm tăng nguồn thu nhập cho cán bộ công

chức và giảm biên chế trong các cơ quan chính quyền, tạo động lực làm việc cho

đội ngũ cán bộ, công chức trong điều kiện áp lực lớn về công việc. Từ năm 2002,

Thành phố đã cho phép thành lập hai trung tâm dịch vụ hành chính hoạt động tách

khỏi cơ quan quản lý là Trung tâm thông tin và đăng ký nhà đất thuộc Sở Tài

nguyên và Môi trường do tình trạng quá tải trong đăng ký quyền sử dụng đất ở

Thành phố. Năm 2004, Thành phố lại thí điểm thành lập Tổ nghiệp vụ hành chính

công tại các Quận 3, 11, Bình Thạnh nhằm giúp các cơ quan hành chính cấp quận

giải quyết một lượng lớn hồ sơ của người dân và doanh nghiệp….

Bên cạnh việc phải xuất phát từ tính đặc thù của thành phố để đổi mới hệ

thống chính trị thì thực tế ở thành phố Hồ Chí Minh cũng cho thấy rằng, để đổi mới thực chất hiệu quả thì còn cần phải có sự sáng tạo và dám chấp nhận thử thách trong

đổi mới. Hơn thế nữa, khi đề xuất và thực hiện chủ trương, chính sách đổi mới cần có sự kiên quyết và kiên trì. Đổi mới HTCT là một vấn đề to lớn, nhạy cảm và có phần phức tạp lại đặt dưới sự lãnh đạo chung của Đảng và Nhà nước. Do đó, nếu không có sự sáng tạo và dám chấp nhận thử thách, thậm chí là chấp nhận sai lầm thì không thể đổi mới thành công. Có những chủ trương đổi mới của thành phố đã thành công và trở thành cách làm chung của cả nước nhưng cũng có những thí điểm không những chưa thật sự hiệu quả mà còn xung đột với những quy định pháp lý đòi hỏi phải ngừng thực hiện. Ví dụ: chủ trương thí điểm thành lập Trung tâm dịch

vụ hành chính nhà đất huyện Cần Giờ từ cuối năm 2003 đã gặp phải sự trùng lắp

151

với các đơn vị như Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và bộc lộ nhiều sai sót

trong công tác nên đã không được triển khai tiếp. Quá trình thực hiện mô hình “một

cửa, một dấu” trong hoạt động của các cơ quan hành chính đã xuất hiện nhiều bất

cập về mặt kỹ thuật và pháp lý nên từ năm 2008, thành phố đã bỏ cơ chế “một dấu”.

Điều này cho thấy rằng không phải lúc nào những chủ trương đổi mới hệ thống chính trị của Thành phố cũng đi đến thành công. Tuy nhiên, qua đó cũng cho thấy

sự năng động, sáng tạo và dám chấp nhận thử thách của Thành phố để rồi từ đó

những cách làm đúng sẽ được áp dụng rộng rãi, những cách làm không phù hợp sẽ bị thay thế bằng cách làm hiệu quả hơn.

Ngoài ra, các chủ trương về đổi mới HTCT dù chỉ diễn ra trong một lĩnh vực,

ở một cấp hay một ngành nhưng khi áp dụng vào cũng sẽ dẫn đến sự tác động

không nhỏ đối với các lĩnh vực và bộ phận khác. Do đó, khi tiến hành đổi mới việc triển khai và tổ chức thực hiện phải thật sự có sự thống nhất về mặt nhận thức và

hành động để từ đó áp dụng một cách đúng đắn và khoa học nhất trong từng điều

kiện cụ thể. Hơn thế nữa, vấn đề đổi mới HTCT là vấn đề có sự ảnh hưởng đến rất

nhiều yếu tố, nhiều bộ phận và đặc biệt là liên quan đến vấn đề con người, vấn đề

lợi ích. Do đó khi triển khai cũng như khi thực hiện không thể thiếu sự lãnh đạo

kiên quyết trên cơ sở đồng thuận từ các cấp trong tổ chức đảng và chính quyền. Từ

đó sẽ đi đến kết quả cuối cùng và cao nhất trong thực tế. Ngoài ra, khi triển khai cần

phải có sự theo dõi sâu sát qua nhiều phương thức khác nhau, đặc biệt là phải dựa

vào nhân dân để từ đó đánh giá được tính hiệu quả và điều chỉnh cho phù hợp khi

cần thiết.

Thứ ba, trong đổi mới hệ thống chính trị cần đặc biệt chú trọng đổi mới tổ

chức và hoạt động của hệ thống Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội

trong mối quan hệ với Đảng bộ và chính quyền.

Mục tiêu cao nhất trong đổi mới hệ thống chính trị là để phục vụ nhân dân tốt hơn, hiệu quả hơn, đồng thời phát huy được vai trò thực tế của nhân dân trong hoạt

động của các cơ quan đảng và chính quyền các cấp. Do đó, trong đổi mới hệ thống chính trị việc đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội song song với bộ máy đảng và chính quyền là một đòi hỏi tất yếu và giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Thực tế ở Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy nhờ sự đổi mới phù hợp mà các đoàn thể ở Thành phố đã góp phần hình thành nhiều phong trào có ý nghĩa to lớn đối với nhân dân Thành phố, giải quyết những khó khăn về kinh tế - xã hội, xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Qua đó, không chỉ đem đến lợi ích trực tiếp cho nhân dân mà còn góp phần củng cố

niềm tin vào vai trò lãnh đạo của đảng bộ và chính quyền Thành phố. Đặc biệt, việc

152

đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Thành phố với nội dung tham

gia xây dựng đảng và chính quyền bằng hoạt động phản biện, giám sát đã được triển

khai từ rất sớm (năm 1991, với sự ra đời của các ban thanh tra nhân dân ở tất cả

phường, xã). Bằng nhiều hình thức khác nhau, hoạt động này đã góp phần tác động

trở lại một cách tích cực với bộ máy đảng và chính quyền các cấp, làm cho các tổ chức này hoạt động hiệu quả hơn, đáp ứng trực tiếp hơn nhu cầu của các tầng lớp

nhân dân. Đặc biệt qua đó thúc đẩy cho việc đổi mới tổ chức đảng và chính quyền

cũng như đội ngũ cán bộ, công chức được đồng bộ. Với sự giám sát trực tiếp của Mặt trận và các đoàn thể trong việc ban hành và thực thi các văn bản quy phạm

pháp luật mà công tác quản lý nhà nước được minh bạch, công khai hơn. Việc giám

sát đội ngũ cán bộ công chức đã thúc đẩy thái độ tích cực và thân hiện hơn với

người dân, từng bước khắc phục được các biểu hiện quan liêu, cửa quyền. Việc Ủy ban MTTQ Thành phố thông qua các khối tư vấn gồm các chuyên gia, nhà khoa học

để phản biện các chính sách của chính quyền thành phố góp phần làm cho việc xây

dựng và ban hành chính sách được khoa học và đúng hướng hơn. Như vậy, kết quả

đổi mới tổ chức và phương thức của MTTQ và các đoàn thể đã tác động trực tiếp

đến quá trình đổi mới các thành tố khác trong hệ thống chính trị. Do đó, đổi mới

hoạt động của các đoàn thể vừa là mục tiêu và vừa là động lực thúc đẩy cho đổi mới

hệ thống chính trị nói chung.

Thứ tư, trong đổi mới hệ thống chính trị các cấp thì cần coi đổi mới hệ thống

chính trị của cấp quận, huyện là then chốt.

Đổi mới hệ thống chính trị cần được tiến hành đồng bộ ở tất cả các bộ phận

cấu thành cũng như ở mọi cấp trong hệ thống chính trị. Đó là một yêu cầu khách

quan, tất yếu. Tuy nhiên, thực tế quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Thành phố

Hồ Chí Minh cho thấy rằng cấp quận, huyện với vai trò “cầu nối” giữa thành phố

với cấp xã, phường là mắt xích trọng yếu của hệ thống chính quyền địa phương trong việc tổ chức thực thi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà

nước. Thông qua đó, chính quyền cấp quận, huyện còn chứng tỏ vị trí “cột trụ” của mình trong hệ thống chính trị địa phương; đảm bảo cho sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và chỗ dựa tin cậy cho quyền làm chủ của nhân dân ở cấp mình. Nếu như cấp thành phố là cấp quyết định, cấp xã, phường là cấp thi hành thì cấp quận, huyện lại có đặc thù riêng biệt. Cụ thể như về ngân sách khi thì là cấp hạch toán khi thì là cấp dự toán; về thẩm quyền pháp lý khi thì là cấp quyết định khi thì là cấp thi hành. Với vị thế như vậy, cấp quận, huyện thường không có thẩm quyền quyết định độc lập, nhạy bén nhiều vấn đề của địa phương mình mà phải chờ và căn cứ vào nghị quyết

của HĐND cùng cấp, quyết định, chỉ thị của UBND thành phố. Bên cạnh đó, Đảng

153

bộ quận, huyện cũng chịu sự lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố về những vấn đề cơ

bản, trọng yếu. Và như một hệ quả, các tổ chức chính trị - xã hội cấp quận, huyện

cũng chịu sự chỉ đạo trực tiếp của cơ quan cấp thành phố theo hệ thống dọc. Chính

vị trí này đã khiến cho cấp quận, huyện dường như không có sự độc lập, chủ động

trọng việc giải quyết những vấn đề của cấp mình, thậm chí với cả việc chỉ đạo nhiều vấn đề của cấp xã, phường. Hơn thế nữa, nhiều vấn đề quan trọng liên quan trực

tiếp đến người dân đều được bắt đầu giải quyết ở chính quyền cấp này như các hoạt

động liên quan đến tư pháp, xét xử… Nhận thức được thực tế này, trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị thì Thành phố đã có những chủ trương cụ thể nhằm đổi

mới mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nhất là chính quyền quận,

huyện. Một cải tiến mạnh mẽ là việc xây dựng chính quyền quận, huyện theo mô

hình “một cửa, một dấu” (từ năm 1995) với những hiệu quả thiết thực để rồi từ đó được Chính phủ triển khai trên cả nước. Từ năm 2001, trên cơ sở Nghị định số

93/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12/12/2001 Về phân cấp quản lý một số lĩnh

vực cho Thành phố Hồ Chí Minh, UBND Thành phố đã tiến hành phân cấp một số

lĩnh vực cho UBND quận, huyện. Đặc biệt, từ năm 2006, Thành phố tham gia thí

điểm không tổ chức HĐND ở cấp quận, huyện và phường. Qua thực tế đã chứng

minh được tính hiệu quả, nâng cao vai trò chủ động trong hoạt động quản lý của

chính quyền quận, huyện. Đến nay với sự kiên trì theo kiến nghị thực hiện mô hình

của Thành phố này mặc dù việc thí điểm đã kết thúc vào năm 2016, Quốc hội đã

quyết định thông qua Nghị quyết về tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố Hồ

Chí Minh với việc không không tổ chức HĐND ở cấp quận, huyện và phường. Điều

này là một cải tiến mạnh mẽ trong hoạt động của chính quyền cấp quận, huyện. Tuy

nhiên, cho đến nay nhiều vấn đề còn đặt ra trong tổ chức và hoạt động của hệ thống

chính trị quận, huyện ở Thành phố vẫn chưa được giải quyết như sự phân biệt giữa

mô hình UBND quận và UBND huyện (giữa chính quyền tại đô thị và nông thôn). Điều này dẫn đến bất cập là cùng một tổ chức, bộ máy, cơ cấu nhân sự nhưng lại

phải giải quyết nhiều nhiệm vụ khác nhau. Từ đó nảy sinh ra rất nhiều khó khăn trong thực tế hoạt động.

Thứ năm, vấn đề quan trọng hàng đầu để đổi mới hệ thống chính trị thành

công là bắt đầu từ đổi mới công tác cán bộ.

Trong tất cả các lĩnh vực của đổi mới HTCT thì yếu tố con người luôn giữ vị trí then chốt. Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức là vấn đề quan trọng hàng đầu trong đổi mới HTCT nhằm đạt được tính ổn định, hiệu quả của tổ chức và thật sự hướng đến việc phục vụ nhân dân, phát huy dân chủ. Thực tế cho

thấy những thành tựu to lớn của quá trình đổi mới HTCT thành phố hơn 30 năm qua

154

là kết quả trực tiếp của việc phát huy hiệu quả của đội ngũ cán bộ, công chức, viên

chức thành phố. Đồng thời, những tồn tại, hạn chế còn cần phải giải quyết hiện nay

của thành phố cũng chính là xuất phát từ nhân tố con người và cũng phải đổi mới

bắt đầu từ vấn đề con người. Đối với Đảng bộ Thành phố, để bắt đầu đổi mới thì

Thành ủy đã chọn trọng tâm là việc làm trong sạch đội ngũ đảng viên với việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong đảng bằng cả biện pháp về giáo dục và tổ chức. Kết

quả là đã thi hành kỷ luật hàng trăm đảng viên trong 1 năm (năm 1988 thi hành kỷ

luật 942 đảng viên [13, tr.154]). Xuyên suốt từ đó đến nay, công tác cán bộ vẫn luôn là nội dung trọng tâm, then chốt trong xây dựng đảng của Đảng bộ Thành phố với

chủ trương quy hoạch cán bộ từ năm 1989, ban hành chương trình hành động về

công tác cán bộ nữ từ năm 1994. Ban Thường vụ Thành ủy cũng đã sớm đã ban

hành Nghị quyết Về quy hoạch và đào tạo cán bộ từ năm 1997; thực hiện chương trình xây dựng đội ngũ cán bộ xuất thân từ công nhân, sinh viên từ năm 2008. Đối

với chính quyền Thành phố, các chương trình xây dựng đội ngũ công chức, viên

chức cũng được triển khai mạnh mẽ như Chương trình đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ cho hệ

thống chính quyền với hàng ngàn người được đào tạo từ trong và ngoài nước…

Chính những đổi mới từ rất sớm và cụ thể như trên mà hệ thống chính trị Thành phố

đã có một đội ngũ cán bộ đông đảo, làm việc có hiệu quả, ngày càng chuyên nghiệp,

hiện đại. Tuy nhiên, một thực tế tồn tại tại thành phố Hồ Chí Minh trong những năm

đổi mới mà trải qua nhiều nhiệm kỳ vẫn chưa thể khắc phục là có một bộ phận

không nhỏ cán bộ, công chức rơi vào suy thoái về đạo đức, lối sống, sai phạm về

quản lý kể cả tham nhũng dẫn đến hiệu quả trong thực hiện một số chủ trương,

chính sách lớn bị ảnh hưởng, uy tín của hệ thống chính trị có phần bị giảm sút. Điều

này cho thấy sự khó khăn và tính phức tạp lâu dài trong việc đổi mới đội ngũ cán bộ

tại Thành phố.

Tiểu kết chƣơng 4 Quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2013 là một quá trình chuyển đổi liên tục và lâu dài, từ một HTCT thời kỳ bao cấp, kế hoạch hóa sang HTCT trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình này diễn ra song song với quá trình đổi mới về kinh tế, xã hội do đó đã có sự tác động một cách sâu sắc và hiệu quả vào sự phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh, đưa thành phố trở thành trung tâm về kinh tế, xã hội của cả nước, đầu tàu về văn hóa, khoa học, giáo dục – đào tạo và hội nhập quốc tế. Những thành tựu đạt được từ quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh là những thành tựu

to lớn đối với thành phố. Đó là việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy theo hướng tinh

155

gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; khắc phục được tình trạng cồng kềnh, chồng

chéo trong hoạt động thời kỳ trước đổi mới. HTCT Thành phố Hồ Chí Minh qua

thời kỳ đổi mới đã có sự phân định một cách rõ ràng, cụ thể, khoa học về chức năng

nhiệm vụ của từng bộ phận nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng bộ, vai trò

quản lý của chính quyền và phát huy dân chủ trong nhân dân; mối quan hệ của các bộ phận cũng được xác định bằng các quy định, quy chế một cách cụ thể. Đặc biệt,

HTCT Thành phố Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng thành một HTCT hoạt động

chuyên nghiệp, hiện đại, thông qua việc ứng dụng hiệu quả các thành tựu của khoa học công nghệ trong quản lý. Tuy nhiên, quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ

Chí Minh cũng không tránh khỏi những hạn chế, khuyết điểm cả về tổ chức, bộ

máy, đội ngũ cán bộ, công chức cũng như trong nội dung và phương thức hoạt động

của các bộ phận.

Đạt được những thành tựu quan trọng cũng như còn những tồn tại, hạn chế

trong quá trình đổi mới HTCT ở Thành phố Hồ Chí Minh là do nhiều nguyên nhân

vừa mang tính khách quan vừa chủ quan. Những nguyên nhân này, đặc biệt là

những nguyên nhân chủ quan chính là cơ sở quan trọng để các cơ quan lãnh đạo

trên địa bàn thành phố đúc rút, tổng kết thành những kinh nghiệm nhằm góp phần

156

hiệu quả hơn trong hoạt động của HTCT thành phố những năm tiếp theo.

KẾT LUẬN

Bắt nguồn từ các cơ quan lãnh đạo và tổ chức Mặt trận trong chiến tranh, sau

năm 1975, khi đất nước thống nhất, HTCT Thành phố Hồ Chí Minh được thiết lập

theo mô hình của miền Bắc, với 3 thành tố chủ yếu là Đảng bộ, Chính quyền và Mặt trận cùng các Đoàn thể quần chúng. Trong 10 năm đầu sau giải phóng, HTCT

Thành phố đã nhanh chóng củng cố và kiện toàn, lãnh đạo và quản lý Thành phố

vượt qua những tháng ngày khó khăn do hậu quả chiến tranh để lại và đương đầu với một cuộc chiến tranh mới ở biên giới Tây Nam. Năm 1986, Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ 4 quyết định đưa cả nước bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện. Thành

phố Hồ Chí Minh, với những ưu thế sẵn có về kinh tế và tư duy “phá rào”, trở thành

một trung tâm quan trọng của công cuộc đổi mới của đất nước. Điều đó đòi hỏi HTCT Thành phố phải có những cải cách đổi mới để đủ sức lãnh đạo và quản lý

một Thành phố đang bước vào quá trình chuyển đổi mạnh mẽ và phức tạp.

Nhìn lại chặng đường 27 năm đổi mới của HTCT Thành phố (1986 – 2013),

có thể thấy quá trình đổi mới này không nằm ngoài nguyên tắc đã được Đảng Cộng

sàn Việt Nam đề ra, đó là phải đảm bảo “Đảng lãnh đạo, Chính quyền quản lý và

Nhân dân làm chủ”. Đây là một nguyên tắc đã có từ lâu, nhưng không dễ thực hiện,

bởi vì nguyên tắc này đòi hỏi những đổi mới về mọi mặt, từ thay đổi về nhận thức

đến cải tổ lại bộ máy và phương thức hoạt động. Hơn nữa, điều này cần phải được

thực hiện ở cả ba thành tố trong hệ thống chính trị, do chúng có quan hệ hữu cơ với

nhau, đúng như nguyên tắc có 3 vế mà Đảng đã đề ra.

Đảng bộ Thành phố trong gần 30 năm qua đã liên tục có những đổi mới về xây

dựng Đảng và về phương thức hoạt động. Trên cơ sở các Nghị quyết của Trung

ương, vận dụng vào điều kiện cụ thể của Thành phố, Đảng bộ đã tiến hành nhiều

cuộc vận động chỉnh đốn đảng, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên; tổ chức lại các Đảng bộ cơ sở, tăng cường phát triển Đảng ở những khu vực còn trống hoặc

ít sự hiện diện của Đảng, thực hiện nhiều biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở Đảng; chú trọng công tác cán bộ, đặc biệt là việc bồi dưỡng và tạo nguồn đội ngũ cán bộ; đồng thời đổi mới phương thức lãnh đạo đối với HTCT. Chính vì vậy, Đảng bộ Thành phố không chỉ củng cố vững chắc vai trò lãnh đạo, xóa bỏ được những ảnh hưởng nặng nề của cơ chế bao cấp, quan liêu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, mà còn giữ vững tư tưởng chính trị và tổ chức trong thời kỳ mới, phát huy được dân chủ trong nội bộ và trong toàn bộ HTCT. Trên cơ sở đó, Đảng bộ đã đề ra được những chủ trương lãnh đạo khoa học, sáng

tạo, phù hợp với điều kiện đặc thù của thành phố. Có thể nói, sự đổi mới trong hoạt

157

động của Đảng bộ thành phố chính là nhân tố quyết định hàng đầu cho sự thành

công trong đổi mới của HTCT thành phố và sự đổi mới, phát triển của thành phố

nói chung.

Chính quyền Thành phố từ một cơ chế quản lý bao cấp, tập trung, kế hoạch

hóa, trước những yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn cũng đã không ngừng đổi mới về hệ thống tổ chức, bộ máy; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; tiến hành

cải cách hành chính mạnh mẽ trên cơ sở những tìm tòi, sáng tạo và ứng dụng khoa

học công nghệ trong quản lý. Điểm nổi bật nhất trong quá trình đổi mới của hệ thống chính quyền thành phố là cùng với việc nâng cao vai trò quản lý thì cũng

không ngừng thay đổi mối quan hệ tích cực giữa các cấp chính quyền với nhân dân,

theo hướng chính quyền phục vụ nhân dân, hướng đến sự thuận lợi và hài lòng của

nhân dân, dẫn tới những cải cách quan trọng vể tổ chức và hành chính. Trên cơ sở đó, chính quyền các cấp của thành phố đã đáp ứng được yêu cầu quản lý ở một đô

thị đông dân nhất cả nước, một trung tâm phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hội. Đặc

biệt thông qua vai trò quản lý của chính quyền thành phố mà cơ chế kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành một cách đồng bộ, vững chắc,

tạo nền tảng cho các thành phần kinh tế phát triển, gia tăng sản xuất, thu hút nhiều

đầu tư từ nước ngoài, đưa mức sống của người dân lên mức cao nhất trong cả nước.

Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển của thành phố như các loại tệ nạn, tội

phạm, ô nhiễm môi trường, hạ tầng xuống cấp… cũng được chính quyền các cấp

từng bước giải quyết, tạo ra sự ổn định trong đời sống xã hội. Quá trình đổi mới

hoạt động của hệ thống chính quyền thành phố cũng là quá trình vai trò của các tầng

lớp nhân dân không ngừng được tăng cường và củng cố trên mọi lĩnh vực.

MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội thành phố đã tham gia tích cực vào

quá trình phát triển của Thành phố, góp phần giải quyết những khó khăn, trì trệ về

kinh tế - xã hội, thông qua việc phát động, triển khai các cuộc vận động, các phong trào sâu rộng trong quần chúng. Từ những cuộc vận động và những phong trào, Mặt

trận và các đoàn thể đã phát huy được sự đóng góp cũng như sự sáng tạo to lớn của hàng triệu quần chúng nhân dân Thành phố đối với việc xây dựng Thành phố, hơn nữa còn tạo nên sự hưởng ứng của người dân cả trong và ngoài nước. Đặc biệt, thông qua hoạt động của MTTQ và các đoàn thể, nhân dân thành phố từng bước trở thành chủ thể quan trọng của HTCT thành phố bằng các hoạt động đóng góp, phản biện trực tiếp các chủ trương, chính sách của Đảng bộ và chính quyền các cấp, hoạt động giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức và chính quyền cơ sở. Việc nâng cao quyền làm chủ của người dân là điều kiện quan trọng cho sự ổn định chính

158

trị, sự phát triển kinh tế, xã hội của thành phố hiện nay và tương lai.

Tuy đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều mặt, nhưng quá trình đổi mới

HTCT thành phố trong gần 30 năm qua vẫn còn nhiều hạn chế, có cả những hạn chế

kéo dài đã nhiều năm. Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát

triển mọi mặt của Thành phố và đời sống của nhân dân, gây ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của hệ thống chính trị; trong đó, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng

viên là một vấn đề then chốt cho đổi mới, nhưng còn tồn tại nhiều bất cập… Do

vậy, quá trình đổi mới HTCT Thành phố cần phải được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết và đánh giá một cách toàn diện, nhằm tiếp tục thực hiện đổi mới hệ thống chính

trị thành phố theo hướng khoa học và hiệu quả hơn trong những năm tiếp theo. Từ

những thành tựu và hạn chế trong quá trình đổi mới HTCT thành phố cần rút ra

những bài học kinh nghiệm để vận dụng vào hoạt động đổi mới trong giai đoạn hiện nay. Những kinh nghiệm này là tiền đề quan trọng để xác định một mục tiêu toàn

diện, những phương hướng và giải pháp cần thiết cho một chiến lược tổng thể về

đổi mới HTCT Thành phố trong quá trình đổi mới chung của đất nước những năm

159

tiếp theo.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn

hiện nay, Tạp chí Khoa học Chính trị, số 1 năm 2019, trang 58 – 62

2. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh đổi mới phương thức lãnh đạo (1996 – 2001),

160

Tạp chí Lịch sử Đảng, số 1 năm 2019, trang 92 – 96

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT:

1. Vũ Ngọc Am (2011), Các kỳ đại hội là những mốc son vàng lịch sử quan

trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tạp chí Cộng sản Điện tử, ngày

10/1/2011

2. Lê Thị Trúc Anh (2012), Văn hóa giao tiếp trong công sở hành chính

(trường hợp Thành phố Hồ Chí Minh từ 1986 đến nay), Luận án Tiến sĩ Văn

hóa học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Văn Anh (2011), Thành tựu 35 năm xóa đói giảm nghèo của Thành phố Hồ

Chí Minh, Tạp chí Sổ tay Xây dựng Đảng, số tháng 1 năm 2011

4. Nguyễn Thọ Ánh 2010), Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội

của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ chính trị học, Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

5. Tần Xuân Bảo (2015), Nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo đội ngũ cán

bộ lãnh đạo diện thành ủy quản lý giai đoạn 2010 - 2015”, Đề tài nghiên cứu

cơ sở, Trường Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh.

6. Ban chấp hành Đảng bộ Huyện Cần Giờ (2014), Lịch sử đấu tranh cách

mạng, xây dựng, phát triển của Đảng bộ và nhân dân huyện Cần Giờ (1930-

2010), NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

7. Ban chấp hành Đảng bộ Các khu chế xuất và khu công nghiệp Thành phố Hồ

Chí Minh (2015), Lịch sử Đảng bộ Các khu chế xuất và khu công nghiệp

Thành phố Hồ Chí Minh (1997 – 2015), NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí

Minh

8. Ban chấp hành Đảng bộ Quận Phú Nhuận (2005), Lịch sử Đảng bộ quận Phú

Nhuận (1975-2000), NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh

9. Ban chấp hành Đảng bộ Quận Tân Bình (2005), Lịch sử Đảng bộ quận Tân

Bình (1975-2005), NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh

10. Ban chấp hành Đảng bộ Quận 5 (2008), Lịch sử Đảng bộ Quận 5 (1975 -

161

2005), NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

11. Ban chấp hành Đảng bộ Quận 11 (2004), Lịch sử Đảng bộ quận 11 (1975-

2000), NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

12. Ban chỉ đạo Thành phố Hồ Chí Minh về Phòng chống tham nhũng (2010),

Báo cáo tổng kết công tác phòng chống tham nhũng của Thành phố Hồ Chí

Minh nhiệm kỳ 2006 – 2010.

13. Ban Tổ chức Thành ủy (2004), 70 năm truyền thống công tác tổ chức đảng

bộ Khu Sài Gòn – Gia Định – Thành phố Hồ Chí Minh , NXB Tổng hợp,

Thành phố Hồ Chí Minh.

14. Ban Tổ chức Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Báo cáo 10 năm

thực hiện Nghị quyết trung ương 3 (Khóa VIII) “Về chiến lược cán bộ thời kỳ

đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” tháng 12 năm 2008.

15. Ban Tổ chức Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Tổng kết 10 năm

thực hiện chương trình tạo nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ

tuổi và chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ.

16. Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2014), Ban Tuyên giáo

Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh truyền thống và phát triển, NXB Tổng

hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

17. Ban Tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Những vấn đề

chủ yếu của văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lần thứ X

nhiệm kỳ 2015 – 2020, NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

18. Phan Xuân Biên (2005), Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan

nhà nước cấp tỉnh, thành (qua thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh), Tạp chí

Lịch sử Đảng, số 9 năm 2005.

19. Phan Xuân Biên (Chủ biên) (2005), Một số vấn đề đổi mới phương thức lãnh

đạo của Đảng và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cấp cơ sở, NXB

Đại học Quốc gia. Thành phố Hồ Chí Minh

20. Phan Xuân Biên (Chủ biên) (2007), Một số vấn đề về xây dựng chính quyền

đô thị từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Thành phố Hồ Chí Minh.

21. Phan Xuân Biên (Chủ biên) (2012), Thành phố Hồ Chí Minh, 35 năm xây

162

dựng và phát triển (1975 – 2010), NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

22. Bộ Công an - Thành ủy - UBND Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Vai trò

của lực lượng Công an Nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân

tộc, xây dựng và bảo vệ, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn

Thành phố Hồ Chí Minh (1945-2015), NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí

Minh

23. Nguyễn Đức Bình, Trần Ngọc Hiên, Đoàn Trọng Truyến (đồng chủ biên)

(1999), Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn

mới, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

24. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX, Nghị quyết số 20

ngày 18 tháng 11 năm 2002, về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành

phố Hồ Chí Minh đến năm 2010.

25. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI, Nghị quyết số 16-

NQ/TW, ngày 10 tháng 8 năm 2012 “Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển

Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020”.

26. Các đoàn thể chính trị - xã hội Thành phố tích cực thực hiện Cuộc vận động

“Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” (2011), Tạp chí Sổ tay Xây

dựng Đảng, , số 1 năm 2011

27. Nguyễn Chu Chân (2004), Kết quả đáng ghi nhận ở Thành phố Hồ Chí Minh

về công tác tư tưởng, lý luận, Tạp chí Tư tưởng Văn hoá, số 11 năm 2004.

28. Lê Văn Chấn (2007), Mô hình "một dấu, một cửa" trong các cơ quan nội

thuộc chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh: Xây dựng chính quyền đô thị

hiên đại, Tạp chí Phát triển kinh tế, 2007.

29. Ngô Tùng Chinh (2005), Nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở

đảng trong doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước ở Thành phố Hồ Chí

Minh, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 6 năm 2005.

30. Phạm Hồng Chương (Chủ nhiệm đề tài) (2004), Đảng Cộng sản Việt Nam

lãnh đạo xây dựng nền dân chủ chính trị ở nước ta (1986-2001) - Lịch sử và

kinh nghiệm, Đề tài nghiên cứu cấp bộ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí

Minh.

31. Vũ Hoàng Công (2002), Hệ thống chính trị cơ sở - đặc điểm, xu hướng và

163

giải pháp, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

32. Nguyễn Mạnh Cường (2007), Phương án khoán Biên chế và kinh phí quản lý

hành chính tại cơ quan chuyên trách đoàn thể chính trị - xã hội tại Thành

phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2008 – 2010, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học

Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.

33. Minh Cường - Nguyễn Đức (2010), Quản lý Sài Gòn ngày đầu giải phóng -

Bài 2: Lấy dân chủ, đoàn kết làm trọng, Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí

Minh, Số ra ngày 28/04/2010.

34. Lê Tâm Dũng (Chủ nhiệm đề tài), (2000), Xây dựng Đảng bộ thành phố Hồ

Chí Minh trong cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đề tài

nghiên cứu khoa học, Văn phòng Thành ủy.

35. Nguyễn Tiến Dũng, Đoàn Ngọc Phúc (2004), Nâng cao hiệu quả quản lý đô

thị ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản số 7 năm 2004.

36. Trần Tuấn Duy (2007), Đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã và việc sử

dụng sau đào tạo nguồn tại Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Đại

học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

37. Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần

thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.

38. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời

kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội,.

39. Hồ Sơn Đài (2015), Ủy ban Quân quản Sài Gòn - Gia Định - Những ngày

đầu tiếp quản, Sài Gòn Giải phóng số ra ngày 27 tháng 4 năm 2015.

40. Hồ Sơn Đài (2015), Vai trò của Bộ Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam Việt

Nam sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Tạp chí Cộng sản số tháng 5

năm 2015

41. Trần Cát Điền (2005), Chất lượng nhân sự Đại hội Đảng bộ cấp quận bắt

đầu từ làm tốt công tác quy hoạch cán bộ, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 10

năm 2005.

42. Nguyễn Điển (2009) Phản biện xã hội trong quá trình xây dựng và phát triển

ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Tuyên giáo, số 7, năm 2009.

43. Trần Văn Đông (2004), Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng cơ sở Đảng trong

164

sạch, vững mạnh, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 6 năm 2004.

44. Bùi Xuân Đức (2004), Đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong giai đoạn

hiện nay, NXB Tư pháp, Hà Nội.

45. Tô Văn Giai (2011), Thành tựu 35 năm xóa đói giảm nghèo của Thành phố

Hồ Chí Minh, Tạp chí Sổ tay Xây dựng Đảng, tháng 1 năm 2011

46. Trần Văn Giàu - Trần Bạch Đằng (2018) (Chủ biên), Địa chí văn hóa Thành

phố Hồ Chí Minh (tập 1: Lịch sử), NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh,

2018

47. Nguyễn Trọng Hải (2016), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân

dân các cấp ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa

học xã hội.

48. Hoàng Minh Hằng (2012), Tìm hiểu về xây dựng chính quyền đô thị ở Nhật

Bản, Viện nghiên cứu Đông Bắc Á (htthành phố://cjs.inas.gov.vn)

49. Nguyễn Thị Thu Hiền (2005), Vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí

Xây dựng Đảng, số 8 năm 2005.

50. Vũ Văn Hiền (Chủ biên), (2004, Quy chế dân chủ ở cở sở - vấn đề lý luận và

thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Hải Hiếu (2011), 10 năm Cuộc vận động Vì người nghèo ở Thành phố Hồ

Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, tháng 9 năm 2011

52. Trần Đình Hoan (Chủ biên), (2008), Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ

thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005 – 2020, NXB Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

53. Nguyễn Thị Hoàng (2007), Về tổ chức chính quyền đô thị ở Xơ-un - Hàn

Quốc, Tạp chí Quản lý Nhà nước số 2 năm 2007.

54. Hội Liên hiệp Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh (2005), Phụ nữ Thành phố

Hồ Chí Minh 30 năm xây dựng và phát triển, NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ

Chí Minh.

và hoạt động HĐND các cấp nhiệm kỳ 1999 – 2004, ngày 7/4/2004

55. HĐND Thành phố Hồ Chí Minh (2004), Báo cáo số 99/BD-HĐ “Tổng kết tổ chức

56. Vương Đình Huệ (2016), Nhìn lại 30 năm đổi mới - Những thành tựu nổi bật

165

trong phát triển kinh tế, Báo Nhân dân, ngày 4 tháng 1 năm 2016

57. Phan Văn Hùng (2012), Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan hành

chính nhà nước phường trong điều kiện cải cách hành chính ở nước ta, Luận

án luật học, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam.

58. Phạm Văn Hùng (2002), Đẩy mạnh công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ

dài hạn, Sổ tay Xây dựng Đảng, số 5, năm 2002.

59. Lê Văn In (Chủ nhiệm đề tài) (2002), Nghiên cứu những cơ sở khoa học của

việc xây dựng chương trình đào tạo và bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, quản lý

điều hành theo chức danh cán bộ chủ chốt cơ sở phường xã (bí thư, phó bí

thư, chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, trưởng các

đoàn thể), Đề tài nghiên cứu cấp Thành phố, Trường Cán bộ Thành phố Hồ

Chí Minh.

60. Kết quả và kinh nghiệm bước đầu trong thực hiện cuộc vận động “Học tập

và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (2008), Sổ tay xây dựng Đảng,

số 4, năm 2008

61. Đỗ Quang Khắc (2000), Thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động

trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay, Luận án Triết

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

62. Đoàn Văn Khuy (2007), Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh sau 5 năm thực

hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII, Sổ tay Xây dựng Đảng, Số

tháng 1 năm 2007

63. Đào Đăng Kiên (2000), Quá trình hình thành và phát triển mô hình cải cách

hành chính “Một cửa – một dấu” cấp quận, huyện ở Thành phố Hồ Chí

Minh, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện Hành chính.

64. Đào Đăng Kiên (2004), Kết quả sau hai năm thực hiện chương trình tổng thể

cải cách hành chính nhà nước ở Thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Quản lý

nhà nước, số 97 năm 2004.

65. Nguyễn Thị Thanh Kiều (2004), Chỉ thị 09 đã khơi thông dòng chảy, Sổ tay

Xây dựng Đảng, số 7, năm 2004.

66. Huỳnh Thành Lập (2009), Quan hệ biện chứng giữa chính quyền với các

166

thành tố trong hệ thống chính trị của Thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ đổi

mới, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành

phố Hồ Chí Minh.

67. Hoàng Văn Lễ (2015), Tình hình an ninh trật tự những năm đầu giải phóng,

Tham luận tại hội thảo “Vai trò của lực lượng CAnhân dân trong sự nghiệp

đấu tranh giải phóng dân tộc” do Bộ Công an và Thành phố Hồ Chí Minh

phối hợp tổ chức ngày 29/3/2015.

68. Nguyễn Văn Linh (1985), Thành phố Hồ Chí Minh 10 năm, NXB Sự Thật,

Hà Nội, 1985

69. Trương Đắc Linh (2007), Một dấu" trong cơ chế "một cửa, một dấu" của

chính quyền quận, huyện Thành phố Hồ Chí Minh: Ý tưởng đột phá, nhưng

thực hiện nửa vời, trái pháp luật và không khả thi, Tạp chí Khoa học pháp lý,

Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 2007, Số 6(43), tr.3-9.

70. Trương Đắc Linh (Chủ nhiệm) (2009), Tổ chức chính quyền Thành phố Hồ

Chí Minh: lịch sử, hiện tại và phuơng hướng đổi mới trong tiến trình đổi mới

hệ thống chính trị ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Đại học

Luật Thành phố Hồ Chí Minh.

71. Lý Vĩnh Long (2012) Hệ thống chính trị ở Việt Nam từ 1986 đến nay, Luận

án chính trị học, Đại học KHXH&NV – Đại học Quốc gia Hà Nội.

72. Nguyễn Văn Mạnh (2005), Nhận thức và thực tiễn vận dụng quan điểm của

Đảng cộng sản Việt Nam về tổ chức bộ máy nhà nước trong thời kỳ đổi mới

(từ 1986 đến nay), Đề tài Khoa học cấp Bộ.

73. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh và sức mạnh đại đoàn

kết dân tộc (2008), NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

74. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, Báo cáo 1 năm thực

hiện quy chế dân chủ ở cơ sở 1998 - 1999, ngày 20/4/2000

75. Đinh Văn Mậu (2009), Mô hình các cấp chính quyền ở Hà Nội, Đề tài cấp

Bộ.

76. Nâng cao sức thuyết phục, tính chiến đấu trong công tác tư tưởng của Đảng

bộ thành phố Hồ Chí Minh: Kỷ yếu toạ đàm kỷ niệm 80 năm ngày truyền

thống ngành Tuyên giáo của Đảng (1/8/1930 - 1/8/2010) (2011), NXB Văn

167

hoá Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.

77. M.Nam (2007), Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh sơ kết việc thực hiện

“Phân công đảng viên trực tiếp làm công tác quần chúng”: Tạo điều kiện để

quần chúng giám sát đảng viên, Báo Người Lao động, số ra ngày 30 tháng 6

năm 2007

78. Lý Kim Ngân (2004), Để thực hiện tốt hơn nữa Chỉ thị 11-CT/TU của Ban

Thường vụ Thành ủy, Sổ tay Xây dựng đảng, số 5, năm 2004

79. Hoài Nguyễn, Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh sau 3 năm thành lập Ban

Dân vận, Sổ tay Xây dựng Đảng, số 8 năm 2003, trang 18

80. Vũ Thị Nghĩa (2013), Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo phòng,

chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính

trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

81. Hà Quang Ngọc (2005), Cải cách cơ cấu tồ chức và hoạt động của bộ máy

chính quyền địa phương, Tạp chí Cộng sản, số 2 năm 2005

82. Nguyễn Hữu Nhân (2012), Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo cải

cách hành chính nhà nước trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ, Học

viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.

83. Đặng Thọ Nhật (2014), Đổi mới phương thức hoạt động của Hội Liên hiệp

Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính

trị, Bộ Quốc phòng.

84. Phạm Bá Nhiễu (2003), Xây dựng Tổ chức Đảng trong các doanh nghiệp cổ

phần có vốn nhà nước, Sổ tay xây dựng đảng, số tháng 3, năm 2003, trang 12

85. Nhìn lại nhiệm kỳ 2002 - 2007 của Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí

Minh (2007), Sổ tay Xây dựng Đảng, số 12, 2007

86. Nguyễn Thị Hiền Oanh (2002), Mặt trận Tổ quốc Thành phố Hồ Chí Minh

với việc thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động, Luận văn thạc

sỹ chính trị học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

87. Trần Nữ Hồng Phương (2009), “Ảnh hưởng của chế độ khuyến khích đến

thái độ lao động của công chức trẻ tại Thành phố Hồ Chí Minh” Đề tài

nghiên cứu, Trung tâm phát triển Khoa học và Công nghệ trẻ Thành Đoàn

168

Thành phố Hồ Chí Minh.

88. Nguyễn Thị Phượng (2008), Chính quyền địa phương trong việc bảo vệ

quyền công dân ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Quản lý hành chính nhà nước,

Hà Nội.

89. Thang Văn Phúc (2013), Một số vấn đề về sửa đổi, bổ sung các quy định của

Hiến pháp 1992 về chính quyền địa phương, Tham luận tại Hội thảo “Hoàn

thiện Chương chính quyền địa phương của dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm

1992 và định hướng xây dựng Luật về Chính quyền địa phương” tại Thành

phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa ngày 28-29/3.

90. Lê Hoàng Quân (2006), Quy hoạch cán bộ dài hạn ở Thành phố Hồ Chí

Minh, Tạp chí Xây dựng Đảng, số tháng 4 năm 2006.

91. Nguyễn Duy Quý (2008), Hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới,

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

92. Trương Tấn Sang (1996), Từ thực tiễn xây dựng Ðảng ở Thành phố Hồ Chí

Minh, vài khía cạnh về công tác cán bộ, Tạp chí Xây Dựng Ðảng, số tháng 9

năm 1996.

93. Võ Kim Sơn (2002), Tổ chức và hoạt động cùa chính quyền địa phương cơ

sở các nước ASEAN, Đề tài cấp Bộ.

94. Văn Tạo (2000), Kinh nghiệm xây dựng và quản lý chính quyền các cấp

trong lịch sử, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Trần Văn Tạo (chủ biên) - Trương Minh Nhựt - Chu Viết Luân (2000),

Thành phố Hồ Chí Minh 25 năm phát triển (1975-2000), NXB Tổng hợp,

Thành phố Hồ Chí Minh.

96. Đào Duy Tấn (Chủ nhiệm đề tài) (2006), Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi

dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp quận tại Thành phố

Hồ Chí Minh, Đề tài nghiên cứu khoa học, Phân viện Thành phố Hồ Chí

Minh – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

97. Nguyễn Xuân Tế và Phan Hải Hồ (2007), Phân cấp quản lí nhà nước tại

Thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp, Tạp chí Nhà nước và

pháp luật, số 3 năm 2007.

98. Trịnh Đức Thảo (2008), Cơ chế hành chính một cửa liên thông ở Thành phố

169

Hồ Chí Minh của trên Tạp chí Lý luận chính trị, số 4 năm 2008.

99. Trần Xuân Thảo (2011), Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh với quá trình thực

hiện các chính sách xã hội của Thành phố trong công cuộc đổi mới (1996 –

2006), Luận án tiến sĩ Lịch sử, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành

phố Hồ Chí Minh.

100. Nguyễn Văn Thảo (2006), Đổi mới nội dung hoạt động các cấp chính quyến

địa phương trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

101. Thái Vĩnh Thắng (2002), Tổ chức chính quyền địa phương của Nước Cộng

hòa xà hội chủ nghĩa Việt Nam - quá trình hình thành và phát triển, những

bất cập và phương hướng đổi mới, Tạp chí Luật học, số 4 năm 2002

102. Chu Văn Thành (2004), Hệ thống chính trị cơ sở: thực trạng và một số giải

pháp đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

103. Trần Thành (2004), Bệnh quan liêu của bộ máy nhà nước và phương hướng

khắc phục trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay,

Luận án triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

104. Thành đoàn Thành phố Hồ Chí Minh (2012), Công tác Đoàn và phong trào

thanh thiếu nhi Thành phố 1975 – 2012, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

105. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1977), Nghị quyết số 41/NQ-TU ngày

9/11/1977 “Về xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền cơ sở”

106. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (1996), Chỉ thị số 04/CT-TU ngày

18/10/1996 về thực hiện cải cách hành chính theo mô hình “một cửa, một

dấu”.

107. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Nghị quyết số 01-NQ/TU ngày

26/6/2001 “Về quy chế làm việc của BCH Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh

Khoá VII (2001 - 2005)”

108. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Quyết định số 196-QĐ/TU, ngày

27/8/2001 “Về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, quan hệ làm việc của

Ban Dân vận Thành ủy”

109. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Chỉ thị số 04-CT/TU ngày

5/12/2001 “Về việc tăng cường lãnh đạo thực hành tiết kiệm, chống lãng

170

phí”

110. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2002), Quy định 428-QĐ/TU ngày

21/10/2002 “Về xử lý trách nhiệm đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý khi để

xảy ra các vụ tham nhũng, tiêu cực trong cơ quan, đơn vị”

111. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2002), Chỉ thị số 06-CT/TU ngày

4/11/2002 “Về lập lại kỷ cương, chấp hành pháp luật, nâng cao trách nhiệm

quản lý nhà nước trên địa bàn thành phố”

112. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2002), Kế hoạch tiếp tục thực hiện Nghị

quyết 06-NQ/TU của Thành ủy (Khóa VI) về tăng cường lãnh đạo cuộc đấu

tranh chống tham nhũng

113. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2003), Chỉ thị số 15-CT/TU ngày

20/10/2003 “Về cuộc vận động tu dưỡng đạo đức, xây dựng lối sống lành

mạnh trong cán bộ, đảng viên”

114. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2003), Chỉ thị số 09-CT/TU ngày

24/4/2003 “Về việc đẩy mạnh công tác phát triển đảng trong các trường đại

học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp từ nay đến năm 2005”

115. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2003), Chỉ thị số 10-CT/TU ngày

14/5/2003 “Về lãnh đạo phát triển, nâng cao chất lượng, hiệu quả phong

trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc”

116. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2003), Chỉ thị số 11-CT/TU ngày

19/5/2003 “Về đẩy mạnh công tác xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể và phát

triển đảng viên, đoàn viên trong các doanh nghiệp tư nhân”

117. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2003), Chỉ thị số 13-CT/TU ngày

28/7/2003 “Về một số nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân Thành phố”

118. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2004), Chỉ thị số 18-CT/TU ngày

2/11/2004 “Về đổi mới công tác thi đua - khen thưởng và đẩy mạnh phong

trào thi đua yêu nước”

119. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2004), Quy định 1043-QĐ/TU ngày

21/9/2004 “Về phân công đảng viên trực tiếp làm công tác vận động quần

171

chúng ở cơ sở”

120. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2006), Quyết định số 242-QĐ/TU ngày

20/10/2006 “Về Quy chế làm việc của Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố

Hồ Chí Minh”

121. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2006), Chương trình hành động thực

hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ VIII về chương trình cải

cách hành chính và chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

122. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2006), Chương trình hành động thực

hiện Nghị quyết 04-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương (Khóa X) về

tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng,

lãng phí

123. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2006), Chương trình hành động số

13/Ctr/TU ngày 20/10/2006 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với

công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí.

124. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Kế hoạch số 17-KH/TU ngày 20/6/2007

“Về đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan Đảng, định hướng về đổi

mới tổ chức bộ máy nhà nước, MTTQ và các đoàn thể chính trị-xã hội”

125. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Chương trình hành động số

35/Ctr/TU ngày 5/5/2008 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của

Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị

126. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2008) Báo cáo số 137-BC/TU ngày

28/7/2008 tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết trung ương 5 Khóa IX về đổi

mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn.

127. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Báo cáo kết quả thực hiện Nghị

quyết 04-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương (Khóa X) về tăng cường

lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí

128. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Chương trình hành động số 35-

Ctr/TU ngày 5/5/2008 về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng

đối với hoạt động của hệ thống chính trị.

129. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Báo cáo số 198-BC/TU ngày

172

31/8/2009 về Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 Khóa VIII

về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước.

130. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Báo cáo số 216-BC/TU ngày

30/12/2009 về kết quả thực hiện Nghị quyết 17-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính,

nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước trên địa bàn

Thành phố Hồ Chí Minh

131. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Báo cáo số 197-BC/TU ngày

31/8/2009 về sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính

trị và Kế hoạch số 17-KH/TU của Ban Thường vụ Thành ủy về luân chuyển

cán bộ.

132. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2011), Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện

Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa X về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng chống tham nhũng,

lãng phí.

133. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Thành tựu của Đảng bộ thành

phố Hồ Chí Minh từ đại hội đến đại hội Đai hội, NXB Tổng hợp, Thành phố

Hồ Chí Minh.

134. Thành ủy - Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân - Ủy ban MTTQ Việt Nam

(2015), Thành phố Hồ Chí Minh - 40 năm xây dựng, phát triển và hội nhập,

NXB Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

135. TS. Hồ Bá Thâm và Ths. Nguyễn Thị Hồng Diễm (Đồng chủ biên)(2008),

Lực cản và động lực cải cách hành chính ở Thành phố Hồ Chí Minh NXB

Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

136. Nguyễn Kim Thoa (2005), Tìm hiểu chính quyền địa phương các cấp, NXB

Tư pháp, Hà Nội.

137. Nguyễn Kim Thoa (2005), Pháp luật về chính quyền địa phương, thực trạng

và phương hướng cải cách, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, Số 9 năm 2005.

138. Lê Minh Thông (Chủ biên), (2007). Cơ sở lý luận về tổ chức hoạt động của

hệ thống chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam,

173

NXB Chính trị quốc Quốc gia, Hà Nội.

139. Nguyễn Viết Thông (1994), Đổi mới các tổ chức chính trị - xã hội trong quá

trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Luận án Triết

học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

140. Trương Thu Trang (2008),Kinh nghiệm phân cấp quản lý chính quyền ở Nhật

Bản, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 7 năm 2008.

141. Phạm Ngọc Trâm (2011), Quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam từ

1986 đến 2011, NXB Chính trị quốc Quốc gia, Hà Nội.

142. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Quỹ Châu Á (2013), Báo cáo: “Chính quyền

đô thị tại Việt Nam: Nghiên cứu tình huống từ Thành phố Hồ Chí Minh và

Đà Nẵng”, Hà Nội.

143. Phạm Minh Tuấn (Chủ nhiệm đề tài) (2016), Khảo sát và đánh giá việc thí

điểm mô hình chính quyền đô thị Thành phố Hồ Chí Minh, Đề tài nghiên cứu,

Học viện Chính trị Khu vực II.

144. Đào Trí Úc (2010), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ

máy đảng và nhà nước, một số vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB Chính trị

quốc Quốc gia, Hà Nội.

145. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (1977), Quyết định số 612/QĐ-

UB ngày 16/11/1977 “Về việc ban hành Bản quy định tạm thời về phân công

quản lý giữa các sở, ban, ngành của thành phố và phân cấp quản lý giữa cấp

Thành phố và cấp quận, huyện”.

146. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (1981), Quyết định số 52/QĐ-UB

ngày 20/3/1981 “Về việc ban hành Bản quy định về phân công, phân cấp

quản lý cho UBND quận, huyện”.

147. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (1981), Quyết định số 53/QĐ-UB

ngày 20/3/1981 “Về việc ban hành Bản quy định về phương hướng và nội

dung phân công, phân cấp quản lý cho phường, xã”.

148. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (1996), Quyết định số 1965/QĐ-

UB-KT ngày 11/4/1996 “Về việc ban hành “Quy chế làm việc tạm thời (mẫu)

174

của UBND các quận, huyện thuộc Thành phố Hồ Chí Minh”

149. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2002), Quyết định

119/2002/QĐ-UB, ngày 24/10/2002 “Về việc ban hành chương trình cải

cách hành chính giai đoạn 2001-2005”

150. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2006), Quyết định số

117/2006/QĐ-UBND ngày 21/7/2006 “Về kế hoạch triển khai Chương trình

hành động thực hiện Chương trình cải cách hành chính, chống quan liêu giai

đoạn 2006 – 2010”.

151. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2005), Báo cáo tình hình thực

hiện pháp lệnh chống tham nhũng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ

năm 1998 đến 2005.

152. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2006), Quyết định về ban hành

kế hoạch thực hiện Chương trình hành động phòng chống tham nhũng giai

đoạn 2006 – 2010

153. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2006), Chỉ thị số 25/2006/CT-

UBND ngày 20/7/2006 về thực hiện Chỉ thị số 10/2006/CT-TTg ngày

23/4/2006 về giảm văn bản, giấy tờ trong hoạt động cơ quan quản lý nhà

nước.

154. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2006), Công văn chỉ đạo số

7416/UBND-cải cách hành chính ngày 6/11/2006 về thực hiện Chỉ thị số

32/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về một số việc cần làm ngay

nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong giao dịch hành chính giữa

tổ chức, công dân với các cơ quan hành chính nhà nước.

155. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2007), Báo cáo số 97/BC-UBND

ngày 5/12/2006 về Chương trình cải cách hành chính, chống quan liêu năm

2007.

156. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2007), Quyết định số

18/2007/QĐ-UBND ngày 6/2/2007 về ban hành Quy chế tổ chức các cuộc

họp của Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên ủy Ban nhân dân Thành phố

157. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2007), Quyết định số 2478/QĐ-

175

UBND ngày 6/6/2007 về đề cao trách nhiệm người đứng đầu các cơ quan

hành chính thành phố thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các

lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010.

158. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Quyết định số

41/2008/QĐ-UBND ngày 20/5/2008 về tổ chức các cơ quan chuyên môn

thuộc UBND quận, huyện.

159. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Quyết định số 3654/QĐ-

UBND ngày 23/8/2008 về ban hành kế họach thực hiện Chương trình hành

động của Thành ủy thực hiện Nghị quyết 17-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban

Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính,

nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước trên địa bàn.

160. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Sở Nội vụ, Báo cáo số

847/BC-SNV ngày 9/9/2008 về tình hình thực hiện cơ chế một cửa liên thông

8 tháng đầu năm 2008 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

161. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2008), Quyết định số 4358/QĐ-

UBND ngày 14/10/2008 “Về kiện toàn Tổ công tác thực hiện Đề án đơn giản

hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 –

2010”

162. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Quyết định số

65/2009/QĐ-UBND ngày 8/8/2009 về điều chỉnh chế độ trợ cấp khuyến

khích người có trình độ đại học công tác tại phường, xã, thị trấn.

163. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2009), Kế hoạch số

1323/UBND-VX của UBND thành phố ngày 30/3/2009 “Thực hiện thí điểm

không tổ chức HĐND huyện, quận, phường tại Thành phố Hồ Chí Minh”.

164. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Quyết định số

19/2010/QĐ-UBND ngày 29/3/2010 về “Ban hành Quy chế làm việc (mẫu)

của UBND quận - huyện thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND”

165. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Quyết định số

38/2010/QĐ ngày 17/6/2010 về “Ban hành Quy chế làm việc (mẫu) của

176

UBND phường thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND”

166. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Báo cáo tổng kết tình

hình thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai

đoạn 2001 – 2010 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

167. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Quyết định số 4915/QĐ-

UBND ngày 11/9/2013 “Về việc thông qua phương án đơn giản hóa thủ tục

hành chính thuộc phạm vi quản lý nhà nước”

168. Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2013), Quyết định số

07/2013/QĐ-UBND ngày 30/01/2013 “Về quy chế phối hợp thực hiện liên

thông nhóm thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực hộ tịch, bảo hiểm y tế và đăng

ký, quản lý cư trú trên địa bàn”.

169. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Báo cáo Sơ kết công tác

cải cách hành chính nhà nước giai đoạn I (2011 - 2015) và đề xuất phương

hướng nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước giai đoạn II (2016 - 2020)

của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

170. Trần Thị Hà Vân (2015), Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện mô hình bí thư

đảng ủy đồng thời là chủ tịch UBND phường, xã, Tạp chí Lý luận Chính trị

số ra ngày 22 tháng 9 năm 2015.

171. Viện Khoa học Chính trị, Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2004), Tập bài

giảng chính trị học (Hệ cao cấp lý luận chính trị), NXB Lý luận chính trị, Hà

Nội

172. Viện Khoa học xã hội Việt nam, Viện Nhà nước và Pháp luật (2002), Những

vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay,

NXB Chính trị quốc Quốc gia, Hà Nội.

173. Viên kiểm sát nhân dân Thành phố (2010), Chuyên đề đánh giá thực trạng

tình hình và những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý tội

phạm tham nhủng tại Thành phố Hồ Chí Minh

174. Việt Nam 20 năm đổi mới (2006), NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

175. Lê Kim Việt, Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam và

177

những vấn đề đặt ra, Tạp chí Lý luận Chính trị, số tháng 9 năm 2018

176. Bùi Thế Vĩnh, Phạm Phương Thảo, Mai Quốc Bình, Bùi Thiện Tích (2000)

Cải cách hành chính ở Thành phố Hồ Chí Minh (1995-1999) - Thành tựu và

bài học, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

177. Trần Văn Yên (2010), Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát ở Đảng bộ

thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí Sổ tay Xây dựng Đảng số 11 năm 2010

II. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG ANH:

178. Blandine Kriegel (1995), The State and the Rule of Law, Princeton

University Press, Ewing, New Jersey, U.s.a.

179. Cling Jean-Pierre ... [et al.] (2010), The informal sector in Vietnam : a focus

on Hanoi and Ho Chi Minh city, The Gioi, Ha Noi

180. David Dapice, Jose A. Gomez-Ibanez, Nguyen Xuan Thanh (2009), Ho Chi

Minh City : the challenges of growth, United Nations Development Programme

in Vietnam

181. Diehl Markus (June, 1995), "Structural Change in the Economic

Transformation Process: Vietnam 1986-1993", Economic Syetem 2 , pp.147-182

182. Dodsworth John E., et al.(1996),"Vietnam Transitong to a Market

Economy", International Monetary Fund Occasional Paper No.135, International

Monetary Fund ,Washington, D.C

183. Micheál J.Sodaro (2000), Comparative politics- A global introduction,

McGraw-Hill Higher Education; 3 edition (1 Jun. 2007)

184. Stapenhurst Rick, Kpundeh Sahr (1999), Curbing Corruption: Toward a

Model for Building National Integrity (WBI Development Studies), World Bank

Publications

185. William Taylor ...(2012), Civil society in Vietnam : a comparative study of

civil society organizations in Hanoi and Ho Chi Minh City, Social - Labour Pub.

House, Ha Noi

III. TÀI LIỆU INTERNET

186. Báo cáo về cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương ở Trung Quốc

(2002), Tạp chí Hành chính Trung Quốc, tập 1, số 2 tháng 4 năm 2002

178

http://www.caicachhanhchinh.gov.vn

187. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần

thứ II, Trang tin Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh,

http://www.hcmcpv.org.vn

188. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần

thứ III, Trang tin Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh ,

http://www.hcmcpv.org.vn

189. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần

thứ IV, Trang tin Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh ,

http://www.hcmcpv.org.vn

190. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần

thứ V, Trang tin Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh ,

http://www.hcmcpv.org.vn

191. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần

thứ VI, Trang tin Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh ,

http://www.hcmcpv.org.vn

192. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần

thứ VII, Trang tin Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh ,

http://www.hcmcpv.org.vn

193. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần

thứ VIII, Trang tin Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh ,

http://www.hcmcpv.org.vn

194. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần

thứ IX, Trang tin Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh,

http://www.hcmcpv.org.vn

195. Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh, Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố lần

thứ X, Trang tin Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh,

http://www.hcmcpv.org.vn

196. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành

Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của

Đảng, http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-

179

dang/dai-hoi-dang/lan-thu-ix/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-

uong-dang-khoa-viii-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-ix-cua-dang-

1545

197. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003,

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về phát

huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ, văn minh, http://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-

lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-ix/nghi-quyet-so-23-nqtw-ngay-

1232003-hoi-nghi-lan-thu-bay-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-ix-ve-

phat-huy-suc-manh-dai-656

198. Phan Thị Lan Hương (Khoa Luật, Trường đại học Nagoya, Japan), Kinh

nghiệm cải cách của Nhật Bản và việc xây dựng mô hình chính quyền địa

phương ở Việt Nam, Viện nghiên cứu Lập pháp tại địa chỉ

http://vnclp.gov.vn/.

199. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, Tổng kết Nghị quyết 20-NQ/TW của Bộ

Chính trị (2002) về Phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí

Minh đến năm 2010, Trang tin Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh,

http://www.hcmcpv.org.vn.

200. Lê Anh Tuấn, Kinh nghiệm tổ chức chính quyền địa phương và xác lập đơn

vị hành chính ở Liên bang Malaixia, Viện Khoa học tổ chức nhà nước - Bộ

Nội vụ trên trang web http://www.duthaoonline.quochoi.vn.

201. http://tongdieutradanso.vn/tphcm-cong-bo-ket-qua-so-bo-tong-dieu-tra-dan-

so-va-nha-o-nam-2019.html

202. https://tuoitre.vn/ti-trong-dong-gop-cua-tp-hcm-tang-nhung-toc-do-tang-

180

truong-kinh-te-giam-20200707105516442.htm

PHỤ LỤC

181

182

BẢN ĐỒ HÀNH CHÍNH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Phụ lục 1

Kết quả phân tích chất lƣợng đảng viên năm 1988 và 1991 [13, tr.154]

Phấn đấu Khá Yếu kém Thi hành kỷ

Năm 1988 tốt luật

40% 53% 5% 942 đảng viên

Phấn đấu Đủ tƣ cách, Phải xem xét Phải đƣa ra

Năm 1991 tốt nhƣng còn tƣ cách khỏi Đảng

một số mặt

yếu

41,45% 53,71 % 4,84% 1,15% số đảng

viên Phải xem

xét tư cách

Phụ lục 2

Phân loại tổ chức cơ sở đảng từ 1995 - 1999 [13, tr. 154]

Năm Năm Năm Năm Năm

1995 1996 1997 1998 1999

Trong sạch, vững mạnh 44,8% 51,1% 56,1% 57,19% 59,41%

183

Yếu kém 4,1% 4,1% 3% 5,13% 3,54%

Phụ lục 3

Tổ chức chính quyền cấp quận – huyện theo mô hình

“Một cửa – Một dấu” [63]

Phụ lục 4

184

Mô hình “Một cửa – Một dấu” [63]

Phụ lục 5

Kết quả thực hiện Nghị quyết hội nghị Trung ƣơng 6 (2) Khóa VIII từ

năm 2001 - 2004 [62]

Thanh tra, kiểm tra, điều tra 1.519 cuộc

Thu hồi 635 tỷ đồng, 3,8 triệu usd; 2.500 viên

kim cương, 145 lượng vàng; 11 căn

nhà; 354 ha đất dự án lãng phí không

xây dựng ; 102.942 m2 đất và 53.448

m2 nhà

2.238 đảng viên, 16 tập thể cấp uỷ Xử lý kỷ luật

26 trường hợp Phạt tù giam

Phụ lục 6

Kết quả thí điểm quy hoạch cán bộ dài hạn năm 2002 [58]

1. Số đơn vị tiến hành thí điểm 23 đơn vị

- Quận, huyện 5

- Sở, ngành 3

- Doanh nghiệp, đoàn thể 2

- Trường Đại học 4

- Trường Trung học Phổ thông 9

2. Số ngƣời đƣợc đƣa vào quy hoạch 518 ngƣời

- Công nhân 22

- Cán bộ, công chức 81

185

- Sinh viên, học sinh 415

Phụ lục 7

Công tác đào tạo bồi dƣỡng cán bộ, công chức trong giai đoạn 2001 – 2010

[166]

1. Tổng số cán bộ, công chức, viên chức được cử đi học 195.071 lượt

50.605 lượt ‒ Công chức hành chính

91.691 lượt ‒ Cán bộ viên chức sự nghiệp

52.775 lượt ‒ Cán bộ công chức cơ sở

2. Các loại hình đào tạo

4.888 học viên ‒ Cao cấp lý luận chính trị và cử nhân chính trị

chuyên ngành

4.902 học viên ‒ Đào tạo chuyên môn bậc đại học

653 học viên ‒ Đào tạo chuyên môn bậc sau đại học

3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở nước ngoài 2.479 lượt

‒ Cán bộ lãnh đạo, quản lý sở - ngành, quận - huyện 916 lượt

1.270 lượt ‒ Công chức hành chính

150 lượt ‒ Cán bộ nguồn quy hoạch

143 lượt ‒ Các đối tượng khác

Phụ lục 8

Tình hình Chƣơng trình tạo nguồn quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý

trẻ tuổi từ năm 2001 đến năm 2015 [15]

Nội dung

Giai đoạn – 2001 2005 Tổng số đoạn giai 2001 - 2015

Giai đoạn 2006 – 2010 655 Giai đoạn 2011 – 2015 320 549 1524

Cán bộ công chức 346 501 126 973 đó hoạch Sinh viên 203 154 194 551

186

Số cán bộ trúng tuyển và đƣợc bố trí công tác Trong quy từ nguồn Nữ Đảng viên Đại học 288 313 549 355 534 655 190 137 320 883 984 1524

Trình độ Cao học 101 306 15 422

Sơ cấp 320 308 39 388 độ Trình LLCT Trung cấp Cao cấp, cử nhân 178 51 80 267 102 20 360 338

437

195

Số cán bộ thôi tham gia chƣơng trình Trong đó 242

Quá 35 tuổi theo quy chế việc, nghỉ Do không hoàn thành nhiệm vụ

Số cán bộ hiện đang công tác 1087

đó Cán bộ, công chức 598 Trong diện

Nữ Đảng viên Sinh viên 489 562 893

Chuyên môn Cao học 417

Sơ cấp 157

độ Trung cấp 473 Trình LLCT

Cao cấp, cử nhân 405

191 240 27 458

Cán bộ đƣợc đề bạt

83 155 8 246

Trong đó

85 19 108 212

152 25 97 274

187

21 1 15 37 phó Trưởng/ Ban, Phòng, Ngành, Sở, quận - huyện Trưởng đầu ngành cấp phường, xã Tham gia cấp ủy cơ sở Tham gia cấp ủy cấp trên cơ sở

Phụ lục 9

Tình hình thực hiện chƣơng trình đào tạo

tiến sĩ, thạc sĩ [15]

Tổng số 2001 – 2006 – 2011 – 2001 - Nội dung 2005 2010 2015 2015

1437 446 682 309 Hồ sơ thẩm định

238 344 260 842 Hồ sơ đạt yêu cầu

cán bộ, công chứcVC 169 294 130 593

Sinh viên 69 50 51 170

Khác (Công ty tư nhân) 0 0 79 79

Thạc sĩ 220 334 201 755

Tiến sĩ 18 10 59 87

Đảng viên 122 219 138 479

Nữ 154 179 110 443

169 294 130 593 Phân tích số cán bộ,CC,VC

Có chức danh quản lý từ phó phòng và 10 43 55 108

tương đương

Diện quy hoạch của địa phương, đơn vị 0 49 90 139

Đạt tiêu chuẩn, điều kiện theo quy chế 120 77 149 346

130 169 294 593 Trình độ cán bộ,CC,VC

Xuất sắc + Giỏi 6 6 21 33

Khá 97 127 56 280

Trung bình – Trung bình khá 66 161 53 280

69 50 51 170 Trình độ sinh viên

Xuất sắc + Giỏi 30 20 25 75

Khá 39 30 16 85

Trung bình – Trung bình khá 0 0 10 10

238 344 260 842 Phƣơng thức đào tạo

188

114 274 44 432 Trong nƣớc + thực tập

6 4 14 24 Tiến sĩ

38 270 100 408 Thạc sĩ

200 70 68 338 Ngoài nƣớc

52 6 4 62 Tiến sĩ

148 64 64 276 Thạc sĩ

16 0 56 72 Liên kết

1 0 0 1 Tiến sĩ

15 0 56 71 Thạc sĩ

232 19 420 671 Kết quả học tập

89 8 42 139 Xuất sắc + Giỏi

111 6 301 418 Khá

29 5 77 111 Trung bình – Trung bình khá

3 0 0 3 Chỉ có giấy chứng nhận

236 236 Số liệu thực tập nƣớc ngoài

49 49 Thụy Điển

1 1 Hàn Quốc

154 154 Úc

32 32 NewZealanhân dân

260 344 238 842 Nhóm ngành đào tạo

10 20 37 Nhóm ngành Văn hóa – Chính trị - Xã 7

hội

59 27 22 108 Nhóm ngành Khoa học công nghệ

102 59 67 228 Nhóm ngành Kinh tế

1 75 34 110 Nhóm ngành Luật

39 66 28 133 Nhóm ngành Quản lý Đô thị

189

52 107 67 226 Nhóm nghành Quản lý Nhà nước

Phụ lục 10

Nguồn lực do Quỹ Vì ngƣời nghèo Thành phố vận động đƣợc

từ năm 2001 đến năm 2011 [51]

Tổng số tiền vận động 988 tỉ đồng

Nhà tình nghĩa 2.990 căn

Nhà tình thương 20.100 căn

Sửa chữa chống dột 9.100 căn

Học bổng Nguyễn Hữu Thọ 305.820 suất

Phương tiện đi học cho con các hộ nghèo 7.500 phương tiện

Phụ lục 11

Số trƣờng hợp đảng viên bị xử lý kỷ luật do liên quan đến tham nhũng,

lãng phí trong 5 năm (2006 – 2010) [132]

Hình thức kỷ luật TỔNG CỘNG

Cảnh cáo Khai trừ

838 Cách chức 105 254

2.357 Khiển trách 1.160 Chức vụ

Thành ủy viên Đảng ủy viên Chi ủy viên

Huyện ủy viên và tƣơng đƣơng 62 289 291

643

Xử lý hành chính 130 86

190

1 Xử lý về mặt pháp luật Án tù 79

Phụ lục 12

Tốc độ tăng trƣởng bình quân của kinh tế Thành phố

Hồ Chí Minh qua các năm [21, tr.50 - 51]

191

192