VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRỊNH THỊ HÀ GIÁO DỤC VÀ KHOA CỬ NHO HỌC ĐẠI VIỆT THẾ KỶ XVII -XVIII

Ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 9.22.90.13

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS VŨ DUY MỀN

Hà Nội – 2019

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các tư liệu

sử dụng trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Những kết

quả nghiên cứu của Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào. Tôi

hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu này.

Hà Nội, tháng 12 năm 2019

Tác giả Luận án

MỤC LỤC

TRANG 1 1 2 2 4 6 7 8 9

9 9 12 12 12 18

26 28

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài 2 Mục đích và nhiệm vụ của luận án 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 7. Cấu trúc của luận án Chương 1: TỔNG QUAN TƯ LIỆU VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 1.1 Nguồn tư liệu 1.1.1 Trong nước 1.1.2 Nước ngoài 1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước 1.2.1 Nhóm công trình viết về giáo dục và khoa cử Nho học Việt Nam 1.2.2 Nhóm công trình nghiên cứu về giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII 1.3 Tình hình nghiên cứu ngoài nước 1.4 Những vấn đề liên quan đến đề tài đã được các công trình nghiên cứu giải quyết 1.5. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu Chương 2: GIÁO DỤC NHO HỌC 2.1 Mục đích của giáo dục Nho học 2.1.1 Học để làm người 2.1.2 Học để làm quan 2.1.3 Học để lưu danh muôn đời 2.2 Giáo dục Nho học Đàng Ngoài 2.2.1 Chính sách giáo dục Nho học của chính quyền Lê -Trịnh 2.2.2 Tổ chức giáo dục Nho học 2.3 Giáo dục Nho học Đàng Trong 2.3.1 Chúa Nguyễn đối với giáo dục Nho học 2.3.2 Tổ chức giáo dục Nho học Tiểu kết chương 2 Chương 3: KHOA CỬ NHO HỌC 3.1 Khoa cử Nho học Đàng Ngoài 3.1.1 Khảo hạch 3.1.2 Thi Hương 3.1.3 Thi Hội 3.1.4 Thi Đình 3.1.5 Các khoa thi khác 3.1.6 Chính sách đãi ngộ dành cho người đỗ đạt 3.2 Khoa cử Nho học Đàng Trong 3.2.1 Xuân thiên quận thí 3.2.2 Thu vi Hội thí (thi Hội vào mùa thu) 3.2.3 Các khoa thi khác 30 31 31 31 31 32 33 33 36 53 53 57 73 75 75 75 76 83 89 95 98 104 104 105 109

110 113 115

115 115 119 124 128 133 133 134

138 138 139 140 3.2.4 Chính sách đãi ngộ dành cho người đỗ đạt Tiểu kết chương 3 Chương 4: THÀNH TỰU, HẠN CHẾ CỦA GIÁO DỤC VÀ KHOA CỬ NHO HỌC 4.1 Đào tạo, cung cấp đội ngũ trí thức Nho học 4.1.1 Số lượng Tiến sĩ và việc bổ dụng của Nhà nước 4.1.2 Số Hương cống và việc bổ dụng của Nhà nước 4.1.3 Hình thành đội ngũ quan chức trung nghĩa, nhà Nho có đức nghiệp 4.1.4 Các Nho sĩ tiêu biểu 4.2 Duy trì và phát huy truyền thống hiếu học 4.2.1 Thêm nhiều địa phương có người đỗ đạt 4.2.2 Hình thành nhiều làng khoa bảng, dòng họ khoa bảng 4.3. Một số hạn chế 4.3.1 Coi trọng bằng cấp, đề cao văn chương 4.3.2 Coi trọng học thuộc lòng trong dạy học và thi cử 4.3.3 Các hiện tượng tiêu cực khác

143 Tiểu kết chương 4

145 KẾT LUẬN

152 TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Danh mục các bảng biểu Trang

Bảng 3.1: Các khoa thi thời chúa Nguyễn 108

Bảng 4.1: Thống kê số Tiến sĩ chia ba giáp 115

117 Bảng 4.2: Phẩm hàm và chức quan cao nhất các Tiến sĩ chia theo 3 giáp triều Lê -Trịnh

Bảng 4.3 Chức vụ cao nhất của Hương cống triều Lê - Trịnh 120

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chủ biên Chính trị Quốc gia Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hán Nôm Khoa học Xã hội Việt Nam Nghiên cứu Lịch sử Nhà xuất bản Quốc Tử Giám Quốc gia Hà Nội Thành phố Hồ Chí Minh Trung tâm hoạt động văn hóa Khoa học Trang Ủy ban Nhân dân Văn hóa khoa học Văn hóa Nghệ thuật Văn hóa Thông tin

Cb CTQG ĐHKHXHVNV HN KHXHVN NCLS Nxb QTG QGHN TP.HCM TTHĐ VHKH Tr UBND VHKH VHNT VHTT

MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài

Thế kỷ XVII, XVIII là giai đoạn lịch sử “khá đặc biệt” với nhiều biến cố, trong đó nổi bật là tình trạng cát cứ: vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Ở Đàng Ngoài, không chỉ có triều đình Lê -Trịnh đóng đô ở Kinh đô Thăng Long tồn tại theo định chế vừa có Vua lại vừa có Chúa, mà ở vùng đất Cao Bằng còn có sự quản lý của nhà Mạc tồn tại cho đến năm 1677 mới chấm dứt. Trong khi đó, sự xuất hiện của chúa Nguyễn ở Đàng Trong trên vùng đất phía Nam của đất nước, tồn tại trên một miền đất mới, lại mang dáng dấp của một quốc gia độc lập vừa tạo nên sự đa dạng nhưng cũng không kém phần phức tạp về mặt chính trị. Chính bối cảnh chính trị này đã có tác động không nhỏ đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Đại Việt thế kỷ XVII, XVII. Trong đó, giáo dục và khoa cử Nho học là một trong những nhân tố quan trọng vừa tạo nên nét riêng biệt trong bản sắc văn hóa của từng vùng miền, cùng với những thành tựu và giá trị của nó đã có đóng góp to lớn vào việc tạo nên tính phong phú trong bản sắc văn hóa chung của dân tộc Việt Nam.

Nghiên cứu tình hình Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII đã có nhiều công trình được công bố, phản ánh được một số lĩnh vực quan trọng trong đời sống như chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tôn giáo.v.v… Riêng với vấn đề giáo dục và khoa cử Nho học ở thời kỳ này đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Một số vấn đề cơ bản thuộc giáo dục và khoa cử Nho học thế kỷ XVII, XVIII đã được tìm hiểu nhưng mới dừng lại ở mức độ là một phần nội dung trong các công trình chuyên khảo khi nghiên cứu về lịch sử hình thành, sự phát triển của chế độ giáo dục và khoa cử thời quân chủ nói chung. Hoặc một số khía cạnh cụ thể thuộc về giáo dục hoặc khoa cử Nho học của cả quốc gia, hoặc của từng vùng cụ thể (Đàng Ngoài, Đàng Trong) cũng đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến. Tuy nhiên, những công trình đó chủ yếu là những nghiên cứu riêng lẻ, chưa trình bày một cách đầy đủ, bao quát tất cả các vấn đề của giáo dục và khoa cử Nho học của hai thế kỷ này. Nhất là vấn đề giáo dục và khoa cử Nho học của chúa Nguyễn ở Đàng Trong lại chưa được giới nghiên cứu quan tâm nhiều, do vậy, có thể thấy đây vẫn còn là một khoảng trống trong nghiên cứu về giáo dục và khoa cử Nho học Việt Nam dưới thời quân chủ.

1

Một vấn đề rất quan trọng khi tìm hiểu giáo dục, khoa cử trong xã hội cổ truyền đó là làm thế nào để mô tả và thấy được tính kế thừa, tiếp nối về truyền thống giáo dục, truyền thống khoa bảng trong các gia đình, dòng họ nơi làng xã theo tiến trình lịch sử. Trong hai thế kỷ XVII, XVIII, mặc dù xảy ra rất nhiều biến cố về mặt chính trị, xã hội song những chính sách trong giáo dục và khoa cử của Nhà nước, chủ yếu là của triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài đã góp phần không nhỏ vào việc tiếp tục củng cố và phát huy truyền thống hiếu học, đỗ đạt của nhiều dòng họ ở nhiều làng xã, nhất là làng xã vùng

đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung bộ. Sau này, khi triều đình Nguyễn đặt kinh đô tại Huế, trung tâm giáo dục của cả nước được chuyển vào trong Huế, thì giáo dục, khoa cử của vùng Đàng Ngoài đã không còn “khởi sắc” khi số người đỗ đại khoa dưới triều Nguyễn không nhiều như các triều đại trước đây. Dù vậy, truyền thống giáo dục Nho học của các gia đình, dòng họ ở các làng xã nơi đây vẫn tiếp tục được duy trì. Do vậy, việc tìm hiểu giáo dục, khoa cử Nho học Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII cũng đồng thời là cơ sở để thấy được sự tiếp nối trong truyền thống hiếu học của dân tộc ta. Xuất phát từ các mục đích trên, với mong muốn tìm hiểu một cách hệ thống, chi tiết hơn về tình hình giáo dục và khoa cử Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII, thấy được nét chung, nét riêng của vấn đề này trong từng vùng không gian (Đàng Ngoài, Đàng Trong), tôi chọn vấn đề “Giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ XVII -XVIII” làm đề tài luận án Tiến sĩ của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1 Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở nghiên cứu về giáo dục và khoa cử Nho học thời Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong thế kỷ XVII và XVIII, luận án sẽ làm sáng rõ tình hình tổ chức giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt ở cả hai miền đất nước. Từ đó, thấy được đóng góp của nền giáo dục và khoa cử Nho học đối với việc phát triển của quốc gia Đại Việt trong hai thế kỷ này.

2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án:

Để đạt được mục đích trên, đề tài sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau: - Phân tích khái quát bối cảnh chính trị - xã hội Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII tác

động đến chính sách, tình hình giáo dục và khoa cử thời kỳ này.

-Trình bày khái quát mục tiêu của giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII. Tìm hiểu về chính sách giáo dục cũng như làm rõ tình hình tổ chức giáo dục của thời kỳ này thông qua việc lựa chọn những sự kiện lịch sử tiêu biểu về tổ chức trường lớp (gồm cấp trung ương và địa phương), chương trình học tập, chế độ khảo thí... của cả vùng Đàng Ngoài, Đàng Trong, qua đó làm rõ sự kế thừa, nét riêng biệt về giáo dục giữa hai vùng.

-Trình bày, phân tích tình hình khoa cử Nho học của triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong thông qua việc tìm hiểu về thể lệ thi cử, quá trình tổ chức các khoa thi cụ thể của hai chính quyền. Từ đó góp phần làm rõ đặc điểm khoa cử Nho học của mỗi vùng miền.

2

- Phân tích những thành tựu, hạn chế của giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII, chủ yếu là thành tựu, để qua đó, thấy được vai trò và ảnh hưởng của tầng lớp trí thức Nho học được giáo dục, tuyển chọn qua khoa cử đối với sự phát triển xã hội trên nhiều khía cạnh, nhất là trong lĩnh vực chính trị, văn hóa.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1 Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là giáo dục và khoa cử Nho học, thực trạng và

đóng góp của nền giáo dục, khoa cử này đối với xã hội Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII.

3.2 Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Đề tài giới hạn nghiên cứu về giáo dục và khoa cử Nho học của

quốc gia Đại Việt gồm vùng Đàng Ngoài và Đàng Trong.

Vùng đất Đàng Ngoài được giới hạn từ Bắc sông Gianh trở ra (phía Bắc huyện Bố Trạch ngày nay), Đàng Trong được giới hạn từ vùng đất Nam sông Gianh đến Hà Tiên thời chúa Nguyễn, tương ứng với các tỉnh từ Quảng Bình, Quảng Trị đến hết các tỉnh Nam Bộ ngày nay.

Đàng Ngoài ở thế kỷ XVII gồm triều Lê - Trịnh ở Thăng Long và nhà Mạc ở Cao Bằng cùng trị vì. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt tư liệu nên tác giả luận án giới hạn vấn đề nghiên cứu thuộc phạm vi không gian đặt dưới sự trị vì của chính quyền Lê -Trịnh mà chưa tìm hiểu giáo dục, khoa cử vùng không gian thuộc nhà Mạc ở Cao Bằng.

Vùng đất Đàng Trong từ thế kỷ XVII cho đến hết thế kỷ XVIII gồm các thể chế chính quyền khác nhau cùng cai trị, ngoài chính quyền của chúa Nguyễn trị vì từ 1558 đến năm 1777, từ năm 1778 đến 1802 là thời kỳ quản lý của vương triều Tây Sơn và Nguyễn Ánh. Tuy nhiên, trong luận án tác giả chủ yếu nghiên cứu về tổ chức giáo dục và khoa cử Nho học vùng đất Đàng Trong dưới thời trị vì của các chúa Nguyễn, đến hết đời Nguyễn Phúc Thuần (1777). Đây là thời điểm Đàng Trong với tư cách là một khu vực địa - chính trị trong ý nghĩa phân biệt, đối sánh và cả đối đầu với khu vực địa lý - chính trị Đàng Ngoài chính thức được xác lập.

Đại Việt tuy bị chia cắt làm hai miền nhưng không phải là hai miền tách biệt khi cả Đàng Ngoài và Đàng Trong luôn có ý thức là người Việt Nam, đều lấy niên hiệu vua Lê Trung hưng để tính thời gian. Trong chế độ quan chế của chúa Nguyễn tuy có thay đổi, nhưng cơ bản vẫn kế thừa, mô phỏng theo chế độ quan chế chính quyền Lê -Trịnh. Do đó, luận án khuôn giới hạn phạm vi không gian nghiên cứu về giáo dục và khoa cử Nho học của vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong trong hệ thống của nền giáo dục và khoa cử Nho học chính thống.

Về thời gian: Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án là từ thế kỷ XVII đến thế kỷ

XVIII.

3

Ở Đàng Ngoài, tuy đề tài xác định thời gian nghiên cứu từ thế kỷ XVII đến hết thế kỷ XVIII (từ năm 1600 -1799) nhưng trong quá trình triển khai nội dung luận án, tác giả có điều chỉnh thời gian viết từ năm 1592 cho đến khi sự tồn tại của triều Lê kết thúc vào năm 1788. Năm 1592 là thời điểm họ Trịnh đánh đổ nhà Mạc, nhanh chóng đón vua Lê trở về Kinh thành Thăng Long. Đây là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng, đặt nền tảng để vua Lê, chúa Trịnh từng bước thiết lập, xây dựng chính quyền, trong đó có vấn đề tổ chức khoa cử. Năm 1595 và 1598, triều Lê -Trịnh đã cho mở hai khoa

thi Hội đầu tiên ở Thăng Long, sang thế kỷ XVII vấn đề giáo dục, khoa cử được triều đình quan tâm, tổ chức đều đặn hơn. Từ việc tìm hiểu vấn đề nghiên cứu đó để thấy được sự liền mạch khi nghiên cứu khoa cử triều Lê -Trịnh, từ khi chính thức cầm quyền ở Thăng Long cho đến khi vương triều này bị lật đổ.

Ở Đàng Trong, năm 1777 chính quyền chúa Nguyễn bị sụp đổ bởi phong trào Tây Sơn, Nguyễn Ánh rời Thuận Hóa đi vào Gia Định. Vùng đất Đàng Trong từ năm 1777 cho đến hết thế kỷ XVIII đặt dưới sự quản lý của triều Tây Sơn và Nguyễn Ánh (vùng Gia Định). Xét về mặt thể chế chính trị, chính quyền chính thống của họ Nguyễn đóng đô ở Phú Xuân đã không còn tồn tại. Nhưng khoa cử Nho học của họ Nguyễn vẫn tiếp tục được duy trì, khi vào năm 1788 chúa Nguyễn Ánh đã cho mở khoa thi ở Gia Định, tuyển chọn được nhiều danh sĩ có những đóng góp cho triều Nguyễn sau này.

Tuy nhiên, vì mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ tình hình giáo dục và khoa cử Nho học của Đại Việt, trong đó có vấn đề giáo dục, khoa cử của chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong tồn tại với tư cách một chính quyền độc lập ở vùng đất phía Nam, đối sánh với triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài, do vậy, trong luận án, tác giả không đề cập đến giáo dục và khoa cử Nho học vùng đất Đàng Trong thuộc triều Tây Sơn và chính quyền của chúa Nguyễn Ánh ở Gia Định.

Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu về tổ chức giáo dục và khoa cử Nho học của cư dân người Việt (người Kinh) đặt trong sự quản lý của chính quyền vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Luận án chủ yếu nghiên cứu về hoạt động dạy và học theo hệ thống trường lớp do Nhà nước mở, lớp học của các Nho sĩ, lớp học tư gia. Riêng việc học chữ Nho tại các cơ sở khác như nhà chùa, hoặc việc học của bộ phận cư dân người Khơme, người Chăm... luận án chưa đề cập đến.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1 Phương pháp luận: Đề tài sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa

Mác - Lênin làm cơ sở phương pháp luận nghiên cứu.

4

Phương pháp duy vật biện chứng được vận dụng trong luận án nhằm làm rõ mối quan hệ giữa bối cảnh lịch sử xã hội, nhu cầu đào tạo tuyển chọn nhân tài của Nhà nước qua khoa cử có tác động tới tình hình giáo dục, khoa cử trong hai thế kỷ XVII, XVIII và ngược lại. Do đó để có nhận thức và đánh giá đúng thành tựu, hạn chế của giáo dục, khoa cử thời kỳ này cần đặt vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Phương pháp duy vật lịch sử được vận dụng trong luận án nhằm làm rõ quá trình vận động, phát triển của giáo dục, khoa cử Nho học của Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII được tiếp nối từ các thời kỳ lịch sử trước đó. Đồng thời thông qua việc đối sánh về giáo dục, khoa cử giữa hai vùng Đàng Ngoài và Đàng Trong của thời kỳ lịch sử này để thấy được điểm tương đồng, khác biệt.

4.2 Phương pháp nghiên cứu: Nhằm đạt được mục đích đề tài đặt ra, các phương pháp nghiên cứu của khoa học

được sử dụng gồm những phương pháp cơ bản sau:

- Phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic là hai phương pháp chủ yếu được sử dụng kết hợp nhằm làm rõ nội dung của luận án. Trong đó sử dụng phương pháp lịch sử nhằm đặt sự kiện lịch sử theo lịch đại và đồng đại, trình bày, mô tả một cách đầy đủ về mục đích giáo dục, chính sách, tình hình tổ chức giáo dục và khoa cử ở cả hai vùng Đàng Ngoài, Đàng Trong. Với vấn đề trường lớp, việc vận dụng phương pháp lịch sử nhằm thấy được quá trình ra đời, sự thay đổi về diện mạo, kiến trúc của trường Quốc Tử Giám cùng các nội dung liên quan thuộc ngôi trường Quốc học này như: chế độ tuyển chọn giáo quan, tuyển chọn Giám sinh, chương trình học tập... từ các triều đại Lý, Trần, Lê sơ, Mạc. Đây là cơ sở quan trọng để đề tài triển khai sâu hơn khi tìm hiểu về hoạt động giáo dục trường Quốc Tử Giám ở hai thế kỷ XVII, XVIII. Đặc biệt, phương pháp lịch sử giúp đề tài làm rõ nội dung quan trọng là từ thế kỷ XVIII trở đi, làng xã Đàng Ngoài đã xuất hiện loại hình trường học mới “trường dân lập” do nhân dân đóng góp tiền của, đất đai xây dựng. Loại hình trường học này chỉ có từ thế kỷ XVIII. Trong cái nhìn đồng đại, luận án đặt những vấn đề giáo dục, khoa cử Đàng Ngoài so sánh với Đàng Trong để thấy được sự kế thừa chính quyền Đàng Trong trong việc áp dụng một số thể lệ thi cử của Đàng Ngoài, cũng như điểm riêng biệt về tổ chức giáo dục, khoa cử của hai vùng này.

- Phương pháp lôgic cho phép tác giả trình bày các vấn đề liên quan theo mối quan hệ nhân quả khi lý giải, phân tích khái quát bối cảnh lịch sử đã có tác động như thế nào đến chính sách cũng như thực trạng giáo dục và khoa cử của chính quyền Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII? Đồng thời, phương pháp lôgic còn cho chúng ta thấy chính sách trọng dụng nhân tài của Nhà nước, khi bổ dụng các Nho sĩ xuất thân từ chốn “Cửa Khổng, Sân Trình” vào trong bộ máy chính quyền. Trên cương vị làm quan, các Nho sĩ đó, đã có những đóng góp gì cho vương triều mà họ tôn phò? Đó chính là ảnh hưởng của nền giáo dục, khoa cử đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong hai thế kỷ XVII, XVIII.

5

-Phương pháp thống kê sử dụng trong luận án được áp dụng với hướng tiếp cận nghiên cứu lịch sử xã hội. Dựa trên các bộ chính sử, tác giả luận án tiến hành thống kê, phân tích các số liệu liên quan đến người học, người thi và quan trường như: số Giám sinh trường Quốc Tử Giám thời Lê -Trịnh, danh sách các chức quan của trường Quốc Tử Giám; danh sách trường tư của các Nho sĩ trong hai thế kỷ XVII, XVIII; số người đỗ trong từng khoa thi của Đàng Ngoài và Đàng Trong; nguồn gốc của các Tiến sĩ; số lượng, phẩm hàm quan trường... Ưu điểm của phương pháp thống kê cho nhận thức khách quan về vấn đề nghiên cứu trên cơ sở của phương pháp định lượng.

-Phương pháp so sánh cũng rất hữu ích trong việc đúc rút những kết luận, nhận xét, đánh giá trong luận án được khách quan và chính xác hơn. Trong đó phương pháp so sánh được sử dụng để thấy được sự tương đồng, khác biệt khi so sánh giáo dục, khoa cử Nho học Đàng Ngoài với Đàng Trong; giữa triều Lê-Trịnh với các triều Lê sơ, Mạc. Từ sự so sánh đó thấy được những ưu điểm, hạn chế của giáo dục, khoa cử Nho học trong hai thế kỷ này.

Ngoài ra, luận án còn sử dụng phương pháp khảo sát điền dã trong việc khảo cứu những dấu tích các trường Nho học tại một số địa phương, sưu tầm tư liệu gia phả của các dòng họ về các nhà khoa bảng đỗ đạt trong hai thế kỷ XVII, XVIII, qua đó góp phần làm rõ truyền thống hiếu học của các địa phương thời kỳ này.

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Trên cơ sở của các nguồn tài liệu, phương pháp nghiên cứu cũng như đối tượng và

phạm vi nghiên cứu, đóng góp của luận án tập trung vào một số nội dung chính sau:

Thứ nhất: trên cơ sở nguồn sử liệu gốc và các nghiên cứu, tác giả thống kê, phân tích và hệ thống các vấn đề liên quan đến tổ chức trường lớp của Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII.

Ở Đàng Ngoài: Theo các nghiên cứu trước đều chỉ ra dưới thời Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài rất quan tâm đến tổ chức giáo dục cao cấp tại trường Quốc Tử Giám. Tuy nhiên, đối tượng theo học, học quan gồm những chức quan gì, chế độ đãi ngộ của Nhà nước dành cho họ ra sao thì những công trình nghiên cứu trước đây chỉ nói chung chung, đặt trong nội dung nghiên cứu liên tục từ triều Lý đến triều Nguyễn mà chưa đề cập cụ thể. Trên cơ sở nghiên cứu từ nhiều nguồn tư liệu, tác giả luận án góp phần làm rõ những vấn đề này.

Ở Đàng Trong: Trên cơ sở khảo cứu tư liệu, bước đầu tác giả đưa ra nhận định dưới thời các chúa Nguyễn đã chủ trương xây dựng một ngôi trường có tên là “Học Cung” tại thủ phủ Phú Xuân. Tác giả cũng góp phần làm rõ vấn đề về chức quan giảng dạy đối với con cháu trong hoàng tộc chúa Nguyễn, chỉ ra nét riêng trong tổ chức giáo dục Đàng Trong là thường gửi các Công tử tới nhà các quan viên để họ giảng dạy. Đây là những vấn đề ít được các công trình chuyên khảo đề cập đến.

Về trường tư: Tác giả cố gắng thống kê hệ thống trường tư của các Nho sĩ ở cả hai miền để thấy được việc học trong hai thế kỷ XVII, XVIII đã có sự phát triển khởi sắc. Nhất là vùng Đàng Trong, khi trường công chưa phát triển, thì trường tư của các Nho sĩ giữ vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp đội ngũ Nho sinh tham dự các khoa thi của chính quyền chúa Nguyễn.

6

Đối với trường học cấp làng xã: Tác giả cố gắng mô tả và trình bày loại hình trường dân lập - trường học do người dân tự quyên góp ruộng đất hoặc tiền để xây dựng nên, đây là trường học xuất hiện ở Đàng Ngoài từ thế kỷ XVIII. Nhất là chính

sách khuyến học ở làng xã dành cho việc học và người đỗ đạt khoa cử từ nhiều tư liệu khác nhau.

Thứ hai: Bước đầu tác giả thống kê được số lượng các khoa thi, số người lấy đỗ của kì thi Hương, thi Hội, thi Đình của triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài; các kì thi Thu vi Hội thí (gồm Chính đồ, Hoa văn), Thám phỏng, Tam ty của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Việc bổ dụng chức quan của chính quyền Đại Việt dành cho người đỗ đạt, họ chính là đội ngũ trí thức có những đóng góp quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội thế kỷ XVII, XVIII.

Thứ ba: Trên cơ sở so sánh thể lệ, tính chất trong giáo dục và khoa cử của triều Lê -Trịnh và các chúa Nguyễn, tác giả chỉ ra được sự kế thừa, nét riêng biệt về chế độ giáo dục và khoa cử giữa hai chính quyền này. Mặc dù nền giáo dục, khoa cử Nho học ở Đàng Trong hình thành muộn nhưng về tính chất, mục đích dạy học, nội dung thi cử của vùng đất này lại mang tính cởi mở hơn so với Đàng Ngoài. Tuy chúa Nguyễn đã mở được một số khoa thi, lấy được khá nhiều người đỗ Hương cống nhưng lại chưa tổ chức được kì thi Hội để lấy học vị Tiến sĩ như ở Đàng Ngoài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Trên cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu khoa học và nguồn tài liệu tin cậy, luận án cung cấp những kết quả nghiên cứu về thực trạng, đặc điểm của giáo dục, khoa cử Nho học của Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII, góp phần hiểu biết sâu sắc hơn về giáo dục Nho học Việt Nam trong quá khứ.

Luận án “Giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ XVII -XVIII” cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục, khoa cử Nho học với nhu cầu phát triển xã hội, giữa tổ chức khoa cử với chính sách của Nhà nước. Mối quan hệ đó thể hiện ở góc độ bối cảnh xã hội là nhân tố quan trọng đặt ra nhu cầu giáo dục, thi cử để đào tạo nhân tài tham gia bộ máy Nhà nước; ngược lại chính đội ngũ trí Nho học được Nhà nước trọng dụng, bổ dụng vào các vị trí khác nhau, bằng tài năng và tâm huyết đã có những đóng góp quan trọng đối với sự phát triển quốc gia dân tộc trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, xã hội, an ninh quốc phòng.

7

Trong bối cảnh đất nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng vào quá trình toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực, thì vai trò của giáo dục trong sự nghiệp đào tạo nhân tài cho đất nước tiếp tục được khẳng định. Luận án ít nhiều đưa ra những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc lựa chọn phương thức giáo dục, đào tạo phù hợp cùng chính sách đãi ngộ đối với nhân tài, một trong chính sách đó là bổ dụng đội ngũ trí thức vào những cương vị phù hợp trong bộ máy Nhà nước. Đồng thời, luận án sẽ cung cấp hệ thống tài liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập về lịch sử giáo dục Nho học thời quân chủ nói chung, nghiên cứu các vấn đề lịch sử cụ thể của hai thế kỷ XVII, XVIII nói riêng.

7. Cấu trúc của luận án: Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung luận

án được kết cấu làm 4 chương:

8

Chương 1: Tổng quan tư liệu và tình hình nghiên cứu vấn đề Chương 2: Giáo dục Nho học Chương 3: Khoa cử Nho học Chương 4: Thành tựu, hạn chế của giáo dục và khoa cử Nho học

Chương 1:

TỔNG QUAN TƯ LIỆU VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

1.1 Nguồn tư liệu 1.1.1 Trong nước Nguồn sử liệu quan trọng nhất và chủ yếu nhất được sử dụng trong luận án là các bộ sử do Nhà nước đứng ra tổ chức biên soạn dưới thời Lê -Trịnh và triều Nguyễn, cụ thể là: Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên và các Sử thần triều Lê gồm ba bộ: Đại Việt sử ký toàn thư (Bản khắc Chính Hòa thứ 18 - 1697) (khắc in và công bố năm 1697 do nhóm Lê Hy biên soạn); Đại Việt sử ký, Bản kỷ tục biên (1676- 1740), tập 1; Đại Việt sử ký tục biên (1676 -1789); Lê triều chiếu lệnh thiện chính thư; Lê triều quan chế; Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lục phần Tiền biên; Đại Nam liệt truyện tiền biên; Đại Nam nhất thống chí... Đây là nguồn tư liệu chính yếu ghi chép trực tiếp chính sách và hoạt động giáo dục, khoa cử Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII gồm cả Đàng Ngoài và Đàng Trong.

Đại Việt sử ký toàn thư gồm ba bản: Đại Việt sử ký toàn thư (Bản khắc Chính Hòa thứ 18 - 1697) (khắc in và công bố năm 1697 do nhóm Lê Hy biên soạn) biên chép một cách hệ thống lịch sử dân tộc từ Hồng Bàng đến năm 1675. Bản Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ tục biên (1676- 1740), tập 1: do nhóm Ngô Thì Sĩ (1726-1780), Phạm Nguyễn Du (1740 -1787), Ninh Tốn (1744-?), Nguyễn Sá ( -?) đồng biên tập dưới quyền Tổng tài của nhóm Nguyễn Hoãn (1712 -1791), Vũ Miên (1718 -1782) và Lê Quý Đôn (1726 -11784) chịu trách nhiệm biên soạn, ghi chép từ đời Lê Hy Tông (1676) đến Lê Ỷ Tông (1740) gồm 63 năm; Đại Việt sử ký tục biên (1676 -1789) do các sử gia triều Lê biên soạn [38] ghi chép sự kiện lịch sử từ đời Lê Hiển Tông (1740 - 1786) đến Lê Chiêu Thống (1786 -1788). Đây là bộ chính sử quan trọng nhất, ghi chép trực tiếp các sự kiện về giáo dục, khoa cử thời kỳ vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài với các nội dung được nhắc đến nhiều nhất là thi Hương, thi Hội, thi Đình.

9

Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn được biên soạn dưới thời Tự Đức, gồm 2 phần Tiền biên và Chính biên. Trong đó phần Chính biên (chép từ năm Đinh Tiên Hoàng thứ nhất (968) đến năm 1788 đời Lê Chiêu Thống) gồm 19 quyển (từ q.29 - q.47) có ghi chép về thời kỳ Lê -Trịnh, một phần chúa Nguyễn Đàng Trong. Khâm định Việt sử thông giám cương mục được biên soạn theo lối biên niên, lại có phần “lời chua”, “lời cẩn án”, “lời các sử gia”, do vậy khi tham khảo bộ sách này, để khảo cứu các sự kiện giai đoạn vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong, luận án thu thập được nhiều tư liệu, làm sáng tỏ nhiều nhân vật, địa danh, đồng thời tiếp cận được những lời nhận xét, phê phán của Quốc sử quán về một số sự việc liên quan đến thực trạng giáo dục, khoa cử thời Lê -Trịnh.

Đại Nam thực lục gồm 560 quyển do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn là nguồn tư liệu chủ yếu khi tìm hiểu về thời kỳ lịch sử chúa Nguyễn và triều Nguyễn. Trong đó phần Đại Nam thực lục tiền biên gồm 13 quyển, chép các sự việc của chúa Nguyễn, bắt đầu từ khi Nguyễn Hoàng vào Trấn thủ vùng Thuận Hóa đến đời chúa Nguyễn Phúc Thuần trị vì gần hai trăm năm (1558 -1777). Đây là nguồn tư liệu chính yếu để luận án khai thác các nội dung về tổ chức giáo dục, khoa cử thời chúa Nguyễn. Tuy không ghi chép cụ thể về giáo dục, khoa cử thời chúa Nguyễn, nhưng Đại Nam liệt truyện là bộ sử rất có giá trị khi tìm hiểu về hành trạng các nhân vật liên quan thời chúa Nguyễn. Bộ sách do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn bắt đầu từ đời vua Thiệu Trị thứ 1 (1841), gồm ba phần, 85 quyển: Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Đại Nam chính biên liệt truyện nhị tập. Riêng Đại Nam liệt truyện tiền biên gồm 6 quyển là phần rất quan trọng trong việc làm rõ thân thế, công trạng của một số vị danh thần, quan viên trực tiếp tham gia bộ máy chính quyền chúa Nguyễn; hoặc hành trạng của một số Nho sĩ tuy lựa chọn lối sống “ẩn dật” nhưng vẫn nặng lòng với thời cuộc, có những đóng góp quan trọng về mặt tư tưởng đối với việc duy trì cơ nghiệp chúa Nguyễn trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XVIII.

Nghiên cứu cụ thể hơn về thân thế, hành trạng các vị đại khoa, luận án còn khai thác thông tin từ nguồn thư tịch về đăng khoa lục (sách ghi chép về tên tuổi và tiểu sử các vị trúng tuyển các khoa thi) như: Lịch đại danh hiền phổ (không rõ tác giả); Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều Đăng khoa lục của Nguyễn Hoàn, quyển nhì; Từ Liêm huyện đăng khoa chí của Bùi Xuân Nghi; Thu tỉ đề danh ký (Đăng Khoa lục Thanh Hóa) (không rõ tác giả); Phượng Dực đăng khoa lục của Đinh Danh Bá; Ngọc Than đăng khoa lục...Trong đó, Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục do Vũ Miên, Nguyễn Hoàn, Phan Trọng Phiên, Uông Sĩ Lăng biên soạn [113] ghi chép khá cụ thể tiểu sử, quê quán của các vị Tiến sĩ thời Lê -Trịnh, thi đỗ từ khoa thi năm 1694 đến khoa thi năm 1787. Mặc dù bộ sách không ghi chép gì về năm sinh, năm mất, chức vụ của họ khi tham gia phục vụ bộ máy chính quyền, nhưng đây vẫn là nguồn tư liệu rất quan trọng cho tác giả luận án trong việc thống kê, phân loại số người đỗ theo địa phương cụ thể, qua đó thấy được truyền thống khoa bảng của làng xã Việt Nam dưới thời Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài đã diễn ra như thế nào.

10

Luận án còn khai thác, sử dụng một số tác phẩm do các sử gia tư nhân biên soạn như: Ô châu cận lục của Dương Văn An (1514 -?); Việt Nam khai quốc chí truyện của Nguyễn Khoa Chiêm (1659 -1736); Thiên Nam liệt truyện Hoan Châu ký của Nguyễn Cảnh Thị, Kiến văn tiểu lục, Vân đài loại ngữ, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn (1726 -1784); Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác (1720 -1791); Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch (1758 -1827); Hải Dương phong vật chí của Trần Công Hiến (? -1817) và Đạm Trai Trần Huy Phác (1754 -1834); Nam Hà tiệp lục của Lê Đản (1742 -?); Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức (1765 -1825); Lịch triều tạp kỷ của Ngô Cao

Lãng ( ? - ?); Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ (1768 -1839); Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1782-1840); Việt sử cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng (1828 -1910)1... Những tư liệu này giúp người nghiên cứu có hình dung rõ ràng về khoa cử Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII. Chẳng hạn quyển “Thể lệ thượng” trong Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn cung cấp những thông tin có giá trị về khoa cử bên cạnh một số vấn đề khác như lễ nghi, phong tục, quan chức, bổng lộc... của Đại Việt từ thời Lý đến Lê Trung hưng. Trong phần “Khoa mục chí” của cuốn Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú dành hẳn quyển 27 để nói về thể lệ thi Hương, thi Hội, thi Đình của triều Lê -Trịnh khi trị vì ở Thăng Long.

Luận án sử dụng một số văn bia, gia phả các dòng họ, hương ước của các địa phương như Hà Nội (gồm Hà Tây cũ), Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thanh Hóa, Hà Tĩnh... nhằm thống kê số người đỗ đạt. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, đã có khá nhiều công trình biên soạn mang tính liệt kê về người đỗ khoa cử nói chung, người đỗ đạt của từng địa phương nói riêng được xuất bản là nguồn tư liệu tham khảo có giá trị cho luận án trong việc thống kê người đỗ Tiến sĩ, đỗ Hương cống thời Lê -Trịnh, qua đó thấy được truyền thống hiếu học ở làng xã Việt Nam trong hai thế kỷ XVII, XVIII. Đó là: Tiến sĩ Nho học Hải Dương (1075 -1919) do Tăng Bá Hoành (cb), Bảo tàng Hải Dương, 1997; Các nhà khoa bảng Hưng Yên (1075-1919) do Dương Thị Cẩm biên soạn (Sở VHTT Hưng Yên, 1999); Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 -1919) của Ngô Đức Thọ (cb), Nxb Văn học 1993 (tái bản 2006); Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương cống Việt Nam của nhóm tác giả Bùi Hạnh Cẩn, Minh Nghĩa, Việt Anh biên soạn (Nxb VHTT, 2002); Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh (từ đời Trần đến đời Nguyễn) của Thái Kim Đỉnh (Hội Liên hiệp VHNT, Hà Tĩnh, 2004); Khoa bảng Nghệ An (1075 -1919) của Đào Tam Tỉnh (Nxb Nghệ An, 2005); Tiến sĩ Nho học Thăng Long Hà Nội của Bùi Xuân Đính (Nxb Thanh Niên, 2010); Tiểu sử và hành trạng các nhà khoa bảng Hán học Nam Bộ của Nguyễn Đình Tư (Nxb Đồng Nai, 2013); ... Riêng tác phẩm Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 -1919) của nhóm tác giả Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga, Nguyễn Hữu Mùi biên soạn là công trình khảo cứu rất công phu về thân thế, sự nghiệp của 2.894 vị Tiến sĩ đã trúng tuyển trong các khoa thi Hội, thi Đình do triều đình tổ chức từ thời Lý đến triều Nguyễn. Công trình không chỉ có giá trị về mặt tra cứu, mà còn có giá trị rất lớn trong việc tìm hiểu tình hình và truyền thống đỗ đạt của các địa phương trong phạm vi cả nước.

1 Tác giả luận án còn sử dụng phần “Tổng luận” trong Quốc triều Hương khoa lục của Cao Xuân Dục, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1993.

11

Năm 2019, nhóm tác giả do Nguyễn Thúy Nga chủ biên đã xuất bản bộ sách về khoa cử Việt Nam gồm 4 cuốn, khảo cứu những người đỗ kì thi Hương, thi Khảo hạch của nước ta từ thời Lê đến thời Nguyễn. Trong đó hai cuốn: Khoa cử Việt Nam Hương cống triều Lê và Khoa cử Việt Nam Sinh đồ triều Lê thời các chúa Nguyễn và Tây Sơn

(Nxb Đại học QGHN) khảo cứu trực tiếp về thân thế, hành trạng các Hương cống và Sinh đồ của triều Lê ở Đàng Ngoài, Hương cống của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đây là công trình khảo cứu đầu tiên liệt kê khá đầy đủ về những người đỗ đạt trong kì thi Khảo hạch và thi Hương ở nhiều địa phương, vốn là những khoa thi được mở ở cấp địa phương, tư liệu ghi chép không đầy đủ. Để nguồn tài liệu này phục vụ tốt cho nội dung nghiên cứu của luận án, chúng tôi phải xác minh, chỉnh lý trước khi sử dụng.

1.1.2 Nước ngoài Luận án còn khai thác nguồn tư liệu là các ghi chép của các Giáo sĩ, thương nhân phương Tây, người Trung Hoa đến giao thương, truyền giáo và có ghi chép về Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII, trong đó có nhiều ấn phẩm đã được dịch và xuất bản như: Histoire du royaume de Tunquin (Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài) của Alexandre de Rhodes viết năm 1651; Divers voyages et missions (Hành trình và truyền giáo) của Alexandre de Rhodes; Relation nouvelle et singguiére du Royaume de Tunquin (Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài) của Jean-Baptiste Tavernier viết khoảng thời gian từ năm 1639 - 1645, hoàn thiện năm 1681; A Description of the Kingdom of Tonqueen (Mô tả vương quốc Đàng Ngoài) của Samuel Baron viết trong khoảng thời gian 1685-1686; Voyages and Discoveries (Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688) của William Dampier; Journal de voyage du yacht hollandais Grol du Japon au Tonkin 1637 (Những thương nhân Hà Lan đầu tiên đến Đàng Ngoài và Kẻ chợ năm 1637) của Geerts; Xứ Đàng Trong năm 1621 của Christophoro Borri; Description historique de la Cochinchine (Mô tả lịch sử Đàng Trong) của Jean Koffler viết năm 1755; A voyage to Cochinchina in the years 1792 -1793”(Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792 -1793) của J.Barrow; Histoire moderne du pays d’Annam (Lịch sử cận đại xứ An Nam) của Chrles.B Maybon. Hoặc một số ghi chép của người Trung Quốc như An Nam cung dịch kỷ sự2 (Ký sự về việc phục dịch ở An Nam) của Chu Thuấn Thủy; Hải ngoại kỷ sự của Thiền sư Thích Đại Sán biên soạn năm 1695.

Nhìn chung, các tác phẩm của người nước ngoài khi viết về Đại Việt ở thế kỷ XVII, XVIII đã mô tả khá sinh động những nét chung về điều kiện tự nhiên, sản vật, tổ chức bộ máy chính quyền, phong tục của cư dân, việc học hành, thi cử của từng vùng Đàng Ngoài hoặc Đàng Trong. Những ghi chép đó chứa đựng nhiều thông tin quan trọng, bổ sung thêm nhiều sự việc lịch sử không được ghi chép trong nguồn thư tịch chữ Hán, do vậy đây cũng là nguồn tư liệu có giá trị cho luận án. Tuy nhiên khi sử dụng nguồn tư liệu này, chúng tôi phải có sự đối chiếu, so sánh với thư tịch, ghi chép trong nước.

12

1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 1.2.1 Nhóm công trình viết về giáo dục, khoa cử Nho học Việt Nam Trong nửa đầu thế kỷ XX đã xuất hiện một số công trình nghiên cứu về giáo dục khoa cử Việt Nam thời quân chủ của các học giả Việt Nam vừa hiểu biết về Hán học 2Bản dịch trích trong Vĩnh Sính (2016), Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hóa [171] từ tr.303 đến tr.360.

vừa chịu ảnh hưởng bởi vốn kiến thức Tây học. Phần lớn những bài viết trong giai đoạn này được đăng trên các tạp chí như Nam Phong, Thanh Nghị, Tri Tân.., có thể kể đến một số bài như: “Khảo cứu về sự thi ta” của Dương Bá Trạc (Tạp chí Nam Phong, số 23, 1919, tr.373 -385) giới thiệu những nét đại cương về giáo dục, khoa cử thời quân chủ; “Vài thể văn khoa cử xưa” của Hoa Bằng (Tạp chí Tri Tân, 1942, số 44, tr.3 -5); “quyển Thi văn bình chú” của Ngô Tất Tố (Tạp chí Tri Tân, số 94, 1943; tr.8, 23; số 95, tr 8 -9)... Đáng chú ý nhất là cuốn Lược khảo về khoa cử Việt Nam từ khởi thủy đến Mậu Ngọ 1918 (H. Impr.du Nord, 1941) của Trần Văn Giáp, đây được xem như chuyên luận sớm nhất của giới nghiên cứu hiện đại đối với thể chế khoa cử phong kiến Việt Nam. Thông qua khảo cứu trường thi Nam Định, tác giả đã cung cấp những kiến thức cơ bản về tổ chức giáo dục thời xưa và nhấn mạnh nội dung học tập chính yếu là rèn tập cho học trò các thể văn bài để tham dự các kì thi. Tác giả đã có những khảo cứu, so sánh giữa phép thi văn, thi võ và chế độ thi cử của ta với chế độ thi cử của các triều đại Trung Quốc, cùng sự thay đổi của các phép thi qua mỗi triều đại từ thời Lý, Trần đến thời Nguyễn.

Trong công trình: Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước năm 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1985, tác giả Vũ Ngọc Khánh đã trình bày một cách tổng quát về tiến trình lịch sử nền giáo dục Việt Nam từ đầu cho đến thời kỳ Pháp đô hộ thế kỷ XX. Riêng nội dung giáo dục, khoa cử thời quân chủ được tác giả trình bày trong phần thứ nhất: “Trên tiến trình lịch sử từ đầu đến thế kỷ XIX” với dung lượng 130 trang từ tr.30 đến tr.159. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đã đưa ra những nhận định, đánh giá khách quan về mục tiêu, nội dung, tổ chức, phương pháp của giáo dục Nho học gồm cả hai mặt đối lập của nó. Khi đánh giá về nội dung và chương trình giáo dục thời kỳ quân chủ, tác giả coi đó là một cách học cần thiết nhằm: “học kinh nghiệm để quản lý xã hội. Học sử chính là học kinh nghiệm các triều đại để rút ra bài học mà xử lý các mối quan hệ trong triều chính và với các tầng lớp dân chúng. Nhận thức như vậy không phải là không thiết thực” [89; tr 89]. Tác giả cũng chỉ ra những hạn chế của giáo dục Nho học trong việc đề cao học để làm chính sự, giáo dục để đào tạo người ra làm quan, từ đó gây nên tư tưởng “chỉ làm quan mới là vinh dự, là cao quý, còn bao nhiêu nghề khác đều thấp kém” [89; tr 94]. Đây là công trình nghiên cứu sớm nhất đưa ra những nhận xét, đánh giá về giáo dục Nho học, có ý nghĩa về mặt phương pháp luận trong việc giúp tác giả luận án có cái nhìn, đánh giá khách quan về thực trạng và đặc điểm nền giáo dục trong hai thế kỷ XVII, XVIII.

3 Đến năm 2017, Viện Sử học đã bổ sung, tái bản lại bộ Lịch sử này gồm 15 tập.

13

Đặc biệt từ năm 2013 đến năm 20153, tập thể các nhà nghiên cứu của Viện Sử học đã xuất bản công trình “Lịch sử Việt Nam” gồm 15 tập, trong đó phần nội dung giáo dục, khoa cử trong lịch sử qua các triều đại được viết khá chi tiết ở các tập: tập 2 (Từ

thế kỷ XI đến thế kỷ XIV), tập 3 (Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI), tập 4 (từ thế kỷ XVII -XVIII), tập 5 (từ năm 1802 -1858), tập 6 (từ năm 1858 đến năm 1896) do Nxb Khoa học Xã hội xuất bản 2013. Trong đó tập 4 là công trình viết rất cụ thể, chi tiết nhiều vấn đề liên quan đến thời kỳ vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong như: việc phân chia quyền lực giữa vua Lê - Chúa Trịnh và chúa Nguyễn, bộ máy chính quyền, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng, giáo dục cùng thành tựu về văn hóa của hai miền đất nước. Trong chương 12 của cuốn sách (từ tr.512 - tr.522), nhóm tác giả đã mô tả, phân tích các nét rất cơ bản về tình hình giáo dục, thi cử ở cả Đàng Ngoài và Đàng Trong, so sánh và phân tích nguyên nhân về sự hạn chế của khoa cử Đàng Trong so với Đàng Ngoài. Từ tr.523 đến tr.586 của chương, nhóm tác giả cũng đã trình bày về thành tựu văn học, nghệ thuật, khoa học kỹ thuật của thế kỷ XVII, XVIII, qua những thành tựu đó, thấy được đóng góp của nền giáo dục đối với sự phát triển quốc gia Đại Việt trên nhiều lĩnh vực.

14

Từ thập niên 1990 của thế kỷ XX đến nay, các công trình nghiên cứu về vấn đề giáo dục và khoa cử Việt Nam thời quân chủ xuất hiện ngày một nhiều, biểu hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau (bài viết, công trình chuyên khảo, luận án). Trong đó có thể kể đến một số công trình sau: Tình hình giáo dục thi cử triều Mạc của Nguyễn Hữu Tâm (Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 -1991); Khoa cử và giáo dục Việt Nam của Nguyễn.Q. Thắng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1993; Giáo dục Việt Nam thời cận đại của Phan Trọng Báu (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994); Nho học ở Việt Nam - Giáo dục và thi cử của Nguyễn Thế Long, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995; Khoa cử và giáo dục Việt Nam của Nguyễn. Q. Thắng (Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1998); Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, 2003 của Lê Văn Giạng; Chính sách giáo dục của nhà Nguyễn đối với các dân tộc ít người ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 19 (Tạp chí Dân tộc học, số 2/ 2005) của Phạm Thị Ái Phương; Giáo dục và thi cử Việt Nam (trước Cách mạng tháng Tám 1945) của Phan Ngọc Liên (Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2006); Giáo dục và khoa cử Nho học thời Lê ở Việt Nam qua tài liệu Hán Nôm, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2009 của Đinh Khắc Thuân; Giáo dục và khoa cử Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội, 2010 của Bùi Xuân Đính;Khoa thi Tiến sĩ cuối cùng trong lịch sử khoa cử Việt Nam: Kỷ Mùi, Khải Định năm thứ tư, 1919, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010 của Phạm Văn Khoái; Giáo dục Thăng Long - Hà Nội - Quá trình, kinh nghiệm lịch sử và định hướng phát triển của Nguyễn Hải Kế (Nxb Hà Nội, 2010); Vài nét về giáo dục Nho học từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XX ở Việt Nam của Vũ Duy Mền (Tạp chí NCLS, số 5 (421)/2011); Hệ thống giáo dục và khoa cử Nho giáo triều Nguyễn, Nxb CTQG, 2011 của Nguyễn Ngọc Quỳnh; Giáo dục khoa cử và quan chế ở Việt Nam thời phong kiến, thời Pháp thuộc của Nguyễn Công Lý, Nxb Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, 2011; Giáo dục và thi cử triều Tây Sơn (Tạp chí Hán Nôm, số 4 (119), 2013) của Nguyễn Thúy Nga;

Tìm hiểu về giáo dục và khoa cử thời xưa của Trịnh Hoành, Nxb Hồng Đức, 2014; Giáo dục thời Lê sơ (1428 -1527) nhìn từ góc độ văn hóa học của Nguyễn Thành Nam (Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Đại học Văn hóa Hà Nội, 2017)... Điểm chung của tất cả các công trình là đã giới thiệu về giáo dục và khoa cử Nho học Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến đầu thế kỷ XX theo một tiến trình hoặc qua từng triều đại cụ thể, phản ánh nhiều vấn đề cơ bản như: quan điểm triết học của Nho giáo, các loại hình trường học, cách thức tổ chức thi cử... Tuy vậy, do thời gian trình bày trải rộng nên khá nhiều công trình nghiên cứu trên đây chỉ trình bày những nội dung mang tính bao quát về vấn đề giáo dục và khoa cử Nho học nói chung mà ít đi sâu từng khía cạnh cụ thể.

Tiếp cận từng vấn đề cụ thể thuộc giáo dục và khoa cử Nho học thời quân chủ như trường lớp, sách học, mục tiêu giáo dục, các loại hình thi cử... đã nhận được sự quan tâm tìm hiểu của nhiều nhà nghiên cứu.

Về trường lớp: Trải qua các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê sơ, Mạc và Lê -Trịnh, Quốc Tử Giám Thăng Long luôn là trung tâm giáo dục Nho học với tư cách ngôi trường quốc học lớn nhất của cả nước. Nghiên cứu về Quốc Tử Giám với các nội dung liên quan đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả. Trong công trình: Văn Miếu - Quốc Tử Giám một biểu tượng của nền văn hóa Việt Nam (Trung tâm hoạt động Văn hóa khoa học Văn Miếu Quốc Tử Giám, 1993), nhóm tác giả Đặng Đức Siêu và Nguyễn Quang Lộc đã tìm hiểu về lịch sử Quốc Tử Giám với hai vai trò là nền quốc học Đại Việt lấy Nho giáo làm cơ sở và là trung tâm hoạt động văn hóa khoa học của Thủ đô Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Dưới góc độ tìm hiểu là trung tâm giáo dục dưới thời quân chủ, công trình đã bước đầu trình bày, phân tích khái quát lịch sử hình thành Quốc Tử Giám, khái luận một số nội dung liên quan đến trường từ thời Lý đến thời Lê -Trịnh gồm sửa chữa trường, chế độ thầy giáo, học sinh.

Nhóm tác giả do Nguyễn Hoàng Điệp chủ biên trong công trình: Các vị Tư nghiệp và Tế tửu Văn Miếu Quốc Tử Giám - Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2010 đã khảo cứu, thống kê về thân thế của 103 vị Tư nghiệp, Tế tửu những bậc thầy đức trọng của trường Quốc Tử Giám. Thông qua thân thế, hành trạng của các Học quan tham gia quản lý, giảng dạy tại trường, nhóm tác giả đã làm rõ vấn đề về điều kiện lựa chọn chức quan vào ngôi trường quốc học phải là những bậc Nho sĩ vừa có tâm, vừa uyên thâm về trình độ. Đây là cơ sở quan trọng định hướng cho luận án tìm hiểu trong hệ thống trường công ở địa phương, các trường quan phương ở Kinh đô, điều kiện và quy chế tuyển chọn chức học quan diễn ra như thế nào.

15

Trung tâm hoạt động văn hóa, khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám từ khi thành lập (1988) đến nay đã tổ chức một số hội thảo khoa học để làm rõ lịch sử, giá trị và bảo tồn phát huy giá trị di tích Nho học của Việt Nam, trong đó chú ý nhất là hội thảo năm 2012: Trường Quốc Tử Thăng Long và các trung tâm giáo dục Nho học Việt Nam. Hội thảo không chỉ làm rõ về hiện trạng, quy mô trường Quốc Tử Giám thời quân chủ, các

nội dung giáo dục trong trường như chương trình giảng dạy, chế độ học tập, thầy giáo..., mà thông qua hội thảo góp phần làm rõ, khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của trường trong việc đào tạo đội ngũ trí thức Nho học cao cấp, cũng như giá trị văn bia Tiến sĩ trong truyền thống giáo dục Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, trung tâm cũng đã tổ chức nhiều hội thảo về thân thế, sự nghiệp của các danh nhân Nho học, chủ yếu là các vị Tế tửu, Tư nghiệp của trường như Đỗ Nhuận (1466- ?), Nguyễn Duy Thì (1572 -1652), Nguyễn Mậu Tài (1616 -1688), Vũ Thạnh (1664 -1727), Vũ Miên (? - 1732), Nhữ Đình Toản (1703 -1774), Nguyễn Nghiễm (1708 -1775)... Đây là nguồn tài liệu tham khảo được tác giả luận án kế thừa trong việc tìm hiểu về đội ngũ học quan Quốc Tử Giám cùng vai trò, đóng góp của họ đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhân tài đất nước.

Nghiên cứu giáo dục Nho học dưới góc độ tìm hiểu giá trị lịch sử các di tích Nho học từ trung ương xuống địa phương như Văn Miếu, Văn từ, Văn chỉ, văn bia đã được đề cập ở nhiều công trình, thể hiện dưới nhiều dạng thức từ bài viết, công trình chuyên khảo, luận án. Trong đó, nghiên cứu về Văn Miếu Thăng Long - Hà Nội nói chung, nội dung, giá trị văn bia đề danh Tiến sĩ được dựng khắc ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội nói riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, tiêu biểu là các công trình: Quốc Tử Giám và trí tuệ Việt, Nxb Thanh Niên, 1995 (tái bản năm 1999) và Văn bia Quốc Tử Giám Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000 của Đỗ Văn Ninh; Di sản văn chương Văn Miếu -Quốc Tử Giám, Nxb Hà Nội, 2010 của Phan Văn Các; Trần Nghĩa, Quốc Tử Giám Thăng Long nơi đào tạo cho nhà nước nhiều bậc “minh triết” (Tạp chí Hán Nôm, số 5, 2010); Ngô Đức Thọ (cb), Văn bia Tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám - Thăng Long, Nxb Hà Nội, 2010; Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Văn Miếu Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hội nhà văn, 2017.

Bên cạnh đó, có một số tác giả đã đi sâu tìm hiểu giá trị Văn miếu, văn bia nhằm làm rõ truyền thống tôn sùng Nho học ở các địa phương và cấp làng xã như: Văn Miếu Bắc Ninh - Hải Dương - Hưng Yên, Luận án Tiến sĩ Lịch sử của Dương Văn Sáu (Khoa Sử, ĐHKHXHVNV, 2008); Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Kỳ Nam, “Văn Miếu, Văn từ, Văn chỉ trong lịch sử Việt Nam”, Tạp chí KHXHVN, số 12 (2013);... Chú ý nhất là luận án: Nghiên cứu văn bia khuyến học Việt Nam (từ thế kỷ XV đến những năm đầu thế kỷ XX) của tác giả Nguyễn Hữu Mùi (Viện Hán Nôm, Hà Nội, 2006). Trên cơ sở khảo cứu 874 văn bia mang nội dung khuyến học dựng tại các di tích Văn Miếu, Văn từ, Văn chỉ của 23 tỉnh thành của Việt Nam, công trình cung cấp những thông tin rất có giá trị về tình hình giáo dục cấp làng xã từ thời Lê sơ đến thời Nguyễn. Đây là công trình tham khảo có giá trị cho luận án khi tìm hiểu về giáo dục làng xã dưới thời quân chủ, trong đó có thời Lê -Trịnh qua nguồn tư liệu văn bia.

16

Về sách học, thể văn: Viết về sách học, các thể văn dùng trong chế độ khoa cử Nho học đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Năm 2009, trong hội thảo

khoa học: Kinh điển Nho gia tại Việt Nam, tổ chức tại trường Đại học KHXHVNV, Đại học Quốc gia Hà Nội đã đề cập nhiều nội dung quan trọng về vấn đề Nho học Việt Nam, hệ thống sách Đại toàn, Tiết yếu và việc tiếp nhận chúng tại Việt Nam; những bình giải của các nhà Nho Việt Nam về kinh điển Nho gia...Trong hội thảo, đã có một số bài tham luận nghiên cứu sâu về sách vở của giáo dục Nho học, đáng chú ý là bài: “Diên cách Chu Tử học tại Việt Nam: từ Tứ thư chương cú tập chú đến Tứ thư ước giải” của Nguyễn Tuấn Cường. Đến tháng 8 năm 2019, trong Hội thảo Khoa học Quốc tế “Khoa cử Nho học Việt Nam (1075 -1919) - 100 năm nhìn lại” tổ chức tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, đã làm rõ những đặc điểm, thành tựu, tác động của nền khoa cử Nho học Việt Nam trong 10 thế kỷ, trải qua các triều đại từ Lý, Trần, Lê sơ, Mạc, Lê -Trịnh, Nguyễn và dưới thời Pháp thuộc. Đáng chú ý đã có một số bài tham luận đã đề cập trực tiếp đến thể lệ, thể văn dùng trong thi cử của các triều đại quân chủ như: “Thể lệ thi cử và bài thi trong thi Hội, thi Đình thời Lê sơ” của Đinh Khắc Thuân; “Sử dụng điển tích, điển cố trong Văn sách Đình đối Việt Nam” của Lã Minh Hằng4. Không chỉ được đề cập trong các hội thảo, vấn đề về sách học, thể văn dùng trong thi cử còn được các tác giả đăng tải trên nhiều tạp chí như: Sách văn và Kinh nghĩa trong khoa thi trường Nho học ở nước ta (Tạp chí Hán Nôm, số 2, 2009; tr.40 -tr.45.) của Trần Thị Kim Anh; Thể loại Từ tại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVIII của Phạm Văn Ánh (Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 8-9 (2012, tr.35- 40); Sự hình thành và phát triển của sách dạy lịch sử Việt Nam viết bằng chữ Hán và chữ Nôm (Tạp chí NCLS, số 11, 2011) của Nguyễn Thị Hường; Phiên dịch và giáo dục Hán văn tại Việt Nam: mục đích phiên dịch kinh điển Nho gia qua góc nhìn trong cuộc của tác gia trung đại của Nguyễn Tuấn Cường, Nguyễn Thị Tú Mai, (Tạp chí Hán Nôm, số 5, 2017). Tất cả các công trình nghiên cứu đó đã góp phần làm rõ nhiều vấn đề quan trọng về việc dùng sách gì để dạy học cho học trò, thí sinh phải rèn tập những thể văn gì để phục vụ cho thi cử trong hệ thống trường học xưa.

17

Tìm hiểu khoa cử dưới góc độ về truyền thống giáo dục, khoa bảng của các dòng họ, làng khoa bảng, cùng chế độ đãi ngộ dành cho người đỗ đạt ở cấp làng xã thuộc các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt Nam cũng có nhiều tác giả quan tâm như: Vũ Huy Phú, Mộ Trạch- làng Tiến Sĩ (Hải Dương, 1997); Làng khoa bảng Tả Thanh Oai của Đinh Xuân Lâm (Nxb CTQG, 2002); Hội Am làng khoa bảng của Đỗ Văn Điện (Nxb Hải Phòng, 2006); Làng nghề thủ công và làng khoa bảng thời phong kiến ở đồng bằng sông Mã của Hà Mạnh Khoa (Nxb Từ Điển Bách khoa, 2009); Nguyệt Áng làng khoa bảng của Bùi Xuân Đính (Nxb Hà Nội, 2011); Lịch sử giáo dục huyện Hoằng Hóa của nhóm tác giả Trịnh Nhu, Lê Trung Tấn, Nguyễn Đức Nhuệ 4 Các bài tham luận trong Hội thảo Khoa cử Nho học Việt Nam (1075 -1919) - 100 năm nhìn lại” mới được in dưới dạng thức là Kỷ yếu tóm tắt mà chưa được in thành sách kỷ yếu. Tuy nhiên, tác giả luận án vẫn thống kê ra đây, để từ đó thấy được sự ảnh hưởng của nền khoa cử Nho học của Việt Nam cho đến ngày nay vẫn còn giữ vị trí quan trọng, nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả trong và ngoài nước.

(Nxb CTQG, 2015),... Những công trình nghiên cứu trên đã phần nào giới thiệu được truyền thống học tập, đỗ đạt của các dòng họ ở mỗi địa phương từ thời quân chủ, có ảnh hưởng đến ngày nay.

1.1.2 Nhóm công trình nghiên cứu về giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ

XVII, XVIII

Tìm hiểu về giáo dục và khoa cử Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII cho đến nay chưa có một công trình khảo cứu chuyên sâu và cụ thể. Tuy nhiên, trong rất nhiều công trình nghiên cứu chuyên khảo về giáo dục, khoa cử nói chung, về lịch sử thế kỷ XVII, XVIII nói riêng, các tác giả đều đề cập một cách khái quát hoặc từng nội dung riêng lẻ thuộc giáo dục, khoa cử của thời kỳ lịch sử này.

1.1.2.1 Nhóm công trình viết về giáo dục và khoa cử Nho học Đàng Ngoài Nghiên cứu một số nội dung thuộc giáo dục thời Lê-Trịnh đặt trong hệ thống chung về lịch sử hình thành, phát triển nền giáo dục Nho học thời quân chủ Việt Nam, tác giả Nguyễn Đăng Tiến trong công trình: Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng tháng 8 năm 1945 (Nxb Giáo dục, 1996) đã tập trung tìm hiểu về chương trình học tập trên cơ sở phân tích các loại sách học, phương pháp dạy học theo lối kinh điển; đồng thời trình bày, phân tích về hiện trạng giáo dục, khoa cử của các triều đại quân chủ nói chung, của chính quyền Lê -Trịnh nói riêng qua một số sự kiện lịch sử cụ thể về giáo dục. Từ việc phân tích quá trình suy giảm của chế độ phong kiến, tác giả đưa ra luận điểm cho rằng từ thế kỷ XVI trở đi, nhất là từ cuối thế kỷ XVIII, do tác động của ý thức hệ Nho giáo bước vào khủng hoảng, nên giáo dục Nho học thời kỳ này cũng bị ảnh hưởng “đi vào suy thoái, bộc lộ nhiều hạn chế” [209; tr.126]. Tác giả đã đúng một phần khi chỉ ra sự xuống cấp về mặt ý thức hệ Nho giáo vào giai đoạn từ cuối thế kỷ XVI. Song thực tế tình hình giáo dục Nho học thế kỷ XVII, XVIII có bị suy thoái và bộc lộ nhiều hạn chế như tác giả khẳng định không? Câu hỏi đặt ra cho tác giả luận án tiếp tục phải tìm hiểu. Công trình cũng đã đề cập đến đội ngũ giáo quan, chất lượng giảng dạy ở trường Quốc Tử Giám. Về việc dựng trường công ở Đàng Ngoài, theo tác giả, triều Lê -Trịnh cũng giống như thời Lê sơ chỉ tổ chức đến các phủ mà thôi.

18

Tác giả Nguyễn Tiến Cường trong tác phẩm: Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử ở Việt Nam thời phong kiến (Nxb Giáo dục,1998) đã góp phần làm rõ tình hình phát triển của hệ thống trường lớp, các chức giáo quan, học sinh, nội dung giảng dạy, nội quy trường học, tình hình thi cử, đỗ đạt từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIX, gồm cả giai đoạn XVII - XVIII. Qua khảo sát nghiên cứu, tác giả đánh giá khá cao về sự phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng, qua đó cho thấy giáo dục Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII vẫn có vị trí rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội. Tác giả viết: “nền giáo dục không chỉ được coi trọng về mặt số lượng (thể hiện qua số kì thi người đỗ đạt các kì thi), hệ thống trường học được mở rộng mà còn được coi trọng cả về mặt chất lượng, luôn gắn học với hành nhằm đào tạo người có tài học thực sự, có khả năng giải

quyết những vấn đề thực tiễn Việt Nam đặt ra” [26; tr.347]. Luận điểm trên đây có ý nghĩa rất quan trọng cho luận án khi nghiên cứu và làm rõ thành tựu của giáo dục, khoa cử đối với sự phát triển của xã hội Đại Việt ở vùng Đàng Ngoài.

Đối với trường học, gồm trường công và trường tư ở cấp địa phương, trường tư của các Nho sĩ dưới triều Lê -Trịnh đã có một số công trình đề cập đến như: Trường công lập ở các địa phương từ đầu thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX (Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số chuyên đề 326, quý III, 1999, tr.28 -tr.30 và số 6, 1999, tr.25 -tr.26) của tác giả Nguyễn Tiến Cường; “Dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu: Mô hình tiêu biểu về trường tư thục ở Việt Nam thế kỷ XVIII” (Tạp chí Hán Nôm, số 3, 2019) của tác giả Nguyễn Hữu Mùi. Trong đó, đáng chú ý nhất là bài viết: “Chánh sứ Nguyễn Huy Oánh với trường học Nhạc Lộc ở Trung Quốc và trường học Phúc Giang ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 8 của Nguyễn Tuấn Cường. Qua bài viết, tác giả đã làm rõ công lao của Nguyễn Huy Oánh khi trên đường đi sứ đến Bắc Kinh đã học hỏi một trong 9 mô hình shuyuan (Thư viện cung đình) do Nhà nước Trung Quốc thành lập từ thế kỷ VIII5 thuộc 3 tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Sơn Đông. Sau đó, khi về nước năm 1781, ông đã xây dựng mô hình trường tư thục gần giống với trường Nhạc Lộc của Trung Quốc tại quê hương của mình.

Viết về khoa cử của Đàng Ngoài là chủ đề dành được nhiều quan tâm của các nhà nghiên cứu. Nhiều công trình công bố đã phản ánh đa dạng nội dung của vấn đề này, chủ yếu nhất là những công trình đi sâu khảo cứu về vai trò của khoa cử trong việc tuyển chọn đội ngũ quan chức tham gia phục vụ cho bộ máy Nhà nước.

Tác giả Nguyễn Đức Nhuệ trong luận án “Cải cách của Trịnh Cương nửa đầu thế kỷ XVIII” (Viện Sử học, 2000) đã dành một mục nhỏ 2.1.2.1để phân tích “Thi Nho học” dưới thời Lê Trung hưng (từ tr.97 - tr.103). Tuy dung lượng số trang viết không nhiều nhưng tác giả đã phác họa một cách khái quát về tình hình khoa cử trên các phương diện: thể lệ quy định của nhà nước về quản lý trường thi, coi thi, chấm thi. Tác giả đã thống kê được số lượng cụ thể các khoa thi văn từ năm 1554 đến năm 1787 gồm 72 khoa, lấy đỗ 740 người. Tác giả đánh giá khá cao vai trò của khoa cử thời Lê -Trịnh đối với sự phát triển của xã hội, khi cho rằng tuy “không đạt thành tựu rực rỡ”, nhưng khoa cử lại có vai trò rất quan trọng trong việc “tuyển chọn được đội ngũ quan lại phục vụ trong bộ máy chính quyền, trong đó có nhiều người tài đức, xứng chức vị là những danh thần, lương tướng một thời” [136; tr.98]. Nhận định đánh giá này tiếp tục được tác giả khẳng định trong bài viết: Một số nét về khoa cử và thể lệ bổ dụng quan lại thời Lê Trung hưng (Tạp chí NCLS, số 12/2006, tr.31-tr.38.)

5 Nguyễn Tuấn Cường, Nguyễn Tuấn Cường. 2017. “Chánh sứ Nguyễn Huy Oánh với trường học Nhạc Lộc ở Trung Quốc và trường học Phúc Giang ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 8, tr.4.

19

Đồng quan điểm về việc đánh giá vai trò của giáo dục, khoa cử Nho học trong việc đào tạo, tuyển chọn nhân tài, tác giả Trần Thị Vinh đã có khá nhiều công trình nghiên

cứu được công bố, như: Phương thức tuyển dụng quan lại cho bộ máy chính quyền nhà nước ở thế kỷ XVII -XVIII” (Tạp chí NCLS, số 6, 2006, tr.9 - tr.18; số 7, 2006, tr.3 - tr.8); Thiết chế và phương thức tuyển dụng quan lại của chính quyền nhà nước trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII (Nxb CTQG, 2012) với dung lượng 32 trang khi viết mục “Khoa cử -phương thức đào tạo quan lại chủ yếu của chính quyền vua Lê - chúa Trịnh” (từ tr.183 đến tr.215) và 10 trang khi viết về: “Khoa cử - phương thức tuyển dụng quan lại cần thiết của chính quyền các chúa Nguyễn” (từ tr.231-tr.240); Khoa cử và tuyển dụng quan lại vào làm việc trong chính quyền nhà nước thời Lê Trung hưng từ năm 1554 đến năm 1787 (Tạp chí NCLS, số 12, 2015 từ tr.154 -161). Qua các công trình nghiên cứu, tác giả đã làm rõ về ba phương thức chủ yếu trong tuyển dụng quan lại cho bộ máy Nhà nước thế kỷ XVII, XVIII là: khoa cử, tiến cử và mua bán quan tước (nộp tiền thóc được trao quan tước). Theo tác giả, trong ba phương thức này, tuyển chọn nhân tài qua khoa cử là phương thức chủ yếu nhất. Tuy nhiên do điều kiện kinh tế, xã hội của hai vùng khác nhau nên vị trí của phương thức khoa cử của mỗi vùng không giống nhau. Đối với Đàng Ngoài, tác giả nhấn mạnh khoa cử là “phương thức tuyển dụng quan lại chủ yếu nhất của chính quyền Lê -Trịnh”. Mặc dù từ giữa thế kỷ XVIII trở đi cùng sự suy giảm của ý thức hệ Nho giáo, việc học tập và thi cử theo lối Nho học bộc lộ hạn chế “khoa cử không còn mang tính nghiêm túc như xưa” nhưng dưới thời Lê -Trịnh “khoa cử vẫn được coi trọng và quy chế thi cử vẫn theo như trước (thời Hồng Đức) nhưng nội dung có khác trước về cách học”, do vậy “đội ngũ quan lại chất lượng không cao” [247; tr.13 -14]. Trong khi đó ở Đàng Trong, tiến cử là phương thức tuyển dụng quan lại chủ yếu, còn khoa cử chỉ là “phương thức tuyển dụng quan lại cần thiết của chính quyền chúa Nguyễn”. Mặc dù vậy nền giáo dục này (Đàng Trong) “phần nào đánh dấu bước tiến về mặt Nho học cũng như sự trưởng thành của đội ngũ quan liêu” [248; tr.6].

20

Cũng nhằm làm rõ chính sách trọng dụng nhân tài của các triều đại quân chủ từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX nói chung, thế kỷ XVII, XVIII nói riêng, tác giả Phạm Đức Anh trong công trình “Mô hình tổ chức Nhà nước ở Việt Nam thế kỷ X - XIX” (Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2015) đã dành hẳn Chương 3. Các thiết chế Nhà nước trong giai đoạn thế kỷ XVI -XVIII (tr.127 - tr.188) để nghiên cứu, tìm hiểu. Đối với chính quyền Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong, tác giả đã có những phân tích khái quát về bối cảnh lịch sử, sự khác biệt về chính sách, đặc điểm cơ cấu bộ máy chính quyền giữa hai vùng để làm rõ chính sách sử dụng đội ngũ quan lại, chủ yếu là các Nho sĩ xuất thân theo lối cử nghiệp vào trong tổ chức bộ máy Nhà nước. Riêng vùng Đàng Ngoài, tác giả đã trình bày khá cụ thể về số lượng quan chức, việc sử dụng, bổ nhiệm chức quan cho các Tiến sĩ đỗ từ khoa thi năm 1595 đến khoa 1787, là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho luận án khi nghiên cứu và làm thống kê về thành tựu của nền giáo dục, khoa cử Nho học ở vùng này.

Đi vào tìm hiểu tổ chức thi cử trong từng kì thi cụ thể ở Đàng Ngoài cũng có một số công trình đề cập đến. Mở đầu là bài viết: Phép thi Hương đời Lê Trung hưng (từ 1678 về sau) (Tạp chí Sử Địa, số 11 năm 1968, tr.17 -tr.21) của tác giả Doãn Thành và Nguyễn Kiến. Bài viết trình bày khá tổng quát một số nội dung của kì thi Hương gồm thời gian, địa điểm, các lệnh dụ của triều đình quy định “thể lệ” khoa thi này. Đây là nguồn tài liệu tham khảo cho luận án khi nghiên cứu về thi Hương.

Về thi Hội, phải kể đến công trình của Nguyễn Thị Chân Quỳnh, Đỗ Thị Thùy Lan. Trong bài viết: Lối xưa xe ngựa, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu quốc học, 2001, tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh đã dành chương 7. Khoa cử thời hậu Lê dưới mắt Samuel Baron để tìm hiểu và làm rõ về hơn về các khoa thi dưới triều đại vua Lê chúa Trịnh. Từ việc đối chiếu bức họa vẽ cảnh Thi Đình ở Việt Nam năm 1685 của Samuel Baron in trong cuốn A Description of the Kingdom of Tonqueen, viết khoảng năm 1685, 1686, được nhiều người chú ý và in lại, coi là bức họa đầu tiên vẽ cảnh Thi Đình ở Việt Nam với mục “Nghi thức thi Đình” trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, tác giả chỉ ra sự nhầm lẫn, sai sót của Samuel Baron về thế thứ, tên gọi của các kì thi Hương, Hội, Đình của triều Lê, cũng như nhầm lẫn của tác giả này khi ghi chép về cách thức nộp quyển, đóng quyển thi. Đây là đóng góp của tác giả Nguyễn Thị Chân Quỳnh trong việc gợi mở cách tiếp cận tư liệu nước ngoài khi tìm hiểu về giáo dục của Việt Nam.

Tác giả Đỗ Thị Thùy Lan trong bài: Hội thí trường trong Hoàng thành Thăng Long thời Lê (đến thế kỷ XV - XVIII) (Tạp chí NCLS, số 8, 2011, từ tr.42 -tr 53; số 9, 2011 từ tr.59 -tr 69) lại tiếp cận vấn đề dưới góc độ tìm hiểu lịch sử hình thành, địa điểm dựng trường thi Hội dưới thời Lê từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII tại Kinh đô Thăng Long trên cơ sở khảo cứu bản đồ, đối sánh các ghi chép của chính sử và tư liệu người nước ngoài ghi chép về giai đoạn lịch sử này. Đồng thời tác giả đã chỉ ra những tác động trực tiếp của chúa Trịnh đối với việc tổ chức trường thi Hội ở Thăng Long, từ đó tác giả nêu lên một thực tế “cho đến cuối thế kỷ XVIII, họ Trịnh từng bước can thiệp vào hoạt động khoa cử ở Đàng Ngoài” [93; tr.67], những tác động này đã ảnh hưởng đến sự thịnh suy của trường thi này. Đây là nhận định quan trọng để tác giả luận án kế thừa khi tìm hiểu về kì thi Hội Đàng Ngoài trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XVIII.

21

Cùng nhìn nhận, đánh giá vai trò của chúa Trịnh đối với sự nghiệp khoa cử nhưng tác giả Lê Thị Thu Hiền trong Luận văn Thạc sĩ “Về các kỳ thi Đình thế kỷ XVII - XVIII” (Khoa Sử, ĐHKHXHVNV, 2006) lại đưa ra luận điểm khác. Trên cơ sở phân tích về thể chế chính trị “lưỡng đầu chế” của chính quyền Đàng Ngoài là một trong những nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng đến đặc điểm thi Đình; từ việc trình bày, phân tích các nội dung của thi Đình thời Lê -Trịnh là kì thi độc lập trong một khoa thi Tiến sĩ; đồng thời phân tích khá sâu sắc tác động của thi Đình đối với xã hội Đàng Ngoài thông qua việc tìm hiểu vai trò, đóng góp của các vị Tiến sĩ về chính trị, văn hóa... Tác

giả đã chỉ ra mối liên hệ giữa chính trị và giáo dục; nhìn nhận tích cực về đóng góp của chúa Trịnh trong việc đề ra các chính sách chấn chỉnh giáo dục, khoa cử: “Xét kỹ càng và thấu đáo trên một số phương diện chẳng hạn như lĩnh vực giáo dục, khoa cử chúng ta sẽ nhận thấy các chúa Trịnh đã có những cố gắng đưa ra các chủ trương nhằm chấn chỉnh nền học phong, cứu vãn nền giáo dục, thi cử đang suy đồi, xuống dốc” [69; tr.2]. Cách nhìn nhận này giúp tác giả luận án có cái nhìn toàn diện hơn khi đánh giá về vai trò chúa Trịnh đối với sự nghiệp giáo dục, khoa cử ở Đàng Ngoài.

Cũng tiếp cận về kì thi Đình dưới triều Lê -Trịnh, nhưng tác giả Đinh Khắc Thuân trong bài viết: “Người đỗ đại khoa và bài thi Tiến sĩ thời Lê -Trịnh” (Tạp chí Hán Nôm, số 4 (94), tr.38 -45) lại khảo sâu về hiện trạng các bài thi văn sách đình đối của các Tiến sĩ triều Lê -Trịnh còn lưu chép trong các bộ sách Lê triều Hội thí đình đối sách văn (ký hiệu A.3026/1-3), Lê triều Hội văn tuyển (ký hiệu VHv.335/1-5), Lê triều đăng long văn tuyển (ký hiệu A.529 và A.2602) hiện lưu tại Thư viện viện Hán Nôm. Theo thống kê của tác giả, thời Lê -Trịnh hiện còn 53 bài văn sách của 35 khoa thi Đình, trong đó bài thi văn sách sớm nhất của Phùng Thế Trung trong khoa thi năm 1623, muộn nhất là bài thi của Bùi Dương Lịch, khoa thi 1787. Cũng theo khảo cứu của tác giả, nội dung đề thi văn sách đình đối triều Lê -Trịnh về cơ bản vẫn tiếp nối thời Lê sơ, chủ yếu hỏi về đạo trị nước và sử dụng nhân tài của những người đứng đầu Nhà nước; nhưng có những đề có mở rộng sang một số lĩnh vực khác như bàn về lý số, quân sự, kinh tế. Cũng theo tác giả, đề thi chế sách thời kỳ này “tuy hỏi một vấn đề, song lại gồm nhiều câu hỏi cụ thể, có loại ngắn, có loại khá dài, nhiều cầu hỏi cùng được đặt ra”, thậm chí có đề trên 100 câu hỏi như bài văn sách năm 1643 mà Nguyễn Năng Thiệu đỗ Hoàng giáp đã phải viết đến trên dưới một vạn chữ” [199; tr.40]. Những giới thiệu khái quát trên đây về số lượng bài thi, nội dung ra đề thi của chuyên luận là tài liệu tham khảo có giá trị cho tác giả luận án khi tìm hiểu về kì thi Đình.

22

Vấn đề giáo dục, khoa cử Nho học Đàng Ngoài còn được phản ánh qua những công trình viết về thân thế, hành trạng của các Nho sĩ đỗ đạt theo lối cử nghiệp nhằm tôn vinh những đóng góp của họ đối với xã hội đương thời nói riêng, sự phát triển nền văn hóa dân tộc nói chung, đó là: Danh nhân Nguyễn Bá Lân - con người và sự nghiệp của nhóm tác giả Trần Nguyên Phú, Nguyễn Quang Trung, Đinh Công Vĩ..., (Sở VHTT tỉnh Hà Tây, 1999); Danh nhân Nguyễn Quý Đức nhà chính trị văn hóa lớn thế kỷ XVII - XVIII: Kỷ yếu hội thảo khoa học năm 2000 (Viện Sử học, ban liên lạc dòng họ Nguyễn Quý); Cuộc tiếp xúc giữa sứ thần Việt Nam Lưu Đình Chất và sứ thần Triều Tiên Lý Đẩu Phong đầu thế kỷ XVII của Nguyễn Đức Nhuệ (Tạp chí Hán Nôm, số 5, 2009); Nguyễn Hiệu và Nguyễn Hoàn: danh nhân lịch sử thế kỷ XVII - XVIII: Kỷ yếu hội thảo khoa học năm 2010 (Viện Sử học, Sở VHTT Hà Tây, TTHĐ VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám, dòng họ Nguyễn Hà); Nguyễn Huy Oánh và dòng văn Trường Lưu trong môi trường văn hoá Hà Tĩnh: Kỉ yếu Hội thảo nhân 300 năm sinh (Viện

Văn học, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh, Nxb Lao động, 2013); Tưởng niệm 200 năm ngày mất danh nhân lịch sử -văn hóa Bùi Huy Bích (1744 -1818): Hội thảo khoa học (Viện Sử học, Trung tâm HĐ VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, Hậu duệ danh nhân Bùi Huy Bích, tháng 7/2018); Thám Hoa Vũ Thạnh con người và sự nghiệp: Kỷ yếu hội thảo khoa học (Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, Trung tâm HĐ VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, 12/2018).

Năm 2018, tác giả Nguyễn Kim Sơn đã cho xuất bản công trình: “Nho học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX (Mấy khuynh hướng và vấn đề” (Nxb Đại học QGHN), trên cơ sở khảo sát về tình hình giáo dục khoa cử và toàn bộ các trước tác của các nhà Nho nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX với ba xu hướng: Xu hướng tiếp cận về triết học - bàn về Lý, Khí; Xu hướng nghiên cứu thảo luận về kinh điển Nho giáo (Kinh học); Xu hướng khảo cứu lịch sử (Bình khảo cổ sử), tác giả đã góp phần làm rõ đặc điểm Nho học từ nửa sau thế kỷ XVIII ở Việt Nam. Theo tác giả, Nho học Việt Nam từ nửa cuối thế kỷ XVIII trở đi đã có “những biểu hiện không hoàn toàn giống với tình hình chung của các giai đoạn trước”, khi “Nho học nở rộ nhiều thành tựu, là thời kỳ Nho học có những biểu hiện mới trong cả hứng thú học thuật lẫn nội dung các trước tác của Nho sĩ... Nho sĩ bên cạnh việc vẫn tiếp tục “dùi mài kinh sử” để cố công đoạt được bảng vàng, bia đá, nhiều người còn chú ý mở rộng kiến văn, theo đuổi việc học nhiều biết rộng... Có người coi lập ngôn trước tác là lẽ sống của mình. Họ không chỉ chú trọng viết văn làm thơ, mà còn khảo cứu lịch sử, thảo luận về kinh điển Nho giáo, bàn bạc triết học... biên soạn nhiều công trình mang tính chất bách khoa thư” [175; tr.12]. Đặc biệt, tác giả cũng đã làm rõ sự ảnh hưởng, cải biến và tiếp nối về mặt tư tưởng học thuật của năm thế hệ thầy trò đồng thời là các Nho sĩ nổi tiếng của thế kỷ XVII và XVIII (gồm Vũ Công Đạo, Vũ Thạnh, Nguyễn Tông Quai, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích). Sự đánh giá về đặc điểm Nho học trong nửa sau thế kỷ XVIII của công trình sẽ giúp cho tác giả luận án có sự nhìn nhận chính xác hơn khi rút ra đặc điểm, đánh giá về thành tựu, hạn chế của giáo dục Nho học trong hai thế kỷ XVII, XVIII, nhất là từ nửa sau thế kỷ XVIII.

1.1.2.2 Nhóm công trình viết về giáo dục, khoa cử Nho học Đàng Trong So với Đàng Ngoài, giáo dục và khoa cử ở Đàng Trong tuy xác lập muộn hơn, nhưng vấn đề này cũng nhận được sự quan tâm tìm hiểu của nhiều nhà nghiên cứu, được phản ánh ít nhiều trong một số cuốn sách, bài viết hoặc tham luận khoa học gắn với nội dung lịch sử vùng đất Đàng Trong, danh nhân văn hóa, hoặc được lồng ghép trong một số công trình viết về giáo dục của địa phương thuộc vùng đất này.

23

Mở đầu là công trình: Việt sử xứ Đàng Trong 1558 - 1777: Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam (Nhà sách Khai Trí, 62 Đại lộ Lê Lợi Sài Gòn,1969) của Phan Khoang. Trong công trình, tác giả đã khảo cứu rất cụ thể về lịch sử xứ Đàng Trong trên nhiều phương diện như lịch sử cuộc “Nam tiến”, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội của các

chúa Nguyễn. Đối với vấn đề giáo dục và khoa cử, tác giả có tìm hiểu về chủ trương của các chúa Nguyễn trong việc xây dựng trường học. Tác giả đã dành gần 4 trang (tr.389 -tr.393) để khảo cứu về các hình thức và quy chế thi cử Nho học của các chúa Nguyễn, nhưng chủ yếu tác giả trình bày vấn đề qua các sự kiện lịch sử cụ thể, mà chưa có sự nhận xét, đánh giá.

Công trình: Lịch sử giáo dục Sài Gòn thành phố Hồ Chí Minh (1698 -1998) của Hồ Hữu Nhựt (Nxb Trẻ, TP.HCM, 1999) là công trình chuyên khảo đầu tiên về lịch sử giáo dục của một địa phương cụ thể xuyên suốt 3 thế kỷ. Trong công trình, tác giả đã khái quát nền giáo dục, khoa cử Nho học thời chúa Nguyễn ở vùng đất Gia Định từ năm 1698 đến trước năm 1945. Đồng thời giới thiệu về việc mở trường dạy học, vai trò của hai ngôi trường tư thục gắn với tên tuổi của hai thầy giáo nổi tiếng ở thế kỷ XVIII là Võ Trường Toản và Đặng Đức Thuật đối với nền học thuật của Gia Định xưa. Dưới góc độ tiếp cận khu vực học, tác giả chỉ ra chính điều kiện kinh tế, xã hội là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự chậm phát triển của giáo dục Nho học ở khu vực phía Nam. Tác giả cũng khẳng định, mặc dù phải từ cuối thế kỷ XVII, nền giáo dục theo lối Nho học mới được định hình ở vùng phía Nam của đất nước, nhưng đây là cơ sở quan trọng đặt nền tảng cho sự phát triển giáo dục về sau.

Các chúa Nguyễn có cho xây dựng tại thủ phủ của mình ngôi trường Quốc học như ở Đàng Ngoài hay không? Để góp phần làm rõ vấn đề này, tác giả Phan Thuận An có bài viết: “Văn Miếu - Quốc Tử Giám Huế” trên Nghiên cứu Huế, Tập 7 (Nxb Thuận Hóa, Trung tâm Nghiên cứu Huế, 2010). Trong bài viết, tác giả đã cung cấp một số dữ kiện lịch sử quan trọng khẳng định rằng ở Đàng Trong, các chúa Nguyễn đã có chủ trương xây dựng một ngôi trường quốc học mang tầm cỡ như Quốc Tử Giám ở Thăng Long, có tên gọi Học Cung. Tác giả viết: “Thật ra bộ đôi Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã bắt đầu được thiết lập tại Thủ phủ Phú Xuân từ thời các chúa Nguyễn, mặc dù cơ sở ấy ở Đàng Trong bấy giờ còn được gọi là Học Cung” [4; tr.231] và “dưới thời chúa Nguyễn bộ đôi Văn Miếu - Học Cung cũng chỉ mang tầm cỡ của một nửa nước, tức là xứ Đàng Trong” [4; tr.232].

24

Tìm hiểu về chế độ khoa cử thời chúa Nguyễn cũng đã nhận được sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Tác giả Nguyễn Thúy Nga trong bài viết: “Thi Hương thời các chúa Nguyễn” (Tạp chí Hán Nôm, số 2/2013, tr. 49 -tr .59) đã khảo cứu khá đầy đủ, cụ thể về khoa cử Đàng Trong trên cơ sở trình bày trình tự thời gian việc mở các khoa thi Hương (Thu vi Hội thí) từ chúa Nguyễn Phúc Nguyên đến đời chúa Nguyễn Phúc Thuần. Tác giả cũng đã thống kê tên tuổi, hành trạng của 12 người đỗ đạt qua thi cử được ghi trong chính sử. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đánh giá không cao về chế độ khoa cử của chính quyền chúa Nguyễn, bởi chế độ khoa cử còn: “rất sơ khai, đơn giản, chưa thành hệ thống và chưa có hiệu quả... Thực tế thì dù có được tuyển chọn và bổ dụng, những người thi đỗ cũng không mấy ai được trọng dụng hoặc bổ

chức quan cao, càng hiếm người nổi tiếng” [121; tr.52]. Nhận định của tác giả có giá trị hữu ích cho luận án tham khảo khi tìm hiểu về chế độ khoa cử cũng như đánh giá đóng góp của khoa cử Đàng Trong đối với Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII.

Trong bài:“Phú Xuân - Huế thế kỷ XVII - XVIII cái nôi của đất học và tài năng” (tr.27 - tr.32) của Đỗ Bang, trên cơ sở khảo cứu nguồn tư liệu chính sử, ghi chép của người nước ngoài trong giai đoạn này, tác giả đã phác họa sơ lược việc học, các loại hình thi cử được chúa Nguyễn mở tại Huế. Khi so sánh với chế độ giáo dục, khoa cử ở Đàng Ngoài, tác giả đã chỉ ra điểm riêng biệt của khoa cử Đàng Trong là đã gắn liền với thực tiễn: “Việc học hành thi cử ở Đàng Trong đã đi vào thực tiễn của đất nước trong việc tuyển bổ quan lại, ngoài việc thi Nho, các chúa Nguyễn còn tiến hành các loại hình “thi lại”. Đây là loại hình thi cử không thấy ở Đàng Ngoài [11; tr.29]. Tác giả cũng đánh giá khá cao giáo dục Đàng Trong thời kỳ này: “Đây là một cố gắng lớn trong việc đào tạo và chấn chỉnh quan lại của các chúa Nguyễn theo một nội dung học thuật và thi cử mới, có tính thực tiễn hơn về phương thức trị nước ở Đàng Trong, đã có tác dụng nhất định trong việc hình thành một trung tâm chính trị, văn hóa Phú Xuân vào thế kỷ XVII, XVIII” [11; tr.31].

Trong sách còn có bài viết: “Danh nhân vĩ nghiệp Nguyễn Quang Tiền (1715 - 1773) và dòng họ Nguyễn làng Phò Ninh” (tr.154 -tr.165) của tác giả Võ Vinh Quang. Tham luận đã cung cấp những cứ liệu từ gia phả về một nhân vật ít được nói đến trong chính sử nhưng lại có đóng góp rất lớn về mặt tư tưởng thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, đó là Nguyễn Quang Tiền và dòng họ Nguyễn Quang làng Phò Ninh, xã Phong An, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Từ việc khảo cứu về thân thế, hành trạng của ông, nguồn gốc dòng họ, tác giả đánh giá rất cao về vị trí của dòng họ này trong truyền thống hiếu học tại Huế. Theo tác giả, dòng họ Nguyễn Quang là một trong những “cự tộc” có “truyền thống khoa bảng ở vùng đất Phong Điền nói riêng, Thừa Thiên Huế nói, với nhiều người vinh hiển như ngài thủy tổ Nguyễn Quang Thiện, ngài đệ nhị tổ Nguyễn Năng An, ngài đệ tam tổ Nguyễn Văn Xuân, ...Truyền thống khoa danh ấy được Thạc Đức hầu Nguyễn Quang Tiền kế thừa, tiếp nối mạnh mẽ và hội tụ tinh hoa rạng rỡ nhất” [150; tr.164]. Đây là thông tin rất hữu ích cho luận án khi nghiên cứu về các bậc danh sĩ thời chúa Nguyễn.

25

Các vấn đề liên quan đến giáo dục, các nhà khoa bảng thời chúa Nguyễn trị vì ở Đàng Trong còn được phản ánh một phần qua một số công trình khác như: Danh nhân Bình Trị Thiên (Nxb Thuận Hóa, 1986); “Thực học nhân đọc “An Nam cung dịch kỷ sự” của Vũ Hùng (Tạp chí Xưa Nay, số 218, tháng 8 -2004); 290 năm Văn Miếu Trấn Biên (Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2005) của Tỉnh ủy, UBND thành phố Biên Hòa; Thuyết Tri ngôn dưỡng khí, Dương minh học và tư tưởng giáo dục của Võ Trường Toản của Đoàn Lê Giang (Tạp chí Hán Nôm, số 5 (120)/2013); Tổ chức bộ máy Nhà nước quân chủ Việt Nam (Nxb KHXH, Hà Nội, 2015) của Nguyễn Minh Tường;

“Giáo dục ở Sài Gòn, Gia Định thời chúa Nguyễn, triều Nguyễn và Pháp thuộc” trong sách Tạp ghi Việt sử địa của Nguyễn Đình Đầu (Nxb Trẻ, 2016); “Giáo dục Nho học ở Sài Gòn - Gia Định thế kỷ XVIII”, trong Hội thảo Trung Bộ và Nam Bộ thời Chúa Nguyễn, của Trần Thị Mai, Hội Khoa học Thừa Thiên Huế, 2017; Văn học Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc của Trần Thanh Thủy, Luận án Tiến sĩ Văn học, ĐH KHXHVNV, 2017. Nhìn chung, so với Đàng Ngoài, các công trình nghiên cứu về giáo dục, khoa cử vùng đất Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn chưa thật nhiều. Nhưng qua các công trình nghiên cứu trên đây, các tác giả đã góp phần làm rõ phần nào diện mạo, tình hình, đặc điểm chế độ giáo dục và khoa cử chúa Nguyễn, đây là nguồn tài liệu rất quan trọng cho tác giả luận án khi tìm hiểu về thực trạng cũng như tìm ra nét riêng biệt của giáo dục, khoa cử của vùng đất này so với Đàng Ngoài.

1.3 Tình hình nghiên cứu ngoài nước Tìm hiểu về giáo dục, khoa cử Nho học thời quân chủ nói chung, thế kỷ XVII, XVIII nói riêng đã nhận được sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu nước ngoài, chủ yếu là người phương Tây, Trung Quốc... Trước hết là tác giả Alexander Barton Woodside (người Canada) đã có một số công trình nghiên cứu về giáo dục và khoa cử Nho học của một số nước phương Đông, trong đó có Việt Nam, như: “Problem of Education in the Vietnamese Revolution” (Pacific Affairs, No.4, vol.49, 1977); “Exalting the Latercomer State: Intellectuals and the State during the Chinese and Vietnamese Reforms” (The China Journal (40), pp.9 -36, 1998). Chú ý nhất là cuốn: Lost Modernities:China, Vietnam, Korea, and the Hazards of World History (Cambridge, Mass: Harvard University, 2006). Trong công trình, mặc dù tác giả không trực tiếp trình bày về vấn đề giáo dục của Đại Việt trong hai thế kỷ XVII và XVIII, nhưng thông qua việc làm rõ mối quan hệ giữa giáo dục và khoa cử đối với đời sống chính trị, văn hóa, xã hội của từng quốc gia, sẽ rất hữu ích cho luận án khi triển khai tìm hiểu vai trò của giáo dục Nho học đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Nola Cooke là một trong những tác giả rất quan tâm đến các vấn đề lịch sử, giáo dục Việt Nam, nhất là về triều Nguyễn. Trong các bài viết: “Regionnalism and the Nature of Nguyen Rule in Seventeenth Century Dang Trong (Cochinchina)” (Journal of Southeast Asia Studies, No.29, 1998), Southern Regionalism and the Composition of the Nguyen Ruling Elite (1802 -1883)”, Asian Studies Review (2), vol.23 (June), tác giả đã nhấn mạnh yếu tố vùng miền (Nam Bộ) có tác động mạnh mẽ đến chính sách giáo dục của chúa Nguyễn và các vua triều Nguyễn.

26

Khi tìm hiểu các công trình nghiên cứu về vùng đất Đàng Trong thời quân chủ của các học giả nước ngoài, chú ý nhất là tập san Những người bạn cố đô Huế được viết bằng tiếng Pháp “Bulletin des Amis du Vieux Hué” (viết tắt BAVH), xuất bản và lưu

hành tại Việt Nam và Pháp từ năm 1941 đến 1944, gồm 121 số và 1 tập danh mục6. Tập san có khá nhiều chuyên luận đề cập đến các lĩnh vực khác nhau của đời sống chính trị, văn hóa, xã hội vùng đất Đàng Trong thời chúa Nguyễn, mà khi tìm hiểu về những vấn đề này sẽ cho chúng ta cái nhìn toàn diện hơn trong việc tìm hiểu bối cảnh xã hội khi chúa Nguyễn thực hiện chính sách xây dựng giáo dục và chế độ khoa cử, như các bài: Những nhà truyền giáo Pháp đầu tiên dưới triều Hiền Vương của J.B.Roux (Những người bạn cố đô Huế, tập 2, năm 1915, tr.390 - tr.402); Thay đổi trang phục dưới thời Võ Vương hay là sự khủng hoảng về tín ngưỡng vào thế kỷ XVIII (Những người bạn cố đô Huế, tập 2 năm 1915, 1997, tr.403 - tr.412) của Léopold Cadière. Tuy không có bài viết nào đề cập trực tiếp đến giáo dục, khoa cử chúa Nguyễn, nhưng qua các bài viết về danh nhân, có xuất thân theo lối cử nghiệp sẽ giúp chúng ta thấy được đóng góp của đội ngũ trí thức đối với sự phát triển của xã hội đương thời. Chú ý nhất là bài: Một dòng dõi trung thần: Họ Nguyễn Khoa (Une ligneé de loyaux serviteurs: les Nguyễn Khoa) trong Những người bạn cố đô Huế, tập 2, 1915 của G.Rivère. Với dung lượng 21 trang, đây là bài viết khá công phu về gia tộc dòng họ Nguyễn Khoa, một dòng họ vốn gốc tỉnh Hải Dương ở miền Bắc đã theo Nguyễn Hoàng đến trấn ở Thuận Hóa từ năm 1558. Tác giả đã trình bày một cách cụ thể về tên tuổi, chức vụ cùng những câu chuyện xung quanh các nhân vật thuộc 8 thế hệ kế tiếp nhau của dòng họ, mở đầu là Nguyễn Đình Thân, lần lượt các thế hệ tiếp nối như Nguyễn Đình Khôi, Nguyễn Khoa Danh, Nguyễn Khoa Chiêm, Nguyễn Khoa Đăng, Nguyễn Khoa Thuyên, Nguyễn Khoa Kiên7, Nguyễn Khoa Dục.

6 Tạp chí được sáng lập bởi Linh mục người Pháp Léopold Michel Cadière - đồng thời là Tổng biên tập của tạp chí, với sự tham gia của hơn 140 cộng tác viên gồm cả các nhà nghiên cứu Pháp và Việt Nam. Trong toàn bộ BAVH có gần 500 bài viết gồm nhiều lĩnh vực và hơn 30 bài tiểu dẫn, chú giải quan trọng. 7 Tác giả của bài viết cũng khảo cứu thêm Nguyễn Khoa Minh, em thứ 6 của Nguyễn Khoa Kiên, Nguyễn Khoa Hào em thứ 8 và những người con khác của Nguyễn Khoa Thuyên.

27

Một số nội dung liên quan đến giáo dục và khoa cử Nho học của Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII phần nào được phản ánh qua các công trình tìm hiểu về lịch sử, pháp luật, văn hóa Việt Nam thời trung đại. Có thể kể đến một số nghiên cứu như: Connaissance du Viêt Nam (Hiểu biết Việt Nam, bản dịch, Nxb KHXH, 1993) của Pierre Huard, Maurice Durand. Qua công trình, các tác giả đã giới thiệu những nét cơ bản về văn minh và văn hóa Việt Nam gồm địa lý, lịch sử, sự hình thành văn hóa, những đặc trưng về văn hóa vật chất, tinh thần, sinh hoạt xã hội, luật lệ, văn học Việt Nam, nhất là về văn hóa truyền thống dân tộc. Histoire du Viet Nam, des origins à 1858 (Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1858), Nxb.Sud Est Asie, Paris, 1982 của Lê Thành Khôi; Law and Societtyin Seventeenth and Eighteenth Century Vietnam (Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII -XVIII, bản dịch, Nxb.KHXH, Hà Nội, 1994) của InsunYu; “Một số nhận xét về xuất xứ của những người đỗ đạt qua các kì thi do triều đình Việt Nam tổ chức” của Philippe Langlet in trong 90 năm nghiên cứu về văn hóa và lịch sử Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội, 1995.

Một số nhà nghiên cứu Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan cũng đã có những công trình nghiên cứu về giáo dục và khoa cử Nho học Việt Nam. Đáng chú ý nhất là công trình: Ảnh hưởng của chế độ khoa cử Trung Quốc tới Việt Nam (Tạp chí Hán Nôm, số 4/ 2005, tr.3 - tr.9) của Vương Giới Nam. Qua bài viết, tác giả đã làm rõ sự ảnh hưởng của chế độ khoa cử Trung Quốc tới Việt Nam, chủ yếu phân tích những điểm tương đồng, đó là: khoa mục (tên các khoa thi, gồm 6 khoa), trình tự tiến hành khoa cử (với hai cấp: thi ở địa phương, thi ở tỉnh), nội dung thi cử (gồm Kinh nghĩa, thi, phú, luận sách), về yêu cầu tư cách thí sinh, nghi thức yết bảng và chế độ đãi ngộ của nhà nước dành cho người đỗ Tiến sĩ... Cũng theo tác giả, việc truyền bá ảnh hưởng chế độ khoa cử Trung Quốc đã có tác dụng tích cực đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo nhân tài của Việt Nam. Việc chỉ rõ điểm tương đồng giữa hai chế độ khoa cử Việt Nam và Trung Quốc của công trình là cơ sở giúp luận án thấy được điểm khác biệt về các nội dung còn lại của khoa cử Việt Nam so với Trung Quốc.

Trong Hội thảo khoa học quốc tế: “Khoa cử Nho học Việt Nam (1075-1919) -100 năm nhìn lại” (Viện Hàn lâm KHXHVN, Hà Nội, 8/2019), có một số tác giả đi sâu nghiên cứu về từng vấn đề cụ thể thuộc giáo dục, khoa cử Nho học thời quân chủ, gồm cả thế kỷ XVII, XVIII. Tiêu biểu như các công trình: “Confucan Education as a Social Strategy in the Northern Uplands in the 18th Century Vietnam: Focusing on the Lang Son Province” (Giáo dục Nho học như một chiến lược xã hội ở vùng cao phía Bắc Việt Nam thế kỷ 18: Tập trung vào tỉnh Lạng Sơn) của Yoshikawa Kazuki; “Chế độ khoa cử và giáo dục Nho học Việt Nam dưới ngòi bút của Thái Đình Lan (1801 -1859) người Đài Loan” của Chen Yiyuan; “From where did Vietnam’s palace graduates come from? A. GIS historical - spatial analysis” (Tiến sĩ Việt Nam từ đâu đến? Một phân tích lịch sử không gian GIS) của Chan Yufen, Phạm Vũ Lộc, Hou Liwei. Qua các bài viết, chúng ta có điều kiện học hỏi thêm về phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận và giải quyết một vấn đề cụ thể trong nghiên cứu từ học giả nước ngoài.

1.4 Những vấn đề liên quan đến đề tài đã được các công trình nghiên cứu giải

quyết

Nhìn chung, vấn đề giáo dục, khoa cử Đại Việt (gồm Đàng Ngoài, Đàng Trong) trong hai thế kỷ XVII, XVIII đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả, dưới nhiều góc độ tiếp cận từ lịch sử, văn hóa, văn học,...; được thể hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau: sách chuyên khảo, luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ, các bài viết công bố trên các tạp chí chuyên ngành, các bài viết hội thảo.

28

Về nội dung: Các công trình nghiên cứu về chế độ giáo dục và khoa cử Nho học dưới thời quân chủ Việt Nam nói chung đã làm rõ được lịch sử hình thành và phát triển của nền giáo dục, khoa cử từ thời kỳ Bắc thuộc đến đầu thế kỷ XX. Những vấn đề cơ bản của giáo dục và khoa cử gồm: mục tiêu dạy học, tổ chức trường lớp, phương pháp dạy học, chương trình học tập, các loại hình khoa cử, học vị người thi đỗ... đã được các công

trình đề cập đến. Những vấn đề mang tính bao quát, nhận xét về nền giáo dục, khoa cử thời quân chủ như: đặc điểm, điểm tích cực, hạn chế, truyền thống khoa bảng của dòng họ, truyền thống hiếu học nơi làng xã cũng được một số công trình phân tích và được thể hiện dưới dạng thức là công trình khái quát hoặc công trình nghiên cứu cụ thể về từng vấn đề. Nhìn chung, những kết quả nghiên cứu về giáo dục, khoa cử trên đây có ý nghĩa rất lớn đối với tác giả luận án trong việc tham khảo, kế thừa, vận dụng vào quá trình triển khai đề tài “Giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII”.

Riêng với vấn đề giáo dục và khoa cử Nho học của Đại Việt ở thế kỷ XVII, XVIII đã nhận được sự quan tâm, tìm hiểu của khá nhiều tác giả. Các nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu đã được các tác giả trình bày trong hệ thống nghiên cứu chung về giáo dục, khoa cử Nho học Việt Nam thời quân chủ. Hoặc có một số công trình đã đi sâu khảo cứu về một vấn đề cụ thể thuộc giáo dục, hoặc thuộc khoa cử của từng chính quyền của từng vùng (vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong). Đó là các nghiên cứu về: hệ thống trường công, vai trò trường Quốc Tử Giám, về thi Hương, trường thi Hội, thi Đình, vai trò của khoa cử trong việc tuyển chọn đội ngũ quan lại cho bộ máy chính quyền, truyền thống khoa bảng dòng họ,... Mặc dù những nội dung nghiên cứu này còn mang tính riêng lẻ, chưa hệ thống nhưng kết quả nội dung nghiên cứu về giáo dục, khoa cử Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII mà các công trình nghiên cứu đã đề cập đến là cơ sở rất quan trọng để tác giả luận án tham khảo khi triển khai đề tài; đặt ra cho tác giả tiếp tục bổ sung và nghiên cứu sâu hơn về những vấn đề đang còn bỏ ngỏ.

Đặc biệt, từ những công trình nghiên cứu về các khía cạnh cụ thể thuộc giáo dục, khoa cử Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII đã khảo cứu trên đây, khi đưa ra những đánh giá về thực trạng, đóng góp của giáo dục, khoa cử thời kỳ này (chủ yếu là vùng Đàng Ngoài) đã hình thành hai luồng ý kiến trái chiều nhau. Trong khi một số công trình nghiên cứu cho rằng, thời kỳ này nền giáo dục của Đại Việt vẫn phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng thì ngược lại, các công trình khác cho rằng cùng với sự suy yếu của ý thức hệ Nho giáo, giáo dục Nho học cũng suy thoái, bộc lộ nhiều yếu kém. Đối với vùng đất Đàng Trong của chúa Nguyễn, nền giáo dục và khoa cử theo lối Nho học chưa được hình thành, hoặc còn kém phát triển. Những nhận định trái chiều này được tác giả luận án kế thừa, làm rõ khi tìm hiểu về thực trạng của giáo dục Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII trên từng khía cạnh cụ thể, cũng như vai trò đóng góp của nền giáo dục đó đối với sự phát triển của xã hội. Từ đó tác giả luận án có thể làm rõ hơn về hiện trạng của giáo dục và khoa cử trong thời kỳ lịch sử này đã diễn ra như thế nào.

29

Về tư liệu: Các công trình nghiên cứu đã cung cấp cho luận án những tư liệu về tình hình tổ chức giáo dục, vai trò của nền giáo dục về mặt chính trị, xã hội, văn hóa; tư liệu về các loại hình khoa cử (thi Hương, thi Hội, thi Đình), thân thế và hành trạng của các nhà khoa bảng, về truyền thống khoa bảng tiếp cận từ nhiều góc độ và nhiều nguồn

tư liệu khác nhau. Các công trình nghiên cứu cũng gợi mở cho tác giả luận án cần khai thác, sử dụng thêm nhiều nguồn tư liệu khác từ gia phả, bia ký, tục lệ, hương ước...

Từ kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố trên đây có thể thấy, chưa có một công trình riêng biệt, cụ thể nào nghiên cứu một cách đầy đủ về giáo dục, khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII. Vấn đề giáo dục, khoa cử trong thời kỳ này vẫn còn nhiều khía cạnh cần làm rõ, nhất là chế độ giáo dục ở Đàng Trong.

1.5. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu Mặc dù vấn đề giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ XVII và XVIII đã được nhiều công trình đề cập đến, thậm chí có một số công trình đã đi sâu tìm hiểu một số nội dung cụ thể của giáo dục hoặc khoa cử của chính quyền Lê -Trịnh (Đàng Ngoài), chúa Nguyễn (Đàng Trong) nhưng còn mang tính riêng lẻ, chưa toàn diện. Chưa có bất kỳ công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, trọn vẹn về giáo dục và khoa cử của từng vùng, nhất là của cả hai vùng. Do đó việc đối sánh một cách cụ thể về tình hình, đặc điểm giáo dục và khoa cử giữa Đàng Ngoài, Đàng Trong hoặc với các triều đại trước chưa được khảo sâu. Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu đi trước, luận án tiếp tục đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ, mang tính toàn diện hơn về giáo dục, khoa cử Nho học Đại Việt với các vấn đề sau:

- Trình bày, phân tích bao quát bối cảnh lịch sử, xã hội thế kỷ XVII, XVIII để đưa đến chính quyền Đại Việt phải quan tâm, đề ra các chính sách về giáo dục và khoa cử. - Trình bày chi tiết vấn đề về giáo dục và khoa cử Nho học của chính quyền Đại Việt (triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở Đàng Trong) trên cơ sở phân tích các nội dung cụ thể. Trong đó, luận án đi sâu khảo cứu những nội dung chưa được, hoặc đề cập rất ít trong những công trình đã công bố như học sinh, giáo quan, trường quy trong hệ thống trường công, trường Quốc Tử Giám, sự xuất hiện trường dân lập, chế độ đãi ngộ của Nhà nước và làng xã dành cho người học, người đỗ đạt. Trong mỗi kì thi làm rõ quy định của Nhà nước về thể lệ thi, thực trạng các khoa thi,...Từ đó, luận án rút ra được điểm tương đồng, khác biệt giữa chế độ giáo dục và khoa cử của từng vùng.

-Tìm hiểu sâu hơn về truyền thống giáo dục Nho học, truyền thống khoa bảng ở làng xã Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII trên cơ sở phân tích tình hình giáo dục nơi làng xã, các địa phương có nhiều người đỗ, các dòng họ có truyền thống khoa bảng từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, nhất là từ nguồn tư liệu gia phả, văn bia, sắc phong...Qua đó, góp phần khẳng định chính truyền thống giáo dục, khoa bảng của mỗi gia đình, dòng họ là nhân tố quan trọng tạo nên truyền thống hiếu học của dân tộc.

30

- Luận án làm rõ, phân tích và đánh giá thành tựu của nền giáo dục, khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII thông qua việc phân tích việc bổ dụng, sử dụng các Tiến sĩ, Hương cống vào trong bộ máy Nhà nước của chính quyền Đại Việt; đóng góp của nền giáo dục, khoa cử trong việc duy trì và phát huy truyền thống hiếu học trong phạm vi cả nước.

Chương 2: GIÁO DỤC NHO HỌC

2.1 Mục đích của giáo dục Nho học 2.1.1 Học để làm người Chịu ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo đã được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, phát triển đỉnh cao dưới triều vua Lê Thánh Tông (1460 -1497) nên mục đích chủ yếu nhất của giáo dục Nho học thế kỷ XVII, XVIII vẫn là giáo dục để ra làm quan (Học nhi ưu tắc sĩ), nhưng muốn làm quan trước hết người học phải học làm người: “lấy tư tưởng đạo đức làm nền cơ bản, lấy luân lý làm kiến thức phổ thông” [89; tr.90]. Tháng 8 năm 1721, khi ban 10 điều giáo hóa trong kinh, ngoài trấn chúa Trịnh Cương đã nhấn mạnh: “Học trò siêng năng về nghề nghiệp, học hành, trước hết giảng giải cho sáng tỏ những điều lễ, nghĩa, trung, tín. Làm người phải giữ tâm vững luân thường” [159; tr.421]. Giáo dục đạo làm người cũng chính là giáo dục con người biết coi trọng luân thường đạo lý, tuân thủ nghiêm túc nguyên lý của đạo đức Nho gia “Tam cương, Ngũ thường”8 như trong mối quan hệ “quân - thần” (vua - tôi) đó là đạo lý “vua lấy lễ mà sai khiến, tôi đem lòng trung mà phụng sự”. Mục đích giáo dục để làm người còn hướng con người sống nhân nghĩa, biết nhớ ơn ông bà, cha mẹ, biết kính trên nhường dưới, yêu làng xóm quê hương, đất nước. Ngược lại, nếu không được giáo dục, học hỏi thì người ta sẽ không hiểu rõ những điều trên đây (Nhân bất học, bất tri lý). Dưới góc độ xã hội, mục đích giáo dục con người biết coi trọng luân thường đạo lý, biết sống có trách nhiệm và biết “đặt lợi ích quốc gia, xã hội lên trên lợi ích cá nhân”. Và mục đích của nền giáo dục đó không bao giờ khuyến khích việc làm giàu bằng mọi giá, cốt sao vinh thân phì gia, từ đó dẫm đạp lên mọi đạo lý xã hội, mà luôn luôn tâm niệm “kiến lợi tư nghĩa” nghĩa là trước điều lợi, trước tiền của không lóa mắt, mà luôn luôn nghĩ đến điều nghĩa, đến lẽ phải, nhận thế nào cho đúng [229; tr.11]. Mục đích đó là nhằm đào tạo nên mẫu người quân tử và kẻ sĩ nhằm phấn đấu đến mục tiêu “Tu -Tề - Trị - Bình” (Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ).

8 Tam cương: Tam là ba, cương là giềng mối. Tam cương là ba giềng mối quan hệ quân- thần (vua -tôi), phụ- tử (cha -con), phu- phụ (chồng vợ). Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.

31

2.1.2 Học để làm quan Trên cơ sở học đạo làm người, sĩ tử thông qua học các sách Thánh hiền Tứ thư, Ngũ kinh, trải qua khảo thí để ra làm quan. Đó là đội ngũ quan lại có tài năng quản lý, thực hiện có hiệu quả chủ trương của triều đình với đầy đủ phẩm chất: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Mục đích học để làm quan được thể hiện rất rõ qua câu nói của Tử Hạ - một trong những học trò của Khổng Tử: “Học nhi ưu tắc sĩ, sĩ nhi ưu tắc học” (Học mà giỏi thì ra làm quan, làm quan mà giỏi rồi lại học) [41; tr.394]. Làm quan ở đây cũng chính là đem kiến thức đã học để hành đạo, thực hành đạo đức, đạo làm người thông qua hành

động thực tế, trong đó vua và quan phải là những người quân tử hành đạo tích cực và đắc lực. Theo học thuyết của Nho giáo “Nếu chỉ “học” mà không “sĩ” thì cũng chưa phải đã thể hiện được đúng ý nghĩa và đạt được mục tiêu của việc học trên con đường hành đạo”[41; tr 394]. Như vậy học phải để ứng dụng vào thực tế để có ích với đời. Nguyễn Cư Trinh một danh sĩ của Đàng Trong cho rằng cái đạt được của người học Nho chính là người biết “ngôn hành hợp nhất”, biết vận dụng cái học được vào việc làm cụ thể, đem tài năng của mình để phò vua giúp nước, quan tâm và chăm lo đến đời sống của nhân dân với một thái độ nhiệt huyết. Trong bài họa Giang thành dạ cổ, ông viết: “Thùy niệm thiên nhai minh võ lược. Kinh hoa tòng thử chẩm di cao”’(nghĩa là: Mong tới chân trời rạng võ lược. Kinh hoa từ đó chắc yên hàn) [54; tr.309]. Trong bối cảnh vùng đất Nam Hà thế kỷ XVIII, Nguyễn Cư Trinh đã vận dụng việc học Nho của bậc Nho sĩ chính là làm sao để xây dựng vương triều chúa Nguyễn hùng mạnh, đủ sức đối trọng với triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài. Để thực hiện được điều này, Nguyễn Cư Trinh cùng nhiều Nho sĩ khác đã tiến hành những cuộc chinh phạt vào vùng đất của người Chămpa, Chân Lạp, đồng bằng sông Cửu Long để mở rộng lãnh thổ, hoặc đưa quân đi chinh phục “Man Đá Vách” để giữ ổn định vùng biên viễn.

Cùng với sự suy yếu của ý thức hệ Nho giáo, giáo dục và khoa cử Nho học trong hai thế kỷ này cũng dần bộc lộ hạn chế. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò của giáo dục trong việc đào tạo đội ngũ trí có đức nghiệp như minh văn của Bài ký đề tên Tiến sĩ khoa Giáp Thìn niên hiệu Hoằng Định 5 (1604) dựng năm 1653 đã viết: “Hãy lấy những người đỗ khoa này mà xem sự nghiệp. Có người dùng đạo đức mà chấn phục nhân tâm, có người dùng tài trí để vận dụng thiên hạ, có người làm thi quy cho học trò, mà người xuất môn phần nhiều là danh sĩ, có người giữ văn hành công khí mà người được đỗ phần nhiều làm tướng võ, tướng văn; có người phụng mệnh đi sứ thì tuyên dương đức vua và làm trọng quốc thể” [141; tr.259].

32

2.1.3. Học để lưu danh muôn đời Một trong những mục đích cao cả của giáo dục Nho học là đào tạo nên những con người luôn có ý thức suốt đời phấn đấu để thành danh, có thể: lập đức (trở thành bậc vĩ nhân có nhân cách lớn, đạo đức cao, học vấn uyên thâm), lập công (chỉ các vị anh hùng cái thế, đánh giặc cứu nước đem lại cảnh thanh bình và cuộc sống ổn định cho muôn dân) và lập ngôn (tức là trở thành những học giả nổi tiếng gắn liền với những trước tác có giá trị giáo dục rộng rãi tạo nên giá trị văn hiến của dân tộc) [229; tr.12]. Đây cũng chính là mục đích phấn đấu suốt đời thành danh của các Nho sĩ xuất thân từ “Cửa Khổng, Sân Trình” nhằm “phải có danh gì với núi sông”. Thực tế nền giáo dục và khoa cử Nho học thế kỷ XVII, XVIII đã đào tạo khá nhiều danh sĩ mà tên tuổi còn lưu truyền đến ngày nay. Họ không chỉ để lại cho thế hệ sau tấm gương về sự cương trực, thẳng thắn, về lối sống giản dị mà còn để lại cho đời những trước tác có giá trị trên nhiều lĩnh vực. Trong đó Vũ Duy Đoán không chỉ là quan thần cương trực mà còn

rất giỏi văn Nôm có nhiều tác phẩm nổi tiếng được truyền tụng như Phong cảnh làng Mộ Trạch, Nông gia khảo tích, Di văn ký..., được khen ngợi là người có văn thể có tính chất thanh cao: “từ Lê Trung hưng trở về trước thì có Vịnh Kiều hầu [chỉ Hoàng Sĩ Khải đời Mạc], trung hưng về sau thì có Đường Xuyên tử [hiệu của Vũ Duy Đoán] là nói văn thể có tính chất thanh cao” [24; tr.461]... Riêng Lê Quý Đôn là bậc danh nho nổi tiếng thế kỷ XVIII, ông vừa là nhà địa lý học, sử học vừa là nhà triết học. Tên tuổi của ông gắn liền với những trước tác nổi tiếng như: Đại Việt thông sử, Vân đài loại ngữ, Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục... 2.2 Giáo dục Nho học Đàng Ngoài 2.2.1 Chính sách giáo dục Nho học của chính quyền Lê - Trịnh Thế kỷ XVII, XVIII là thời kì mà mâu thuẫn trong nội bộ các tập đoàn phong kiến diễn ra gay gắt nhất. Cục diện Nam - Bắc triều vừa kết thúc thì đất nước lại rơi vào một cuộc chiến tranh mới giữa chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Kết quả là sau 45 năm (1627 -1672) giao tranh không phân thắng bại, hai bên quyết định lấy sông Gianh làm ranh giới phân định khu vực thống trị: vùng đất Đàng Ngoài từ phía Bắc sông Gianh trở ra thuộc quyền cai quản của vua Lê chúa Trịnh, vùng phía Nam từ sông Gianh trở vào do các chúa Nguyễn quản lý. Bản thân chính quyền Đàng Ngoài lại tồn tại theo định chế chính trị: triều đình của vua Lê và phủ chúa của họ Trịnh, mà vua Lê chỉ là hư vị, còn chúa Trịnh mới “thực quyền”. Chúa Trịnh mới chính là “những người thực sự điều hành nền nội chính” [125; tr.211-212].

9 Ngũ phủ Phủ liêu là cơ quan lãnh đạo cao nhất của phủ chúa, đứng đầu gồm 3 quan võ Ngũ phủ (Chưởng phủ, Quyền phủ, Thự phủ) và 2 quan văn Phủ liêu gồm Tham tụng và Bồi tụng đứng đầu. Chức Tham tụng được Trịnh Tùng đặt năm 1600 lấy từ các viên Thượng thư hoặc Thị lang của triều đình vua Lê đảm trách, có nhiệm vụ “uốn nắn lòng vua, chọn lựa quan lại, bàn phép trị dân, thẩm xét binh cơ, chế định tài chính, định lệ kiện tụng, hội kê đinh điền, làm đúng thưởng phạt và giữ đúng pháp lệnh” [24; tr.578 -579]. Nhiệm vụ Tham tụng tương đương như chức Tể tướng ở các triều đại trước. Lục phiên gồm: Lại phiên, Lễ phiên, Hình phiên, Công phiên, Binh phiên, Hộ phiên.

33

Để thực thi quyền cai trị và củng cố vương quyền, triều Lê - Trịnh đã thực thi nhiều chính sách trong việc thiết lập tổ chức chính quyền thông qua việc xây dựng, tăng cường hoạt động các cơ quan, chức quan từ trung ương xuống địa phương. Tại triều đình, Nhà nước tiếp tục đặt Lục bộ là cơ quan đứng đầu, cùng nhiều cơ quan chuyên môn: Ngự sử đài, Hàn lâm viện, Thái y viện, Quốc sử quán, Quốc Tử Giám, Tư Thiên giám...; đứng đầu và phụ trách công việc của các cơ quan này phải là các Nho sĩ trí thức đảm nhiệm. Sau khi được phép lập phủ Chúa, họ Trịnh nhanh chóng thành lập các cơ quan, chức quan quan trọng để thiết lập nên hệ thống chính quyền tương ứng với chính quyền sẵn có bên cung vua như Ngũ phủ Phủ liêu, Tam Phiên (đến năm 1718 lập đủ Lục phiên)9. Mỗi phiên đều do các chức Tri phiên, Phó Tri phiên (Phó đô) và Thiêm tri đứng đầu cùng khoảng 60 thuộc lại (Nội sai và Nội viên), có trách nhiệm thu, quản những việc tiền tài, thuế khóa, việc quân, việc dân ở trong cung cùng ở bốn trấn, hai xứ Thanh - Nghệ, còn các trấn ngoại phiên đều thuộc cả về các phiên ty.

Ở cấp địa phương, triều Lê - Trịnh vẫn duy trì 4 cấp hành chính như thời Lê sơ nhưng cho đổi 13 Thừa tuyên thành 13 Trấn10 (còn gọi đạo, xứ), phủ (miền núi gọi là châu), huyện, xã. Ở mỗi cấp, triều đình đều cho đặt các chức quan quản lý. Với hệ thống các cơ quan, chức quan đông đảo từ trung ương xuống địa phương đặt ra cho Nhà nước có chính sách giáo dục, đào tạo nhân tài để tuyển chọn đội ngũ quan lại có trình độ tham gia bộ máy chính quyền. Điều này tác động không nhỏ đến chính sách, hoạt động giáo dục và khoa cử thời kỳ này.

Trên nền tảng mối quan hệ giao lưu giữa Đại Việt với một số nước phương Tây về mặt thương mại đã được xác lập từ giữa thế kỷ XVI, sang thế kỷ XVII, XVIII, quan hệ giao thương này tiếp tục phát triển góp phần đã thúc đẩy kinh tế hàng hóa Đàng Ngoài có sự khởi sắc. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế hàng hóa lại gây ra một số biến đổi trong đời sống xã hội. Một hiện tượng dễ thấy là các tầng lớp xã hội đổ nhau đi buôn bán, nhờ giàu lên người ta sẽ có điều kiện để làm nhiều việc khác như xây chùa, xây nhà, mua nhiêu, chức tước [69; tr.37], tất yếu ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là chất lượng giáo dục, thi cử.

Về tư tưởng, ở thế kỷ XVII, XVIII mặc dù Nho giáo vẫn được duy trì làm nền tảng tinh thần cho chế độ quân chủ, là học thuyết chính trị, xã hội đã được cư dân Đàng Ngoài đề cao “dù sang hay hèn, đều có lòng tôn kính Khổng Tử rất mực và thờ kính như một Thượng đế” [1; tr.28] nhưng từng bước bộc lộ hạn chế. Sự suy yếu của Nho giáo được thể hiện rõ nhất qua sự hình thành thể chế vừa có triều đình vua Lê, vừa có phủ chúa Trịnh trong cùng một bộ máy chính quyền đã làm cho đạo lý “Tam cương, Ngũ thường với trọng tâm là mối quan hệ quân - thần đứng trước nhiều thử thách, đội ngũ quan lại không biết nên trung với vua hay trung với chúa? Đây cũng là một trong những nhân tố đặt ra cho chính quyền Lê -Trịnh phải có chính sách giáo dục Nho học phù hợp để góp phần củng cố vương quyền của mình.

34

Ở Đàng Ngoài, giáo dục, khoa cử Nho học vẫn tiếp tục được triều đình Lê -Trịnh đề cao, coi đây là phương thức quan trọng nhất để đào tạo và tuyển chọn đội ngũ trí thức có trình độ vào trong bộ máy Nhà nước. Chính sách “sùng Nho” đó được thể hiện rất rõ qua việc nhiều lần triều đình ban chỉ dụ liên quan đến vai trò đội ngũ văn quan trong bộ máy chính quyền. Năm 1660, Tham tụng Dương Trí Trạch, Phạm Công Trứ khi dâng sớ nói về phép trị nước đã nhấn mạnh vai trò của việc dùng quan văn: “...võ tướng thì chống ngăn quân giặc để bảo vệ nhà nước... văn thần thì nên giúp vua thương dân, để tô điểm thái bình” [104; tr.253]. Hoặc vào năm 1721, triều đình cho ban chỉ dụ định rõ quy chế việc học trong cả nước, năm 1732 bàn định về “Tôn sùng Kinh học”, hoặc chấn chỉnh thể văn vào các năm 1759, 1762. Nhấn mạnh vai trò của giáo dục trong việc đào tạo nhân tài, chỉ dụ năm 1759 của chúa Trịnh Doanh (1740 - 1767) nêu: “Làm cột giậu cho nhà chúa thực là nhờ các kẻ sĩ. Bồi dưỡng tài năng cho 10 Sau năm 1672 vùng Đàng Ngoài chỉ còn 11 Trấn vì vùng Thuận Quảng thuộc về Đàng Trong.

kẻ sĩ, cốt ở sự dạy nuôi” [38; tr.262]; hoặc chỉ dụ năm 1767 của chúa Trịnh Sâm (1767 -1782) nhấn mạnh: “Trường học là nơi giáo dục nhân tài. Đế vương đời xưa không ai không cho việc học là việc trước nhất. Nước nhà ta, các bậc thánh vương nối tiếp trị vì, phép giáo dục rất đầy đủ, chọn người hiền, dùng người đức hạnh, thu được khá nhiều nhân tài” [159; tr.677]. Trong nhiều minh văn của các bia đề danh Tiến sĩ được khắc thời Lê -Trịnh cũng phản ánh rất cụ thể chính sách trọng hiền sĩ của Nhà nước theo lối cử nghiệp. Minh văn Bài ký đề tên Tiến sĩ khoa Bính Thìn niên hiệu Hoằng Định năm thứ 17 (1616) ghi: “Nước nhà có nhân tài cũng như con người có nguyên khí. Nguyên khí thịnh mạnh thì con người sống lâu, mà đông đảo nhân tài thì nước nhà vững như núi Thái” [141; tr.280]. Hoặc trong Bài bia Tiến sĩ khoa thi năm 1670 cũng viết: “Muốn xây dựng ngôi nhà lớn, phải có vật liệu tốt; muốn sửa sang nghiệp trị bình, phải nhờ có nhiều người tài giúp sức” [141; tr.377].

Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục, triều Lê -Trịnh rất chú trọng đến việc mở mang, sửa chữa hệ thống trường lớp, nhất là trường Quốc học. Tại Quốc Tử Giám, triều đình không chỉ huy động binh lính các huyện, xã, phường ở hai huyện Thọ Xương, Quảng Đức (Hà Nội ngày nay) hàng năm tham gia tu bổ, xây lát gạch, dọn cỏ tại các khu vực xung quanh, mà còn sai một số đại thần như Phạm Công Trứ, Nguyễn Hoàn, Bùi Huy Bích11 đứng ra trực tiếp tổ chức sửa sang, cơi nới quy mô của trường. Nhờ đó, giáo dục Nho học dưới thời kỳ này vẫn còn có những khởi sắc “văn phong nổi dậy, thói tục của học trò ngày một mới” [24; tr.328].

11 Phạm Công Trứ (1602 - 1675) người làng Liêu Xuyên, huyện Đường Hào (Hải Dương), ông xuất thân từ gia đình có truyền thống Nho học, năm 27 tuổi đỗ Đồng Tiến sĩ khoa thi năm Mậu Thìn (1628). Ông giữ nhiều chức vụ: Thái thường Tự khanh, Đô Ngự sử, Thượng thư Bộ Lại, chưởng Lục bộ sự, hàm Thiếu bảo... Nguyễn Hoàn (1713 -1792) quê Thanh Hóa. Năm 1743 ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Ông làm quan đến chức Nhập thị Tham tụng, Lại bộ Thượng thư kiêm hành Lễ bộ sự Hữu Tư giảng, Tri Quốc Tử Giám, Tri Trung thư giám, Tri Đông các, Tri Hàn lâm viện sự kiêm Quốc sử Tổng tài. Khi về trí sĩ được thăng hàm Thái phó, tước Hoàn quận công. Ông được chúa Trịnh Sâm tôn làm Quốc lão, là 1 trong 5 vị nguyên lão đại thần. Ông là người có công sưu tầm, chỉnh lý biên soạn bộ Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, tham gia biên soạn bộ Đại Việt sử ký tục biên. Bùi Huy Bích (1744 -1802) người quận Hoàng Mai, Hà Nội. Năm 1769 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, trải qua nhiều chức vụ khác nhau: năm 1777 bổ Đốc đồng Nghệ An, năm 1784 thăng Hành Tham tụng, năm 1785 thăng Đồng bình chương sự kiêm Tham tụng. Thời Tây Sơn ông ở ẩn. Ông là nhà văn, sử học danh tiếng để lại nhiều tác phẩm có giá trị: Hoàng Việt thi tuyển, Hoàng Việt văn tuyển; Nghệ An thi tập, Tồn Am thi văn tập, Châu Phong tạp thảo. 12 Nguyễn Văn Thực (1631-1694) người xã Đại Bái, huyện Gia Bình, Bắc Ninh. Năm 1659 đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa), giữ các chức quan trọng: Thượng thư bộ Binh, Nhập thị kinh diên, Tham tụng. Sau khi mất được truy tặng Lại bộ Thượng thư, tước quận công.

35

Nhà nước cũng rất chú trọng đến việc xếp đặt quan chức quản lý, giảng dạy cũng như chế độ học tập khảo thí cho trường. Năm 1693 theo lời tâu của Tham tụng Nguyễn Văn Thực12, chúa Trịnh đã cho đặt quan kiêm nhiệm trông coi Quốc Tử Giám. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết: “Ngày nay Quốc Tử Giám nên đặt quan kiêm nhiệm, nên lựa chọn các Tế tửu, Tư nghiệp và Giáo thụ Ngũ kinh học chính, cho họ ở tại nhà Giám để ngày thường hướng dẫn học tập, khiến việc đào tạo nhân tài có được thành tựu, cung cấp người cho Nhà nước dùng. Chúa nghe theo” [159; tr.369]. Đến năm 1721, triều đình định rõ quy chế học tập của trường, theo đó

mỗi tháng có một kỳ tiểu tập thi khảo học trò đã được vào học do Giáo thụ và Học chính quản lĩnh. Bốn tháng trọng có một kỳ đại tập, thi khảo các học sinh và Hương cống do quan Quốc Tử Giám chịu trách nhiệm [159; tr.424].

Sự quan tâm của triều Lê -Trịnh còn được thể hiện rất rõ trong việc tìm các giải pháp nhằm sửa đổi các “tệ tục” trong dạy học cùng thể lệ giáo dục đang bộc lộ những hạn chế. Triều đình nhiều lần ban hành và thực hiện các chỉ dụ liên quan đến quy định về nội quy trường lớp, lề lối học tập của thầy và trò, nội dung giảng tập.

Năm 1683, chúa Trịnh Tạc ban chỉ dụ yêu cầu học trò chấp hành đầy đủ nội quy về thời khắc khi tham gia học tập. Năm 1693, trước hiện tượng “học trò câu nệ về lề lối sáo cũ, thể văn ngày càng thấp kém” triều đình cho chấn chỉnh lại thể văn thi các khoa trường, yêu cầu học trò khi học tập, ôn luyện thi cử “nhất luật dùng theo thể văn đời Hồng Đức”13. Năm 1732, chúa Trịnh Giang (1729 -1740) ban chỉ dụ yêu cầu học trò cần phải thay đổi sách học. Năm 1779, chúa Trịnh Sâm đề ra bản “Học quy” dùng ở Quốc Tử Giám và các trường Phủ, yêu cầu: “trước đức hạnh sau nghệ văn”; đồng thời cho lập sổ học tịch ở mỗi trường để theo dõi việc học tập hàng ngày của học trò. Đặc biệt trong mối quan hệ thầy trò phải “dùng đạo nghĩa đối đãi với nhau” như điều giáo hóa ban hành năm 1663 đã quy định.

Chính sách đề cao giáo dục của triều Lê -Trịnh còn được phản ánh trong việc thực thi các đãi ngộ của Nhà nước dành cho trường học, thầy giáo và học trò. Việc cấp học điền cho trường Quốc học, cấp phủ đã có từ trước nhưng đối với trường cấp phủ lại phụ thuộc vào nơi có đất hay không để thực hiện, dẫn đến hiện tượng có trường được cấp, có trường không. Tuy nhiên, từ năm 1723, chúa Trịnh Cương bắt đầu chuẩn cấp học điền cho tất cả các trường ở phủ, với sự phân hạng nhiều ít khác nhau: Phủ lớn cấp 20 mẫu, phủ vừa cấp 18 mẫu, phủ nhỏ 16 mẫu và đặt làm lệ lâu dài.

Nhà nước cũng rất quan tâm đến việc in ấn sách vở để ban phát cho các trường học. Như năm 1734 khi in xong bộ Ngũ kinh đại toàn (tức là sách in toàn văn đã chép trong năm kinh), triều đình lệnh ban cấp cho các trường để dạy bảo học trò. Đồng thời trong năm này, triều đình cũng sai Nguyễn Hiệu và Phạm Khiêm Ích khắc các bản Tứ thư, Chư sử, Thi lâm và Tự vị để ban hành trong nước [159; tr.491].

13 Theo Lời chua trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục, thể văn thời Hồng Đức có: Kinh nghĩa, tùy ý dùng chữ, cốt phát huy được ý nghĩa trong sách. Tứ lục, vừa dùng sử cổ vừa dùng thời sự triều Lê. Phú hoặc dùng thể Ly tao, hoặc dùng thể văn tuyển. Thơ: không câu nệ ngũ ngôn hoặc thất ngôn, đều dùng xen cả điển trong sử, trong truyện hoặc sách ngoài cùng các cảnh vật khác [159; tr.368 -369].

36

2.2.2 Tổ chức giáo dục Nho học 2.2.2.1 Hệ thống trường học - Trường công +Trường Quốc Tử Giám Ở Đàng Ngoài, Quốc Tử Giám vẫn là trường học, trung tâm giáo dục Nho học lớn nhất của cả nước được các sử gia thời kỳ này gọi là nhà Thái học để phân biệt với

trường Hương học (trường phủ), giữ vai trò rất quan trọng trong việc giảng dạy đạo sách Thánh hiền để “mở con đường sùng Nho thịnh vượng cho muôn đời” [153; tr.148], đào tạo nhân tài và cung cấp đội ngũ trí thức Nho học cho bộ máy Nhà nước.

Về vị trí: Quốc Tử Giám đặt tại thôn Minh Giám, huyện Thọ Xương thuộc phía Nam kinh thành Thăng Long (nay là phường Văn Miếu, quận Đống Đa, Hà Nội). Diện tích của trường lúc đầu mới xây dựng là bao nhiêu không được sử sách ghi chép lại, song trải qua các đợt trùng tu, xây dựng, mở rộng của các triều đại kế tiếp sau này nhất là từ đời Hồng Đức14, diện tích của trường chắc chắn được mở rộng hơn. Theo Địa bạ thôn Minh Giám (lập ngày 5/12 năm Minh Mệnh 18 -1837) khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám có diện tích là: 7. 5.05.9.0 (7 mẫu, 5 sào, 5 thước, 9 tấc, 0 phân) [98; tr.188]. Ghi chép của người nước ngoài dưới thời kỳ Pháp thuộc cho biết kích thước toàn bộ khu Văn Miếu, Quốc Tử Giám Hà Nội “đo được 75 mét trong chiều rộng nhất ở phía bắc, 60 mét trong chiều hẹp nhất ở phía nam, gần 350 mét chiều dài”, “so với Khổng Miếu Trung Hoa chiếm tới ¼ diện tích toàn thành phố Khúc Phụ, diện tích của Văn Miếu - Quốc Tử Giám không thật rộng” [225; tr.83].

Về mặt cảnh quan kiến trúc, từ cuối thế kỷ XVI do tình hình chính trị trong nước xảy ra nhiều biến cố, nhất là các cuộc xung đột cuối thời Lê nên một số công trình kiến trúc của Quốc Tử Giám bị hư hại, điện đường và cung tường trong ngoài nhiều chỗ dột nát, hoang phế. Trước hiện trạng đó, hàng năm chính quyền Lê -Trịnh đã huy động binh lính các huyện xã, phường ở hai huyện Thọ Xương, Quảng Đức tham gia tu bổ, xây lát gạch, dọn cỏ tại khu vực Văn Miếu và trường học, do vậy kiến trúc của trường theo ghi chép của Lê triều chiếu lệnh thiện chính được mô tả vào năm 1645 khá quy củ, gồm có nhà Minh Luân 2 giảng đường nằm phía đông, phía tây, có cửa nghi môn và xây tường 4 mặt xung quanh trường [58; tr.167].

37

Từ nửa sau thế kỷ XVII, Nhà nước càng quan tâm hơn đến việc sửa sang kiến trúc, cơi nới quy mô trường Quốc Tử Giám. Trong nhiều năm, chúa Trịnh đã sai các đại thần trực tiếp tổ chức việc sửa chữa trường. Như năm 1662, chúa Trịnh Tạc (1657 - 1682) sai Tham tụng Lễ bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, Tri Quốc Tử Giám là Phạm Công Trứ xây thêm nhà, xây tường bao quanh, lấy ngày mồng một và ngày rằm để “họp học trò”. Năm 1762, chúa Trịnh Doanh tiếp tục cho tu sửa trường Quốc Tử Giám lần nữa. Năm 1771, Nguyễn Hoàn cho giải tỏa bớt nhà của dân xung quanh trường. Năm 1785, chúa Trịnh Sâm lại giao cho Tham tụng Bùi Huy Bích sửa sang trường Quốc Tử Giám. Nhờ vậy, không chỉ quy mô được mở rộng mà kiến trúc của trường được hoạch định thành từng khu vực với chức năng riêng, gồm nhiều phòng ốc vừa là nơi giảng tập, vừa là nhà ở của Học quan, ký túc xá của Giám sinh15. 14Năm 1483, vua Lê Thánh Tông cho sửa nhà Thái học nhằm mở rộng thêm. Phía trước nhà Thái học dựng Văn Miếu; phía sau dựng cửa Thái học, nhà Minh luân, Giảng đường phía đông và Giảng đường phía tây làm nơi giảng dạy học trò. Đồng thời cho đặt thêm kho bí thư để chứa ván gỗ đã khắc thành sách, bên đông bên tây nhà Thái học xây khu ký túc cho Giám sinh ở, mỗi bên ba dãy, mỗi dãy 25 gian; cả hai bên đều có một nhà bia. 15 Theo sách Kiến văn tiểu lục thì: “Cửa Đại thành 3 gian 2 chái, lợp bằng ngói đồng, đông vu và tây vũ 2 dãy đều bảy gian, đằng sau cửa nhỏ 1 gian, điện Canh phục 1 gian 2 chái, nhà bếp 2 gian, kho tế khí 3 gian 2 chái, cửa Thái

Các chúa Trịnh còn cho vời một số phường thợ đá nổi tiếng ở phường Kính Chủ (Hải Dương), An Hoạch (Thanh Hóa) về Kinh đô chạm đục bia đá, tượng đá, thềm bậc, cột trụ đá để khắc tên người đỗ Tiến sĩ nhằm vinh danh16. Để thể hiện tấm lòng tôn sùng đạo Thánh hiền, các chúa Trịnh nhiều lần đến nhà Thái học bái yết Tiên thánh (Khổng Tử), cùng các triều sĩ làm thơ ca tụng. Đặc biệt, chúa Trịnh Sâm đã sai đại thần Nguyễn Nghiễm đúc quả chuông đồng lớn, có tên là Bích ung đại chung (nghĩa là Chuông lớn Bích ung) để chỉ tôn nghiêm đạo học, hiện đang được treo tại nhà Thái học17, nhờ đó chế độ học tập ở đây dần được khôi phục. Vào hai ngày Sóc (mồng 1), ngày Vọng (ngày 15) hàng tháng, Học quan Quốc Tử Giám cho triệu tập học trò đến hội họp để tập làm văn “làm cho phong khí nhà Nho thêm phần phấn khởi” [159; tr.293]. Thậm chí vào những buổi bình văn ở Quốc Tử Giám, các quan Tham tụng, Bồi tụng đều đến dự, sĩ tử như mây họp lại, nơi đây cơ hồ không chứa đủ.

+ Trường quan phương Tại Kinh đô Thăng Long, ngoài Quốc Tử Giám là trường Quốc học đứng đầu cả nước, triều Lê -Trịnh vẫn tiếp tục duy trì hoạt động một số trường học khác đã được xây dựng từ thời Lê sơ thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước như Sùng Văn quán (Chiêu văn quán) và Tú Lâm cục. Đây vốn vừa là nơi làm việc của quan lại, vừa là học đường để đào tạo người làm việc dành cho con cháu trong hoàng tộc, con cháu quan viên không đủ điều kiện tham gia học tập tại trường Quốc học.

học 3 gian, có tường ngang, lợp bằng ngói đồng, nhà bia phía Đông và Tây đều 12 gian, kho để ván khắc sách 4 gian, ngoại nghi môn 1 gian, xung quanh đắp tường, cửa hành mã, ngoài tường ngang 3 gian, nhà Minh Luân 3 gian 2 chái, cửa nhỏ bên tả và bên hữu đều 1 gian, có tường ngang, nhà giảng dạy ở phía Đông và Tây 2 dãy đều 14 gian, ở phía Đông nhà Minh Luân 3 gian, phòng học của học sinh tam xá ở phía Đông và Tây đều 3 dãy, mỗi dãy 25 gian, mỗi gian 2 người [53; tr.63 -64]. 16 Trong số 82 văn bia đề danh Tiến sĩ ở Văn Miếu - Hà Nội thì chỉ có 7 bia dựng năm 1484, chủ yếu được dựng vào thời Lê - Trịnh, trong đó năm 1653 dựng 26 bia, năm 1717 truy dựng 21 bia. 17 Bích ung vốn là chữ trong Xuân Quan - Chu Lễ là một trong Ngũ học: Bích Ung, Thượng tường, Đông tự, cổ đông dữ Thành quân vi ngũ học, giai đại học giã”, trong đó Bích ung ở trung tâm là tôn quý nhất.

38

+ Trường công ở cấp địa phương Để cổ súy cho nền giáo dục Nho học phát triển, triều Lê - Trịnh rất quan tâm đến việc tổ chức giáo dục tại hệ thống trường công ở cấp địa phương trấn, phủ, chủ yếu cấp phủ (trường Hương học). Mặc dù số lượng, quy mô kiến trúc cụ thể của các trường Hương học không được ghi chép trong chính sử, nhưng qua những chỉ dụ của Nhà nước ban hành quy định tổ chức nhân sự, chương trình giảng tập, khảo khóa, chế độ đãi ngộ dành cho trường học này đã phần nào khẳng định sự tồn tại của nó. Tác giả Nguyễn Tiến Cường trong “Trường công lập ở các địa phương từ đầu thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XIX” cho rằng: khu vực Đàng Ngoài giai đoạn 1592 -1788 có 48 phủ, 5 phủ thuộc Thuận Hóa và Quảng Nam đã thuộc Đàng Trong. Tuy nhiên không phải tất cả các phủ này đều cho xây dựng trường mà chủ yếu tập trung ở vùng miền xuôi, vùng đông dân, có điều kiện về kinh tế khá mới có trường phủ, do đó khả năng

số trường phủ cũng xấp xỉ số trường phủ như thời Lê sơ với tất cả 36 trường, bình quân khoảng gần 6 huyện châu có một trường [28; tr.29].

- Trường tư Đây là loại hình trường học do người dân tự quản lý, tổ chức và đóng góp kinh phí xây dựng, hoạt động mà không có sự hỗ trợ của Nhà nước. Dưới thời Lê -Trịnh, hệ thống trường tư rất phát triển, được mở từ Kinh đô xuống cấp làng xã ở nhiều địa phương, gồm ba loại hình trường chính sau:

+ Trường tư của các danh sĩ Trong hai thế kỷ XVII -XVIII, Kinh đô Thăng Long và các vùng phụ cận ven đô thuộc Tứ trấn Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam (vùng đồng bằng và một phần trung du Bắc Bộ ngày nay) đến các xứ Thanh Hoa, Nghệ An đã xuất hiện khá nhiều trường học của các danh sĩ. Tên các trường học này thường gắn liền với thầy giáo giảng dạy là các quan trường nổi tiếng đang đương chức, về trí sĩ (nghỉ hưu), hoặc vì lý do nào đó họ bị biếm chức về mở trường dạy học18. Quy mô tổ chức của hệ thống trường học này như thế nào rất ít tư liệu ghi chép lại, nhưng qua số lượng học trò theo học cho thấy đó là những trường học có quy mô lớn, học trò đông, sách vở đầy đủ. Tại Thăng Long, phải kể đến trường tư của danh sĩ Nguyễn Đình Trụ (1627 - 1703)19, trường Hào Nam của Thám hoa Vũ Thạnh (1664-1727) mở cuối thế kỷ XVII20, trường học Vũ Công Đạo, Phương Am - Nguyễn Huy Cận, Bùi Huy Bích, Hà Tông Huân, trường Quan Hoa của Nguyễn Công Thịnh ở làng Thượng Yên Quyết...Trong đó trường Hào Nam của Vũ Thạnh với học trò đến 1000 người, số người thành đạt rất nhiều, tiêu biểu như danh sĩ Nguyễn Tông Quai (1693 -1763), Tiến sĩ Hòe Hiên Trần Hiền (1684-1742), Tiến sĩ Ngô Sách Hân. Riêng Ngô Sách Hân (con trai của Ngô Sách Tuân vốn là tôn sư của Vũ Thạnh) được ông nuôi dưỡng và dạy dỗ đã thi đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1721, sau này cũng chính là con rể của ông.

39

Ở địa phương thuộc Tứ trấn và các vùng lân cận cũng có các trường tư danh tiếng như trường học của Bùi Sĩ Tiêm, Nguyễn Tông Quai, Lê Quý Đôn (Thái Bình); trường học của Ngô Tiêm (Nam Định); trường học Trần Ân Triêm (Thanh Hóa); trường thầy Nguyễn Huy Oánh (nay thuộc Hà Tĩnh), Trần Thanh Trứ (Hải Dương)... Trong đó Trường Lưu học hiệu được Nguyễn Huy Oánh xây dựng ở phía Nam của làng Trường Lưu gắn với Phúc Giang thư viện (lập năm 1767) là một trong những ngôi trường tư 18 Tham khảo bảng thống kê số1. Một số trường tư của Nho sĩ ở Đại Việt thế kỷ XVII -XVIII (Phụ lục - tr.3). 19 Sách Đại Việt sử ký toàn thư, tập Bản kỷ tục biên (1676 -1740) ghi chép về trường của thầy Nguyễn Đình Trụ như sau: “Bấy giờ Hiệu thảo Nguyễn Đình Trụ bị biếm trích đã lâu, nhân sống nhàn, mở trường dạy dỗ kẻ hậu tiến, trong số đó có nhiều người làm nên, học trò có tới hàng nghìn. Được học giả đương thời suy tôn”. 20 Sách Việt sử cương mục tiết yếu ghi chép về Trường Hào Nam của Vũ Thạnh như sau: “Mùa đông tháng 12, Hồng lô tự khanh Vũ Thạnh bị miễn chức. Thạnh bị đuổi về, làm nhà ở phường Hào Nam, nhận học trò dạy học. Học trò từ hơn nghìn dặm cắp sách theo học. Trước nhà, gần hồ 7 mẫu mỗi khi giảng bài, nhà học không chứa hết người, học trò phải mượn mủng tre, ghé sát bờ hồ nghe giảng bài. Thạnh tính khoan hòa khéo dạy dỗ lớp hậu tiến, ra sức sửa lại thói cũ hủ lậu, văn chương tao nhã, là khuôn mẫu thời đó. Học trò ông có nhiều người đỗ Giáp khoa làm danh thần, là tôn sư của người học, cùng với Nguyễn Đình Trụ ở Nguyệt Áng đều nổi tiếng ở đời. Em là Vũ Huy, con là Vũ Huyên đều đỗ đồng Tiến sĩ.

nổi tiếng ở nửa sau thế kỷ XVIII. Ngôi trường không chỉ là nơi in sách vở với “hàng vạn quyển sách”- đến nay còn lưu giữ được gần 500 bản khắc gỗ, mà còn là trường học có quy mô lớn với hàng ngàn học trò, trong số học trò của ông có đến 30 người đỗ Tiến sĩ cùng triều, thành danh trên con đường hoạn lộ như Phạm Nguyễn Du (Nghệ An), Phạm Quý Thích (Hải Dương), Trần Công Xán (Hưng Yên)... Sau khi Nguyễn Huy Oánh mất, em trai của ông là Nguyễn Huy Quýnh (1734 -1785), con ông là Nguyễn Huy Tự (1743 -1790), cháu ông là Nguyễn Huy Vinh (1770 -1818) vẫn lấy đây làm nơi giảng dạy cho con cháu cũng như học sinh cả vùng [118; tr.24]. Đặc biệt, đây là ngôi trường tư đã tự “tổ chức biên soạn được nhiều loại giáo trình giảng dạy cho học sinh ở cấp độ cao học”, chủ yếu do Nguyễn Huy Oánh biên soạn như: Ngũ kinh toản yếu đại toàn, Tứ thư toản yếu, Quốc sử toản yếu... [118; tr.26], giảng dạy cho tất cả bậc học, từ trẻ nhỏ mới đi học chữ cho đến các Nho sinh ôn luyện kiến thức để dự thi Hương, thi Hội. Cũng tại trường học, ngoài “Ruộng khoa danh” được gây dựng từ Nguyễn Huy Tựu (cha Nguyễn Huy Oánh) để khen thưởng những người trong dòng họ thi đỗ khoa cử và được triều đình bổ dụng chức quan, thì vào năm 1785, Nguyễn Huy Oánh cho đặt chế độ “Học điền” (ruộng học) để hỗ trợ những học sinh học giỏi nhà nghèo không đủ kinh phí cho việc học hành.

40

+ Trường tư do nhân dân đóng góp xây dựng Đây là loại hình trường được xây dựng dựa trên sự đóng góp tự nguyện bằng tiền hoặc đất đai của nhân dân ở cấp làng xã mà không có sự hỗ trợ của Nhà nước. Tác giả Nguyễn Hữu Mùi trong “Vài nét về tình hình giáo dục Nho học ở cấp làng xã qua tư liệu văn bia” cho biết loại hình trường này xuất hiện khá muộn, phải đến thế kỷ XVIII mới có tư liệu ghi chép. Ngôi trường được mở sớm nhất ở xã Văn Trưng, huyện Bạch Hạc (nay là xã Văn Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc). Tư liệu văn bia cho biết, nhân dân hai xã này đã tự nguyện“cùng nhau bỏ ruộng đất dựng thành ngôi trường làng trên diện tích 3 sào đất” [115; tr.26]. Năm 1756, một ngôi trường khác được mở tại xã Đại Định huyện Bạch Hạc; năm 1767 nhân dân xã Phú Đa, huyện Bạch Hạc đã cùng nhau quyên xuất gia tài trong dân được 800 quan tiền cổ, trích một phần tiền dựng hai dãy nhà học, mỗi dãy năm gian, trên tòa đất tư ở xứ Doanh Sung. Ở một số địa phương khác như xã Lại Thượng (huyện Thạch Thất, Hà Nội), xã Mục Xá (huyện Thanh Oai, Hà Nội), xã Hạc Bổng (huyện Nghĩa Hưng, Nam Định); xã Trạch Lộ (huyện Tứ Kỳ, Hải Dương) cũng đều có các ngôi trường được mở do sự đóng góp tiền bạc của nhân dân. Như vậy, việc học không chỉ là sự quan tâm của Nhà nước nữa, mà với ước nguyện mong muốn con em biết cái chữ, cao hơn muốn con cái thành danh qua con đường khoa cử, người dân thôn quê đã tự nguyện “gánh vác” cùng chính quyền làng xã lập trường để con em làng xã được học tập.

+ Lớp học các thầy đồ Đây là lớp học của những Nho sĩ có trình độ am hiểu Hán học, không có điều kiện học cao hơn hoặc đã từng đi thi nhưng chưa đỗ, hoặc chỉ đỗ ba kì thi Hương (Sinh đồ) ở nhà theo nghề dạy học. Nhưng cũng có những người đã đỗ thi Hương, thậm chí đỗ tam trường thi Hội nhưng vì không muốn làm quan, về nhà mở lớp dạy học trò. Trong thế kỷ XVII và XVIII, các lớp thầy đồ tồn tại khá phổ biến ở cấp làng xã, có vai trò rất quan trọng trong việc “khơi dậy và tạo nên một truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo của người Việt Nam”, góp phần đào tạo những Nho sĩ đỗ đạt, thành danh trên con đượng hoạn lộ. Hầu hết các địa phương từ Thăng Long (Hà Nội), vùng Tứ trấn thuộc đồng bằng Bắc bộ đến xứ Thanh Hoa, Nghệ An đều xuất hiện những “thầy đồ” tài năng, thanh cẩn không chỉ có công đào tạo học trò ở làng quê, thôn xóm tại quê hương của họ, mà nhiều người còn đi nhiều địa phương khác để dạy học, góp công rất lớn trong việc khai mở việc học hành và đào tạo nhân sĩ thành danh. Như lớp học của thầy đồ Dương Tồn. Theo Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề, Dương Tồn người xã Lục Dương, huyện Chí Linh (Hải Dương), có tiếng hay chữ, được người đời gọi tôn sư. Ông rất giỏi thơ phú, binh pháp. Ông đỗ Hương cống đời Mạc nhưng gặp lúc loạn lạc không ra làm quan mà đi vào huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An dạy học, làm nhà và định cư ở đó. Rất nhiều học trò của ông đã thi đỗ trong đó có Hồ Sĩ Dương. Do có nhiều công lao nên sau khi mất, Dương Tồn được người dân trong làng tôn thờ làm tiên hiền, con cháu được miễn các thứ sưu dịch. Hoặc ở làng Phương Dực, huyện Phú Xuyên (Hà Tây cũ) có thầy Đỗ Đình Tá (1703 -1768) đỗ Sinh đồ khoa thi 1729, về nhà mở trường dạy học, học trò theo học rất đông, nhiều học trò thi đỗ tam trường thi Hương như: Doãn Tòng Lý, Dương Đình Quỳnh, Doãn Thế Ngoan, Nguyễn Xuân Đán [132; tr.55-56]. Đặc biệt, xứ Thanh Hoa, Nghệ An có nhiều thầy đồ giỏi, tên tuổi của họ không chỉ lưu danh trong sử sách, mà còn được ghi nhớ trong tiềm thức của dân gian với tên gọi thân thiết ông đồ Thanh, ông đồ Nghệ, ông đồ Nam. Có thể kể đến các thầy đồ xứ Nghệ An như: Trần Cảnh, Dương Lệ, Dương Chung Tú, Nguyễn Trí Y, Phan Hữu Hằng, Hồ Trọng Điển, Hồ Sĩ Trạch (làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu); Bùi Hữu Nhậm (Nam Thanh, Nam Đàn). Trong đó Dương Chung Tú là thầy đồ rất nổi tiếng trong thế kỷ XVIII. Ông là người văn chương lưu loát, thơ phú thành thạo được truyền tụng, từng là Giám sinh Quốc Tử Giám, học rất giỏi. Năm 1726 ông đỗ Sinh đồ, năm 1729 đỗ Hương cống nhưng vì không thích công danh nên ông không thi Hội, ở nhà mở lớp dạy học, học trò theo học có đến 700 - 800 người, học trò của ông nhiều người thành đạt trong đó có Dương Huân và Hồ Sĩ Đống, học trò tôn ông làm bậc thầy.

41

Thầy giáo không được Nhà nước trợ cấp tiền gạo. Học trò phải đóng thóc gạo trả theo vụ lúa và làm nghĩa vụ giỗ tết đối với gia đình thầy, đôi khi thầy giáo được mời ăn ở ngay tại nhà học trò để giảng dạy. Học trò khi học được một số năm đã thông

hiểu kinh sách, thấy cần thiết học lên thì phải trải qua kì khảo hạch để học lên bậc cao hơn ở trường huyện rồi trường phủ. 2.2.2.2 Học quan và học sinh - Học quan +Trường Quốc Tử Giám Để quản lý và tổ chức việc dạy học ở Quốc Tử Giám, triều Lê -Trịnh đã cho đặt các chức Học quan gồm: 1 viên Tế tửu (Tòng tứ phẩm), 1 viên Tư nghiệp (Tòng ngũ phẩm). Nhà nước thường dùng viên đại thần để kiêm nhiệm hai chức vụ này, chủ yếu đặt một người nhưng có lúc đặt 2 người. Sử sách cho biết, từ nửa sau thế kỷ XVIII, chất lượng giảng dạy và học tập trở nên sa sút, văn chương trường Giám không còn theo khuôn mẫu chung. Để khắc phục, triều đình cho tăng thêm quan Tế Tửu, Tư nghiệp cùng trông coi, quản lý việc giảng tập. Năm 1756, chúa Trịnh Doanh cho Nhữ Đình Toản cùng kiêm chức Tế tửu với Nguyễn Bá Lân; năm 1767, Trịnh Sâm cho Tể tướng Nguyễn Nghiễm giữ chức Trung Thư giám, Vũ Miên giữ chức Tế tửu, Lê Quý Đôn và Phan Lê Phiên làm Tư nghiệp. Đây là hai chức quan đứng đầu nhà Quốc học có trách nhiệm trông coi Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử, các vị Á Thánh, Tiên hiền và rèn tập sĩ tử, đào tạo nhân tài cho đất nước. Theo quy định vào hai ngày Sóc và ngày Vọng hàng tháng, quan Tế tửu cùng Tư nghiệp đến dự xem học trò tập duyệt văn bài. Đồng thời đến tháng thứ hai của quý, các viên Học quan này có trách nhiệm khảo hạch học trò để khen thưởng hoặc xử phạt hoặc bảo cử để bổ dụng chức quan.

Để hỗ trợ cho quan Tế tửu và Tư nghiệp trong việc giảng dạy, Nhà nước tiếp tục cho đặt các chức Giáo thụ (Chánh bát phẩm), Học chính (Tòng bát phẩm); ngoài ra còn có chức Giám bạ (Tòng bát phẩm) phụ trách các loại sổ sách trong trường; Điển bạ (Tòng bát phẩm) làm nhiệm vụ giữ việc văn độc, văn thư trong trường; Điển nghĩa - có nhiệm vụ tra cứu kinh điển, kinh nghĩa để phụ giúp việc dạy học cho các giảng quan. Về cơ bản, triều Lê -Trịnh vẫn tiếp tục kế thừa, duy trì các chức Học quan như thời Lê Sơ, duy cho bỏ chức Ngũ kinh giáo thụ, chỉ để Ngũ kinh học chính - Học chính năm kinh mỗi loại 1 viên.

42

Học quan trường Quốc Tử Giám phải là những người thông hiểu Nho giáo, có trình độ uyên thâm và đức độ. Qua bảng thống kê 2. Danh sách quan chức Quốc Tử Giám Thăng Long thời Lê -Trịnh (Phụ lục - tr.13) gồm 68 viên Học quan mà tác giả đã thống kê, tỷ lệ Học quan có trình độ Tiến sĩ chiếm số lượng và tỷ lệ cao nhất: 63/68 viên (92,6%), đỗ tam trường thi Hội: 2/68 viên (2,9%), không rõ thành phần xuất thân: 3/68 viên (4,4%). Nhiều người trong số họ đều có địa vị trong xã hội, có sự nghiệp nhất định trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, văn học, sử học, ngoại giao, giáo dục. Thống kê theo chức vụ cao nhất của các Học quan đã từng đảm trách trước hoặc sau khi làm việc tại Quốc Tử Giám thì có 19/68 người được bổ nhiệm đến chức Thượng thư - chức quan đứng đầu 6 Bộ của triều đình (Tòng nhị phẩm - bậc 2); 22/68 người giữ chức vụ

có phẩm trật bậc 3 (Chánh, Tòng tam phẩm) gồm các chức: Ngự sử đài, Đô Ngự sử, Tả, Hữu thị lang 6 Bộ, Thừa chính sứ; 21/68 người giữ chức vụ có phẩm trật bậc 4 (Chánh, Tòng tứ phẩm) gồm các chức Hàn lâm Thừa chỉ, Đông các Đại học sĩ, Quốc Tử Giám Tế tửu, Tham chính, Phó đô Ngự sử; 3/68 người từng được bổ nhiệm chức quan có trật bậc 5 (Chánh, Tòng ngũ phẩm) gồm chức Hàn lâm viện Thị độc, Hàn lâm viện Thị giảng, Thiêm đô Ngự sử, Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Đông các học sĩ; có 3/68 người có chức quan bậc 8.

Triều đình còn cho đặt chức Tri Quốc Tử Giám sự - một chức kiêm nhiệm giao cho các đại thần tham gia quản lý và giám sát hoạt động trường Quốc Tử Giám. Đây là chức quan mà theo Phan Huy Chú: “Quan bản nha coi việc của thuộc quyền mình thì gọi Tri” [24; tr.544]. Nguyễn Công Thái (1684-1758), Nguyễn Nghiễm (1708 -1775), Nguyễn Hoàn (1713-1792),... là những đại thần đã từng đảm trách chức vụ này. So với triều Lê sơ, triều Mạc, các Học quan trường Giám thời Lê -Trịnh đã có nhiều thay đổi. Trước đây, Tế tửu chỉ đặt 1 người, thì nay Tế tửu, Tư nghiệp đều là quan giảng dạy, do đó có thể đặt nhiều hơn 1 Tế tửu, Tư nghiệp trong cùng một lúc.

21Nguyễn Đình Trạch: quê ở Bắc Ninh, từng đỗ Sĩ vọng; năm 1670 đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ. Nguyễn Tung (1622 -?): quê ở Hải Dương, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi 1659, làm quan đến chức Tư huấn.

43

+Trường quan phương Tại Sùng Văn quán và Tú Lâm cục, triều Lê -Trịnh tiếp tục cho đặt hai chức quan Tư huấn (trật Chánh bát phẩm) [24; tr.546] với các tên gọi Chiêu văn quán Tư huấn, Tú Lâm cục Tư huấn và Điển nghĩa (Tòng bát phẩm) (còn gọi Chiêu văn quán Điển nghĩa, Tú Lâm cục Điển nghĩa) như thời Lê sơ (vua Lê Thánh Tông đặt chức quan này năm 1477) để đảm trách việc dạy dỗ học trò, số lượng bao nhiêu người thì không rõ. Tuy nhiên vì Tú Lâm cục có số học viên đông hơn Sùng Văn quán, nên triều đình quy định mỗi chức gồm hai viên. Cả hai chức quan này đều được đặt theo chế độ kiêm nhiệm do bộ Lại tuyển chọn từ những viên quan có trình độ và có kinh nghiệm làm việc tại Hàn lâm viện. Tuy chức Tư huấn có trật Chánh bát phẩm ngang với chức Giáo thụ nhưng đòi hỏi về chuyên môn phải cao hơn rất nhiều. Riêng chức Điển nghĩa, triều Lê -Trịnh đã có sự thay đổi trong tiêu chí tuyển chọn. Trong thể lệ về chế độ tập ấm cho con các quan viên chính chức ban hành năm 1670, Nhà nước quy định chức Điển nghĩa được giao cho con của các viên quan chính thức khi được “sơ thụ” chức vụ ban đầu. So với thời Lê sơ, tiêu chí tuyển chọn chức Điển nghĩa đã nới rộng hơn. Thời Lê - Trịnh có một số Nho sĩ từng giữ chức Tư huấn của Sùng Văn quán mà sử sách còn ghi lại, gồm Đỗ Thê (1663- ?), Vũ Duy Dương (1685- ?). Cả hai viên quan này đều từ đang giữ chức Giám sát Ngự sử, sau bị truất xuống giữ chức vụ này. Hoặc Nguyễn Tung, Nguyễn Đình Trạch, Trần Đồng21 là những quan chức từng đảm trách chức Tư huấn và Điển nghĩa tại Tú Lâm cục.

+Trường địa phương Ở cấp trấn, mặc dù Nhà nước không dựng trường lớp để giáo dục học trò nhưng có xếp đặt chức quan trông coi việc học ở cấp hành chính này (tuy nhiên chúng tôi chưa khảo được đó là chức gì). Chỉ biết vào năm 1767, triều đình đã cho đặt chức Đề đốc học chính22. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết, chức Đề đốc học chính do viên quan Tham chính bản xứ kiêm nhiệm, có nhiệm vụ đôn đốc Hiệu quan phải làm tròn bổn phận đốc thúc học trò luyện tập văn bài để đến 4 tháng trọng (Trọng Xuân - tháng 2, trọng Hạ - tháng 5; trọng Thu - tháng 8; trọng Đông - tháng 11) thi khảo hạch học sinh theo lệ khảo khóa như của Quốc Tử Giám, mà không trực tiếp giảng dạy học trò [159; tr.677]. Như vậy, Đề đốc học chính vừa thực hiện quản lý giáo dục cấp trấn, vừa phối hợp cùng với Hiệu quan trường Hương học có trách nhiệm tổ chức thi khảo học trò23.

Ở cấp phủ, học quan giảng dạy ở trường Hương học chủ yếu được lựa chọn từ những nhà Nho có uy tín về trình độ và đạo đức, được sách sử gọi chung là Hiệu quan. Về chức vụ này, sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú viết: “Lệ thuộc quan bản phủ, khảo hạch các Sinh đồ, rèn tập các học sinh, còn các việc khác đều theo lệ phụng hành”[24; tr.597]. Thời Lê - Trịnh, giáo quan giảng dạy tại trường Hương học (Phủ) vẫn là viên Giáo thụ (Chánh bát phẩm) như thời Lê sơ, có nhiệm vụ tham gia trực tiếp vào việc giảng dạy học trò và khảo thí xét năng lực các Sinh đồ. Theo quy định của Nhà nước, các Hiệu quan trường Hương học được cư trú ở ngay trong trường để làm việc giáo huấn.

Tại các huyện (vùng đồng bằng), các châu (miền núi) thì đặt chức Huấn đạo (Chánh cửu phẩm) làm nhiệm vụ quản lý công việc học tập, trực tiếp khảo hạch các sinh đồ và rèn tập giảng dạy học sinh.

44

Các chức Học quan nói chung đều do bộ Lại tuyển bổ. Riêng chức Huấn đạo, đối tượng để bổ chức vụ này, triều Lê -Trịnh vẫn theo lệ như thời Lê sơ, chủ yếu lấy từ những người đã đỗ thi Hương hoặc các Nho sinh trúng trường, riêng thành phần Nho sinh yêu cầu phải đủ 35 tuổi trở lên, có học hạnh không phạm lỗi. Tuy nhiên, trong nhiều năm (gồm 1721, 1740, 1742, 1760), triều Lê - Trịnh ban lệ cho phép dâng tiền, thóc để được bổ dụng chức quan, gồm cả chức Huấn đạo24. Quy định vào năm 1742 nêu rõ: những người chưa có chức phẩm mà cung tiến tiền thì được cho chức, trong đó dâng 250 quan cho chức Huấn đạo, Phó sở, Tri sự, dâng 300 quan cho các chức Điển Trần Đồng (1708-?): quê Đan Phượng (Hà Tây cũ), đỗ Tam giáp Tiến sĩ năm 1733. Trần Đồng, Trần Mô, Trần Danh Tiêu là học trò của Trần Hiền. Cả 4 thầy trò cùng thi khoa này, cùng đỗ đệ tam giáp Tiến sĩ. 22Theo Đại Nam nhất thống chí, tập 2 cho biết Nguyễn Duy Khoản người Thụy Nguyên, Thanh Hóa, đỗ Giải nguyên thi Hương khoa Bính Tý đời Cảnh Hưng (1756), thi Hội mấy khoa đều trúng tam trường, từng làm Tham nghị kiêm Đề học trấn Sơn Tây đương thời có ca dao khen ngợi. 23Địa chí Bắc Giang cho biết, dưới thời Lê Trung hưng ở Bắc Giang đã có hai trường phủ: phủ Lạng Giang và phủ Bắc Hà; có 5 trường huyện: Bảo Lộc, Phượng Nhãn, Yên Dũng, Yên Việt, Hiệp Hòa, đến nay không còn dấu tích. 24Theo Phan Huy Chú nhận xét thì việc nộp thóc ở nước ta thi hành một lần cuối nhà Trần, lại thi hành một lần ở năm Quang Thuận thứ 1 (1460), về sau thành lệ thông thường.

bạ, Tri bạ... Lệ định này cũng nêu rõ, viên quan Huấn đạo muốn được thăng lên chức cao hơn, chỉ cần nộp tiền, tùy mức độ nhiều ít sẽ được thăng bổ theo thứ bậc có khác nhau: nếu dâng 250 quan thì được thăng chức Tri huyện, Tri châu; dâng 400 quan thì thăng chức Tự thừa [24; tr.685].

- Học trò + Giám sinh Quốc Tử Giám Học sinh học tập tại trường Quốc Tử Giám gọi chung là “Giám sinh”. Thời Lê - Trịnh, chính sách tuyển chọn Giám sinh tham gia học tập ở nhà Quốc học về cơ bản vẫn tiếp nối như triều Lê sơ chủ yếu gồm các hạng sau:

Ân giám: chỉ hạng Giám sinh được vua ban ân điển cho vào học tại trường, gồm con

cháu hoàng tộc, người thuộc họ hàng nhà vua.

Ấm giám: là con em các quan lại, con em của các vị công hầu, khanh tướng nhờ được ấm thụ ân bổng của cha được đặc cách vào học trong trường để đợi bổ dụng chức quan. Dưới thời Lê -Trịnh chủ yếu chỉ những con của quan tứ phẩm trở lên mới được khai tên vào học.

Cử giám: gồm những người đã đỗ kì thi Hương nhưng chưa dự thi Hội hoặc chỉ đỗ từ 1 đến 3 trường của kì thi Hội, muốn xin vào học trường Quốc Tử Giám để chờ khoa thi Hội giành học vị Tiến sĩ.

Cống sinh: gồm những học trò có tư chất thông minh được gửi lên từ các địa phương, qua kì sát hạch của các quan trường Quốc Tử Giám, trúng tuyển được Nhà nước cấp lương bổng hàng tháng để học tập.

Dưới thời quân chủ, việc học tập được chia thành thứ bậc cụ thể: 7- 8 tuổi vào trường tiểu học, 15 tuổi vào trường đại học - chính là Quốc Tử Giám để ôn luyện Kinh truyện cùng các thể văn dành cho khoa cử để tham dự thi đại khoa nhận học vị Tiến sĩ. Mặc dù quy định 15 tuổi, nhưng do thành phần xuất thân Giám sinh đa dạng nên độ tuổi, thời hạn học tập tại trường của các hạng Giám sinh không giống nhau, như hạng Ấm giám quy định từ 9 đến 17 tuổi. Đối với hạng Ân giám, Giám sinh, Cử giám, Nhà nước không quy định cụ thể về độ tuổi và thời gian theo học. Tuy nhiên, qua các chỉ dụ của triều đình về tiêu chí bổ dụng chức quan cho mỗi hạng này khi đang theo học tại Quốc Tử Giám gồm: độ tuổi, trình độ trúng trường, thời hạn học tập..., yêu cầu phải là những Giám sinh có thời gian học tập lâu năm mới được bổ dụng. Chẳng hạn theo lệ bổ dụng chức quan năm 1674 thì: hạng Giám sinh đã làm việc ở Quốc Tử Giám 15 năm (còn gọi là hạng niên thân) đi thi nhiều lần, số vào đã đến “thập trường” (mười kỳ), nếu được các quan ở Quốc Tử Giám có tờ “di bảo” nghĩa là bảo đảm trong khi di chuyển thì được bổ dụng chức quan” [94; tr.43]. Từ thể lệ trên có thể thấy, trung bình độ tuổi của Giám sinh học tại trường là 15 tuổi trở lên, niên học quy định từ 3 -5 năm. Song do trình độ của từng người khác nhau nên độ tuổi, thời gian học sẽ kéo dài hơn.

45

+ Học trò trường quan phương

Các trường quan phương là nơi học tập cho hoàng thân quốc thích, con cháu các

quan viên, do đó Nhà nước cũng quy định cụ thể về đối tượng theo học, cụ thể là:

Sùng Văn quán: Chính quyền Lê -Trịnh vẫn tiếp tục kế thừa, duy trì quy định về thành phần học sinh theo học tại đây như lệ định năm 1477 của triều Lê sơ, gồm: các con và cháu trưởng của các tước công, hầu, bá; con trưởng của các viên quan văn võ có hàm từ nhị, tam phẩm xuống đến bát phẩm, có học hạnh, thông hiểu kinh sách và phải qua sát hạch, nếu đủ trình độ thì được vào Sùng Văn quán để học tập. Học sinh của trường được gọi là Nho sinh, nếu Nho sinh thi Hương đỗ Hương cống thì được bổ dụng chức quan cai trị cấp huyện như Hương cống. Nếu học sinh trúng 3 trường thi Hội được gọi là Nho sinh trúng thức, được đối xử ngang bằng như Giám sinh thi Hội trúng tam trường [53; tr.179].

Tú Lâm cục: Quy định việc tuyển chọn đối tượng học tập tại Tú Lâm cục của triều Lê -Trịnh không có sự khác biệt so với thời Lê sơ, vẫn gồm các con thứ của các quan văn, võ có hàm từ nhị phẩm trở xuống bát phẩm, cùng cháu của các quan viên có trật từ lục phẩm trở lên. Để được theo học, các đối tượng này phải hiểu nghĩa sách, phải qua sát hạch nếu đủ trình độ mới được nhận vào học, nếu không thông hiểu nghĩa sách thì được chọn để sung vào Vệ Vũ lâm. So với trường Sùng Văn quán, học sinh học tập tại Tú Lâm cục đông đảo hơn, gồm thêm cả các cháu trưởng của các quan.

Học sinh ở Tú Lâm cục cũng được gọi là Nho sinh, nếu Nho sinh đỗ kì thi Hương và đạt học vị Hương cống được bổ dụng chức quan cai trị từ cấp huyện. Nho sinh thi Hội trúng 1 hoặc 2 kì (trúng trường), trúng kì thứ ba gọi là Nho sinh trúng thức, được xếp và đối xử ngang với Giám sinh thi Hội trúng tam trường25.

+Học trò trường Hương học Học sinh trường Hương học gọi là Hiệu sinh hoặc Phủ sinh. Con em các gia đình lương thiện trong dân gian nếu đủ trình độ học lực, qua được các kỳ sát hạch đều được nhận vào học. Học sinh nào đạt kết quả xuất sắc (thường phải là hạng nhất, hạng nhì trong trường) sẽ được gửi lên Kinh đô học tại Quốc Tử Giám. Học sinh trường Hương học được triều đình cho miễn sung lính, miễn phu phen tạp dịch nhưng không được cấp tiền hỗ trợ việc học như các Giám sinh.

25Khoa thi Tiến sĩ năm Kỷ Hợi (1779) lấy đỗ 18 người, trong đó 5 người là Nho sinh trúng thức gồm Lê Huy Trâm 38 tuổi, Phạm Quý Thích, Nguyễn Đình Thiều, Nguyễn Đình Thạc, Phan Huy Ôn. Trong khoa thi năm Ất Tỵ (1785) lấy đỗ 5 Tiến sĩ thì có 2 người Nho sinh trúng thức đỗ là Nguyễn Bá Lan, Nguyễn Danh Hiển.

46

2.2.2.3 Chương trình học tập - Sách học Mục tiêu của nền giáo dục Nho học thời quân chủ nói chung, thế kỷ XVII, XVIII nói riêng là dạy và học để trở thành con người theo lý tưởng Nho giáo. Lý tưởng đó được gói gọn trong bốn chữ “tu, tề, trị, bình” tức tu thân (rèn luyện bản thân) để có thể tề gia (quản lý gia đình được tốt), từ đó tiến lên trị quốc (cai trị đất nước) rồi bình thiên

hạ. Muốn thực hiện được lý tưởng đó, các sĩ tử phải trải qua một quá trình học tập, rèn luyện văn hay, chữ tốt, trình bày những tư tưởng Nho giáo thông qua nghiên cứu các bộ sách kinh điển của Nho gia.

Trong hai thế kỷ XVII, XVIII nội dung chương trình dạy học được chia theo lứa tuổi khác nhau. Ngay khi mới vào trường học (trẻ theo học các lớp thầy đồ, đến thế kỷ XVIII gồm cả trường dân lập), trẻ thường từ 7 đến 8, 9 tuổi được học các sách có các câu ngắn, có vần, có nghĩa để dễ thuộc, dễ nhớ do các soạn giả Việt Nam biên soạn như: Nhất thiên tự, Tam thiên tự, Ngũ thiên tự...; và sách do người Trung Quốc soạn như: Hiếu kinh, Minh tâm Bảo giám, Minh đạo gia huấn, Tam tự kinh... Các sách này giúp người học hiểu được lễ nghĩa biết qua sử sách để noi những gương tốt về học hành và tu tập tính tình.

Ở trình độ cao hơn, học sinh theo học trường Hương học hoặc vào Quốc Tử Giám hoặc theo trường tư của các danh sĩ. Người học được dạy các sách của Trung Hoa gồm Kinh truyện (Tứ Thư, Ngũ Kinh), Cổ văn, thơ Đường nhằm giúp họ hiểu thấu nghĩa lý của đạo Nho để trở nên người hiểu biết, mong sau này giúp ích cho đời bằng nghiệp khoa cử26. Đồng thời, học trò còn được học các bộ sử của Trung Quốc (Bắc sử) chủ yếu là Nhị thập tứ sử27.

47

Trường học thời kỳ này (gồm cả trường công, trường tư) cũng từng bước chú ý đến việc dùng sách do người Việt Nam biên soạn để dạy học, chủ yếu là bản chú giải các bản tóm lược hoặc chú giải thêm về các bộ Tứ thư hoặc Ngũ kinh của Trung Quốc, gồm các bộ: Minh đạo và Vô dật của Hồ Quý Ly (đã mất), Luận ngữ ngu án, Trung dung diễn ca, Dịch quái diễn ca của Phạm Nguyễn Du, Tứ thư ước giải của Lê Quý Đôn,... cùng những tập tóm tắt lịch sử như Toàn việt sử ước, Việt sử lược, Việt sử lược tập... Việc dạy học các sách chú giải sẽ giúp cho học trò dễ đọc và dễ thuộc hơn vì “văn tự đã được chuyển từ chữ Hán thành chữ Nôm, ngôn ngữ kinh điển được phiên dịch từ tiếng Trung Quốc sang tiếng Việt, từ đó độc giả Việt Nam có thể tiếp nhận trực tiếp ý nghĩa của kinh điển mà không cần phải thông qua một nhịp trung chuyển nào về ngôn ngữ và tư duy” [31; tr.37-38]. Học trò còn được học một số sách về luân lý, sách bộ môn cơ bản về toán học, sách gương sáng về học tập và đỗ đạt qua khoa cử hay đức 26 Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Qúy Đôn đã thống kê các bộ sách, gồm: Tứ thư: (Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung dung, Đại học), Ngũ kinh (Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu), Ngọc đường văn phạm, Văn hiến thông khảo (sách đời Nguyên gồm 348 quyển), Văn tuyển (sách đời Lương gồm 602 quyển), Cương mục (sách đời Tống gồm 592 quyển), Tính lý đại toàn (sách đời Minh gồm 70 quyển), Thiếu vi thông giám (sách đời Tống, tiết yếu bộ “Tư trị thông giám” của Tư Mã Quang, 20 quyển), Sách học đề cương (Sách thời Nguyên), Nốc trai thập khoa sách lược (sách đời Minh), Tả Thị Xuân Thu, Chu lễ quảng nghĩa (sách thời Thanh gồm 66 quyển)…Tức là ngoài Kinh truyện (Tứ thư và Ngũ kinh) học trò trường Giám còn phải học các bộ sách cổ văn bao gồm các bài văn thơ nổi tiếng từ thời tiên Tần, Chư Tử đến đời Tống, Minh, Thanh. 27 Gồm các sách: Sử ký của Tư Mã Thiên, Tiền Hán thư của Ban Cố, Hậu Hán thư của Phạm Việp, Tam quốc chí của Trần Thọ, Tấn thư của Phòng Huyền Linh (Cb), Tống thư (Thẩm Ước), Nam Tề thư (Tiêu Tử Hiển), Lương thư (Diêu Tư Liêm), Trần thư (Diêu Tư Liêm), Ngụy thư (Ngụy Thu), Bắc Tề thư (Lý Bách Dược), Chu thư (Lệnh Hồ Đức Phân), Tùy thư (Ngụy Trưng), Nam sử, Bắc sử (Lý Diên Thọ), Cựu Đường thư (Lưu Hú -Cb), Tân Đường thư (Âu Dương Tu, Tống Kỳ), Cựu Ngũ Đại sử (Tiết Cư Chính), Tân Ngũ Đại sử (Âu Dương Tu), Tống sử, Liêu sử, Kim sử (Thoát Thoát -Cb), Nguyên sử (Tống Liêm -Cb), Minh sử (Trương Đình Ngọc-Cb).

hạnh để giúp cho Nho sĩ noi theo như: Huấn đồng thi tập của Phùng Khắc Khoan, Thuật cổ quy huấn lục gồm 8 thiên luân lý của Đặng Đình Tướng. Sách cơ bản gồm các bộ: Đại thành toán pháp của Lương Thế Vinh (đỗ Trạng nguyên năm 1463 thời Lê), Lập thành toán pháp của Vũ Hữu (đỗ Hoàng giáp năm 1463), Chỉ minh toán pháp của Phan Huy Ôn (đỗ Tiến sĩ năm 1779)... Sách về tấm gương sáng về học tập, thi cử, đức hạnh gồm các truyện ký như: Nhị thập tứ hiếu của Lý Văn Phức, Khoa bảng tiêu kì của Phan Huy Ôn, Đại Việt lịch đại Tiến sĩ khoa thực lục, Lịch đại đăng khoa lục, Đăng khoa lục sưu giảng...

Cũng như thời Lê sơ, Mạc, sách vở dùng trong dạy học ở trường công dưới triều Lê -Trịnh chủ yếu do Nhà nước in ấn và cấp phát. Nhưng ở trường tư, trường dân lập hoặc lớp học các thầy đồ không được hưởng ân điển này. Mặc dù chính sử không ghi rõ sách học của trường tư được lấy từ đâu, nhưng qua trường hợp của Phạm Nguyễn Du khi mở lớp dạy học đồng thời tự biên soạn ra giáo trình giảng dạy cho học trò là bộ “Luận ngữ ngu án” phân giải rõ ràng, chia ra bốn mục Thánh, Học, Sĩ, Chánh phân minh. Hoặc trường học Trường Lưu học hiệu của Nguyễn Huy Oánh đã biên soạn rất nhiều sách vở còn lưu giữ tại thư viện của trường28, phần nào cho thấy đối với trường tư của các danh sĩ chủ yếu họ giảng dạy theo sách tự biên soạn để rèn tập sĩ tử. Còn đối với lớp thầy đồ, trường dân lập thì sách vở thường là tự sao biên chép biên soạn [82; tr.41]. - Cách thức học tập và chế độ khảo hạch

Trong hai thế kỷ XVII, XVIII cách thức học tập về cơ bản vẫn theo như thời kỳ trước đó, nghĩa là tùy theo lứa tuổi và trình độ của học trò mà có phương pháp học tập phù hợp. Đối với bậc tiểu học, cách học chủ yếu nhất là ghi nhớ, trong đó thầy đọc trước, trò nhắc lại; thầy kể nghĩa trước, trò bắt chước nhắc lại sau. Về nhà, học trò phải học thuộc lòng để hôm sau đọc lại, thuộc làu sẽ được điểm cao (ưu, bình), lúng túng thì điểm trung bình (thứ), không thuộc sẽ bị thầy phê điểm kém (liệt). Lười học không thuộc bài sẽ bị xử phạt bằng roi mây, quỳ góc nhà.

28 Hiện nay tại nhà thờ họ Nguyễn Huy Tự ở xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh còn lưu giữ 379 bản khắc mộc bản.

48

Đối với các trường tư, chương trình, phương pháp giảng dạy diễn ra như thế nào hiện rất ít tư liệu để kê cứu. Tuy nhiên, từ việc tìm hiểu ngôi trường “Trường Lưu học hiệu” của Nguyễn Huy Oánh, tác giả Nguyễn Hữu Mùi cho biết ngôi trường tư này đã đề ra phương pháp giảng dạy “mang tính khoa học và thực tiễn cao”, sáng tạo bên cạnh việc vẫn duy trì thể lệ chung. Chẳng hạn khi trẻ mới đi học phải có nghi thức nhập học, phải có lễ vật dâng thầy trong ngày nhập học. Tính sáng tạo, khoa học và thực tiễn trong phương pháp giảng dạy của trường học Nguyễn Huy Oánh được thể hiện ở ba điểm: thứ nhất là yêu cầu đối với học sinh khi mới học viết chữ Hán, phải: “viết chữ không được tiếc giấy, cần cho viết ngay bằng chữ viết to, nếu để viết chữ

nhỏ sẽ gò bó khuỷu tay”; thứ hai trong cách giảng dạy văn chương, cần chú ý ba điều dễ: “một là dễ nhận biết sự việc; hai là dễ nhận ra chữ viết; ba là dễ đọc”. Thứ ba là trong cách chấm văn cho học trò không nên sửa chữa tất cả, mà “chỉ cần tùy theo ý văn của trẻ nhỏ mà sửa chữa thêm bớt” [118; tr.27]. Hoặc thông qua bản tài liệu Đan Loan khoán lệ29, tác giả Quách Thu Hiền trong bài viết “Tư học Việt Nam cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII: trường hợp Vũ Thạnh và học đường Hào Nam” cho biết trong trường học Hào Nam của Vũ Thạnh nội dung dạy học đa dạng, gồm giáo dục Nho học (học các sách Kinh điển, luyện các thể văn thi cử) và “học Cửu kinh, binh thư và các phương thuật khác” [71; tr.123], nghĩa là thầy Vũ Thạnh dạy cho học trò gồm cả kiến thức văn học và binh nghiệp, cho thấy ông là bậc Nho sĩ uyên thâm cả văn và võ.

Đối với các lớp học thầy đồ: đây đều là những lớp học do cha mẹ học sinh đứng ra mở, mời các thầy ở trong làng hoặc các địa phương khác đến dạy học. Hoặc do các thầy tự đứng ra mở thu hút học sinh đến học. Mặc dù tư liệu chính sử không ghi chép, hoặc rất ít công trình nghiên cứu đề cập đến quy mô, chương trình giảng dạy của các lớp thầy đồ xưa, trong đó có thế kỷ XVII, XVIII, nhưng thông qua khảo sát về lớp học thầy đồ ở một làng quê ven đồng bằng châu thổ Hồng vào cuối triều Nguyễn của tác giả Yumio Sakurai phần nào cho chúng ta cái nhìn chung về hoạt động giáo dục của loại hình trường học này. Tác giả cho biết: quy mô của các trường thầy đồ rất khác nhau, có trường 20 học sinh; hoặc chỉ có 5-7 học sinh. Nhìn chung các ông đồ không thu học phí; hoặc học sinh trả ơn các thầy bằng cách giúp họ một số việc riêng như giúp thầy sửa mái nhà. Về sách học chủ yếu học các sách Hán cổ như Tam Tự kinh, Luận ngữ, Trung dung, Đại học, Kinh Thi và Kinh thư30 [254; tr.423].

Các lớp thầy đồ, do học trò có nhiều độ tuổi, nhiều trình độ khác nhau, do vậy những người đã học lâu, học khá sẽ phụ giúp thầy giáo dạy người kém, người mới học. Đối với lớp khai tâm, thầy giáo dạy cho học trò biết đọc, biết viết, biết một số kiến thức văn hóa sơ đẳng, hiểu biết sơ bộ đạo thánh hiền để sống cuộc sống lương thiện của người có ít nhiều học vấn ở nông thôn [26; tr.133]. Ở lớp cao hơn, tùy thuộc trình độ của thầy giáo có thể dạy cho học trò đủ kiến thức, kỹ năng để đi thi khảo hạch ở huyện, trấn thậm chí đi thi Hương.

49

Ở bậc đại học, cách học có phát huy tính chủ động của người học hơn, học sinh không phải đi học thường xuyên hàng ngày mà định lệ mỗi tuần vài ba buổi. Trong thế kỷ XVII, XVIII, học sinh Quốc Tử Giám và Hương học có cách thức học tập cơ bản giống nhau, gồm hai phần giảng tập và tập làm văn, riêng Giám sinh do trình độ cao hơn nên có thêm buổi bình văn. Theo quy định, mỗi tháng hai lần, các Học quan trường Quốc Tử Giám và trường Hương học tiến hành giảng Kinh truyện trên lớp, thời 29 Tác giả là Vũ Khâm Lân biên soạn, ký hiệu VHv.2718 30 Dẫn từ bài viết: “Trường thầy đồ trong lịch sử của một làng quê vùng châu thổ sông Hồng” trong Việt Nam học: Kỷ yếu hội thảo Quốc tế lần thứ 2 của Yumio Sakurai. Tác giả đã dựa vào kết quả phỏng vấn của những người trong làng sinh sống và được đi học trước năm 1954 để đưa ra nhận xét, kết luận.

gian còn lại học trò phải tự học, tự nghiên cứu, tập làm các bài văn sách. Đồng thời hàng tháng, học trò phải trải qua 1 kỳ Tiểu tập (thi các học trò) vào hai ngày Sóc, Vọng của tháng, một kỳ Đại tập vào 4 tháng trọng của năm. Thầy giáo chấm bài, phân loại kết quả thành 4 loại: ưu, bình, thứ, liệt. Loại thứ chia làm ba loại: thứ mác là bài có đoạn hay, thứ cộc thuộc loại xoàng, bài kém bị phê liệt. Những bài thật hay của các Giám sinh kèm theo những lời bình của thầy được chọn đọc trong những buổi bình văn vào hai ngày Sóc, Vọng tại Quốc Tử Giám. Buổi bình văn được tổ chức rất trọng thể, có mời các quan chức trong triều cùng các nhà khoa bảng đến dự. Riêng trường Hương học, theo quy định năm 1721, học sinh trúng tám kỳ thi khảo gọi là Sinh đồ, được miễn các kì thi khảo hạch hàng năm, hạng Đồng sinh nếu đỗ thì được dự thi Hương nhưng phải qua kì sát hạch của quan huyện [94; tr.298].

Để phục vụ cho việc thi cử, học trò thường xuyên được rèn luyện các thể văn dùng trong thi cử như: Kinh nghĩa, Chế, Chiếu, Biểu31 cùng thơ, phú, văn sách và một số các thể loại khác như câu đối, văn tế.

31Kinh nghĩa: là thể văn giải thích một hoặc nhiều câu trong sách Tứ thư, Ngũ kinh; Chế: là lời vua phong thưởng cho công thần; Chiếu: là lời vua truyền về một việc quan trọng của triều đình; Biểu: lời thần dân, quan chức chúc tụng hoặc tạ ơn vua. 32 Ngô Thì Nhậm trong tờ khải Bàn về giáo dục cũng đưa ra kiến nghị cần thay đổi chương trình, nội quy trường học, cách thức đánh giá khen thưởng, xử phạt học trò của thầy: “Về thơ, phú và tứ lục phải thực thi triệt để phép học của triều Trần và thời Quốc sơ. Còn về Kinh nghĩa thì nên phỏng theo lối văn bát cổ ở trong nước. Về đối sách thi nên khảo xét chính trị xưa nay, thông hiểu sự việc đương thời, cốt sao cho chuẩn xác” [224; tr.559].

50

Sang thế kỷ XVIII, giáo dục Nho học bộc lộ một số hạn chế về nội dung và cách thức học tập khi người đi học chủ yếu theo lối học thuộc lòng “người đọc sách Kinh (Ngũ Kinh, Tứ Thư) chỉ sưu tầm tiểu chú mà thường bỏ sót chính văn, văn thể không trong sáng, nghĩa lý không được sâu xa như thể văn đời Hồng Đức. Nhất là gần cuối thế kỷ XVIII, giáo dục Đại Việt càng trở nên bất cập khi trường học chỉ “chăm dạy về văn học mà không biết dạy về đức hạnh”, “một đất nước không hiếm những người văn hay, chữ tốt, tài thức cao siêu, thông thạo việc đời, hiểu biết lòng người” nhưng do không có đức hạnh nên “lấy việc kiêu ngạo với bề trên cho là giỏi, nhờn với người lớn cho là hay, không thích sửa mình mà thích bàn việc nước, không cầu thực học, chỉ cầu hư danh”[224; tr.550]. Trước thực trạng đó, các chúa Trịnh Giang, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm cùng một số bậc trí thức đương thời như Bùi Sĩ Tiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm đã đưa ra kiến nghị nhằm chấn chỉnh lại chương trình học tập cũng như học hạnh của kẻ sĩ để khích lệ người hiền tài như yêu cầu người học phải tôn sùng các sách kinh điển, cấm các sách Chư Tử, nghiêm cấm người học mua sách từ Trung Quốc [38; tr.262]. Năm 1759 chúa Trịnh Doanh ra chỉ dụ yêu cầu các Học quan trường Quốc Tử Giám, Giáo thụ cấp phủ khi giảng dạy học trò phải chú ý đến nội dung bài học nhằm nắm bắt được ý nghĩa sâu sắc, tinh vi của đạo học: “Về ý nghĩa thì xét đến chỗ sâu sắc tinh vi, văn chương thì cốt cho thuần nhã... Phải chuộng đôn hậu mà ghét phù phiếm, đem đạo nghĩa của thánh hiền làm nền tảng cho Nhà nước [38; tr.262]32.

2.2.2.4 Nội quy trường học Triều đình Lê - Trịnh vẫn duy trì học quy nghiêm ngặt như triều Lê sơ, triều Mạc. Nhà nước yêu cầu Học quan phải quản lý chặt chẽ thời khắc học tập, thực hiện tốt chức trách của người thầy. Chỉ dụ của chúa Trịnh Tạc năm 1683 nêu rõ: “Khi giảng tập phải giữ đúng thời khắc, chăn nuôi dân, chớ làm điều chính sự bạo ngược” [94; tr.81]. Học trò chịu sự quản lý trực tiếp của các Học quan, đồng thời phải chấp hành đầy đủ, nghiêm túc “học quy” về thời khắc, thái độ khi học tập: “Các Giám sinh, Sinh đồ, Nho sinh cứ đến ngày mùng một, ngày rằm hàng tháng đều phải mặc áo mũ điểm mục đúng như phép đã định. Phải tuân theo học quy, tập học nghiệp cho được thành tài giúp ích cho nước” [104; tr.60]. Ngoài thời gian học tập trên lớp, học trò phải tự học, tự nghiên cứu, tập làm các bài văn sách. Riêng với các Giám sinh, Nhà nước yêu cầu chặt chẽ hơn về chấp hành nội quy trường học, theo đó họ chỉ được ở trong ký túc xá, ngoài giờ học họ chỉ được ăn ở và sinh hoạt tại những nơi đã được quy định trong trường, không được rong chơi bỏ trễ việc học, không được tụ tập uống rượu, đánh bạc, gây huyên náo ở trong trường, nếu vi phạm sẽ bị đuổi về không cho vào học. Trong quan hệ với thầy giáo, bạn bè phải lấy lễ đối xử với nhau, kính trọng người lớn, khi tiến lui đi đứng nói năng đều phải theo đúng lễ nghĩa, hợp pháp độ [38; tr.447]. Tuy nhiên, càng gần về cuối thế kỷ XVIII khi tình hình giáo dục Nho học Đàng Ngoài bộc lộ nhiều bất cập, khi nề nếp giảng tập của thầy và trò trở nên sao nhãng, không quy củ như trước nữa: “Học quan ở Quốc Tử Giám tuy có môn sinh ở Lục đường, song ngày tháng học tập, bất quá để giục những học trò cắp sách ở kinh, phố vào trường theo thầy học, chương cú hiểu qua loa… còn học trò ở Quán cục, giỏi hay không giỏi, học trò ở Lục đường chơi hay chăm chỉ đều không tính đến” [224; tr.557]. Để giải quyết thực trạng này, chúa Trịnh Sâm đã yêu cầu cần quản lý chặt chẽ hơn nề nếp học tập để chấn chỉnh nền văn phong khi vào năm 1779, chúa Trịnh Sâm đã tự soạn ra bản “học quy” để dùng ở trường Quốc học và Hương học. Bản học quy nêu rõ “trước đức hạnh sau nghệ văn”, đồng thời cho lập sổ học tịch ở mỗi trường để theo dõi việc học tập hàng ngày của học trò. Căn cứ vào sổ học tịch, cuối năm xét ai chịu khó học hành, có tài phẩm thì biểu dương, còn người học kém thì phải sửa mình mà cố gắng học hành [12; tr.594 -595].

51

Cấp làng xã cũng có những quy định riêng ghi trong tục lệ nhằm đảm bảo an ninh cho con em trong làng học tập như phải đảm bảo yên tĩnh xung quanh trường, nghiêm cấm các hành vi nấu rượu, cãi nhau ở bốn phía trường học, nhất là nghiêm cấm không được có hành vi trêu ghẹo phụ nữ, gây huyên náo ồn ào; trước cửa trường học không được buộc trâu bò, không được thổi sáo. Để hướng cho học trò chuyên tâm học tập, tục lệ nhiều làng còn quy định nghiêm cấm các hành vi cờ bạc. Bản Khoán hội của làng Quỳnh Đôi nêu rõ: “Học trò cốt giữ nết na làm đầu. Gần đây chỉ lo chuyên tập văn bài mà không lo tu luyện tính nết. Làng bàn việc gì thì tụ họp nhau dèm pha phỉ

báng này nọ, viết bậy bạ vào giấy, tệ ấy phải bỏ, từ nay ai còn thói quen ấy mà có người phát giác thì làng bắt 1 lợn, giá 3 quan” [77; tr.109]. Trong bản Danh hương khoán lệ của làng Mộ Trạch (lập năm 1688) quy định phạt lợn trị giá 2 quan tiền đối với hành vi tham gia đánh bạc của các Nho sinh trúng trường, Giám sinh, Nho sinh, Sinh đồ. Đến năm 1771 giá trị tiền phạt tăng lên 20 quan tiền sử” [197; tr.465].

2.2.2.5 Chế độ đãi ngộ đối với thầy và trò Để khuyến khích giáo dục Nho học, triều Lê -Trịnh đã thực hiện nhiều chế độ đãi ngộ cho trường học, thầy giáo và học sinh. Đối với trường công, chính quyền thực hiện việc chu cấp chi phí như quy định năm 1723. Riêng trường làng, tuy không hỗ trợ kinh phí để xây dựng trường, không chi trả tiền lương cho thầy giáo, nhưng Nhà nước lại giữ vai trò quản lý thông qua việc thực hiện chế độ “học điền”. Mục đích việc đặt học điền là nhằm “khuyến khích hậu học”, “dẫn dụ hậu học, làm chấn tác văn phong”. Ruộng học điền này được lấy từ hai nguồn: trích từ ruộng công của làng xã và huy động ruộng tư trong nhân dân. Văn bia “Học điền bi ký” ở xã Phù Chính, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc ghi: “Hạn định về số ruộng học, mỗi năm mỗi mẫu nộp 500 đấu thóc. Thuế công về số ruộng học do bản xã lãnh chịu” [200; tr.30].

33Tiền gián (còn gọi sử tiền) cùng với Tiền quý (cổ tiền) là các đơn vị tiền cổ được dùng chủ yếu dưới thời quân chủ Việt Nam. “Tiền quý” có giá trị lớn hơn “tiền gián”: 1 tiền gián = 36 đồng, 1 tiền quý = 60 đồng. 34 Sách Lịch triều hiến chương loại chí cho biết: khi Phạm Công Trứ xin về hưu, ông được chúa Trịnh viết hai câu đối thêu vào lá cờ khen ngợi ông, trong đó có câu: Thiên hạ đạt tôn tam, vĩ tích gia ngôn, triều đình chuyên vọng Thượng thư ấn chưởng lục, thùy thân tấn hốt, cửu điện an Nghĩa là: Gồm cả ba thứ tôn quý của thiên hạ (Tước, Tuổi, Đức), công to nói hay, triều đình tôn trọng Làm Thượng thư giữ sáu ấn, rủ đai cầm hốt, chín miếu được an; Ông về hưu có thơ lưu giản, các triều thần gồm có hơn 50 người ở các phủ Bộ, Tư, Khoa, Đạo đều họa lại và đều viết vào lụa, lại đặt rượu tiễn chân ở bờ sông (tức giang đình). 35 Theo quy định năm 1732: quan Tế tửu mất được 180 quan tiền gián, Tư nghiệp mất được140 quan tiền gián [24; tr. 666].

52

Đối với các Học quan: triều Lê -Trịnh đã dành nhiều ưu đãi cho các Học quan về triều phục, lương bổng, phong tước, truy phong ấm thụ. Theo quy định Nhà nước, các Học quan đều được triều đình cấp cho một bộ triều phục gồm: mũ, áo, Bổ tử, đai, hia, bí tất, ô dù với màu sắc và kiểu cách khác nhau phụ thuộc phẩm trật của từng người. Đồng thời, họ được Nhà nước trả lương thông qua chế độ ban cấp dân lộc, tiền gạo và người theo hầu. Theo quy định năm 1720, quan Tế tửu được cấp dân lộc 1 xã, tiền gián 150 quan, người theo hầu 15 người; quan Tư nghiệp được dân lộc 1 xã, tiền gián 100 quan, người theo hầu 10 người [24; tr.645-648]33. Khi về trí sĩ (về hưu), họ được ghi công trạng, ban tặng vật chất hoặc tinh thần như ban biển ngạch khen ngợi, tặng thơ phú, mở yến tiệc tiễn về quê34. Thậm chí khi mất, họ còn được Nhà nước ban cho một số tiền “tự sự” (tiền thờ cúng) với mức độ khác nhau35. Con cháu Học quan, nhất là Học quan trường Quốc Tử Giám cũng được triều đình ban cho nhiều ân điển như miễn sưu dịch, phong thưởng chức tước (ấm bổ). Theo quy định của Nhà nước năm 1677

thì: “Hàng quan văn: Đại học sĩ và Tế tửu thì 5 đời con cháu đều được làm hạng quan viên tử tôn. Các quan chức Học sĩ, Thị giảng, Tư nghiệp, Thị thư, Hiệu thư thì 4 đời con cháu đều được làm hạng quan viên tử tôn” [94; tr.65].

Đối với học trò: chính quyền Lê -Trịnh đã thực hiện chế độ miễn tuyển lính cùng phu phen, tạp dịch cho học trò các trường đang tham gia học tập. Đặc biệt, nếu người học thi đỗ kì thi ở phủ thì được miễn lao dịch và được bổ vào Quốc Tử Giám (song trong quá trình học tập mà không có sự tiến bộ thì sẽ bị mất quyền ưu tiên đó). Học trò còn được Nhà nước chu cấp sách vở, bút mực bao gồm các bộ Tứ thư, Ngũ Kinh và các bộ Bắc sử, Nam sử để học tập, nhưng chủ yếu học sinh ở các trường công mới nhận được ân điển này. Họ còn được cấp phát một bộ lễ phục, dù là học sinh trường Quốc Tử Giám hay trường Hương học đều được cấp mũ ô sa đơn, áo thanh cát có lót, không có lá phủ sau, có dây thao đơn [24; tr.718].

Triều Lê -Trịnh có lẽ vẫn theo lệ thời Lê sơ khi chia Giám sinh thành ba xá để cấp học bổng: Hạ xá (trúng 1 kì thi Hội), Trung xá (trúng 2 kì thi Hội) và Thượng xá (trúng 3 kì thi Hội). Tuy nhiên mỗi xá có bao nhiêu người, mức trợ cấp mỗi tháng bao nhiêu hiện chưa có tư liệu để kê cứu36. Ngoài được cấp học bổng, các Giám sinh còn được xét tuyển ra làm việc khi đang theo học nếu triều đình cần người và họ có nguyện vọng. Để được bổ dụng, họ phải trải qua kì khảo hạch tại trường dưới sự giám sát của các Học quan. Lệ khảo hạch học trò năm 1721 quy định rõ: “mỗi tháng có một kỳ tiểu tập, việc này do Giáo thụ và Học chính phụ trách; bốn tháng trọng có một kỳ đại tập (thi khảo học trò và Hương cống) do Giám quan phụ trách. Nếu ai đỗ cả 4 khóa thì do quan Giám bảo cử, bộ Lại lần lượt thuyên bổ” [12; tr.503].

Rõ ràng, với chức năng là cơ quan đào tạo nguồn trí thức Nho học cao cấp nên Nhà

nước đã dành nhiều sự ưu ái hơn đến các Học quan, Giám sinh trường Quốc học.

36 Năm 1442, vua Lê Nhân Tông phân chia hạng Giám sinh làm ba xá, mỗi xá 100 người, cấp 9 tiền một tháng. Đến năm 1484, vua Lê Thánh Tông định lại mức học bổng thành 3 loại như sau: Thượng xá sinh được tăng 1 tiền cho đủ 1 quan; Trung xá sinh được 9 tiền như trước; Hạ xá sinh bớt đi 1 tiền còn 8 tiền.

53

2.3 Giáo dục Nho học Đàng Trong 2.3.1 Chúa Nguyễn đối với giáo dục Nho học Vào năm 1558, Nguyễn Hoàng (1524 -1613) cùng những “người bộ khúc đồng hương ở Tống Sơn và những người nghĩa dũng xứ Thanh Hoa” đi nhậm chức Trấn thủ vùng Thuận Hóa. Khi Nguyễn Hoàng mới vào tiếp quản, nơi đây còn hoang vu, thành phần dân cư phức tạp, xã hội còn sơ khai về học vấn, yếu tố Nho học mờ nhạt, Phật giáo mang đậm yếu tố dân gian. Nhân dân phải lo tập trung sức lực vào việc khai phá đất đai, thành lập làng xóm, xây dựng cuộc sống mới mà chưa chú ý đến việc học hành. Do vậy, họ Nguyễn chưa có điều kiện để xây dựng một xã hội theo ý thức hệ Nho giáo như Đàng Ngoài, chủ yếu dựa vào Phật giáo để “thu phục nhân tâm”. Chúa Nguyễn đã tìm thấy ở Phật giáo Đại Thừa những điểm thích hợp cho sự cai trị của mình, khi Phật giáo giúp con người: mở rộng nhãn giới đến những chân trời rộng lớn,

giúp con người bớt nhọc nhằn,... Trong khi Nho giáo duy trì một hệ thống “Tam cương, Ngũ thường” khắc nghiệt..., thì Phật và Đạo lại cởi trói cho con người, để cá tính, sở thích và cả bản năng con người được tự do trỗi dậy [81; tr.22].

Cũng trong quá trình tiếp quản, xác lập quyền cai trị lãnh thổ Đàng Trong, các chúa Nguyễn cùng cư dân Đại Việt đã tiếp xúc với một không gian văn hóa mới mang ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ: văn hóa Chămpa, Khơme và các dân tộc bản địa. Các chúa Nguyễn nhanh chóng thích nghi, tiếp nhận những yếu tố văn hóa của các dân tộc này, lựa chọn những giá trị văn hóa phù hợp với mình, góp phần hình thành nên tính cách cởi mở, phóng khoáng của cư dân Đàng Trong: “Người dân ở đây siêng năng, ưa làm lụng, tránh sự ăn không ngồi rồi... Họ đối với người nước ngoài rất hòa nhã, ân cần” [1; tr.53]. Chúa Nguyễn còn thi hành chính sách cho người nước ngoài được định cư, lập phố trên đất người Kinh như cho người Nhật lập phố ở Hội An, người Hoa lập phố ở Thanh Hà, Gia Định, Mĩ Tho...tạo thành một tổ chức xã hội gọi là Minh Hương37. Chính sách này không chỉ tạo nên những dấu ấn văn hóa Trung Hoa ở các phương diện ngôn ngữ, văn học, phong tục tập quán, kiến trúc..., mà ít nhiều ảnh hưởng đến đặc điểm giáo dục, khoa cử vùng đất này.

37 Minh Hương: là tên gọi của một hình thức tổ chức xã hội đầu tiên của người Hoa ở miền Nam. Trong đó, làng Minh Hương Chợ Lớn là một trong những làng được hình thành sớm nhất từ năm 1698. 38 Thông qua việc thực hiện các chính sách quan trọng như di dân, khai khẩn đất hoang, lập dinh định phủ về phía Nam, quan hệ hôn nhân, các chúa Nguyễn từng bước xác lập quyền cai trị lên vùng đất của người Chămpa và Chân Lạp. Năm 1611, Nguyễn Hoàng cho quân vượt đèo Cù Mông chiếm đất Chămpa lập phủ Phú Yên. Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần cử quân phòng giữ phía nam, chiếm lại Phú Yên, chiếm hẳn phần đất từ sông Đà Rằng đến Phan Rang (Khánh Hòa ngày nay) lập hai phủ là: Thái Khang (nay là Ninh Hòa) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh). Năm 1693, trước việc vua Chămpa cho đắp lũy trên sông Phan Rang và đem quân lấn đất, cướp giết dân cư ở phủ Diên Khánh, chúa Nguyễn Phúc Chu đã sai Nguyễn Hữu Cảnh tổ chức cuộc tấn công quy mô lớn, phá tan hệ thống phòng thủ này. Toàn lãnh thổ của Chămpa trở thành trấn Thuận Thành - một địa phương cấp trấn của Đàng Trong thuộc quyền cai quản của chúa Nguyễn. Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên dẫn đầu cùng 3.000 lính nhà Minh đến định cư tại vùng đất phía Nam nơi chúa vừa tạo được ảnh hưởng. Kết quả là đến năm 1698 hai dinh Trấn Biên (Biên Hòa) và Phiên Trấn (Gia Định) được thành lập. Năm 1708, Mạc Cửu đem vùng đất Hà Tiên do ông cai quản về với chúa Nguyễn đã xác nhận đến đầu thế kỷ XVIII, quyền cai trị của họ Nguyễn đã vươn tới tận vịnh Xiêm La. Sau khi Mạc Cửu chết, con trai là Mạc Thiên Tứ được chúa Nguyễn phong làm Đô đốc trấn Hà Tiên. Ông được chúa Nguyễn cho phép đúc tiền, thiết lập một nền hành chính dân sự và quân sự, thành lập quân đội, xây thành, mở đường mở chợ, nhiều ghe thuyền tới đây buôn bán. Vùng đất này mỗi ngày một thịnh vượng. Đến giữa thế kỷ XVIII, chúa Nguyễn đã làm chủ được một vùng đất rộng lớn kéo dài đến tận mũi Cà Mau. Quá trình này đồng thời đặt ra cho các chúa Nguyễn phải đào tạo đội ngũ quan lại tham gia quản lý các vùng đất mới.

54

Tuy nhiên, cùng với quá trình củng cố chính quyền, mở rộng phạm vi lãnh thổ xuống phía Nam, các chúa Nguyễn từng bước chú trọng đến Nho giáo38. Bởi để xây dựng cơ nghiệp, các chúa Nguyễn không thể rời bỏ các nguyên tắc Khổng học trong việc gây dựng một đội ngũ quan lại có học vấn để xây dựng chế độ quan liêu. Các chế định của Nho giáo bước đầu được chúa Nguyễn thực hiện trong tổ chức guồng máy chính trị, biểu hiện rõ nhất trong cách dùng người của chúa Nguyễn. Buổi đầu ở vùng Thuận Quảng, do kẻ sĩ Nho học còn ít, nên chúa Nguyễn rất chú trọng nhân tài Nho học xuất thân từ Đàng Ngoài. Nhiều Nho sĩ từ đất Bắc được chúa Nguyễn trọng dụng như Nguyễn Ư Dĩ, Tống Phước Trị, Mạc Cảnh Huống, Nguyễn Phúc Kiều, Nguyễn

Đình Hùng, Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến... Nhưng rồi thế hệ ấy qua đi, đòi hỏi các chúa kế tiếp không thể không đào tạo nhân tài tại chỗ để đáp ứng cho bộ máy chính quyền [206; tr.28]. Trong tổ chức bộ máy, chúa Nguyễn cho đặt chế độ Tam ty giúp vua cai trị đất nước, đặt thuế khóa, định nghi lễ trong gia đình, hôn nhân, làng xã và triều chính, định tài chính (như phát hành tiền đồng, tiền kẽm có khắc chữ Thái Bình). Những việc làm này đã có ảnh hưởng đến thái độ của chúa Nguyễn trong việc đào tạo nhân tài bằng con đường giáo dục và khoa cử.

Sự quan tâm của chúa Nguyễn đối với giáo dục được thể hiện khá rõ qua một số ghi chép của Nho sĩ người Trung Hoa, qua chỉ dụ cùng việc xây dựng Văn Miếu ở một số địa phương để thể hiện tôn sùng Thánh hiền mà chúa Nguyễn đã thực thi.

Nhằm đề cao và thấy được vị thế, vai trò của giáo dục đối với sự nghiệp trị bình đất nước, khi dâng thư đối đáp lại cho chúa Nguyễn Phúc Tần, Chu Thuấn Thủy (một vong thần nhà Minh) trong bản ký sự ghi năm 1657 đã bày tỏ quan điểm và khuyên chúa Nguyễn nên coi trọng việc học nhất là việc “tập lễ và đọc sách” nhằm giúp cho đại nghiệp được hưng thịnh. Trên cơ sở dẫn luận từ các tấm gương trong sử sách từ thời Hán Thế Tổ (tức Quang Vũ đế lập ra nhà Đông Hán), dù gặp thời loạn chiến tranh nhưng vẫn đề cao việc học, Chu Thuấn Thủy cho rằng giáo dục là phương thức “căn bản trị bình trước tiên”, do vậy người làm chúa cũng phải biết cái đạo đọc và giảng sách, cũng như kinh trị nước, có tập lễ và đọc sách. Bởi theo Chu Thuấn Thủy có dựa vào kinh thuật thì mới giải quyết được nhiều vấn đề về bắt gian, xây dựng xóm làng nhằm đem lại phồn thịnh. Do đó, việc “chú trọng vào việc học cũng giống như kiến tạo văn minh, dạy phong tục cho thuần hậu là thịnh nghiệp của hiền vương, từ đó sẽ lưu truyền tiếng tốt muôn đời” [171; tr.352]. Không rõ chúa Nguyễn Phúc Tần có nghe theo lời khuyên của Chu Thuấn Thủy hay không, nhưng qua đó phần nào phản ánh nhu cầu giáo dục, vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự củng cố vương quyền chúa Nguyễn là rất cần thiết.

39 Nhóm tác giả trong công trình: “Văn bản Hán Nôm làng xã vùng Huế” cho biết: Văn Miếu được xây dựng dưới thời chúa Sãi (chúa Nguyễn Phúc Nguyên) ngay tại phủ chính ở Phước Yên (xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên Huế ngày nay), hiện nay vẫn còn dấu tích gồm 1 cái nền và bức bình phong “long mã phụ đồ” ở giữa khoảng đình làng Phước Yên và trường tiểu học của xã. Năm 1691, chúa Nguyễn Phúc Chu dời đến xã Triều Sơn (xã Hương Sơn, thành phố Huế) di chỉ hiện vẫn còn. Năm 1770 chúa Nguyễn Phúc Thuần mới cho xây lại tại xã Long Hồ (xã Hương Hồ, huyện Hương Trà). Sang đầu thế kỷ XIX, vua Gia Long đổi chỗ đó làm đền Khải Thánh (thờ cha mẹ Khổng Tử) và làm cơ sở mới tại xã An Ninh như hiện nay [206; tr.28 -29].

55

Các chúa Nguyễn đã cho xây dựng Văn Miếu thờ Khổng Tử cùng các vị Tiên hiền tại một số địa phương để tỏ lòng tôn sùng đạo Thánh hiền, trong đó Văn Miếu ở Phú Xuân được mở sớm nhất [206]39. Tuy không rõ thời điểm xây dựng diễn ra khi nào, nhưng chính sử cho biết năm 1692, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ra Triều Sơn (huyện Hương Trà) để xem Văn Miếu, muốn mở rộng thêm nên sai sửa lại. Đến năm 1770, chúa Nguyễn Phúc Thuần thấy địa thế Triều Sơn ẩm thấp nên sai dời Văn Miếu đến xây dựng ở xã Long Hồ. Đây chính là nơi lập Khải Thánh Từ về sau. Khi quân Trịnh

vào chiếm Phú Xuân - Thuận Hóa (1775 - 1786), rồi nhà Tây Sơn làm chủ tại đây (1778 - 1801), Văn Miếu thời chúa Nguyễn Phúc Thuần vẫn giữ nguyên tại vị trí cũ, thậm chí nó còn được triều đình Tây Sơn tu bổ, tôn tạo40.

Tiếp đó vào năm 1715, chúa Nguyễn Phúc Chu đã sai Trấn thủ Nguyễn Phan Long và Ký lục Phạm Khánh Đức xây dựng Văn Miếu Trấn Biên tại phủ Gia Định (vùng đất được xác lập quyền quản lý năm 1698). Văn Miếu Trấn Biên xây dựng vừa thể hiện chính sách đề cao Nho học, vừa phản ánh mong muốn của chúa Nguyễn trong việc từng bước mở mang truyền bá Nho học xuống phía Nam đất nước, như một số tác giả đã nhận xét thì việc xây dựng Văn Miếu là “một định chế nhằm xác lập vị thế địa lý, văn hóa, chính trị, tiếp nối truyền thống sự học, xem “hiền tài là nguyên khí của quốc gia” [204; tr.110].

Thậm chí, từ năm 1726 trong huấn điều ban hành giáo hóa dân chúng, chúa Nguyễn Phúc Chu đã dùng nhiều điển cố và sáo ngữ khi nhắc đến vua Hạ, vua Chu như “dân đời Nghiêu Thuấn”,“lưới pháp Thành Thang”, cho thấy trong tư tưởng đường lối trị nước của chúa Nguyễn Phúc Chu đã chịu sự ảnh hưởng không nhỏ của ý thức hệ Nho giáo, là cơ sở để chúa từng bước chú trọng đến giáo dục Nho học.

Vào năm 1765, khi vừa lên ngôi, chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765 -1775) đã ban chiếu đại xá trong thiên hạ, trong chiếu này có một đoạn viết thể hiện tư tưởng đề cao học thuyết Khổng Tử:“Kinh Xuân Thu để muôn đời khuôn phép, dạy phải nghiêm chỉnh từ đầu…. muốn tới được Thành Chu thịnh đức [đời Thành vương nhà Chu là một đời thịnh trị], cần phải nhớ Hồng phạm cách ngôn [Thiên Hồng phạm trong Kinh Thư, nêu cửu trù để dạy phép lớn trị nước]” [152; tr.170]. Nội dung đoạn trích trên đã phần nào khẳng định ý thức hệ Nho giáo đã ngày càng định hình rõ trong tư tưởng của những người cầm quyền dòng họ Nguyễn, mong muốn xây dựng một đội ngũ quan lại có trình độ Nho học theo tư tưởng “Trung quân” trở thành nhu cầu tất yếu của một bộ máy chính quyền đang ngày càng vững mạnh.

40Trong bài thơ Đăng Văn Miếu ký kiến (Lên Văn Miếu, ghi những điều trông thấy) của Phan Huy Ích (1751 - 1822), đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa thi năm 1775, sau làm quan cho triều Tây Sơn cho biết: “Văn Miếu ở thượng lưu sông Hương, nằm trên một ngọn đồi cao soi bóng xuống dòng sông. Các ngọn núi phía bờ bên kia chầu về. Hai ngôi đền chính, bên trong thờ tượng đức Thánh cùng tượng Tứ phối đội mũ cầm hốt, hai bên đông và tây bài vị Thập triết, nhà ngoài bày bài vị các Tiên nho được tòng tự. Bên tả điện là Sùng Văn, bên hữu là Dụy Lễ. Chỗ nào cũng có biển đề và được sắm sửa từ đời trước, bây giờ chỉ sửa lại và trang sức thêm. Quan Tế tửu, Tư nghiệp và mọi người thay nhau đèn hương. Khi tôi lên xem, ngắm cơ ngơi Văn Miếu, hóng mát nghỉ chân, có quan Tư nghiệp mời trà”[195; tr.116]. Khi nhà Nguyễn trở lại Phú Xuân, từ năm 1803, năm nào vua Gia Long cũng đến cáo yết Văn Miếu tại làng Long Hồ. Đến năm 1808, triều Nguyễn đã cho dời Văn Miếu về xã An Ninh phía Tây Kinh thành.

56

Để tạo điều kiện cho đạo học phát triển, các chúa Nguyễn đã “rộng tay đón các hiền sĩ bốn phương về hội tụ” như trường hợp của Đào Duy Từ - một Nho sĩ người Đàng Ngoài vì xuất thân là con nhà hát xướng không được tham dự thi Hương; hoặc tiếp đãi hậu hĩnh các học sĩ người Trung Hoa như Chu Thuấn Thủy, Thiền sư Thích Đại Sán, hoặc các vị văn nhân thi sĩ người Hoa đến Hà Tiên tham gia vào thi đàn

Chiêu Anh Các của Mạc Thiên Tứ... Chính những trí thức người Hoa này trên các cương vị khác nhau giảng dạy hoặc đề xuất sáng kiến về giáo dục phần nào góp phần thúc đẩy sự định hình giáo dục Nho học ở vùng đất Đàng Trong.

Sự coi trọng giáo dục và khoa cử Nho học ở Đàng Trong còn được thể hiện ở chỗ đã hình thành nên trong tiềm thức bộ phận quan lại đương thời tâm lý nhìn nhận và đánh giá con người “trước tiên theo khuynh hướng chuộng khoa bảng, học vị cao, trọng danh và tước hơn trọng thực tài”, qua thái độ ứng xử của quan lại, của chúa Nguyễn dành cho Chu Thuấn Thủy đã phản ánh rõ điều đó. Chu Thuấn Thủy (1600 - ?) là một trung thần nhà Minh không chịu thần phục nhà Thanh theo lời hịch chiêu mộ người biết chữ của chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 -1687) đã đi đến miền Thuận Quảng, Hội An, dinh trấn Quảng Nam của chúa Nguyễn. Từ năm 1646 -1657, Chu Thuấn Thủy đến miền Thuận Quảng 5 lần41. Năm 1657, ông đến Đàng Trong với tư cách là một “trưng sĩ”, các quan trong chính quyền chúa Nguyễn đã “tỏ thái độ coi thường”. Vì Chu Thuấn Thủy không có học vị gì nên chúa Nguyễn Phúc Tần chỉ coi ông như là người biết chữ Hán để thảo văn bản (thức tự). Sau đó các quan tuy có thay đổi cách đối xử tôn trọng với ông hơn, nhưng chủ yếu cũng chỉ “sử dụng” ông làm thơ phú, cho thấy xu hướng ít chú trọng thực học sự thao lược “kinh bang tế thế”. Đến năm 1658 ông đã rời Đàng Trong đi sang Nhật Bản và đã có công rất lớn trong việc xây dựng nền giáo dục Nho học thực học ở đây. Rõ ràng, các chúa Nguyễn đã ý thức được cần phải có đội ngũ quan văn tuyển chọn từ giáo dục, khoa cử. Tuy nhiên, do điều kiện còn nhiều khó khăn, lại bị vướng vào cuộc chiến với họ Trịnh trong gần nửa thế kỷ (1627 -1672), nên hoạt động giáo dục, khoa cử của chúa Nguyễn trong hơn nửa thế kỷ XVII chưa được tổ chức chặt chẽ. Trong suốt thời gian dài, chúa Nguyễn chưa có cơ quan đứng ra tổ chức việc dạy học.

41 Vào các năm 1646, 1651, 1652, 1653, 1654. Thời gian Chu Thuấn Thủy lưu trú lâu nhất 4 năm (1654 -1658). 42 Thích Đại Sán là vị Thiền sư nổi tiếng cả về Phật giáo và thi họa thời kỳ cuối nhà Minh đầu nhà Thanh của Trung Quốc. Ông không chỉ nổi tiếng ở vùng Lưỡng Quảng và Kinh đô Trung Quốc mà còn đến tận Việt Nam, được chúa Nguyễn thỉnh mời đến Việt Nam nhiều lần. Năm 1695, ông đến Quảng Nam được chúa Nguyễn rất coi trọng, giao phó cho việc khôi phục lại Phật giáo ở Đàng Trong. Ở địa vị một Quốc sư, Thiền sư Đại Sán còn

57

2.3.2 Tổ chức giáo dục Nho học 2.3.2.1 Trường học -Trường học tại thủ phủ Việc các chúa Nguyễn có thành lập ở Đàng Trong một ngôi trường công mang tầm vóc quốc gia như Quốc Tử Giám ở Thăng Long hay không rất ít tư liệu đề cập đến, thậm chí chính sử không nói gì đến vấn đề trường học. Nhưng ít nhất các tư liệu lịch sử cũng cho biết, vào cuối thế kỷ XVII chúa Nguyễn có đề cập đến chủ trương xây dựng ngôi trường Quốc học để thu hút những người tuấn tú vào học, phục vụ cho mục đích đào tạo nhân tài theo lối cử nghiệp. Điều này được thể hiện rất cụ thể qua kiến nghị của Thiền sư Thích Đại Sán42 lên chúa Nguyễn Phúc Chu về việc lập trường học

bồi dưỡng nhân tài, lấy đạo học của Khổng Tử làm gốc trong nội dung giáo dục: “Nay nhà vua nên dựng nhà Quốc học, tôn thờ Khổng Thánh, tàng trữ sách Nho; mời các nhà Lý học danh nho ra làm thầy để giảng minh đạo thánh. Từ Vương Thế tử, con em các đại thần, cho đến nhân dân tuấn tú đều cho vào học; rồi bày cách thi hạch, để phân biệt hơn thua; nung đúc lâu ngày, tự nhiên mọi người hiểu biết cương thường luân lý; trị đạo chính đại, dần dần trở nên một nước văn minh” [167; tr.53]. Chúa Nguyễn Phúc Chu có cho xây dựng nhà Quốc học theo kiến nghị của Thiền sư Thích Đại Sán hay không? Vấn đề này không thấy chính sử ghi chép lại, nhưng rõ ràng nhu cầu xây dựng một nền giáo dục ở vùng đất Đàng Trong theo lối Nho học đã được chú ý đến.

Trong Lời tựa cuốn Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn43 có viết một đoạn liên quan đến cơ sở giáo dục gọi là Học Cung: “Ngày tế Đinh (Lễ tế Khổng Tử hàng năm), tôi thân đến Học Cung xem lễ, học trò đến học có đến vài trăm người, tôi cũng cùng họ giảng học luận văn, khuyến khích dạy bảo ân cần lắm”[54; tr.35] đã phần nào cung cấp thông tin rất quý về ngôi trường Quốc học ở Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn. Theo nhận xét của tác giả Phan Thuận An, nếu học trò có đến vài trăm người như Lê Quý Đôn miêu tả thì chắc hẳn quy mô xây dựng của Học Cung lúc đó không phải là nhỏ, mặc dù phải đến triều Tây Sơn khái niệm cơ quan giáo dục toàn quốc mới bắt đầu manh nha trở lại sau mấy trăm năm Nam Bắc phân tranh và nội chiến44.

Từ những ghi chép trên có thể thấy, có lẽ tại vùng đất Đàng Trong vào khoảng nửa sau thế kỷ XVIII, chính quyền chúa Nguyễn đã cho xây dựng một ngôi trường mang tên là Học Cung ngay trên thủ phủ của mình. Tuy không rõ thời gian xây dựng cũng như chưa tìm thấy tư liệu kê cứu về quy mô, kiến trúc của trường nhưng nó chứng tỏ chúa Nguyễn đã quan tâm đến việc xây dựng nền giáo dục Nho học để đào tạo và lựa chọn nhân tài phục vụ cho bộ máy chính quyền. Về chức năng, nhiệm vụ của Học Cung có lẽ cũng giống như Quốc Tử Giám: vừa là nơi lưu giữ ván khắc, sách viết, in ấn sách, vừa là nơi giảng dạy đạo sách Thánh hiền.

mong muốn Nguyễn Phúc Chu làm nên cơ đồ nhà Nguyễn. Vì vậy, ông đã viết sớ tấu trình chúa Nguyễn gồm 4 điều, nội dung tập trung vào ba điểm chính: chính danh, quân sự, đào tạo nhân tài cho đất nước. 43Vào năm 1776, sau khi quân Trịnh vào đánh chiếm Thuận Hóa - Phú Xuân, Lê Quý Đôn được giữ chức Hiệp trấn Tham tán Quân cơ. Tại đây, ông đã biên soạn cuốn sách Phủ biên tạp lục ghi chép lại các vấn đề về điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa xã hội của vùng đất Đàng Trong. 44 Trong bài Chiếu lập học do Ngô Thì Nhậm soạn dưới thời Quang Trung (1788 - 1792), xuất hiện từ Quốc học (trường học cấp quốc gia) bên cạnh các từ Phủ học (trường học cấp phủ), Xã học (trường học cấp làng xã).

58

Tại thủ phủ của chúa Nguyễn còn xuất hiện loại hình trường học khác, mà qua ghi chép của Giáo sĩ Christoforo Borri gọi là trường “Đại học”: “Xứ Đàng Trong có nhiều trường Đại học trong đó có các giảng viên và các cấp bậc được cất nhắc lên theo lối khoa cử, cũng như ở Tàu” [23; tr.71-72]. Không rõ quy mô của trường “Đại học” này ra sao nhưng có thể tính chất của loại hình trường này gần giống như Chiêu Văn quán, Tú Lâm cục, Tập Hiền viện làm nơi học tập dành cho con cháu quan viên, hoàng tộc ở Đàng Ngoài [11; tr.27].

Đề cập đến trường học tại thủ phủ còn có ghi chép của một số cuốn “Hồi ký” của các giáo sĩ, thương nhân phương Tây khác như Giáo sĩ Koffler, thương nhân Poivre. Các cuốn Hồi ký này đều cho biết: thời chúa Nguyễn có lệ chỉ những vị Thế tử được chọn kế ngôi mới được giữ lại trong cung, mời thầy giáo dạy riêng, còn các vị công tử khác sẽ được gửi tới nhà các quan viên để nuôi ăn học. Cuốn “Mô tả lịch sử Đàng Trong”của Giáo sĩ Koffler45 cho biết: theo tập tục thời đó, khi đến 20 tuổi, vị Thế tử được chọn để kế ngôi sẽ được đưa đến ở tại một dinh thự riêng bên cạnh có một vị thầy học được phong chức Thế tử Thái sư (thầy dạy của Thế tử), cùng một số thuộc hạ gồm 8 - 10 Thị đồng, 4 Thái giám, 2 đến 3 đội lính, 2 Thư ký, 1 viên quan am hiểu về luật lệ, các nghi lễ trong vương quốc, cùng nhiều người phục dịch khác [128; tr.37]. Hồi ký của Poivre46 kể rằng: một lần ông đến chơi nhà một viên Cai bạ, ông đã gặp một cậu con trai của chúa Võ Vương độ 11 tuổi, hỏi ra mới biết thời đó, các chúa Nguyễn chỉ giữ lại phủ cậu con trai được phong Thế tử (người con sẽ được nối ngôi), với những con trai khác chúa gửi tại nhà một số đại thần làm việc trong phủ. Mặc dù phải bỏ tiền ra nuôi dạy con chúa, song các quan coi đây là vinh dự được chúa ban cho [128; tr.34]. Sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn cũng ghi, khi chúa Phúc Khoát chết, cho con thứ là Chưởng Vũ, tuổi hơn 20 chúc thác cho Nội hữu Ý Đức hầu nuôi giữ lại khiến thường cùng chư tướng bàn việc quân việc nước, muốn cho nối nghiệp [54; tr.87]. Đối chiếu sự ghi chép của Koffler, Poivre và Lê Quý Đôn có thể khẳng định, hệ thống trường “Đại học” mà Borri muốn đề cập đến chính là trường học (vốn là dinh thự các quan viên) dành cho các công tử cùng con cháu quan viên. Do vậy, khái niệm trường “Đại học” mà Borri nhắc đến không giống với trường Đại học (chỉ trường Đại học có tính chất như Quốc Tử Giám ở Đàng Ngoài) mà tác giả Phan Khoang đã nhắc đến trong Việt sử xứ Đàng Trong: “Các chúa Nguyễn không lập trường Đại học công mà để dân gian tùy ý lập trường tư dạy học” [92; tr.500].

59

-Trường công cấp địa phương Ở cấp phủ, huyện ở Đàng Trong hệ thống trường công có được xây dựng hay không hiện chưa có tư liệu kê cứu. Nhưng thực tế ở các khoa thi Chính đồ, chúa Nguyễn có lấy hạng Ất cho làm Huấn đạo Nho học, theo quan chế thời Lê chức Huấn đạo có nhiệm vụ trông coi việc học hành ở cấp địa phương. Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục còn cho biết thêm nhiệm vụ của chức Huấn đạo: “là Huấn đạo, là phủ Lễ sinh thì giữ việc tế tự Văn thánh và các linh từ của phủ, huyện” [54; tr.187]. Căn cứ vào số các 45Cố đạo Jean Koffler sinh năm 1711 ở Prague, năm 1740 ông đến Nam Hà, được chúa Nguyễn Phúc Khoát mời làm ngự y trong cung. Năm 1755, vì chủ trương không dùng người Phương Tây nên ông bị buộc rời Phú Xuân, ông sang Bồ Đào Nha và bị bắt, khi bị giam cầm ông viết cuốn “Mô tả lịch sử Đàng Trong”, tiếng Pháp là Description historique de la Cochinchine. 46Pierre poivre (1719 - 1786) là nhà buôn người Pháp đến Đàng Ngoài lần đầu năm 1742 rồi trở về Pháp, được Chính phủ Pháp ủy thác đến buôn bán với Đàng Trong. Ngày 20 tháng 8 năm 1749 ông đến Hội An. Tại đây ông mưu với Trương Phúc Loan xin chúa Nguyễn cho lưu hành một số bạc “con cò” (bạc Mexique) để chia lợi, chúa chuẩn y nhưng khi phát hành thì không ai chịu dùng cả. Phúc Loan làm gương đổi lấy 3000 đồng nhưng không chịu hoàn trả rồi dùng quyền đuổi Pierre poivre khỏi Đàng Trong.

kì thi Chính đồ thưa thớt, số lấy đỗ Sinh đồ ít, nội dung thi sơ sài, cùng với việc các chúa Nguyễn tập trung xây dựng lực lượng quân sự, lại mất gần nửa thế kỷ đối phó cuộc chiến tranh với dòng họ Trịnh (1627 -1672); sau chiến tranh chính quyền phải lo khôi phục kinh tế, mở rộng phạm vi lãnh thổ xuống phía Nam, củng cố chính quyền, có thể thấy các chúa Nguyễn chưa có điều kiện để xây dựng trường công ở cấp địa phương. Do vậy, chức Huấn đạo được đặt ra ngoài làm nhiệm vụ trông coi việc thờ cúng ở Văn thánh và Linh từ của phủ, huyện, thì có lẽ chức Huấn đạo chủ yếu để trông coi việc học tập trong nhân dân, quản lý việc thí sinh ở địa phương lên thủ phủ chúa Nguyễn để tham dự các khoa thi.

-Trường tư: +Trường tư của các Nho sĩ Phần lớn trường tư dưới thời chúa Nguyễn được mở bởi các Nho sĩ có tài năng, đức độ, có người đỗ đạt qua khoa cử, có người vì nhiều lý do họ không đi thi hoặc không ra làm quan ở nhà dạy học. Có thể kể đến trường học của các Nho sĩ như Nguyễn Đăng Đàn, Nguyễn Quang Tiền, Vũ Xuân Nùng, Trần Hưng Đạt...

Trường học của Nguyễn Đăng Đàn là ngôi trường tư nổi tiếng tại Phú Xuân ở nửa đầu thế kỷ XVIII. Sách chính sử cho biết: Nguyễn Đăng Đàn vốn là người rất thông minh, có trí nhớ tốt, nổi tiếng về môn Lý học. Dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765), lấy tư cách thư sinh áo vải, ông đến cửa khuyết dâng kế sách, được chúa khen ngợi và định trao chức quan cho ông nhưng ông từ chối. Ông xin về làm nhà ở núi Thanh Thủy (thuộc Thừa Thiên Huế), dạy học trò, môn sinh thường có tới vài trăm người, nhiều người thành đạt. Khi ông chết, người đời gọi ông là Siêu Quần Tiên sinh [151; tr.256]. Cháu nội của ông là Nguyễn Đăng Trường cũng là một Nho sĩ thành danh, là vị quan trung nghĩa đời chúa Nguyễn Phúc Thuần47.

47Sách Đại Nam liệt truyện tiền biên cho biết: khi bị Nguyễn Huệ bắt hai lần, có ý định lôi kéo ông đi theo nhưng bị cự tuyệt từ chối. Lần thứ hai vào năm 1776, khi thành Sài Gòn bị thất thủ, ông lại bị bắt, Nguyễn Huệ hỏi ông rằng “Tiên sinh ngày nay định thế nào”, Trường nói: “Việc ngày hôm nay theo nghĩa ta không thể mưu sống nữa. Vua nhục thì bày tôi phải chết, đó là phận sự rồi, còn hỏi làm gì?” Trước lúc lâm hình ngoảnh mặt về hướng bắc dụng ý tượng trưng cho việc chầu vua của kẻ bầy tôi.

60

Cũng có một số trường tư của các Nho sĩ, vì chán cảnh thời cuộc mà từ quan về nhà dạy học như trường học của Trần Thân (1699 -1758) (Hương Trà, Thừa Thiên Huế) rất nổi tiếng về y lý, từng giữ chức Nội Y ty trong chính quyền chúa Nguyễn, nhưng sau ông từ chức về nhà dạy học. Hoặc trường hợp Nguyễn Quang Tiền (1715 - 1773) người làng Phò Ninh, xã Phong An, huyện Phong Điền, Thừa Thiên Huế. Mặc dù chỉ đỗ Nhiêu học trong kỳ thi Xuân thiên quận thí năm1733, sau bổ chức Ký lục ở dinh Bình Khang (nay là Khánh Hòa), nhưng do có tài năng văn chương và học vấn, ông được cử về Chính dinh tham gia biên soạn văn từ ngoại giao cho chúa Nguyễn Phúc Khoát, giữ chức Hàn lâm viện Tri chế cáo, tước Thạc Đức bá [150; tr.158]. Năm

1756, vì can ngăn chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng quốc hiệu trong thư đối đáp lại với nhà Thanh nên ông bị bắt miễn quan, từ bỏ chốn quan trường về quê mở trường dạy học. Dấu tích trường học của ông hiện không còn nhưng theo gia phả của dòng họ, trường học của ông có nhiều người tham gia học tập, đặc biệt ông là người rất giỏi chữ quốc ngữ (chữ Nôm) nên có rất nhiều học trò đến thọ giáo [150; tr.157].

Ở Quảng Nam có một số trường tư được mở bởi các Nho sĩ nổi tiếng, thu hút đông đảo học trò theo học, chú ý nhất là trường học của Vũ Xuân Nùng. Đây là ngôi trường tư rất nổi tiếng nửa đầu thế kỷ XVIII, được sử sách ca ngợi. Ông vốn là con trai của danh sĩ Vũ Xuân Suyền, một danh sĩ đời chúa Nguyễn Phúc Chu. Vũ Xuân Nùng cùng người em là Vũ Xuân Đàm đóng cửa đọc sách, anh em đều giỏi. Năm 1728, ông đỗ Sinh đồ rồi do ấm thụ được bổ Tri huyện. Ông mở trường dạy học, học trò của ông phần lớn thành danh, trong đó có ba người học trò rất nổi tiếng, được mệnh danh là Trường An tam phụng (ba con phượng ở Kinh đô), gồm: Trần Phước Thành, Nguyễn Đình Trong, Phan Đắc Thục [151; tr.224].

Trường học của ẩn sĩ Trần Hưng Đạt (1746 -1810) cũng khá nổi tiếng vào nửa sau thế kỷ XVIII. Ông vốn là con trai thứ 7 của Trần Mậu Quế (1688 -1762) quê làng Văn Xá, Thừa Thiên Huế. Trần Hưng Đạt từng giữ chức Tri phủ dưới đời chúa Nguyễn Phúc Thuần, về sau do có công đi đánh biên giới phía Nam nên được thăng chức Ký lục dinh Trấn Biên và Hà Tiên. Sau đó, ông làm quan ở Viện Hàn lâm, đến năm 1775 lánh vào Quảng Nam dạy học trò. Năm 1793 Trần Hưng Đạt vượt biển vào Gia Định theo Nguyễn Ánh, được bổ giữ chức Tham tri bộ Lễ [246; tr.386].

Gia Định là vùng đất được mở mang khá muộn, vì mãi tới năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu mới cử Chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược đất Đồng Nai - Sài Gòn lập nên phủ Gia Định. Do đây là vùng đất mới, bộ phận cư dân đầu tiên đến đây để khẩn hoang đều thuộc những người nghèo khổ “nên việc học tập phát triển chậm”. Mặt khác, chính quyền chúa Nguyễn lại chưa có điều kiện để mở trường lớp dạy học nên Gia Định cũng như các vùng đất khác “trường tư thường có trước so với trường công” [111; tr.290]. Trong đó chú ý nhất là hai ngôi trường của Võ Trường Toản và Đặng Đức Thuật đã góp phần đào tạo được nhân tài cho địa phương, đặt nền tảng cho truyền thống giáo dục phát triển về sau.

48 Nay địa điểm ở hai bên đường Cách Mạng tháng 8, quận 3 và quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh. 49 Nội dung bài văn bia khắc trên mộ của ông do Phan Thanh Giản biên soạn năm 1867 và hoàn thành việc khắc năm 1872. Theo văn bia, Võ Trường Toản không rõ năm sinh, ông mất năm 1792. Ông vốn họ Võ húy Trường Toản,“đời trước hoặc nói là người Thanh Kệ (Quảng Đức - nay thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế) hoặc nói người Bình Dương (Gia Định), trước thọ nghiệp cùng ai chưa hề được rõ. Chỉ biết sở học của tiên sinh đã tới bậc dày dặn đầy đủ, chất thật, có thuật nghiệp thâm uyên thông đạt. Xảy hồi loạn Tây Sơn, tiên sinh ẩn trú mở trường dạy học, thường học trò tới mấy trăm”.

61

Võ Trường Toản là một Nho sĩ quê làng Hòa Hưng, huyện Bình Dương48, trước thời cuộc biến loạn ông không ra làm quan cho chúa Nguyễn (cả triều Tây Sơn sau đó) mà lui về ở ẩn, mở trường dạy học ở vùng Gia Định49. Mặc dù không rõ ông có đỗ đạt

qua khoa cử hay không nhưng ông là bậc Nho sĩ có trình độ uyên thâm. Sách Đại Nam thực lục cho biết: ông là người thông minh, hiếu học, kinh sử uẩn súc. Trong loạn Tây Sơn, ông ẩn cư dạy học, học trò nhiều người thành đạt, có nhiều đóng góp cho triều Nguyễn như Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định đều là danh thần triều Nguyễn. Trong đó Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh rất nổi tiếng thơ văn ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX được mệnh danh là Gia Định tam gia, thơ văn của 3 người được in thành sách Gia Định tam gia thi tập còn lưu truyền đến ngày nay. Ngô Tùng Châu từng dạy Hoàng tử Cảnh, Trịnh Hoài Đức giữ chức Thượng Thư bộ Lại kiêm bộ Binh, Lê Quang Định làm Thượng thư bộ Hộ kiêm quản Khâm thiên giám. Sau khi Võ Trường Toản mất, chính quyền Gia Định đã gửi viếng một đôi liễn ghi nhận công lao của ông trong việc đào tạo nhiều học trò vinh hiển, được Nguyễn Ánh truy tặng danh hiệu Gia Định Xử Sĩ Sùng Đức Võ Tiên sinh, được nhiều danh sĩ ở phương Nam tuy không phải là học trò, trong đó có Phan Thanh Giản tôn thờ ông là Bậc tôn sư đức độ. Ông là xử sĩ có công đầu trong sự nghiệp kiến tạo hào khí Đồng Nai, nơi có “nhiều người trung dũng khí tiết, trọng nghĩa khinh tài” [43; tr.272]. Võ Trường Toản còn là nhà thơ nổi tiếng, tác phẩm của ông cho đến nay, chỉ còn lưu truyền một bài phú “Hoài cổ”, gồm 24 câu. Nội dung bài phú chứa đựng nhiều “đạo nghĩa thâm trầm” của ông trước thời cuộc, như hai câu thơ thứ 3, thứ 4 mà ông đã viết trong bài phú này: “Quán âm dương, rước khách xưa nay, đã mấy mươi năm; Đò tạo hóa đưa người qua lại, biết bao nhiêu chuyến. Nhấp nháy ngọn đèn trong kiếng; Lênh đênh bóng nguyệt dòng sông” [190; tr.15].

Ngôi trường nổi tiếng thứ hai ở Gia Định là trường học của Đặng Đức Thuật, ông cũng là một Nho sĩ nổi tiếng, có tên chữ là Cửu Tư, không rõ người quê ở đâu. Ông là người học rộng, thơ hay, rất giỏi về lịch sử, ông ở ẩn làm nhà trong núi An Phước (Bình Thuận) để dạy học. Sĩ phu gọi là “Đặng gia sử phái” [43; tr.272], sau đó ông xin chuyển vào Gia Định. Tại đây, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định, Nguyễn Hương cũng tôn ông làm thầy. Việc học ở Gia Định phát triển bắt đầu từ ông.

Cả Võ Trường Toản, Đặng Đức Thuật là hai nhà giáo dục lớn không chỉ có công đào tạo được nhiều nhà Nho danh tiếng, mà còn góp phần quan trọng trong việc mở mang nền giáo hóa ở mảnh đất Gia Định trong buổi đầu mở cõi.

62

+Lớp học các thầy đồ Ở Đàng Trong ngoài trường tư của các Nho sĩ, các lớp học tại gia do người dân tự mở rồi mời thầy đồ về dạy học cũng xuất hiện khá phổ biến ở cấp làng xã như nhà nghiên cứu Phan Khoang đã nhận xét: “để dân gian tùy ý lập trường tư dạy học”. Việc ra đời của các lớp học này nhằm đáp ứng nhu cầu trong cuộc sống hàng ngày về văn bản giấy tờ như biên soạn các loại đơn trương, khai trình, gia phả... do đó quy mô lớp học thường nhỏ nhằm đào tạo ra một “lớp người biết chữ thông thường”, thầy có thể tự mở lớp học tại nhà hoặc đến “nương náu tại nhà một điền chủ hay phú hộ nào đó để

vừa dạy dỗ đám quý tử của gia chủ, vừa thu nạp thêm học trò ở làng trên xóm dưới” [194; tr.204]. Tuy nhiên việc tự mở lớp và mời thầy về nhà dạy học này không phải gia đình nào cũng có khả năng thực hiện, chủ yếu những gia đình có điều kiện về kinh tế, có truyền thống giáo dục lâu đời hoặc có điều kiện tiếp xúc bên ngoài nhận thức được vai trò quan trọng của sự học mới tập trung tài lực cho con cháu học hành. Khoán lệ làng Cảnh Dương (huyện Quảng Trạch, Quảng Bình) cho biết cư dân trong làng được chia làm hai bộ phận: phường thợ (ngư dân) và phường buôn (thương nhân), hai bộ phận này không chỉ góp phần thúc đẩy kinh tế, mà có những đóng góp quan trọng về mặt văn hóa đặc biệt là truyền thống khoa cử của làng. Bởi “chính từ hạt nhân các gia đình phường buôn nhờ tiềm lực kinh tế, lại có điều kiện đi đây đi đó biết được cái quan trọng của sự học, đã tập trung tài lực đầu tư cho con cái học hành, từ đó tác động trở lại, thành tấm gương cho cả làng noi theo” [194; tr.107].

Khi Nguyễn Hoàng vào vùng đất Đàng Trong, có khá nhiều người xuất thân từ chốn “Cửa Khổng Sân Trình” đã đem theo gia đình vào định cư ở vùng Thuận Hóa. Trải qua thời gian, những gia đình này vẫn tiếp nối truyền thống hiếu học, giáo dục cho con cháu, hoặc mở lớp mời thầy hoặc gửi con cháu theo học các lớp thầy đồ, nhờ đó mà nhiều dòng họ khoa bảng nổi tiếng ở vùng đất Đàng Trong với các thế hệ tiếp nối cha con, ông cháu, chú cháu được hình thành. Họ đều trở thành tầng lớp sĩ - hoạn có những đóng góp quan trọng cho chính quyền chúa Nguyễn như cha con Nguyễn Triều Văn - Nguyễn Hữu Dật- Nguyễn Hữu Hào (quê Thanh Hóa), ông cháu chắt Nguyễn Đình Thân (sau đổi Nguyễn Khoa) - Nguyễn Khoa Chiêm - Nguyễn Khoa Đăng (gốc người Hải Dương), hoặc cha con, chú cháu Nguyễn Đăng Đệ -Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Đăng Thịnh (gọi Đăng Đệ là chú) vốn có tổ 8 đời thuộc họ Trịnh quê gốc ở Hà Tĩnh. Cũng có người bị thất cơ lỡ vận ở quê hương cố cựu mà đem theo gia đình di chuyển vào Nam tìm chốn nương thân, mở trường dạy học, góp phần vào công cuộc giáo hóa của địa phương như Phạm Đăng Xương (người huyện Hương Trà - Thừa Thiên Huế) đã vào định cư ở Gò Rùa (giồng Sơn Quy - Gò Công -Tiền Giang). Tại đây ông đã chiêu tập dân chúng khai phá đất hoang, mở mang sản xuất khiến nơi này ngày càng thịnh vượng. Vốn là một nhà nho, ông đã mở trường dạy học thu nhận rất nhiều môn sinh và được tôn là “Kiến Hòa Tiên sinh”, sau này con trai là Phạm Đăng Long cũng nối bước nghiệp cha làm nghề dạy học [127; tr.340].

Thầy giáo lớp học tư gia chủ yếu là các ông đồ không may mắn về đường cử nghiệp, một số ít là những vị khoa bảng hoặc những ẩn sĩ có học vấn cao. Chính sử còn ghi chép rằng Đào Duy Từ đã dạy cho con của Khám lý Quy Nhơn Trần Đức Hòa, sĩ nhân Nguyễn Dưỡng Hạo dạy cho các con của Nho sĩ Phạm Hữu Kính.

63

Đào Duy Từ sinh năm Nhâm Thân (1572) tại làng Nổ Giáp (nay là xã Nguyên Bình,Tĩnh Gia, Thanh Hóa). Ông là người rất thông minh, năm 21 tuổi triều đình mở khoa thi Hương, nhưng vì ông là con nhà hát xướng, cha ông là Đào Tá Hán làm Quản

giáp, coi đội nữ nhạc thời Lê Anh Tông (1557-1573), mẹ ông cùng nghề hát, nên ông không được dự thi. Sau đó Đào Duy Từ trốn vào Nam, phiêu bạt từ Quảng Bình đến Bình Định, ông cải trang giấu tung tích chăn trâu cho một phú hào ở thôn Tùng Châu, phủ Hoài Nhân (nay là huyện Hoài Nhơn, Bình Định), sau đó ông được chủ nhà mời làm thầy đồ dạy học cho con.

Sách Đại Nam liệt truyện tiền biên cho biết: Phạm Hữu Kính có ba người con hai trai và một gái, người con gái tên là Lam Anh, tiểu tự là Khuê Ấu, thông minh, mẫn tiệp, giỏi làm thơ, tự lấy hiệu Ngâm Si. Phạm Hữu Kính đã cho mời sĩ nhân Nguyễn Dưỡng Hạo (người huyện Duy Xuyên, thuộc Quảng Nam, vốn nổi tiếng hay thơ, hiệu Phục Am) về nhà ở Diên Phước, Quảng Nam để dạy cho hai người con của mình. Sau này Phạm Hữu Kính gả con gái cho Nguyễn Dưỡng Hạo, cả hai cùng nhau xướng họa, trước tác có thi phẩm Chiến cổ đường thi tập lưu hành ở đời [151; tr.226].

64

Ở cấp làng xã vùng Đàng Trong có mở trường lớp cho con em học tập hay không rất ít tư liệu đề cập đến, tuy nhiên qua nghiên cứu các khoán ước, tục lệ của làng xã vùng Trung bộ trong hai thế kỷ XVII, XVIII, nhóm tác giả do Nguyễn Hữu Thông chủ biên đã nhận định rằng: “trường lớp chốn hương thôn chủ yếu nhờ vào vai trò của các ông đồ trong Hội tư văn - những người có chữ, đảm đương toàn bộ phần việc có liên quan từ văn sớ trong nghi lễ cho đến dạy dỗ” [194; tr.106]. Như vậy, một số làng xã đã có vai trò quan trọng trong việc khuyến khích việc học, ban hành những điều lệ về độ tuổi, chương trình học, còn việc dạy chữ cho con em trong làng chủ yếu do thành viên của Hội tư văn đảm trách mà chưa thể dựng trường mở lớp tập hợp học sinh tham gia học tập như thời Tây Sơn và thời Nguyễn sau này. Trong Khoán ước Vĩnh nghiệp điền thổ Phúc Kinh (Quảng Trị) biên soạn năm Cảnh Hưng thứ 5 (1744) có điều khoản quy định rất cụ thể về việc học như sau: “Con trai từ 7 - 8 tuổi cho học tiểu học, dạy trung hiếu kinh. Lớn lên chút ít, đã giỏi giang và gắng sức học tập tiến bộ... Con gái dạy cho học Hiếu kinh và các thiên Nội tắc. Lớn lên chút nữa cho tập chăn tằm dệt vải, đến tuổi lấy chồng dạy hiếu thuận với cha mẹ chồng” [194; tr.106]. Qua điều khoản này cho thấy, làng khuyến khích việc học tập không có sự phân biệt nam, nữ. Đồng thời quy định độ tuổi bắt buộc đi học từ 7 -8 tuổi trở lên, đến độ tuổi này phải đi học để hiểu đạo lý làm người, trong đó con trai thì học hành tiến bộ để học lên cao hơn, con gái học để biết được phép tắc để lớn lên hiếu thuận với cha mẹ. Khoán ước của làng cũng quy định vai trò quan trọng của việc khảo thí nhằm kiểm tra năng lực của người học, theo đó học trò từ 15 tuổi trở lên cứ ba năm một kỳ sẽ được kiểm tra để xem xét sở học từng người phân cao thấp. Về cách thức kiểm tra thầy giáo cùng với những người trong hội Tư văn sẽ “... Lấy một vài thiên trong Kinh truyện xem thử có nhớ, đọc rành mạch và có am hiểu nghĩa lý của lời văn không. Đối với người thông thạo chút ít về kinh nghĩa, biết làm văn thể tứ lục đều được xét riêng các công việc nhằm nuôi dưỡng học trò để chấn chỉnh văn phong” [194; tr.566].

Ngoài trường tư của các Nho sĩ, lớp học các thầy đồ, ở Đàng Trong đã xuất hiện một tao đàn thi ca đầu tiên được mở ở Hà Tiên, đó là Chiêu Anh Các50. Đây là tao đàn thi ca do nhóm Nho sĩ người Minh Hương, đứng đầu là Mạc Thiên Tứ51 sáng lập năm 1736. Tuy không phải là cơ sở giáo dục, nhưng căn cứ vào chương trình hoạt động, Chiêu Anh Các đã góp phần mở mang nền văn học của vùng đất phía Nam này. Dấu tích của Khổng Tử miếu - Chiêu Anh Các hiện được xác định chính là nền chùa Phù Anh, ngôi chùa dựng năm 1846 dưới triều vua Thiệu Trị [157; tr.33]. Mục đích lập ra Chiêu Anh Các của Mạc Thiên Tứ, trước hết để đàm văn luận võ, sau lập Văn Miếu để thờ Khổng Tử, dựng nhà nghĩa học, truyền thụ nghĩa thi thư cho những thanh niên tuấn tú cùng học trò nghèo khó khắp vùng52. Nhờ có tao đàn này, đã thu hút được rất nhiều kẻ sĩ tài giỏi hưởng ứng, gồm 36 thành viên, trong đó có 6 người Việt, 30 người gốc Hoa cùng người Hoa sinh sống tại vùng Đàng Trong53, góp phần làm cho “văn phong mới nổi tiếng cả một doi biển ấy”, nền giáo dục ở Hà Tiên được khơi dựng, “người Hà tiên mới biết học hành”. Lê Quý Đôn ca ngợi: “Không thể bảo rằng ở hải ngoại xa xôi là không có văn chương vậy” [54; tr.344]. Vì vậy, xét một góc độ nào đó, phương thức hoạt động của Chiêu Anh Các giống như một nơi truyền bá Nho học, khi có Văn Miếu để thờ Khổng Tử, lập nhà nghĩa học để truyền thụ lễ nghĩa thi thư.

2.3.2.2 Học quan, học sinh và chế độ đãi ngộ

50 Chiêu Anh Các là tao đàn thi ca được lập sau “Tao đàn Nhị thập bát tú” của Lê Thánh Tông lập năm 1494. 51Mạc Thiên Tứ (còn gọi Mạc Thiên Tích) về năm sinh có ba mốc khác nhau: 1706, 1710, 1718. Ở đây, chúng tôi căn cứ vào kết quả nghiên cứu gần nhất của tác giả Trương Minh Đạt: “Phân giải điều ngộ nhận đáng tiếc về ngày sinh của Mạc Thiên Tích” [42] để chọn mốc năm 1718 làm năm sinh của ông. Theo đó, Thiên Tứ sinh năm Mậu Tuất (1718), mất năm Canh Tý (1780) là con trai của Mạc Cửu - vốn người gốc Trung Hoa, quê ở phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông. Khi triều Thanh cầm quyền, vì không chịu thần phục nên Mạc Cửu chạy xuống phía Nam, xin khai khẩn vùng đất Mang Khảm thuộc tỉnh Péam (Chân Lạp). Năm 1708 Mạc Cửu thần phục chúa Nguyễn và được phong làm Tổng binh xứ Hà Tiên, đến năm1735 ông qua đời. 52 Về sự việc này, tác giả Vũ Thế Dinh trong tác phẩm: “Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả”, bản dịch của Tân Việt Điểu [34; tr.556] cho biết miếu Khổng Tử được xây dựng năm 1735 và chính là Chiêu Anh các. Ngôi nhà này có lầu gác, cột đá bằng sa thạch xanh hình lăng trụ tứ giác loại đá đắt giá nhất xứ (những cột đá sa thạch này hiện còn tại chùa Phù Dung). Đến năm 1736 Mạc ThiênTích mời các nho gia thi sĩ khắp nơi đến dự lễ nguyên tiêu tại đó. Một thi nhân tên là Trần Trí Khải tự là Hoài Thủy (người Hoa) đã long trọng dựng cờ khai hội Tao đàn. Mạc Thiên Tích đưa tác phẩm Hà Tiên thập vịnh của mình cho chư nho bình họa. Sách được in nhiều nhưng do lửa chiến tranh nên chỉ còn tập Hà tiên thập vịnh của 32 tác giả gôm 320 bài thơ. 53 Trong Chiêu Anh Các chỉ có 6 tao nhân người Việt, 25 người Thanh. Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức có ghi lại nhiều văn nhân, tăng sĩ, đạo sĩ đến với Mạc Thiên Tứ như: Châu Phác, Trần Minh Hạ, Châu Cảnh Dương, Ngô Chí Hàn, Lý Nhân Trường, Trần Duy Đức … (văn nhân tỉnh Phúc Kiến); Lâm Kì Nhiên, Tôn Thiên Thoại, Lương Hoa Phong… (văn nhân tỉnh Quảng Đông); Phan Đại Quảng, Nguyễn Nghi, Trần Ngoan, Đặng Minh Bổn (người phủ Triệu Phong), người phủ Gia Định như Trịnh Liên Sơn, Lê Bá Bình, nhà sư Phật giáo người phủ Quy Nhơn là Đại Hòa thượng Hoàng Long [55; tr.160].

65

- Học quan Ở Đàng Trong, trực tiếp dạy học cho các vị Thế tử là những vị quan làm việc trong phủ chúa, là những vị thâm nho đỗ đạt hoặc có tài năng và đức hạnh. Trong bút ký của Giáo sĩ Christoforo Borri đã phần nào cung cấp thông tin về phương thức tuyển lựa thầy giáo tại thủ phủ của chúa Nguyễn: “... trong đó các giảng viên và các cấp bậc được cất nhắc lên theo lối khoa cử, cũng như ở Tàu” [23; tr.71]. Đội ngũ giảng quan

này có thể là người Việt hoặc người nước ngoài. Bởi một điều đặc biệt trong bộ máy chính quyền của chúa Nguyễn là cho cả người nước ngoài, chủ yếu người Hoa, Nhật, người phương Tây giữ một số chức quan trong chính quyền của mình như chúa Nguyễn Phúc Chu mời Thiền sư Thích Đại Sán từ Trung Quốc sang giảng dạy Phật pháp. Chúa Nguyễn Phúc Tần đã cho vời linh mục Bartholomeu da Costa thuộc Dòng Tên vào làm quan Ngự Y trong Thái Y viện, giữ bên mình linh mục Antonio de Arnedo với tư cách một nhà toán học làm việc tại Khâm Thiên giám. Chúa Nguyễn Phúc Khoát đã cho mời khá nhiều linh mục phương Tây làm quan trong triều như linh mục người Đức Neugebauer đồng thời là một nhà thiên văn, nhà toán học; linh mục Dòng Tên Siebert (người Đức) làm bác sĩ trong phủ. Khi Siebert mất, thay bằng linh mục Slamenski và sau đó là giáo sĩ Jean Koffler, vừa là nhà toán học, vừa là quan ngự y rất được Võ Vương tin cậy.v.v…

Thầy giáo dạy học cho Thế tử, người sẽ kế vị ngôi chúa được phong chức Thế tử Thái sư, còn thầy dạy học cho các công tử, con cháu quan viên hoàng tộc được phong chức Thị giảng. Chức Thị giảng có thể là nguyên chức hoặc do các quan kiêm nhiệm, chủ yếu được lấy từ các viên quan giữ chức Tham chính, Cai bạ, Ký lục, Văn chức..., đây đều là các văn thần có trình độ, đức hạnh mà tên tuổi cùng sự nghiệp trước tác của họ còn được sử sách ghi lại và ca ngợi như Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Đăng Thịnh, Hồ Quang Đại, Nguyễn Cửu Thống, Trần Phước Thành... Sách sử cho biết Nguyễn Đăng Tiến (1701-1747) là một Nho sĩ am hiểu kinh thư nhưng không thi đỗ. Dưới đời chúa Nguyễn Phúc Chu, được tiến cử bổ làm Văn chức kiêm Thị giảng về sau thăng chức Ký lục Quảng Nam, ông có tác phẩm nổi tiếng là Minh Khiêm thi tập, Minh Khiêm sử tập. Hoặc Nguyễn Đăng Thịnh hiệu Chuyết Trai cũng từng đảm trách chức Thị giảng. Vốn sinh trưởng trong gia đình có truyền thống giáo dục, đỗ đạt, cha của ông là Nguyễn Đăng Trị (anh trai Nguyễn Đăng Đệ) từng đỗ Hương tiến, giữ chức Văn chức trong chính quyền chúa Nguyễn, nên ngay từ thuở nhỏ Nguyễn Đăng Thịnh đã “thông mẫn, học rộng, nhớ lâu và giỏi văn chương”. Ông đỗ Hương tiến dưới triều vua Hiển Tông, sau đó được bổ chức Tri huyện rồi Văn chức, đảm trách nhiều chức vụ quan trọng: Thị giảng, Đô tri, Cai hộ Quảng Nam, Nha úy. Ông là thầy giáo dạy học cho chúa Nguyễn Phúc Khoát, cũng chính ông đã soạn tờ biểu xin chúa Khoát xưng vương. Sau đó, ông được thăng lên Lễ bộ kiêm Lại bộ. Khi ông mất, chúa Nguyễn Phúc Khoát rất thương xót đã cho thu dụng những di cảo văn chương của ông như Hiệu tần thi tập, Chuyết trai văn tập, Chuyết trai vịnh sử tập...

Giúp việc cho các Học quan gồm một bộ phận các thuộc hạ như Thị đồng, Thái giám, Thư ký, một viên quan am hiểu về luật lệ, các nghi lễ trong vương quốc, cùng nhiều người phục dịch khác.

Ở cấp dinh (trấn), chúa Nguyễn cho đặt chức Giáo chức để quản lý việc học hành

66

và thi cử. Nho sĩ Phạm Hữu Kính đã từng giữ chức Giáo chức dinh Quảng Nam.

Ở cấp phủ, huyện tuy chúa Nguyễn không xây dựng hệ thống trường học, nhưng vẫn cho đặt chức quan trông coi phụ trách việc học tập và quản lý việc thí sinh trong địa hạt của mình tham gia thi cử, gồm hai chức Giáo thụ, Huấn đạo. Danh sĩ Nguyễn Đăng Đệ54 là cha Nguyễn Cư Trinh, từng giữ chức Huấn đạo ở huyện Minh Linh; Nguyễn Bảo Trí (quê Thừa Thiên Huế) từng giữ chức Giáo thụ; Nguyễn Cư Trinh từng được bổ giữ chức Huấn đạo; Nguyễn Văn Huân (1698-?) người làng Dương Nỗ, Thừa Thiên Huế (ông nội của Nguyễn Đức Xuyên 1758 -1824, một vị tướng trung thành của Nguyễn Ánh sau này) giữ chức Huấn đạo. Chức quan Huấn đạo được tuyển chọn từ những người thi đỗ trong kỳ thi Chính đồ, khoa thi được mở năm 1646 dưới đời chúa Nguyễn Phúc Lan nhằm lựa chọn người đỗ bổ nhiệm ra làm quan. So với ở Đàng Ngoài, chức Huấn đạo ở Đàng Trong còn đảm trách cả việc lễ nghi nữa khi chức quan này cùng với Lễ sinh trông coi việc tế tự miếu Văn thánh và các linh từ. Việc tuyển chọn giáo quan qua con đường khoa cử cho thấy sự quan tâm về việc học cũng như chính sách giáo dục đúng đắn của chúa Nguyễn.

- Học sinh Vào thế kỷ XVIII, tại thủ phủ Phú Xuân chúa Nguyễn đã cho mở ngôi trường Học Cung, nhưng học sinh trong trường gồm những thành phần nào hiện chưa có tư liệu để kê cứu. Tuy nhiên, vì số lượng học trò của trường rất đông “vài trăm người” như Lê Quý Đôn đã mô tả nên có thể thấy quy mô Học Cung cũng gần giống như Quốc Tử Giám ở Đàng Ngoài. Do vậy, học sinh theo học trong ngôi trường này có lẽ cũng gồm nhiều thành phần khác nhau, song chủ yếu nhất vẫn là con cháu trong hoàng tộc, con của các quan viên làm việc, sinh sống ở kinh đô Phú Xuân.

Ở cấp địa phương, các chúa Nguyễn tuy không cho mở trường học, nhưng lại cho đặt các viên Giáo chức, Huấn đạo để quản lý, giám sát việc tham gia thi cử của học trò chứ không thực hiện chức trách của một giáo quan. Ngược lại, các chúa Nguyễn lại rất khuyến khích việc học ở cấp làng xã (chủ yếu là lớp học các thầy đồ) và trường tư của các Nho sĩ. Chính các lớp tư này đã có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp đội ngũ Nho sinh tham gia vào các kì thi Thu vi Hội thí, Thám phỏng, Tam ty, thi Hương của chính quyền chúa Nguyễn.

67

-Chế độ đãi ngộ Là ngạch quan của Nhà nước nên Học quan cũng được hưởng một số chế độ đãi ngộ từ chính quyền chúa Nguyễn gồm: trang phục, bổng lộc, phong tặng chức tước, truy phong ấm thụ cho con cháu. Học quan được nhận trang phục gồm mũ, áo, tùy từng đời chúa mà có sự quy định về kiểu dáng, màu sắc khác nhau. Như thời chúa 54 Nguyễn Đăng Đệ vốn là Trịnh Đăng Đệ (1669 -1728), họ tổ của ông là Trịnh Cam quê xã Phù Lưu Trường, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang thuộc tỉnh Nghệ An. Khi Mạc Đăng Dung lên ngôi năm 1527, Trịnh Cam đi vào làng Tiên Nộn huyện Phú Vang (nay thuộc huyện Hương Trà) cùng em là Trịnh Quýt chiêu tập nghĩa binh tôn phù nhà Lê. Con trai ông là Trịnh Vĩnh Phu về sau dời đến làng An Hòa, huyện Hương Trà theo chúa Nguyễn Hoàng. Trịnh Đăng Đệ là đời thứ 6, thi đỗ khoa Chính đồ năm Ất Hợi 1695, giữ chức Huấn đạo phủ Triệu Phong, năm 1701 đỗ Hương tiến bổ Tri huyện huyện Minh Linh, đến năm 1708 được thăng Văn chức, được chúa Nguyễn ban cho họ Nguyễn, từ đó toàn tộc đổi làm Nguyễn Đăng.

Nguyễn Phúc Nguyên, các vị quan xuất thân khoa bảng thường mặc “một chiếc áo dài bằng nhiễu đen, phần dưới không xẻ thành nhiều vạt và không có nhiều màu”55. Đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, trang phục của các quan văn võ, dân thường được quy định một cách cụ thể. Sách Đại Nam thực lục cho biết: văn từ chức Quản bộ đến Chiêm hậu, Huấn đạo; võ từ Chưởng dinh đến Cai đội, mũ sức vàng bạc, áo dùng mãng bào hoặc gấm đoạn, theo cấp bậc [152; tr.153].

Về bổng lộc: ở Đàng Trong quan lại không được trả lương như Đàng Ngoài. Theo thể lệ của chúa Nguyễn, quan lại thuộc ngạch cao cấp thì được hưởng lộc điền nhưng mức hưởng nhỏ hơn Đàng Ngoài (thường từ 2 đến 10 mẫu) vì quỹ đất công ở đây khá hạn hẹp. Bà con thân thuộc nhà chúa và hạng bề tôi quý tộc được cấp mỗi người 10 mẫu, chức Chưởng cơ có 5 mẫu, Cai cơ được 4 mẫu, Cai đội được 3 mẫu, Nội đội trưởng được 3 mẫu rưỡi, Ngoại đội trưởng được 2 mẫu rưỡi [36; tr.133].

Cấp dưỡng chính của các quan là ngụ lộc, nghĩa là các quan tùy theo cấp bậc và chức tước của mình được chính quyền cấp cho một số nhân đinh, các nhân đinh này sẽ cung cấp cho vị quan này tiền bạc, gạo và một số dịch vụ khác như canh gác, giữ gìn nhà cửa…Ngược lại những “nhiêu phu” này được miễn thuế và lao dịch. Đối với quan Huấn đạo, mức quy định về chế độ “ngụ lộc” được Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn ghi chép cụ thể như sau: “Phu thủ lệ của phủ 10 người bao gồm chính hộ hạng dân, hạng lão 6 người, khách hộ hạng quân 4 người thì phủ quan thu được 9 quan 2 tiền; phu thủ lệ của huyện và sái phu (phu quét dọn) của Huấn đạo, đều 6 người (4 chính dân, 2 khách quân), được tiền đều 5 quan, 4 tiền. Huấn đạo các phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên sái phu 4 người (1 chính lão, 1 chính dân, 2 khách quân) được tiền 3 quan 5 tiền” [54; tr.198 -199]. Riêng ở phủ Thăng Hoa (Quảng Nam) chức Huấn đạo được nhận là 5 người, tiền thu được là 5 quan 4 tiền.

Con cháu các Học quan cũng được hưởng chế độ “tập ấm”. Theo lệ “tập ấm” ban hành năm 1707 dưới đời chúa Nguyễn Phúc Chu thì: “Các quan Tri phủ, Tri huyện, Huấn đạo, Giáo quan... có con cháu thì chiếu theo phẩm, theo thứ nhiều hay ít, con thì bổ làm quan viên tử, cháu thì bổ làm quan viên tôn” [152; tr.121]. Lệ này tiếp tục được duy trì dưới các đời chúa kế sau. Chúa Nguyễn Phúc Thuần đã ban cho con của Thị giảng Nguyễn Hữu Tôn được ấm thụ bổ vào Hàn lâm viện. Con của Nguyễn Cư Trinh là Nguyễn Cư Tiếu (1755 -1775) nhờ “tập ấm” mà được bổ vào Hàn lâm viện.

55Áo nói trên ở đây chỉ trang phục của tầng lớp giàu có trong xã hội. Theo Chirstophoro Borri mô tả về lối ăn mặc của cư dân xứ Đàng Trong ở thế kỷ XVII thì: đàn ông mặc váy thay vì quần cụt và cũng mặc 5 - 6 chiếc áo dài, rộng, bằng lụa mỏng khác màu nhau, tay áo khá rộng… đàn ông cũng như đàn bà đều để tóc dài.

68

2.3.2.3 Chương trình, cách thức dạy và học - Giáo khoa thư, chữ viết Qua ghi chép tư liệu phương Tây cho biết trường học Đàng Trong cũng dùng các sách Kinh điển của Nho giáo: Tứ Thư, Ngũ Kinh là những sách luận thuyết về luân lý

để làm công cụ dạy bảo học trò, trong đó Kinh Thi56 là cuốn sách được ưa chuộng hơn cả: “Cuốn sách họ chuộng hơn cả và họ quý trọng hơn cả là cuốn bàn về triết học luân lý gồm có đạo đức học, kinh tế học và chính trị học” [23; tr.71-72]. Bộ Tứ thư, Ngũ kinh này chứa đựng phần lớn số lượng Hán tự vốn có, phần lớn trong số đó không dễ dàng có thể hiểu được: “Người ta tính toán rằng có khoảng tám mươi nghìn chữ, nhưng người Đàng Trong đã rút bớt rất nhiều chỉ còn lại chừng ba nghìn chữ, học được bằng này chữ là có thể đọc thông viết thạo cũng như dùng được vào việc viết văn bài, thư tín, đơn từ, ký sự có dùng đến chữ Hán” [23; tr.72]. Ngoài ra, Nho sĩ Đàng Trong còn dùng các bộ sách khác như: Thông giám cương mục, Nhị thập tứ sử, Văn hiến thông khảo, Kỷ sự bản mạt, Tiềm xác loại thư, Phạm thư, Tạng thư và Cổ văn kỳ thưởng v.v...57, đây đều là những sách bàn về triết học luân lý như đạo đức học, kinh tế học, chính trị học. Ngoài ra, theo ghi chép của Chu Thuấn Thủy, người Đàng Trong thường hay hỏi ông về các chuyện thiên văn địa lý, đây đều thuộc lĩnh vực khoa học, kỹ thuật mà không phải là “cái đạo của thánh hiền, đại học hoặc kinh sách để trị quốc bình thiên hạ”. Hoặc họ cũng thường hỏi ông những chuyện mà họ đọc được từ Tam quốc diễn nghĩa hoặc Phong thần “mà cả tin là chuyện thật”. Chính cách đọc sách này theo như Chu Thuấn Thủy nhận xét thì “tựa như bỏ vàng ngọc mà chọn gạch đá, nhổ lúa xanh mà trồng cỏ tranh, không hiểu cái gì phải lấy, cái gì phải bỏ” [171; tr.348], cho thấy người Đàng Trong cũng học nhiều loại sách khác nhau.

56Kinh Thi (tức Mao Thi): là tuyển tập thơ ca dân gian Trung Quốc cổ đại từ đầu đời Chu đến thời Xuân Thu. Kinh Thi bao gồm ba phần: “Phong” gồm 106 bài dân ca của 15 địa phương. “Nhã” gồm 105 khúc ca diễn tấu góp vui trong các cuộc yến “tiệc”. “Tụng” gồm 104 bài ca ngợi công đức, diễn tấu trong tôn miếu. Kinh Thi có vị trí quan trọng bậc nhất trong việc bồi dưỡng trí thức văn học cho các Nho sinh. Theo ghi chép của Lê Đản (quê làng Thịnh Quang, nay huyện Trực Ninh, Nam Định) trong sách Nam Hà tiệp lục được tác giả biên soạn năm 1811, trên cơ sở dựa vào nguồn tư liệu chính là Nam Hà ký văn của Đặng Trọng An viết năm 1804 cho biết về chính sách của các chúa Nguyễn đối với Nho học như sau: “Sau khi vào Thuận Hóa, các chúa Nguyễn thấy việc dùng binh là gấp nhưng vẫn chưa từng bỏ phế Nho học chút nào. Việc học của Nho sĩ đều lấy Tứ thư và Ngũ kinh làm tôn chỉ. Bề tôi và chư tướng ở phên giậu cũng lấy văn chương mà nổi tiếng ở đời” [40; tr.66]. 57Chu Thuấn Thủy thông qua kể về một viên quan có am hiểu Nho học có nhiều sách cổ cho biết Đàng Trong có sử dụng rất nhiều sách cổ như Đàng Ngoài. Có thể thấy rõ điều đó qua đoạn hội thoại sau: Lê viết: “Ông này [viên quan đến hỏi] rất hiếu học, nhà có nhiều sách. Tôi mới hỏi, viết: “Tôn phủ có nhiều sách cổ chăng?. Viên quan trả lời đáp: “Có ít nhiều đủ đọc”. Tôi hỏi ông có các sách như sau chăng: Thông giám cương mục, Nhị thập tứ sử, Văn hiến thông khảo, Kỷ sự bản mạt, Tiềm xác loại thư, Phạm thư, Tạng thư và Cổ văn kỳ thưởng, Hồng tảo v.v... Viên quan đáp: “Đủ cả, duy tập Hồng tảo (cuốn sách giải thích nghĩa văn chương) thì không có”. 58 Ba cuốn sử thời Lục triều gồm Sử ký, Hán thư và Đông quan Hán ký. Sau đời Đường, “Tam sử” chỉ: Sử ký, Hán thư và Hậu Hán thư, có khi chỉ Chiến quốc sách, Sử ký hoặc Kinh thư, Kinh Thi và Xuân thu. 7 nước thời Chiến quốc gồm Tần, Sở, Tề, Yên, Hàn, Ngụy, Triệu.

69

Trong buổi đầu tạo mở nền giáo dục, do đây là vùng đất mới, điều kiện về chính trị, xã hội, giáo dục chưa phát triển thì việc chính quyền lựa chọn loại sách nào dùng để giảng dạy cho học trò một cách phù hợp là rất cần thiết. Khi ở Đàng Trong năm 1657, Chu Thuấn Thủy đã tâu lên chúa Nguyễn Phúc Tần nên lựa chọn loại sách học phù hợp khi học trò bắt đầu đi học. Ông cho rằng: việc học các bộ Ngũ kinh, Tam sử, Thất quốc, Lục triều58 là những sách hoặc có từ và ý quá sâu sắc, hoặc là học vấn quá thâm

uyên, hoặc “là lời lẽ nguyệt lộ phong tuyết quá văn hoa” thì nên để học sau cùng. Nên học cái gần nhất là cuốn Tiểu học, đây là cuốn “tập hợp những điều tinh yếu của các nhà hiền triết ngày xưa nhằm hướng dẫn người mới học vào cửa đạo đức, dạy trọng vua, kính cha mẹ, kính mình trọng người,... giả sử nếu dùng sách này để dạy người trong nước thì chắc chắn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho quân thượng”. Ông khuyên chúa Nguyễn không nên dùng các sách Hiếu kinh59 do lỗi về câu, nhất là không dùng sách của các tác giả có hành vi không tốt như cuốn Trung kinh do Mã Dung biên soạn sẽ làm dơ văn lâm (rừng học)” [171; tr.253]. Mục đích học các sách kinh điển này là nhằm học được cái gì ở đó như Chu Thuấn Thủy đã viết: ‘Độc thánh hiền thư, sở học hà sự (Đọc sách Thánh hiền để học được cái gì)” [171; tr.332].

Về sách lịch sử cũng gồm các bộ: Bắc sử qua bộ “Sử ký” của Tư Mã Thiên và Nam sử qua bộ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên. Ngoài ra, học trò cũng phải nghiền ngẫm các học thuyết của “Bách gia Chư tử” (bao gồm sách của những nhà triết học của Trung Quốc viết về đời Xuân Thu Chiến quốc và các đời Hán, Đường, Tống cho đến nhà Minh), Đường thi, Tống thi.

Giáo khoa thư dùng để học tập được lấy từ đâu? Không có tư liệu chính sử nào ghi chép tên một cơ quan hoặc bộ phận quan chức cụ thể đảm trách công việc này, nhưng chắc chắn các chúa Nguyễn đều có quan tâm đến hoạt động in ấn sách. Giáo sĩ Borri cho biết, Đàng Trong cũng như Trung Hoa ngành in đã được “phát minh” trước cả người châu Âu nhưng kỹ thuật thì chưa “hoàn bị”. Kỹ thuật in này theo sự mô tả của Borri: “Họ không xếp chữ nhưng dùng cái đục hay dao mà khắc hay đục trên một tấm gỗ những hình thái chữ mà họ muốn in trên sách. Rồi họ trải giấy trên bản gỗ đã khắc gọt và cho vào ép cũng như cách chúng ta làm ở châu Âu khi người ta in trên phiến đồng hay vật gì tương tự” [23; tr.73]. Trong hồi ký của Chu Thuấn Thủy có đoạn viết về sách sử của chúa Nguyễn góp phần khẳng định ít nhất có một bộ phận chuyên ghi chép và biên soạn sách vở đã có dưới đời chúa Nguyễn Phúc Tần: “Trước đó Du nghe nói là ở nước này sách sử rất hiếm hoi, không có gì ghi lại chứng cớ, nên có chết đi sợ không minh bạch. Nhưng sau đó vì biết rằng nước này cũng có nhiều sách, nên Du thấy thư thái hơn [vì cho dầu Du có chết đi cũng có người ghi lại lý do vì sao Du chết trong sử sách” [171; tr.334].

70

Trong khi học tập, thầy giáo còn dạy cho họ quy cách hành văn theo các thể loại văn được dùng trong thi cử như Kinh nghĩa, Chế, Chiếu, Biểu cùng thơ, phú, văn sách...để đáp ứng nhu cầu tham gia các kì thi, nhất là kì thi Thu vi hội thí. Việc rèn tập cho thí sinh các thể văn này dưới thời chúa Nguyễn được khẳng định rõ qua thể lệ phép thi của khoa thi Chính đồ chúa Nguyễn quy định năm 1646, theo đó khoa thi diễn Chỉ 6 nước đóng đô ở Kiến Khang kể từ nước Ngô thời Tam quốc: Ngô, Đông tấn, Tống, Tề, Lương, Trần. Trong văn học sử, “Lục triều” chỉ từ Ngụy đời Tam quốc, kinh qua đời Nam Bắc triều cho đến đời Tùy. 59Một sách kinh điển của Nho giáo, nói về đạo hiếu. Không rõ ai là soạn giả, có người cho là Tăng Tử hoặc của học trò Tăng Tử.

ra trong 3 ngày, ngày thứ nhất: thi văn tứ lục gồm 3 bài; ngày thứ hai: thi thơ, phú mỗi thể một bài; ngày thứ ba: thi một bài sách vấn.

Người Đàng Trong vẫn sử dụng chữ Hán làm văn tự chính trong học hành, thi cử, sáng tác văn học, văn bản hành chính ở cả triều đình, trong dân gian. Theo tác giả Nguyễn Duy Chính, trước khi người châu Âu đến thì người dân xứ Nam Hà “Họ đánh giá cao người Trung Hoa vì họ học chữ Hán, gọi Trung Quốc “nhà Đại Minh” tức vương quốc Nha sáng” [22; tr.40]. Tác giả Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định thành thông chí” viết: “Người nước ta đều học sách vở của tàu. Nếu có quốc âm và tiếng địa phương thì cũng dùng chữ trong sách Trung Quốc có thanh âm gần nhau rồi tùy loại mà gia thêm bên cạnh” [55; tr.185]. Tuy học và sử dụng chữ Hán của Trung Hoa nhưng trong cách viết chữ, sử dụng câu văn của người Đàng Trong có sự khác biệt. Chu Thuấn Thủy nhận xét: “Tuy trong thư chữ nghĩa (tự nghĩa) và câu văn (cú nghĩa) có nhiều chỗ là chữ An Nam (dùng nhiều chữ Nôm và viết theo cú pháp tiếng Việt), so với chữ Trung Hoa không giống nhau nhưng nội dung từ đầu chí cuối rõ ràng, và tôi hỏi rõ tất cả” [171; tr.335]. Hoặc J.Barrow đã viết trong tác phẩm của mình như sau: “Những người Nam Hà đã bảo tồn một cách có hiệu quả chữ viết Trung Hoa. Chúng tôi không thấy có khó khăn nào trong khi giao tiếp với họ về mọi vấn đề bằng phương tiện trung gian này, thông qua các nhà sư Trung Quốc [15; tr.99 -100]. So với chữ viết của Trung Hoa, chữ viết Đàng Trong có sự cải biến để phù hợp với tín ngưỡng địa phương khi người Nam Hà đã đưa vào những phụ âm B, D và R, và trong cách đặt câu. Với việc thêm các phụ âm này khiến cho “một người Trung Quốc dù có cố gắng bao nhiêu cũng không thể đọc được một âm tiết trong đó có một phụ âm kể trên”. Điều đó chứng tỏ chữ Hán đã được sử dụng rộng rãi và là chữ viết chính trong trường học thời chúa Nguyễn, nó có vai trò bản lề trong sự hiểu biết, giao lưu giữa hai nước Đàng Trong và Trung Quốc dưới thời quân chủ.

-Nội dung giáo dục và cách thức học tập Các chúa Nguyễn quan tâm đến giáo dục Nho học không ngoài mục đích để tuyển chọn được đội ngũ quan văn tham gia bộ máy chính quyền bên cạnh đội ngũ võ quan. Đối với hạng sĩ nhân, giáo dục và thi cử là con đường tiến thân đem tài năng và tâm huyết của mình để phục vụ cho chính quyền. Tuy nhiên do hạn chế về tư liệu lịch sử nên để có sự nhìn nhận bước đầu về mục đích, tư tưởng giáo dục ở Đàng Trong, tác giả luận án chủ yếu tìm hiểu vấn đề này thông qua quan điểm về giáo dục của một số Nho sĩ đương thời, và dựa trên những công trình nghiên cứu về sự nghiệp, tác phẩm hoặc những cảm nhận của học trò dành cho các vị thầy giáo trong hai thế kỷ này như thầy Võ Trường Toản, Vũ Xuân Nùng.

71

Nguyễn Cư Trinh sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống giáo dục Nho học ở xứ Nghệ An, nên trong tư tưởng của ông rất đề cao lối giáo dục này. Điều đó được thể hiện rất cụ thể thông qua chữ “tu” mà Nguyễn Cư Trinh đã mượn lời thoại của nhân

vật ông Sãi trong tác phẩm Sãi vãi60 với nội dung “tu”chính là quá trình học và nắm được tinh thần tinh túy của đạo Nho”. Theo lời của nhân vật ông Sãi thì bậc trí thức khi “tu” theo đạo Nho cũng là con đường để “tu đức, tu nhân”, hình thành nhân cách đức hạnh tốt đẹp: “Có tu đức thì thiên hạ mới được trị yên; Có tu nhân thì cơ đồ mới được củng cố” [222; tr.76]; đối với bậc quân tử là con đường để “tu đức thắng tài”, “tu minh đức để mà tân dân, tu tề gia để mà trị quốc”. Ông rất quan tâm đến kết quả của người học Nho. Theo ông, cái đạt của người học không phải là biết nhiều về lý thuyết, mà phải là người “Ngôn hành hợp nhất”, đưa kiến thức được học đi vào cuộc sống thực tiễn. Trong bức thư hồi đáp cho Mạc tổng binh Tông Đức hầu Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên, ông đã nêu rõ quan điểm này: “Tôi đây thì không thế. Lượm lấy cái nhỏ mọn ở bút mực mà đặt lên trên kẻ lại dân; được ghi chút tư ấm quá tầm thường mà giao cho trách nhiệm ở bờ cõi, thì vinh ngộ đến bực nào... Tôi đây là người đọc sách, nhưng như trong rộng, gần đi thì đều là những cái hiền hầu không đủ xem cả” [54; tr.326].

60Sãi Vãi là tác phẩm được Nguyễn Cư Trinh viết khi nhậm chức ở Quảng Ngãi năm 1751 bằng chữ Nôm. Đây là tác phẩm được viết theo thể văn Biền ngẫu, vần liền với nhau, gồm 680 câu, nhằm đề cao đạo Nho, đả kích mọi khuynh hướng mê tín và nhắc đến việc cần phải đánh giặc Đá Vách.

72

Điểm nổi bật nhất trong tư tưởng giáo dục của Võ Trường Toản là chú trọng dạy đạo nghĩa, thực tiễn và học vì đời [59; tr.22], trong đó đạo nghĩa được hiểu là lòng trung hiếu, là tinh thần xả thân thủ nghĩa, là lòng thành, là tiết nghĩa. Nền giáo dục trọng thực tiễn của Võ Trường Toản thể hiện qua những điều giảng dạy thiết thực, dạy người ta trở thành người hữu ích như học trò của ông đã nhận xét: “Học mà dụng tất cả công phu để giữ được điều ấy thì học mới thiết thiệt (thiết thực)” [59; tr.23], nhờ có tư tưởng này mà Võ Trường Toản đã có công đào tạo nhiều học trò thực sự có tài năng, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp trung hưng của nhà Nguyễn sau này như Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản... Trong phương pháp dạy học của Võ Trường Toản mang “một phong cách giáo dục phóng khoáng, xem nhẹ hình thức, chú trọng văn chương, thi phú, xiển dương tinh thần học Nho để làm người” [111; tr.294]. Chính điều đó đã từng bước góp phần hình thành cho nền giáo dục ở miền Nam sau này sự phóng khoáng, học vì đời chứ không hoàn toàn mang tính “lập thân” như phần lớn các sĩ tử ở Đàng Ngoài. Tư tưởng xây dựng một nền giáo dục mang tính thực học đó còn được thể hiện qua sự nghiệp của danh sĩ Vũ Xuân Nùng. Theo Quốc sử quán triều Nguyễn thì Vũ Xuân Nùng là Nho sĩ rất “sâu sắc về Kinh học, văn chương uẩn súc, thường cùng sĩ phu bàn bạc chuyện trò về nghĩa lý sâu xa của kinh sách, hăng say không biết mệt mỏi” [151; tr.224]. Kinh học là một phái trong Nho học Trung Quốc thời Thanh, được bắt đầu từ Nhan Nguyên (1635-1704), phái này chủ trương coi trọng về đường thực hành mà không nặng về nghiên cứu kinh điển. Chịu ảnh hưởng của phái này nên có lẽ trong mục tiêu, phương pháp dạy học của Vũ Xuân Nùng sẽ chú trọng đến việc giáo dục, đào tạo Nho sĩ học để đem tài năng phục vụ cho vương triều, cho

nhân dân. Chính vì chịu ảnh hưởng tư tưởng giáo dục của thầy, nên một trong những học trò xuất sắc của ông là Trần Phước Thành (? - 1777)61 người Hòa Vang, Quảng Nam, sau khi thi đỗ thủ khoa thi Hương đã trở thành vị quan đảm trách nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền chúa Nguyễn như Hàn lâm viện Thị giảng, Ký lục Quảng Nam, Khâm sai Cai bạ, Khâm sai Tham tán. Trên cương vị làm quan ông đã có nhiều đóng góp trong lĩnh vực giáo dục và quân sự đảm bảo an ninh vùng biên giới.

Về cách thức học tập rất ít tư liệu đề cập, nhưng qua ghi chép của Christoforo Borri chúng ta phần nào hiểu được không khí trong một lớp học vùng Đàng Trong thời đó diễn ra như thế nào: “Thật thích thú khi thấy và nghe họ học trong lớp, họ đọc và lớn tiếng xướng bài như ca hát. Họ phải làm thế để cho quen và tập cho mỗi lời một cung giọng riêng của nó” [23; tr.71]. Cũng do hạn chế về tư liệu nên việc khảo cứu về chế độ khảo thí học sinh trong trường học ở thủ phủ, trường tư của các Nho sĩ, luận án chưa có điều kiện trình bày. Ở cấp làng xã, thông qua một số bản khoán lệ, Hương ước của một số làng đã phần nào phản ánh được chế độ khảo thí đối với học trò thuộc vùng đất Đàng Trong xưa. Trong bản “Khoán lệ cựu định của làng Cảnh Dương, Quảng Trạch” (Quảng Bình) lập năm Chiêu Thống thứ 1 (1787) cho biết vào ngày tốt đầu xuân, làng tiến hành khảo khóa học trò ngay tại đình làng một cách nghiêm túc, trong đó những người học kém hoặc bị phạt tiền hoặc chịu sai dịch, còn ai học giỏi thưởng hoặc cho lên phủ học tập [194; tr.109]. Bản khoán lệ được lập năm Chiêu Thống thứ 1 (1787) khi nhà Trịnh đã làm chủ được vùng đất Thuận Hóa, do đó lệ khảo khóa này đã ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi lối học của vùng Đàng Ngoài. Tuy vậy, qua điều lệ đó cho thấy việc học ở làng xã thuộc vùng đất Đàng Trong xưa đã diễn ra như thế nào.

Tiểu kết chương 2: Thế kỷ XVII, XVIII là hai thế kỷ đặc biệt trong lịch sử phong kiến Việt Nam có nhiều biến động to lớn trên mọi lĩnh vực, nổi bật nhất là cục diện đất nước bị chia cắt làm hai miền Đàng Ngoài, Đàng Trong. Đặc điểm chính trị này đã tác động rất lớn đến mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có giáo dục, đặt ra cho chính quyền Đại Việt phải có chính sách giáo dục phù hợp nhằm đào tạo đội ngũ quan chức trung thành, cùng với triều đình cải biến được các biến động xã hội.

73

Sau khi hoàn thành sự nghiệp trung hưng, tạm thời chấm dứt cuộc nội chiến, triều Lê -Trịnh rất quan tâm đến việc tổ chức giáo dục, khoa cử để tuyển chọn nhân tài vào trong bộ máy Nhà nước. Triều Lê -Trịnh vẫn tiếp tục thực hiện các quy chế về giáo dục Nho học của thời Hồng Đức để củng cố ý thức hệ Nho giáo với học thuyết Tống Nho làm nền tảng cho sự phát triển giáo dục, khoa cử. Nội dung giáo dục thời kỳ này chủ yếu vẫn là những tư tưởng trong các thuyết Tam cương, Ngũ thường, chính danh định phận, nhằm đào tạo, tuyển chọn được đội ngũ quan lại Nho sĩ có đạo đức với đầy đủ các phẩm chất: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín có khả năng trị quốc, an dân và phục vụ giai 61 Trần Phước Thành còn có tên gọi Đại Tấn.

cấp thống trị.

Trên cơ sở kế thừa truyền thống Nho học được xác lập từ thời Lê sơ, triều Lê -Trịnh đã phát triển giáo dục Nho học ở Đàng Ngoài lên tầm cao mới. Hệ thống trường lớp được khuyến khích phát triển, phong phú về loại hình, phân bố ở nhiều địa phương, thu hút nhiều học trò theo học. Đặc biệt, từ thế kỷ XVIII đã xuất hiện trường “dân lập”, do nhân dân trong các làng xã tự đóng góp tiền, đất đai để xây dựng làm nơi học tập cho con em trong làng, tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nơi có truyền thống giáo dục Nho học lâu đời. Chính các trường dân lập này đã góp phần rất quan trọng hỗ trợ Nhà nước trong việc giáo dục, đào tạo một bộ phận đông đảo sĩ tử từ tầng lớp bình dân trong xã hội. Điều đó cho thấy trong hai thế kỷ XVII, XVIII giáo dục Nho học cấp làng xã đã có sự phát triển mạnh mẽ.

Ở Đàng Trong, cùng với quá trình mở rộng lãnh thổ về phía Nam, xác lập quyền tự trị trên một vùng lãnh thổ rộng lớn, thì nhu cầu tuyển chọn, phân bổ đội ngũ quan lại cho vùng đất mới khai phá là một trong những cơ sở để các chúa Nguyễn sớm nhận ra tầm quan trọng của việc xây dựng giáo dục, khoa cử theo lối Nho học. Mặc dù chưa xây dựng trường học ở cấp phủ, huyện nhưng các chúa Nguyễn lại rất khuyến khích việc học trong nhân dân, để nhân dân tự lập trường học với hai loại hình chủ yếu là trường của các Nho sĩ và lớp học thầy đồ, đồng thời cho lập Văn Miếu ở một số địa phương để thờ Khổng Tử cùng các bậc Tiên hiền là học trò của ông.

Tuy nhiên, vì Đàng Trong là vùng đất được xác lập muộn, lại là vùng đất lưu cư của nhiều tộc người khác nhau, trong đó có bộ phận người Hoa với thành phần người Minh, người Thanh đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành, mục tiêu, nội dung giáo dục và thi cử ở vùng đất này. Trong giáo dục, mặc dù vẫn lấy học thuyết Khổng Tử, lấy các sách Ngũ Kinh, Tứ Thư để giảng dạy cho học trò, nhưng trong phương pháp giảng dạy của một số lớp học của các Nho sĩ thời kỳ này đã có sự cởi mở và phóng khoáng hơn so với Đàng Ngoài khi không chỉ chú trọng vào việc đòi hỏi học trò phải tập trung nghiên cứu các sách kinh điển, mà còn hướng người học áp dụng kiến thức đã học thực hành vào trong cuộc sống. Từ đó cho thấy ở Đàng Trong đã từng bước hình thành nền giáo dục Nho học theo lối thực học, học gắn với hành. Đây là nét rất riêng trong mục đích học tập của nhân sĩ vùng đất Đàng Trong.

74

Như vậy, do mỗi vùng có điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội và nhất là truyền thống văn hóa khác nhau, cho nên trong chính sách cũng như tổ chức giáo dục giữa hai miền Đàng Trong và Đàng Ngoài vừa có điểm tương đồng, vừa mang nét riêng biệt. Dù vậy, sự phát triển giáo dục của Đại Việt thời kỳ này là cơ sở rất quan trọng để nhà nước thực hiện được mục đích đào tạo và tuyển chọn được nhiều nhân tài thông qua con đường cử nghiệp.

Chương 3:

KHOA CỬ NHO HỌC

Chính quyền Lê -Trịnh rất quan tâm đến việc tổ chức thi cử để tuyển chọn nhân tài. Ngoài các kì thi Hương, thi Hội, thi Đình được tổ chức đều đặn, triều Lê -Trịnh còn mở thêm một số khoa thi khác để không bỏ sót nhân tài như Sĩ vọng, Đông các, Chế khoa, Hoành từ, Ân khoa. Trong mỗi kì thi, Nhà nước lại quy định rất cụ thể về thể lệ, phép thi, nhiều nhất là kì thi Hương. Thống kê từ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, triều đình đã có 16 lần ban chỉ dụ liên quan đến kì thi này62, nội dung chủ yếu quy định về thể lệ phép thi, các biện pháp chấn chỉnh và xử lý những tiêu cực. Chẳng hạn vào năm 1694, trước thực trạng thể văn thi Hương ngày càng sa sút khi chỉ “chuộng nắn nót từng câu..., chỉ học thuộc lòng rồi theo đúng sách viết ra, không có ý gì khác”, triều đình ban chỉ dụ yêu cầu các trường thi phải “trở lại dùng văn thể thời Hồng Đức, làm văn tùy theo đề ra, quý theo lập ý mà dùng chữ, sao cho chính xác hồn hậu, không được chép lại bài cũ nhằm phát huy tính độc lập trong tư duy và văn học của học trò” [25; tr.28]. Thi Hương tuy tổ chức ở cấp địa phương nhưng lại có vai trò rất quan trọng vào việc tuyển lựa các Hương cống có đủ trình độ dự thi Hội giành học vị Tiến sĩ. Do vậy, việc triều đình Lê -Trịnh rất quan tâm đến khoa thi này là tất yếu.

62 Vào các năm 1664, 1678, 1694, 1711, 1720, 1721, 1726, 1732,1741, 1747, 1750, 1752, 1757, 1774. 63 Khảo hạch chính thức xuất hiện năm 1499 đời vua Lê Hiến Tông (1498 -1504), năm 1511 đời Lê Tương Dực (1509 - 1516) cho đặt nội dung cụ thể về kì thi này, phép thi Tứ trường ra đời.

75

3.1 Khoa cử Nho học Đàng Ngoài 3.1.1. Khảo hạch Khảo hạch là kì thi nhằm kiểm tra trình độ học vấn để xem học trò có thông hiểu nội dung của Ngũ Kinh, Tứ Thư, có biết làm thể văn tứ trường hay không? Thực chất của khảo hạch là nhằm đảm bảo về trình độ học vấn, một trong hai điều kiện bắt buộc cùng với lý lịch, đạo đức của Nhà nước đối với thí sinh để được dự kì thi Hương. Kì thi này được mở dưới thời Lê sơ63, triều Lê -Trịnh tiếp tục kế thừa gồm hai phép thi “tứ trường” và “sảo thông”. Trong đó phép thi “tứ trường” được đặt năm 1511, triều Lê -Trịnh áp dụng cho đến tận năm 1721. Nội dung phép thi Tứ trường được thể hiện rất rõ trong quy định của chúa Trịnh Tạc năm 1678, theo đó Xã trưởng có trách nhiệm khảo hạch sơ bộ ban đầu, kê khai đủ danh sách học trò thông văn lý theo quy định cả về trình độ và số lượng (xã lớn 20 người, xã vừa 15 người, xã nhỏ 10 người) dâng lên quan cấp huyện khảo duyệt lại, người nào làm đủ được thể văn bốn trường thì xếp vào loại tứ trường, người nào văn lý kém hơn thì xếp loại tam trường, nhưng tam trường và tứ trường này khác với tam trường, tứ trường của kì thi Hương. Người đỗ Tứ trường được cùng với Sinh đồ đỗ các khoa trước đưa riêng đi

thi Hương [25; tr.28]. Số lượng học trò dự thi Hương: huyện lớn được lấy 20 người, huyện vừa 15 người và huyện nhỏ 10 người.

Đến năm 1721, chúa Trịnh Cương định lại lệ khảo hạch, bãi bỏ phép “tứ trường” thay bằng thi “sảo thông”. Theo phép sảo thông, việc lập danh sách học trò cử đi khảo hạch phải từ cấp huyện. Huyện lớn được cử 200 người, huyện vừa 150 người, huyện nhỏ 100 người. Việc khảo hạch do quan Tri phủ hội với Hiệu quan (trường Phủ) cùng quan Tri huyện trong phủ khảo xét rồi trình lên quan cấp trấn (Tham chính và Hiến sát) để khảo lần hai. Ai biết luật làm thơ thì liệt vào hạng thứ thông, ai giỏi thì cho vào hạng sảo thông, được cùng kêu tỵ nhau để định ưu, liệt [25; tr.29]. Việc sử dụng hai phép thi khảo hạch “tứ trường” và “sảo thông” thời Lê -Trịnh trên thực tế không được sử dụng cố định nên phép tắc của kì thi cơ sở này đã phải thay đổi nhiều lần. Nguyên nhân là do những mặt hạn chế của nó. Trong phép thi “tứ trường” sẽ do hai ty Thừa, Hiến khảo lại nên dễ nảy sinh ra tệ người có tiền, có quyền chạy chọt làm lạm phát số người được đi thi, trong khi phép thi “sảo thông” lại dễ để lọt những người học giỏi. Rõ ràng cả hai phép thi này đều có những khiếm khuyết, dễ tạo điều kiện cho các hiện tượng tiêu cực nảy sinh. Năm 1741, trước những bất cập của phép thi “sảo thông” Nhà nước cho đổi sang phép thi “tứ trường” như phép thi quy định năm 1721, nhưng đến năm 1747, lại cho đổi sang phép thi “sảo thông”. Người đỗ khảo hạch không được ban học vị gì, ngoài 2 quyền lợi: được miễn không làm lao dịch, binh dịch (đi lính) và được tham dự kì thi Hương liền sau đó.

Vào năm 1752, chính sử có ghi lại chuyện cho nộp tiền “thông kinh”64 để dự thi Hương, nghĩa là người muốn thi Hương chỉ cần nộp 3 quan tiền là qua được kỳ thi khảo hạch, lên thẳng thi Hương. Rõ ràng, đây là một sự xuống cấp của thi cử Nho học, vì nếu trước đây chuyện dùng tiền gửi gắm tuy vẫn diễn ra nhưng còn bí mật, thì bây giờ đã công khai. Tuy chưa biết việc thu tiền này chấm dứt vào năm nào nhưng đến tháng 4 năm 1765, triều Lê - Trịnh lại ra chỉ thị yêu cầu phải: “nghiêm sức về việc khảo hạch học trò” và “ai còn giữ thói cũ để dư luận xôn xao, xét đúng thực thì trị tội” [25; tr.36], cho thấy hiện tượng này vẫn còn tồn tại.

64 Nhà nước hồi mới Trung hưng quy định, học trò đi thi mỗi người phải nộp 5 tiền gọi là tiền Minh Kinh để chi cho tiền ăn của hiệu quan, từ năm 1722 tiền này cho vào công quỹ của Nhà nước để chi phí cho việc làm trường thi, cung cấp đồ dùng quan trường. Về sau, do phong trào nông dân nổ ra nhiều, ngân sách Nhà nước không đủ chi phí cho việc thi cử. Theo ý kiến Thự phủ Đỗ Thế Giai, ngoài hạ tỷ lệ lấy qua khảo hạch, ai muốn thi Hương thì phải nộp thêm 3 quan tiền, gọi là tiền thông kinh do kiêng húy Minh Vương Trịnh Doanh. 65Khoa thi Hương đầu tiên được tổ chức năm 1373 dưới đời vua Trần Duệ Tông (1372 -1377) nhà Trần.

76

3.1.2 Thi Hương 3.1.2.1 Đối tượng dự thi Mục đích cuối cùng của người theo nghiệp “đọc sách thánh hiền” là thi đỗ rồi ra làm quan. Để đạt được mục đích, người đi học phải trải qua nhiều kì thi khác nhau với trình độ từ dễ đến khó, mở đầu là kì thi Hương. Vào năm 139665 thể lệ khoa cử với 3

kì: thi Hương, thi Hội, thi Đình mới được định hình và phân biệt cụ thể, theo đó cứ năm trước thi Hương, năm sau thi Hội, ai đỗ thi Hội nhà vua ra thi một đề văn sách để định thứ tự [25; tr.11].

Trên cơ sở kế thừa lệ “bảo kết” trong thi Hương của vua Lê Thánh Tông (ban hành năm 1462, quy định cụ thể về các đối tượng được tham dự hoặc không được dự kì thi Hương), lệ “đoan bảo” của vua Lê Hiến Tông (ban năm 1501) và có bổ sung thêm một số quy định mới, triều Lê -Trịnh quy định đối tượng dự thi Hương phải đảm bảo các điều kiện sau:

Về lý lịch và đạo đức: Thí sinh dự thi Hương phải là con nhà lương thiện, nếu là con cháu nhà phường chèo, con hát và những kẻ phản nghịch, ngụy quan có tiếng xấu thì không được dự thi. Đồng thời phải là những người có nhân cách, phẩm chất tốt, không thuộc loại bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, điêu toa... Trước kì thi, thí sinh phải nộp giấy “thông thân cước sắc” (lý lịch) khai rõ phủ, huyện, xã, tuổi cùng là chuyên học kinh nào, lý lịch của ông cha, không được gian dối giả mạo.

Về học vấn và năng lực: người dự thi Hương phải làm được thể văn Tứ trường, phải

là những người đã vượt qua kì thi khảo hạch trước đó tại địa phương mình.

Về độ tuổi: chỉ những ai đã đủ 18 tuổi trở lên mới được đi thi. Tuy nhiên, nếu người dự thi chưa đủ 18 tuổi nhưng có học lực khá thì cũng được khai tên và phải khai sổ đệ lên quan huyện, châu để khảo xét, không giới hạn tuổi tối đa. Năm 1722, chúa Trịnh Cương đã cho phép những quân nhân nếu có học lực mà gặp thi Hương có thể đăng ký để dự thi, điều đó thể hiện sự quan tâm đặc biệt của chính quyền Nhà nước tới việc mở rộng chính sách cầu hiền.

3.1.2.2 Địa điểm, thời gian thi Thi Hương diễn ra tại các địa phương không do triều đình đứng ra tổ chức, do vậy địa điểm thi không được dựng sẵn, thường trước khi mở khoa thi quan sở tại mới cho chuẩn bị dựng trường. Các trường thi được dựng trên những khu đất trống hoặc trên một cánh đồng đã được thu hoạch, vật liệu xây dựng rất đơn giản, chủ yếu làm bằng tre nứa. Kiến trúc trường thi Hương được chia thành 4 khu riêng biệt: một khu dành cho các quan Đồng khảo, Phúc khảo và Giám khảo ở; một khu dành cho các quan Đề điệu, Giám thí và Bách chấp sự (tức là những nhân viên thừa hành) ở. Hai khu này đều được rào kín. Hai khu phía ngoài dành cho sĩ tử theo ngày vào thi, xung quanh rào thưa. Chỗ hai con đường giao nhau (Thập đạo) trong trường thi dựng một căn nhà cỏ để tiện việc thu quyển thi [53;109]; [61; tr.18]. Theo Lê Quý Đôn, trường thi của nước ta từ thời Lê đã có sự khác biệt so với trường thi ở Trung Hoa. Sách Kiến văn tiểu lục ghi: Chu Xán trong Sứ giao kỷ sự có viết: “nơi khảo thí của nước ấy không có nhà, học trò ở trong lều tre, phục xuống đất mà viết” [53; tr.109].

77

Nhà nước không chu cấp kinh phí cho các địa phương dựng trường thi Hương mà phân bổ cho các địa phương sở tại có tổ chức thi đóng góp tiền, gạo, đồ vật (gồm

giường, chiếu, đèn dầu...) để làm kinh phí. Mức thu nhiều ít có khác nhau tùy theo xã lớn, xã nhỏ. Theo định lệ mức đóng năm 1678, xứ Thanh Hoa, Nghệ An cùng vùng Tứ trấn (Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương) thu mỗi xã phường sách lớn 2 quan tiền quý, 65 bát gạo, xã phường sách trung 1 quan 5 tiền quý, 50 bát gạo; xã phường sách nhỏ 1 quan tiền quý, 35 bát gạo mỗi bát là 6 cáp (tương ứng 1/100 của đấu); còn các xứ phiên trấn thì thu mỗi xã lớn 1 quan tiền gián, 20 bát gạo, mỗi xã sách trung 8 tiền gián, 15 bát gạo, mỗi xã sách nhỏ 6 tiền gián, 10 bát gạo, mỗi bát 6 cáp [25; tr.39]. Về đồ vật cung đốn phục vụ trường thi gồm nhiều loại, số lượng khác nhau, cụ thể: giường 6 cái; chiếu đan bằng nứa 6 cái; hòm 6 cái; chiếu cói tốt 6 đôi; bàn, dầu mỗi đêm 2 chĩnh vừa 5 bát; bấc đèn đủ dùng; cây đèn 10 cái; đĩa đèn 10 cái; chiếu cói thường 5 đôi; son một sọt; bát 10 đôi; giấy rộng 1.000 tờ; nồi nấu hồ 5 cái; rá to 10 cái; rơm cỏ đủ dùng; biển gỗ 5 cái; 1 cái chiêng, sách vở các tập [25; tr.44].

Trong buổi đầu, do bận cuôc nội chiến với họ Nguyễn nên Nhà nước chưa có quy định về thời gian mở thi Hương. Khi ban hành “điều lệ thi Hương” gồm 16 điều năm 1678, Nhà nước đồng thời quy định cụ thể ngày thi, theo đó sẽ tổ chức vào tháng 8 của năm. Phép thi trải qua 4 kì tương ứng 4 ngày: ngày 8 thi trường nhất; ngày 18 thi trường nhì; ngày 24 thi trường ba; ngày 28 thi trường tư. Quy định này áp dụng cho các xứ Thanh Hoa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương. Phủ Phụng Thiên và các xứ còn lại, gồm Thái Nguyên, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Yên Quảng, Quảng Nam, Thuận Hóa thì không bắt buộc. Trên thực tế không phải lúc nào Nhà nước cũng tổ chức thi Hương theo đúng định lệ vào tháng 8 và theo trình tự các ngày như trên, vì có những năm trong nước xảy ra biến loạn hoặc thiên tai nên khoa thi phải hoãn lại, được tổ chức vào thời gian khác sau đó của năm, chủ yếu vào tháng 1066.

3.1.2.3. Quan trường, trường quy Thời Lê -Trịnh, quan trường ở các trường thi Hương do triều đình cử ra, gồm ba ban với các hệ thống các chức quan được phân công, phân nhiệm cụ thể: một ban gồm các quan trông nom việc thi, một ban gồm các quan chấm quyển thi và một ban gồm các quan canh phòng nơi thi.

66 Như các khoa: 1696, 1711, 1747, 1750, 1759, 1765, 1768, 1772, 1779, 1783.

78

Chức Đề điệu và Giám thí là hai chức quan trông coi toàn bộ công việc của kì thi Hương (gồm cả việc chỉ huy các công việc về an ninh, theo dõi giám sát thực hiện các quy chế trong khi thi, giám sát việc chấm thi), mỗi chức đều dùng 1 người, thường dùng quan văn giữ chức vụ cao đảm nhận. Theo lệ năm 1678, trường thi phủ Phụng Thiên dùng một viên Đô cấp sự trung (Chánh thất phẩm) để làm Giám thí. Các xứ Thanh Hoa, Nghệ An, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Dương dùng quan văn trọng chức ở xứ để làm. Xứ Thái Nguyên, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Yên Quảng, Thuận Hóa, Quảng Nam dùng các quan hai ty Thừa chính và Hiến sát.

Chức Giám khảo và Đồng khảo là các chức quan tham gia chấm bài thi, đây là hai chức quan giữ vai trò quan trọng nhất vì họ trực tiếp đọc bài thi, cân nhắc lựa chọn những bài thi tốt, những thí sinh có năng lực để tiếp tục tham gia thi Hội. Do vậy, việc lựa chọn viên quan đảm trách hai chức này rất được coi trọng, họ phải là những vị quan uyên thâm về trình độ, chủ yếu được lấy từ các trọng thần ban văn. Cụ thể: chức Giám khảo dùng quan trong Hàn lâm viện (gồm chức Thừa chỉ, Thị độc, Thị giảng, Trực học sĩ…) và khoa (Lục khoa), đạo (Giám sát Ngự sử các đạo). Chức Đồng khảo dùng các quan Đoán sự, Lang trung, Viên ngoại lang, Tri phủ, Giáo thụ, Học chính, Tri huyện, Tri châu và bổ sung thêm các viên Huấn đạo, Cai bạ đã từng thi Hội trúng được ba kì, có văn chương, danh dự và đức vọng.

Chức Phúc khảo: gồm ba viên, chuyên làm nhiệm vụ kiểm tra lại việc chấm bài của Giám khảo và Đồng khảo, các quan đảm nhận chức vụ này có chức vụ tương đương hoặc hơn cả quan Giám khảo và Đồng khảo.

Chức Di phong và Soạn tự hiệu dùng các viên Tá nhị67 ở phủ, huyện châu trong xứ ấy, người nào thanh liêm, công bằng mới được đảm nhận. Nhưng nếu viên nào quê ở xứ có trường thi thì không được dự. Trong đó: Di phong là viên quan chuyên giữ việc dán kín tên ở quyển thi để người chấm không biết quyển thi của ai. Soạn Tự hiệu là chức quan giữ việc biên số hiệu vào các quyển thi.

Đằng lục (thời Lê sơ gọi là Đằng tả) là chức quan làm nhiệm vụ chép lại bài thi của thí sinh, để đem bài chép lại đi chấm, bài chính thì cất đi. Đối độc là chức quan đọc duyệt xem bản chép lại có đúng nguyên văn không. Hai chức quan này thường lấy các lại viên đã thi đỗ khoa thư toán, quê ở xứ khác trường thi.

Triều đình Lê - Trịnh cũng quy định khá cụ thể việc cắt cử quan viên đảm trách việc canh gác, đảm bảo an ninh, trật tự để thi Hương diễn ra nghiêm túc. Trong đó, ở các trường thi Thanh Hoa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc và phủ Phụng Thiên, quy định mỗi trường cho đặt chức Tuần xước. Chức này được lấy từ một viên quan võ để đốc suất quân lính ngày đêm canh gác, giữ gìn trật tự an ninh trong kì thi. Với các trường ở phiên trấn xa xôi thì do các quan Đô ty cắt bổ dân thủ lệ trong hạt canh gác ngoài trường.

79

Nhìn chung, trong chính sách xếp đặt quan trường tham gia tổ chức, giám sát và chấm điểm kì thi Hương, triều Lê -Trịnh đã có sự phân ban, phân bổ trách nhiệm rất cụ thể nhưng cũng khá linh hoạt cho từng địa phương. Đối với trường thi gần Kinh đô, nơi có nhiều Nho sinh dự thi như phủ Phụng Thiên, vùng Tứ trấn, xứ Thanh Hoa, Nghệ An, quan trường đều là những trọng thần, giữ chức vụ cao ở triều đình và địa phương cùng tham gia tổ chức, giám sát, chấm bài. Trong khi ở các vùng biên viễn như Thái Nguyên, Hưng Hóa, Lạng Sơn, Yên Quảng, Quảng Nam, Thuận Hóa, do trình độ học vấn chưa phát triển, ít thí sinh nên chủ yếu sử dụng các quan sở tại đảm 67 Tá nhị: chỉ những chức phó làm việc ở các nha.

trách việc trông thi. Sự linh hoạt này phần nào thể hiện sự khôn khéo của Nhà nước trong chính sách khích lệ việc học, việc thi cử của người dân nơi đây nhằm đào tạo, tuyển chọn được đội ngũ quan lại có trình độ sẽ tham gia xây dựng, bảo vệ cương vực lãnh thổ tại vùng phiên dậu xa xôi.

Trường quy: Ngoài đảm bảo về lý lịch, đạo đức, thí sinh dự thi Hương phải nộp tiền làm sổ thi với mức là 1 tiền quý, 1 bát gạo tại huyện, châu và huyện quan, số tiền này được các quan chia nhau và không lấy thêm gì nữa [25; tr.38]. Thí sinh cũng phải tự chuẩn bị đủ các đồ dùng để phục vụ cho việc thi như lều, chiếu, yên, chõng, tráp đựng bút, mực, dao, kéo và một cái ống gỗ đeo ở cổ để đựng quyển thi gọi là ống quyển. Đến ngày thi, thí sinh phải tuân thủ một số quy định (trường quy) rất nghiêm ngặt như ngồi đúng vị trí thi, không mang sách hoặc giấy viết sẵn vào trường, nếu khám thấy thì bị phạm tội “hoài hiệp văn tự” và bị cấm thi. Khi bắt đầu hiệu lệnh vào thi, thí sinh phải đi lấy dấu “giáp phùng” ở trang 2 và 3 của quyển thi để ngăn chặn việc đổi phần dưới của quyển thi hoặc đem quyển thi viết sẵn từ ngoài vào thay thế; thí sinh tự đi chép đề bài thi về làm và đến giữa buổi lấy dấu “nhật trung”.

Trong bài viết của thí sinh không được vi phạm các lỗisau: bạch tự : nghĩa là chữ đáng viết kép lại viết đơn; bất túc: viết không đủ số chữ quy định cho bài thi; duệ bạch: tức là lỗi để giấy trắng; tì ố: lỗi dây bẩn quyển thi; khiếm trang: tức là viết những chữ không có nghĩa đẹp đẽ mà có nghĩa xấu như bạo, sát, tối tăm, tàn bạo trên những chữ chỉ vua như hoàng thượng, quân vương…; khiếm tỵ: nghĩa là lỗi không biết tránh chữ húy, gồm 2 loại: trọng húy là những chữ chỉ tên vua, hoàng hậu đương triều; khinh húy là những chữ nói đến tên các điện, các lăng tẩm của vua [26; tr.86]. Nếu thí sinh phạm lỗi trọng húy thì bị tù đày, thầy giáo giảng dạy cũng bị liên lụy gồm bị phạt tù, hạ chức, hạ lương. Khiếm đài: là lỗi mà thí sinh gặp chữ tôn quý nhưng không viết trồi lên khỏi dòng thường. Cụ thể ở đầu trang giấy trong mỗi quyển thi, sĩ tử phải để lại một khoảng cách, ở dưới đó chia làm 3 khoản để nếu có gặp những chữ tôn kính thì viết “đài” ở chỗ cách [182; tr.82].

Thể lệ năm 1678 còn yêu cầu thí sinh khi làm bài phải có thể thức văn trong sáng, gần thực tế, không dùng ngôn từ phù phiếm, chữ viết phải y như bản chính: “Những chữ thực, như chữ Kinh truyện là lời cách ngôn của thánh hiền, nét chữ phải viết y như bản chính, nếu viết sai, đều cho là chữ không thành” [25; tr.41].

80

Rõ ràng, khi dự kì thi Hương, thí sinh phải tự chuẩn bị tất cả mọi thứ mà không có sự hỗ trợ của Nhà nước. Trong khi thi, thí sinh phải tuân thủ một số trường quy rất nghiêm ngặt, từ quy định về chỗ ngồi, quy cách viết chữ, thể cách làm văn cùng những điều cấm trong trường thi; nếu ai vi phạm sẽ bị xử, đuổi ra trường thi hoặc không công nhận kết quả. Những quy định này cho thấy, ngay từ thi Hương, Nhà nước đã rất đề cao việc đảm bảo cho kì thi diễn ra nghiêm túc nhằm lấy được những người có thực tài để tiếp tục tham dự kì thi tiếp sau. Nhưng một số trường quy rất khắt khe, nhất là về

chữ húy đã làm cho nhiều thí sinh thực sự có tài năng nhưng vì vi phạm một lỗi nhỏ, nên suốt đời không thể tiến thân bằng con đường khoa cử được.

Đối với quan trường: Nhà nước yêu cầu phải thực hiện đúng chức trách, nghiêm sức giữ phép công, không được theo ý riêng, không được thông đồng trước để làm điều mờ ám trên quyển thi, nếu phát hiện sẽ bị trị tội. Thậm chí, vào năm 1717 triều đình còn khuyến khích các quan viên, Nho sinh ở trường thi xứ Thanh Hoa, Nghệ An và vùng Tứ trấn được phép tố giác những quan viên có hành vi “nhũng lạm”, ai không tố giác, nhất là Nho sinh phát hiện mà không tố thì vừa bị hủy kết quả vừa bị luận tội. Bởi vậy, trong mỗi trường thi khi phát xong đề thi, quan thí viện (Đề điệu và Giám thí) ngồi trên chòi gác ở nhà Thập đạo cùng các quan giám sát để coi xét sĩ nhân làm bài nhằm phát hiện ai vi phạm trường quy. Triều Lê -Trịnh vẫn duy trì nguyên tắc lệ hồi tỵ khi quy định các viên Di phong, Soạn tự hiệu, các viên lại viên mà quê ở xứ có trường thi thì không được dự trông coi việc thi, phải xin chuyển làm việc ở trường thi khác.

3.1.2.4 Cách thức ra đề thi, chấm thi và ngạch lấy đỗ Đến thời Lê - Trịnh, thí sinh dự thi Hương vẫn theo phép thi được quy định một

cách chặt chẽ từ thời Hồng Đức gồm 4 kì thi (trường thi) với bốn bài thi khác nhau.

Kì thứ nhất (nhất trường): thí sinh làm bài về Kinh nghĩa (bao gồm cả Kinh nghi,

tức là những điều còn chưa thật rõ ràng trong Ngũ Kinh và Tứ Thư nghĩa).

Kì thứ hai (nhị trường): thí sinh thi thơ, phú, mỗi thứ 1 bài. Trong đó thơ làm theo

thể Đường luật, phú cũng làm theo lối cổ thể, còn gọi là Ly tao.

Kì thứ ba (tam trường): thí sinh làm bài về các văn bản hành chính thời phong kiến,

gồm: Chiếu, Chế, Biểu; mỗi loại một bài.

Kì thứ tư (tứ trường): thí sinh làm bài văn sách, đề tài rút ra từ các kinh sử hỏi về

thời vụ (chỉ ý thức về việc giúp nước cứu đời).

Về cách thức ra đề: Buổi đầu Trung hưng, quan Đề điệu và Giám thí có trách nhiệm biên soạn đề thi, thường các quan tự nghĩ ra đề bài trước, dùng Tứ Thư, sử, tứ lục độ hơn 10 bài, phú 5, 3 bài, đề đặt sẵn, không có thay đổi sau đó lựa chọn một trong số các đề thi có sẵn để làm đề thi. Tuy nhiên, cách ra đề bài theo lối này dẫn tới hiện tượng làm bài sẵn để bán, người thi biết trước đề nhờ người khác làm hộ hoặc mang sách vở vào trường thi. Để khắc phục “tệ tục” khoa trường này, vào khoa thi năm 1711, Nhà nước yêu cầu quan trường phải thay đổi cách ra đề, theo đó “tùy ý ra đề, không được theo lối cũ nữa”. Từ năm 1720 trở đi, chúa Trịnh trực tiếp chỉ đạo việc ra đề cho kì thi Hương. Chúa Trịnh Cương cho rằng, khoa quyết định là ở kì đệ tam và kì đệ tứ, nên đã sai văn thần ở trong phủ soạn đầu đề thi rồi cho chạy trạm, phân về các trường thi ở xứ Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc, đặt làm lệ thường; riêng hai xứ Thanh - Nghệ do xa xôi không theo lệ này.

81

Nội dung của kì thi Hương rất ít tư liệu đề cập đến. Tuy nhiên, qua một số khoa thi Hương tại trường thi Sơn Nam hạ được ghi lại trong sách Phượng Dực đăng khoa

lục68 có ghi chép một số đề thi thơ, phú (kì thứ 2) và sách vấn (kì 4) cho thấy nội dung thi chủ yếu hỏi thí sinh về sách lược trị nước, cách thức lựa chọn và sử dụng nhân tài, phương thức cai trị nhân dân. Chẳng hạn, trong khoa thi năm 1708 có đề bài sách vấn như sau: “Nhân tài hữu quan ư tri đạo?” (Nhân tài có quan hệ gì đến đạo trị nước); khoa thi 1732 ra đề thơ: “Kinh luân thiên hạ đại kinh” (Cách thức trị yên thiên hạ); hoặc khoa thi năm 1739 ra đề phú: “Tuyển hiền, nhậm năng” (Tuyển chọn người tài đức, sử dụng người tài năng) [132; tr.41; tr.57; tr.65].

Về cách chấm thi: Thời Lê - Trịnh, thể lệ chấm điểm quyển thi Hương chủ yếu theo lối “phân số”, đây là cách chấm dùng thang điểm 4 bậc ưu, bình, thứ, liệt để phân hạng chất lượng bài thi. Phép chấm như sau: cứ mỗi kì thi chấm các bài đều đánh giá ưu, bình, thứ, liệt. Ai bị liệt là hỏng, ai đạt ưu, bình, thứ thì vào thi kì sau, hết kì thứ hai sang kì thứ ba. Đến kì thứ tư cũng chấm hoàn toàn như thế: ai đỗ kì thứ nhất thì được vào kì thứ hai, đỗ kì thứ hai vào kì thứ ba, đỗ kì thứ ba vào kì thứ tư. Sau đó các quan sẽ xem xét cụ thể các bài cùng loại ưu, cùng loại bình, cùng loại thứ rồi sắp xếp thứ tự người đỗ trong cùng một loại, từ đó xếp thứ tự chung số người đỗ của cả khoa thi. Với cách chấm này, Nhà nước chỉ căn cứ vào kì thi thứ 4 để lấy đỗ và xếp loại đỗ, còn các kì trước chỉ là điều kiện để đi tới kì cuối cùng được đánh giá. Cách chấm này không đánh giá toàn diện tài năng của từng thí sinh ở tất cả nội dung các bài thi. Đến năm 1725, triều đình cho thi hành lối chấm điểm phân “tích” trong thi Hương, thi Hội với nội dung chia các quyển thi thành từng “tích” (thành nhóm) để khảo duyệt, mỗi “tích” gồm hai viên. Trong đó “Các quan trường xét quyển rồi hội đồng với nhau để chấm, một người đọc, một người nghe, xét kỹ càng rồi mới định là lấy hay bỏ” [38; tr.99]. Việc thay đổi cách chấm thi của Nhà nước nhằm mở rộng con đường cầu hiền tài, không bị thói quan trường làm bỏ sót, qua đó Nhà nước cũng mong muốn những người chấm thi phải có thái độ, tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc của mình.

68Sách ghi chép các nhà khoa bảng làng Phượng Dực, huyện Phú Xuyên, Hà Nội. Sách do Hương cống Đinh Danh Bá viết năm Cảnh Hưng 7 (1746). Tham khảo bảng thống kê 3. Một số đề thi thơ, phú, sách vấn trong thi Hương thời Lê - Trịnh. Phụ lục -tr.22.

82

Về hạn ngạch lấy đỗ: Trên cơ sở kết quả chấm thi, các trường sẽ lấy ngạch đỗ theo sự phân bổ của Nhà nước và ban cấp học vị cho họ. Thông thường, việc quy định hạn ngạch lấy đỗ cho các trường được thực hiện trước mỗi khoa thi, nhưng một số khoa thi như năm 1711, 1726, 1783, hạn ngạch lấy đỗ được tăng thêm khi đã có kết quả thi. Kết quả lấy đỗ của thi Hương phân theo hai loại: đỗ bốn kì thi Hương được gọi là Hương cống; đỗ ba kì được gọi là Sinh đồ. Những người đỗ một kì, hai kì không có danh hiệu chính thức, thường được gọi là trúng nhất trường, trúng nhị trường. Tỷ lệ lấy đỗ theo nguyên tắc 10:1, nghĩa là cứ lấy 10 người đỗ hạng Sinh đồ, thì lấy 1 người đỗ hạng Hương cống.

Số lượng lấy đỗ của mỗi khoa thi Hương giữa các trường thi không nhiều và không giống nhau. Qua bảng thống kê 4. Các sự kiện liên quan đến thi Hương triều Lê - Trịnh (Phụ lục - tr.23) có thể thấy, trường thi Sơn Nam trước năm 1720 được lấy 60 Hương cống, 600 Sinh đồ. Đến năm 1720, chúa Trịnh Cương cho trường này tăng thêm 20 Hương cống, 200 Sinh đồ thành 80 Hương cống, 800 Sinh đồ. Từ năm 1740, Sơn Nam tách thành hai trấn Sơn Nam thượng và Sơn Nam hạ, nhưng đến khoa thi năm 1768 số Hương cống cũng chỉ được tăng lên thành 100 Hương cống, 1.000 Sinh đồ. Ở trường phủ Phụng Thiên, trước năm 1726 chỉ lấy đỗ 10 Hương cống, 100 Sinh đồ, đến năm 1726 triều đình cho lấy thêm lên 20 Hương cống và 150 Sinh đồ. Riêng với trường thi Thanh Hoa (gồm thí sinh Ninh Bình và Thanh Hóa dự thi) chúng tôi thống kê 27 khoa thi Hương từ năm 1702 đến 1783, tổng số lấy đỗ 1080 người, ngạch lấy đỗ trong mỗi khoa thi không giống nhau, khoa thi lấy đỗ nhiều nhất là năm 1747: 68 Hương cống, năm 1726 lấy đỗ 64 người, các khoa 1720, 1729, 1735, 1738 lấy đỗ từ 59 đến 60 người; thấp nhất là khoa thi năm 1714 chỉ lấy đỗ 9 người; các khoa thi năm 1711 và 1723 đều lấy đỗ 12 người, năm 1732 lấy đỗ 17 người; các khoa khác lấy đỗ trung bình từ trên 35 người đến 58 người69. So với đời Lê Thánh Tông70 trải qua thời gian gần ba trăm trăm phát triển, dân số tăng lên, số người đi học ngày càng nhiều nhưng hạn ngạch lấy đỗ thi Hương thời Lê - Trịnh lại giảm đi.

3.1.3 Thi Hội 3.1.3.1 Đối tượng dự thi Đối tượng dự kì thi Hội dưới triều Lê - Trịnh không khác biệt so với thời Lê sơ, gồm các thành phần: Hương cống, Giám sinh, con của quan viên học ở Chiêu Văn quán, Tú Lâm cục; con cháu họ nhà vua học ở các phủ đệ; các sĩ nhân đã đi làm quan có trình độ muốn xin thi. Nhưng theo quy định, những đối tượng này phải có trình độ học vấn nhất định, phải qua kì khảo hạch nếu đủ điều kiện mới được dự thi. Riêng với hạng Ân giám, Ấm giám của Quốc Tử Giám để dự thi Hội, họ phải trải qua bài sát hạch do quan Tế tửu, Tư nghiệp phụ trách, nếu đạt sẽ được làm danh sách xin Bộ Lễ và triều đình cho đi thi. Số lượng thí sinh dự thi Hội thời rất đông, thường từ 1000 thí sinh trở lên, khoa thi có số thí sinh dự thi đông nhất là năm 1640, với 6000 người.

69 Số liệu tác giả thống kê từ: Thu tỷ đề danh ký, bản đánh máy lưu tại Thư viện tỉnh Thanh Hóa. 70 Vua Lê Thánh Tông cho lấy ngạch đỗ trường thi Sơn Nam mỗi khoa 130 Hương cống, khoảng 1300 Sinh đồ.

83

3.1.3.2 Địa điểm và thời gian tổ chức thi Hội Thi Hội là khoa thi do triều đình đứng ra tổ chức và chuẩn bị sẵn trường thi. Thời Lê -Trịnh, trường thi Hội vẫn được tổ chức ở Kinh đô, đặt trước sân điện Giảng Võ bên trong Hoàng thành Thăng Long (dưới thời Lê, trường thi này nằm ở phía Tây Nam Hoàng thành, gần khu Giảng Võ và Ngọc Khánh bây giờ). Theo thể lệ thi Hội quy định năm 1664, trường thi Hội được dựng trên địa thế rộng rãi, được làm 4 vi. Xung quanh trường thi, triều đình cho rào bao quanh thành hai lớp, lớp bên ngoài có hào

rãnh cắm trông tre cốt cho kín vững. Trong sân được chia làm 4 ô, thí sinh chiếu theo danh bài ngồi trong từng ô, mỗi ô dựng lều tre che chắn. Còn quan trường thì được xếp vị trí riêng. Tuy nhiên, có một số khoa thi, trường thi Hội được đặt ở địa điểm khác, như khoa thi năm 1595 vì khoa này nhà Lê mới về Thăng Long nên đã mở trường thi Hội mở ở bến Thảo Tân (phía Nam sông Nhị Hà). Khoa thi năm 1688 trường thi mở ở bãi cát [Bãi Giữa] bên sông Nhị Hà, nguyên nhân là do “vì mùa đông khô ráo, tiện cho cả quan trường và người đi thi” [141; tr.416]. Đến khoa thi năm 1787, thi Hội được mở ở lầu Ngũ Long ở bến sông Nhị Hà (lầu nằm phía đông thành Thăng Long, có vị trí vào khoảng giữa hồ Hoàn Kiếm và cung Tây Lương đương thời), vốn là nơi các chúa Trịnh Cương, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm... đã tiến hành các kỳ thi phúc khảo lại các Hương cống, đây đồng thời là nơi chủ trì thao diễn quân đội của các chúa Trịnh.

Về thời gian thi: Triều đình Lê -Trịnh đảm bảo tổ chức kì thi Hội theo thể lệ năm trước thi Hương, năm sau thi Hội. Theo quy định năm 1664, trường nhất (kì thứ nhất) của thi Hội sẽ bắt đầu vào ngày 16 tháng 3. Các trường thi sau (trường nhì-kì 2, trường ba - kì 3, trường tư - kì 4) được mở vào thời gian cụ thể tiếp nối nào không thấy tư liệu đề cập đến. Tuy nhiên, qua điều khoản quy định về quy cách cấp phát đề thi của mỗi trường thi được ghi chép trong Lịch triều hiến chương loại chí được quy định năm 1664, cho thấy ít nhất cứ cách nhật một ngày, thí sinh sẽ tham gia vào trường thi tiếp theo: “Mỗi trường, trước một ngày, các quan Đề điệu tâu xin đề thi, đến ngày thi thấy ngự đề vua ban xuống, quan thí trường phải theo phép nhận rõ ấn nhà vua và chỗ niêm phong” [25; tr.51]. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố tác động nên thực tế thời gian thi Hội đã không diễn ra theo đúng thể lệ.

Từ thống kê: Bảng 5. Thời gian tổ chức thi Hội và thi Đình của một số khoa thi Tiến sĩ thế kỷ XVII – XVII (Phụ lục - tr.24) cho thấy, kì thi này được tổ chức vào nhiều thời điểm khác nhau: tháng 2, tháng 3, tháng 4, tháng 8, tháng 10, 11 và tháng 12 chứ không nhất thiết theo lệ tháng 3. Trong 65 khoa thi Hội được mở từ năm 1595 đến 1787 thống kê, có 61 khoa thi ghi rõ thời gian tổ chức vào mùa, tháng cụ thể trong năm, gồm: 40 khoa mở vào mùa xuân (tháng Giêng, 2, 3); 2 khoa mở vào tháng 4 - đầu hạ; 17 khoa mở mùa đông (tháng 10, 11, tháng Chạp). Mùa xuân được Nhà nước ưu tiên để chọn tổ chức khoa thi Hội, nên dân gian thường gọi là “xuân thí” với lệ cứ ba năm tổ chức một lần thi Hội. Tuy nhiên có một số khoa, khoảng cách giữa hai khoa thi Hội không đều nhau, ví dụ từ khoa thi năm 1623 đến 1628 cách 5 năm.

3.1.3.3 Quan trường Theo thể lệ thi Hội trong Lịch triều hiến chương loại chí, bộ phận quan trường coi

và chấm thi Hội thời Lê - Trịnh gồm các chức quan sau đây:

84

Quan Đề điệu: người trông coi toàn bộ công việc của kì thi. Chức quan này gồm 1 người (cũng có khoa thi dùng 2 người), thường dùng đại thần ban võ từ các chức Thái úy, Thiếu bảo, Thái phó… để đảm trách. Nhiều người trong số họ đều có mối quan hệ

thân thuộc với nhà chúa, là anh em hoặc là các vị đại thần như Trịnh Đỗ, Trịnh Đệ, Trịnh Khuê, Trịnh Quân, Lê Lựu, Hoàng Nghĩa Phì… đã từng giữ chức Đề điệu.

Tri cống cử: gồm có 1 viên, được lấy từ những vị quan đã đỗ Tiến sĩ, do Thượng

thư các bộ hoặc Đô Ngự sử đảm nhiệm, có nhiệm vụ chỉ đạo công việc chấm thi.

Giám thí: gồm có 2 viên, phần lớn dùng các quan Tả Hữu Thị lang hoặc Thiêm đô Ngự sử có nhiệm vụ chỉ huy các công việc về an ninh, theo dõi giám sát thực hiện các quy chế trong khi thi. Như khoa thi Hội năm 1673, triều đình cho lấy Thái tể Bỉnh Quận quốc công Trịnh Quế giữ chức Đề điệu, Lễ bộ Tả Thị lang Phượng Trì nam Nguyễn Quốc Khôi (Quốc Trinh) làm Tri cống cử; Lễ bộ hữu Thị lang nhập thị Kinh diên Bồi tụng Thọ Nham tử Nguyễn Đình Chánh và Hình bộ Hữu thị lang Tuyển Lĩnh bá Bùi Đình Tri làm Giám thí.

Đề điệu, Tri cống cử, Giám thí là những chức quan thuộc bộ phận lãnh đạo của kì thi Hội, trực tiếp quản lý công việc thi cử, do vậy trước một ngày thi, họ phải vào trường thi để xếp đặt mọi việc. Những chức quan này đồng thời phụ trách nhiệm vụ trong khoa thi Đình sau đó. Họ đều là những quan chức cao cấp của triều đình, thay mặt nhà vua làm nhiệm vụ nơi trường thi71.

Bộ phận chấm thi gồm các chức quan: Đồng khảo, Giám khảo, Thu quyển, Di phong, Soạn tự hiệu, Đằng lục (người giữ việc viết lại các quyển thi), Độc quyển, đều chọn trong các quan Đông các, Lục tự, Lục khoa, Hàn lâm viện, Giám sát ngự sử, Trung thư đãi chiếu. Họ đều được triều đình lựa chọn từ những viên quan thanh liêm, công bằng, tháo vát. Trong thi Hội còn thêm hai chức quan khác mà không có trong thi Hương là: Đồng khảo thí (làm nhiệm vụ chấm lần thứ nhất) lấy từ 12 -15 viên và Khảo thí (chấm lại lần thứ hai) lấy từ 8 -10 viên.

Các quan giám sát trường thi gồm 8 viên Tuần xước. Các viên Tuần xước này có nhiệm vụ lo việc an ninh trong và ngoài khu vực thi. Ngoài ra lại còn có hai vệ Cẩm Y và Kim Ngô làm việc kiểm sát ngoài khu vực thi. Những người trong hai vệ này thường không biết chữ, được chọn từ những viên chỉ huy, hiệu úy, mỗi vệ 30 người cùng những dũng vũ sĩ mỗi vệ 6 người [25; tr. 50]. Vì thi Hội là kì thi quan trọng nên theo quy định, những người làm các công việc Thu quyển, Di phong, Soạn tư hiệu, Đằng lục, Đối độc, Tuần xước, kiểm sát, những người trong vệ Cẩm y và Kim Ngô được thay đổi sau mỗi kì làm bài, nhằm tránh hiện tượng gian lận trong khi thi.

71Tham khảo Bảng 6. Một số viên Đề điệu, Tri cống cử, Giám thí kì thi Hội và thi Đình thời Lê -Trịnh (Phụ lục -tr.25).

85

3.1.3.4 Trường quy - Yêu cầu đối với thí sinh Khi dự thi Hội, thí sinh phải tự chuẩn bị các vật dụng để làm bài như bút, mực, ống quyển cùng thức ăn trong ngày thi. Đến ngày vào thi của mỗi kì, quan trường và các

viên kiểm sát sẽ kiểm tra 2 lần các đồ dùng này nhằm đảm bảo thí sinh không mang tài liệu vào trong trường thi. Trong ngày thi, thí sinh phải tuân thủ một số trường quy rất nghiêm ngặt như kì thi Hương: khi bắt đầu có hiệu lệnh vào thi, thí sinh phải đi lấy dấu “giáp phùng”, giữa buổi lấy dấu “nhật trung”; phải kiêng chữ húy, tuân thủ các quy tắc viết bài thi. Khi làm bài không được ném tài liệu cho nhau, không được tự tiện mở cửa ra vào của trường thi, ai vi phạm quan Đề điệu xét hỏi trị tội. Trong quyển thi của các thí sinh không được “có vết tích trùng nhau và văn nghĩa sai lầm không hợp cách mà khảo quan lấy nhầm thì các quan Đề điệu, Giám khảo đều được phép đánh hỏng” [25; tr.54]. Đặc biệt, thí sinh không được phép mặc áo kép mà chỉ được mặc hai áo đơn, nếu ai làm trái phép bị đuổi ra khỏi trường thi [25; tr.52] nhằm tránh việc dấu tài liệu trong áo mang vào trường thi.

-Yêu cầu đối với quan trường Triều đình Lê - Trịnh cũng có những quy định chặt chẽ đối với các chức quan làm việc tại trường thi. Đối với quan giám sát, trong mỗi trường thi khi phát xong đề thi, các viên nội giám Tuần xước cùng hai vệ Cẩm y và Kim ngô chia cắt người lên chòi gác để coi xét sĩ nhân làm bài nhằm phát hiện ai vi phạm trường quy.

Các quan làm nhiệm vụ chấm thi (Giám khảo, Đồng khảo, Phúc khảo, Di phong, Soạn tự hiệu, Đằng lục, Đối độc) phải ở riêng từng khu vực, khi thí sinh làm bài không được tự tiện đi lại chuyện trò, không vì tình riêng mà thêm bớt nét chữ hoặc sao chép không đúng quyển thi của thí sinh. Nếu ai vi phạm thì bị xử tội. Đặc biệt “các viên Đằng lục, Đối độc phải sao cho đúng, đọc cho đúng như nguyên văn, trên mỗi quyển thi phải chua rõ họ tên của người sao, hay người đọc, không được bỏ sót và thêm bớt thay đổi, làm sai thì xử tội” [25; tr.53]. 3.1.3.5 Phép thi, nội dung thi Hội Nội dung thi Hội thời Lê -Trịnh cơ bản vẫn theo thể lệ từ thời Lê sơ, gồm có 4 kì, chỉ có khác về quy định số bài trong mỗi kì thi. Nội dung 4 kì giống như thi Hương nhưng yêu cầu khó hơn. Theo đó, Kì 1: thi Kinh nghĩa, thư nghĩa; Kì 2: thi thơ, phú; Kì 3: thi Chiếu, Chế, Biểu; Kì 4: thi văn sách. Thí sinh thi đỗ 4 kì (Tứ trường) được gọi là trúng cách thi Hội, được vào thi Đình. Thi đỗ 3 kì chưa có học vị, được gọi là trúng trường.

Theo “Thể lệ thi Hội” ban hành năm 1664, triều Lê -Trịnh yêu cầu các thí sinh khi làm các thể văn cần “cốt cho hùng hồn, điển nhã, không được dùng lời phù phiếm, hiểm hóc khó hiểu”[25; tr.52]. Đặc biệt, trong bài văn sách về thời sự, yêu cầu thí sinh khi đưa ra các lời bàn, kế sách của mình thì cần bày tỏ châm chước phải lẽ, để tiện thực dụng, không được nói khoác lác hay cố chấp tư ý.

86

Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục cho biết phép thi thời Trung hưng như sau: “kỳ đầu thi năm đầu bài Kinh nghĩa, sĩ tử đều chuyên trị một kinh, thể thức bài làm, có phá cú, có tiếp từ, có thích thực, có thúc kết, có bình luận, có tổng kết. Các bậc tiền

bối soạn sẵn từng bài, lời lẽ rắn rỏi trang nhã, bọn hậu sinh cùng nhau rập theo bản cũ, quan trường chấm thi chỉ thải bỏ bài nào thối nát mà thôi” [53; tr.104]. Tuy nhiên, so với thời Hồng Đức, thể văn thời Trung hưng không còn sự tao nhã, sát thực mà thể văn ấy như một số sử gia đương thời nhận định: “Co vào khuôn sáo, thể văn ngày càng kém (khi làm bài, chỉ được câu mở đầu, còn toàn là sao chép những lời chú của các sách, chẳng có sáng tạo gì; thơ, phú, thể tứ lục đều sao chép văn cũ, chẳng ngại gì trùng lặp)” [12; tr.487]. Mặt khác, người ra đề thi không phù hợp với nội dung học học tập của học trò, làm cho thí sinh khó làm bài…Trước thực trạng đó, Nhà nước cùng một số danh sĩ đã chủ trương chấn chỉnh lại thể văn thi của khoa trường, như năm 1663 cho khôi phục thể văn đời Hồng Đức. Năm 1728, theo đề xuất của Tham tụng Nguyễn Công Hãng, các quan văn vào Quốc Tử Giám để luyện tập thể văn bát cổ, một thể văn có từ đời Minh Hiển Tông năm Thành Hóa 23 (1487) của Trung Quốc, lối văn này phải làm tám vế đối nhau. Năm 1732 triều đình yêu cầu cho dùng thể văn bát cổ này vào trong kì thi Hương, thi Hội. Nhưng vì đây là thể văn khó nên học trò rất ngại, do đó khi Nguyễn Công Hãng mất chức thì cũng bỏ luôn quy định này. Năm 1731, Thái thường tự khanh Bùi Sĩ Tiêm dâng khải Chúa Trịnh 10 điều, đề nghị cho khôi phục lại lối văn hồn hậu đời Hồng Đức, đồng thời cho “thay đổi thói viết chi ly đời trung cổ” và thay đổi nội dung đề thi: “Việc hỏi về văn sách nên giảm bớt điều mục mà cầu ở điều thiết thực cốt yếu; văn cổ thì hỏi đại lược phải trái để xem học lực nông, sâu của học trò; văn kim thì hỏi những việc thời vụ, cơ nghi [thời vụ cơ nghi: việc thời thế, sự cơ và cách nên giải quyết thế nào] để xem mưu trí cao thấp”[38; tr.129-130]. Hoặc vào năm 1751, Nhữ Đình Toản cũng xin chúa Trịnh Doanh cho thay đổi sang thể văn thời Hồng Đức.

Tư liệu ghi chép các đề thi trong 4 kì thi Hội thời Lê - Trịnh không nhiều. Trên cơ sở thống kê một số đề thi thơ và phú (thuộc kì thi thứ 3) của 45 khoa thi Hội của phần Tổng luận về khoa cử ở nước Nam trong Quốc triều hương khoa lục của Cao Xuân Dục (Bảng 7. Một số đề thi thơ, phú trong thi Hội thời Lê - Trịnh. Phụ lục - tr.31) cho thấy nội dung các đề thi hầu hết đều hướng tới ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị của đất nước, đề cao đạo trị nước, phép tu thân, kén chọn người tài giỏi nhằm thực hiện luận thuyết “Tam cương, Ngũ thường” của Nho giáo. Tuy nhiên, nội dung các đề thi này theo như Lê Quý Đôn nhận xét vẫn chủ yếu thiên về mặt lý thuyết mà không hướng đến hành động thực tiễn, do đó không thể đánh giá đúng tài năng của kẻ sĩ: “Chỉ là dùng lời nói suông để chọn người, mà người ta cũng dùng lời nói suông để ứng đối lại, ... vả lại căn cứ vào văn chương trong mấy bài thi nơi trường ốc, chỉ biết sơ lược đại khái, làm gì mà có thể xem xét hết được nhân tài?” [53; tr.104].

87

3.1.3.6 Về cách chấm điểm, lấy trúng cách và hình thức xử phạt Trong buổi đầu, triều đình Lê -Trịnh vẫn sử dụng lối chấm dùng thang điểm 4 bậc (lối chấm phân số): ưu, bình, thứ, liệt như thi Hương để chấm bài thi Hội. Theo lối

chấm này thì: thí sinh nào bị điểm liệt là bị loại không được thi tiếp. Thí sinh đỗ kì thứ nhất rồi mới vào kì thứ hai, đỗ kì hai vào kì thứ ba, đỗ kì ba vào thi kì thứ tư. Đến năm 1725, chúa Trịnh Cương quy định nên chia các quyển thi Hương, thi Hội thành từng “tích” (chia các quyển thành từng nhóm) mà khảo duyệt, lối chấm “tích” này giống thể lệ như cách chấm trong thi Hương.

Người đỗ kì thi Hội chưa được ban danh hiệu Tiến sĩ. Nếu trúng 4 trường thi Hội được gọi là Trúng cách thi Hội mà chưa có học vị gì, đỗ ba trường gọi là trúng tam trường; đỗ đầu thi Hội được gọi là Hội nguyên, song đó chỉ là một danh hiệu chỉ vinh dự mà không phải là học vị. Để có học vị Tiến sĩ, thí sinh phải trải qua kì thi Đình tiếp sau đó trong thời gian từ 1 đến 2 tháng, hoặc lâu hơn.

Theo bảng thống kê: Các khoa thi Hội và số lấy đỗ dự thi Đình thời Lê - Trịnh (1595 - 1787) (bảng 8 – Phụ lục, tr.33), trong 65 khoa thi Hội của triều Lê -Trịnh, chỉ có 32/65 khoa còn được sử sách ghi chép lại số lượng cụ thể thí sinh dự thi Hội. Tổng số thí sinh dự thi của 32 khoa này khoảng hơn 87.512 người. Tính trung bình một khoa (của 32 khoa thi này) có khoảng: 2.734 người/khoa dự thi. Đối với 33 khoa thi còn lại, tuy không rõ số người dự thi bao nhiêu, nhưng có thể tạm thời ước lượng số người dự thi Hội trung bình trong một khoa của 65 khoa thi Hội triều Lê -Trịnh chủ yếu dao động từ 2000 đến 3000 người/khoa; bình quân lấy đỗ của một khoa thi Hội khoảng 11,2 người/khoa (729 Tiến sĩ/65 khoa).

Số lượng lấy đỗ thi Hội để dự thi Đình thời Lê -Trịnh thường ít hơn rất nhiều so với số người dự thi Hội và có tỷ lệ không đồng đều giữa các khoa. Chẳng hạn trong khoa thi năm 1604 có trên 5000 thí sinh dự thi, nhưng chỉ lấy đỗ 7 người, với tỷ lệ chọi là 1/714 thí sinh; hoặc khoa thi 1706 có gần 3000 thí sinh, chỉ lấy đỗ 5 người, với tỷ lệ là 1/600 thí sinh. Trong 65 khoa thi Hội, khoa thi năm 1670 lấy trúng cách nhiều nhất: 31 người đỗ trên 2000 thí sinh dự thi, với tỷ lệ là 1/64,5 thí sinh, đây là khoa thi có tỷ lệ lấy số người dự thi Đình cao nhất trong suốt hai thế kỷ XVII, XVIII. Tiếp đó là các khoa thi năm 1721 lấy đỗ 24/3000 thí sinh, khoa 1640 lấy đỗ 22/6000 thí sinh. Các khoa 1637, 1659, 1676, 1712, 1715 lấy đỗ 20 người; các khoa 1680, 1700 lấy đỗ 19 người; các khoa 1628, 1683, 1733, 1778 lấy đỗ 18 người. Lấy đỗ ít nhất là khoa thi năm 1781 chỉ có 2 người; khoa 1667 lấy đỗ 3 người; các khoa 1616, 1746 lấy đỗ 4 người; các khoa 1607, 1631, 1634, 1673 (riêng khoa này có 3000 thí sinh dự thi), 1694, 1706, 1760, 1763, 1785 chỉ lấy đỗ 5 người... Từ tỷ lệ lấy đỗ phần nào phản ánh nhiều phương diện của thi cử thời Lê -Trịnh hoặc do nhu cầu của triều đình lấy ít, hoặc do chất lượng của sĩ tử không đáp ứng được bài thi nên tỷ lệ lấy đỗ không cao.

88

Thi Hội là kì thi được tổ chức ngay tại Kinh đô, được triều đình tổ chức rất chặt chẽ nhưng cũng không tránh khỏi những vi phạm trong thi cử từ cả phía thí sinh và quan trường. Trước những sai phạm, triều đình đã tùy theo mức độ vi phạm để có hình thức xử phạt phù hợp nhằm hạn chế những tiêu cực. Như khoa thi năm 1631, có người tố

cáo Nguyễn Văn Quang thiếu điểm nhưng vẫn trúng tuyển, triều đình bèn cho bỏ tên đi không lấy trúng cách. Trong khoa thi năm 1775, Đinh Thì Trung đổi quyển làm văn cho con của Lê Quý Đôn là Lê Quý Kiệt, việc bị phát giác, Thì Trung bị đi đày xa, Quý Kiệt bị bắt về làm đinh tráng ở làng Diên Hà (Thái Bình). Hoặc triều đình đã cho giáng chức đối với Nguyễn Công Khuê vì trong khoa thi năm 1755 đã yêu cầu thay đổi văn thể nhưng Khuê vẫn cho ra đầu đề cũ.

3.1.4 Thi Đình 3.1.4.1 Đối tượng dự thi Thi Đình còn gọi là thi Điện, là kì thi được tổ chức sau kì thi Hội từ 1 đến 2 tháng, hoặc kéo dài 3, 4 tháng diễn ra tại sân điện của vua, chúa. Thi Đình vừa mang tính chất của một kì thi riêng biệt, nhưng cũng là kì thi cuối cùng của thi Hội để cấp học vị Tiến sĩ cho thí sinh. Đây là khoa thi riêng biệt, bởi về mặt tổ chức, kì thi này cũng được triều đình cho xếp đặt bộ phận quan trường thực hiện các chức trách khác nhau. Thi Đình cũng là kì thi cuối cùng của thi Hội để phân hạng Tiến sĩ, bởi những người đỗ kì thi Hội chỉ mới được công nhận là trúng cách thi Hội, chứ chưa được công nhận học vị Tiến sĩ, dù trên thực tế trong mỗi khoa thi vẫn có danh hiệu Khôi nguyên riêng: đỗ đầu thi Hội gọi là Hội nguyên, đỗ đầu thi Đình gọi là Đình nguyên.

Đối tượng dự kì thi Đình là những thí sinh đã trúng cách thi Hội. Dưới triều Lê - Trịnh, do tỷ lệ lựa chọn thí sinh đỗ thi Hội khá cao, nên số thí sinh dự một khoa thi Đình không nhiều và không đều nhau. Từ bảng thống kê 8: Các khoa thi Hội và số lấy đỗ dự thi Đình của triều Lê - Trịnh (1595 -1787) (Phụ lục) cho thấy, số thí sinh trúng cách thi Hội tiếp tục dự một khoa thi Đình thấp nhất là 2 người (khoa thi 1781), cao nhất là 31 người (khoa thi 1670). Số khoa thi có số thí sinh dự thi từ 2 -5 người/khoa gồm 15/65 khoa (23,1%); từ 6 - 10 thí sinh/khoa có 21/65 khoa (32,3%); từ 11 -20 thí sinh có 25/65 khoa (38,5%); từ 21 -29 thí sinh có 3/65 khoa (4,6%), từ 30 thí sinh trở lên có1 khoa (đạt 1,5%). Như vậy, số thí sinh dự một khoa thi Đình chủ yếu tập trung ở mức từ 6 -20 thí sinh, tiếp đến là mức từ 2 đến 5 người/khoa. Trên 20 thí sinh (từ 21 đến 31) dự thi Đình chiếm tỷ lệ khá nhỏ chỉ có 6,1%.

3.1.4.2 Thời gian và địa điểm thi - Thời gian: Nếu các khoa thi Hội chủ yếu được tổ chức vào mùa xuân (tháng 2, 3), ngược lại các tháng mùa hè (4,5,6) là thời gian chủ yếu để mở thi Đình, khoảng cách giữa thi Hội và thi Đình cách nhau 1 đến 2 tháng.

89

Qua thống kê: Bảng 5. Thời gian tổ chức thi Hội và thi Đình của một số khoa thi Tiến sĩ thế kỷ XVII - XVIII (Phụ lục - tr.24), có thể thấy: trong 52 khoa thi Hội và thi Đình mà chính sử còn ghi rõ về thời gian, có 42/52 khoa tổ chức sau thi Hội từ 1, 2 tháng diễn ra trong cùng một năm; 8/52 khoa tổ chức sau thi Hội từ 3, 4 tháng và chỉ 1 khoa năm 1763 cách thi Hội 8 tháng. Một số khoa thi Hội cũng như thi Đình không

đảm bảo được đúng thể lệ 3 năm mà rút ngắn xuống 2 năm, hoặc kéo dài 4, 5 năm mới tổ chức một lần như các khoa năm 1646 và 1650, khoa thi năm 1739 và 1743 đều cách 4 năm. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch này do thi Hội tổ chức muộn, vua băng hà hoặc do nội chiến. Trong các khoa thi năm 1683, 1685, 1688, 1721, 1779 do thi Hội tổ chức vào cuối năm nên thi Đình phải chuyển sang đầu năm sau. Hoặc khoa thi năm 1649 phải hoãn lại đến năm 1650 do tháng 8 năm 1649 vua Lê Chân Tông băng hà nên cách khoa thi trước đó đến 4 năm. Hoặc trong một số năm do sự lục đục trong nội bộ chính quyền đã ảnh hưởng tới việc tổ chức khoa cử, chẳng hạn khoa thi năm 1781 và 1785 cách nhau 4 năm. Vì năm 1782 chúa Trịnh Sâm chết, Trịnh Cán lên thay, quyền nằm trong tay quận Huy Hoàng Tố Lý. Tháng 10 năm 1782, quân lính Thanh Nghệ giết Quận Huy, lập Trịnh Khải lên thay Trịnh Cán, từ đó sinh ra nạn kiêu binh hoành hành khắp kinh thành một thời gian mới tạm yên.

- Địa điểm thi Đình: Dưới triều Lê -Trịnh, kì thi Đình chủ yếu vẫn được tổ chức ở điện Kính Thiên72 của nhà vua. Trong các khoa thi 1602, 1623 đều có nhắc đến địa điểm này. Tư liệu chính sử cho biết, trong khoa thi 1602: “Đến khi thi Đình, vua ngự điện Kính Thiên, thân hành ra đầu đề văn sách”[104; tr.212]; và khoa thi năm 1623: “ngày lành tháng tư mùa hạ, hoàng thượng ngự ở cửa điện Kính Thiên, ra bài văn sách ở sân rồng”. Phần Nghi thức thi Đình trong Lịch triều hiến chương loại chí cũng cho biết cụ thể về địa điểm này: “Sáng sớm hôm ấy, Thượng thiết ty đặt ngai vua ở chính giữa điện Kính Thiên, đặt hương án và bàn ở trước ngự tọa, đặt ngự tọa của chúa ở bên ngự tọa cử vua...” [25; tr.56]. Một số tư liệu của người nước ngoài khi mô tả vùng Đàng Ngoài thế kỷ XVII, XVIII cũng đề cập ít nhiều đến địa điểm thi Đình. Tác giả Jean - Baptiste Tavernier trong “Tập du ký mới và kì thú về Vương quốc Đàng Ngoài” cho biết: “Kì thi cuối cùng được tổ chức trong phòng kín hoàng thành, nơi có cung điện nhà vua; cung điện là một tòa nhà lớn xây bằng đá hoa. Vua có mặt ở đó với các hoàng tử và các đại vương của triều đình cùng giới văn quan” [85; tr.57].

72 Điện Kính Thiên được xây dựng năm 1428 đời vua Lê Thái Tổ, hoàn thiện đời vua Lê Thánh Tông tại đỉnh núi Nùng, ngày nay nằm trong khu thành cổ Hoàng thành Thăng Long Hà Nội.

90

Tuy nhiên, có một số khoa, thi Đình được mở ở địa điểm khác, đó là vương phủ chúa Trịnh và Quốc Tử Giám. Năm 1736, viện cớ một thời gian dài triều đình nhà Lê không chọn được Trạng nguyên, chúa Trịnh Giang đã tự ý tổ chức thi Điện tại Vương phủ, cất nhắc Trịnh Tuệ đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập Đệ nhất danh cùng các Tiến sĩ cập đệ và xuất thân khác [38; tr.150]. Năm 1779, thí sinh vẫn dự thi Điện, do vua Lê ra đề văn sách nhưng bài thi không được chấm. Hôm sau, chúa Trịnh Sâm yêu cầu thí sinh đến phủ chúa ra đề thi lần thứ hai, căn cứ vào bài văn sách để định thứ bậc, lấy Lê Duy Trâm và Phạm Nguyễn Du 2 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, thứ bậc khác nhau [12; tr.595]. Đến năm 1781, thi Đình được tổ chức ở Quốc Tử Giám. Sách Lịch triều tạp kỷ

cho biết: “Tĩnh vương vời các cống sĩ vào Quốc Tử Giám, đích thân ra đầu đề về cách “liệu trước mọi việc”...; ngay trong ngày ấy, phải nộp quyển tại quan trong Chính phủ, thu nhận để dâng chúa xem”. Cũng trong khoa thi này để thu phục nhân tâm, chúa Trịnh Sâm đã chỉ bảo “Tuyên phi Đặng Thị Huệ thưởng cho các cống sĩ 500 quan tiền để úy lạo họ” [94; tr.485]. Việc thay đổi các địa điểm thi Đình của một số khoa trên đây, cho thấy sự “tiếm quyền” ngày càng mạnh mẽ của chúa Trịnh đối với vua Lê ngay cả trong tổ chức thi cử, mà cao nhất là cấp thi Đình, “một đặc quyền quyết định vốn từ nhiều thế kỷ đã và vẫn thuộc về vua Lê” [93; tr.56]. Thực tế, quá trình can thiệp này đã được “nhen nhóm” từ nửa sau thế kỷ XVII, khi các chúa Trịnh Tạc, Trịnh Cương, Trịnh Giang, Trịnh Doanh, Trịnh Sâm đã tự cho mở các khoa thi phúc khảo lại Sinh đồ, Hương cống hoặc ra đề thi Hương cho vùng Tứ trấn.

3.1.4.3 Các quan phụ trách Quan trường tham gia kì thi Hội đồng thời trực tiếp tham gia tổ chức trông coi và chấm kì thi Đình, cũng gồm ba bộ phận. Tuy nhiên, nếu trong thi Hội bộ phận quan chấm thi thuộc về các chức Giám khảo, Giám thí và Đồng khảo thí, thì đến thi Đình vua Lê và viên quan Độc quyển73 phụ tá cho vua sẽ chấm bài thi. Theo quy định, quan Độc quyển sẽ tiến dâng các quyển thi làm từ hôm trước để vua đọc và chấm điểm định cao thấp, nhưng thực tế việc đọc và chấm quyển thi được vua Lê giao luôn cho quan Độc quyển. Quan Độc quyển thay mặt vua chấm trước, dự kiến cho điểm xếp loại trước rồi trình bày cho vua nghe, sau đó vua đọc các quyển cần thiết. Điểm chấm các quyển thi có thể thay đổi hay giữ nguyên tùy theo quyết định của nhà vua. Theo sách Lịch triều tạp kỷ, số lượng quan Độc quyển chỉ có 2 đến 3 người, ít hơn so với thời Lê sơ74. Tuy nhiên, không phải lúc nào vua Lê cũng là người chấm điểm và quyết định phân hạng đỗ Tiến sĩ cho các sĩ tử theo đúng định lệ. Bởi có hai khoa thi mà chính sử còn ghi chép lại, gồm khoa thi năm 1736 và 1779, người chấm điểm thi Đình và xếp hạng đỗ Tiến sĩ lại do các chúa Trịnh đảm nhiệm.

Bộ phận quan giám sát và giữ gìn trật tự ở kì thi Đình cũng giống như trong thi Hội. Nhưng do số lượng thí sinh dự thi Đình ít hơn và chỉ phải thi một bài văn sách nên số lượng quan phụ trách, giám sát và phục vụ trường thi không nhiều, không bị thay đổi như trong kì thi Hội nữa.

73Dưới thời Lê sơ, chức quan Độc quyển được giao cho người giỏi văn học đảm nhiệm, thường lấy các quan Hàn lâm viện Thừa chỉ, Hàn lâm viện Học sĩ, Hàn lâm viện Đại học sĩ, Đông các Hiệu thư, Quốc Tử Giám Tế tửu, Quốc Tử Giám Tư nghiệp. 74 Số lượng quan Độc quyển ở thời Lê - Trịnh, theo ghi chép của Lịch triều tạp kỷ ở khoa thi Đình năm 1779 gồm có hai viên Độc quyển. Sách viết: “[Tĩnh Vương] sai Binh bộ tả thị lang… kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu hành tham tụng Liên Khê hầu Vũ Miên và [Tả Xuyên hầu] Phan Lê Phiên duyệt lại quyển thi rồi tiến trình” [94; tr.460].

91

3.1.4.4 Phép thi, nội dung thi Theo quy định, thí sinh khi dự kì thi Đình chỉ làm một bài văn sách. Cấu trúc bài văn sách trong thi Đình giống như thi Hương, thi Hội nhưng khác nhau về mức độ

khó dễ của câu hỏi và độ dài ngắn của bài trả lời75. Một bài văn sách thường được chia làm hai phần: phần câu hỏi trong đề bài (gọi là sách vấn), phần trả lời (gọi là đối sách). Phần đối sách là nội dung chính của bài, được chia làm hai phần: phần lấy kinh điển để trả lời câu hỏi và phần vận dụng thực tế đưa ra kiến giải của mình cho vấn đề nêu ra. Với phần đối sách trong khoa cử đòi hỏi người thi không chỉ có kiến thức sâu rộng về kinh sách mà đây còn là điều kiện để sĩ tử bộc lộ cả tài năng văn chương, khả năng chính sự của mình. Bởi đây là thể văn không hề đơn giản, dễ dàng: “Văn sách luận, nếu không phải là người thông suốt Kinh Truyện, bao hàm cổ kim thì không thể hạ bút chọn lời để viết nổi” [75; tr.194]. Rõ ràng người dự và đỗ kì thi Đình phải có nền tảng kiến thức vững chắc, đạt đến một trình độ học vấn cao. Về cơ bản, thời Lê -Trịnh vẫn tiếp nối quy định về độ dài của bài văn sách Đình đối như thời Lê, không dưới 3000 chữ.

75 Ở thời Lê sơ, văn sách thi Hương dài 1000 từ, văn sách thi Hội dài 2000 từ, văn sách thi Đình dài 3000 từ. 76 Văn sách mục: đầu bài ra thật dài, đem một hoặc nhiều vấn đề để hỏi, khác Văn sách đạo: câu hỏi ngắn và hỏi riêng từng việc. 77 Xem thêm Phụ lục: Một đề Chế sách thi Đình triều Lê -Trịnh [Khoa thi năm Vĩnh Thọ thứ 4 (1661)]. 78 Theo chú thích của sách: Văn sách thi Đình Thăng Long -Hà Nội [187; tr.233; tr.551] thì: Tống Thụ: người đời Tống, tự Công Thùy, học rộng kinh sử bách gia, văn chương nổi tiếng. Ông bốn lần được vào Hàn lâm viên, làm quan đến chức Tham tri chính sự, tham gia quyết định nhiều việc lớn của triều đình. Sau khi mất được ban thụy là Tuyên Hiến. Dư Tĩnh: người đời Tống. Tự là An Đạo, từ nhỏ nổi tiếng văn học, đỗ Tiến sĩ năm Thiên Thánh, được thăng Hữu chính ngôn, nổi tiếng dám can gián thẳng, từng bị biếm vị can gián. Ông cùng Âu Dương Tu, Vương Tố, Sái Tai được đương thời khen là Tứ gián. Ông từng ba lần đi sứ Khiết Đan, cầm quân đánh dẹp Nùng Trí Cao ở phương Nam. Sau ông làm đến Thượng thư bộ Công. Diệm: tức Hà Diệm người đời Tống, tự Thánh Túng, đỗ Tiến sĩ, từng làm Giám sát Ngự sử, Điện trung Thị Ngự sử, Long Đồ các Trực học sĩ thời Tống Nhân Tông. Sau đó ông chuyển làm Tri Vĩnh Hưng quân và Hà Nam phủ. Tu: tức chỉ Âu Dương Tu, người đời Tống, tự Vĩnh Thúc, hiệu Túy Ông, Lục Nhất cư sĩ, đỗ Tiến sĩ, làm quan đến Xu mật phó sứ, Tham tri chính sự. Sau không hợp với tân pháp của Vương An Thạch, ông xin về nghỉ ở Dĩnh Xuyên, sau khi mất được ban thụy Văn Trung. Ông là nhà văn lớn đời Tống, một trong “Đường Tống bát đại gia”, ông là tác giả Tân Đường Thư và Tân Ngũ đại sử.

92

Nội dung thi Đình thời Lê -Trịnh được thể hiện qua đề thi văn sách, chủ yếu là văn sách mục76 tập trung hai hướng: thứ nhất hỏi về những vấn đề căn bản của đạo trị quốc như vấn đề dùng và sùng nho thuật, đưa nho thuật trở thành hệ tư tưởng trị quốc”...; thứ hai: hỏi về những vấn đề về kiến lập thiết chế, chế độ tức là việc đường lối trị nước xưa và nay gồm cách dùng người của các bậc đế vương, các biện pháp để làm ích dân lợi nước - làm thế nào để giữ cho đất nước được ổn định. Chẳng hạn trong đề văn sách thi Đình khoa thi năm Vĩnh Thịnh 4 (1661), khoa thi này Đặng Công Chất đỗ Trạng nguyên77, câu hỏi đề văn sách khá dài, nội dung đề thi yêu cầu thí sinh phải trả lời câu hỏi và bàn luận về đường lối trị nước xưa và nay tập trung vào 12 vấn đề: quyền vua, thánh học, tể tướng, hàn âm, sách thí, sử viện, can gián, lễ nhạc, học chính, danh vọng, quân chính, phòng bị biên cương. Trong mỗi vấn đề được hỏi đều có sử dụng điển tích, điển cố từ Trung Hoa. Ví dụ trong đoạn hỏi về vấn đề “quân quyền” (quyền vua) đã sử dụng tới 4 điển tích gắn với tư tưởng của một số viên quan đời Tống như Tống Thụ, Dư Tĩnh, Diệm, Tu78: “Quyền vua có thể đích thân làm việc nhỏ

chăng? Thuyết của Tống Thụ, thuyết của Dư Tĩnh so với thuyết của Diệm, Tu, giống nhau chăng hay khác nhau chăng? Quyền không cầu trọng, người ta sao dám chống lại? Công sử dụng đại thần, công sử dụng trung hiền, quyền quản thực trọng chăng? Làm thế nào để đạo vua luôn được rỗi nhàn?... Có người nói “Quyền của bậc làm vua phải do người trên nắm”, tại sao vậy? [187; tr.551]. Với việc sử dụng các điển tích, điển cố trong đề bài văn sách đòi hỏi thí sinh trả lời vừa có kiến thức sâu rộng về nhiều vấn đề, “bác cổ thông kim”, vừa phải có kiến giải riêng của mình, phải dâng hiến được kế sách chính trị.

Theo nhận xét của Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút thì, văn sách thi Đình thời kỳ này không còn phát huy được nhiều sự sáng tạo của sĩ tử bởi đề thi quá dài, câu hỏi hiểm hóc: “Từ niên hiệu Quang Hưng (1587 - 1599) trở về sau bài chế sách chuyên lấy những câu hiểm hóc để làm đề, văn đối sách cũng coi học thuộc là chính…” [75; tr.202]. Theo tác giả đó là loại văn sách khiến cho sĩ tử không đào sâu suy nghĩ sáng tạo khi làm bài mà cốt học cho thuộc kinh sách để trả lời cho đầy đủ.

3.1.4.5 Về cách chấm thi Đình và lấy đỗ Việc chấm thi Đình thời Lê -Trịnh vẫn dựa trên cách chấm thang điểm bốn bậc (phân số) gồm ưu, bình, thứ, liệt như thi Hương, thi Hội. Việc lấy đỗ cao thấp thì tính từ trên xuống, nhưng thực tế cách chấm điểm đôi khi không theo đúng quy định. Bởi kì thi Đình do nhà vua (hoặc chúa Trịnh) trực tiếp chấm nên nhiều khi việc lấy đỗ còn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người chấm xem xét việc lấy đỗ dựa vào các yếu tố mối thân quen, tướng mạo, tuổi tác79, trường hợp của Trịnh Tuệ là một trong những ví dụ điển hình còn được sử sách ghi chép lại. Trong khoa thi Hội năm 1736, Nhữ Đình Toản đỗ Hội nguyên nhưng vào thi Đình thì Trịnh Tuệ lại đỗ đầu. Theo chế độ cũ, những người trúng cách thi Hội sẽ vào thi ở sân Điện, vua cho bậc cao thấp nhưng khoa này, bề tôi được chúa yêu là Hoàng Công Phụ vốn chơi thân với Trịnh Tuệ, nói với chúa xin cho vào thi ở phủ chúa và đã lấy Trịnh Tuệ đỗ Trạng nguyên. Hoặc trong khoa thi Hội 1772 có trường hợp Thám hoa Nguyễn Huy Quýnh (người Lai Thạch, huyện La Sơn, Nghệ An) có quyển thi đầy đủ, đáng lẽ được đỗ cao nhưng vì bài văn sách hiến kế của ông có nói đến việc nên tha việc tuyển lính ở hai xứ Thanh Nghệ, chúa Trịnh không bằng lòng nên cho đỗ thứ 6. Qua một vài trường hợp này phản ánh thực tế là cách chấm điểm theo lối phân số đặt ra không phải lúc nào cũng được triệt để vận dụng.

93

Thi Đình chỉ bao gồm những người trúng cách thi Hội mới được tham gia. Đây là kì thi do vua ra đề chấm và để xếp loại những người đã đỗ thi Hội nên hầu như tất cả những người trúng cách thi Hội dự thi Đình đều được xếp hạng Tiến sĩ. Tuy nhiên, vì 79 Theo giai thoại Việt Nam, trước thời Lê - Trịnh có ba trường hợp: Nguyễn Hiền (1235 -?) người Nam Trực, Nam Định đỗ Trạng nguyên khoa thi 1247, vì còn quá trẻ nên không được bổ dụng làm quan; thứ hai là Mạc Đĩnh Chi, Trạng nguyên khoa thi năm 1304, vì tướng mạo xấu nên suýt không được đỗ Trạng nguyên; thứ ba là Nguyễn Giản Thanh: trong khoa thi 1508 vì tướng mạo đẹp và khôn khéo nên được đỗ Trạng nguyên.

vua là người định ra lệ và đôi khi không cần thực hiện theo lệ, nên trong chế độ khoa cử của triều Lê -Trịnh có hai trường hợp đánh trượt khi đã vào thi Đình. Trong khoa thi năm 1631 thi Hội lấy 6 người nhưng khi yết bảng có Nguyễn Văn Quang người xã Hội Xá, Cẩm Giàng, Hải Dương trong thời gian thi Hương, do không ứng điểm80 ở Quốc Tử Giám, bị tố cáo nên bị tước bỏ tên trên bảng không cho thi Đình. Hoặc khoa thi năm 1757, có 7 người trúng cách thi Hội được dự thi Đình. Tuy nhiên, đến khi thi Đình có Nguyễn Khiêm Hanh người thôn Nhân Nội 81 vì can tội mang sách vào trường thi nên bị đánh hỏng. Còn lại tất cả các khoa thi Đình khác, thí sinh trúng cách thi Hội, dự thi Đình đều được lấy đỗ và xếp hạng Tiến sĩ.

Học vị cao nhất dành cho người đỗ đại khoa là danh hiệu Tiến sĩ, được xếp theo thứ bậc cao thấp khác nhau. Thời Lê -Trịnh, có 4 khoa 1637, 1659, 1661, 1683 triều đình lấy đỗ đủ ba hạng: Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (còn gọi là Hoàng giáp) và Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Đây cũng là 4 khoa thi lấy đủ cả ba danh hiệu Tam khôi của Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ (gồm Đệ nhất danh - Trạng nguyên; Đệ nhị danh - Bảng nhãn; Đệ tam danh - Thám hoa). Có 28 khoa chỉ lấy Đệ nhị giáp và Đệ tam giáp mà không lấy Đệ nhất giáp; 16/66 khoa thi không lấy Đệ nhất giáp và Đệ nhị giáp. Đáng chú ý có 43 khoa triều đình không lấy Tam khôi82, 19 khoa có lấy bậc Đệ nhất giáp nhưng không đầy đủ, chỉ lấy Trạng nguyên, hoặc Bảng nhãn hoặc Thám hoa. Như các khoa 1628, 1631, 1646, 1650, 1670, 1676, 1685, 1710, 1718, 1721, 1731, 1743, 1748 chỉ lấy hạng Thám hoa không lấy Trạng nguyên và Bảng nhãn; các khoa 1670, 1736 có lấy Thám Hoa, Trạng nguyên không lấy Bảng nhãn; các khoa 1700, 1724, 1733, 1752 chỉ lấy Bảng nhãn.

So với thời Lê sơ và Mạc, số người lấy đỗ thi Đình triều Lê -Trịnh ít hơn rất nhiều. Thời Lê sơ khoa thi năm 1478 lấy 62 người, khoa 1502 lấy đỗ 61 người. Thời Mạc khoa thi năm 1538 lấy đỗ nhiều nhất 36 người, khoa thi năm 1565 lấy ít nhất 16 người; trong khi triều Lê -Trịnh, khoa lấy đỗ nhiều nhất chỉ 31 Tiến sĩ (năm 1670). Thấp nhất là khoa thi 1781 lấy đỗ 2 người; khoa 1667 lấy 3 người.

80Ứng điểm: Theo quy định, những người đã đỗ thi Hương các khoa trước, gặp các khoa sau nhằm ngày sĩ tử vào trường, những thí sinh này phải đến ứng điểm ở một công sở đã định, nếu không sẽ bị coi là phạm pháp. Quy định này nhằm đề phòng người đã đỗ lại đi đội quyển làm hộ bài cho người khác. Đối với trường hợp của Nguyễn Văn Quang, khi dự thi Hội việc ứng điểm chưa bị phát hiện, đến khi đỗ thi Hội và dự thi Đình sau đó, việc bị phát giác nên đình chỉ xóa tên trong danh sách tham gia thi Đình [53; tr.103]. 81 Nhân Nội thuộc huyện Thọ Xương, nay thuộc các quận Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Đống Đa, Hà Nội. 82 Xem bảng 4.1: Thống kê số Tiến sĩ chia ba giáp (Chương 4, tr.115)

94

Có sự chênh lệch này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, do nhu cầu tuyển chọn quan lại của triều đình thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể, hoặc do sự tác động của chiến tranh, các cuộc nổi loạn, hoặc do trình độ của thí sinh không đáp ứng được yêu cầu của bài thi nên số lượng lấy đỗ thi Hội không cao. Qua bảng 8: Các khoa thi Hội và số lấy đỗ dự thi Đình của triều Lê - Trịnh (1595 -1787)(Phụ lục, tr.33) có thể thấy, trong một số khoa thi 1604, 1613, 1623 đều lấy 7 người, nguyên nhân có thể do

triều đình phải đối phó với các cuộc chống đối của dư đảng nhà Mạc (Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan) nên trong chế độ thi cử chưa chú ý nhiều. Trong giai đoạn từ 1627 - 1672, mặc dù chính quyền đang tiến hành cuộc chiến tranh chống chúa Nguyễn ở Đàng Trong, nhưng khoa cử lại được tổ chức khá đều đặn, thường xuyên. Có một số khoa như 1628, 1637, 1640, 1646, 1659, 1670, số lấy đỗ trúng cách thi Hội để dự thi Đình rất cao, lần lượt là 18 - 20 - 22 - 20 -31. Điều này phản ánh thực tế tuy bận rộn với chiến sự ở ở phía Nam nhưng nhu cầu tuyển chọn đội ngũ sĩ phu xuất thân từ “Cửa Khổng, Sân Trình” làm chính sự trong triều đình của triều đình Lê -Trịnh rất lớn. Một số khoa như 1631, 1634, 1656, 1667, số lượng lấy trúng cách thi Hội để thi Đình không cao, lần lượt là: 5 - 5- 6 - 3. Nguyên nhân có thể do trình độ của thí sinh không đáp ứng được yêu cầu bài thi. Sau khi nội chiến tạm thời chấm dứt, vấn đề khôi phục, xây dựng đất nước, quản lý xã hội được đặt ra thì nhu cầu tuyển chọn quan lại theo lối cử nghiệp được đề cao. Do đó một số khoa thi như 1676, 1680, 1683, 1685 số lấy đỗ khá cao, lần lượt là 20 -19 -18 -13. Đặc biệt, dưới thời chúa Trịnh Cương (1709 -1729) với việc thực thi nhiều chính sách nhằm canh tân đất nước trên nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục và khoa cử, số lấy đỗ cũng tăng lên, như khoa thi 1712 lấy đỗ 17 người, khoa 1715 lấy đỗ 20 người, khoa 1721 lấy đỗ 25 người, 1724 lấy đỗ 17 người.

3.1.5 Các khoa thi khác 3.1.5.1 Khoa thi Đông các Đông các là khoa thi dành cho các quan đã thi đỗ Tiến sĩ đang làm việc tại triều, có phẩm trật từ tứ phẩm trở xuống. Sách Kiến văn tiểu lục cho biết khoa thi Đông các được mở khoảng năm Hồng Đức: “triều thần từ tứ phẩm trở xuống được vào thi ở sân điện Vạn Thọ, nhà vua ra đầu bài hoặc thơ Ngũ ngôn Đường luật, hoặc bài luận phê phán, hoặc phú, tụng, châm..... không có thể thức nhất định. Người trúng các bậc nhất được bổ làm Đại học sĩ (4b), bậc nhì được bổ Đông các Học sĩ (5b), bậc ba được bổ làm Đông các Hiệu thư (6a)83. Từ lúc trung hưng về sau chỉ có ba khoa thi Đông các” [53; tr.112], vào các năm 1659, 1676, 1727 nhưng số lấy đỗ không nhiều: khoa thi năm 1659 lấy đỗ 5 người, năm 1676 lấy đỗ 6 người và năm 1727 lấy đỗ 3 người.

83 Theo quy định này thì nếu các quan có phẩm trật thấp từ ngũ, lục, thất, bát phẩm mà thi đỗ khoa thi Đông các, tùy hạng đỗ nhất, nhì, ba sẽ được bổ dụng chức quan có phẩm trật cao hơn phẩm trật lúc đầu.

95

Những người đỗ khoa Đông các khi về quê vinh quy bái tổ được dân địa phương đón rước long trọng, chuẩn bị dựng sẵn sàng nhà cửa để ở cũng như “tất cả dân phu trong tổng và huyện cùng đến để phục dịch”. Tuy nhiên, ân điển này không chỉ tạo nên gánh nặng cho người dân mà khiến cho người đỗ cũng lao đao trong việc “phải mở yến tiệc, khao mừng đãi dân hàng tổng để đền công lao, thế tất phải xoay sở đi vay mượn cho xong việc” [75; tr.95], dẫn đến hiện tượng “ông Nghè đeo nợ, bà Nghè mua chồng” tất ảnh hưởng đến sự liêm khiết khi người đó ra làm quan.

3.1.5.2 Khoa thi Sĩ vọng Theo Lịch triều hiến chương loại chí, khoa Sĩ vọng được mở năm 1658 dưới đời vua Lê Thần Tông, nhằm chọn những người có danh vọng trong sĩ phu “bị bỏ sót” để bổ dụng chức quan phục vụ vương triều, do đó chỉ các Hương cống vì lý do nào đó chưa thi đỗ Tiến sĩ mới được dự thi Sĩ vọng. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục lại cho rằng: “Khoa Sĩ vọng cũng gọi là khoa Hoành từ chỉ người nào đỗ Hương cống mới được dự thi” [53; tr.111]. Tuy nhiên, Phan Huy Chú cho rằng khoa Hoành từ mới đặt hồi đầu triều Lê (năm 1431), còn thi Sĩ vọng mới đặt hồi Trung hưng; trong khi các sách sử đều ghi tên của hai khoa thi này riêng biệt nên khi thống kê chúng tôi cũng tạm tách thành hai khoa thi riêng để tiện theo dõi.

Thể lệ của khoa thi Sĩ vọng không theo cách thức nhất định, thường đến lúc thi mới ra đề, nội dung đề thi không nhất quán: hoặc dùng thơ phú, tán, tụng, ca hoặc hỏi công việc, hoặc sách luận, nhưng cũng có khoa thi dùng cả ba thể thơ, phú, sách luận trong một đề thi. Như khoa thi năm 1706 đầu đề bài thơ là “Khuê tinh diệu Thái vi” (Sao Khuê sáng ngời với sao Thái vi) làm theo thể thất ngôn, lấy vần “Năng”, và một bài phú “bao như hải, dưỡng như xuân (Chứa đựng như biển cả, gây nuôi như mùa xuân) làm thể phú 8 vần; còn văn sách thì hỏi về “việc chính trị trong ngoài và phép thuyên tuyển quan lại” [94; tr.161]. Thậm chí trong khoa thi 1715, trong bài văn sách triều đình cho sĩ tử làm bài bằng chữ Nôm. Đầu bài thi thường do vua Lê hoặc chúa Trịnh ra đề, sĩ tử làm bài trong một ngày tại điện của vua Lê, nhưng có khoa sĩ tử làm bài ngay tại phủ chúa Trịnh như khoa thi năm 1718. Sách Lịch triều tạp kỷ cho biết: “Mồng 8, tháng 9. Chúa Trịnh vời các cống sĩ vào sân phủ Chúa chính mình ra đầu đề thi Sĩ vọng”, sau đó “đến ngày 13 Chúa Trịnh lại tổ chức một khoa thi nữa và cũng do chính mình tự ra đề” [94; tr.269, tr.271].

84Theo Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919) của Ngô Đức Thọ: Hà Tông Huân (1697 -1766), người Yên Định, Thanh Hóa, năm 28 tuổi đỗ Đình nguyên Đệ nhất giáp Tiến sĩ; Chu Nguyễn Lâm (1687 -?) người Cát Động, xã Kim An, Thanh Oai, Hà Tây (cũ), năm 38 tuổi đỗ Hội nguyên.

96

Số người lấy đỗ trong mỗi khoa thi Sĩ vọng khá nhiều. Chẳng hạn khoa thi 1667 lấy đỗ 19 người, khoa 1703 lấy đỗ 20 người, khoa 1710 lấy đỗ 26 người và khoa 1725 lấy trúng cách 11 người. Những người trúng tuyển khoa Sĩ vọng được ghi là “đỗ khoa Sĩ vọng”, chưa được gọi là Tiến sĩ nên vẫn có thể dự thi Hội. Họ được Nhà nước ban ân điển rất hậu. Người trúng tuyển nếu đỗ quan lần đầu thì được giữ chức Tri huyện, nếu đã làm quan mà thi đỗ thì căn cứ theo thứ bậc và phẩm trật hiện có mà trao cho các chức Tự thừa, Tri phủ, Hiến sát sứ hoặc Tham nghị. Chẳng hạn trong khoa thi ngày 13 tháng 9 năm 1718, có hai Nho sinh là Hà Tông Huân và Chu Nguyễn Lâm đỗ hạng nhất và nhì đều được thăng chức Tự thừa84. Tuy nhiên, so với ân điển đỗ kỳ thi Đình không thể bằng, vì thế những người đỗ thi Sĩ vọng vẫn muốn dự kì thi Đình để giành học vị Tiến sĩ. Như trường hợp của Vũ Duy Khuông (1644 -?) người Mộ Trạch (Hải

Dương), sau khi đỗ Hương cống, lại đỗ khoa Sĩ vọng, đến khoa thi Tiến sĩ 1670, ông đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân, làm quan đến chức Lễ khoa Đô cấp sự trung.

3.1.5.3 Khoa thi Hoành từ Theo Lịch triều hiến chương loại chí: Hoành từ nghĩa là “lời văn dồi dào, rộng rãi, tỏ ra có học lực cao sâu, là kì thi nhằm để chọn người văn hay, học rộng” [25; tr.13]. Hoành từ được tổ chức ngay sau khi kì thi Đình nhằm không bỏ sót nhân tài, do đó đối tượng dự thi gồm cả những người đã đỗ hoặc chưa đỗ Tiến sĩ.

Đây là khoa thi không chính thức nên Nhà nước không có quy định cụ thể về nội dung, thời gian và địa điểm thi. Trong hai khoa thi 1724 và 1727 mà sử sách có ghi lại đề bài thi, nội dung chủ yếu hỏi về kế sách trị nước hoặc trình bày kế sách để giải quyết một vấn đề thực tiễn. Trong đề thi năm 1724, ngoài việc yêu cầu thí sinh làm một bài “cam lộ thuyết” (tức là viết về móc ngọt sa xuống, tượng trưng cho cảnh thái bình), triều đình còn ra lệnh cho người dự thi phải soạn một bức công văn trả lời Tổng đốc Vân Nam, trong đó trình bày lý lẽ để khẳng định các vùng đất (các trại) ven ải Tuyên Quang, Hưng Hóa và xưởng đồng ở núi Mã Yên, Đô Long đều thuộc bờ cõi và chủ quyền của ta [94; tr.358]. Kết quả là công văn của Đoàn Bá Dung và Nguyễn Đình Hoàn đều trúng hợp cách, được thưởng tiền hơn kém khác nhau85. Triều Lê -Trịnh mở được 5 khoa Hoành từ vào các năm 1625, 1691, 1715, 1724, 1727, 1757. Số người lấy đỗ trong mỗi khoa thi không giống nhau, như khoa thi năm 1691 lấy đỗ 19 người, năm 1757 lấy đỗ 8 người, trong đó ông Ngô Tưởng Đạo - em Ngô Thì Sĩ (ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai) đỗ đầu.

3.1.5.4 Khoa thi Thịnh khoa (ân khoa) Thịnh khoa còn gọi là ân khoa, là khoa thi đặc biệt dành cho các Cống sĩ. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục cho biết: trong chế độ thi cử, ngoài thi Hương, thi Hội đã có từng năm nhất định, thì vào những năm vua chúa có sự vui mừng thường gia ân mở thêm một khoa thi khác, gọi là ân khoa. Khoa thi này được chúa Trịnh đề ra từ năm 1763 nhưng vì năm ấy lũ lụt nên không thực hiện được. Đến năm 1779 mới mở được khoa thi duy nhất tổ chức tại Bãi Cát, lấy đỗ 15 người trong đó có Phạm Nguyễn Du, bảng danh sách người thi đỗ được treo ở Nam cung của phủ chúa [38; tr.448]. Thể lệ của khoa thi này như thế nào hiện không có tư liệu để kê cứu, song ân điển dành cho người đỗ ân khoa cũng giống người đỗ thi Hội.

85 Đoàn Bá Dung: người xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, đỗ Tiến sĩ khoa Canh Dần (1710), bài của ông đỗ hạng thứ; Nguyễn Đình Hoàn: người phường Bái Ân, huyện Quảng Đức đỗ Hoàng giáp khoa Mậu Thìn (1688), bài công văn của ông đỗ hạng thứ thủ.

97

Chế khoa là khoa thi Tiến sĩ được triều đình mở trong các trường hợp đặc biệt, người đỗ Chế khoa cũng có quyền lợi như Tiến sĩ và được khắc tên trên bia Tiến sĩ. Năm 1787 triều Lê -Trịnh mở khoa Chế khoa duy nhất, lấy đỗ 2 người đều xếp hạng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Các khoa thi còn lại đều dành cho quan lại. Riêng

Ứng chế là khoa thi dành cho những người mới đỗ Tiến sĩ. Mục Tổng luận về khoa cử ở nước Nam trong sách Quốc triều hương khoa lục của Cao Xuân Dục cho biết: các Tiến sĩ sau khi vinh quy, trở về Kinh đô được vua triệu tập vào thi thì được ban cho bản sao bài thơ có lời phê của vua [37; tr.74]. Thực chất đây là một kì kiểm tra cuối cùng tài năng của tân Tiến sĩ trước khi bổ dụng chức quan, nhằm lựa chọn người có học vấn xuất sắc hẳn để khuyến khích bổ chức Hiệu thảo trong Hàn lâm viện. Triều Lê -Trịnh mở được 2 khoa Ứng chế vào năm 1722 và 173386. Phép thi Ứng chế chỉ có một vài bài thơ, phú. Sách Lịch triều tạp kỷ cho biết nội dung khoa thi năm 1722 như sau: “đầu bài thơ là “quân tử hữu đại đạo” thi (làm thể thất ngôn luật) và “Cận duyệt viễn lai” thi (làm thể thất ngũ ngôn luật, lấy vần “xâm” gieo 25 vần) và một bài luận “Hành đức dân nhân thọ” [94; tr.311-312].

Nhìn chung, Đông các, Sĩ vọng, Hoành từ, Ân khoa, Chế khoa... đều là những khoa thi không nhất định, không được Nhà nước tổ chức thường xuyên, số khoa thi chưa nhiều và số người lấy đỗ mỗi khoa chưa cao. Nhưng các khoa thi này lại góp phần quan trọng vào việc cung cấp, bổ sung đội ngũ quan lại trí thức Nho học cho bộ máy chính quyền quân chủ.

3.1.6 Chính sách đãi ngộ dành cho người đỗ đạt 3.1.6.1 Vinh danh những người đỗ đại khoa Một trong những chính sách đãi ngộ rất quan trọng của chính quyền trung ương và cấp làng xã Đàng Ngoài đối với người đỗ đại khoa (Tiến sĩ) là có hình thức vinh danh với các dạng thức sau đây: - Xướng danh, yết bảng Xướng danh: là hình thức đọc tên những người đỗ đạt để tất cả mọi người đều biết nhằm tôn vinh và khuyến khích các sĩ tử. Yết bảng: là hình thức ghi danh người đỗ thi Đình theo thứ bậc cao thấp khác nhau trên bảng vàng.

98

Theo sách“Vân đài loại ngữ” của Lê Quý Đôn, việc xướng danh cho các Tiến sĩ bắt đầu có từ năm Ung Hi thứ 2 (985) của nhà Tống [52; tr.211]. Ở Việt Nam, việc xướng danh, yết bảng các Tiến sĩ bắt đầu được thực hiện từ triều Lê sơ, triều Lê -Trịnh tiếp nối duy trì. Lễ xướng danh cho Tiến sĩ do bộ Lễ đảm trách trước thềm rồng của cung điện và thực hiện sau ngày thi Đình vài ngày. Như khoa thi năm 1691 tổ chức ngày 2 tháng 5 thì đến ngày 6 tháng 5 thực hiện truyền lô xướng tên người đỗ gồm 11 người, sau đó quan bộ Lễ cho rước bảng vàng dựng ở ngoài cổng nhà Quốc học. Nghi thức xướng danh diễn ra rất trang nghiêm, linh đình có sự chủ trì của vua Lê, sự tham gia đông đảo các quan đại thần hai ban văn, võ mục đích nhằm khiến cho sĩ tử nhìn thấy mà thêm phần khích lệ học tập. Sách Lịch triều hiến chương loại chí ghi nghi lễ xướng danh rất cụ thể như sau: “Vua lên ngồi trên điện, Tự ban dẫn các viên đại thần văn võ vào đứng xếp hàng ở hai bên sân rồng... Hồi trống nghiêm thứ ba, tự ban dẫn các viên 86 Thi Ứng chế bắt đầu mở năm 1499. Năm 1724 triều đình cho bỏ khoa thi này. Đến năm 1733 cho mở lại.

Tiến sĩ đứng vào hàng cuối bên hữu sân rồng (hướng về phía Bắc). Tiếng chuông nổi. Vua đội mũ xung thiên, mặc áo bào vàng, đai ngọc, lên ngự tọa ở điện... Tự ban mang bảng vàng đứng tựa về phía đông. Xướng danh xong, tự ban dẫn các Tiến sĩ vào quỳ ở giữa ngự đạo. Quan Lễ bộ đến giữa ngự đạo, quỳ xuống rồi đọc: niên hiệu, năm, tháng, ngày, bọn chúng tôi phụng sắc cho đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ mấy người, họ, tên; Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân mấy người, họ, tên; Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân mấy người, họ, tên... Quan Lễ bộ cùng tự ban mang bảng vàng từ cửa bên tả sân rồng đi ra, trống và nhạc đi trước, các Tiến sĩ đi theo sau, rước đến cửa nhà Thái học, treo lên” [25; tr.56 -57].

-Khắc tên trong bia đá Các tân Tiến sĩ còn được khắc tên trong bia đá. Lệ khắc tên vào bia có nguồn gốc từ nhà Đường của Trung Quốc, ở Việt Nam lệ này được thực hiện dưới triều Lê Thánh Tông87. Buổi đầu Trung hưng do bận chính sự nên phải đến khoa thi năm 1653, triều đình mới cho truy lập bia người đỗ Chế khoa và Tiến sĩ gồm 25 bia từ khoa thi năm Giáp Dần (1554) đến Nhâm Thìn (1652). Trong nhiều năm tiếp theo88, triều Lê-Trịnh tiếp tục cho dựng bia với tổng 21 lần dựng. Trong tổng số 82 văn bia ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám có tới 60 bia được dựng thời Lê -Trịnh truy lập 67 khoa (từ khoa thi năm 1554 đến khoa thi năm 1779); riêng từ năm 1595 (khoa Chế khoa) đến khoa thi năm 1779 truy khắc 60 khoa, lưu danh 691 Tiến sĩ [141; tr.41-51]. Việc dựng bia để khắc lưu tên tuổi, quê quán, thứ bậc đỗ của các Tiến sĩ có ý nghĩa rất quan trọng nhằm vinh danh các Tiến sĩ - đại diện cho những người có ý chí vươn lên trong học tập, qua đó còn nhắc nhở trọng trách của kẻ sĩ đối với triều đình, với quốc gia: “lấy chính trực trung hậu mà đứng giữa triều đình, lấy đạo đức nhân nghĩa phò tá chính sự, làm đá tảng cột trụ ở chốn miếu đường, đưa quốc gia đến chỗ vững yên như Thái Sơn bàn thạch” [141; tr.503].

87 Năm 1484 vua Lê Thánh Tông cho dựng 10 tấm bia của 10 khoa thi từ năm 1442 đến 1484. 88 Vào các năm 1717, 1721, 1724, 1726, 1732, 1733, 1738, 1744, 1747, 1748, 1753, 1756, 1757, 1763, 1766, 1769, 1772, 1776, 1780. 89 Lịch đại danh hiền phả: ghi tiểu sử, quê quán 178 người đỗ đạt khoa từ cuối đời Trần đến Lê Chiêu Thống (cuối thế kỷ XVIII); Lịch đại đại đăng khoa lục của Vũ Duy Đoán viết năm 1654, do Lê Văn Ngân chép lại năm 1881, ghi họ tên, quê quán, chức quan, khoa đỗ Tiến sĩ của 2.273 người từ khoa thi Hội năm 1075 đời Lý Nhân Tông đến đời Chiêu Thống; Liệt huyện đăng khoa khảo của Phan Huy Ôn (1755-1786)...

99

Các Tiến sĩ còn được lưu danh trong các sách Đăng khoa lục nhằm lưu tên tuổi, quê quán của họ cùng khuyến khích việc học cho đương thời và hậu thế. Vì vậy, đến thời Lê -Trịnh nhiều bản đăng khoa lục hoặc do Nhà nước chủ trì hoặc do một số các sĩ nho chủ biên đã được biên soạn như Đại Việt lịch triều đăng khoa lục của nhóm soạn giả Nguyễn Hoản, Vũ Miên và Uông Sĩ Lãng; Đăng khoa lục sưu giảng của Trần Tiến cùng các bộ khác như Lịch đại danh hiền phả, Lịch đại đại đăng khoa lục, Liệt huyện đăng khoa khảo89.

Sau lễ xướng danh, tân Tiến sĩ được vua ban mũ, áo, đai và đến điện Thái miếu làm lễ; được nhà vua tổ chức đãi yến tiệc ở công đường Lễ bộ hoặc tại các vườn thượng uyển như Quỳnh Lâm, Quỳnh Hoa (tên vườn hoa ở phía sau của điện Kính Thiên). Họ được cưỡi ngựa đi chơi phố, được tổ chức tiễn vinh quy về quê hương với đủ hạng cờ quạt, nghi trượng, phường trống, phường nhạc. Chính sử cho biết Nguyễn Quý Ân (1673-1722), con trai của danh sĩ Nguyễn Quý Đức ở làng Đại Mỗ đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ (Hoàng giáp) năm 1715. Ngày vinh quy bái tổ, ông được triều đình ban tặng 1 con voi, hai con ngựa cùng với các mũ, áo, cờ biển, khi trở lại triều đình nhậm chức ông được thăng Hàn lâm viện Hiệu lý, Thị nội Thư tả.

Những ân điển trên đây có thể coi là sự cổ vũ, động viên khích lệ lớn lao về mặt tinh thần của Nhà nước dành cho người đỗ đạt, thể hiện sự “đãi ngộ vẻ vang đối với Nho sĩ và là điển lễ long trọng của vua chúa” [25; tr.59]. Đây cũng chính là nét đẹp rất riêng trong truyền thống trọng học của người Việt Nam xưa.

3.1.6.2. Bổ dụng chức quan Trong bản tường trình về “Lịch sử tự nhiên, dân sự và chính trị xứ Đàng Ngoài” của Richard, ông nhận xét rằng: “Ở Đàng Ngoài, học thức được đặc biệt đánh giá cao, vì đây là phương tiện duy nhất giúp đạt được danh vọng, chỉ có giới Nho sĩ mới được coi là những bậc cao quý của đất nước” [225; tr.367]. Khi đối sánh với chính sách trọng dụng nhân tài của triều Lê - Trịnh, nhận xét này khá xác đáng.

-Đối với đại khoa

100

Chính quyền Lê - Trịnh rất coi trọng việc tuyển bổ những người đỗ các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình do triều đình tổ chức vào hệ thống chính quyền Nhà nước, nhất là Tiến sĩ. Vì vậy trong suốt thời gian cầm quyền, triều Lê -Trịnh đã không ngừng đẩy mạnh giáo dục và khoa cử Nho học, ngay cả ở những thời điểm chiến sự diễn ra ác liệt. Sau khi đỗ đạt, gần như toàn bộ số Tiến sĩ đều được bổ nhiệm chức quan với 715/729 người chiếm 97,9%90. Tùy theo đường xuất thân khác nhau mà được ban phẩm hàm, tư cách và chức quan khác nhau91. Theo lệ bổ nhiệm chức vụ ban đầu đối với Tiến sĩ năm 1674 thì: Chánh Tiến sĩ được trao chức Hàn lâm viện Hiệu lý (Chánh thất phẩm); Đồng Tiến sĩ trao chức Hàn lâm viện Hiệu thảo (Tòng thất phẩm). Sau khi đã mãn nhiệm kỳ sẽ thăng lên chức vụ có trật cao hơn: quan trong kinh thăng lên Lang trung sáu bộ (Chánh lục phẩm); quan ngoài các trấn thăng Hiến sứ các xứ (Chánh lục phẩm) [94; tr.45]. Lệ bổ dụng này theo như Lê Quý Đôn nhận xét thì “...đãi ngộ rất hậu, bổ dụng rất cao”. Cũng theo Lê Quý Đôn, một ân điển mang tính đặc cách nhất 90Trong 14 trường hợp không ra làm quan hoặc có nhưng chính sử không ghi rõ, cụ thể: 4 trường hợp chưa vinh quy đã mất như Bùi Công Tốn (Tiến sĩ năm 1685), Ngô Hưng Giáo (Tiến sĩ 1710); Nguyễn Thì Lượng (Tiến sĩ 1731), Nguyễn Huệ (Tiến sĩ 1733); 9 trường hợp không ghi lại hành trạng (Cấn Văn Nhạ, Lê Bỉnh Trung, Ngô Sách Thí, Nguyễn Hữu Đạo, Đặng Công Diễn, Lê Trọng Tín, Nguyễn Đình Giản, Lưu Định, Vũ Trọng Tử), 1 trường hợp ghi làm quan triều Tây Sơn và Nguyễn nhưng không rõ có làm quan triều Lê -Trịnh hay không: Nguyễn Hoàng Thự (Tiến sĩ 1787); 1 trường hợp cáo không ra làm quan là Nguyễn Huy Cẩn (Tiến sĩ 1760). 91Xem Bảng 4.2: Phẩm hàm và chức quan cao nhất các Tiến sĩ chia theo 3 giáp triều Lê -Trịnh (Chương 4, tr.117)

của triều Lê -Trịnh dành cho Tiến sĩ là: “Người nào bổ quan ngoài các trấn, thì bổ vào hai ty Thừa chính hoặc Hiến sát, đều trao cho chưởng ấn chính thức, không phải giữ chức Tá nhị” [53; tr.107]. Theo định lệ, trước khi được bổ dụng một chức quan chính thức (thực chức) các vị tân Tiến sĩ chưa được bổ dụng chính thức ngay mà phải trải qua một thời kỳ thí chức (tập sự) trong hệ thống chính quyền theo hai cách: bổ về “tập sự” tại các viện hoặc bộ nào đó trong chính quyền trung ương và bổ về tòng sự tại một trấn (xứ) hoặc một phủ, huyện nào đó chủ yếu tập làm quen với công việc thông qua sự giúp đỡ, hướng dẫn của các vị quan đương nhiệm. Sau thời gian khoảng nửa năm, vị tân quan sẽ được sát hạch và có thể bổ dụng chính thức vào một vị trí nào đó trong chính quyền trung ương. Trong khi đó, khi bổ về tòng sự tại một trấn (xứ) hoặc một phủ, huyện, vị tân quan sẽ được bổ nhiệm vào cùng một chức vụ với một vị quan đương nhiệm (gọi là Tá nhị). Sau một thời gian, vị quan đương nhiệm sẽ tâu về triều đình rõ về đức hạnh và năng lực của vị quan tập sự, căn cứ vào đó để bổ nhiệm chính thức hoặc không. Tuy nhiên, triều Lê - Trịnh lại cho “miễn thời gian tập sự” cho Tiến sĩ khi bổ quan về các trấn, đồng thời ban cho họ chưởng ấn chính thức, bỏ lệ Tá nhị, đây được coi là một đặc ân rất lớn của Nhà nước đối với các tân Tiến sĩ.

-Đối với bậc trung khoa và tiểu khoa Theo quy định của triều Lê -Trịnh, người đỗ Hương cống được hưởng một trong hai quyền lợi: vào học Quốc Tử Giám chờ thi Hội hoặc bổ dụng chức quan (thường họ được bổ làm Lại điển các nha môn rồi lên chức Huyện thừa, Tri huyện). Riêng con quan Tam phẩm trở lên (gọi là Ấm tử) đỗ Hương cống sẽ được bổ Tự thừa, Tư vụ bộ Lại hay bộ Hộ, Điển sử ty Thông chính [94; tr.45]. Những người đạt danh hiệu Sinh đồ tiếp tục về học tập tại trường phủ, chờ khoa thi sau, hoặc trở về quê mở trường dạy học, họ được miễn các loại tạp dịch và chỉ phải đóng một nửa tiền quý. Những người đỗ nhất trường, nhị trường được miễn binh dịch, lao dịch 1, 2 hoặc 3 năm tùy theo quy định của từng đời vua. Tuy nhiên, trong buổi đầu Trung hưng do việc “dùng người không theo tư cách” khá phổ biến, nên có một số người chỉ đỗ hạng Sinh đồ nhưng được giữ tới chức Tham tụng như Đặng Thế Khoa ở đời Thịnh Đức (1653).

92 Trong “Hậu thần bi ký” dựng tại thôn Bùi Bến, xã Yên Lư, huyện Yên Dũng, Bắc Giang cho biết bia dựng 1766, do Nhập thị Thiêm sai Hàn lâm viện Thừa chỉ Chánh sứ Nguyễn Huy Oánh soạn, Nguyễn Bá Tư từng trúng khoa Thư toán viết chữ. Trong bi ký ghi chép về việc xây đình ở xã Tư Mại, huyện Yên Dũng dựng năm 1670, có Sinh đồ là Nguyễn Tích Đức khắc bia. Hoặc Giám sinh Ngô Năng ở xã Bắc Lý huyện Việt Yên đã tham gia biên soạn nội dung văn bia tại chùa Kim Tước, xã Bắc Lý.

101

Ở cấp làng xã, những người đỗ đạt cùng với bằng cấp học vị đã giành được, không phân biệt đỗ Hiệu sinh, Sinh đồ hay Hương cống, họ được dân làng cho tham dự vào nhiều công việc trọng đại của làng. Phần lớn họ đều trở thành thành viên của Hội Tư văn, đây là nơi hội tụ những trí thức Nho học ở làng quê, giữ các chức Điển văn và Tả văn vừa lo công việc hành chính cho hội, vừa tham gia viết văn tế cho làng vào các dịp tiết lễ, hoặc biên soạn minh văn để khắc lên bi ký ở đình, đền, chùa92. Hoặc như

trường hợp của Nho sĩ Dương Đình Hiển người làng Phượng Dực (Hà Tây cũ) vừa giữ chức Trùm trưởng hội Tư văn, vừa cùng với các vị trong bản hội cho tu soạn Văn hội bạ ghi chép tên tuổi thế hệ của các vị trong làng93.

Ngoài ra, nhiều địa phương đã lưu danh những người đỗ đại khoa trong các văn bia khuyến học dựng đặt tại Văn Miếu (cấp trấn), Văn từ, Văn chỉ (cấp phủ, huyện, xã) nhằm cổ súy tinh thần hiếu học của địa phương như Văn miếu Mao Điền, Bắc Ninh, Lạng Sơn, Vĩnh Yên94. Một số địa phương, do người đỗ đại khoa ít nên đã cho lập thờ Tiên hiền cả người đỗ Hương cống, như bia Tiên hiền liệt vị duệ hiệu đặt ở Văn từ xã Quang Minh (Bắc Giang) ghi danh 13 vị Tiên hiền, chỉ có Chu Danh Tể là Tiến sĩ đỗ năm 1676, 12 vị còn lại là Hương cống của triều Lê95.

3.1.6.3 Cấp lương, bổng lộc Trong quá trình đương chức hoặc về trí sĩ, những quan lại xuất thân từ khoa cử được Nhà nước đãi ngộ một số quyền lợi về kinh tế như cấp lương, ban thưởng bổng lộc, miễn ruộng thuế tư...

93 Dương Đình Hiển (1684 -1754) đỗ Giải nguyên khoa thi Hương năm 1708, thi Hội nhiều lần đều đỗ Tam trường, được bổ dụng nhiều chức vụ. Ông tinh thông địa lý, am hiểu toán pháp, kiêm thông y học, giỏi thơ Nôm, có các tác phẩm: Phượng Dực điếm thi, Phượng Dực phong cảnh phú, Nhập tàng quy mục lục nhị thể, Long hưng bi văn. Ông là bạn của Tư huấn Trần Hiển, Hàn lâm Chu Nguyên Lâm và Đông các Vũ Công Trấn. 94 Theo các tác giả Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Kỳ Nam (2013), “Văn Miếu, Văn từ, Văn chỉ trong lịch sử Việt Nam” [20], thời Lê sơ có hai Văn Miếu được xây dựng là Mao Điền và Bắc Ninh. Mao Điền xây dựng khoảng giữa thế kỷ XV thuộc tổng Mao Điền, phủ Bình Giang, trấn Hải Dương (nay thuộc thôn Mao Điền, xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương) được lập ra để tổ chức các kỳ thi Hương của trấn Hải Dương. Văn Miếu Mao Điền là một trong số ít Văn Miếu còn giữ được nhiều nét cổ tồn tại đến nay, có quy mô và lịch sử lâu đời chỉ đứng sau Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội. Văn Miếu Bắc Ninh được xây dựng tại Thị Cầu thuộc tổng Đỗ Xá, huyện Võ Giàng, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc (nay là phường Đại Phúc,TP Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh). Văn Miếu Lạng Sơn được xây dựng từ đời Hậu Lê (thế kỷ XVII), vị trí ở cửa Bắc thành Lạng Sơn. Trong suốt quá trình tồn tại, Văn Miếu Lạng Sơn không có bia ghi danh những người đỗ đạt, mà là nơi thờ Đức Khổng Tử và có quy mô nhỏ. Sang thế kỷ XVIII, Văn Miếu Lạng Sơn được chuyển về phía Nam thuộc khu gò Long địa (đất rồng), nay là khu vực Viện 50 (phường Chi Lăng, Thành phố Lạng Sơn). Văn Miếu Tam Đới (Vĩnh Yên) cũng được dựng vào thế kỷ XVII. Văn bia Trùng tu Văn Miếu tịnh nghi môn bi ký (ký hiệu thác bản No 5107-5108, Viện Nghiên cứu Hán Nôm), đặt tại Văn chỉ xã Cao Xá huyện Bạch Hạc tỉnh Vĩnh Yên được dựng năm 1669 do Trần Đăng Tuyển, người xã Hoàng Mai huyện Yên Dũng, đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1640, giữ chức Binh Bộ Thượng thư soạn. 95 Văn bia này dựng năm Khải Định 1923, ký hiệu N031202. Trong “Tư văn bi ký” dựng xã Tân Liễu (huyện Yên Dũng, Bắc Giang) dựng 1767 cho biết mục đích dựng Văn chỉ để ghi tên Phủ sinh, Sinh đồ cùng những người có chức vụ ở địa phương khoảng 30 người.

102

Việc cấp lương cho quan viên của triều Lê -Trịnh chủ yếu thông qua lệ cấp tùy hành dân hộ, cấp ruộng lộc điền theo thứ bậc đỗ cao thấp khác nhau: “Nếu xuất thân là Tiến sĩ, được cấp tùy hành dân xã 35 người; Hoàng giáp 40 người; Thám hoa 45 người; Bảng nhãn 50 người; Trạng nguyên 55 người” [53; tr.154]. Đối với người đỗ khoa Đông các Đệ nhất trúng cách được 30 suất, Đệ nhị trúng cách mỗi viên 25 suất, Đệ tam trúng cách mỗi viên 20 suất [24; tr.650]. Đây là chế độ người được cấp (quan viên) được lấy tiền công làm thuê của dân tùy hành để làm lộc. Tuy nhiên về sau, do hộ khẩu hao hụt và do sai khiến lính nhiều không đủ số người để cấp cho quan văn nữa, nên vào năm 1741 triều đình quy định lấy ruộng dưỡng liêm (còn gọi là Dưỡng liêm điền) ban cho các quan, tức là lấy ruộng cấp lộc thay cho chế độ cấp quân tùy

hành. Đồng thời bãi việc quan văn thu tiền của quân tùy hành. Mức liêm điền này nhiều ít theo thứ bậc có khác nhau, trong đó: nhất phẩm cấp 45 mẫu, nhị phẩm cấp 40 mẫu, tam phẩm cấp 35 mẫu, tứ phẩm cấp 30 mẫu, ngũ phẩm cấp 25 mẫu, lục, thất, bát phẩm cấp 20 mẫu. Những viên quan xuât thân Tiến sĩ được cấp thêm ruộng, theo đó Trạng nguyên thêm 20 mẫu, Bảng nhãn thêm 15 mẫu, Thám hoa thêm 10 mẫu, Hoàng giáp thêm 5 mẫu” [24; tr.651]. Việc cấp liêm điền này do Hộ phiên tìm nơi ruộng tiện gần mà cấp cho các quan.

Các quan còn được hưởng một số bổng lộc khác như cấp ruộng đất, ao vườn để ở, miễn thuế ruộng tư. Lệ cấp vườn đất chủ yếu dành cho quan ở Kinh đô để làm vườn, hoặc làm nhà ở có từ thời Lê sơ, triều Lê -Trịnh vẫn tiếp tục duy trì ân điển này nhưng mức độ thấp hơn. Theo quy định năm 1723, quan nhất phẩm 3 mẫu, nhị phẩm 2 mẫu, tam phẩm 1 mẫu, tứ phẩm 5 sào, ngũ phẩm 3 sào, lục thất phẩm 2 sào, bát cửu phẩm 1 sào [24; tr.651]96. Họ được hưởng “ruộng lộc” từ Nhà nước như ruộng thế nghiệp (là loại hình ruộng đất cấp cho vương hầu và các quan to, đời mình, đời con cháu được hưởng). Họ còn được miễn thuế ruộng tư theo phẩm bậc: quan nhất phẩm, nhị phẩm được miễn thuế 50 mẫu, tam, tứ phẩm được miễn 40 mẫu, trong trường hợp số ruộng nhiều quá hạn đó, đều phải nộp thuế, nếu ít ruộng không đủ số ruộng được miễn thuế thì chiếu theo phẩm thứ nhà nước sẽ ban cấp thêm ruộng cho bù [24; tr.650].

Khi về trí sĩ, triều đình ban cho họ ân lộc gồm dân lộc và lộc ruộng huệ dưỡng, người theo hầu để dưỡng già theo mức độ nhất định. Theo đó, quan từ nhất phẩm trở lên được cấp dân lộc 4-5 xã, sử tiền 400 quan97, nhị phẩm được cấp 2 -3 xã, sử tiền 300 quan, hoặc 200 quan; tam phẩm được cấp 1 -2 xã, sử tiền 300 quan, hoặc 250 quan, tứ phẩm 1 xã, sử tiền 150 quan...” [53; tr.164]. Thậm chí khi mất, họ được nhà nước truy phong, truy tặng danh hiệu, chức tước, ban cho một số tiền tuất, lập đền thờ thờ phụng. Chẳng hạn khi Lại Bộ thượng thư Chưởng lục bộ sự kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu, Hàn lâm viện Thị độc, chưởng Hàn lâm viện sự, Thái phó Tuyền quận công Nguyễn Duy Thì chết, được tặng Thái tể, ban thụy hiệu là Hành Độ.

103

Đối với con cháu của quan viên xuất thân từ con đường khoa mục cũng được Nhà nước ban cho một số ân điển như miễn sưu dịch, phong thưởng chức tước (ấm bổ) hoặc được bổ vào trường Giám học. Tùy theo cấp bậc của cha, ông cao thấp khác nhau có mức độ thụ hưởng khác nhau. Chẳng hạn, theo quy định của Nhà nước năm 1677, các quan văn từ Tam công (Thái úy, Tư đồ, Tư không), Tam thiếu, Thượng thư, Đô ngự sử, Tả hữu thị lang, Phó đô Ngự sử, Thừa chính sứ, Hàn lâm, Thừa chỉ, Đại học sĩ và Tế tửu thì 5 đời con cháu đều được làm hạng quan viên tử tôn; quan hàng võ từ chức Đề đốc lãnh, Đề đốc phó, Đề lãnh tham đốc, Thự vệ, Tổng binh sứ, được ban tước quận công thì 4 đời con cháu đều được làm hạng quan viên tử tôn [94; tr.65]. 96 Theo Lệ cấp vườn đất năm Hồng Đức 4 (1473), quan nhất phẩm được 1 mẫu, nhị phẩm 8 sào, tam phẩm 7 sào, tứ phẩm có đất ở 6 sào, lục thất phẩm đất ở 5 sào, bát cửu phẩm đất ở 4 sào. 97 Sử tiền: cũng gọi là tiền gián, mỗi tiền 36 đồng, khác với cổ tiền mỗi tiền 60 đồng.

Nhà nước còn thực hiện chế độ miễn thuế, lao dịch cho người đỗ đạt. Chế độ này được ban hành thành điều lệ từ thời Lê sơ98, triều Lê -Trịnh tiếp tục kế thừa, có mở rộng đối tượng áp dụng cho cả Sinh đồ. Theo lệ miễn trừ tạp dịch cho các Nho sinh, Sinh đồ ban hành năm 1677, nếu hạng Nho sinh thi trúng tam trường thi Hương - đây là hạng con cháu quan viên tử tôn và các Sinh đồ - con cháu thường dân thì chỉ đóng nửa quan tiền quý và được miễn các tạp dịch [94; tr.68]. Một số làng xã cũng áp dụng chế độ đãi ngộ này như quy ước làng Mộ Trạch (Hải Dương) sau đây: “Các viên dự trúng Sinh đồ trong xã, từ trước đến nay phải nộp suất tiền thuế dung. Nay nên theo lệ khoan miễn, được miễn quý tiền để khuyến khích” [197; tr.477].

3.2 Khoa cử Nho học Đàng Trong 3.2.1 Xuân thiên quận thí Xuân thiên quận thí: nghĩa là thi ở quận vào mùa xuân. Năm 1632, theo đề nghị của Đào Duy Từ (1572 -1634), chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1563 -1635) bắt đầu tổ chức lại phép “duyệt tuyển” để chia dân ra làm từng hạng mà đóng thuế và tuyển lính. Phép duyệt tuyển này dựa theo thể lệ đời Hồng Đức triều Lê sơ: 6 năm một lần tuyển lớn, 3 năm một lần tuyển nhỏ. Gắn với mỗi kỳ duyệt tuyển lớn, chúa Nguyễn Phúc Nguyên cũng quy định lệnh cho học trò các huyện đều đến trấn, dinh để khảo thí một ngày. Phép thi của kì thi này rất đơn giản: trong một ngày học trò chỉ làm một bài thơ, 1 bài văn sách tại dinh trấn thuộc các địa phương Thuận Hóa, Quảng Nam (đến đầu thế kỷ XVIII có thêm Gia Định). Lấy chức quan Tri phủ, Tri huyện làm quan Sơ khảo, chức Ký lục làm quan Phúc khảo; người đỗ thì cho làm nhiêu học miễn thuế sai dịch trong năm.

98 Ngày 20 tháng 10 năm Mậu Thân (1488) vua Lê Thánh Tông có chiếu chỉ rằng: từ nay trở đi phàm học trò đã từng đọc sách, biết làm văn mà có hạnh kiểm, đã thi đỗ và được miễn tuyển, thì tha cho nửa phân thuế và sai dịch, để rộng thêm y đức của triều đình nuôi dạy nhân tài [103; tr.504]

104

Như vậy, Xuân thiên quận thí thực chất là kì khảo hạch để xác định tư cách nhiêu học cho người dân trong địa phương để miễn lao dịch. Nhiêu là người được miễn một số sai dịch trong thời phong kiến, nhiêu học là do học hành có chữ nghĩa, có kiểm tra xác nhận, không phải do làm quan, do già cả hay bỏ tiền ra mua. Xét về mặt tính chất và ý nghĩa xã hội thì Xuân thiên quận thí giống như thi khảo hạch của chính quyền Lê -Trịnh trong việc kiểm tra trình độ học vấn, xác định tư cách kẻ sĩ của người dân. Tuy nhiên, nếu ở Đàng Ngoài thi khảo hạch để xác định học trò có đủ trình độ để dự thi Hương tiếp sau đó, thì Xuân thiên quận thí ở Đàng Trong tuy cũng nhằm kiểm tra trình độ, nhưng người đỗ chỉ được miễn thuế sai dịch mà không được dự bất cứ kì thi nào. Mặc dù người đạt danh hiệu nhiêu học của Xuân thiên quận thí không được cấp học vị gì có giá trị để làm quan hay làm lại, nhưng đây là cơ sở xã hội quan trọng để được trọng vọng bởi “đã có danh hiệu Nhiêu học thì không những được miễn sai dịch mà còn có thể có địa vị xã hội cao ở nơi thôn xóm” [88; tr.156]. Rõ ràng, dù ít hay

nhiều nhưng Xuân thiên quận thí cũng góp phần làm cho người có học vấn được xã hội tôn trọng, đề cao. Vào năm 1740, khi định lại phép thi của kì thi Thu vi Hội thí, chúa Nguyễn Phúc Khoát đã bỏ khoa thi này. 3.2.2 Thu vi Hội thí (thi Hội vào mùa thu) Năm Bính Tuất (1646), chúa Nguyễn Phúc Lan cho định phép thi Thu vi Hội thí (còn gọi là thi Hội mùa thu), định lệ 9 năm một lần, chia làm 2 khoa Chính đồ và Hoa văn tổ chức tại phủ chúa ở Phú Xuân. Đây là kì thi chính do triều đình đứng ra tổ chức nên thời gian, địa điểm cùng hệ thống trường quan, phép thi... được các chúa Nguyễn quy định một cách cụ thể.

3.2.2.1 Khoa thi Chính đồ Theo chú thích của sách Đại Nam thực lục, tập 1 thì Chính đồ “là khoa thi lấy người thi đậu ra làm quan, tương tự như thi Hương, thi Hội ở Bắc (chỉ vùng Đàng Ngoài)” [152; tr.56]. Theo định lệ năm 1646 cứ 9 năm một lần, chúa Nguyễn tổ chức một kì thi ở Chính dinh thuộc thủ phủ của chúa Nguyễn (dinh Phú Xuân) yêu cầu học trò các phủ huyện của toàn bộ dinh trấn ở Đàng Trong đến ứng thí để lựa chọn người có học hạnh tham gia bộ máy chính quyền. Tuy định lệ được ban hành năm 1646, nhưng phải đến năm 1647 mới mở khoa thi đầu tiên.

Quan chức phụ trách thi: theo định lệ về thi Thu vi Hội thí năm 1646, hệ thống

chức quan tham gia quản lý, trông coi khoa thi Chính đồ như sau: Quan giám thí: lấy từ Nội tả, Nội hữu, Ngoại tả, Ngoại hữu Quan giám khảo: lấy từ quan Nha úy Quan sơ khảo: gồm quan Văn chức, Tri phủ, Tri huyện. Quan phúc khảo: gồm Ký lục, Cai bạ. Như vậy, so với khoa thi Xuân thiên quận thí (duyệt tuyển) thì hệ thống chức quan phụ trách của khoa thi Chính đồ được phân công nhiệm vụ một cách cụ thể hơn. Các quan trường đều là những vị quan có trình độ, đức độ, đặc biệt trong đó có sự tham gia của các chức Nội tả, Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại hữu (Tứ trụ đại thần) là những chức quan cao nhất của chính quyền chúa Nguyễn.

Về phép thi và nội dung thi: ở khoa thi Chính đồ chúa Nguyễn là người trực tiếp ra đề thi cho các thí sinh. Khoa thi Chính đồ diễn ra trong ba ngày (tương ứng với ba kì thi), nội dung thi như sau:

105

Ngày thứ nhất: thi văn Tứ lục gồm 3 bài Ngày thứ hai: thi thơ, phú mỗi thể một bài. Ngày thứ ba: thi một bài sách vấn. Nội dung thi Tứ lục có nét tương đồng với cách thức thi Chiếu, Chế, Biểu của Đàng Ngoài, đây là những thể văn có niêm luật nhất định. Thể văn Tứ lục hay còn gọi là thể văn Biền ngẫu, văn xuôi có 2 vế, vế 6 chữ và vế 4 chữ đối nhau. Phần thi thơ, phú thí sinh sẽ làm 1 bài thơ và 1 bài phú, trong đó thơ thì làm theo thể Đường luật, phú cũng

làm theo lối cổ thể (còn gọi là Ly tao) quy định từ 3000 chữ trở lên. Phần thi văn sách sĩ tử sẽ làm đối sách trả lời những vấn đề mà chúa Nguyễn hỏi, chủ yếu về tình hình chính trị, quân sự của Đàng Ngoài và những kế sách đối phó của chúa Nguyễn, dung lượng 1000 chữ trở lên. Một bài văn sách được chia làm hai phần: phần câu hỏi trong đề bài gọi là sách vấn, phần trả lời gọi là đối sách, đây là nội dung chính của bài. Vì khoa thi Chính đồ của Thu vi hội thí gần tương đương như thi Hương ở Đàng Ngoài nên dung lượng và độ khó của câu hỏi sách vấn không khó bằng bài thi sách vấn trong kì thi Đình ở Đàng Ngoài.

Từ năm 1740 trở đi, chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738 -1765) cho định lại phép thi Chính đồ, theo đó thí sinh phải trải qua 4 kỳ, trong đó kỳ thi thêm vào được dùng để thi Kinh nghĩa (giải thích nghĩa của Kinh, tùy theo từng đề mà giải thích từng loại kinh như kinh Thi, kinh Thư...). Phép thi Chính đồ lúc này gồm: kì đệ nhất thi Tứ lục, kì đệ nhị thi thơ, phú, kì đệ tam thi Kinh nghĩa, kì đệ tứ thi văn sách. Việc thêm kì thi Kinh nghĩa cho thấy, các chúa Nguyễn đã thực sự chú trọng đến việc đòi hỏi học trò phải có thực học về đạo Nho; đồng thời việc định lại phép thi Chính đồ gồm 4 kì cũng là học theo phép thi Hương (thi 4 kì) của Đàng Ngoài.

Học vị người thi đỗ: Theo định lệ, thí sinh thi đỗ khoa thi Chính đồ được phân làm 3 hạng tương ứng với các học vị: hạng Giáp (Hương cống), hạng Ất (Sinh đồ), hạng Bính (Sinh đồ)99. Người đỗ Hương cống được bổ Tri phủ, Tri huyện; người đỗ hạng Ất được bổ chức Huấn đạo; hạng Bính cũng là Sinh đồ thì được bổ làm Lễ sinh hoặc cho làm Nhiêu học cả đời [54; tr.195]. Khi định lại phép thi Chính đồ (năm 1740) chúa Nguyễn Phúc Khoát đồng thời quy định cụ thể hơn về học vị, quyền lợi của thí sinh. Theo đó, người đỗ kỳ thứ nhất gọi là Nhiêu học tuyển trường, được miễn tiền sai dư trong 5 năm; người đỗ kỳ thứ hai và ba gọi là Nhiêu học thi trúng, được miễn sai dịch suốt đời; đỗ kỳ thứ tư gọi là Hương cống, được bổ làm Tri phủ, Tri huyện và Huấn đạo (quan chế đời Bảo Thái thời Lê Trung hưng, chức Tri phủ có trật Tòng lục phẩm; Tri huyện trật Tòng thất phẩm; Huấn đạo trật Chánh cửu phẩm). Quy định cho Hương cống đảm nhận cả chức Huấn đạo cho thấy, càng về sau các chúa Nguyễn đã có ý thức tuyển chọn các viên học quan có trình độ Nho học nhằm đáp ứng được nhu cầu nâng cao chất lượng học và thi cử. Những người thi đỗ được đề tên trên một chiếc bảng, treo ở trước công đường như là một hình thức vinh danh.

99 Theo quy chế về khoa cử Nho học thời Lê, học vị Hương Cống để chỉ những người đã đỗ kì thi Hương, cũng gọi là Hương tiến được tiến cử đi thi Hội. Người đỗ 3 kì thi Hương gọi là Sinh đồ. Đến thời Nguyễn từ năm 1828 Hương Cống được gọi là Cử nhân, Sinh đồ đổi thành Tú tài. Dưới thời chúa Nguyễn, Quốc sử quán triều Nguyễn đều ghi người đỗ Hương Cống là Hương tiến đều cùng chỉ những người đỗ đầu khoa thi Chính đồ.

106

Như vậy, khoa thi Chính đồ ở Đàng Trong không phải là kì thi Hội để lấy học vị Tiến sĩ như Đàng Ngoài, bởi ở khoa thi này người thi đỗ cao nhất có học vị là Hương cống được bổ làm quan phủ, quan huyện, người đỗ Sinh đồ được bổ làm quan Huấn

đạo (đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, Hương cống đảm trách cả chức Huấn đạo). Với việc xác định người có học vị cao nhất là Hương cống, trong cách thức thi phải tuân theo quy trình xong kỳ nào chấm kỳ ấy, có đỗ kỳ trước mới được vào kỳ sau, có thể thấy cách thức thi cử của khoa Chính đồ trong kì thi Thu vi Hội thí thời chúa Nguyễn tương tự như thể lệ thi Hương của triều Lê - Trịnh. Do việc học ở Đàng Trong còn chậm phát triển, nên người đạt học vị Hương cống ở Đàng Trong được bổ dụng chức quan cao hơn (Tri phủ). Trong khi ở Đàng Ngoài, người đỗ Hương cống chỉ được bổ dụng làm lại viên ở các nha môn, rồi mới được bổ lên chức Huyện thừa, Tri huyện; những thí sinh đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ cũng mới chỉ bổ chức Tri huyện. Như vậy, do nhu cầu của chúa Nguyễn rất cần người am hiểu Nho học tham gia chính quyền nên người đỗ học vị Hương cống mới được bổ dụng chức vụ cao như vậy.

3.2.2.2 Khoa thi Hoa văn Hoa văn là khoa thi lấy học trò viết chữ tốt (chữ Hán) ra làm lại viên ở 3 Ty thuộc Chính dinh và Ty Nội lệnh sử [152; tr.56]. Theo định lệ, Hoa văn được tổ chức cùng thời điểm với khoa thi Chính đồ, 9 năm mới tổ chức một lần. Mặc dù trong định lệ năm 1646 không đề cập đến quan chức phụ trách, địa điểm tổ chức thi nhưng vì đây là khoa thi cùng thời điểm với thi Chính đồ nên có lẽ thời gian, địa điểm, chức quan phụ trách khoa thi Hoa văn cũng gần giống như Chính đồ. Vì là kì thi tuyển lại viên nên nội dung thi của thi Hoa văn đơn giản hơn Chính đồ. Theo thể lệ năm 1646 thì: “Hoa văn thi 3 ngày, mỗi ngày đều viết 1 bài thơ”. Như vậy, tổng cộng khoa thi Hoa văn thi 3 bài thơ. Người trúng tuyển cũng được chia làm 3 hạng: Giáp, Ất, Bính, được bổ làm việc ở ba ty Xá sai, Lệnh sử, Tướng thần lại, cho làm Nhiêu học [152; tr.57]. Tháng 8 năm 1647, chúa Nguyễn Phúc Lan bắt đầu cho mở khoa thi Hoa văn đầu tiên, lấy 7 người trúng cách, tất cả đều được triều đình bổ dụng làm lại viên.

107

Mặc dù quy định 9 năm mở một khoa thi Thu vi Hội thí, nhưng có lẽ vì bận rộn chiến sự nên thời gian tổ chức các khoa thi của chính quyền các chúa Nguyễn không thống nhất và tuân thủ theo định lệ. Qua bảng thống kê 3.1: Các khoa thi thời chúa Nguyễn chúng ta thấy, từ khoa thi Thu vi Hội thí đầu tiên được mở năm 1647 cho đến khoa thi tiếp theo vào năm 1660, phải trải qua 13 năm, từ khoa thi năm 1660 đến 1667 cách 7 năm. Sau khoa thi Hội thí năm 1675, khoảng cách giữa các khoa thi đã rút ngắn lại chỉ từ 4 đến 5 năm. Đặc biệt, việc tổ chức thi Hoa văn cũng thay đổi liên tục, nhất là dưới đời chúa Nguyễn Phúc Tần. Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần chỉ cho thí sinh khoa Chính đồ tham gia kì thi Nhiêu học mà không cho thí sinh khoa Hoa văn dự kỳ thi này. Trước việc làm này, Thủ hợp Trần Đình Ân đã can chúa rằng: “Quốc triều ta thi học trò, Nho và lại đều lấy, đều dùng cho nước nhà cả. Nay không cho Hoa văn dự thi, sợ không phải là ý rộng nuôi nhân tài của tiên triều. Chúa không nghe”[152; tr.91]. Đến năm 1679, mặc dù lời tâu trình của Trần Đình Ân không được chúa Nguyễn Phúc Tần chấp thuận trong việc tổ chức khoa thi Hoa văn cho học trò,

nhưng đến năm 1683, chúa Nguyễn lại cho mở cả khoa thi Chính đồ, Hoa văn và Thám phỏng, với số người lấy đỗ của Chính đồ là 4 người, Hoa văn lấy 34 người và có 4 người trúng cách về Thám phỏng [152; tr.93]. Sự thay đổi liên tục trong quy định và hành động thực tiễn của chúa Nguyễn Phúc Tần đối với khoa thi Hoa văn phần nào cho thấy nhu cầu tuyển chọn lại viên tham gia bộ máy chính quyền các cấp của chúa Nguyễn rất lớn. Đến năm 1689, chúa Nguyễn Phúc Trăn muốn bồi dưỡng nhân tài nên bỏ quy định của cha, lại thi hành chế độ cũ, cho học trò khoa Chính đồ và Hoa văn đều được tới tuyển trường ứng thí, bấy giờ học trò nghe tiếng ai cũng nức lòng. Đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu, việc thi cử được tổ chức đều đặn hơn, có thể thấy được tần suất tổ chức thi của các chúa Nguyễn qua bảng thống kê sau:

Bảng 3.1: Các khoa thi thời chúa Nguyễn100

stt

Đời chúa và năm thi

Khoa thi

1 Nguyễn Phúc Lan

Hoa văn 24

Tổng cộng 31

(8/1647)

2 Nguyễn Phúc Tần

15

Chính đồ 7 5

20

(3/1660)

3 Nguyễn Phúc Tần

14

5

19

(2/1667)

4 Nguyễn Phúc Tần

17

4

Số người lấy đỗ Thám phỏng Chưa mở Chưa mở Chưa mở 7

28

(4/1675)

Thi Hương Chưa mở Chưa mở Chưa mở Chưa mở

5 Nguyễn Phúc Tần

Chính đồ, Hoa văn Chính đồ, Hoa văn Chính đồ, Hoa văn Chính đồ, Hoa văn, Thám phỏng Thi Chính đồ

(1679)

6 Nguyễn Phúc Tần

Không thi 34

Không rõ 4

Không thi 4

Không rõ 42

(3/1683)

Chưa mở Chưa mở

7 Nguyễn Phúc Trăn

(1689)

8 Nguyễn Phúc Chu

Thi Chính đồ, Hoa văn, Thám phỏng Thi Chính đồ, Hoa văn Thi Nhiêu học

Không rõ 92

Không rõ 133

Không rõ 225

(5/1694)

9 Nguyễn Phúc Chu

22

28

Không thi Không thi 10

60

(3/ 1695)

Chưa mở Chưa mở Chưa mở

10 Nguyễn Phúc Chu

17

13

1

31

(8/1701)

Chưa mở

11 Nguyễn Phúc Chu

3

3

5

11

(8/1707)

Chưa mở

12 Nguyễn Phúc Chu

41

97

138

(4/1713)

13 Nguyễn Phúc Chu

Thi Chính đồ, Hoa văn, Thám phỏng Thi Chính đồ, Hoa văn, Thám phỏng Thi Chính đồ, Hoa văn, Thám phỏng Thi Chính đồ, Hoa văn Mở khoa thi

8

18

(8/1713)

2

2

14 Nguyễn Phúc Chu

Thi Chính đồ

(8/1721)

Hơn 10 Không lấy

Không thi Không rõ Không thi

Chưa mở Chưa mở Chưa mở 2

2

15 Nguyễn Phúc Thuần

Thi Hương

Không Không Không

100 Khi lập bảng thống kê này, vì Xuân thiên quận thí không ghi thông tin người đỗ của mỗi khoa nên chúng tôi không thống kê trong bảng.

108

(8/1768)

Tổng

627

thi 289

thi 309

thi 27

2 (Nguồn: Quốc sử quán triều Nguyễn. 2004. Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb Giáo dục)

Các chúa Nguyễn Phúc Lan, Nguyễn Phúc Tần và Nguyễn Phúc Chu rất chú ý đến việc mở các khoa thi Thu vi Hội thí. Đến đời chúa Nguyễn Phúc Khoát, chính sử có ghi chép lại sự kiện năm 1740, chúa cho định lại lệ của phép thi Thu vi Hội thí và quyền lợi của người trúng cách, song lại không thấy sử sách ghi chép gì về các khoa thi được tổ chức như thế nào, mặc dù việc thi cử ở Đàng Trong vẫn còn tiếp tục cho đến nửa sau thế kỷ XVIII mới ngừng lại do phong trào Tây Sơn bùng nổ.

Vào năm 1768, chúa Nguyễn Phúc Thuần vị chúa cuối cùng của họ Nguyễn trị vì ở vùng Thuận Hóa đã cho mở khoa thi Hương đầu tiên và cũng là khoa thi Hương duy nhất được mở trước khi chính quyền của các chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn lật đổ. Sách Đại Nam thực lục cho biết cụ thể về khoa thi cuối cùng này như sau: “Mùa thu tháng 8 mở khoa thi Hương. Sai Chưởng cơ lãnh Hình bộ sự là Tôn Thất Dục (lại có tên là Thường, con Tôn Thất Tứ, bấy giờ gọi là Thường quận công) làm Giám thí. Lấy Lê Chính Việp, Bạch Doãn Triều đỗ đầu, người đương thời cho là xứng đáng” [152; tr.172]. Tuy nhiên thể lệ tổ chức, nội dung của khoa thi này diễn ra như thế nào lại không được chính sử đề cập đến.

Như vậy, trong tổ chức khoa cử, các chúa Nguyễn mới mở được thi Hương để lấy học vị Hương cống mà chưa mở được kì thi Hội, thi Đình để lấy Tiến sĩ như triều Lê -Trịnh. Một trong những nguyên nhân là do trong thời gian khá dài gần hai thế kỷ, từ khi vào trấn thủ Thuận Hóa năm 1558 đến trước năm 1744, chính quyền chúa Nguyễn vẫn chỉ là một chính quyền địa phương của quốc gia Đại Việt chứ không phải là một vương triều biệt lập. Thậm chí khi Nguyễn Phúc Khoát lên ngôi vua năm 1744, cho sửa sang đô thành Phú Xuân, tổ chức lại cơ cấu chính quyền đủ 6 Bộ như một triều đình, nhưng thực tế Nguyễn Phúc Khoát chưa thể tổ chức được chính quyền trung ương ở Phú Xuân thành một triều đình riêng giống như triều đình của vua Lê. Nguyễn Phúc Khoát chưa đặt niên hiệu riêng, vẫn lấy niên hiệu vua Lê để tính thời gian và dựa vào vua Lê để thu phục nhân tâm, nhất là tầng lớp người có học [231; tr.256]. Do đó, các chúa Nguyễn không thể tổ chức thi Hội để tuyển chọn Tiến sĩ như triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài.

3.2.3 Các khoa thi khác Ngoài tổ chức các khoa thi Chính đồ, Hoa văn, từ năm 1675 chúa Nguyễn còn cho mở thêm các khoa thi: Thám phỏng, Văn chức và Tam ty nhằm lựa chọn lại viên phục vụ cho các ty hoặc tham gia giải quyết những vấn đề mang tính thời cuộc.

109

Thám phỏng: là khoa thi được chúa Nguyễn Phúc Tần mở năm 1675 nhằm mục đích thăm dò thái độ của thí sinh, chủ yếu hỏi về dân binh và tình hình nhà Lê - Trịnh. Phép thi của Thám phỏng chỉ một ngày, người đỗ bổ vào ty Xá sai [152; tr.89- 90]. Khoa thi này tiếp tục được các chúa Nguyễn kế nhiệm sau này duy trì.

Thi Văn chức và Tam ty: Tháng 8 năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu bắt đầu tổ chức thi Văn chức và Tam ty ở sân phủ dành cho quan lại, kì thi này gọi là Đình thí. Trong đó, Văn chức là khoa thi dành cho các quan văn, gồm có 3 kỳ: kỳ đệ nhất thi Tứ lục; kỳ đệ nhị thi thơ, phú; kỳ đệ tam thi văn sách giống như khoa thi Chính đồ. Thi Tam ty là khoa thi về công việc của từng ty, gồm có: thi ở Ty Xá sai hỏi về việc binh lính, tiền lương, thóc gạo xuất nhập hàng năm và việc ngục tụng xử quyết trong một năm; thi ở Tướng thần lại và Lệnh sử ty thì viết một bài thơ.

Mặc dù thi Văn chức và Tam ty ở Đàng Trong gọi là thi Đình nhưng hai khoa thi này chỉ có tính chất khảo thí quan lại đang làm việc nhằm sát hạch năng lực của họ, chứ không mang tính chất như kì thi Điện (Đình) ở Đàng Ngoài - là kỳ thi cao nhất của kì thi đại khoa, mà ở đó vua sẽ căn cứ vào điểm thi bài văn sách của các thí sinh để ban học vị Tiến sĩ chính thức cho từng người.

Qua thể thức và nội dung thi cử của khoa thi Hoa văn, Thám phỏng, Tam ty có thể thấy, việc các chúa Nguyễn mở thêm các khoa thi này chủ yếu nhằm tuyển chọn những viên chức giỏi cần thiết để phục vụ các cơ quan và tuyển chọn những người am hiểu vấn đề vua Lê, chúa Trịnh nhằm giải quyết vấn đề thực tiễn đương thời.

3.2.4 Chính sách đãi ngộ dành cho người đỗ đạt Những người đỗ đạt được hưởng một số quyền lợi kinh tế từ phía chính quyền chúa Nguyễn, mà trước nhất là họ được miễn thuế cùng các loại lao dịch. Chúa Nguyễn không ban hành điều lệ cụ thể về chế độ đãi ngộ này, chủ yếu thông qua quy định cụ thể về học vị và quyền lợi của người thi đỗ khoa thi Chính đồ. Chẳng hạn khi định lại phép thi Chính đồ năm 1740, chúa Nguyễn Phúc Khoát cũng đồng thời quy định cụ về học vị, quyền lợi của thí sinh. Theo đó, người đỗ kỳ thứ nhất gọi là Nhiêu học tuyển trường, được miễn tiền sai dư (thuế thân) trong 5 năm; người đỗ kỳ thứ hai và ba gọi là Nhiêu học thi trúng được miễn sai dịch suốt đời.

101 Ký lục, Cai bạ, Nha úy, Văn chức là những chức quan đứng đầu Tam ty được chúa Nguyễn Phúc Nguyên đặt ra năm 1614. Ký lục cùng Đô tri đứng đầu ty Xá sai; Cai bạ đứng đầu ty Tướng thần lại; Nha úy đứng đầu ty Lệnh sử. Văn chức là chức quan làm việc trong văn phòng tại Chính dinh. Tháng 4 năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương đã cho đổi 3 Ty thành các bộ, đặt thêm 3 bộ mới và đặt các chức quan đứng đầu, cụ thể: ty Xá sai đổi thành Lại bộ do Ký lục đứng đầu; ty Tướng thần lại làm Hộ bộ do Cai bạ đứng đầu, ty Lệnh sử đổi làm Lễ bộ do chức Nha úy đứng đầu, Đô tri đứng đầu Hình bộ. Hai bộ Công và Binh chức quan chưa rõ. Văn chức đứng đầu Hàn lâm viện.

110

Qua khảo sát từ Đại Nam thực lục, Đại Nam liệt truyện tiền biên có thể thấy những người thông hiểu Nho học, đạt học vị Hương cống đều được chúa Nguyễn bổ dụng chức quan, đảm trách những chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyền của chúa Nguyễn. Đối với các dinh gồm các chức: Ký lục, Cai bạ, Nha úy, Đô tri, Văn chức101. Cấp phủ, huyện gồm các chức: Tri phủ, Tuần phủ, Tri huyện, Huấn đạo.v.v... Trong quá trình làm việc, nếu có năng lực họ sẽ được cất nhắc bổ dụng lên chức vụ cao hơn như trường hợp của các Nho sĩ Hồ Quang Đại, Phạm Hữu Kính, Nguyễn Đăng Thịnh, Nguyễn Cư Trinh... Phạm Hữu Kính là một danh nho, người huyện Diên Phước

(Quảng Nam), đỗ Hương tiến khoa thi năm 1738, được bổ làm Giáo chức, sau đó được phái đi trấn thủ ở Nha Trang. Trên cương vị quan Trấn thủ, Phạm Hữu Kính là người có tài năng, làm chính sự công bằng, thanh liêm, lại giỏi xét đoán, có thể chỉ ra điều gian, phát giác điều kín khiến thuộc lại và người dân rất nể sợ. Nhận thấy được tài năng của ông, năm 1751 chúa Nguyễn Phúc Khoát đã triệu ông về kinh làm Cai bạ Quảng Nam [151; tr.225]. Nguyễn Đăng Thịnh (1716 -1763) tự là Hương, hiệu là Chuyết Trai, người xã An Hòa, huyện Hương Trà nay thuộc Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, là anh họ của Hương cống Nguyễn Cư Trinh. Cha của ông là Nguyễn Đăng Trị (1653 -1712), tự Đại Chính, hiệu Thuận Đức từng đỗ Hương tiến, làm quan đến Văn chức dưới đời các chúa Nguyễn Phúc Tần, Nguyễn Phúc Thái, Nguyễn Phúc Chu. Năm 1721, Nguyễn Đăng Thịnh đỗ Hương tiến đời chúa Nguyễn Phúc Chu và được bổ chức Tri huyện Hương Trà, về sau được chúa cho về làm ở Văn chức, đến năm 1730, được thăng làm Đô tri [151; tr.199]. Nguyễn Cư Trinh (1716 -1763) người con thứ 3 của Sinh đồ Nguyễn Đăng Đệ, sinh ra trong gia đình có truyền thống văn học nên ngay từ nhỏ ông đã nổi tiếng hay chữ (dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, ông là người có cơ trí mưu lược, giỏi quyết đoán, phàm có kiến nghị tâu bày đều là nói ngay bàn thẳng). Sau khi đỗ Hương cống khoa thi năm 1740, Nguyễn Cư Trinh được bổ Tri phủ huyện Triệu Phong, sau đó trải qua nhiều chức vụ khác nữa: Văn chức, Tuần phủ Quảng Ngãi102, Cai bạ kiêm Tào vận sứ tại Chính dinh... Trên cương vị nào, ông cũng luôn là vị quan thanh liêm, cương trực.

102Khi chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương đồng thời đã chia lãnh thổ Đàng Trong thành 12 dinh và 1 trấn, xếp đặt chức quan quản lý đứng đầu các dinh, gồm chức Trấn thủ, Cai bạ và Ký lục. Riêng dinh Quảng Nam gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Quảng Ngãi và Quy Nhơn. Dinh Quảng Nam trực tiếp nắm phủ Thăng Hoa. Còn hai phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn chúa Nguyễn đặc biệt cho đặt thêm các chức Tuần phủ, Khám lý, Cai quản (lệ thuộc vào dinh Quảng Nam) để quản lý hai phủ này. Như vậy, chức Tuần phủ được đặc cách đặt riêng để đứng đầu quản lý hai phủ trực thuộc của dinh Quảng Nam.

111

Tuy nhiên so với Đàng Ngoài, những người đỗ đạt qua thi cử khi được bổ dụng chức quan không được chính quyền chúa Nguyễn trả lương, họ chỉ được cấp một số lộc điền (ruộng lộc) cùng với một số phu hầu. Việc cấp lộc điền chủ yếu dành cho bộ phận quan lại cao cấp nhưng chỉ ở mức thấp với số lượng từ 1 đến 10 mẫu, còn phần lớn lấy ngụ lộc từ phía nhân dân [252; tr.121]. Còn lại tất cả quan chức đều được cấp một số phu hầu và được lấy số tiền thuế thân do các phu nạp để làm ngụ lộc cho mình (còn gọi là chế độ nhiêu phu). Theo giải thích của Phan Khoang, đây là chế độ chỉ những người bị đi làm phu hầu cho các quan đã đem tiền nộp để khỏi phải phục dịch, các quan được nhận số tiền đó để làm lộc của mình [92; tr.361]. Mức cấp số phu hầu và số tiền ngụ lộc của các quan có sự phân bậc tùy theo phẩm tước cao hay thấp. Chẳng hạn theo quy định về “lệ cấp dân phu” thu tiền ở xứ Thuận Hóa, Quảng Nam, chức quan Khám lý có số phu hầu 30 người, tiền ngụ lộc 45 quan; chánh phó Đề đốc

20 người phu hầu, 27 quan tiền; Cai phủ, 12 người phu hầu, 15 quan, Cai tri phó tướng thần: 8 người phu hầu, tiền 10 quan [54; tr.196].

Khi về trí sĩ hoặc mất, các quan cũng được ghi công trạng, ban thưởng vật chất hoặc tinh thần như cấp ruộng đất, ban biển ngạch khen ngợi, tặng thơ phú, truy tặng tước. Chính sử cho biết: Nguyễn Hữu Dật (1603 -1681) tước Chiêu Vũ Hầu là một danh tướng, một lương thần dưới các đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, Phúc Lan, Phúc Tần. Ông là cha của Nguyễn Hữu Hào và Nguyễn Hữu Cảnh cũng là những danh tướng của chính quyền chúa Nguyễn. Thuở nhỏ, ông là người rất thông minh, có trí nhớ tốt, ham văn chương, sớm có tài thao lược văn võ, vì vậy khi 16 tuổi (năm 1619) ông được chúa Nguyễn Phúc Nguyên bổ làm Văn chức trong triều. Sau đó, vì trái ý chúa nên bị cách chức, về nhà ra sức “trau dồi kiến thức, học vấn càng tinh”. Năm 1626, ông được khôi phục chức vụ Văn chức, trở lại làm việc trong triều. Năm 1627, ông tham gia vào việc quân cơ chống lại họ Trịnh103. Trên con đường quan lộ, ông được thăng lên nhiều chức vụ quan trọng như Tham cơ vụ, Cai cơ, Ký lục dinh Bố Chính (Quảng Bình), Chưởng cơ, Trấn thủ, được quyền tham gia các việc cơ yếu như góp bàn ý kiến về sửa đổi chính thể. Sau khi mất, ông được người dân Quảng Bình tôn thờ gọi là Bồ Tát, lập đền thờ ở Thạch Xá (xã Vạn Xá, huyện Phong Lộc, Quảng Bình), được chúa Nguyễn Phúc Chu truy cấp 3 mẫu ruộng thờ, 100 người dân để thờ cúng. Vào năm Gia Long thứ 4 (1805), Nguyễn Hữu Dật được phong là Công thần bậc trên, cho tùng tự ở Thái Miếu, ấm phong cho 1 người cháu nối đời làm đội trưởng để giữ việc thờ cúng, cấp cho 45 mẫu ruộng thờ, 6 người phu giữ mộ [151; tr.164].

103 Tác giả Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền trong: “Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (1650 -1700) với công cuộc khai sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỷ XVII” có nói về việc ông đỗ khoa thi Hoa văn nhưng không rõ năm nào. Dựa vào ghi chép của chính sử chúng tôi nghi ngờ nhận định trên của tác giả. Bởi khoa thi Hoa văn sớm nhất mở năm 1647, mà Nguyễn Hữu Dật từ năm 1627 đã tham gia việc quân cơ chống họ Trịnh, năm 1631 cùng Đào Duy Từ đắp lũy Nhật Lệ ở Quảng Bình. Trong thời gian mở khoa thi Hoa văn, có lẽ Hữu Dật đang bận tham gia chiến sự không thể dự thi; khi này ông đã hơn 40 tuổi không thể thi Hoa văn để được bổ dụng chức quan. 104 Bản sắc phong thứ nhất và thứ 2 cùng đề ngày 10 tháng Chạp năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) ban cho ông mỹ tự “Tế văn Khuông võ Gia du trung đẳng thần” và “Tế văn Khuông võ Gia mô Vĩ tích trung đẳng thần”. Bản sắc phong thứ 3 đề ngày 3 tháng 7 năm Tự Đức 3 (1850) tặng cho ông mỹ tự “Tế văn Khuông võ gia mô Vĩ tích Quang ý trung đẳng thần.

112

Nguyễn Cư Trinh là bậc công thần văn võ toàn tài dưới thời chúa Nguyễn. Sau khi mất, ông được truy phong là một trong 34 vị nhiên thần và nhân thần, được triều Nguyễn 3 lần ban sắc phong104, cho thờ tại Miếu Công thần thuộc tỉnh Vĩnh Long. Đặc biệt vua Minh Mệnh truy phong ông là Khai quốc công thần, Vinh lộc đại phu, Hiệp biện Đại học sĩ lãnh chức Thượng thư bộ Lại, cải thụy là Văn Khác và cho thờ ở Thái Miếu phía phải cùng với Nguyễn Ư Dĩ, Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật. Việc Nguyễn Cư Trinh được thờ tại Miếu công thần ở Vĩnh Long, được tôn vinh làm phúc thần cho thấy đức nghiệp “kinh bang tế thế” của ông có sức ảnh hưởng cực kỳ to lớn đến tâm hồn và tình cảm của nhân dân các tỉnh Nam Bộ [149; tr.166].

Tiểu kết chương 3:

Trên cơ sở kế thừa thể lệ của các kì thi tuyển chọn Tiến sĩ (thi Hương, thi Hội, thi Đình) đã có từ thời Lê sơ, triều Lê -Trịnh tiếp tục kế thừa và quy định cụ thể hơn về thể lệ phép thi và tổ chức khá đều đặn các kì thi đó. Các khoa thi khác như Đông các, Hoành từ, Sĩ vọng, Chế khoa, Ân khoa... vẫn được Nhà nước duy trì nhằm không bỏ sót nhân sĩ có trình độ được đào tạo theo học thuyết “Tam cương, Ngũ thường” của Nho giáo để tham gia vào bộ máy chính quyền. Đó là những con người biết coi trọng luân thường đạo lý, biết sống có trách nhiệm với thời cuộc, đem kiến thức đã được học để hành đạo trong thực tế. Triều đình đã thực thi nhiều chế đỗ đãi ngộ cả về vật chất, tinh thần nhằm động viên, khuyến khích người đỗ đạt. Trong đó, bổ dụng chức quan cho các Tiến sĩ được Nhà nước rất quan tâm và là hình thức có ý nghĩa thiết thực nhất đối với cả người học cũng như từ phía Nhà nước.

Đối với vùng đất Đàng Trong, các chúa Nguyễn từng bước coi trọng việc tổ chức khoa cử để lựa chọn đội ngũ trí thức Nho học có trình độ. Vì vậy, kể từ đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên đến chúa Nguyễn Phúc Thuần, vị chúa cuối cùng trị vì ở Phú Xuân, dòng họ Nguyễn đã mở được một số khoa thi gồm: Xuân thiên quận thí, Thu vi Hội thí, Hoa văn, Thám phỏng, Tam ty, thi Hương. Trong đó, Thu vi hội thí là kì thi có tính chất tương đương với kì thi Hương ở Đàng Ngoài với hai cấp thi Chính đồ và Hoa văn. Đến năm 1768 chúa Nguyễn đã mở được một khoa thi Hương duy nhất, tuy không rõ phép thi này được quy định như thế nào nhưng cho thấy chế độ khoa cử của chính quyền chúa Nguyễn đã được định hình. Trong chế độ khoa cử, các chúa Nguyễn đã từng bước vận dụng một cách linh hoạt thể thức thi cử Đàng Ngoài vào điều kiện của Đàng Trong. So với thời kỳ từ thế kỷ XVI trở về trước, khoa cử Nho học ở Đàng Trong trong hai thế kỷ XVII, XVIII có những chuyển biến quan trọng.

Khác với Đàng Ngoài, nơi có truyền thống giáo dục, khoa cử hàng mấy trăm năm, chế độ khoa cử đã đi vào hoàn bị, thì khoa cử ở Đàng Trong chưa phát triển và mang một số đặc điểm riêng. Điểm khác biệt căn bản nhất là các chúa Nguyễn chưa mở được khoa thi Tiến sĩ như ở Đàng Ngoài, trong chế độ khoa cử của chúa Nguyễn mới lấy Hương cống là học vị cao nhất mà thôi. Nội dung thi cử ở Đàng Trong cũng có nét cởi mở hơn so với Đàng Ngoài. Sự cởi mở đó được thể hiện cụ thể nhất trong nội dung các đề thi của khoa thi Thám phỏng, Tam ty và Văn chức thường hỏi trực tiếp về các vấn đề thời cuộc đang diễn ra mà ít chú trọng đến giải thích điển tích trong Kinh sách.

113

Điểm riêng biệt của chế độ khoa cử Đàng Trong thời kỳ này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trước hết, cho đến thế kỷ XVI Đàng Trong vẫn còn là vùng đất có nhiều khó khăn, thành phần dân cư phức tạp với nhiều bản sắc văn hóa khác nhau, nền giáo dục tuy được các triều đại trước quan tâm, định hình song chưa thực sự phát triển như các địa phương khác. Mặt khác, sau khi vào trấn thủ vùng Thuận Hóa, các chúa Nguyễn phải tập trung lực lượng để gây dựng cơ nghiệp của mình trong việc

114

khẩn hoang mở rộng lãnh thổ, ổn định cuộc sống của người dân, thực hiện chính sách thu phục nhân tâm để củng cố quyền lực của dòng họ. Để thực hiện được mục đích này, trong buổi đầu mới vào gây dựng cơ nghiệp, các chúa Nguyễn không sử dụng Khổng giáo với những tiêu chí có tính cách áp đặt của đạo lý để thực hiện hoàn toàn đường lối trị nước, mà dựa vào đạo Phật để thực hiện mục đích chính trị của mình. Bởi như một nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Phật giáo, một mặt đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người Việt và mặt khác làm lắng đọng các mối lo âu của người di dân mà không đặt lại vấn đề về tính hợp pháp của những người cai trị” [143; tr.106]. Do đó trong thời gian dài, các chúa Nguyễn đã tăng cường xây dựng một bộ máy có tính chất thiên về quân sự, ít chú trọng đến việc đào tạo tuyển chọn đội ngũ quan lại xuất thân theo lối Nho học. Chỉ sau này, khi đã ổn định được tình hình, chúa Nguyễn mới có ý thức xây dựng được đội ngũ quan liêu qua giáo dục, khoa cử Nho học. Do yếu tố Nho học của vùng đất Đàng Trong chưa thực sự phát triển như Đàng Ngoài, nên trong khoa cử Nho học Đàng Trong đã một phần áp dụng theo thể lệ của Đàng Ngoài. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát xưng vương, thành lập một triều đại riêng của dòng họ Nguyễn ở Đàng Trong đối lập hoàn toàn với triều đình vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, nhưng thực tế các chúa Nguyễn vẫn coi mình là quan ở cấp Tổng trấn của nhà Lê đã tác động đến khoa cử của chúa Nguyễn, lý giải vì sao chúa Nguyễn chưa thể mở được kì thi Hội để lấy học vị Tiến sĩ, học vị cao nhất trong chế độ khoa cử Nho học.

Chương 4:

THÀNH TỰU, HẠN CHẾ CỦA GIÁO DỤC VÀ KHOA CỬ NHO HỌC

4.1 Đào tạo, cung cấp đội ngũ trí thức Nho học 4.1.1 Số lượng Tiến sĩ và việc bổ dụng của Nhà nước 4.1.1.1 Số lượng Tính chung thời Lê Trung hưng (1533 -1788) triều Lê - Trịnh đã tổ chức 73 khoa thi, lấy đỗ 774 Tiến sĩ105, trung bình mỗi khoa lấy đỗ 10,6 người; riêng thời kỳ 1595 - 1787, gần 200 năm trị vì tại kinh đô Thăng Long, Nhà nước đã mở được 66 khoa (gồm 65 khoa thi Hội, 1 khoa Chế khoa) lấy đỗ 729 Tiến sĩ, trung bình mỗi khoa lấy đỗ 11,04 người. So với thời Lê sơ, Mạc số Tiến sĩ của triều Lê -Trịnh không cao. Bởi trải qua 100 năm, triều Lê sơ tổ chức được 26 khoa thi Tiến sĩ lấy đỗ được 979 người, trung bình một khoa lấy đỗ 37,7 người106. Triều Mạc trong 65 năm trị vì mở 22 khoa thi, lấy đỗ 484 người, trung bình một khoa lấy đỗ 22 người.

Bảng 4.1. Thống kê số Tiến sĩ chia ba giáp triều Lê - Trịnh (1595 - 1787)

Chia ba giáp

Nhất giáp

Stt

Khoa thi

Số người lấy đỗ

Trạng nguyên

Bảng nhãn

Thám Hoa

Quang Hưng 18 (1595) Quang Hưng 21 (1598)

Hoằng Định (1602)

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24

Nhị giáp (Hoàng giáp) 2 3 2 2 1 1 0 0 1 0 3 2 1 2 2 2 1 1 2 0 2 2 1 0

Tam giáp (ĐồngTiến sĩ xuất thân) 4 2 8 5 4 6 7 4 6 7 14 3 4 15 20 7 15 6 7 6 15 8 12 3

6 5 10 7 5 7 7 4 7 7 18 5 5 20 22 9 17 8 9 6 20 13 13 3

0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 1 1 0 0

0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 1 1 0 0

0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 1 0 1 0 0 1 1 0 0 1 1 0 0

Hoằng Định 5 (1604) Hoằng Định 8 (1607) Hoằng Định 11 (1610) Hoằng Định 14 (1613) Hoằng Định 17 (1616) Hoằng Định 20 (1619) Vĩnh Tộ 5 (1623) Vĩnh Tộ 10 (1628) Đức Long 3 (1631) Đức Long 6 (1634) Dương Hòa 3 (1637) Dương Hòa 6 (1640) Dương Hòa 9 (1643) Phúc Thái 4 (1646) Khánh Đức 2 (1650) Khánh Đức 4 (1652) Thịnh Đức 4 (1656) Vĩnh Thọ 2 (1659) Vĩnh Thọ 4 (1661) Cảnh Trị 2 (1664) Cảnh Trị 5 (1667) 105Ngoài 774 vị Tiến sĩ được lưu trong Văn bia Quốc Tử Giám và sách Các nhà khoa bảng Việt Nam thống kê, trong quá trình sưu tầm tư liệu, tác giả luận án thống kê thêm 3 vị đỗ đại khoa từ nhiều nguồn tư liệu khác không ghi trong các sách đăng khoa lục gồm: 1.Vũ Trọng Tể (Hà Nội) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa thi năm 1787; 2. Đỗ Văn Luân (1634 -1660) đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân Kỷ Hợi, Vĩnh Thọ (1659) con Đỗ Văn Tổng [47; tr.171 -172]; 3. Lê Phiên (1734 -1809) đỗ Tiến sĩ; 4. Trần Đào (? -?) người Chí Linh, Hải Dương, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1683, dẫn từ: Tiến sĩ Nho học Hải Dương (1075 -1919 [73]. 106Sách Kiến văn tiểu lục cho biết từ khoa thi năm 1442 đến khoa thi 1526 lấy đỗ 989 Tiến sĩ, có 63 người dự hàng Tam khôi [53; tr.94].

115

31 5 20 19 18 13 7 11 5 10 19 6 5 21 17 20 17 25 17 10 12 18 15 8 7 4 13 6 8 6 5 5 11 9 13 18 4 15 2 5

1 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 1 0 0 0 0 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

1 0 1 0 1 1 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 1 1 0 1 1 0 1 0 1 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

2 0 3 2 1 1 1 3 0 2 3 1 0 1 1 2 2 3 2 0 3 2 1 1 1 1 1 1 0 1 0 0 1 1 2 0 0 2 0 1

27 5 16 17 14 11 6 8 5 8 15 5 5 19 16 18 14 21 14 9 8 15 12 7 5 3 11 4 8 5 5 5 10 8 11 18 4 13 2 4

25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65

2

0

0

0

0

2

66

Cảnh Trị 8 (1670) Dương Đức 2 (1673) Vĩnh Trị 1 (1676) Vĩnh Trị 5 (1680) Chính Hòa 4 (1683) Chính Hòa 6 (1685) Chính Hòa 9 (1688) Chính Hòa 12 (1691) Chính Hòa 15 (1694) Chính Hòa 18 (1697) Chính Hòa 21 (1700) Chính Hòa 24 (1703) Vĩnh Thịnh 2 (1706) Vĩnh Thịnh 6 (1710) Vĩnh Thịnh 8 (1712) Vĩnh Thịnh 11 (1715) Vĩnh Thịnh 14 (1718) Bảo Thái 2 (1721) Bảo Thái 5 (1724) Bảo Thái 8 (1727) Vĩnh Khánh 3 (1731) Long Đức 2 (1733) Vĩnh Hựu 2 (1736) Vĩnh Hựu 5 (1739) Cảnh Hưng 4 (1743) Cảnh Hưng 7 (1746) Cảnh Hưng 9 (1748) Cảnh Hưng 13 (1752) Cảnh Hưng 15 (1754) Cảnh Hưng 18 (1757) Cảnh Hưng 21 (1760) Cảnh Hưng 23 (1763) Cảnh Hưng 27 (1766) Cảnh Hưng 30 (1769) Cảnh Hưng 32 (1772) Cảnh Hưng 36 (1775) Cảnh Hưng 39 (1778) Cảnh Hưng 40 (1779) Cảnh Hưng 42 (1781) Cảnh Hưng 46 (1785) Chiêu Thống 1 (1787) (Chế khoa) Chiêu Thống 1 (1787)

3

11

14

0 6

0 8

0 19

Tổng

85

611

729

33

(Nguồn: Đỗ Văn Ninh. 2000. Văn bia Quốc Tử Giám Hà Nội, Nxb Khoa học Xã Hội, Hà Nội; Ngô Đức Thọ (Cb). 2006. Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919, Nxb Văn học) Trong 729 Tiến sĩ này có: 33 người (chiếm 4,5%) đỗ hạng Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, 85 người (chiếm 11,7%) đỗ hạng Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, và 611 người (chiếm 83,8%) đỗ hạng Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân107.

107Số liệu thống kê của chúng tôi có khác biệt một chút so với tác giả Trần Thị Vinh: 33 Hoàng giáp, 87 Hoàng giáp, 609 Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân [250; tr.12]

116

Trong 33 người đỗ Đệ nhất giáp có 6 Trạng nguyên (0,8%), 7 Bảng nhãn (1,0%), 20 Thám hoa (2,7%) so với tổng số Tiến sĩ. So với triều Lê sơ và Mạc, số Tiến sĩ triều Lê

-Trịnh lấy đỗ không nhiều, nhất là số người đỗ Trạng nguyên. Trong 979 Tiến sĩ thời Lê sơ có 21 Trạng nguyên; 484 Tiến sĩ của triều Mạc có 11 Trạng nguyên. Sự lấy đỗ về các hạng Tiến sĩ của triều Lê -Trịnh cũng thấp hơn so với các triều đại trước, khi chỉ có 4/66 khoa (chiếm 6,1%) lấy đỗ được đầy đủ các hạng Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp và Tiến sĩ xuất thân. Trong khi triều Lê sơ có 21/26 khoa (chiếm 80,8%), triều Mạc có 11/22 khoa (chiếm 50%). Dù đỗ cao hay thấp nhưng tất cả các Tiến sĩ của triều Lê -Trịnh đều được Nhà nước trọng dụng.

4.1.1.2 Bổ nhiệm quan chức Tùy theo đường xuất thân khác nhau, các tân Tiến sĩ được ban phẩm hàm, tư cách khác nhau. Việc ban thưởng tư cách cho tân Tiến sĩ (Lê Quý Đôn ghi là thủy Tiến sĩ108) dưới triều Lê -Trịnh vẫn kế thừa theo thể lệ năm Hồng Đức thứ 3 (1472), cụ thể:

- Đệ nhất giáp Đệ nhất danh (Trạng nguyên) được hàm Chánh lục phẩm, 8 tư; - Đệ nhất giáp Đệ nhị danh (Bảng nhãn) được hàm tòng Lục phẩm, 7 tư; - Đệ nhất giáp Đệ tam danh (Thám hoa), được hàm chánh Thất phẩm, 6 tư; - Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) được hàm tòng Thất phẩm, 5 tư; - Đệ tam giáp (Đồng Tiến sĩ) được hàm Bát phẩm, 4 tư [25; tr.16]. Sách Kiến văn tiểu lục cũng cho biết, sau khi được xác định tư cách, tân Tiến sĩ sẽ được trao bổ chức quan. Khi trao chức lần đầu: Trạng nguyên được giữ chức Thị giảng (Tòng ngũ phẩm -5b109), Bảng nhãn giữ chức Thị thư (6a), Thám hoa chức Thị chế (6b), Hoàng giáp chức Hiệu lý (7a). Riêng Đồng Tiến sĩ, theo lệ thời Hồng Đức trao cho chức Cấp sự trung (8a), nhưng triều Lê -Trịnh trao cho chức Giám sát (7a) [53; tr.147]. Vào năm 1674, chúa Trịnh Tạc cho định lại lệ bổ nhiệm chức quan cho hạng Hoàng giáp và Đồng Tiến sĩ xuất thân, theo đó: Đệ nhị giáp được trao chức Hàn lâm viện Hiệu lý (7a); Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ trao chức Hàn lâm viện Hiệu thảo (7b). Quy định của Trịnh Tạc so với thời Lê Thánh Tông đã cao hơn một bậc.

Bảng 4.2. Phẩm hàm và chức quan cao nhất các Tiến sĩ chia theo 3 giáp triều Lê -Trịnh (1595 -1787)

Stt

Chức quan

Nhất giáp

Chia theo ba giáp Nhị giáp

Phẩm hàm

Tổng số người

Tỷ lệ %

SN %

SN %

1 2 3 4 5 6

Thái phó Thái bảo Thái tử Thái phó Thiếu phó Thiếu bảo Thượng thư

1a 1a 1b 2a 2a 2b

1 0 0 0 0 8

12,5 0 0 0 0 15,4

2 0 0 0 3 8

25,0 0 0 0 30 15,4

Tam giáp % 62,5 100 100 100 70 69,2

SN 5 2 1 1 7 36

8 2 1 1 10 52

1,1 0,3 0,1 0,,1 1,4 7,3

108Thủy Tiến sĩ: nguyên văn chua rằng: nhà Lê kiêng chữ “tân” nên đổi sang chữ “thủy”. Theo sử liệu thì Lê Kính Tông (1600 -1619) tên húy là Duy Tân, có lẽ “tân Tiến sĩ” đổi ra “thủy Tiến sĩ” từ đời vua Lê Kính tông, để chỉ người mới đỗ khoa Tiến sĩ. 109 Theo quan chế thời quân chủ ở Việt Nam, có 9 phẩm, mỗi phẩm lại chia làm 2 trật: Chánh và Tòng, bao gồm: 1. Chánh nhất phẩm (1a), Tòng nhất phẩm (1b); 2. Chánh nhị phẩm (2a), Tòng nhị phẩm (2b); Chánh tam phẩm (3a), Tòng tam phẩm (3b) ..... Chánh cửu phẩm (9a), Tòng cửu phẩm (9b). Từ đây khi viết về phẩm trật trong luận án, tác giả xin viết tắt các trật: 1a, 1b hoặc 3a, 3b...

117

2b 3a 3b 3b 3b 3b 4a 4a 4b 4b 4b 5a

0 1 8 1 1 0 2 0 2 1 3 1

0 12,5 11,8 1,7 6,3 0 12,5 0 11,8 14,3 6,4 10,0

0 1 11 11 1 0 0 1 2 1 6 2

0 12,5 16,2 19,0 6,3 0 0 16,7 11,8 14,3 12,8 20,0

1 6 49 46 14 1 14 5 13 5 38 7

100 75,0 72,0 79,3 87,4 100 87,5 83,3 76,4 71,4 80,9 70,0

1 8 68 58 16 1 16 6 17 7 47 10

7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19

0,1 1,1 9,5 8,1 2,2 0,1 2.2 0,8 2,4 1,0 6,6 1,4 2,1

5a

2

13,3

3

20,0

10

66,7

15

5a 5a 5a 5b 5b 5b 6a 6a 6a 6b 6b 6b 7a 7a 7a 7a 7b 8a 8a

Không rõ phẩm trật

20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 38 39 40 41 42 43 44 45

Tả hiệu điểm Đô Ngự sử Tả thị lang Hữu thị lang Thừa chính sứ Tả dụ đức Hàn lâm viện Thừa chỉ Phó Đô Ngự sử Đông các Đại học sĩ Quốc Tử giám Tế tửu Tham chính sứ Hàn lâm viện Thị độc Ngự sử đài Thiêm Đô ngự sử Tự khanh sáu Tự Phụng Thiên Phủ doãn Chỉ huy Thiêm sự Hàn lâm viện Thị giảng Đông các Học sĩ Quốc Tử giám Tư nghiệp Hàn lâm viện Thị thư Đông các Hiệu thư Hiến sát các đạo/ xứ Hàn lâm viện Đãi chế Hàn lâm viện Thị chế Viên ngoại lang Hàn lâm viện Hiệu lý Đề hình Giám sát Ngự sử Giám sát Ngự sử các đạo/ xứ Đô cấp sự trung sáu Khoa Hàn lâm viện Hiệu thảo Tư huấn Cấp sự trung sáu Khoa Tham tri chính sự Tri phiên Thiêm sai các phiên Đốc đồng Hiệp trấn Đốc học

3 0 0 0 0 0 0 0 2 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

7,0 0 0 0 0 0 0 0 3,4 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0

3 1 0 0 3 0 2 2 3 2 1 0 1 0 0 6 1 0 9 0 0 0 0 0 0

37 4 1 3 5 3 5 16 54 23 6 1 7 12 54 29 22 2 36 2 1 2 2 1 2

86,0 80,0 100 100 62,5 100 71,4 88,9 91,5 92,0 85,7 100 87,5 100 100 82,9 95,7 100 80,0 100 100 100 100 100 100

43 5 1 3 8 3 7 18 59 25 7 1 8 12 54 35 23 2 45 2 1 2 2 1 2

Tổng

7,0 20,0 0 0 37,5 0 28,6 11,1 5,1 8,0 14,3 0 12,5 0 0 17,1 4,3 0 20,0 0 0 0 0 0 0 715

6,0 0,7 0,1 0,4 1,1 0,4 1,0 2,5 8,3 3,5 1,0 0,1 1,1 6,9 7,6 4,9 3,2 0,3 6,3 0,3 0,1 0,3 0,3 0,1 0,3 100

(Nguồn: Ngô Đức Thọ (Cb). 2006. Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919, Nxb. Văn học)

Trong 729 Tiến sĩ, ngoại trừ 4 trường hợp qua đời khi chưa kịp vinh quy, 10 trường hợp không rõ thông tin, còn lại 715 Tiến sĩ khác đều được bổ dụng chức quan. Trên con đường quan lộ bằng tài năng, những vị Tiến sĩ này có những thăng trầm, nắm giữ nhiều chức vụ cao thấp khác nhau cả trong triều, ngoài trấn.

118

Qua bảng thống kê, tính theo chức vụ cao nhất mà một vị Tiến sĩ đã được bổ dụng trên con đường quan lộ, đông nhất là các chức Thượng thư (trật 2b): 52 người (chiếm 7,3%); Tả Thị lang (3b): 68 người (9,5%); Hữu Thị lang (3b): 58 người (8,1%), Tham chính (4b): 47 người (6,6%); Tự khanh (5a): 43 người (6,0%); Hiến sát sứ (6a): 59 người (8,3%); Giám sát Ngự sử (7a): 54 người (7,6%); Cấp sự trung (8a): 45 người (6,3%);... đây đều là các chức quan của triều đình vua Lê có phẩm hàm từ nhị phẩm đến bát phẩm. Có 11/715 Tiến sĩ được giữ tới chức Thái phó, Thái bảo có phẩm trật nhất phẩm (chiếm 1,5%). Trong những chức quan này, khi chia theo ba giáp thì hầu

hết đều có cả Tiến sĩ đỗ hạng nhất giáp, nhị giáp và tam giáp nhưng tỷ lệ không đều nhau. Chẳng hạn trong 52 người giữ chức Thượng thư, hạng nhất và nhị giáp đều chỉ có 8 người, tam giáp có 36 người. Hoặc trong 68 người giữ chức Tả thị lang các bộ, hạng nhất giáp có 8 người (11,8%), nhị giáp có 11 người (16,2%), tam giáp có 49 người (72%). Tỷ lệ chênh lệch này cho thấy các chức vụ trọng yếu của triều đình không chỉ bổ nhiệm cho các Tiến sĩ có hạng đỗ cao (nhất, nhì), mà cả những Tiến sĩ xuất thân, trên con đường quan lộ bằng năng lực họ được Nhà nước trọng dụng, thăng bổ. Đối với 6 Trạng nguyên cũng đều đảm nhận các chức vụ cao, thấp khác nhau: có 2 người giữ chức Thượng thư, 2 người giữ chức Tả thị lang, 1 người giữ chức Tế tửu, 1 người giữ chức Hàn lâm viện Thị độc.

Do thiết chế chính trị thế kỷ XVII, XVIII vừa có triều đình vua Lê, vừa có phủ chúa Trịnh cùng tồn tại đã phần nào tạo nên sự chồng chéo trong việc sử dụng đội ngũ quan chức khi có 78 vị Tiến sĩ vừa giữ chức quan bên triều đình vua Lê đồng thời lại kiêm nhiệm luôn chức vụ bên phủ chúa. Trong 78 người này, có 12 người xuất thân từ Đệ nhất giáp (chiếm 15,4%), 10 người xuất thân từ Đệ nhị giáp (12,8%) và 56 người xuất thân từ Đệ tam giáp (71,8%). Trong đó, những người đỗ hạng nhất, nhị giáp đều giữ chức Tham tụng và Bồi tụng; các vị Tiến sĩ đỗ hạng tam giáp chủ yếu giữ chức Nhập thị Tham tụng, hành Tham tụng110, Nhập thị bồi tụng, Thiêm sai, Chưởng phủ sự, Thự phủ sự.

110 Chức cao mà coi việc nha thấp gọi là “chưởng”, chức này nhận thêm chức khác gọi là “kiêm”. Phẩm cao mà làm việc phẩm thấp gọi là “hành”. Phẩm thấp mà tạm coi công việc của phẩm cao gọi là “quyền”. 111 Tác giả luận án trên cơ sở khảo cứu nhiều nguồn tư liệu, nhất là cuốn Khoa cử Việt Nam Hương cống triều Lê do Nguyễn Thúy Nga (Cb), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2019, thông qua hành trạng năm đỗ các vị Hương cống, có sự đối sánh với năm thi Hội để thống kê các khoa thi Hương triều Lê -Trịnh. Theo Kiến văn tiểu lục thời Lê có 9 trường thi Hương là: Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh Bắc, Thanh Hoa, Nghệ An, Thuận Hóa, An Bang và Tuyên Quang. Đến thời Lê -Trịnh, chỉ còn 7 trường thi: Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Nam, Phủ Phụng Thiên, Thanh Hoa, Nghệ An. Riêng An Bang (thời Lê -Trịnh đổi thành An Quảng do kiêng húy tên vua Lê Anh Tông là Duy Bang, nay là tỉnh Quảng Ninh) thi phụ Hải Dương; Lạng Sơn, Thái Nguyên thi phụ Kinh Bắc; Hưng Hóa, Tuyên Quang thi phụ trường thi Sơn Tây.

119

4.1.2 Số Hương cống và việc bổ dụng của Nhà nước 4.1.2.1 Số lượng Triều Lê -Trịnh vẫn duy trì định lệ ba năm mở một khoa thi Tiến sĩ, năm trước thi Hương năm sau thi Hội. Do vậy tương ứng với 65 khoa thi Hội, triều Lê -Trịnh sẽ mở được 65 khoa thi Hương tại 7 trường thi khác nhau. Nhưng thực tế khi thống kê, chỉ có 58 khoa thi Hương còn được sử sách ghi chép lại thông tin111. Cụ thể là các khoa: 1601, 1606, 1618, 1627, 1630, 1633, 1636, 1639, 1642, 1645, 1649, 1651, 1655, 1658, `1660, 1663, 1666, 1669, 1672, 1675, 1679, 1681, 1684, 1687, 1690, 1693, 1696, 1699, 1702, 1705, 1709, 1711, 1714, 1717, 1720, 1723, 1726, 1730, 1732, 1735, 1738, 1742, 1745, 1747, 1750, 1753, 1756, 1759, 1762, 1765, 1768, 1771, 1774, 1777, 1780,

1783, 1786. Số người đỗ Hương cống sử sách ghi chép cụ thể về hành trạng, năm đỗ mà tác giả tạm thời đã thống kê được là 2.346 người112.

4.1.2.2 Bổ nhiệm quan chức Sau khi đỗ thi Hương, các Hương cống được hưởng một trong hai quyền lợi: vào học trường Quốc Tử Giám để chờ thi Hội giành học vị Tiến sĩ hoặc được bổ dụng chức quan. Qua thống kê, trong 2.346 Hương cống, có 28 vị còn sử sách ghi cụ thể thông tin đã được sung làm Giám sinh Quốc Tử Giám học tập để chờ kì thi Hội. Trong đó có 3/28 vị thi đỗ Tiến sĩ, 25/28 vị đỗ Tam trường thi Hội. Có 729/2.346 Hương cống đỗ Tiến sĩ, trong đó có 67/729 Tiến sĩ từng đỗ Giải nguyên thi Hương.

Trong số 1.617 Hương cống còn lại, có 1.171 vị ghi cụ thể năm đỗ nhưng không có thông tin về việc được bổ nhiệm ra làm quan. Có 6 trường hợp có thông tin làm quan nhưng không rõ được bổ dụng chức quan gì. Có 26 vị Hương cống ra làm quan cho nhà Tây Sơn và triều Gia Long; 2 trường hợp chưa kịp ra làm quan đã mất, 3 người đỗ Hương cống nhưng không ra làm quan gồm Ngô Thì Đạo, Nguyễn Thiện, Ngô Thì Ức, trong đó Ngô Thì Ức ở nhà dạy học; 2 người đỗ Hương cống sau đó thi đỗ khoa Hoành từ (gồm Ngô Trân và Ngô Thì Đạo người Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội đều đỗ năm 1757). Chỉ có 407/1.617113 vị Hương cống còn được sử sách ghi cụ thể các chức quan, trên con đường quan lộ họ được triều đình bổ nhiệm vào các vị trí khác nhau trong bộ máy chính quyền mà không cần phải có học vị Tiến sĩ. Theo lệ bổ dụng và sử dụng của triều Lê -Trịnh, các Hương cống nhận chức lần đầu sẽ được bổ làm Lại điển các nha môn rồi được thăng lên chức Huyện thừa, Tri huyện (trật 7b). Trong quá trình làm quan, chức vụ của họ sẽ thay đổi hoặc được thăng lên chức vụ cao hơn, hoặc bị miễn trừ xuống vị trí thấp.

Bảng 4.3. Phẩm hàm và chức quan cao nhất của Hương cống triều Lê - Trịnh

Xuất thân

Stt

Chức quan cao nhất

Phẩm hàm

Tổng số người

Ra làm quan

1 2 3 4 5 6 7 8

Thượng thư kiêm Tổng tài Quốc Tử Giám Thượng thư 6 bộ Thừa chính sứ Tả Thị lang Ngự sử đài Hàn lâm viện Thừa chỉ Tham chính sứ Đông các Đại học sĩ

2b 2b 3b 3b 4a 4a 4b 4b

Thi Hội, trúng tam trường ra làm quan 0 4 4 2 2 1 2 1

2 2 0 3 4 2 2 4

2 6 4 5 6 3 4 5

112 Số liệu tác giả thống kê từ hai công trình: Khoa cử Việt Nam Hương cống triều Lê của Nguyễn Thúy Nga (Cb) và Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919) của Ngô Đức Thọ (cb). Trong tổng số 4.553 vị Hương cống từ thời Lê sơ, Mạc đến hết thời Lê Trung hưng mà công trình Khoa cử Việt Nam Hương cống triều Lê đã khảo cứu, riêng triều Lê -Trịnh có 1.617/4.553 vị Hương cống có ghi cụ thể về năm đỗ thuộc 58 khoa thi Hương. Cùng 729 Hương cống đã thi đỗ Tiến sĩ, tổng số Hương cống thời kỳ này có ghi đầy đủ hành trạng, năm đỗ là 2.346 vị. 113 Trong 2.346 Hương cống triều Lê -Trịnh, trừ đi 729 vị Hương cống đã thi đỗ Tiến sĩ, còn 1.617 người. Trong 1.617 trừ đi 1.171 vị không rõ hành trạng còn 446 vị. Lại lấy 446 vị trừ đi 39 vị (đỗ Hương cống nhưng vì các lý do: không rõ chức quan, làm quan triều Tây Sơn hoặc triều Nguyễn, mất chưa kịp làm quan, không ra làm quan, đỗ khoa Hoành từ) còn 407 vị. Tác giả chủ yếu khảo cứu các chức quan của 407 vị Hương cống này.

120

Hàn lâm viện Thị độc

9 10 Tham nghị 11 Hàn lâm viện Thị giảng 12 Thị giảng 13 Lang trung sáu bộ 14 Thiếu khanh sáu tự 15 Hàn lâm viện Thị thư 16 Viên ngoại lang 17 Tri phủ 18 Giám sát Ngự sử 19 Tự thừa 20 Hiến sát phó sứ 21 Đồng Tri phủ 22 Tri huyện 23 Hiệu thảo 24 Tri châu 25 Giáo thụ 26 Giám Bạ -QTG 27 Điển bạ 28 Thông chính sứ 29 Tư huấn Chiêu Văn quán 30 Học chính 31 Tư vụ 6 bộ 32 Lương y chính 33 Trợ giáo 34 Huấn đạo 35 Phó sứ các kho 36 Giảng dụ 37 Cáp môn phó sứ 38 Tri sự 39 Đốc đồng 40 Khâm thị Văn chức 41 Thiêm Tri công phiên 42 Đội trưởng (quan võ)

5a 5b 5b 5b 6a 6a 6a 6b 6b 7a 7a 7a 7a 7b 7b 7b 8a 8b 8b 8b 8b 8b 8b 8b 8b 9a 9a 9a 9a 9a Không rõ Không rõ Không rõ Ngạch võ

Tổng

3 9 4 8 10 1 1 18 25 3 5 5 2 15 1 29 13 7 3 4 1 6 7 3 1 22 2 8 3 7 1 4 3 2 255

1 6 1 2 4 0 0 9 15 1 3 4 0 27 0 11 5 3 1 2 0 3 1 0 0 24 1 2 1 7 0 2 0 0 152

4 15 5 10 14 1 1 27 40 4 8 9 2 42 1 40 18 10 4 6 1 9 8 3 1 46 3 10 4 14 1 6 3 2 407

(Nguồn: Nguyễn Thúy Nga (Cb). 2019. Khoa cử Việt Nam Hương cống triều Lê, Nxb Đại học QGHN) Từ bảng trên có thể thấy, đối với nhóm chức vụ có phẩm trật cao từ ngũ phẩm trở lên chỉ có 64/407 người (chiếm 15,7%) được bổ nhiệm gồm các chức: Thượng thư (trật 2b): 8 người, Thừa chính sứ (3b): 4 người, Tả thị lang (3b): 5 người, Ngự sử đài (4a): 6 người, Hàn lâm viện Thừa chỉ (4a): 3 người, Tham chính sứ (4b): 4 người, Đông các Đại học sĩ (4b): 5 người, Hàn lâm viện Thị độc (5b): 4 người; Tham nghị (trật 5b): 15 người, Hàn lâm viện Thị giảng (5b): 5 người; Thị giảng (5b): 10 người. Khi so sánh với các Tiến sĩ, số Hương cống được giữ các chức vụ này không nhiều, như chức Tham chính sứ có 47 Tiến sĩ được đảm nhận, Hương cống chỉ có 4 người. Chức Tả thị lang có xuất thân từ Tiến sĩ gồm 68 người, Hương cống 5 người... Mặc dù tỉ lệ không nhiều nhưng cho thấy các Hương cống có tài năng và phẩm hạnh, họ cũng được Nhà nước cho giữ những chức trọng trách ở trong triều đình.

121

Đối với nhóm chức vụ có phẩm trật thấp từ lục phẩm trở xuống, số Hương cống được bổ dụng khá nhiều gồm 343/407 người (84,3%), chủ yếu là các chức vụ: Tri Phủ (trật 6b): 40 người, chiếm 9,8%; Viên ngoại lang (trật 6b): 27 người, chiếm 6,6%; Tri huyện (7b): 42 người, chiếm 10,3%; Tri châu (trật 7b): 40 người, chiếm

9,8%; Giáo thụ (8a): 18 người, chiếm 4,4%; Học chính (8b): 9 người, chiếm 2,6%; Huấn đạo (9a): 46 người, chiếm 11,3%; Tri sự (9a): 14 người, chiếm 4,1%; Giảng dụ (9a): 10 người, chiếm 5,2 %... Một số chức vụ khác như Giám sát Ngự sử, Tự thừa, Giám bạ cũng có người được bổ dụng nhưng chiếm số lượng không đáng kể. Từ kết quả thống kê cho thấy, trên con đường quan lộ, các Hương cống là lực lượng chủ yếu nắm giữ các công việc hành chính ở cấp địa phương thuộc phủ, huyện như Huấn đạo, Tri huyện, Tri phủ, Tri châu, Học chính... Tuy họ cũng được đảm nhận một số chức vụ cao của triều đình như Thượng thư 6 bộ, Tả Thị lang, Ngự sử đài, Đông các Đại học sĩ, Tư huấn, Giám bạ nhưng tỷ lệ không nhiều, chỉ những người thực sự có tài năng mới được cất nhắc bổ nhiệm.

114 Trong đó có một số khoa thi tư liệu không đề cập đến số người đỗ như: 1679, 1689, 1768. Riêng khoa thi năm 1768 có 2 người đỗ nhưng không rõ thuộc khoa Chính đồ hay Hoa văn.

122

Ở Đàng Trong, theo thống kê từ Đại Nam thực lục, các chúa Nguyễn đã mở được 14 khoa thi Thu vi Hội thí, lấy đỗ được 598 người, trong đó khoa Chính đồ có 14 khoa, lấy đỗ 309 người; Hoa văn 13 khoa, lấy đỗ 289 người114. Kì thi Thám phỏng được mở từ năm 1675 dưới đời chúa Nguyễn Phúc Tần cho đến khi chính quyền chúa Nguyễn bị lật đổ mở được 7 khoa, lấy đỗ 27 người, 1 khoa thi Hương, lấy đỗ 2 người. Tổng số người đỗ của tất các các khoa thi, gồm cả Thu vi Hội thí, Thám phỏng và thi Hương của chúa Nguyễn mà chính sử còn ghi chép lại là 627 người. Tuy không đủ tư liệu để thống kê 627 người này được chúa Nguyễn bổ dụng vào những chức vụ gì, nhưng qua việc bổ dụng quan chức cho tất cả số người đỗ trong khoa thi năm 1695 mà chính sử còn ghi lại cho thấy, hầu hết số người đỗ đều được đảm nhận các chức vụ ở cả hai cấp trung ương và địa phương. Cụ thể: ở khoa thi năm 1695, lấy trúng cách về Chính đồ 5 người làm Giám sinh, 8 người Sinh đồ, 15 người nhiêu học, 22 người Thám phỏng. Trong đó Giám sinh được bổ Văn chức và Tri huyện, Sinh đồ bổ Huấn đạo, Nhiêu học bổ Lễ sinh, Hoa văn bổ vào Tướng thần lại ty, Lệnh sử; Thám phỏng bổ vào Xá sai ty. Theo Lê Quý Đôn, ngạch quan bổ dụng vào cơ quan “Tam ty” thường rất lớn. Như ở Chính Dinh (Phú Xuân) cơ quan Xá sai ty có tất cả 62 người do Đô tri và Ký lục đứng đầu, mỗi chức đều 1 viên; Câu kê 3 người, Cai hợp 7 người; Thủ hợp 10 người, Ty lại 40 người là bộ phận giúp việc. Tướng thần lại ty gồm có 61 người, trong đó Cai bạ đứng đầu 1 viên, 60 viên giúp việc giống như Ty Xá sai. Lệnh sử ty gồm 61 người do chức Nha úy đứng đầu gồm 1 viên, các chức giúp việc giống như hai cơ quan trên. Ngoài ba Ty trên, chúa Nguyễn còn cho đặt ty Nội lệnh sử (gồm coi các thuế, chia làm hai bên tả hữu có Câu kê 3 người, Cai hợp 7 người, Thủ hợp 7 người, lại viên 40 người, giữ tiền thuế hai xứ Quảng Nam và Thuận Hóa) và ty Lệnh sử đồ gia (nhà đồ) bao gồm 33 người giữ việc thu phát dây thau, khối sắt, đồ đồng, ngà voi…[54; tr.184]. Căn cứ số lượng ngạch chức quan được bổ dụng vào các ty có thể thấy hệ thống chức quan cần tuyển bổ ở các cơ quan khá nhiều, từ đó có thể khẳng định hầu như những

người thi đỗ đều được chính quyền chúa Nguyễn sử dụng. Dù trên thực tế, các chức quan cao nhất của bộ máy chính quyền chúa Nguyễn thuộc về Tứ trụ gồm Nội tả, Nội hữu, Ngoại tả, Ngoại hữu đều do những người trong dòng tộc họ chúa và các tướng ngoài có công lao nắm giữ. Việc bổ dụng chức quan cho tất cả các sĩ nhân thi đỗ của chúa Nguyễn phần nào phản ánh đúng thực tế mà giáo sĩ Christophoro Borri đã nhận xét: “Người Đàng Trong vừa trọng võ vừa chuộng văn tùy theo cơ hội. Do đó họ thưởng, đặt lên các chức vụ và cấp bậc trong nước..., họ chỉ định và cắt đặt lúc thì người này khi thì người kia tùy theo nhu cầu” [23; tr.70].

Dưới thời chúa Nguyễn, thi Hương là khoa thi cao nhất, người thi đỗ đạt học vị Hương cống như ở Đàng Ngoài. Theo định lệ bổ dụng chức quan của chúa Nguyễn khi định lại phép thi năm 1740, thì người đỗ Hương cống được bổ giữ chức Tri phủ, Tri huyện và Huấn đạo. Rõ ràng so với triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài, hạng Hương cống được bổ giữ chức vụ ngay từ đầu cao hơn. Điều này phần nào cho thấy thay vì thiết lập một tổ chức chính quyền quân sự, các chúa Nguyễn đã tăng cường thêm đội ngũ quan văn trong bộ máy chính quyền nhằm xây dựng một thiết chế chính trị “dân sự”. Thực tế, khi thống kê danh sách các nhân vật trong Đại Nam liệt truyện tiền biên được Quốc sử quán triều Nguyễn liệt vào bậc “Chư thần” thời chúa Nguyễn, số quan văn và quan võ gần như tương đương nhau, gồm: 33/79 quan văn và 46/79 quan võ.

123

Với 627 người đã thi đỗ các khoa thi do chúa Nguyễn mở, tuy chưa nhiều so với số người đỗ trong thi Hương, thi Hội ở Đàng Ngoài nhưng đã cho thấy sự chuyển biến rất lớn của giáo dục, khoa cử Đàng Trong so với thế kỷ trước đó. Vùng đất Đàng Trong trước khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ giới hạn từ Nam sông Gianh, Quảng Bình đến Thừa Thiên Huế, được gọi là vùng Thuận Hóa. Cho đến thế kỷ XVI, đây vẫn là vùng biên viễn xa xôi, là “xứ sở đày ải của những tội nhân và những tù binh”, với nhiều thành phần xã hội phức tạp. Do vậy, việc tổ chức và xây dựng một nền giáo dục, khoa cử ở đây chưa đi vào quy củ và phụ thuộc vào chính sách giáo dục của triều đình ở Thăng Long. Dưới triều Lê sơ, giáo dục vùng Thuận Hóa từng bước được quan tâm, khi vào năm 1488 triều đình ban chỉ dụ yêu cầu Tham chính Phạm Bá Tông đảm trách việc học và thi cử của sĩ tử Quảng Nam. Sang thế kỷ XVI, nhà Lê cho đặt ở xứ này chức Huấn đạo đã phần nào tạo điều kiện để khơi mở việc học hành khi một bộ phận con em quân dân vùng Thuận Quảng trở thành Giám sinh Quốc Tử Giám, hoặc tham dự kì thi Hương ở trường thi Thuận Hóa, Nghệ An. Có một số Nho sinh thi đỗ, trở thành những quan đại thần giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước trong các thế kỷ XV, XVI. Trong đó Bùi Dục Tài (? -1522) người huyện Hải Lăng, Quảng Trị đỗ Tiến sĩ năm 1502 dưới triều Lê và Dương Văn An (1514 -?) người Quảng Bình đỗ Tiến sĩ triều Mạc năm 1547 là những Nho sĩ nổi tiếng được sử sách ca ngợi. Tuy nhiên số người đỗ đạt ở vùng đất này không đáng kể. Khi thống kê từ Ô châu cận lục và Đại Nam nhất thống chí cho đến trước thế kỷ XVII, xứ Thuận Quảng chỉ có 35 Nho sĩ có

124

hiểu biết Nho học hoặc đỗ đạt còn được ghi chép lại về hành trạng115. Tuy con số thống kê chưa thật đầy đủ nhưng phần nào phản ánh thành tựu giáo dục và khoa cử ở vùng Thuận Hóa trước thế kỷ XVII chưa nhiều như các địa phương khác. So với thế kỷ XVII, XVIII dưới thời trị vì của các chúa Nguyễn, số người đỗ đạt đã cao hơn rất nhiều. Đồng nghĩa với việc số người biết chữ Hán cũng tăng lên. Đây thực sự là một trong những chuyển biến rất quan trọng của giáo dục vùng đất Đàng Trong. 4.1.3 Hình thành đội ngũ quan chức trung nghĩa, nhà Nho có đức nghiệp *Đội ngũ quan chức với tư tưởng trung quân Trung quân là một nguyên tắc tối thượng của học thuyết Nho giáo, bắt buộc mọi người dân phải tuân theo, nhất là những người theo nghiệp sách Thánh hiền. Đây là mối quan hệ đứng đầu trong ba mối quan hệ rường cột của thuyết “Tam cương” gồm các mối quan hệ: Vua - tôi; cha - con, vợ - chồng. Trong một xã hội khá đặc biệt như Đàng Ngoài khi mà định chế vừa có triều đình vua Lê, vừa có vương phủ chúa Trịnh cùng tồn tại thì tư tưởng “trung quân” không còn nguyên vẹn ý nghĩa chỉ tuyệt đối trung thành với một hoàng đế như các triều đại trước đó khi các Nho sĩ vừa phải trung thành với triều đình, vừa phải trung thành với cả vương phủ chúa. Tuy vậy, vẫn có một bộ phận đông đảo quan chức luôn giữ thái độ tận trung đối với chính quyền, hoặc với vua Lê, hoặc với chúa Trịnh khi họ đề ra các chủ trương, kiến nghị nhằm ổn định, phát triển đất nước trong thời bình. Có thể kể đến vai trò của các danh sĩ như Nguyễn Danh Thế, Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Bá Lân, Bùi Sĩ Tiêm, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm...Đáng chú ý nhất là Tờ khải mười điều dâng chúa Trịnh Giang năm 1731 của Bùi Sĩ Tiêm đã phản ánh khá cụ thể nhiều vấn nạn của đời sống xã hội đương thời, như vấn đề quan lại, binh dân, tài chính, phú thuế, giáo dục... Trong đó vấn nạn sai phạm trong việc tiến cử, sử dụng quan lại của Nhà nước đã có tác động xấu đến sự ổn định của xã hội đương thời “dân ít quan nhiều sinh ra nhũng tệ, hiện tượng cầu cạnh, nhận hối lộ hoành hành” và “noi theo lẽ công làm thì ít, dựa theo của cải làm thì nhiều”. Về kinh tế, tại điều thứ 3 của tờ khải, Bùi Sĩ Tiêm cho biết: tuy Nhà nước có thực hiện việc chia ruộng cho dân nhưng dân sinh chưa toại nguyện vì nhiều ít chưa được đều. Công điền đã cấp cho lính làm lương ăn, áo mặc thì số ruộng thừa ra cũng không có bao nhiêu. Trong khi đó những kẻ không nộp thuế dung, điệu tức chỉ quan lại thì chiếm hầu hết đất màu mỡ. Chính điều đó đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động sản xuất và đời sống người nông dân. Thậm chí vào cuối thế kỷ XVIII khi kiêu binh loạn lạc, Nhà nước không quan tâm đến sản xuất nông nghiệp thì hiện tượng đó càng trở nên nặng nề, như ở xứ Hải Dương: “Ở xứ Hải Dương, ruộng đất bỏ hoang mặc cỏ mọc..., dân chúng nghèo kiết, tan tác ngụ cư ở các vùng lân cận, 53 xã phiêu bạt, dân đinh giảm sút từ 135000 suất xuống còn 9800 suất [224; tr.566]. Bùi Sĩ Tiêm đề nghị Nhà nước thi hành chính sách trợ canh công điền (tức là lĩnh canh ruộng 115 Xem thêm: Bảng 9. Một số Nho sĩ xuất thân Nho học vùng Đàng Trong trước thế kỷ XVII (Phụ lục - tr.34).

công) và trợ canh tư điền đối với ruộng tư (lĩnh canh ruộng tư), nghiêm cấm việc mua bán ruộng công để trừ các “tệ kiêm tính”, chọn Xã trưởng tốt nói rõ điều lệ nghiêm cấm, định lệ thưởng phạt để tắt quấy nhiễu, giảm thuế tô, thuế điệu... Theo ông, nếu làm được như vậy không chỉ làm cho người dân lưu tán trở về mà “người ở nhà thịnh vượng, hộ khẩu ngày càng thêm đông, tích trữ ngày một nhiều”.

Ở Đàng Trong, tuy giáo dục và khoa cử Nho học chưa phát triển như ở Đàng Ngoài nhưng đã xuất hiện khá nhiều Nho sĩ thực sự tâm huyết với thời cuộc như: Hồ Quang Đại, Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Đăng Thịnh, Nguyễn Quang Tiền, Mạc Thiên Tứ, Nguyễn Đăng Trường... Có một số Nho sĩ tuy rất am hiểu Nho học, nhưng vì các lý do khác nhau, họ không tham gia thi cử, lựa chọn lối sống ẩn dật như Ngô Thế Lân, Nguyễn Đăng Đàn, Võ Trường Toản, Hoàng Quang…; tuy nhiên bằng tài năng, các Nho sĩ này không chỉ có công rất lớn trong việc mở trường đào tạo nhân tài, khơi mở nền học vấn ở vùng đất mới phía nam, mà đã mạnh dạn trình bày những kiến nghị sáng suốt lên chúa Nguyễn nhằm góp phần ổn định xã hội, Ngô Thế Lân là một trong những Nho sĩ như thế116. Năm 1770, Ngô Thế Lân đã gửi cho chúa Nguyễn Phúc Thuần bài biểu “Luận tiền tệ” nhằm “thức tỉnh” chúa Nguyễn trong việc cần đề ra những cải cách về kinh tế, ổn định cuộc sống của người dân đang ngày trở nên cùng quẫn. Đồng thời, ông cũng đưa ra kế sách là triều đình cần thực hiện điều tiết giá cả lúa gạo dưới hình thức đặt kho “thường bình”, một hình thức phỏng theo nhà Hán để giải quyết thực trạng này, nhưng chúa Phúc Thuần đã không để tâm đến tâm huyết của ông. Ở chừng mực nhất định quyền hạn có trong tay, các quan chức này đã thực thi, chủ yếu tại địa phương mình cai trị những chính sách an dân, góp phần ổn định đời sống của nhân dân. Quốc sử quán triều Nguyễn cho biết Hồ Quang Đại117 khi giữ chức Tri huyện Phú Vang, đã thực hiện chính sách cai trị ôn hòa, được lòng nhân dân “hòa nhã cai trị dân, bớt sự phiền nhiễu hà khắc, cốt giữ trong sáng yên tĩnh, lại và dân đều khen” [154; tr.189].

116Ngô Thế Lân tự là Hoàng Phác, hiệu Ái Trúc người làng Vu Lai, huyện Quảng Điền, phủ Triệu Phong, nay thuộc xã Quảng Thái, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Hiện nay chưa có tư liệu cho biết cụ thể năm sinh, năm mất của ông, song Đại Nam thực lục Tiền biên cho biết ông đã từng làm quan với triều Tây Sơn. Ngô Thế Lân là người học rộng, giỏi thơ văn, tinh thông đạo học và có uy vọng lớn ở Đàng Trong. Ông là một nhà nho, một dật sĩ, nhà thơ nổi tiếng của thế kỷ XVIII song vì nhận thức rõ sự thối nát của triều đình họ Nguyễn đang ngày càng trở nên trầm trọng nên ông đã không ra làm quan cho triều đình chúa Nguyễn. 117Ông người huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Năm 1652 trong khoa thi Chính đồ đời chúa Nguyễn Phúc Tần, ông đỗ thủ khoa, từng đảm trách nhiều chức vụ: Văn chức, Tri huyện, Tri phủ, Thị giảng Tri kinh diên.

125

Lòng trung nghĩa của các Nho sĩ xuất thân từ “Cửa Khổng, Sân Trình” phần nào còn được thể hiện rất rõ qua thái độ của họ vẫn tuyệt đối trung thành, hy sinh bản thân giữ trọn tiết nghĩa trước tình cảnh đất nước loạn lạc, vương triều đứng trước nguy cơ bị sụp đổ. Lý Trần Quán (1735 -1786) người xã Vân Canh huyện Hoài Đức (Hà Tây cũ) là một trong những Nho sĩ như vậy. Khi quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long năm 1786, trước việc làm của người học trò là Nguyễn Trang giao chúa Trịnh Khải cho

Nguyễn Huệ, Lý Trần Quán đã vô cùng ân hận, ông nói với học trò rằng: “Ta là bầy tôi mà làm lầm lỡ chúa, tội ta đáng chết. Nếu không chết thì không giãi tỏ lòng này với trời đất được” [159; tr.786], rồi ông nhờ người đào huyệt tự chôn sống mà chết, thiên hạ kính trọng ông là bậc nghĩa khí. Ông là người duy nhất dưới triều Lê -Trịnh được Phan Huy Chú ca ngợi: “Kịp đến khi binh biến cuối nhà Lê chỉ có ông Tri lại họ Lý (tức Lý Trần Quán chết vì nạn cứu chúa” [24; tr.327]. Lòng trung nghĩa của bộ phận Nho sĩ cuối thời Lê Trung hưng còn được biểu hiện ở việc khá nhiều người tỏ thái độ bất hợp tác không chịu ra làm quan với quân Tây Sơn, lựa chọn về ở ẩn như Phạm Trọng Huyến, Tham tri chính sự Lê Duy Đản, Phạm Đình Dư, Thiêm sai Tri công phiên Phạm Quý Thích, Đô cấp sự trung Nguyễn Đình Tứ... Hoặc như Tham tri chính sự Nguyễn Huy Trạc - Tiến sĩ khoa 1769 đã không chịu ký vào tờ biểu mời Nguyễn Huệ lên ngôi của các cựu thần văn võ nhà Lê, đêm về ông uống thuốc độc tự sát. Thậm chí Trần Danh Án118 còn tỏ thái độ căm thù Nguyễn Huệ: “Hãy xem ong kiến là loài vô tri, còn biết có vua. Hoa quỳ đến lúc khô còn hướng về mặt trời” và ông cũng một mực nói rằng: “Mong sau khi ta chết, những khách qua đường đều trỏ vào mồ mà nói: Đây là một người họ Trần, tiến sĩ triều Lê” [207; tr.424]. Trong bối cảnh khi mà thuyết chính danh và trật tự cương thường ngày càng xuống cấp như giai đoạn cuối thế kỷ XVIII, đòi hỏi giới sĩ phu phải thức thời để giải quyết những yêu cầu của đất nước, thì hành động, thái độ của những Nho sĩ trên đây đã từng bị coi là “ngu quân”. Song thiết nghĩ, ở đây không nên xét theo chế độ, vua tốt hay xấu, điều quan trọng nhất họ là những Nho sĩ đã thực hiện đúng đạo lý trung quân với bậc đế vương họ tôn phò, trung thành với giáo lý họ đã được đào tạo.

118 Nguyễn Duy Hiệp (1744 -?) người tỉnh Thái Bình, đỗ Tiến sĩ năm 1722, khi vua Chiêu Thống chạy khỏi Thăng Long ông theo tháp tùng, dưới thời Tây Sơn ông lánh cư ở ẩn. Phạm Đình Dư (1742 -?) người thôn Kim Đôi, xã Kim Chân, Quế Võ, Bắc Ninh, đỗ Tiến sĩ năm 1775, làm quan chức Lại bộ Hữu Thị lang, Hành lại bộ Thượng thư, Tri Quốc Tử Giám; Nguyễn Chỉnh làm loạn, ông thủ tiết không ra làm quan. Lê Duy Đản: (1743 -?) người xã Tam Giang, huyện Yên Phong, Bắc Ninh. Đỗ Tiến sĩ khoa thi 1775; làm quan đến chức Hàn lâm viện Thừa chỉ; khi nhà Lê mất, ông ở ẩn không ra làm quan với nhà Tây Sơn. Phạm Trọng Huyến (1746 -?) người xã Yên Phú huyện Ý Yên, Nam Định, đỗ Tiến sĩ xuất thân khoa thi 1778, làm đến chức Hàn lâm viện Thị chế, Tri hộ phiên, Hàn lâm Thị thư. Nguyễn Đình Tứ (1750 -?) người xã Vân Canh, huyện Từ Liêm (nay là Hoài Đức) Hà Nội. Đỗ Giải nguyên thi Hương (1779), đỗ Tiến sĩ năm 1787, làm quan chức Lại khoa Cấp sự trung, Đốc đồng xứ Hải Dương. Trần Danh Án (1755 -1794) xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình, Bắc Ninh, thi Hương đỗ Giải nguyên, đỗ Tiến sĩ (Hoàng giáp) năm 1787. Ông làm quan đời Lê Chiêu Thống đến chức Viên ngoại lang, hành Chiếu khám, Nội hàn, từng tháp tùng Lê Chiêu Thống chạy lên vùng Bắc Giang. Phạm Quý Thích (1759 -1825) người thôn Lương Ngọc, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giàng, Hải Dương, đỗ Tiến sĩ khoa thi 1799, làm đến chức Thiêm sai Tri công phiên.

126

* Các Nho sĩ có công phò tá tài đức và nhà Nho có đức nghiệp Mục đích khi ra làm quan, ngoài mưu cầu danh lợi thì điều quan trọng nhất của hàng ngũ quan chức xuất thân theo lối cử nghiệp chính là thực hiện được tư tưởng “kinh bang tế thế”, “trị quốc, bình thiên hạ” và “phải có danh gì với núi sông”. Một trong những thành tựu rất quan trọng của giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ

XVII, XVIII đã góp phần đào tạo nên bộ phận đông đảo danh sĩ có nhiều đóng góp cho triều đình. Họ không chỉ là những Nho sĩ có công phò tá trong sự nghiệp trung hưng; trong cơ nghiệp xây dựng và phát triển của vương triều, họ là những nhà chính trị, ngoại giao, nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng có nhiều tiến bộ về ý thức hệ, là những thầy giáo nổi tiếng đương thời. Đồng thời khá nhiều người đã trở thành nhà Nho đức nghiệp, được lưu danh trong sử sách. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí khi ghi nhận và xếp loại những người phò tá có công lao tài đức dưới các triều đại quân chủ từ Lý, Trần, Lê sơ, Mạc và Lê Trung hưng cho biết: thời Lý có 4 người, thời Trần có 10 người, Lê sơ có 18 người, thời Mạc có 1 người và 39 người thời Hậu Lê. Bao gồm: Phùng Khắc Khoan, Bùi Bỉnh Uyên, Lương Hữu Khánh, Lê Trạc Tú, Nguyễn Văn Giai, Ngô Trí Hòa, Nguyễn Danh Thế, Nguyễn Thực, Nguyễn Duy Thì, Lê Bật Tứ, Lưu Đình Chất, Nguyễn Nghi, Dương Trí Trạch, Đặng Thế Khoa, Phạm Công Trứ, Trần Đăng Tuyển, Vũ Duy Chí, Nguyễn Mậu Tài, Đồng Tồn Trạch, Nguyễn Viết Thứ, Nguyễn Quán Nho, Đặng Đình Tướng, Nguyễn Quý Đức, Lê Anh Tuấn, Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Công Cơ, Nguyễn Hiệu, Nguyễn Khiêm Ích, Nguyễn Quang Nhuận, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Quý Cảnh, Lê Hữu Kiều, Ngô Đình Chất, Hà Tông Huân, Nguyễn Đức Vĩ, Nguyễn Nghiễm, Trần Danh Ninh, Trần Danh Lâm, Nguyễn Bá Lân, Nhữ Đình Toản, Phạm Đình Trọng.

Đối với các nhà Nho đức nghiệp, theo xếp loại của Phan Huy Chú, triều Lê Trung hưng có nhiều nhất gồm 14 người, đời Trần có 1 người, đời Lê có 10 người, đời Mạc 4 người [24; tr.434]. Trong đó có 13/14 người là nhà Nho đỗ đạt khi triều Lê -Trịnh đóng đô ở Thăng Long, bao gồm: Nguyễn Đăng, Nguyễn Minh Triết, Vũ Công Đạo, Vũ Duy Đoán, Nguyễn Đình Trụ, Vũ Thạnh, Bùi Sĩ Tiêm, Vũ Công Trấn, Lê Quý Đôn, Đoàn Duy Tĩnh, Nguyễn Huy Cẩn (Cận), Phan Huy Cẩn, Ngô Thì Sĩ.

127

Trên con đường quan lộ, ở nhiều cương vị khác nhau, nhưng các Nho sĩ luôn giữ mình ngay thẳng, không luồn cúi, giữ trọn đạo vua tôi để trở thành bậc chính nhân quân tử theo quan niệm của Nho giáo. Như Nguyễn Quý Đức được Phan Huy Chú khen ngợi là người “Rộng rãi trung hậu, trầm tĩnh... những khi tiến lên bàn luận chính sự có điều gì chưa thỏa đáng thì kiên quyết giữ ý của mình đến vài bốn lần, cứ vững chắc như vậy không ai lay chuyển nổi”. Hoặc Nguyễn Đức Vĩ (1700 -1775): “Là người thanh bạch, cẩn thận, làm quan ở đài 18 năm, nhà không chứa của thừa, ai cũng phục là liêm khiết” [24; tr.354]. Hoặc có đóng góp quan trọng vào việc trị an trong nước, ổn định cuộc sống của người dân. Lê Quý Đôn khi đảm nhận chức vụ Hiệp tán, Tham tán quân cơ ở trấn Thuận Hóa đã hạ lệnh cho dân phải tiêu dùng tiền kẽm để sản xuất trong vùng được lưu thông... Đặc biệt, trong số các tướng lĩnh xuất thân từ Tiến sĩ của triều Lê - Trịnh, có 32 người là những tướng lĩnh tài giỏi được Phan Huy Chú khen ngợi, gồm Nguyễn Quán Nho, Đặng Đình Tướng, Lê Anh Tuấn, Hà Tông Huân, Nguyễn Công Thái, Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Hiệu... Con số này cũng

phản ánh một thực tế các quan văn với vai trò chủ yếu tham gia quản lý các vấn đề thuộc “dân sự” thì đến đây còn ghánh vác thêm cả việc quân sự, vốn là trách nhiệm của các võ quan.

Trong lĩnh vực văn hóa, nhiều Nho sĩ là tác giả của các trước tác thuộc nhiều lĩnh vực văn học, sử học, địa lý, thiên văn học. Qua thống kê từ sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919, trong 729 Tiến sĩ triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài, có 45 Tiến sĩ khi làm quan đồng thời là nhà văn, nhà thơ có tác phẩm còn lưu truyền; 13 Tiến sĩ đã tham gia biên soạn quốc sử triều Lê -Trịnh. Trong đó Nguyễn Quý Đức, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ,... vừa là nhà văn, nhà thơ, nhà sử học danh tiếng. Đàng Trong có các Nho sĩ như Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Khoa Chiêm, Nguyễn Đăng Thịnh, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Đăng Tiến, Ngô Thế Lân... cũng để lại nhiều trước tác có giá trị.

4.1.4 Các Nho sĩ tiêu biểu * Đàng Ngoài: dưới triều Lê -Trịnh, nền giáo dục và khoa cử Nho học đã đào tạo nên rất nhiều bậc Nho sĩ có tài năng, đức độ, có trước tác có giá trị mà tên tuổi, hành trạng cùng công lao của họ còn được lưu danh và ca ngợi trong sử sách. Trong số đó, có thể kể đến một số Nho sĩ sau đây:

Phùng Khắc Khoan (1528 -1613): là một trong những danh sĩ được Phan Huy Chú khen ngợi, xếp vào hạng người phò tá có công lao tài đức của triều Lê Trung hưng. Ông có tự Hoằng Phu, hiệu Nghị Trai, người xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Năm 1580, thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp). Trên con đường quan lộ, ông từng hai lần đi sứ nhà Minh, trải qua nhiều chức vụ, cao nhất là Thượng thư bộ Hộ, kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu. Ông mất năm 1613 được tặng Thái tể, phong làm phúc thần. Phùng Khắc Khoan không chỉ là nhà chính trị, ngoại giao, mà ông còn là nhà thơ nổi tiếng, khi đi sứ có dâng thơ lên cho vua Minh, được vua Minh khen ngợi “Xem những bài thơ dâng lên, đủ thấy lòng trung thành của Khắc Khoan rất đáng khen”. Theo nhận xét của Phan Huy Chú, ông là người cương quyết, sáng suốt, có tài, cái gì cũng biết được cốt yếu. Văn chương của ông thanh nhã dồi dào, có các thi tập truyền ở đời như: Mai Lĩnh sứ Hoa thi tập và Ngôn chí thi tập [24; tr.311].

Nguyễn Văn Giai (1554 -1628): Quê của ông ở xã Ích Hậu, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Năm 1580 ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp). Ông là một trong những đại thần có công lớn đối với nhà Lê Trung hưng khi vào các năm 1596, 1597 tháp tùng vua Lê Thế Tông lên cửa Nam quan để kiến với sứ thần nhà Minh. Ông trải qua nhiều chức vụ quan trọng, từng được thăng chức Tham tụng, Lại bộ Thượng thư kiêm Đô Ngự sử hàm Thiếu bảo. Ông làm quan trải ba triều, công danh quyền lực đều hơn nhất. Sau khi ông mất (năm 1628), được tặng chức Đại tư đồ.

128

Nguyễn Danh Thế (1572 -1645) người huyện Ứng Hòa, Hà Tây (cũ). Năm 1595 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Ông từng đi xứ nhà Minh, đảm trách nhiều chức vụ: Thượng thư kiêm hành Đô ngự sử, Nhập thị kinh diên, Thái phó, tước Đường quận

công. Ông đồng thời là nhà thơ, có 4 bài chữ Hán hiện còn lưu lại. Trên con đường làm quan, ông luôn giữ mình ngay thẳng cứng cỏi, biết cách làm chính trị, là người bề tôi giỏi của triều Lê -Trịnh.

Nguyễn Duy Thì (1572 -1651), người xã Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1598 khi 27 tuổi, ông đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp). Ông từng đi sứ nhà Minh, trải qua các chức vụ, trong đó cao nhất là chức: Tham tụng, Hộ bộ Thượng thư kiêm chưởng lục bộ sự, Thái phó, tước Tuyền Quận công, sau được vinh phong làm Tá lý công thần, được mở phủ Bình Quân. Khi mất năm 1645, ông được truy tặng Thái bảo.

Phạm Công Trứ (1602-1675): Người xã Nghĩa Hiệp, Yên Mỹ, Hưng Yên. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1628, trải qua nhiều chức quan quan trọng trong triều đình như Tham tụng, Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các Đại học sĩ, Chưởng Lục bộ sự hàm Thiếu bảo. Trên con đường quan lộ, ông có công rất lớn trong việc “đặt ra phép tắc, sửa soạn kỷ cương, đè nén những kẻ cậy thế nhũng lạm, yêu chuộng những người có phong cách tiết tháo”. Sau khi mất ông được truy tặng Thái tể, thụy Trung Cần, được sử sách ca ngợi là “người thâm trầm, giản dị, làm việc có mưu thuật, giúp việc nước lâu ngày, pháp độ kiến minh được nhiều” và là người có “đức tốt, có danh vọng, có công lao sự nghiệp là bậc hiền tể thứ nhất sau đời Trung hưng” [24; tr.330]. Ông không chỉ là nhà thơ, mà còn là nhà sử học tham gia biên soạn bộ Đại Việt sử ký bản kỷ tục biên.

Nguyễn Đình Trụ (1627 -1703): một trong các nhà Nho có đức nghiệp của triều Lê -Trịnh, người làng Nguyệt Áng, xã Đại Áng, Thanh Trì, Hà Nội. Trong khoa thi Hội, thi Đình ông đều đỗ Hội người, Đình nguyên và được xếp hạng Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ sĩ xuất thân khoa thi 1656. Ông làm quan đến chức Hàn lâm Hiệu thảo, Giám sát Ngự sử, Lại khoa cấp sự trung. Sau khi bị giáng chức, ông về quê vợ mở trường dạy học tại làng Vẽ, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Học trò có hàng ngàn người theo học, trong đó có 70 người thi đỗ đại khoa.

Vũ Công Đạo (1629 -1714): là một trong những nhà Nho có đức nghiệp của triều Lê -Trịnh. Quê ở làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, Hải Dương. Năm 1659 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, từng giữ các chức vụ Đô Ngự sử, Nhập thị Kinh diên, Phó Chính sứ, Hữu thị lang bộ Hình, Hữu thị lang bộ Lại. Sau khi mất được truy tặng chức Lễ bộ thượng thư. Khi làm quan ở Thăng Long, ông có mở trường dạy học, có nhiều học trò thành danh như Bảng nhãn Phạm Quang Trạch, Thám hoa Vũ Thạnh, Nguyễn Danh Dự..., trường học của ông trở thành một trong những ngôi trường tư nổi tiếng thời Lê -Trịnh. Ông được Phan Huy Chú xếp trong các nhà Nho có đức nghiệp ở thế kỷ XVIII.

129

Nguyễn Quý Đức (1648 -1720): cũng là một trong những nhà Nho có đức nghiệp triều Lê -Trịnh. Quê của ông ở xã Đại Mỗ, Từ Liêm, Hà Nội. Ông đỗ Đình nguyên, Đệ

nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám khoa) năm 1676. Trên con đường quan lộ, ông được triều đình trọng đãi, từng đảm trách các chức: Tả thị lang bộ Lại, Nhập thị Bồi tụng, Đô Ngự sử, Thiếu phó, Thái phó, được vinh phong Tá lý công thần. Theo nhận xét của sử gia đương thời, Nguyễn Quý Đức là “người rộng rãi, trung hậu, trầm tĩnh... Những bàn luận chính sự có điều chưa gì chưa thỏa đáng thì kiên quyết giữ ý kiến của mình đến vài bốn lần... Làm văn thì không chuộng đẽo gọt nhưng ý từ vẫn tinh tế, chặt chẽ. Việc sửa sang trang trí nhà Thái học, dựng bia Tiến sĩ ông đều đích thân trông coi cho đến khi hoàn thành tốt đẹp”. Ông không chỉ là nhà chính trị, ngoại giao, Học quan trường Quốc Tử Giám nổi tiếng, mà còn là nhà sử học, nhà thơ tài năng (có hai tập thơ còn lưu là Thi châu tập và Hoa trình thi tập).

Vũ Thạnh (1664 -1727), người làng Đan Loan (Đan Luân), huyện Đường An, xứ Hải Dương (nay là xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương), sau chuyển lên sống phường Báo Thiên, huyện Thọ Xương, kinh thành Thăng Long. Năm 1685, khi 22 tuổi ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa) được bổ chức Hàn lâm viện Thị chế. Ông trải qua nhiều chức vụ khác nhau: Đốc đồng Kinh Bắc, Đô cấp sự trung, Hồng Lô tự khanh. Sau ông giữ chức Bồi tụng, Nội tán, quyền Thiêm đô Ngự sử. Trên cương vị làm quan, ông là người ngay thẳng, chất phác. Năm 1698 ông bị bãi chức, về nhà mở trường dạy học tại Hào Nam (thuộc Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội ngày nay), thu hút rất nhiều học trò theo học. Trong hơn ba mươi năm giảng dạy, trường Hào Nam đã có gần vạn người theo học gồm cả ngạch văn và võ. Trong đó học trò đỗ Tiến sĩ ngạch văn từ năm 1700 trở đi có hơn 60 người; đỗ Tạo sĩ bên ngạch võ từ năm 1724 trở đi tổng cộng hơn 20 người.

Nguyễn Công Thái (1684 -1758): Người phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Ông từng đỗ Giải nguyên thi Hương, năm 1715 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, lại đỗ khoa Đông các năm 1728. Ông không chỉ là thầy giáo nổi tiếng của Quốc Tử Giám (giữ chức Tế tửu), mà đã có công rất lớn trong việc gặp sứ thần triều Thanh giải quyết vấn đề cắm mốc biên giới ở Tuyên Quang, cũng như tham gia vào việc tôn lập Trịnh Doanh lên ngôi chúa cuối năm 1739. Được nhà chúa tin dùng, ông được bổ nhiệm nhiều chức vụ quan trọng như Tham tụng, Thượng thư bộ Lại, phong Công thần, tước Kiều quận công. Theo đánh giá của sử gia đương thời thì bản tính của Nguyễn Công Thái ngay thẳng, cứng cỏi, ít nói, ở chính phủ không thiên vị ai, được chúa Trịnh tin dùng, ông đã về trí sĩ mà trước sau 5 lần được chúa vời ra giữ chức Tham tụng.

130

Nguyễn Nghiễm (1708 -1775): Người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông thi đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân năm 1731, trải qua nhiều chức vụ khác nhau cả trong kinh, ngoài trấn như Tham nhung vụ Hiệp đồng tán lý, Tham chính xứ Sơn Nam, Tể tửu Quốc Tử Giám, Hàn lâm Thừa chỉ, Hữu tham tri bộ Công, Bồi tụng, Nghệ An tuyên phủ đại sứ kiêm Tán lý quân vụ, Tả thị lang, Hiệp trấn xứ Thanh Hoa, Đô ngự sử kiêm Đốc trấn Thanh Hoa, Tả giám thí khoa thi Hội 1754, Hiệp trấn Nghệ

An, Tả thị làng bộ Hình, Tả thị lang bộ Lễ, Thương thư bộ Công, Nhập thị Bồi tụng, Tri Quốc Tử Gám, Đại tư không. Khi ông mất được ban tên thụy Trung Cần, ban sắc cho địa phương lập đền thờ, phong làm Thượng đẳng phúc thần. Ông vừa là nhà chính trị, ngoại giao, nhà quân sự có nhiều công lao được các chúa Trịnh tin dùng, đồng thời là nhà thơ có nhiều trước tác, trong đó Việt sử bị lãm, Quân Trung liên vịnh, Lạng Sơn Đoàn thành đồ chí là những tác phẩm còn được ghi chép lại.

Lê Quý Đôn (1726 -1784): là một trong những bậc danh sĩ nổi tiếng của thời Lê Trung hưng. Lê Quý Đôn tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường. Quê của ông tại xã Diên Hà, tỉnh Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình). Trong các kì thi Hương, thi Hội, thi Đình ông đều đỗ đầu (Tam nguyên): đỗ đầu thi Hương năm 1743, năm 1752 ông đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ nhị danh (Bảng nhãn), trong khoa thi này không lấy đỗ Trạng nguyên nên ông là người đỗ đầu. Ông trải qua nhiều chức vụ khác nhau, trong đó cao nhất là các chức Bồi tụng (tức Phó Tể tướng), Hộ bộ Tả thị lang, sau khi mất ông được truy tặng chức Công bộ Thượng thư. Lê Quý Đôn còn là nhà ngoại giao, nhà khoa học và nhà tư tưởng nổi tiếng của thế kỷ XVIII, ông đã nghiên cứu biên soạn và sáng tác nhiều công trình khoa học thuộc nhiều lĩnh vực mang tính “bách khoa toàn thư” về triết học, sử học, địa lý, văn học... Có thể kể đến các tác phẩm: Vân đài loại ngữ, Đại Việt thông sử (hay Lê triều thông sử), Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục, Bắc sứ thông lục, Quần thư khảo biện, Thư kinh diễn nghĩa, Quế Đường thi tập, Âm chất văn chú, Quế Đường thi vựng toàn tập, Tứ thư ước giải, Toàn Việt thi lục, Đại Việt địa lý chư gia kiểm ký bí lục, Dịch phu tùng thuyết, Du tế huân thần... [191; tr.611]. Riêng trong lĩnh vực tư tưởng, ông có nhiều chủ trương tiến bộ, khác với Nho giáo chính thống về học thuyết trị nước, về phương diện đánh giá cái mới, quan điểm về văn minh...Ví dụ nếu tư tưởng Nho giáo quan niệm Nho gia là học thuyết căn bản dùng để trị nước, thì Lê Quý Đôn chủ trương trị nước cần phải kết hợp Nho gia với Pháp gia: “mềm phải kết hợp với cứng, Nhân - Nghĩa phải kết hợp với Thuật, Thế” [230; tr.378].

- Đàng Trong: Tuy xác lập muộn hơn Đàng Ngoài, nhưng nền giáo dục và khoa cử Nho học ở vùng đất này dưới thời trị vì của các chúa Nguyễn cũng đã góp phần đào tạo nên nhiều Nho sĩ tài năng, có phẩm hạnh, có thể kể đến một số Nho sĩ như Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Đăng Đệ, Vũ Xuân Nùng, Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Đăng Thịnh, Nguyễn Đăng Tiến, Phạm Hữu Kính, Hồ Quang Đại,...

131

Vũ Xuân Nùng: Người huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Ông là con của Hương Cống Vũ Xuân Suyền. Năm 1728 đỗ Sinh đồ trong khoa thi Chính đồ, lại nhờ ấm thụ của cha nên được bổ chức Tri huyện nhưng từ chối không ra làm quan. Sau đó, ông được bổ làm Văn chức, đổi làm Cai bạ Bình Thuận. Năm 1750 thăng lên chức Ký lục Quảng Nam. Khi làm việc ở đây, ông đã mở lớp dạy học trò, có công đào tạo ba học trò nổi

tiếng được mệnh danh Trường An tam phụng (ba con phượng ở Kinh đô) gồm Trần Phước Thành, Nguyễn Đình Trong, Phan Đắc Thục.

Nguyễn Cư Trinh (1716 -1767): là bậc văn võ toàn tài của chính quyền chúa Nguyễn. Ông vốn người xã An Hòa huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế, quê gốc ở làng Phù Lưu Trường, huyện Thiên Lộc, nay là xã Ích Hậu huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh vốn họ Trịnh sau đổi thành họ Nguyễn. Năm 1733, Nguyễn Cư Trinh thi đỗ Sinh đồ, bổ làm chức Huấn đạo. Đến năm 1740, đỗ Hương tiến, được bổ làm Tri phủ phủ Triệu Phong. Bằng tài năng, sự hoạt bát của mình ông được chúa Nguyễn tin dùng, chuyển sang Văn chức. Làm việc bên cạnh chúa, Nguyễn Cư Trinh luôn tỏ ra khẳng khái, giàu mưu lược, giỏi quyết đoán. Khi Nguyễn Phúc Khoát xưng vương năm 1744, ông đảm trách việc soạn thảo mọi từ lệnh trong vương phủ. Khi giữ chức Tuần phủ Quảng Ngãi, ông đã có công huy động sức quân để dẹp tan được giặc “mọi Thạch Bích”. Năm 1753 cùng Cai đội Thiện Chính đem quân đánh giặc Nặc Ông Nguyên (Chay Chettha V) của Chân Lạp, mở rộng vùng đất phía nam. Năm 1765, ông được chúa Nguyễn Phúc Thuần cho giữ chức Lại bộ kiêm Tào vận sứ, tước Nghi biểu hầu. Năm 1767 ông mất thọ 52 tuổi, được tặng Tá lý công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Chính trị thượng khanh, Tham nghị, ban thụy là Văn Định. Hiện nay, nhà thờ của ông được xây tại làng An Hòa, mộ táng đặt tại núi An Nông thuộc địa phận huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nguyễn Cư Trinh còn là nhà văn hóa lớn để lại nhiều trước tác như: Đạm Am thi tập, Sãi Vãi (Nôm), Vịnh sử thi tập, Quảng Ngãi thập vịnh, Hà Tiên thập vịnh... Trong đó Sãi Vãi là tác phẩm thể hiện tập trung nhất tư tưởng của Nguyễn Cư Trinh, nổi bật là tư tưởng về vấn đề Học chính khi ông đề cao học thuyết Tống Nho, “ngôn hành hợp nhất”, học lý thuyết phải gắn liền với hành động thực tiễn. Nguyễn Đăng Thịnh (1716 -1763): Người An Hòa, Thừa Thiên Huế. Năm 1721 đỗ Hương tiến đời chúa Nguyễn Phúc Chu. Ông trải qua nhiều chức quan: Tri huyện huyện Hương Trà, Thị giảng Đông cung, Đô tri, Cai bạ Quảng Nam, Nha úy, tước Hương Danh hầu. Không chỉ thông minh, học rộng, văn hay, văn chương nổi tiếng mà trên con đường quan lộ, ông là một trong những Nho sĩ có nhiều đóng góp cho vương triều chúa Nguyễn khi “từ lệnh của triều đình đều do một tay ông soạn thảo” và việc xây dựng mới về phẩm phục quan chức, nghi lễ trong triều đình đều có công lao của ông. Ông cũng là một trong những Nho sĩ được Lê Quý Đôn đánh giá rất cao về tài văn học: “Văn sĩ Thuận Hóa như Nguyễn Cư Trinh, Nguyễn Đăng Thịnh, Nguyễn Quang Tiền, Ngô Thế Lân thơ văn phần nhiều đáng được để ý” với các tác phẩm gồm: Hiệu tần thi tập, Chuyết Trai văn tập, Chuyết Trai vịnh sử, Vịnh sử thi tập (hiện đều chưa tìm thấy) và một số bài thơ vịnh sử chép trong Phủ biên tạp lục.

132

Nguyễn Đăng Tiến (1701 -1747): Người An Hòa, Thừa Thiên Huế. Ông là em trai của danh sĩ Nguyễn Đăng Thịnh, hiệu là Minh Khiêm. Ông là người rất giỏi về văn chương, đặc biệt là thơ văn chữ Nôm. Dưới đời chúa Nguyễn Phúc Chú (1725 -

1738) đi thi nhưng không đỗ. Tuy nhiên, do có tài năng nên sau đó, ông được tiến cử trao cho chức Văn chức cùng với Nguyễn Đăng Thịnh làm Thị giảng trong cung. Năm 1744, ông được thăng chức Tuần phủ Phú Yên, rồi về triều làm Thừa chỉ viện Văn chức. Năm 1746 làm Ký lục dinh Quảng Nam, Khâm sai đi tuần sát sứ các huyện Hải Lăng, Võ Xương và châu Bố Chánh. Năm 1747 giữ chức Quản Tào vận về kinh, trong năm này ông qua đời, được tặng Chính trị thượng khanh, thụy Văn Trung. Theo đánh giá của Quốc sử quán triều Nguyễn, khi làm quan Nguyễn Đăng Tiến là vị quan thanh bạch, nhân dân đều yêu mến, không nỡ ai chê là nghèo. Về tác phẩm có Minh Khiêm thi tập.

Phạm Hữu Kính (? -?): Người huyện Diên Phước, Quảng Nam. Ông trúng cách khoa thi Hương đầu đời chúa Nguyễn Phúc Khoát và lại đỗ cả khoa Hoa văn về việc viết chữ tốt, được bổ làm Giáo chức, sau làm Cai bạ Quảng Nam. Theo nhận xét của chính sử, ông làm chính sự công bằng, thanh liêm, cuộc sống đạm bạc. Ông lại giỏi xét đoán, có thể chỉ ra điều gian, phát giác điều kín khiến thuộc lại và dân rất nể sợ. Sau khi chết được tặng Tán trị công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Chính trị thượng khanh, Tham nghị. Thụy Văn Hiến.

Hồ Quang Đại (còn gọi Hồ Hán Châu): Người huyện Hương Trà, Thừa Thiên Huế. Năm 1652, thi đỗ đầu thi Chính đồ, được bổ làm Văn chức. Sau đó trải qua nhiều chức vụ khác như: Tri huyện huyện Phú Vang, Tri phủ phủ Thăng Hoa, thăng Thị giảng Tri kinh diên. Sau khi mất được tặng Phụ chính an biên phúc đức quốc sư.

Đặng Đại Độ: Người huyện Phong Đăng, Quảng Bình, từng đỗ Hương tiến (không rõ khoa) được bổ làm Văn chức, cùng cha làm quan đồng triều. Ông từng đảm nhận nhiều chức quan khác nhau: Ký lục Bình Khang, Ký lục Quảng Nam, Ký lục Trấn Biên, Tuần phủ Gia Định. Ông nổi tiếng là Nho sĩ có học hạnh, làm quan thanh liêm, được người đời khen ngợi.

4.2 Duy trì và phát huy truyền thống hiếu học 4.2.1 Thêm nhiều địa phương có người đỗ đạt Nền giáo dục, khoa cử Nho học của Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII, nhất là vùng Đàng Ngoài đã góp phần tiếp tục duy trì và phát huy truyền thống hiếu học, khoa bảng khi nhiều địa phương trên cả nước đều có người đỗ đạt. Trong 729 Tiến sĩ thời Lê -Trịnh (1595 -1787), tính theo đơn vị hành chính ngày nay, số Tiến sĩ thuộc các tỉnh Bắc Bộ là 565 người (chiếm 77,5 %), số Tiến sĩ thuộc khu vực Thanh Nghệ trở vào gồm 164 người (22,5 %) (Xem thêm Bảng 11. Quê quán các Tiến sĩ triều Lê - Trịnh (1595 -1787), Phụ lục - tr.39).

133

Các Tiến sĩ triều Lê -Trịnh phân bố trên một địa bàn tương đối rộng, trong đó Hà Nội là địa phương có tỷ lệ số Tiến sĩ đông nhất: 146 người, chiếm 20%. Tiếp đó là các địa phương thuộc đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Bắc Trung bộ như Bắc Ninh: 94 người (chiếm 12,9%); Hải Dương: 92 người (12,6%), Thanh Hóa 89 người (12,2 %);

Hà Tây (cũ) có 85 người (11,7%); Hưng Yên: 67 người (9,2%), Hà Tĩnh 35 người (4,8%) và Nghệ An: 34 người (4,7%). Ngoại trừ Kinh đô, sở dĩ các địa phương thuộc đồng bằng và trung du Bắc Bộ và Bắc Trung bộ có số người đỗ Tiến sĩ cao hơn là do những địa phương này gần Kinh đô Thăng Long, lại là những nơi đã có truyền thống hiếu học và khoa bảng từ xưa. Kinh đô Thăng Long với vị trí trung tâm văn hiến lâu đời, trải qua lịch sử phát triển gần 7 thế kỷ với nhiều triều đại khác nhau, nơi đây đã quy tụ nhiều nhân tài đỗ đạt qua khoa cử từ mọi miền đất nước đến học tập, làm việc và định cư đã góp phần thúc đẩy hoạt động giáo dục, khoa bảng phát triển hơn các địa phương khác. Đáng chú ý là các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh số người đỗ Tiến sĩ cũng tăng lên đáng kể so với các triều đại trước đó, nhất là Thanh Hóa khi có đến 89 người đỗ119. Nguyên nhân là do trong thời kỳ Nam - Bắc triều (1533 -1592), số Tiến sĩ do nhà Lê tuyển chọn phần lớn xuất thân từ vùng Thanh - Nghệ. Theo thống kê từ sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919 của Ngô Đức Thọ, trong 7 khoa thi nhà Lê Trung hưng tổ chức ở Thanh Hóa lấy đỗ 45 người, gồm 18 Tiến sĩ quê Thanh Hóa, 6 Tiến sĩ người Nghệ An và 12 Tiến sĩ quê Hà Tĩnh, 9 người thuộc địa phương khác. Từ sau khi Trung hưng, vùng đất này tiếp tục có nhiều người đỗ đạt. Kết quả này cho thấy giáo dục và khoa cử Nho học đến thế kỷ XVII, XVIII đã phát triển mở rộng đến cả vùng Thanh - Nghệ chứ không chỉ tập trung ở vùng Thăng Long và Tứ trấn như các triều đại trước. Ngược lại, các tỉnh miền núi Bắc Bộ như Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang đều không có ai dự thi Đình giành học vị Tiến sĩ. Do ở khu vực miền núi còn nhiều khó khăn về kinh tế, bất ổn về chính trị, người dân không có điều kiện học hành. Mặt khác, tuy Nhà nước rất chú trọng đến giáo dục, khoa cử ở Thăng Long và vùng đồng bằng, nhưng lại chưa quan tâm đến việc học, thi cử của khu vực miền núi. Do đó, ở khu vực này việc học không phát triển, số người thi ít hoặc trình độ thí sinh không đáp ứng được yêu cầu.

119Dưới thời Mạc, đạo Thanh Hoa chỉ có 7 người đỗ Tiến sĩ; Nghệ An có 5 người. 120 Số liệu thống kê từ: Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Làng khoa bảng Thăng Long- Hà Nội, [172; tr 31-33].

134

4.2.2 Hình thành nhiều làng khoa bảng, dòng họ khoa bảng Ở các địa phương đều đã xuất hiện nhiều làng khoa bảng có số người đỗ đạt cao, nổi tiếng, trong đó Hà Nội với vị thế là trung tâm giáo dục lớn nhất của cả nước là địa phương có nhiều làng khoa bảng nhất, như: làng Tả Thanh Oai (Thanh Trì) với 12 Tiến sĩ trong đó thời Lê sơ gồm 2 người, thời Lê Trung hưng có 9 người và 1 người thời Nguyễn; làng Nguyệt Áng (Thanh Trì) gồm 11 Tiến sĩ, làng Đa Sĩ (Thanh Trì) gồm 7 người. Làng Phú Thị (Gia Lâm) có 10 Tiến sĩ đều đỗ đạt dưới triều Lê -Trịnh cùng 26 vị Trung khoa120; làng Đại Mỗ (Từ Liêm) có 4 đại khoa, 27 Hương cống (Cử nhân), Sinh đồ (Tú tài) còn lưu tên tuổi; làng Thượng Yên Quyết (quận Cầu Giấy ngày nay) có 9 đỗ Tiến sĩ, 12 người đỗ Hương cống (Cử nhân); làng Hạ Yên Quyết đỗ 9 Tiến sĩ, 45 Hương cống (Cử nhân) từ triều Lê đến triều Nguyễn; làng Kim Lũ (Thanh

Trì) gồm 5 Tiến sĩ và 15 người đỗ Hương cống. Đặc biệt làng Đông Ngạc với truyền thống khoa bảng đã được dân gian truyền tụng từ đời xưa: “Đất Kẻ Giàn, quan Kẻ Vẽ” hay “thơ Mỗ, phú Cách, sách Vẽ” (nghĩa là thơ làng Đại Mỗ, phú làng Cách Thượng Trì, văn sách làng Vẽ). Truyền thống đó được thể hiện ở số Tiến sĩ của làng gồm 22 người, 93 Trung khoa, 151 Tiểu khoa [172; tr.111].Ở vùng phụ cận quanh Hà Nội có làng Mộ Trạch (Hải Dương), làng Kim Đôi (Bắc Ninh), làng Hành Thiện (Nam Định), làng Cổ Am (Hải Phòng), làng Tam Sơn (Bắc Ninh); trong đó làng Mộ Trạch 36 Tiến sĩ121là làng đứng đầu trong 4 làng khoa bảng có nhiều Tiến sĩ nhất cả nước (làng Kim Đôi: 23 Tiến sĩ, làng Đông Ngạc: 22 Tiến sĩ và Tam Sơn: 17 Tiến sĩ).

121 Về số người đỗ Tiến sĩ của làng Mộ Trạch hiện có nhiều ý kiến khác nhau: Theo Ngô Đức Thọ (cb), Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919 ghi danh họ và tên của 32 người làng Mộ Trạch đỗ đại khoa (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Tiến sĩ) Bản “Đinh từ tự điển” ghi 33 người đỗ đại khoa (2 người không rõ tên) Mộ Trạch làng Tiến sĩ [147] ghi họ và tên 36 người đỗ đại khoa. -Đỗ Văn Ninh, Văn bia Quốc Tử giám Hà Nội [141] ghi họ và tên của 22 người đỗ đại khoa. Căn cứ vào bốn tài liệu trên, tác giả Vũ Duy Mền trong bài viết “Thành tựu khảo cứu về Nho học trong Đinh từ tự điển”, tác giả cho biết số người đỗ đại khoa làng Mộ Trạch là 37 người (trích từ bản đánh máy do tác giả Vũ Duy Mền cung cấp). 122 Nguyễn Trọng Thường: đậu Tiến sĩ năm 1712, hai lần đi sứ Thanh; con ông là Nguyễn Trọng Đương đỗ Tiến sĩ năm 1769, Phó sứ sang nhà Thanh. Cháu đích tôn là Nguyễn Trọng Đường (gọi Trọng Đương bằng chú) đỗ Tiến sĩ năm 1779 được đi sứ nhà Thanh.

135

Tại nhiều làng đã xuất hiện nhiều dòng họ khoa bảng nổi tiếng như: họ Vũ (làng Mộ Trạch), họ Phạm làng Đông Ngạc có 9/21 Tiến sĩ; họ Ngô Thì (Hà Nội) có 5/11 Tiến sĩ; họ Nguyễn Tiên Điền (Hà Tĩnh), họ Hồ ở Nghệ An, họ Phan Huy (Hà Tĩnh), họ Lê Hữu (Hưng Yên)… Nhiều dòng họ, gia đình có truyền thống hiếu học nối tiếp nhau nhiều thế hệ cha con, ông cháu, chú cháu... cùng đỗ đạt và thành danh trên con đường quan lộ như dòng họ Nguyễn Trọng ở làng Trung Cần (nay xã Trung Nguyên, Nam Đàn, Nghệ An) có ba đời kế tiếp nhau vừa cha con, chú cháu, ông cháu đều đậu Tiến sĩ và được cử đi sứ Trung Quốc122. Họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu, Nghệ An) có 11 đời liên tiếp đều thi đỗ và học vị cao, trở thành dòng họ nổi tiếng nhất ở Nghệ An. Tại làng Đại Mỗ (Từ Liêm, Hà Nội) có dòng họ Nguyễn Quý, ba thế hệ cha con, ông cháu đều có công đóng góp cho triều Lê -Trịnh là Nguyễn Quý Đức (Tiến sĩ khoa 1676), Nguyễn Quý Ân (Hoàng giáp khoa 1715) và Nguyễn Quý Kính đậu Hương khoa trúng thức. Họ Nguyễn làng Vân Điềm có 6/7 Tiến sĩ của làng đều thuộc cùng dòng họ, gồm Nguyễn Thực (Hoàng giáp khoa 1595), con là Nguyễn Nghi đỗ Tam giáp khoa thi 1619; các cháu nội của Nguyễn Nghi là Nguyễn Khuê, Nguyễn Sĩ (em Nguyễn Khuê) cùng đỗ Tiến sĩ xuất thân khoa 1670. Con của Nguyễn Khuê là Nguyễn Thắm đỗ Tam giáp khoa 1706 và một cháu xa thuộc chi thứ là Nguyễn Thứ đỗ xuất thân khoa thi 1754. Tại làng Phú Thị, tính từ khoa thi 1703 đến khoa thi 1760 có 5 người là bố con, anh em, bác cháu đều đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân, gồm Nguyễn Huy Nhuận (Tiến sĩ năm1703), hai em Nguyễn Huy Mãn đỗ năm 1721, Nguyễn Huy Thuật đỗ năm 1733, con là Nguyễn Huy Dận đỗ năm 1748 và cháu nội

(con Huy Dận) là Nguyễn Huy Cận đỗ năm 1760... Tuy chưa thống kê được đầy đủ các làng, các dòng họ khoa bảng của cả vùng Đàng Ngoài trong hai thế kỷ XVII, XVIII nhưng qua một số trường hợp thống kê trên đây, phần nào khẳng định, giáo dục và khoa cử Nho học dưới triều Lê -Trịnh đã tiếp tục góp phần hun đúc nên truyền thống hiếu học ở nhiều địa phương, hình thành nên những thế hệ Nho sĩ tài năng, có nhiều đóng góp cho sự phát triển nền văn hóa dân tộc.

Ở Đàng Trong, nền giáo dục và khoa cử của các chúa Nguyễn cũng đã đạt được một số thành tựu nhất định, quan trọng nhất là đã tuyển chọn được một đội ngũ trí thức Nho học (quan văn) tham gia vào bộ máy chính quyền, có những đóng góp tích cực đối với việc ổn định mọi mặt của vương triều chúa Nguyễn trong một thời gian khá dài. Từ đó góp phần hình thành nên truyền thống hiếu học của các dòng họ ở một số địa phương gồm các thế hệ cha con, anh em, ông cháu, chú cháu... đều đỗ đạt, được chúa Nguyễn trọng dụng như ba cha con Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Hữu Cảnh (Quảng Bình); Vũ Danh Thế, Vũ Đình Phương, Vũ Xuân Suyền, Vũ Xuân Nùng, Vũ Xuân Đàm (Quảng Bình); Nguyễn Đăng Đệ, Nguyễn Đăng Thịnh (cháu gọi Đăng Đệ là chú), Nguyễn Cư Trinh (con Đăng Đệ) (Thừa Thiên Huế); cha con, ông cháu của dòng họ Nguyễn Khoa gồm Nguyễn Khoa Chiêm, Nguyễn Khoa Đăng, Nguyễn Khoa Thuyên (Thừa Thiên Huế), Cha con Hồ Quang Đại, Hồ Công Diệu (Thừa Thiên Huế)... Đây là nền tảng để đến triều Tây Sơn và triều Nguyễn sau này, Đàng Trong xuất hiện ngày càng nhiều các địa phương có người đỗ đạt, làm quan cho triều đình quân chủ. Nhiều dòng họ của vùng đất Đàng Trong, nhất là ở các địa phương của Thừa Thiên Huế đến thời Nguyễn đã thực sự nổi tiếng về truyền thống hiếu học, được ghi nhớ trong tiềm thức của dân gian cho đến ngày nay như “họ Đinh đánh giặc, họ Đặng làm quan”, “Nhất Thân, nhì Đặng, tam Hà” (chỉ họ Đặng ở Thanh Lương, họ Thân ở Nguyệt Biều của Thừa Thiên Huế).

123 Trường An tứ hổ gồm Nguyễn Công Đồng, Hà Tông Mục, Vũ Thạnh, Nguyễn Hành.

136

Giáo dục Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII đã hình thành nên một đội ngũ đông đảo các nhà giáo vừa chuyên sâu về học vấn, vừa có phẩm chất và đức độ, đã có công đào tạo các thế hệ thầy giáo kế truyền, tiếp nối con đường truyền bá tư tưởng học thuyết Nho giáo, đào tạo nhân tài cho Nhà nước, tạo nên nét đẹp trong truyền thống hiếu học của dân tộc. Như thầy Dương Tồn (mở lớp dạy học ở Quỳnh Lưu, Nghệ An) có công đào tạo Hồ Sĩ Dương đỗ Hoàng giáp (khoa thi 1652) làm quan đến chức Tế tướng. Hồ Sĩ Dương đã truyền thụ kiến thức đào tạo học trò Hoàng Công Chí (đỗ Tiến sĩ khoa thi 1670) làm quan đến Lễ bộ thượng thư. Hoàng Công Chí lại có công đào tạo Nguyễn Công Hãng đỗ Tiến sĩ khoa thi 1700. Ngô Sách Tuân là một trong những vị tôn sư đã có công đào tạo Vũ Thạnh trở thành một trong “Trường An tứ hổ”123 dưới triều Lê - Trịnh. Sau khi Ngô Sách Tuân bị tội chết, Vũ Thạnh đã nuôi dạy Ngô Sách Hân (con

Ngô Sách Tuân) thi đỗ Tiến sĩ khoa thi 1721 cùng hơn 1000 học trò thành danh từ ngôi trường Hào Nam. Ngô Sách Hân sau này cũng trở thành thầy giáo có công đào tạo nhiều học trò đỗ đạt. Đặc biệt, trong thế kỷ XVIII đã xuất hiện năm thế hệ thầy trò kế tiếp nhau, họ là những tác giả Nho học nổi tiếng của thời đại “cùng thuộc một giáo dục hệ, nằm trong cùng một dòng mạch, một xu thế học thuật lớn của thời đại” khi giữa họ có “những liên kết học thuật đáng kể, bên cạnh ơn nghĩa thầy trò” [175; tr.176], đó là Vũ Công Đạo, Vũ Thạnh, Nguyễn Tông Quai, Lê Quý Đôn và Bùi Huy Bích. Cả năm người này với vị thế vừa là người thầy, vừa là học trò đã tiếp nối, phát huy từng bước cuộc “cải cách văn thể” nhằm chấn hưng Nho học được khơi mở từ cuối thế kỷ XVII khi vào năm 1693, chúa Trịnh ban lệnh cải cách thể văn, phục hồi thể văn thời Hồng Đức. Trong đó, Vũ Công Đạo giữ vai trò là một trong những Nho sĩ đề xướng cuộc vận động cải cách văn thể với tinh thần kêu gọi chấn chỉnh khoa cử nhằm đề cao học vấn thực tiễn. Đến các thế hệ học trò tiếp nối sau này như Vũ Thạnh từng bước triển khai tinh thần đó trên thực tế, học trò của Vũ Thạnh là Nguyễn Tông Quai, học trò của Nguyễn Tông Quai là Lê Quý Đôn đã tiếp tục phát triển tư tưởng của thầy. Bùi Huy Bích (1744 -1802) một trong những học trò xuất sắc của Lê Quý Đôn đã thực sự là người kế tục xứng đáng nhất tinh thần học thuật của ông. Trên con đường quan lộ, ông không chỉ kế thừa, học hỏi phương pháp tuyển chọn, khảo cứu của Lê Quý Đôn trong việc biên soạn các trước tác, với các trước thuật tiêu biểu như Hoàng Việt thi văn tuyển, Quốc triều chính điển, Nghệ An thi tập, Tồn Am thi tập..., mà ông cũng là thế hệ học trò cuối cùng khép lại trào lưu chấn chính nền học thuật cuối thế kỷ XVIII gắn với vương triều Lê -Trịnh.

137

Ngoài ra, truyền thống hiếu học thế kỷ XVII, XVIII còn được thể hiện ở sự tiếp nối vai trò giáo dục, đào tạo tuyển chọn nhân tài của trường Quốc Tử Giám. Với tư cách là trung tâm giáo dục Nho học cao cấp của Nhà nước, Quốc Tử Giám thời kỳ này đã thực hiện tốt chức năng “đào tạo tầng lớp sĩ phu có liêm sỉ, trọng sự thanh bần, không màng danh lợi” [164; tr.7], trở thành cái nôi tri thức của nhiều bậc đại khoa, cung cấp đội ngũ quan lại có trình độ Nho học (có học vị) cho bộ máy chính quyền. Nhiều Giám sinh thi đỗ Tiến sĩ, trên con đường quan lộ đã giữ các chức vụ trọng trách của triều đình. Trong 79 Giám sinh thời Lê mà tác giả đã thống kê (con số này chắc chắn chưa đầy đủ)124 khi ra làm quan, họ được giữ và thăng bổ những chức vụ quan trọng ở trong triều ngoài trấn, phẩm trật cao, đông nhất là các chức Hữu thị lang các bộ (3b), Đông các Đại học sĩ (4b), Hàn lâm viện Đãi chế (6b)...; có một số Giám sinh được thăng lên chức Thượng thư (2b), Đô ngự sử, Hiệp trấn (3a), còn lại chủ yếu là các chức quan hàm Chánh tứ phẩm (4a) đến Tòng thất phẩm (7b). 124 Trong 18 bia Tiến sĩ ghi tên tuổi các Tiến sĩ thời Lê -Trịnh từ khoa thi năm 1718 đến khoa thi năm 1779, có 66 người đã từng là Giám sinh Quốc Tử Giám trên tổng 244 Tiến sĩ của 22 khoa thi. Ngoài ra, tác giả thống kê từ các gia phả, Văn miếu, Văn từ ở một số địa phương thêm 33 Giám sinh, tổng thành 79 Giám sinh. (Xem thêm Bảng 12. Giám sinh Quốc Tử giám Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XVII – XVIII, Phụ lục - tr.40).

Có 6/79 quan viên xuất thân Giám sinh kiêm nhiệm luôn cả chức vụ bên phủ chúa, gồm 2 người giữ chức Tham tụng là Trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo và Tiến sĩ Phan Lê Phiên; 4 người giữ chức Bồi tụng gồm Tiến sĩ: Lê Phú Thứ, Vũ Khâm Thận, Phạm Đình Trọng, Ngô Duy Viện125. 4.3 Một số hạn chế

4.3.1 Coi trọng bằng cấp, đề cao văn chương Đến thời Lê Trung hưng, nhất là trong hai thế kỷ XVII, XVIII, khoa cử vẫn được Nhà nước đề cao, coi đây là phương thức rất quan trọng để tuyển chọn người tài, do đó Nhà nước đã thực hiện nhiều chế đỗ đãi ngộ dành cho người đỗ đạt cả về mặt vật chất và tinh thần. Nhưng mặt trái của chính sách này đã hình thành nên tâm lý coi trọng bằng cấp, văn chương, coi thường hoạt động sản xuất và coi những người có học, đỗ đạt, làm quan mới là những người cao quý, vinh hiển ngày càng ăn sâu trong tiềm thức của đông đảo trí dân đương thời. Chính vì đề cao vai trò của kẻ sĩ, trong xã hội đã có những nhìn nhận phiến diện đối với một số ngành nghề như buôn bán, ca hát, dẫn đến sự phân biệt đối xử bất bình đẳng đối với một số giai tầng xã hội trong việc lựa chọn người học, người đi thi. Bởi vậy, trong thể lệ thi Hương thời kỳ này vẫn nghiêm cấm con nhà hát xướng không được tham dự, đây là nguyên nhân để Nho sĩ Đào Duy Từ vì xuất thân từ con nhà hát xướng không được dự thi Hương, phải bỏ vào Đàng Trong, sau được chúa Nguyễn trọng dụng.

138

Sự coi trọng con đường học vấn còn dẫn đến cả xã hội đua nhau học tập, nhiều Nho sinh khổ công, khổ luyện trong học tập, kiên trì phấn đấu trong thi cử nhằm đạt được mục đích đề tên trên bảng vàng. Có thể thấy rõ phần nào thực trạng đó qua tỷ lệ người đỗ Tiến sĩ thời Lê -Trịnh theo nhóm tuổi. Trong số 715 Tiến sĩ biết rõ độ tuổi thi đỗ, khi phân theo các nhóm tuổi có tỷ lệ như sau: nhóm tuổi đỗ từ 19 -20 tuổi: 3/715 người (chiếm 0,4%); từ 21- 29 tuổi: 228/715 người (chiếm 31,9%); từ 30 -40 tuổi: 315/715 người (chiếm 44,1%); từ 41-50 có 121/715 người (chiếm 17,0%); từ 51 -60 tuổi: 36/715 người (chiếm 5,0%); trên 60 tuổi: 12/715 người (chiếm 1,7%). Như vậy chỉ có 3 người đỗ ở độ tuổi 19 -20, chủ yếu là những người đỗ trong độ tuổi từ 21 đến 50; số những người ở tuổi “ngũ thập tri thiên mệnh” hoặc cao hơn khi đã đến hoặc qua tuổi lão mới được ghi tên trên bảng vàng cũng khá nhiều: trên 50 tuổi có 36 người (5,0%) và trên 60 tuổi có 12 người (1,7 %). Điều này phản ánh thực tế là với tâm thức coi khoa cử là mục đích tiến thân duy nhất, nên dù đã cao tuổi họ vẫn quyết đi thi nhiều lần để giành lấy bảng vàng làm rạng danh cho bản thân, gia đình, dòng họ, có người thành công nhưng có người mãi lận đận. Có thể kể đến Nguyễn Hữu Thường (1574 -1661) quê Tĩnh Gia, Thanh Hoa đỗ Tiến sĩ khoa thi năm 1637 khi đã 64 tuổi, 125Tham tụng chức quan tương đương như Tể tướng bên triều đình của các triều đình trước đó. Bồi tụng: chức quan cấp dưới chức Tham tụng, tương đương như chức Á tướng bên triều đình vua Lê. Đến năm 1878 Lê Chiêu Thống lên ngôi cho bỏ chức Tham tụng và Bồi tụng, thay bằng hai chức Bình chương và Tham tri theo quan chế cũ.

làm quan được 24 năm thì qua đời. Trịnh Lương Bật (1579 -1661) quê ở Mỹ Hào, Hưng Yên đỗ Tiến sĩ năm 1640 khi đã 62 tuổi, 21 năm sau thì ông mất.

4.3.2 Coi trọng học thuộc lòng trong dạy học và thi cử Trong lịch sử giáo dục và khoa cử Nho học thời quân chủ Việt Nam, phép học Nho theo lối từ chương, khoa cử trở thành nội dung học chính được các triều đại quân chủ Việt Nam đề cao. Trong hai thế kỷ XVII, XVIII nền giáo dục vẫn lấy tư tưởng Nho giáo làm khuôn vàng thước ngọc. Tứ thư, Ngũ kinh vẫn là sách gối đầu giường của bao thế hệ Nho sinh đương thời: “Cũng giống như Trung Hoa, mọi khoa học ở Đàng Ngoài đều tập trung nghiên cứu các tác phẩm của Khổng Tử và sách vở bình giải về tác phẩm của ông” [225; tr.367]. Lối học từ chương khoa cử một mặt có ảnh hưởng tích cực đối với đời sống xã hội, chính trị đương thời trong việc giáo dục, đào tạo và cung cấp được nhiều Nho sĩ trí thức có tài năng cho Nhà nước, đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ cao xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế, góp phần quan trọng đưa xã hội Đại Việt đi vào khuôn phép, trật tự trong luân lý đạo đức “Tam cương, Ngũ thường”. Tuy nhiên, lối học này cũng để lại không ít hậu quả tiêu cực đối với chính người học cũng như truyền thống văn hóa của dân tộc khi nhu cầu thực tế của xã hội đòi hỏi giáo dục phải chú trọng đến ứng dụng thực hành vào trong đời sống thì lối giáo dục này chưa đáp ứng được. Do vậy việc học tầm chương, trích cú không còn phù hợp nữa khi người đi học chỉ noi theo khuôn sáo, tầm chương trích cú, cốt học thi đỗ để ra làm quan nên chỉ chăm chăm vào những lời nói phù phiếm trong đối sách của Chư Tử mà quên học các sách Cổ văn, chủ yếu “nghiên cứu sách ngoài để được đỗ cao, đến như những lời nói về việc cứu thời thế nguy nan, sửa chữa việc tệ hại, thì không một câu nào có thể dùng được cả [159; tr.480 - 481]. So với thời Lê sơ, văn thể thời kỳ này không còn trong sáng, hồn hậu.

139

Trong phương thức học tập để thi cử, thí sinh chủ yếu học theo phương pháp truyền thống học thuộc, kể lại mà không có sự sáng tạo. Trí nhớ trở thành “phẩm chất cần thiết hàng đầu đối với các sĩ tử để họ nắm được kiến thức và điều kiện chủ yếu để họ có thể thuộc lòng số lượng chữ Hán vốn hầu như cũng nhiều bằng số từ trong ngôn ngữ [225; tr.370], do đó ngay từ khi đi học để biết chữ đến cấp ôn các thể văn thi cử, người học chủ yếu học theo phương thức học thuộc. Trong bài tựa của sách “Bùi gia huấn hài”, tác giả Bùi Dương Lịch cho biết: “Tôi từng ở làng, thấy mọi nhà dạy trẻ, phần nhiều cho học thuộc lòng quyển Thiên tự văn của Chu Hưng Tự (người đời Lương - Trung Quốc) cuối cùng chẳng ích lợi gì. Hoặc lấy sách Hiếu kinh, Tiểu học thay vào, nhưng câu đặt dài ngắn không đều, khó khăn cho trẻ con” [62; tr.251]. Lối học thuộc đó không chỉ ở lứa tuổi nhỏ, ngay trong thể thức ra đề thi của các kì thi Hương, thi Hội, thi Đình thường hướng cho sĩ tử học thuộc điển tích, điển cố để làm bài, chính điều này đã góp phần làm hạn chế tư duy và sự sáng tạo của các Nho sinh. Thực tế, có những Nho sinh với kiến giải riêng trong bài thi của mình thường bị coi là

phạm húy, nhẹ thì đánh trượt, nặng bị tù tội. Đồng thời, với lối học tầm chương trích cú dẫn đến học vấn sâu xa về nghĩa lý của kinh sách mang tính triết học rất ít người theo đuổi, do đó từ cuối thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX những người giỏi lý học được hậu thế truyền tụng không nhiều, trong lịch sử chỉ có ít gương mặt tiêu biểu như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Nguyễn Thiếp... Lê Quý Đôn khi chủ trương thay đổi lề lối giáo dục cũng đã từng nhấn mạnh rằng cần học nhiều cách vật trí tri nhưng phải biết nắm lấy cái chính: “không thể vu vơ theo việc ngọn ở ngoài mà không tìm tòi đến chỗ gốc ở trong. Nếu không thế mà cứ vật gì cũng xét cho đến cùng, cho dù đủ cả thì chẳng hóa ra vì đường có nhiều lối rẽ mà đến nỗi lạc mất dê ư” [52; tr.46].

4.3.3 Các hiện tượng tiêu cực khác Cùng với những biến chuyển của chế độ chính trị và xã hội, sự ảnh hưởng của nền kinh tế hàng hóa, sự du nhập của đạo Kitô đã có ảnh hưởng không nhỏ đến khoa cử. Do ba năm mới mở một khoa thi, Nhà nước lại quá hậu đãi đối với người đỗ đạt, nhất là đối với Tiến sĩ đã làm cho “mối tệ” trong kì thi Hương, thi Hội ở Đàng Ngoài nảy sinh, biểu hiện ở nhiều dạng thức khác nhau gồm cả phía thí sinh và quan trường.

- Tiêu cực thi Hương: Qua thống kê từ các bộ chính sử còn ghi chép lại, có 18 sự kiện liên quan đến tiêu cực của kỳ thi Hương126, thế kỷ XVII có 7 sự kiện (chiếm 38,9%) và 11 sự kiện xảy ra thế kỷ XVIII (chiếm 61,9%). Đối với thí sinh đó là các hiện tượng mang sách vở vào trường (khoa thi 1664), gài bài (khoa thi 1717, 1720, 1726), học thuộc bài làm sẵn (khoa thi 1711) hoặc tham gia đốt phá trường thi (năm 1743 ở trường Nghệ An; khoa 1774 ở trường Thanh Hoa), hoặc nhờ người thi hộ. Với quan trường là hiện tượng nhận hối lộ, vì tình riêng mà đánh tráo bài thi như trường hợp Phủ doãn phủ Phụng Thiên Ngô Sách Dụ trong khoa thi 1673 để lấy tiền. Cũng trong khoa thi này Tham chính Sơn Tây là Lê Chí Đạo đã lén chấm bài sai, đánh trượt quyển đỗ của học trò... Hoặc ra đề thi hóc búa để làm khó thí sinh như trường hợp của quan Chủ khảo Nguyễn Lại.

126 Xảy ra vào các khoa thi năm: 1664, 1673 (khoa này xảy ra 3 lần), 1687, 1698 (khoa này xảy ra 2 lần), 1711, 1717, 1726, 1743, 1751, 1762, 1763, 1768, 1774 (khoa này xảy ra 2 lần), 1777. 127 Đầu đời Trung hưng mỗi người đi thi phải nộp 5 quan tiền, gọi là tiền “minh kinh” để giúp quan chi tiêu ở huyện, tốn phí rất nhiều. Năm Bảo Thái 1720 -1729 thi hành phép thuế điệu thì thu tiền “Minh kinh” để dựng trường thi và cung đốn các vật dụng cho việc thi.

140

Từ nửa sau thế kỷ XVIII trở đi, hiện tượng quan trường vi phạm trường quy xảy ra ngày càng nhiều và công khai hơn, đó là các hiện tượng: ăn tiền của thí sinh, móc ngoặc giữa các quan trường với nhau hoặc cố tình sai phạm trường quy tạo điều kiện cho con cháu mình thi đỗ. Sách Lịch triều hiến chương loại chí cho biết, vào năm 1750 Đỗ Thế Giai lấy cớ Nhà nước có việc dấy quân chi phí tốn kém, quốc dụng không đủ nên bắt thí sinh phải nộp 3 quan gọi là tiền “Thông kinh” (vì kiêng tên Minh vương nên gọi minh kinh là thông kinh). Vì thế người làm ruộng, người đi buôn, người hàng thịt, người bán vặt..., cũng đều làm đơn nộp tiền xin thi cử”127 [25; tr.31].

Như vậy đến thế kỷ XVIII, thể lệ thi Hương đã được triều đình vận dụng vào trong thực tế, nhưng các hiện tượng tiêu cực lại xảy ra khá nhiều, tăng gấp rưỡi so với thế kỷ XVII. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng gian lận trong thi Hương gia tăng ở giai đoạn này là do số lượng thí sinh dự thi quá lớn, gây khó khăn cho việc giám sát, kiểm tra trình độ của các thí sinh giảm sút đáng kể vì các quan khảo hạch làm việc một cách vội vã và không toàn tâm. Sâu xa hơn, tiêu cực thi Hương xảy ra nhiều, chủ yếu bắt nguồn từ việc thiếu ổn định của xã hội Đàng Ngoài. Do chiến tranh xảy ra thường xuyên nên từ nửa sau thế kỷ XVIII, ngay từ kì khảo hạch, triều Lê - Trịnh đã thực hiện thu tiền thông kinh (còn gọi sinh đồ ba quan) để những thí sinh dù học hạnh kém vẫn được dự thi Hương, tệ này tất yếu kéo dài đến kì thi Hương. Đồng thời với tâm lý “chuộng bằng cấp”, khoa cử là con đường xuất thân duy nhất, Nhà nước lại quá trọng hậu người đỗ đạt, bổng lộc cao trên con đường quan lộ đã góp phần làm cho phần đông dân chúng tìm cách chạy chọt để đỗ đạt, dẫn đến mối tệ xuất hiện ngày càng nhiều. Mặt khác, về nội dung thi Hương có nhiều bất cập, nhất là trong khâu ra đề và nội dung ra đề mang tính khuôn mẫu, sẵn có nên chỉ cần học trò cần làm sẵn chép trước hoặc học thuộc là có thể qua được kì thi. Thực trạng này tồn tại trong một thời gian khá dài cũng là điều kiện này sinh nhiều mối tệ.

Trước các hiện tượng tiêu cực, Nhà nước đều có biện pháp xử lý kịp thời như biếm chức, bãi chức các quan trông thi như trường hợp của Lê Chí Đạo, Ngô Hải...; xử tội đồ như trường hợp Ngô Sách Dụ, xử tội chết như trường hợp của Ngô Sách Tuân. Đồng thời triều đình cho chấn chỉnh văn bài, hoặc tổ chức thi lại cho các Hương cống, Sinh đồ của các khoa thi: 1664, 1698, 1726, 1751, 1762, 1768, 1774. Các biện pháp này phần nào đã có tác dụng hạn chế những tiêu cực trong thi Hương, nhưng nhìn chung cũng chỉ mang tính đối phó tạm thời và thiếu nhất quán.

141

Tiêu cực trong thi Hội: Đối với kì thi Hội, Nhà nước đã có những quy định rất chặt chẽ về trường quy, lại tổ chức dưới hình thức tập trung ở Kinh đô nên các tiêu cực xảy ra ít hơn so với thi Hương. Tuy nhiên, vẫn có một số hiện tượng tiêu cực xảy ra ở kì thi quốc gia này, dạng thức biểu hiện khá đa dạng. Như khoa thi năm 1631 vì bị tố cáo thiếu điểm mà vẫn trúng tuyển nên triều đình cho bỏ tên của Nguyễn Văn Quang khỏi danh sách dự thi Đình; khoa thi năm 1755 Nguyễn Công Khuê bị giáng chức do thay đổi văn thể khi vẫn cho ra đầu đề cũ; khoa thi năm 1757 đánh hỏng Nguyễn Khiêm Hanh do can tội mang sách vào trường thi; năm 1775 Đinh Thì Trung đổi quyển làm văn cho Lê Quý Kiệt là con Lê Quý Đôn, việc phát giác, Trung bị đi đày xa; hoặc biết trước đề làm sẵn bài thi ở khoa thi năm 1786. Đặc biệt, đã xảy ra một số trường hợp thí sinh đỗ Tiến sĩ là do nộp nhầm quyển, đánh tráo quyển thi như trường hợp của Võ Miên, Nguyễn Quýnh. Tác giả Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút cho biết, Võ Miên khi nhỏ học tối tăm, trong khoa thi Hội năm 1748, khi vào đến trường đệ tứ (ký thứ 4), vì chép không kịp nên tối xẩm ông mới nộp quyển. Khi về

nhà trọ, thì biết nộp nhầm quyển nháp, còn quyển có dấu vẫn ở trong ống quyển, ông than thở mãi bèn đem những đoạn văn làm ban ngày ra nhuận sắc, viết lại tinh tươm vào quyển có đóng dấu. Ngày hôm sau ngủ tỉnh dậy thì không thấy quyển thi. Đến khi yết bảng có tên của ông đỗ Hội nguyên, ông vừa mừng vừa kinh ngạc, có người cho rằng nhà ông ba đời không nuôi mèo cho nên được cái báo ơn ấy” [75; tr.79]. Các tiêu cực trong thi Hội không chỉ xảy ra đối với mỗi cá nhân riêng lẻ, mà như nhận xét của Phạm Đình Hổ, tiêu cực thi cử còn là vấn nạn lớn của nền học chính đương thời khi mà: “phép thi ngày càng sai lệch” do “chuyên lấy những câu rắc rối ra đề hiểm hóc cốt làm khó cho người thi”.

Ở Đàng Trong, trong cách thức ra đề thi cũng đều hướng người học phải ghi nhớ, học thuộc những ý tưởng, câu chữ của Thánh hiền để làm bài nên khoa cử cũng không tránh khỏi gian lận, hoặc do đề quá khó hoặc do phía quan trường. Sách Đại Nam thực lục cho biết, trong kì thi Thu vi hội thí mở năm 1713, tại khoa thi Chính đồ, số thí sinh vào đến kì đệ nhị có đến 130 người. Tuy nhiên, do các khảo quan bất hòa nên đã đánh hỏng cả, chỉ riêng có khoa thi Hoa văn và Thám phỏng, lấy trúng cách được trên 10 người. Chúa Nguyễn Phúc Chu cho rằng các khảo quan đã quá khắt khe nên ra lệnh cho thi lại. Chúa tự ra đề thi và lấy trúng cách: 1 Sinh đồ bổ làm Huấn đạo; 7 nhiêu học bổ làm Lễ sinh; còn 10 người đã được trúng cách của khoa thi Hoa văn, Thám phỏng trước đó đều được bổ dụng vào Tam ty. Hoặc ở khoa thi Nhiêu học năm 1723, lấy trúng cách được 77 người. Tuy nhiên, khoa thi này vì có nhiều dư luận bàn tán nên chúa Nguyễn Phúc Chu ra lệnh tập hợp tất cả những người trúng cách về Chính dinh để thi lại. Chúa tự ra đề thi Tứ lục và thơ phú, mỗi thứ một bài. Đề thi rất khó, sĩ tử không thể làm được bài phải bỏ cuộc, chúa bèn truất bỏ tất cả không cho một ai được trúng cách.

Nửa sau thế kỷ XVIII, chính quyền Đàng Ngoài cho thực hiện chính sách “nộp tiền thông kinh” để được dự thi Hương; các chúa Nguyễn ở Đàng Trong cũng công khai cho bán một số chức vụ, do vậy hiện tượng “mua quan bán chức” bằng tiền đã xảy ra ở cả hai vùng, nó được xem như là một phương thức để tuyển chọn quan lại cho bộ máy chính quyền. Người có tiền có thể nộp một khoản nhất định dưới các hình thức lễ vật như Thượng lễ (lễ dâng lên chúa), Nội lễ (lễ dâng vào nội phủ), lễ trình diện... sẽ được bổ nhiệm chức quan theo thứ bậc khác nhau. Theo lệ của chúa Nguyễn quy định năm 1725, người ta chỉ có thể trả 49 quan để làm Tướng thần, 41 quan để làm Xã trưởng, bởi vậy “mọi người tranh nhau nộp tiền lĩnh bằng, có chỗ một xã có đến mười sáu hay mười bảy Tướng thần, hơn hai mươi Xã trưởng” [54; tr.189].

142

Việc chỉ nộp tiền mà được làm quan cùng với những gian lận trong thi cử tất yếu tạo ra một bộ phận quan lại không đủ tài năng, đức độ, nhũng lạm gây mất công bằng trong xã hội, biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau gồm thái độ cậy quyền cậy thế bóc lột người dân; nhận hối lộ; khảo xét, cất nhắc người không đúng sự thực; tuyển bổ

quan chức bừa bãi. Thậm chí “phản bội” lại đạo lý “trung quân”, nguyên tắc tối thượng của học thuyết Nho giáo khi có hành động phản chúa hại vua như trường hợp của Tiến sĩ Dương Trọng Khiêm (Dương Trọng Tế)128, hoặc Hương cống Bùi Tác Lâm bị triều đình khép tội phản nghịch, xử tội chết129 (Xem Bảng 13. Tình trạng nhũng lạm của một số quan chức triều Lê -Trịnh, Phụ lục - tr.45). Xảy ra hiện trạng đó, không chỉ xuất phát từ cơ sở chính trị, đạo đức xã hội mà sâu xa xuất phát từ cơ sở kinh tế như nhận định của Ngô Thì Nhậm: “thầy giảng không tinh, thưởng phạt không công và bổng lộc không đủ, duyên cớ đều là tại tình trạng thiếu thốn và sự thực thiếu thốn nó gây ra, việc ấy lại là việc khẩn cấp hơn” [224; tr.464 -465].

Tiểu kết chương 4: Đến thế kỷ XVII, XVIII tuy ý thức hệ Nho giáo đã bước vào giai đoạn suy yếu nhưng giáo dục và khoa cử Nho học thời kỳ này vẫn đạt được những kết quả quan trọng, nhất là ở vùng Đàng Ngoài khi Nhà nước lấy đỗ được rất nhiều Hương cống và Tiến sĩ (729 vị). Mặc dù so với thời Lê sơ, Mạc, số Tiến sĩ không cao nhưng triều Lê - Trịnh đã dành rất nhiều ân điển cho họ, quan trọng nhất là trọng dụng họ vào trong bộ máy chính quyền cả cấp trung ương và địa phương. Các Tiến sĩ trên con đường quan lộ, bằng tài năng họ được trao giữ nhiều chức vụ rường cột, có phẩm trật chủ yếu từ ngũ phẩm trở lên. Đối với các Hương cống, ngoài những người tiếp tục ôn tập dự thi Hội và đã đỗ Tiến sĩ hoặc đỗ Tam trường, bộ phận Hương cống còn lại được triều đình bổ dụng chức quan khi không có học vị Tiến sĩ, chủ yếu là các chức vụ có phẩm trật từ lục phẩm trở xuống. Các Hương cống là lực lượng chủ chốt nắm giữ các công việc hành chính ở cấp địa phương thuộc phủ, huyện. Tuy có đảm trách một số chức vụ trong kinh nhưng tỷ lệ không nhiều. Đặc biệt, do thể chế chính trị vua Lê, chúa Trịnh cùng tồn tại nên khá nhiều quan chức (trong đó có các Tiến sĩ, Hương cống) kiêm nhiệm cả chức vụ bên cung vua, cả bên phủ chúa. Điều đó phần nào tạo nên sự chồng chéo, cồng kềnh trong bộ máy Nhà nước đương thời.

128 Dương Trọng Khiêm (1727 -1787): người huyện Văn Lâm, Hưng Yên. Năm 1754 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, trải qua các chức quan Hàn lâm Hiệu lý, Giám thí thi Hội, Thiêm đô Ngự sử. Ông cùng Phạm Huy Cơ từng tham gia bàn kế hoạch của Trịnh Lệ nhằm mưu phản lật đổ chúa Trịnh Sâm (anh của Trịnh Lệ). Sau vì sợ, Dương Trọng Khiêm đã phát giác với chúa Trịnh, Phạm Huy Cơ bị tội chết, Trịnh Lệ bị bắt giam vào ngục. Năm 1786 quân Tây Sơn tiến ra xứ Bắc Hà, Dương Trọng Khiêm khởi binh chiếm huyện Gia Lâm chống quân Tây Sơn. Khi quân Tây Sơn rút vào Nam, ông được lệnh trở về triều đình để tăng cường lực lượng. Trên đường từ Gia Lâm về Kinh thành, ông gặp quân của Trịnh Lệ, xin hàng để chuộc lỗi nhưng sau lại phản Trịnh Lệ xin đầu quân cho Trịnh Bồng. Sau đó, Khiêm xui Án Đô vương Trịnh Bồng đưa quân vây điện và bắt vua Lê để thay bằng vua khác, nhưng âm mưu này kịp thời bị ngăn chặn. Khi quân Nguyễn Hữu Chỉnh đưa quân ra đánh, chúa cử Khiêm đi đánh lại nhưng vì sợ uy của Chỉnh nên dùng dằng mãi không đi, về sau tự mộ vài ngàn người tráng đinh, đắp lũy dựng đồn đưa hịch đi rao các vùng bên cạnh kể tội nhà vua dựa vào Chỉnh mà đuổi chúa, kêu gọi giết Chỉnh và tìm người hiền trong họ vua cháu chúa để lập. Kết cục, ông bị Nguyễn Hữu Chỉnh chém ở Trường thi võ. 129 Bùi Tác Lâm (? -?) người xã Gia Thanh, Gia Viễn, Ninh Bình, đỗ Giải nguyên thi Hương khoa thi 1780.

143

Trên con đường quan lộ, đội ngũ trí thức Nho học với tư tưởng “kinh bang tế thế” đã mạnh dạn thẳng thắn trình bày ý kiến về những điều sở đắc, phản ánh tình hình thực tế của đất nước, kiến nghị một số giải pháp sửa đổi khắc phục. Ở chừng mực nhất định

quyền hạn có trong tay, có người đã thực thi, chủ yếu là tại địa phương mình cai trị những chính sách an dân, trị loạn, góp phần ổn định đời sống của nhân dân. Đặc biệt, có một số Nho sĩ đã trở thành nhà chính trị, văn hóa, nhà giáo, nhà tư tưởng lỗi lạc như Lê Quý Đôn ở Đàng Ngoài hay Nguyễn Cư Trinh ở Đàng Trong, có những đóng góp nhất định vào sự phát triển tư tưởng, văn hóa dân tộc.

Những kết quả đạt được của khoa cử Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII đã góp phần củng cố truyền thống “hiếu học” trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc khi nhiều địa phương trong cả nước xuất hiện người đỗ đạt, hình thành nhiều làng, dòng họ, gia đình khoa bảng nổi tiếng ở cả hai miền đất nước. Chính truyền thống hiếu học của các dòng họ khoa bảng, làng khoa bảng này lại là động lực thúc đẩy việc học ngày càng phát triển sâu rộng, tiếp tục ăn sâu bám rễ ở cấp xã thôn; đồng thời là cơ sở cung cấp đội ngũ Nho sinh tham dự các kì thi do triều đình tổ chức.

144

Bên cạnh những kết quả đó, giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt thế kỷ XVII, XVIII cũng bộc lộ một số hạn chế khi vẫn chú trọng đến bằng cấp, đề cao văn chương dẫn đến sự coi thường các hoạt động sản xuất. Trong nội dung, chương trình và phương thức học tập, thể thức khoa cử vẫn theo phương thức học thuộc kinh sử, làm bài theo khuôn mẫu mà không phát huy được sự sáng tạo của thí sinh. Đồng thời do quá đề cao việc tuyển dụng quan lại qua con đường khoa cử đã góp phần làm cho các hiện tượng tiêu cực trong các kì thi Hương, thi Hội nảy sinh, có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng kì thi Đình cũng như chất lượng đào tạo đội ngũ quan lại.

KẾT LUẬN

1. Thế kỷ XVII, XVIII là hai thế kỷ đặc biệt trong lịch sử quân chủ Việt Nam với

những biến động to lớn trên nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trong

đó nổi bật là cục diện đất nước bị chia cắt hai miền vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài,

chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Kinh tế hàng hóa có sự khởi sắc, điều kiện giao lưu văn

hóa với các nước tư bản phương Tây được mở rộng tạo cơ hội để đưa đất nước tiến

gần với trình độ văn minh. Sự du nhập và ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của đạo

Thiên chúa đầu thế kỷ XVII cùng với sự tác động của nền kinh tế hàng hóa đã khiến

cho ý thức hệ Nho giáo suy yếu, một số chuẩn mực về tư tưởng, đạo đức xã hội theo

tinh thần Nho giáo bị xáo trộn, mà sự thay đổi thể hiện rõ nhất trong tư tưởng “chính

danh định phận”, mối quan hệ rường cột “Tam cương, Ngũ thường”. Chính bối cảnh

đó đã tác động không nhỏ tới đường lối trị nước của chính quyền Đại Việt trong thời

kỳ này, trong đó có vấn đề giáo dục và khoa cử nhằm đào tạo, tuyển chọn đội ngũ

quan lại tham gia vào tổ chức chính quyền các cấp.

2. Nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục đối với sự nghiệp đào tạo nhân tài,

ổn định và phát triển đất nước, chính quyền Đại Việt tiếp tục duy trì xây dựng và

phát triển một nền giáo dục đáp ứng yêu cầu củng cố vương triều. Kinh điển Nho gia

vẫn được coi là nội dung chính của giáo dục thời kỳ này nhằm đáp ứng mục tiêu tạo

ra những người quân tử thấm nhuần đạo đức Nho giáo thực hiện lý tưởng “Tu thân,

tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.

Với mục tiêu đó, giáo dục của chính quyền Lê -Trịnh trên cơ sở kế thừa thể lệ mang

tính khuôn mẫu từ thời Lê sơ đã có một thể chế rõ ràng, hoàn thiện. Hệ thống trường

học được mở rộng, nhất là trường tư của các Nho sĩ được mở ngày càng nhiều tập

trung cả Kinh đô Thăng Long, các địa phương thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng

như Bắc Trung bộ (gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh). Lần đầu tiên, tại “một miền

quê hẻo lánh, gần như tách biệt hẳn với sự nhộn nhịp của Thăng Long” [114; tr.31] đã

xuất hiện ngôi trường tư “Phúc Giang thư viện” của dòng họ Nguyễn Huy ở Hà Tĩnh,

có quy mô lớn, tổ chức được cơ sở vật chất đầy đủ phục vụ cho việc giảng dạy kế tiếp

nhau qua nhiều thế hệ. Việc trường tự biên soạn được các giáo trình để dạy học cho

học trò với nhiều cấp bậc khác nhau, Phúc Giang thư viện đã trở thành ngôi trường tư

thục điển hình ở nước ta thế kỷ XVII, chưa từng có trong lịch sử giáo dục trước đây.

Sang thế kỷ XVIII, lần đầu tiên tại một số địa phương như Vĩnh Phúc, Hải Dương, Hà

Tây (cũ) ... nơi có truyền thống hiếu học lâu đời đã cho mở trường dân lập do người

dân trong một làng, một xã tự nguyện đóng góp tiền hoặc đất đai để xây dựng, thuê

thầy giáo về dạy cho con em trong làng mà không có sự hỗ trợ của Nhà nước. Sự xuất

145

hiện của loại hình trường dân lập này cho thấy đến thế kỷ XVIII, mặc dù ý thức hệ

Nho giáo đã bước vào suy yếu nhưng giáo dục Nho học vẫn rất được coi trọng và ngày

càng phát triển sâu rộng trong đời sống của đông đảo cư dân nơi xã thôn.

Ở Đàng Trong, cùng với quá trình mở rộng phạm vi lãnh thổ về phía Nam đã đặt

ra cho chính quyền chúa Nguyễn phải quan tâm đến tổ chức giáo dục. Mục đích

nhằm đào tạo và tuyển chọn được đội ngũ trí thức văn học tham gia vào bộ máy

chính quyền bên cạnh đội ngũ võ quan, nhất là cùng tham gia quản lý những vùng

đất mới. Bước đầu các chúa Nguyễn đã chú ý đến việc giáo dục cho con cháu trong

hoàng tộc, quan lại tại thủ phủ thông qua việc xây dựng ngôi trường Học Cung có

chức năng nhiệm vụ gần như trường Quốc Tử Giám. Do điều kiện chính trị, xã hội

của vùng đất Đàng Trong còn nhiều khó khăn, các chúa Nguyễn chưa có điều kiện

chăm lo tới việc học ở cấp địa phương, do vậy hệ thống trường công tại các dinh,

phủ chưa được xây dựng. Việc học chủ yếu phát triển trong các tầng lớp nhân dân ở

cấp làng xã. Nhiều gia đình có điều kiện về kinh tế, hoặc có truyền thống giáo dục đã

mời thầy giáo về nhà dạy học hoặc cho con cháu theo học các lớp thầy đồ, lớp học

của các Nho sĩ. Có khá nhiều lớp học tư của các Nho sĩ có trình độ hoặc đỗ đạt qua

khoa cử đã được mở, mà phạm vi các trường học này phân bố ở các cấp hành chính

khác nhau trong từng địa phương. Tuy số lượng trường tư của các Nho sĩ chưa nhiều

như Đàng Ngoài, nhưng cùng với việc học tập nơi làng xã đã góp phần đáp ứng được

nhu cầu học tập của bộ phận cư dân trong xã hội, nhất là tầng lớp bình dân. Chính

lớp học của các Nho sĩ cùng lớp học các thầy đồ cấp làng xã đã có đóng góp cung

cấp các Nho sinh tham dự vào các khoa thi do chúa Nguyễn tổ chức nhằm tuyển

chọn người văn học tham gia vào bộ máy chính quyền.

3. Mặc dù cả chính quyền ở Đàng Ngoài và Đàng Trong rất chú ý mở các khoa thi

để tuyển chọn nhân tài, nhưng do bối cảnh chính trị, xã hội của mỗi vùng khác nhau

nên về thể lệ khoa cử, nội dung thi cử của mỗi vùng mang đặc điểm riêng. Ở Đàng

Ngoài nơi có truyền thống khoa cử Nho học hàng mấy trăm năm, thể chế khoa cử vốn

đã trở thành điển chế từ thời Lê sơ, tiếp tục được tiếp nối, duy trì dưới triều Lê -Trịnh,

bên cạnh việc Nhà nước cũng có một vài sự điều chỉnh trong thể lệ các khoa thi để phù

hợp với điều kiện xã hội mới. Các kì thi Hương, thi Hội, thi Đình được triều đình tổ

chức khá đều đặn, thường xuyên theo định lệ năm trước thi Hương, năm sau thi Hội,

thi Đình với số lượng thí sinh dự thi trong mỗi khoa đều rất đông. Trong mỗi kì thi, thể

lệ quy định về đối tượng, thời gian, địa điểm tổ chức, quan trường, trường quy, cách

chấm thi, kỷ luật trường thi được triều đình Lê -Trịnh quy định cụ thể, chặt chẽ. Thể lệ

thi cử nghiêm ngặt là một trong những lý do giải thích tại sao trong các khoa thi Hội

thời Lê -Trịnh, tuy sĩ tử dự thi rất đông nhưng tỷ lệ lấy đỗ lại không nhiều, và những

146

tiêu cực trong thi Hội cũng xảy ra ít hơn so với kì thi Hương.

Bên cạnh đó, chính quyền Lê -Trịnh còn kế thừa và mở thêm một số khoa thi khác

như Sĩ vọng, Hoành từ, Đông các, Chế khoa... nhằm không bỏ sót nhân tài. Do vậy,

mặc dù ý thức hệ Nho giáo ngày càng bộc lộ những bất cập, nhất là từ nửa sau thế kỷ

XVIII đã tác động không nhỏ đến chất lượng giáo dục, khoa cử về thể văn, cách thức

ra đề, sự gian dối của thí sinh và học quan trong trường thi..., thì chúng ta cũng không

thể phủ nhận đóng góp của khoa cử trong việc cung cấp rất nhiều Hương cống và Tiến

sĩ cho triều đình Lê -Trịnh. Nền giáo dục và khoa cử thời kỳ này đã đáp ứng được nhu

cầu về việc tuyển chọn đội ngũ quan lại xuất thân theo lối cử nghiệp vừa đông đảo về

số lượng, vừa có trí tuệ và phẩm hạnh, đủ năng lực tham gia vào việc củng cố, phát

triển đất nước ở cả hai cấp trung ương và địa phương.

Ở Đàng Trong, trong giai đoạn đầu khi mới vào trấn thủ vùng Thuận Quảng, các

chúa Nguyễn chủ yếu tập trung khai phá vùng đất mới còn nhiều khó khăn để ổn định

cuộc sống mà chưa có điều kiện gây dựng giáo dục và khoa cử. Từ năm 1627 cho đến

năm 1672, chúa Nguyễn lại tập trung vào việc củng cố lực lượng quân sự để đối phó

với họ Trịnh ở Đàng Ngoài, từng bước mở mang bờ cõi phía Nam nên việc tổ chức thi

cử để tuyển chọn quan văn vào bộ máy chính quyền chưa được chú ý. Vào năm 1632,

chúa Nguyễn Phúc Nguyên bắt đầu thi hành phép duyệt tuyển, đến năm 1646 cho quy

định một cách cụ thể về thi cử. Từ đó, các kì thi Xuân thiên quận thí, Thu vi Hội thí

(gồm hai cấp Chính đồ và Hoa văn), Thám phỏng, Văn chức, Tam ty được các chúa

Nguyễn quan tâm. Trong đó, Thám phỏng, Tam ty là những khoa thi rất riêng chỉ có ở

Đàng Trong, còn kì thi Thu vi Hội thí có tính chất gần như thi Hương ở Đàng Ngoài

nhưng thể lệ về phép thi của kì thi này đơn giản (chỉ có 3 kỳ thi). Gần 100 năm sau,

vào năm 1740 chúa Phúc Khoát quy định thí sinh làm thêm bài Kinh nghĩa, phép thi

Hương đủ 4 kỳ như kì thi Hương của triều Lê -Trịnh. Do Đàng Trong là vùng đất mới,

còn rất nhiều khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội, yếu tố Nho học ở đây chưa phát

triển đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhu cầu tổ chức khoa cử của chính quyền chúa

Nguyễn. Như đã biết, cùng với việc đẩy mạnh quá trình mở đất về phía Nam, mở được

đất đến đâu, chúa Nguyễn đều cho xây dựng, thiết lập chính quyền ở vùng đất vừa

được tạo mở để củng cố vương quyền. Chính điều đó đã đặt ra cho các chúa Nguyễn

nhu cầu tuyển chọn người có văn học tham gia vào bộ máy chính quyền ở những vùng

đất mới này. Tuy nhiên, khác với Đàng Ngoài nơi có truyền thống giáo dục, khoa cử

Nho học hơn 700 năm phát triển, trải qua nhiều triều đại khác nhau (Lý, Trần, Hồ, Lê

sơ, Mạc), thì giáo dục Nho học ở Đàng Trong chưa phát triển sâu rộng. Thực tế, yếu tố

Nho học đã được định hình ở Đàng Trong nhưng chủ yếu mới ảnh hưởng đến một bộ

phận Nho sĩ, phần lớn họ có nguồn gốc từ các sĩ nhân ở Đàng Ngoài theo Nguyễn

147

Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa từ nửa sau thế kỷ XVI, hoặc chỉ những gia đình có

điều kiện về kinh tế cho con em học tập để tham gia thi cử, mà thực sự chưa ăn sâu

bám rễ trong đời sống của mọi tầng lớp cư dân trong xã hội. Bởi vậy, tuy chúa Nguyễn

rất muốn tổ chức khoa cử để tuyển chọn người tài nhưng giáo dục Nho học ở Đàng

Trong chưa thể đáp ứng được nhu cầu này, đây là lý do rất quan trọng giải thích tại sao

các chúa Nguyễn chỉ mới mở được kì thi cao nhất là kì thi Hương để lấy Hương cống,

mà chưa tổ chức được bất cứ khoa thi Tiến sĩ nào. Mặt khác, các chúa Nguyễn tuy

thiết lập và củng cố vương triều riêng ở phía Nam nhằm đối trọng với triều Lê -Trịnh ở

phía Bắc, nhưng thực tế chính quyền của chúa Nguyễn vẫn chỉ mang tính chất là một

chính quyền địa phương thuộc triều đình Lê khi vẫn lấy quốc hiệu nhà Lê, không đặt

niên hiệu riêng. Mà thi Hội để lấy học vị Tiến sĩ phải do Nhà nước Trung ương đứng

ra tổ chức, vì thế trong chế độ khoa cử thời kỳ này, các chúa Nguyễn chưa thể mở

được khoa thi Tiến sĩ. Đây chính là nét khác biệt căn bản giữa chế độ khoa cử của

Đàng Trong so với Đàng Ngoài.

Trong mục đích, nội dung thi cử của vùng Đàng Trong thời chúa Nguyễn trị vì cũng

có điểm khác biệt so với Đàng Ngoài, khi thi cử xuất phát từ chính nhu cầu thực tế của

chính quyền tuyển người để làm việc, giải quyết những vấn đề thực tiễn mà không chú

trọng đến việc giải thích kinh điển. Việc các chúa Nguyễn mở được các khoa thi để

tuyển chọn quan lại đã đánh dấu một bước tiến mới trong cách thức tổ chức, xây dựng

và củng cố vương quyền, nhất là từ thế kỷ XVIII. Bởi thông qua thi cử, các chúa

Nguyễn không chỉ đào tạo cho mình một tầng lớp quan lại có năng lực, trung thành và

đáng tin cậy, mà quan trọng hơn qua phương thức tuyển chọn đó, tính chất công bằng xã

hội được chúa Nguyễn thực thi khi những sĩ tử xuất thân từ tầng lớp bình dân cũng được

tham gia vào tổ chức bộ máy chính quyền thông qua thi cử. Đây là cơ sở nhằm xóa bỏ

dần một thực trạng là chúa Nguyễn chỉ lấy những người thân tín trong thuộc tộc để giữ

những chức vụ cao trong triều đình. Đó có thể coi là tác dụng xã hội rất lớn của sự

nghiệp khoa cử ở Đàng Trong.

4. Chính quyền Đại Việt đã thực hiện nhiều chế độ đãi ngộ khác nhau để khuyến

khích giáo dục, khoa cử Nho học phát triển. Với chính sách đề cao, trọng dụng nhân

tài theo lối cử nghiệp, coi giáo dục, khoa cử là một trong những phương thức rất quan

trọng để tuyển chọn nhân tài, triều Lê -Trịnh ở Đàng Ngoài đã dành nhiều ân điển

nhằm động viên cả về vật chất và tinh thần cho thầy giáo, học sinh, nhất là người đỗ

đạt gồm: miễn lao dịch, bổ dụng chức quan, cấp lương bổng, ban thưởng biển ngạch

khi về trí sĩ, cấp tiền tiền tuất khi qua đời, thực hiện chế độ nhiêu ấm cho con cháu...

Thành quả quan trọng nhất của giáo dục, khoa cử Đại Việt trong hai thế kỷ XVII,

XVIII là đã tuyển chọn được đội ngũ trí thức đông đảo, có trình độ được Nhà nước

148

trọng dụng tham gia vào bộ máy chính quyền để “làm chính sự”, góp phần củng cố, ổn

định và phát triển vương triều. Hầu hết những người đỗ đạt đều được Nhà nước bổ

dụng nắm giữ các chức vụ khác nhau. Nhiều người trong số họ đã phát huy được sở

trường và làm tròn bổn phận của bậc tôi trung theo học thuyết Nho giáo. Nhiều vị

quan đồng thời là nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, nhà thơ, nhà văn, nhà sử học, thầy giáo

nổi tiếng mà tên tuổi vẫn còn được ghi trong sử sách. Đây chính là nền tảng để truyền

thống hiếu học của dân tộc được kế thừa và tiếp tục phát huy. Biểu hiện cụ thể nhất

cho truyền thống đó trong thời kỳ này đã hình thành nên nhiều dòng họ khoa bảng,

làng khoa bảng ở cả hai miền đất nước với nhiều thế hệ cha con, ông cháu, chú cháu

đỗ đạt, giữ những chức vụ cao và có những đóng góp to lớn cho sự bền vững của

vương triều, sự phát triển của nền văn hóa dân tộc như dòng họ Vũ làng Mộ Trạch

(Hải Dương), Ngô Thì làng Tả Thanh Oai (Hà Nội), dòng họ Phạm ở làng Đông Ngạc

(Hà Nội), họ Nguyễn Tiên Điền (Hà Tĩnh),...; dòng họ Nguyễn Hữu ở Quảng Bình,

Nguyễn Khoa (Thừa Thiên Huế), dòng họ Vũ (Vũ Danh Thế, Vũ Xuân Nùng, Vũ

Xuân Suyền), dòng họ Nguyễn Đăng gồm Nguyễn Đăng Trị, Nguyễn Đăng Đệ,

Nguyễn Đăng Thịnh, Nguyễn Cư Trinh (Thừa Thiên Huế).

5.Trong nội dung, chương trình học tập, thi cử trong hai thế kỷ XVII, XVIII nhất

là ở Đàng Ngoài rất chú trọng đến kinh điển Nho gia nhằm tạo ra những người quân

tử theo đúng chuẩn mực của quan điểm Nho giáo. Tứ thư, Ngũ kinh là nguồn tài liệu

giảng tập chính trong hệ thống trường học. Phương pháp học tập chủ yếu theo lối từ

chương, khoa cử. Bên cạnh những ưu điểm, thì giáo dục theo lối kinh viện, giáo điều

tin tưởng một cách tuyệt đối vào những lời dạy của bậc Thánh hiền đã tạo ra một bộ

phận quan lại thiếu óc độc lập suy nghĩ, thiếu sự phê phán, thiếu kiến thức khoa học

áp dụng thực tế. Việc tập trung giáo dục đạo đức mà ít quan tâm đến giáo dục khoa

học, kỹ thuật dẫn đến không tạo ra được những con người hoàn thiện, không có khả

năng để vươn tới khi đất nước đứng trước những bước ngoặt đòi hòi phải phát triển

lên một thời đại mới. Đặc biệt, chính sách trọng hiền sĩ, đề cao phương thức tuyển

chọn nhân tài theo lối cử nghiệp đã gây nên tư tưởng trọng bằng cấp, tiếp tục củng cố

tâm lý chung trong xã hội chỉ những người có học, đỗ đạt và làm quan mới là những

người cao quý, được trọng vọng. Hệ quả của tư tưởng trọng bằng cấp này dẫn đến sự

nhận thức phiến diện về một số ngành nghề như buôn bán, hát xướng, sự phân biệt

các giai tầng trong xã hội “sĩ, nông, công, thương” khi Nhà nước vẫn nghiêm cấm

con nhà phường chèo, hát xướng không được dự thi Hương. Vì thái độ trọng bằng

cấp cho nên hình thành ở bản thân mỗi sĩ tử, mỗi gia đình, dòng họ một thái độ, ý

thức khổ công suốt đời rèn luyện sách vở để đạt được danh vọng là đề tên trên bảng

vàng. Thực tế trong hai thế kỷ XVII, XVIII (ở Đàng Ngoài) có một bộ phận không

149

nhỏ Nho sĩ đỗ Tiến sĩ khi tuổi đời đã khá cao, thậm chí lên hàng lão: 5% là tỷ lệ của

những người đỗ Tiến sĩ từ 51-60 tuổi, 1,7% là tỷ lệ của những người đỗ Tiến sĩ từ 61

tuổi trở lên đã phản ánh rõ thực trạng này.

Mặt khác, sự rộng rãi trong chế độ đãi ngộ của Nhà nước dành cho người đỗ đạt

qua khoa cử đã tạo nên tính đặc quyền, đặc lợi dẫn đến hệ lụy người người tìm cách

cầu cạnh để được đặt chân vào chốn quan trường. Hiện tượng này không chỉ xảy ra ở

Đàng Ngoài mà cả Đàng Trong nhất là vào những thập niên cuối thế kỷ XVIII, hệ

quả đã hình thành nên đội ngũ quan lại nhũng lạm, cậy quyền, “biến chất” ra sức bóc

lột người dân để lại tiếp tục thăng tiến sự nghiệp quan lộ của mình. Đấy là biểu hiện

mặt trái, là hạn chế của giáo dục và khoa cử Nho học Đại Việt ở nửa sau thế kỷ

XVIII, mà chính thể chế đó chưa vượt qua được chính mình để thay đổi, phát triển

vương quốc cường thịnh.

6. Lịch sử của quốc gia Đại Việt trong hai thế kỷ XVII, XVIII đã cách xa hiện tại

hơn 300 trăm năm, nhưng giá trị về vai trò của giáo dục, khoa cử Nho học của giai

đoạn này trong việc góp phần chuẩn hóa đội ngũ quan lại về trình độ tham gia vào bộ

máy Nhà nước đương thời vẫn có ý nghĩa nhất định trong bối cảnh hiện nay. Nhất là

trong chính sách giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực có trình độ đáp ứng được nhu cầu

phát triển của đất nước. Bởi muốn đất nước ổn định, phát triển bền vững, cần phải đặt

lợi ích của dân tộc lên trên hết. Người cán bộ trong bộ mày Nhà nước cần có cả tài, có

cả đức, sống có lý tưởng. Muốn được như vậy, Nhà nước cần ban hành và thực thi

150

những chính sách trọng dụng nhân tài cũng như chế độ đãi ngộ cán bộ phù hợp.

DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN LUẬN ÁN

A. Tạp chí:

1. Trịnh Thị Hà. 2017. “Khoa cử dưới thời chúa Nguyễn (thế kỷ XVII –XVIII)”, Tạp

chí Khoa học Xã hội, Viện KHXH Vùng Nam Bộ, số 5, tr.38 -51

2. Trịnh Thị Hà. 2017. “Thi Hương thời Lê - Trịnh”, Tạp chí Khoa học Xã hội

Việt Nam, Số 9, tr.92 -100

3. Trịnh Thị Hà. 2018. “Vài nét về Giám sinh trường Quốc Tử Giám thời quân

chủ (Thế kỷ XI -Thế kỷ XIX)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3, tr.32-48.

B. Bài viết/ sách Hội thảo:

1.Trịnh Thị Hà. 2017. “Tìm hiểu quan điểm của Nguyễn Cư Trinh về vấn đề học

chính”, trong Đỗ Bang (cb), Nguyễn Cư Trinh (1716 -1767) quê hương, thời đại và sự

nghiệp, Nxb Tri Thức, tr.247 -268

2. Trịnh Thị Hà. 2017. “Chính sách của chính quyền Lê -Trịnh đối với trường Quốc

Tử Giám (thế kỷ XVII - XVIII)”, trong Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn,

Khoa Việt Nam học, Nghiên cứu và giảng dạy Việt Nam học, Nxb Đại học Quốc gia

151

TP.Hồ Chí Minh, tr.268 -278

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I.Tài liệu Tiếng Việt:

1. Alexandre de Rhodes. 1994. Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài (Histoire du

royaume de Tunquin), Hồng Nhuệ dịch, Ủy ban Đoàn kết Công giáo, Thành phố Hồ

Chí Minh.

2. Alexandre de Rhodes. 1994. Hành trình và truyền giáo (Divers voyages et

missions), Hồng Nhuệ dịch, Ủy ban Đoàn kết Công giáo, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Dương Văn An.1961. Ô châu cận lục, Nxb Văn hóa Á châu, Sài Gòn.

4. Phan Thuận An. 2010. “Văn Miếu - Quốc Tử Giám Huế”, Nghiên cứu Huế, tập 7,

Nxb Thuận Hóa, Trung tâm Nghiên cứu Huế.

5. Phạm Đức Anh.2015. Mô hình tổ chức Nhà nước ở Việt Nam thế kỷ X –XIX, Nxb

Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

6. Thế Anh.1997. “Sách học chữ Hán cho học sinh nhỏ tuổi ngày xưa”, Tạp chí Hán

Nôm, số 1.

7. Trần Thị Kim Anh. 2009. “Sách văn và Kinh nghĩa trong khoa thi trường Nho học

ở nước ta”, Tạp chí Hán Nôm, số 2.

8. Phạm Văn Ánh. 2012. “Thể loại Từ tại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ

XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 8 -9.

9. Ban Hán Nôm.1978. Thơ văn Phan Huy Ích, Tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội

10. Ban Hán Nôm thuộc UBKHXH Việt Nam (sưu tầm, dịch và giới thiệu).1978.

Tuyển tập văn bia Hà Nội, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

11. Đỗ Bang. 2016. “Phú Xuân -Huế thế kỷ XVII –XVIII cái nôi của đất học và tài

năng”, trong Thừa Thiên Huế -đất học và tài năng, Nxb Thuận Hóa, Huế.

12. Đặng Xuân Bảng. 2000. Việt sử cương mục tiết yếu (bản dịch của Hoàng Văn Lâu),

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

13. Phan Trọng Báu. 1994. Giáo dục Việt Nam thời cận đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà

Nội

14. Hoa Bằng. 1942.Vài thể văn khoa cử xưa”, Tạp chí Tri Tân, số 44

15. J.Barrow. 2008. Một chuyến du hành đến xứ Nam Hà (1792 -1793) (bản dịch của

Nguyễn Thừa Hỷ), Nxb Thế giới.

16. Phan Văn Các (Cb). 2010. Di sản văn chương Văn Miếu -Quốc Tử Giám, Nxb Hà

Nội

17. Dương Thị Cẩm.1999. Các nhà khoa bảng Hưng Yên (1075-1919), Sở Văn hóa

Thông tin Hưng Yên.

18. Bùi Hạnh Cẩn, Minh Nghĩa, Việt Anh. 2002. Trạng nguyên, Tiến sĩ, Hương cống

152

Việt Nam. Nxb Văn hóa Thông tin.

19. Chrles B. Maybon. 2006. Những người châu Âu ở nước An Nam (bản dịch của

Nguyễn Thừa Hỷ), Nxb Thế giới.

20. Nguyễn Thị Phương Chi, Nguyễn Kỳ Nam. 2013. “Văn Miếu, Văn từ, Văn chỉ trong

lịch sử Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12.

21. Nguyễn Khoa Chiêm.1990. Việt Nam khai quốc chí truyện, Nxb Đại học và Trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội.

22. Nguyễn Duy Chính (Tuyển dịch). 2016. Đàng Trong thời chúa Nguyễn, Nxb Hội

nhà văn.

23. Chirstophoro Borri.1998. Xứ Đàng Trong năm 1621 (bản dịch của Nguyễn Hồng

Nhuệ), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

24. Phan Huy Chú. 2007. Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

25. Phan Huy Chú. 2007. Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

26. Nguyễn Tiến Cường. 1998. Sự phát triển giáo dục và chế độ thi cử ở Việt Nam,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

27. Nguyễn Tiến Cường. 1999. “Trường công lập ở các địa phương từ cuối thế kỷ XIII

đến đầu thế kỷ XV”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 3.

28. Nguyễn Tiến Cường. 1999. “Trường công lập ở các địa phương từ đầu thế kỷ XV

đến đầu thế kỷ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 6.

29. Nguyễn Tuấn Cường. 2009. “Diên cách Chu Tử học tại Việt Nam: từ Tứ thư

chương cú tập chú đến Tứ thư ước giải” trong Hội thảo khoa học: Kinh điển Nho gia

tại Việt Nam, Đại học KHXH&VNV, Đại học Quốc gia Hà Nội

30. Nguyễn Tuấn Cường. 2017. “Chánh sứ Nguyễn Huy Oánh với trường học Nhạc

Lộc ở Trung Quốc và trường học Phúc Giang ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch

sử, số 8.

31. Nguyễn Tuấn Cường, Nguyễn Thị Tú Mai. 2017. “Phiên dịch và giáo dục Hán văn

tại Việt Nam: mục đích phiên dịch kinh điển Nho gia qua góc nhìn trong cuộc của tác

gia trung đại”, Tạp chí Hán Nôm, số 5.

32. Danh Nhân Bình Trị Thiên.1986. Tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế

33. William Dampier. 2007. Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688 (bản dịch

của Hoàng Anh Tuấn), Nxb Thế giới (Tái bản có sửa chữa, bổ sung)

34. Vũ Thế Dinh. 1961. “Hà Tiên trấn Hiệp trấn Mạc thị gia phả”, bản dịch của Tân

Việt Điểu, Văn hóa Nguyệt san, Sài Gòn, số 1.

35. Phan Đại Doãn. 2003. “Đặc điểm của Nho học Việt Nam”, Tạp chí Xưa và Nay, số

152.

36. Phan Du.1974. Quảng Nam qua các thời đại, Cổ học Tùng thư, Đà Nẵng

153

37. Cao Xuân Dục. 1993. Quốc triều Hương khoa lục, Nxb. Tp Hồ Chí Minh.

38. Đại Việt sử ký tục biên (1676 -1789).1991. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

39. Phạm Quang Đại. Truyền thống văn hóa họ Phạm Đông Ngạc, bản đánh máy, tài

liệu của ông Phạm Quang Đại, xóm 3 làng Đông Ngạc (Tháng 8 -2018).

40. Lê Đản (nguyên tác). 2012. “Nam Hà tiệp lục” trong Tạp chí Nghiên cứu và phát

triển, số chuyên đề do Trần Đại Vinh dịch và khảo cứu, Số 3-4 (92-93)

41. Quang Đạm.1994. Nho giáo xưa và Nay, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

42. Trương Minh Đạt. 2002. “Phân giải điều ngộ nhận đáng tiếc về ngày sinh của Mạc

Thiên Tích”, Tạp chí Hán Nôm, số 1

43. Nguyễn Đình Đầu. 2016. “Giáo dục ở Sài Gòn, Gia Định thời chúa Nguyễn, triều

Nguyễn và Pháp thuộc”, Tạp ghi Việt sử địa, Nxb Trẻ.

44. Vũ Phương Đề. 2001. Công dư tiệp ký, Nxb Văn học, Hà Nội.

45. Nguyễn Hoàng Điệp (Cb). 2010. Các vị Tư nghiệp & Tế tửu Văn Miếu Quốc Tử

Giám - Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông Tin, Hà Nội.

46. Đỗ Văn Điện. 2006. Hội Am làng khoa bảng, Nxb Hải Phòng.

47. Bùi Xuân Đính. 2003. “Tinh thần tôn sư trọng đạo qua 1 tấm bia cổ ở 1 làng khoa

bảng”, Thông báo Hán Nôm học.

48. Bùi Xuân Đính. 2010. Giáo dục và khoa cử Nho học Thăng Long Hà Nội, Nxb Hà

Nội.

49. Bùi Xuân Đính. 2010. Tiến sĩ Nho học Thăng Long - Hà Nội, Nxb Thanh Niên.

50. Bùi Xuân Đính. 2011. Nguyệt Áng làng khoa bảng, Nxb Hà Nội.

51. Thái Kim Đỉnh. 2004. Các nhà khoa bảng Hà Tĩnh (từ đời Trần đến đời Nguyễn),

Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật, Hà Tĩnh.

52. Lê Quý Đôn. 2006. Vân đài loại ngữ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

53. Lê Quý Đôn. 2007. Kiến văn tiểu lục (bản dịch), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

54. Lê Quý Đôn. 2007. Phủ biên tạp lục, Nxb Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

55. Trịnh Hoài Đức.1998. Gia Định thành thông chí, Nxb Giáo dục 56. Geerts. 2010. “Những thương nhân Hà Lan đầu tiên đến Đàng Ngoài và Kẻ Chợ năm 1637” (Journal de voyage du yacht hollandais Grol du Japon au Tonkin 1637), Tuyển tập tư liệu phương Tây, Nxb Hà Nội. 57. Gia phả họ Ngô Thì (bản chữ Hán, bản dịch), lưu tại dòng họ Ngô Thì tại xã Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội (tháng 8 -2017) 58. Nguyễn Sĩ Giác (dịch).1961. Lê triều chiếu lịnh thiện chính, Sài Gòn, Luật khoa

đại học.

59. Đoàn Lê Giang. 2013. “Thuyết Tri ngôn dưỡng khí, Dương minh học và tư tưởng

giáo dục của Võ Trường Toản”, Tạp chí Hán Nôm số 5 (120).

60. Lê Văn Giạng. 2003. Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam, Nxb

154

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

61. Trần Văn Giáp.1941. Lược khảo về khoa cử Việt Nam: Từ khởi thủy đến khoa Mậu

Ngọ, 1918, - H. Impr.du Nord

62. Trần Văn Giáp. 1970. Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Tập 1, Thư viện Quốc gia xuất

bản, Hà Nội.

63. G.Rivère. 1997. “Một dòng dõi trung thần: Họ Nguyễn Khoa (Une ligneé de

loyaux serviteurs: les Nguyễn Khoa)”, Những người bạn cố đô Huế, Tập II, 1915.

64. Nguyễn Thanh Hà. 2002. “Bùi gia huấn hài - Một cuốn sách giáo khoa mang nhiều

nét riêng của tri thức Việt Nam”, Thông báo Hán Nôm học.

65. Hà Tiên Hiệp trấn Mạc thị Gia phả.2006. (Nguyễn Văn Nguyên dịch và chú thích),

Nxb Thế giới, Hà Nội.

66. Phan Thanh Hải. 2008. Các thủ phủ thời chúa Nguyễn (1558 -1775) trên đất

Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, LATS Lịch sử: 62.22.54.01, Hà Nội.

67. Lê Văn Hảo. 1987. “Chiêu Anh Các, một hiện tượng đáng chú ý trong lịch sử văn

hóa Việt Nam ở thế kỷ XVIII”, trong 250 năm Tao đàn Chiêu Anh các (1736 -1989),

Sở văn hóa Thông tin Kiên Giang.

68. Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền. 1997. Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh 1650 -1700

(với công cuộc khai sáng miền Nam nước Việt cuối thế kỷ 17), Nxb Văn học

69. Lê Thị Thu Hiền. 2006. Về các kỳ thi Đình thế kỷ XVII - XVIII, Luận văn Thạc sĩ

Khoa Lịch sử, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.

70. Chu Thị Hiền. 2002. “Gia phả làng Đông Ngạc”, trong Thông báo Hán Nôm.

71. Quách Thu Hiền. 2018. “Tự học Việt Nam cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII: trường

hợp Vũ Thạnh và học đường Hào Nam”, trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Thám hoa Vũ

Thạnh con người và sự nghiệp” do Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, Trung tâm Hoạt động

Văn hóa Khoa học, Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, tháng 12.

72. Trần Công Hiến, Trần Huy Phác. 2009. Hải Dương phong vật chí, (Nguyễn Thị

Lâm giới thiệu và dịch), Nxb Lao động Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.

73. Tăng Bá Hoành (Cb).1999. Tiến sĩ Nho học Hải Dương (1075 -1919), Hội đồng

chỉ đạo biên soạn địa chí tỉnh Hải Dương.

74. Trịnh Hoành. 2014. Tìm hiểu về giáo dục và khoa cử thời xưa, Nxb Hồng Đức,

công ty sách Thời đại.

75. Phạm Đình Hổ. 1989. Vũ trung tùy bút, Nxb Trẻ.

76. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án. 1962. Tang thương ngẫu lục, dịch giả Đạm Nguyên,

Sài Gòn, Đại Nam tái bản ở Mỹ.

77. Hồ Phi Hội (Khởi biên), Hồ Trọng Chuyên (Tục biên). 2004. Quỳnh Đôi cổ kim sự

155

tích Hương biên, Nxb Lao động, Hà Nội.

78. Hội Khoa học Lịch sử và Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. 2016. Thừa

Thiên Huế -đất học và tài năng, Nxb Thuận Hóa, Huế.

79. Trương Sĩ Hùng (Cb). 2009. Hương ước Hà Nội, Tập 2, Nxb Từ điển Bách Khoa

và Viện Văn hoá.

80. Vũ Hùng. 2004. “Thực học nhân đọc “An Nam cung dịch kỷ sự”, Tạp chí Xưa

Nay, số 218, tháng 8.

81. Cao Xuân Huy. 1995. Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu,

Nxb Văn học.

82. Nguyễn Thị Hường. 2011. “Sự hình thành và phát triển của sách dạy lịch sử Việt

Nam viết bằng chữ Hán và chữ Nôm”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 11

83. Nguyễn Thừa Hỷ. 2010. Kinh tế - Xã hội đô thị Thăng Long -Hà Nội thế kỷ XVII,

XVIII, XIX, Nxb Hà Nội.

84. J.B.Roux. 1997. “Những nhà truyền giáo Pháp đầu tiên dưới triều Hiền Vương”,

Những người bạn cố đô Huế, tập II, năm 1915.

85. Jean Baptistc Tavernier. 2007. Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài

(Lê Tư Lành dịch, hiệu đính Nguyễn Thừa Hỷ), Nxb Thế giới.

86. Nguyễn Hải Kế. 2010. Giáo dục Thăng Long - Hà Nội - Quá trình, kinh nghiệm

lịch sử và định hướng phát triển, Nxb Hà Nội.

87. Nguyễn Quang Khải (Dịch và chú giải). 2000. Văn bia Văn Miếu Bắc Ninh, Nxb

Văn hóa dân tộc.

88. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân. 1979. Lịch sử văn học Việt Nam: văn học Việt Nam từ

thế kỷ X đến đầu thế kỷ XVIII, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

89. Vũ Ngọc Khánh. 1985. Tìm hiểu nền giáo dục Việt Nam trước năm 1945, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

90. Hà Mạnh Khoa. 2009. Làng nghề thủ công và làng khoa bảng thời phong kiến ở

đồng bằng sông Mã, Nxb Từ điển Bách khoa.

91. Phạm Văn Khoái. 2010. Khoa thi Tiến sĩ cuối cùng trong lịch sử khoa cử Việt

Nam: Kỷ Mùi, Khải Định năm thứ tư, 1919, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

92. Phan Khoang. 1969. Việt sử xứ Đàng Trong 1558 -1777 (cuộc Nam tiến của dân

tộc Việt Nam), Nhà sách Khai Trí, 62 Đại lộ Lê Lợi Sài Gòn.

93. Đỗ Thị Thùy Lan. 2011. “Hội thí trường trong Hoàng thành Thăng Long thời Lê

(thế kỷ XV -XVIII)”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9.

94. Ngô Cao Lãng. 1995. Lịch triều tạp kỷ (bản dịch), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

156

95. Đinh Xuân Lâm. 2002. Làng khoa bảng Tả Thanh Oai, Nxb Chính trị Quốc gia.

96. L. Cadière.1997. “Thay đổi trang phục dưới thời Võ Vương hay là sự khủng hoảng

về tín ngưỡng vào thế kỷ XVIII”, Những người bạn cố đô Huế, tập II, năm 1915, Nxb

Thuận Hóa, Huế, tập 5.

97. L.Cadière. 1997. “Vài gương mặt của triều Võ Vương”, Những người bạn cố đô

Huế, tập V, năm 1918, Nxb Thuận Hóa, Huế

98. Phan Huy Lê (Cb). 2010. Địa bạ cổ Hà Nội: huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Tập 2,

Nxb Hà Nội.

99. Phan Huy Lê (Cb). 2016. Vùng đất Nam Bộ quá trình hình thành và phát triển, Tập

2, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội

100. Bùi Dương Lịch. 1987. Lê quý dật sử (Phạm Văn Thắm dịch, chú thích, giới

thiệu), Nxb Khoa học Xã hội.

101. Bùi Dương Lịch. 2004. Nghệ An ký, quyển 1và 2 (Nguyễn Thị Thảo dịch, chú

thích, Bạch Hào hiệu đính), Nxb Khoa học Xã hội.

102. Li Tana.1999. Xứ Đàng Trong lịch sử kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18

(bản dịch của Nguyễn Nghị), Nxb Trẻ.

103. Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê.1993. Đại Việt sử ký toàn thư (Bản khắc in

năm Chính Hòa 18 -1697), Tập 2, Nxb Khoa học Xã hội

104. Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê.1993. Đại Việt sử ký toàn thư (Bản khắc in

năm Chính Hòa 18 -1697), Tập 3, Nxb Khoa học Xã hội.

105. Phan Ngọc Liên. 2006. Giáo dục và thi cử Việt Nam (trước Cách mạng tháng

Tám 1945), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.

106. Tạ Ngọc Liễn (Cb). 2013. Lịch sử Việt Nam, Tập 3: Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

107. Nguyễn Thế Long. 1995. Nho học ở Việt Nam - Giáo dục và thi cử, Nxb Giáo

dục, Hà Nội

108. Lê Nguyễn Lưu. 1996. “Bước đi ban đầu và thành tựu của nền giáo dục Thuận

Hóa”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: 690 năm Thuận Hóa -Thừa Thiên - Huế, Huế

109. Nguyễn Công Lý. 2011. Giáo dục - Khoa cử và quan chế ở Việt Nam thời phong

kiến và thời Pháp thuộc, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

110. Đậu Xuân Mai, Ninh Viết Giao, Nguyễn Đình Chú. 2012. Kỷ yếu hội thảo khoa

học danh nhân Ngô Trí Hoà và dòng họ Ngô Công Thần Lý Trai, Nxb Nghệ An.

111. Trần Thị Mai. 2017. “Giáo dục Nho học ở Saì Gòn - Gia Định thế kỷ XVIII”, Hội

thảo Trung Bộ và Nam Bộ thời Chúa Nguyễn, Hội khoa học Thừa Thiên Huế, Huế.

112. Vũ Duy Mền. 2011. “Vài nét về giáo dục Nho học từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ

157

XX ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5 (421).

113. Vũ Miên, Nguyễn Hoàn, Phan Trọng Phiên, Uông Sĩ Lãng.1968. Đỉnh khiết Đại

Việt lịch triều đăng khoa lục (các khoa 1694 -1787) (bản dịch), Sài gòn: Bộ Quốc gia

Giáo dục

114. Phạm Ngô Minh, Trương Duy Hy. 2007. Khoa bảng Quảng Nam dưới thời nhà

Nguyễn (1601 -1919), Nxb Văn Nghệ.

115. Nguyễn Hữu Mùi. 2006. “Vài nét về tình hình giáo dục Nho học ở cấp làng xã

qua tư liệu văn bia”, Tạp chí Hán Nôm, số 4

116. Nguyễn Hữu Mùi. 2006. Nghiên cứu văn bia khuyến học Việt Nam (từ thế kỷ XV

đến những năm đầu thế kỷ XX), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

117. Nguyễn Hữu Mùi. 2008. “Học xá điền thổ bi ký - Tấm bia đề cập đến việc dựng

trường dân lập và đặt học điền sớm nhất ở nước ta”, Thông báo Hán Nôm học, Viện

Nghiên cứu Hán Nôm

118. Nguyễn Hữu Mùi. 2019. “Dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu: Mô hình tiêu biểu

về trường tư thục ở Việt Nam thế kỷ XVIII”, Tạp chí Hán Nôm, số 3.

119. Vương Giới Nam. 2005. “Ảnh hưởng của chế độ khoa cử Trung Quốc tới Việt

Nam”, Tạp chí Hán Nôm, số 4.

120. Nguyễn Đăng Na (Sưu tầm, dịch và chú thích). 2003. Niên phả lục, Nxb Văn học

121. Nguyễn Thúy Nga. 2013. “Thi Hương thời các chúa Nguyễn”, Tạp chí Hán Nôm,

số 2

122. Nguyễn Thúy Nga. 2013. “Giáo dục và thi cử triều Tây Sơn”, Tạp chí Hán Nôm,

số 4 (119).

123. Nguyễn Thúy Nga. 2019. Khoa cử Việt Nam Hương cống triều Lê, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

124. Nguyễn Thúy Nga. 2019. Khoa cử Việt Nam Sinh đồ triều Lê thời các chúa Nguyễn

và Tây Sơn, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

125. Lê Kim Ngân.1974. Chế độ chính trị Việt Nam thế kỷ XVII –XVIII, Bộ Quốc gia

Giáo dục, Sài Gòn.

126. Trần Nghĩa. 2010. “Quốc Tử Giám Thăng Long nơi đào tạo cho nhà nước nhiều

bậc “minh triết”, Tạp chí Nghiên cứu Hán Nôm, số 5 (102).

127. Nguyễn Phúc Nghiệp. 2007. “Tiền Giang trung tâm giáo dục ở Nam Bộ nửa đầu

thế kỷ XIX”, Nam Bộ xưa và nay, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh - Tạp chí Xưa và Nay

128. Lê Nguyễn. 2002. “Đời sống tại các phủ Chúa”, trong Nhà Nguyễn và những vấn

đề lịch sử, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội

129. Bùi Xuân Nghi. 2010. Từ Liêm huyện đăng khoa chí (bản dịch của Nguyễn Hữu

Mùi, Nguyễn Thuý Nga), Nxb Hà Nội

158

130. Ngọc Than đăng khoa lục (1540 -2011). 2011. Nxb Lao động.

131. Lãng Nhân. 1992. Giai thoại làng nho, Nxb Văn Nghệ, TP. Hồ Chí Minh

132. Nguyễn Tá Nhí (Sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu). 1995. Phượng Dực đăng khoa

lục, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

133. Trịnh Nhu, Lê Trung Tân, Nguyễn Đức Nhuệ. 2015. Lịch sử giáo dục huyện

Hoằng Hóa, Nxb Chính trị Quốc Gia.

134. Nguyễn Ngọc Nhuận (Cb). 2011. Điển chế và pháp luật Việt Nam thời Trung đại,

Tập 1, Nxb Khoa học Xã hội.

135. Nguyễn Ngọc Nhuận (Cb). 2011. Điển chế và pháp luật Việt Nam thời trung đại,

Tập 2, Nxb Khoa học Xã hội

136. Nguyễn Đức Nhuệ. 2001. Cải cách của Trịnh Cương đầu thế kỷ XVIII, LATS

Lịch sử: 5.03.15, Viện Sử học, Hà Nội.

137. Nguyễn Đức Nhuệ. 2006. “Một số nét về khoa cử và thể lệ bổ dụng quan lại thời

Lê Trung hưng”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 12.

138. Nguyễn Đức Nhuệ. 2009. “Cuộc tiếp xúc giữa sứ thần Việt Nam Lưu Đình Chất

và sứ thần Triều Tiên Lý Đẩu Phong đầu thế kỷ XVII”, Tạp chí Hán Nôm, số 5.

139. Hồ Hữu Nhựt. 1999. Lịch sử giáo dục Sài Gòn thành phố Hồ Chí Minh (1698 -

1998), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

140. Đỗ Văn Ninh. 1995. Quốc Tử Giám và trí tuệ Việt, Nxb Thanh Niên,tái bản năm

1999

141. Đỗ Văn Ninh. 2000. Văn bia Quốc Tử Giám Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà

Nội

142. Phạm tộc phả ký. 2018. Gia phả họ Phạm làng Đông Ngạc, bản chữ Hán, chữ

Việt lưu tại nhà ông Phạm Quang Đại, xóm 3 làng Đông Ngạc, tháng 8.

143. Nguyễn Hữu Châu Phan. 2010. “Bối cảnh lịch sử Việt Nam giai đoạn 1558 đến

1802 phân tranh và thống nhất”, trong Nghiên cứu Huế, Tập 7, Nxb Thuận Hóa, Huế.

144. Nguyễn Trọng Phấn. 2016. Xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII, Nxb Tổng hợp Thành

phố Hồ Chí Minh.

145. Philippe Langlet. 1995. “Một số nhận xét về xuất xứ của những người đỗ đạt qua

các kì thi do triều đình Việt Nam tổ chức”, 90 năm nghiên cứu về văn hóa và lịch sử

Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

146. Trần Nguyên Phú, Nguyễn Quang Trung, Đinh Công Vĩ. 1999. Danh nhân

Nguyễn Bá Lân - con người và sự nghiệp, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Hà Tây.

147. Vũ Huy Phú. 1997. Mộ Trạch- làng Tiến Sĩ, Tăng Bá Hoành hiệu đính, Hải Dương

148. Phạm Thị Ái Phương. 2005. “Chính sách giáo dục của nhà Nguyễn đối với các dân

159

tộc ít người ở Việt Nam vào nửa đầu thế kỷ 19”, Tạp chí Dân tộc học, Số 2.

149. Võ Vinh Quang. 2014. “Tìm hiểu về các sắc phong cho Tân minh hầu Nguyễn Cư

Trinh”, Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, số 9 -10.

150. Võ Vinh Quang. 2016. “Danh nhân vĩ nghiệp Nguyễn Quang Tiền (1715 -1773)

và dòng họ Nguyễn làng Phò Ninh”, Thừa Thiên Huế -đất học và tài năng”, Nxb

Thuận Hóa, Huế.

151. Quốc Sử quán triều Nguyễn. 1995. Đại Nam liệt truyện tiền biên, Cao Tự Thanh

dịch, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội,

152. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2004. Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb Giáo dục

153. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2004. Đại Nam thực lục, Tập 2, Nxb Giáo dục

154. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2005. Đại Nam liệt truyện, Tập 1, tiền biên, Viện Sử

học Việt Nam - Nhà xuất bản Thuận Hóa

155. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2005. Đại Nam nhất thống chí, Tập 1, Nxb Thuận

Hóa.

156. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2005. Đại Nam nhất thống chí, Tập 2, Nxb Thuận

Hóa.

157. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2005. Đại Nam nhất thống chí, Tập 5, Nxb Thuận

Hóa.

158. Quốc sử quán triều Nguyễn. 1998. Khâm định Việt sử Thông giám cương mục,

Tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

159. Quốc sử quán triều Nguyễn. 1998. Khâm định Việt sử Thông giám cương mục,

Tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

160. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2012. Đại Nam nhất thống chí, Tập 1, Nxb Lao động –

Trung tâm văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây;

161. Nguyễn Thị Chân Quỳnh. 2001. Lối xưa xe ngựa, Nxb Văn nghệ thành phố Hồ

Chí Minh, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học

162. Nguyễn Thị Chân Quỳnh. 2003. Khoa cử Việt Nam (quyển thượng) Thi Hương,

Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu quốc học

163. Nguyễn Thị Chân Quỳnh. 2003. Khoa cử Việt Nam (quyển Hạ) Thi Hội, thi Đình,

Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học

164. Nguyễn Thị Chân Quỳnh. 2017. Văn Miếu Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hội nhà văn.

165. Nguyễn Ngọc Quỳnh. 2011. Hệ thống giáo dục và khoa cử Nho giáo triều Nguyễn,

Nxb Chính trị Quốc gia.

166. Samuel Baron. 2010. “Mô tả vương quốc Đàng Ngoài (A Description of the

Kingdom of Toonquee), Tuyển tập tư liệu phương Tây, Nxb Hà Nội.

167. Thích Đại Sán. 1963. Hải ngoại kỷ sự, Viện đại học Huế, Ủy ban phiên dịch sử

160

liệu Việt Nam

168. Dương Văn Sáu. 2008. Các di tích Văn Miếu Bắc Ninh - Hải Dương - Hưng

Yên, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

169. Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Ninh Tốn, Nguyễn Sá.1982. Đại Việt sử ký toàn

thư, tập Bản kỷ tục biên (1676 -1740), do Nguyễn Kim Hưng và Ngô Thế Long dịch

và chú thích; Nguyễn Đổng Chi duyệt và hiệu đính, Nxb Khoa học Xã hội.

170. Đặng Đức Siêu, Nguyễn Quang Lộc. 1993. Văn Miếu - Quốc Tử Giám một biểu

tượng của nền văn hóa Việt Nam, Trung tâm hoạt động Văn hóa Khoa học Văn Miếu

Quốc Tử Giám.

171. Vĩnh Sính. 2016. “Chu Thuấn Thủy và An Nam cung dịch kỷ sự”, trong Việt Nam

& Giao lưu văn hóa, Nxb Khoa học xã hội.

172. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội, Trung tâm hoạt động Văn hóa Khoa học

Văn Miếu - Quốc Tử Giám. 2011. Hội Thảo Khoa học: Làng khoa bảng Thăng Long -Hà

Nội, Hà Nội.

173. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội, Trung tâm hoạt động Văn hóa Khoa học

Văn Miếu - Quốc Tử Giám. 2012. Hội Thảo Khoa học: Trường Quốc Tử Giám Thăng

Long và các trung tâm giáo dục Nho học Việt Nam, Hà Nội, tháng 5.

174. Sở Văn hóa và Thể thao Hà Nội, Trung tâm HĐ VHKH Văn Miếu - Quốc Tử

Giám. 2018. Thám Hoa Vũ Thạnh con người và sự nghiệp: Kỷ yếu hội thảo khoa học,

Hà Nội, tháng 12

175. Nguyễn Kim Sơn.2018. Nho học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ

XIX (Mấy khuynh hướng và vấn đề), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

176. Sử thần triều Lê. 1966. Lê triều hội điển, Trần Lê Hữu (dịch) (Bản đánh máy lưu

tại phòng Tư liệu, khoa Sử, Đại học KHXHVNV), ký hiệu VV.119.

177. Sử thần triều Lê.1997. Lê triều quan chế, Phạm Văn Liệu dịch, Viện Sử học và

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

178. Nguyễn Hữu Tâm. 1991. “Tình hình giáo dục thi cử triều Mạc”, Tạp chí Nghiên

cứu Lịch sử, số 6.

179. Trịnh Như Tấu. 1932. Trịnh gia chính phả, Nhà in Ngô Tử Hạ, Hà Nội.

180. Trần Thị Băng Thanh. 1987. Ngô Thời Sĩ, Nxb Hà Nội

181. Doãn Thành, Nguyễn Kiến. 1968. “Phép thi Hương đời Lê Trung hưng (từ 1678

về sau)”, Tạp chí Sử Địa, số 11

182. Đỗ Thị Hương Thảo. 2016. Thi Hương thời Nguyễn (qua hai trường thi Hà Nội

và Nam Định, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

183. Nguyễn Q.Thắng. 1993. Khoa cử và giáo dục Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin,

161

Hà Nội.

184. Dương Thị The, Phạm Thị Thoa (dịch).1981. Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ

XIX, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội

185. Mật Thể. 2004. Việt Nam phật giáo sử lược, Nxb Tôn giáo.

186. Nguyễn Cảnh Thị. 2014. Thiên Nam liệt truyện Hoan Châu ký, Nxb Thế giới.

187. Nguyễn Văn Thịnh. 2010. Văn sách thi Đình Thăng Long - Hà Nội, Tập 1, Nxb

Hà Nội

188. Phan Hữu Thịnh. 2010. Làng Quỳnh xưa học hành và khoa cử (khảo cứu), Nxb

Nghệ An

189. Trần Văn Thịnh (Cb).1996. Danh sĩ xứ Thanh và việc học thời xưa, Nxb Thanh

Hóa

190. Nam Xuân Thọ. 1957. Võ Trường Toản. Phụ “Gia Định tam gia” Trịnh Hoài

Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhân Tịnh, Nxb. Tân Việt.

191. Ngô Đức Thọ (Cb). 2006. Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075 -1919), Nxb Văn

học, Hà Nội.

192. Ngô Đức Thọ. 2010. Văn bia Tiến sĩ Văn Miếu Quốc Tử Giám Thăng Long, Nxb

Hà Nội.

193. Ngô Đức Thọ. 2010. “Tìm hiểu tiểu sử, sự nghiệp của Đại tư đồ nguyên Tế tửu,

nguyên Tri Quốc Tử giám Xuân quận công Nguyễn Nghiễm”, Tạp chí Hán Nôm, số 5

(102).

194. Nguyễn Hữu Thông (Cb). 2007. Mạch sống của Hương ước trong làng Việt

Trung bộ (dẫn liệu từ làng xã các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế), Nxb

Thuận Hóa, Huế.

195. Thơ văn Phan Huy Ích. 1978. Dụ Am ngâm lục, Tập2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà

Nội,

196. Thu tỉ đề danh ký (Đăng Khoa lục Thanh Hóa). 2012. Bản dịch của Ngô Đức

Thọ, bản đánh máy (lưu tại thư viện Thanh Hóa).

197. Đinh Khắc Thuân (Cb). 2006. Tục lệ cổ truyền làng xã Việt Nam, Nxb Khoa học

Xã hội, Hà Nội.

198. Đinh Khắc Thuân. 2009. Giáo dục và khoa cử Nho học thời Lê ở Việt Nam qua

tài liệu Hán Nôm, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

199. Đinh Khắc Thuân.2009. “Người đỗ đại khoa và bài thi Tiến sĩ thời Lê -Trịnh”,

Tạp chí Hán Nôm, số 4 (94).

200. Đinh Khắc Thuân. 2010. “Phát triển văn hóa và giáo dục thời Lê -Trịnh”, Tạp chí

Hán Nôm, số 5 (102)

201. Đinh Khắc Thuân, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Kim Măng (đồng Cb). 2016. Tuyển tập

162

văn bia Thanh Hóa, tập 3 Văn bia thời Lê Trung hưng, Nxb Thanh Hóa.

202. Vũ Huy Thuận (Cb). 2010. Mộ Trạch làng khoa bảng, làng cổ văn hóa, Nxb Văn

hóa Thông tin, Hà Nội.

203. Vũ Thúy, Võ Văn Liên, Vũ Duy Mền (Đồng Cb). 2005. Tộc phả họ Vũ (Võ) (Thế

kỷ IX –XIX), Nxb Thế giới, Hà Nội.

204. Trần Thanh Thủy. 2017. Văn học Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII trong tiến trình

phát triển của văn học dân tộc, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

205. Phan Hứa Thụy. 1988. Thơ văn Nguyễn Cư Trinh, Nxb Thuận Hóa, Huế

206. Lê Văn Thuyên, Lê Nguyễn Lưu, Huỳnh Đình Kết. 2008. Văn bản Hán Nôm làng

xã vùng Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế

207. Nguyễn Tài Thư (Cb). 1993. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

208. Nguyễn Tài Thư. 1997. Nho học và Nho học ở Việt Nam: Một số lý luận và thực

tiễn, Nxb Khoa học xã hội.

209. Nguyễn Đăng Tiến (Cb). 1996. Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng

tháng Tám năm 1945, Nxb Giáo dục.

210. Trần Tiến.1968. Đăng khoa lục sưu giảng (Đạm Nguyên biên dịch), S, Bộ Giáo

dục.

211. Đào Tam Tỉnh. 2005. Khoa bảng Nghệ An (1075 -1919) (In lần thứ hai có sửa

chữa, bổ sung), Nxb Nghệ An.

212. Tỉnh ủy- Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình. 2010. Địa chí

Thái Bình, Nxb Văn hóa Thông tin.

213. Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân tỉnh Hải Dương. 2008. Địa chí

Hải Dương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

214. Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân - Uỷ ban nhân dân tỉnh Nam Định. 2003. Địa chí

Nam Định, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

215. Tỉnh ủy - Hội đồng nhân dân -Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa. 2003. Địa chí

Thanh Hóa, Tập 1, Nxb Văn hóa Thông tin.

216. Tỉnh uỷ - Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Nam. 2005. Địa chí Hà

Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

217. Tỉnh ủy - Ủy ban Nhân dân thành phố Biên Hòa. 2005. 290 năm Văn Miếu Trấn

Biên, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.

218. Ngô Tất Tố. 1943. “Quyển thi văn bình chú”, Tạp chí Tri Tân, số 94, số 95

219. Lê Hữu Trác. 1997. “Thượng kinh ký sự”, Tổng tuyển tập tiểu thuyết chữ Hán

Việt Nam, Tập 1, Nxb Thế giới, Hà Nội.

220. Dương Bá Trạc. 1919. “Khảo cứu về sử thi ta”, Tạp chí Nam Phong, số 23, tr.373 -

163

385

221. Ưng Trình. 1997. “Văn Miếu”, Những người bạn cố đô Huế, Tập 3, năm 1916,

Nxb Thuận Hóa, Huế.

222. Lê Ngọc Trụ, Phạm Văn Luật (sao lục và chú thích).1950. Nguyễn Cư Trinh với

quyển Sãi Vãi, Tân Việt.

223. Trung tâm hoạt động văn hóa, khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám. 2012.

“Trường Quốc Tử Thăng Long và các trung tâm giáo dục Nho học Việt Nam”, Kỷ yếu

hội thảo, Hà Nội.

224. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia, Viện nghiên cứu Hán Nôm.

2003. Ngô Thì Nhậm toàn tập, Tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

225. Tuyển tập tư liệu phương Tây. 2010. Nxb Hà Nội

226. Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm. 1978. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

227. Nguyễn Đình Tư. 2013. Tiểu sử và hành trạng các nhà khoa bảng Hán học Nam

Bộ, Nxb Đồng Nai.

228. Ngô Du Tử. 2012. “Nhà thơ Ngô Thế Lân cùng làng quê Vu Lai”, Lịch sử & Văn

hóa vùng đất Quảng Điền, Nxb Thuận Hóa, Huế.

229. Nguyễn Minh Tường. 2012. “Giáo dục Nho học trong hệ thống đào tạo, giáo dục

Việt Nam thời quân chủ”, trong Hội thảo Khoa học: Trường Quốc Tử Giám Thăng

Long và các trung tâm giáo dục Nho học Việt Nam, Hà Nội, tháng 5.

230. Nguyễn Minh Tường. 2012. Lịch sử tư tưởng phương Đông và Việt Nam, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội

231. Nguyễn Minh Tường. 2015. Tổ chức bộ máy nhà nước quân chủ Việt Nam, Nxb

Khoa học Xã hội.

232. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bình Dương. 2010. Địa chí Bình Dương, Tập 4 Văn hóa -

Xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

233. Ủy ban Nhân dân tỉnh Bắc Giang. 2006. Địa chí Bắc Giang lịch sử và văn hóa,

Sở Văn hóa thông tin Bắc Giang và Trung tâm UNESCO thông tin tư liệu lịch sử và

Văn hóa Việt Nam.

234. Ủy ban Nhân dân Thị xã Bắc Ninh - Sở Văn hóa Thông tin Bắc Ninh. 1999. Văn

Miếu Bắc Ninh (kỷ yếu hội thảo).

235. Ủy ban Nhân dân tỉnh Thanh Hóa, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. 2008. Chúa

Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, Kỷ yếu

hội thảo khoa học, Nxb Thế giới

236. Văn Miếu và truyền thống hiếu học ở Vĩnh Phúc: Kỷ yếu hội thảo khoa học. 2008.

Vĩnh Phúc - Sở Văn hoá Thông tin Vĩnh Phúc.

237. Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến nửa đầu thế kỷ XVIII. 1979. Nxb Đại học và

164

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

238. Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Uỷ ban

nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch, Sở Khoa học và Công nghệ

Hà Tĩnh. 2015. Nghiên cứu, bảo tồn Mộc bản Trường Lưu (Kỷ yếu hội thảo khoa học),

Hà Tĩnh, tháng 10

239. Viện Nghiên cứu Văn hóa dân gian. 2000. Hương ước Thanh Hóa, Nxb Khoa học

Xã hội.

240. Viện Sử học, ban liên lạc dòng họ Nguyễn Quý. 2000. Danh nhân Nguyễn Quý

Đức nhà chính trị văn hóa lớn thế kỷ XVII - XVIII, Hà Nội.

241. Viện Sử học. 1977. Lê triều quan chế, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

242. Viện Sử học, Sở Văn hóa, Thông tin tỉnh Hà Tây (cũ), Trung tâm hoạt động Văn

hóa Khoa học Văn Miếu - Quốc Tử Giám, dòng họ Nguyễn Hà. 2010. Nguyễn Hiệu và

Nguyễn Hoàn: danh nhân lịch sử thế kỷ XVII - XVIII: Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb

Thế giới

243. Viện Sử học, Trung tâm HĐ VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội, Hậu duệ

danh nhân Bùi Huy Bích. 2018. Tưởng niệm 200 năm ngày mất danh nhân lịch sử -

văn hóa Bùi Huy Bích (1744 -1818): Hội thảo khoa học, tháng 7

244. Viện Văn học, Sở Văn hoá Thể thao & Du lịch Hà Tĩnh. 2014. Nguyễn Huy Oánh

và dòng văn Trường Lưu trong môi trường văn hoá Hà Tĩnh: Kỉ yếu Hội thảo nhân

300 năm sinh (2013), Nxb Lao động

245. Bùi Khắc Việt, Nguyễn Đức Nhuệ (Cb). 1996. Hoằng Lộc đất hiếu học, Nxb

Thanh Hóa.

165

246. Trần Đại Vinh (Cb). 2007. Làng văn vật Thừa Thiên Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế 247. Trần Thị Vinh. 2006. “Phương thức tuyển dụng quan lại cho bộ máy chính quyền nhà nước ở thế kỷ XVII - XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6. 248. Trần Thị Vinh. 2006. “Phương thức tuyển dụng quan lại cho bộ máy chính quyền nhà nước ở thế kỷ XVII - XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 7. 249. Trần Thị Vinh. 2012. Thiết chế và phương thức tuyển dụng quan lại của chính quyền nhà nước trong lịch sử Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII, Nxb Chính trị Quốc gia. 250. Trần Thị Vinh. 2015. “Khoa cử và tuyển dụng quan lại vào làm việc trong chính quyền nhà nước thời Lê Trung hưng từ năm 1554 đến năm 1787”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 12. 251. Trần Thị Vinh (Cb). 2017. Lịch sử Việt Nam, Tập 2: Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 252. Trần Thị Vinh (Cb). 2017. Lịch sử Việt Nam, Tập 4: Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 253. Trương Thị Yến (Cb). 2013. Lịch sử Việt Nam, Tập 5: Từ năm 1802 đến năm 1858, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

166

254. Yumio Sakurai. 2007. “Trường thầy đồ trong lịch sử của một làng quê vùng châu thổ sông Hồng” trong Việt Nam học: Kỷ yếu hội thảo Quốc tế lần thứ 2, tập IV, Nxb Thế giới, Đại học QGHN, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. II Tài liệu nước ngoài 255. Abbe Richard, “History of Toquin”, in Jihn Pinkerton. 1811. A General Collection of the Best anh Most Interesting Voyages and Travels in all Parts of the World, London. 256. Alexander Barton Woodside. 1977. “Problem of Education in the Vietnamese Revolution”, Pacific Affairs, No.4, vol.49 257. Alexander Barton Woodside. 1998. “Exalting the Latercomer State: Intellectuals and the State during the Chinese and Vietnamese Reforms”, The China Journal (40). Alexander Barton Woodside.2006. Lost Modernities: China, Vietnam, Korea, and the Hazards of World History, Cambridge, Mass: Harvard University. 258. Birian A.Z. 2011. Reconceptualing Southern Vietnamese history from the 15 to 18 centuries, The University of Michigan. 259. Charles B.Maybon. 1920. Histoire moderne du pays d’Annam (1592 -1820), Paris. 260. Chen Chingho.1977. “Mac Thien Tu and Pharaya Taksin A Survey on Their Political Stand, Conflicts and Backgruond”, paper presented at the 7th Conference on the International Assoocition of Historians of Asia (IAHA), Bangkok. 261. Elman, Benjamin A. 1994. “Changes in Confucian Service Examinations from the Ming to the Ch’ing Dynasty” in: Education anh Society in Late Imperial China 1600 -1900, University of California Press. 262. Elman, Benjamin A. 2000. A Cultural History of Civil Examinations in Late Imperial China, University of California Press, Berkeley. 263. Geerts. 1882. Journal de voyage du yatch hollandai Grol du au Tonkin (1637), Excurssions et Reconnaissances, Paris. 264. J.Crawford.1806. Journal of an Embassy from the Governer general of India to the Cours of Siam anh Conchinchine, London 265. Jean Koffler.1911. Description historique de la Cochinchine, R.I 266. Nola Cooke. 1998. “Regionnalism and the Nature of Nguyen Rule in Seventeenth Century Dang Trong (Cochinchina)”, Journal of Southeast Asia Studies, No.29 267. Pierre Huard, Maurice Durand.1993. Connaissance du Viêt Nam (bản dịch), Nxb KHXH. 268. Richard.1778. Histoire naturelle, civile et politique du Tonkin, Tome 1, Paris.

PHỤ LỤC

I. BẢNG BIỂU

Bảng 1.Một số trường tư của Nho sĩ ở Đại Việt thế kỷ XVII – XVIII (tr.3 -tr.13)

Bảng 2. Danh sách quan chức Quốc Tử Giám Thăng Long thời Lê -Trịnh (tr.13-21)

Bảng 3. Một số đề thi thơ, phú, sách vấn trong thi Hương thời Lê -Trịnh (tr.22 -23)

Bảng 4. Các sự kiện liên quan đến thi Hương triều Lê - Trịnh (tr.23 – 24)

Bảng 5. Thời gian tổ chức thi Hội và thi Đình của một số khoa thi Tiến sĩ thế kỷ

XVII - XVIII (tr.24 -25)

Bảng 6. Một số viên Đề điệu, Tri cống cử, Giám thí trong kì thi Hội và thi Đình thời

Lê -Trịnh (tr.25 -31)

Bảng 7. Một số đề thi thơ, phú trong thi Hội thời Lê - Trịnh (tr.31 -32)

Bảng 8: Các khoa thi Hội và số lấy đỗ dự thi Đình thời Lê - Trịnh (1595 -1787)

Bảng 9. Một số Nho sĩ xuất thân Nho học vùng Đàng Trong trước thế kỷ XVII

(tr.32 -34)

Bảng 10. Danh sách một số những vị quan xuất thân Nho học thời chúa Nguyễn

(tr.34 -37)

Bảng 11. Quê quán các Tiến sĩ triều Lê - Trịnh (1595 -1787) (tr.37 -38)

Bảng 12. Giám sinh Quốc Tử Giám Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XVII – XVIII

(tr.38 -43)

Bảng 13. Tình trạng nhũng lạm của một số quan chức triều Lê -Trịnh (tr.44 -46)

II. HÌNH ẢNH

Ảnh 1.Bản chỉ dụ về quy chế học tập, thi cử ở Quốc Tử Giám, ban hành năm 1721.

(Nguồn: Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám)

Ảnh 2: Bản sắc dụ của vua Lê Thần Tông cho tu sửa nhà Thái học (Quốc Tử Giám)

năm 1662. (Nguồn: Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám).

Ảnh 3 : Thầy đồ dạy chữ Hán ngày xưa (Nguồn: Trung tâm hoạt động VHKH

Văn Miếu - Quốc Tử Giám Quốc Tử Giám, 2018)

Ảnh 4: Bút, nghiên, mực,sách cổ (Nguồn: Viện Thông tin Khoa học Xã hội)

Ảnh 5: Hình ảnh sách Tứ thư, Ngũ kinh (Nguồn: Trung tâm hoạt động VHKH Văn

Miếu - Quốc Tử Giám)

Ảnh 6: Nhà thờ Nguyễn Huy Oánh – dấu tích trường Phúc Giang thư viện (Nguồn

ảnh: Phan Đăng Thuận)

Ảnh 7: Bản sắc phong của triều đình Lê -Trịnh cho trường Phúc Giang Thư viện

của Nguyễn Huy Oánh năm Cảnh Hưng 44 (1784)

167

Ảnh 8: Văn Miếu - Hà Nội (Nguồn: tac giả tự chụp tháng 10 năm 2017)

Ảnh 9: Bia ký Tiến sĩ khoa thi năm Tân Sửu niên hiệu Vĩnh Thọ 4 (1661) (Nguồn:

Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám)

Ảnh 10: Văn Miếu Mao Điền –Hải Dương (Nguồn: Ảnh chụp năm 2017)

Ảnh 11: Văn Miếu Trấn Biên (Nguồn: https://vi.m.wikipedia.org)

Ảnh 12: Dấu tích Văn chỉ làng Đông Ngạc (Nguồn: Ảnh chụp năm 2018)

Ảnh 13: Đình làng Kẻ Vẽ - làng Đông Ngạc, nơi thờ thầy giáo Nguyễn Đình Trụ thế

kỷ XVII (Ảnh tác giả chụp tháng 8/2018)

Ảnh 14: Đền thờ Thủy tổ, Thần tổ họ Vũ - Thành hoàng làng Mộ Trạch, xã Tân

Hồng, huyện Bình Giang, Hải Dương - làng có nhiều Tiến sĩ nhất cả nước (Nguồn:

Ảnh tác giả chụp năm 2016)

Ảnh 15: Mộ danh sĩ Nguyễn Cư Trinh - tại xã Lộc Bốn, huyện Phú Lộc, Thừa

Thiên Huế (Nguồn: http://ditichlichsuvanhoa.com/dttc/MO-NGUYEN-CU-TRINH-

a457.ht)

III. Phụ lục. Một đề Chế sách thi Đình triều Lê - Trịnh

168

[Khoa thi năm Vĩnh Thọ thứ 4 (1661)]

I. BẢNG BIỂU

Bảng 1. Một số trường tư của Nho sĩ ở Đại Việt thế kỷ XVII - XVIII

Stt Tên

trường và

quán

Học trò tiêu biểu

1

tên thầy giáo Trường thầy Trần Cảnh (? -?)

Quê thầy giáo Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An

Thời gian mở, địa điểm của trường Thế kỷ XVII, từ quan về nhà mở trường dạy học tại Quỳnh Đôi, Nghệ An.

2

Trường học Dương Lệ (? -?)

Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An

Ông về ở ẩn mở trường dạy học tại làng Quỳnh Đôi.

Nhiều danh sĩ thành đạt, trong đó có Hồ Đình Trạch cũng làng Quỳnh Đôi đỗ Hiệu sinh. trò Có nhiều học đạt. Người thành đương thời gọi ông là thầy thầy Trần, Dương.

3

Trường học Nguyễn Khả Trạc (1598 -1672)

Làng Mai Dịch, Hà Nội.

Trường mở nửa sau thế kỷ XVII, tại làng Mai Dịch, Hà Nội

4

Học trò nhiều người thành đạt.

Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An

chức

Trường học của Lê Xuân Vi (? -?)

5

Quỳnh Lưu, Nghệ An

Trường học Hồ Sĩ Dương (1622-1681)

Khi làm quan mở trường dạy học tại Tương Dương (Kỳ Sơn, Hà Tĩnh ngày nay). Đầu thế kỷ XVIII, mở trường dạy học ở Thăng Long (Hà Nội).

Trường có nhiều học trò thành đạt như Vũ Hiệu (Mộ Trạch, Hải Dương) đỗ thứ hai kì thi Hương năm 1702 và tam trường thi Hội năm 1705.

6

Trường học Nguyễn Đình Trụ (1627-1703)

Làng Nguyệt Áng, Thanh Trì, Hà Nội

Hàng ngàn người theo học. Có 70 người đỗ đại khoa.

Khoảng cuối thế kỷ XVII mở trường, tại làng Vẽ, xã Đông Ngạc, Từ Liêm, Hà Nội.

7

Mộ Trạch, Bình Giàng, Hải Dương

Học trò theo rất đông, nhiều người thành đạt.

Vũ Phú Xuân (Dương Bình) (? -?)

Khi làm quan mở trường dạy học tại Đông Ngàn (Từ Sơn), Bắc Ninh

Địa vị thầy khi mở trường Năm 1601 đỗ Tam trường thi Hội, giữ chức Đô Thiêm sự, sau từ quan về nhà dạy hoc Vốn là Giám sinh Quốc Tử Giám. Đỗ Giải nguyên thi Hương. Năm 1601 thi đỗ Tam trường thi Hội. Về ở ẩn. Không rõ năm ông đỗ. Ông mở trường khi về trí sĩ (nghỉ hưu) tại quê nhà Năm 1648 đỗ Giám sinh. quan: Về Giảng dụ, Tri huyện Tương Dương Năm 1652 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Năm 1659 thi đỗ Đông các. Làm quan đến tụng, chức Tham Hình bộ Thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ, Giám tu Quốc Sử. Năm 1656, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, làm quan đến chức Hàn lâm Hiệu thảo. Giám sát Ngự sử, Lại khoa cấp sự trung. Năm 1694 ông bị giáng chức xuống Hàn lâm viện Kiểm thảo và sau đó về quê dạy học. Tham gia thi Hội 6 khoa chỉ đỗ Tam trường. Năm 1658 bổ Tri huyện của huyện Đông Ngàn (Từ Sơn), Bắc Ninh.

8

Trường học

Triệu

Sơn, Năm 1659 đỗ Đệ Ông mở trường dạy Học

trò có nhiều

169

Thanh Hóa

thành

Lê Thức (1628 -?)

học khi đương chức tại kinh đô Thăng Long.

9

Mở trường dạy học tại khu vực quanh Kinh đô Thăng Long.

Trường học Vũ Công Đạo (1629 -1714)

tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Làm quan đến chức Hiến sứ. Đỗ thi Hội khoa thi năm 1659. Từng giữ chức đi sứ, chức Đô ngự sử, Đốc đồng trấn Sơn Nam, sau bị bãi chức và được mời trở lại làm quan giữ chức Thượng thư bộ Công.

10

đạt, người có Vũ trong đó Thạnh, Nguyễn Quý Đức. Có nhiều học trò nổi tiếng như: Bảng nhãn Phạm Quang Trạch (làng Đông Ngạc), Thám hoa Vũ Thạnh (xã Đan Luân); Hội nguyênNguyễn Danh Dự (Dương Liễu, Hoài Đức, Hà Tây cũ). Học trò nhiều người thành đạt.

Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An

Khi giữ chức Giáo thụ có mở trường dạy học tại Kỳ Sơn.

Trường học Hồ Diệu (? -?)

11

Năm đậu 1660 Giám sinh, bổ chức Giáo thụ Trà Lân (Tương Dương, Kỳ Sơn). Không rõ

Trường học Ngô Vân (1641-1679)

Dạy học ở Kinh đô, học trò đông mấy trăm người.

12

Làng Tả Thanh Oai, Trì, Thanh Hà Nội Từ Sơn, Bắc Ninh

Trường học Ngô Sách Tuân (1648 -1697)

Học trò có Vũ Thạnh

Năm 1676 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Làm quan đến chức Lại bộ Hữu thị lang, Giám thí thi Hương Thanh Hoa.

Mở lớp dạy học trò ở Kinh đô. Sau khi khép tội chết, con trai của ông là Ngô Sách Hân đến ở và theo học Vũ Thạnh, đỗ đạt thành danh.

13

Trường học Chu Danh Tể (1654 -?)

Mở trường dạy học khi đương chức tại Kinh đô Hà Nội.

Quảng Minh, huyện Việt Bắc Yên, Giang.

Con trai của Nguyễn Quý Đức là Nguyễn Quý Ân theo học năm 1690.

14

Trường học Đinh Đình Vượng (1665 -?)

Mở trường dạy học trò nhiều người đỗ đạt.

Làng Phượng Phú Dực, Xuyên, Hà Tây

trai

15

Trường Hào Nam Vũ Thạnh (1664 -?)

Trường học mở năm 1698 -1699. Địa điểm: làng Hào Nam, Quảng Đức (Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, Hà Nội).

16

Học trò: Dương Đình Hiển đỗ Giải nguyên thi Hương, Thiêm sự Đinh Thời Dụng; Dương Đình Lâm đỗ Sinh đồ. Hàng ngàn người theo học, trong đó có 70 người đỗ đại khoa, tiêu biểu Nguyễn Tông Khuê, Ngô Sách Huân, Hòe Hiên Trần Hiền. Học trò có Ngô Trân nổi tiếng.

Trường học Ngô Vi Thực (1663 -?)

vốn Người thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sau dời đến Bình Giang, Hải Dương. Xã Tả Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội

Tiến sĩ đồng khoa cùng Nguyễn Quý tam Đức, đỗ Đệ giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1676. Làm quan đến chức Đề hình giám sát Ngự sử, Đốc trấn Cao Bằng. Đỗ Hương cống thi Hương năm 1684. Ông có tài văn học. Con là Đinh Doãn Cuống bổ Tri huyện. Năm 1685, đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa). Năm 1698 bị bãi chức về quê mở trường dạy học. Năm 1691 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Làm quan đến chức Lễ khoa cấp

Mở trường dạy học tại làng Tả Thanh Oai khi đương chức tại Kinh đô Thăng Long.

170

17

Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội

Trường học Ngô Bảo (? -?)

Ông mở lớp tại quê nhà, dạy chữ Thư pháp cho học trò.

sự trung. Sau được cử đi Cao Bằng và mất tại đó. Năm 1698 ông đỗ khoa Thư toán. Ông giữ chức Thị nội Thư tả Binh phiên, Tướng sĩ lang, Phó sở sứ, được phong tặng là Tán trị Thừa chánh sứ ty, Tham nghị xứ Hưng Hóa. Ông là người “lạc nho lưu chi giáo”, tráng niên “bút phát chi khởi tinh phượng giap quýnh phàm” (vui vẻ với sự truyền dạy [kẻ sĩ], khi còn trẻ [mà] bút pháp đã tinh là luyện đặt bút rồng phượng nhảy múa…).

trò

18

Năm 1700 đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Trường học Lê Hữu Hỷ (? -?)

Xã Liêu Xá, Yên Mỹ, Hải Dương.

Ông mở trường ở Kinh đô Thăng Long (Hà Nội)

19

Học trò nhiều người thành đạt, có 7 người là “Thị nội Thư tả” như: Trần Thế Nho - Thị nội Thư tả Lễ Phiên; Phùng Đăng Tuân - Thị nội thư tả Công Phiên; Nguyễn Đăng Toàn - Cai hợp Thị nội Thư tả Binh Phiên, Huyện thừa; Nguyễn Danh Cẩm - Thị nội Thư tả Binh Phiên, Đồng Tri phủ; Nguyễn Đăng Đạt – Phó sở sứ; Đặng Sĩ Ước - Thị nội Thư tả Lại phiên, Huyện thừa; Ngô Trí - Đồng Tri phủ; Trần Thế Danh - Thị nội Thư tả Lại phiên, Huyện thừa; Nguyễn Đăng Tố - Đề lại; Nguyễn Phú Huy – Cai hợp Lệnh phiên, sử Huyện Thừa; Nguyễn Xuân Thực - Đề lại… Học theo học nhiều trong đó có dạy cho em trai là Lê Hữu Kiều Nhiều học trò theo và thành đạt.

Trường học Vũ Đăng Khu (1677 -?)

Về hưu mở trường dạy học tại làng Mộ Trạch.

Người Mộ Trạch, Bình Giàng, Hải Dương.

20

Trường học Dương Đình Hiển (1684 -1754)

Làng Phượng Phú Dực, Xuyên, Hà Tây (cũ)

Mở trường dạy học tại quê nhà. Học trò nhiều người thành danh, đỗ từ hạng Sinh đồ trở lên.

Năm 1702 đỗ Giải nguyên thi Hương khi 25 tuổi. Thi Hội hai khoa 1703, 1705 chỉ đỗ Tam trường được bổ Huấn đạo huyện Trùng Khánh (Cao Bằng), Tri huyện Nghi Dương. Năm thi 1708 Hương, đỗ Giải nguyên hạng ưu. Đỗ tam trường thi Hội. chức giữ Từng Tri đạo, Huấn huyện, Tri phủ.

Học trò gồm: Thiêm sự công tự khanh Bùi Tông Tuyên, Tri phủ Thuận An Bùi Tông Đĩnh, Tri phủ Từ Sơn Đinh Đặng Diệu, Đồng Tri phủ Gia Hưng Đinh Danh Bá; Nho sinh Bùi Tông Chất. Các sinh đồ: Nguyễn Chí Kính, Dương Tất Cường, Dương Đình

171

21

Trường học Ngô Trân (1679 -1760)

Dạy học khi đương chức tại Thăng Long (Hà Nội).

Tả Làng Thanh Oai, Thanh Trì, Hà Nội

Thự, Đinh Đăng Quỳ. Học trò từ 4 -5 trăm người; có 5 người đỗ Tiến sĩ, hơn 100 người đỗ Hương cống.

22

Không rõ.

Quỳnh Phụ, Thái Bình

Trường học Bùi Sĩ Tiêm (1690 -1733)

Đỗ Hương tiến năm 1712 khi ông 33 tuổi; năm 1758 đỗ khoa Hoành từ khi 79 tuổi. Ông vốn là học trò của Ngô Vi Thực và Bùi Sĩ Tiêm Năm 1715 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp), sau đó ông được thăng lên chức Thái thường tự khanh. Năm 1731 ông bị biếm chức về quê.

23

Không rõ.

Trường Trần Ân Triêm (1673 -?)

Khoảng năm 1731 ông bị biếm chức về quê mở trường dạy học tại làng An Phú, nay xã Quỳnh Hải, Quỳnh Phụ, Thái Bình. Nhưng được 2 năm thì ông mất, trường dừng hoạt động. Khi về trí sĩ mở trường dạy học tại quê nhà.

Yên Định, Thanh Hoa (Thanh Hóa ngày nay)

24

Nhiều học trò theo học và đỗ đạt

Trường học Ngô Sách Hân (1690 -?)

Huyện Đông Ngàn (nay là xã Tam Sơn, Từ Sơn, Bắc Ninh)

Năm 1755 ông về trí sĩ, mở lớp dạy học, học trò nhiều nơi đến xin học. Ông là con trai của Ngô Sách Tuân.

25

Hà,

Hưng Thái Bình.

Tông

Trường học Nguyễn Khuê (1693-1767)

Đỗ khoa Sĩ vọng. Năm 1715 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Làm quan chức Hàn lâm Thừa chỉ. Năm 1721 đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa), được bổ các chức quan: Đông các Hiệu thư, Đốc đồng Sơn Nam, Đốc đồng An Quảng, Hộ bộ Thị lang, Hành Tham tụng. Sau đổi quan võ giữ chức Binh bộ Thượng thư, Nhập thị Tham tụng. Năm 1721 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất làm thân. Từng Chánh sứ, Hộ bộ Tả thị lang, Thị giảng.

Học trò rất đông, có Lê Quý Đôn, Đoàn là Nguyễn Thục... học trò của ông, sau này đều trở thành các nhà văn hóa lớn của đất nước.

26

Trường học Hà Tông Huân (1679 -1766)

Huyện Yên Định, Thanh Hóa

Học trò nhiều người làm quan có danh tiếng. Người đương thời coi ông là bậc tôn sư.

Năm 1751, ông bị biếm chức, về quê tại thôn Sâm xã Hòa Tiến, huyện Hưng Hà, Thái Bình mở lớp dạy học. Đến năm 1767 ông qua đời, trường dừng hoạt động. Năm 1761 ông về trí sĩ, sau một năm được mời làm Giảng dụ trường Quốc Tử Giám và mở trường dạy học tại Thăng Long (Hà Nội).

Năm 1724 đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh (Bảng nhãn). Ba lần giữ chức Tham tụng trấn kiêm Hiệp lĩnh, Tham thống tụng, Thượng thư bộ Binh; Giảng dụ

172

27

Trường học Vũ Công Trấn (1685 -1755)

Huyện Thanh Oai, Hà Tây (cũ)

Năm 1754 ông về trí sĩ mở trường dạy học tại quê nhà.

Học trò nhiều nơi đến tìm theo học, thành đạt như Nguyễn Huy Oánh, Phan Huy Cận.

28

Yên Định, Thanh Hóa

Trường học Hà Tông Huân (1697 -1766)

Học trò có nhiều người làm quan có danh tiếng.

Mở trường dạy học khi đương chức tại khu Kinh thành Thăng Long.

29

Quỳnh Đôi, Nghệ An

Trường học Dương Chung Tú (1710 -1780)

Giữa thế kỷ XVIII, ông mở trường học tại làng Quỳnh Đôi, Nghệ An.

Học trò hàng mấy trăm người, nhiều người thành đạt như Hoàng giáp Hồ Sĩ Đống; con trai của ông là Dương Huân cũng đỗ đạt và giữ nhiều chức vụ quan trọng.

Quốc Tử Giám. Đỗ khoa Sĩ vọng. Năm 1724 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Năm 1728 đỗ khoa Đông các. Làm việc ở Công phiên chức giữ Chánh chưởng Tả, Hữu pháp ty. Năm 1733 bị biếm chức, sau được bổ chức Đề điệu trường thi Kinh Bắc, Bồi tụng Tả thị lang bộ Binh kiêm Đông các đại học sĩ. Năm 1724 đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập Đệ nhị danh (Bảng nhãn). Ba lần giữ chức Tham tụng kiêm Hiệp trấn Thống lĩnh, Tham thư tụng, Thượng bộ Binh, Quốc Tử Giám. Giám sinh Quốc Tử Giám. Năm 1726 đỗ Sinh đồ, năm 1729 đỗ Hương cống nhưng không thích làm quan. Về sau được bổ chức Câu kê, Tham mưu quân sự ở Thái Nguyên. Sau về quê mở lớp dạy học.

30

Trường học Vũ Xuân Nùng (? -?)

Quảng Nam. Năm 1728 ông đỗ Sinh đồ được bổ chức Tri huyện.

Ông mở trường dạy học khi đương chức tại nơi làm việc.

Có ba người rất nổi tiếng, được mệnh danh là Trường An tam phụng (ba con phượng ở Kinh đô), gồm: Trần Phước Thành, Nguyễn Đình Trong, Phan Đắc Thục.

31

Trường học Đỗ Huy Kỳ (1695-1748)

Năm 1731 đỗ Đình Thám nguyên hoa130.

Học trò có Nguyễn Huy Oánh, Phan Huy Cận (1722 -1789).

32

Trường học

Thiệu Hóa, Thanh Hoa (Thanh Hóa ngày nay) Từ Liêm, Hà Năm 1733, đỗ Đồng Giữa thế kỷ XVIII, Học trò nhiều người

130 Dẫn theo: Phan Huy Chú.2007. Lịch triều hiến chương loại chí, tập 1,Nxb Giáo dục, mục Nhân vật chí, tr. 470. Tuy nhiên khi tác giả tra sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919 của Ngô Đức Thọ thì không có tên Đỗ Huy Kỳ.

173

Nội

Trần Hiền (1684-?)

ông mở trường tại làng Vân Canh, Từ Liêm, Hà Nội.

đỗ đại khoa như: Trần Mô, Trần Đồng, Trần Danh Tiên.

33

Trường học Nghiêm Bá Đĩnh (1683 -1755)

Dạy học ở Tây Mỗ. Có học trò là Ngô Thì Sĩ.

Xã Tây Mỗ, Từ Liêm (Hà Nội).

Mở lớp dạy học khi đương chức Đông các Đại học sĩ tại kinh đô (Hà Thăng Long Nội).

34

thi

Tiến sĩ xuất thân, làm quan đến chức Hàn lâm viện Đãi chế. Mở trường khi làm quan. Năm 1733 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân, đi sứ giữ nhà Thanh, chức Đông các Đại học sĩ, tước Khiêm Đường bá. nguyên Á Hương năm 1733.

Trường học Ngô Thì Ức (1709 -1736)

Thanh Tả Oai, Thanh Trì (Hà Nội)

Con trai và cháu là Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm đỗ đạt khoa cử.

35

Quang

Nhiều học trò tham gia theo học.

Trường học Nguyễn Tiền (1715 -1773)

Ông mở trường dạy học tại làng. Ông dạy các con cháu và nhiều học trò đến từ nhiều nơi. Năm 1756 ông từ quan về quê mở trường dạy học ở Phò Ninh.Dấu tích trường hiện nay không còn.

Phò làng Ninh, xã Phong An, Phong Điền (Thừa Thiên Huế)

36

Trường học Nhữ Đình Toản (1703-1774)

Bình Giàng, Hải Dương

Có học trò là 2 anh em họ Ngô là Ngô Thì Sĩ và Ngô Thì Đạo.

Khi về trí sĩ (không rõ năm) mở trường dạy học ở Hoạch Trạch, Đường An, nay là Bình Giàng Hải Dương.

37

Trường học Phạm Đạt (Phạm Giáp) (? – 1779) cha của Phạm Đình Hổ

Ông mở trường dạy học Kinh đô Thăng Long dạy cả văn lẫn võ trong thời gian đương chức, trường hoạt động đến khi ông qua đời.

Người huyện Đường An, trấn Hải Dương. Nay là xã Nhân Quyền, Bình Giàng, Hải Dương.

Có nhiều học trò đỗ đạt như: Phan Trọng Phiên, Tạ Đăng Đạo, Nguyễn Duy Hợp, Vũ Tông Đạm, Nguyễn Thế Lịch, Vũ Di Lượng. Học trò của ông là Phan Huy Dung đã biên soạn hành trạng của ông vào Chiêu năm Thống thứ 1 (1787).

38

Không rõ

Trường học Bùi Duy Tân (? -?)

Năm 1735 dạy học ở làng An Lâu, Thanh Miện, Hải Dương.

39

Người Định Công, quận Hoàng Mai, Hà Nội Thanh Miện, Hải Dương

Trường học Trần Thanh (Văn) Trứ (1716 -?)

Năm 1733 đỗ Nhiêu học trong Xuân thi quận thí. Giữ chức Ký lục Phủ Bình Khang (tỉnh Khánh Hòa ngày nay), Hàn lâm viện Tri chế cáo, tước Thạc Đức ở Chính Dinh. Năm 1736 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Làm quan đến Tham tụng, Thượng thư bộ Binh, sau đổi hàng võ. Ông đỗ Tứ trường thi Hương (không rõ năm), từng giữ chức Huấn đạo phủ Quốc Oai. Năm 1756 ông thi đỗ khoa Tuyển cử bổ chức trong Phủ chúa, sau làm việc ở Bộ Binh, rồi thăng Hiến sát phó sử xứ Sơn Nam, Tuần phủ Sơn Tây. Ông là cha Bùi Huy Bích, không rõ có đỗ đạt nhưng kiến thức uyên thâm. đỗ 1743 Năm Hoàng giáp, cha con đồng triều, cha của ông là Trần Văn Hoán đỗ Tiến sĩ

Ông mở trường tại Kinh đô Thăng Long nhưng không rõ địa điểm ở đâu.

Học trò theo học rất đông, nhiều người đỗ đại khoa, nổi tiếng như Bồi tụng Giang Sĩ Điển, Bình chương

174

Trương Đăng Quỹ, Hữu Thị lang Ngô Duy Viên.

40

Đức Thọ, Hà Tĩnh.

tại

Trường học Bùi Dương Lịch (1744 -1814)

năm 1724. Trần Văn Trứ là người học rộng, tinh thông Dịch lý. Giữ chức quan Thiêm đô Ngự sử kiêm Quốc Tử Giám Trực giảng. Năm đỗ 1744 Hương cống, bổ chức Huấn đạo phủ Lý Nhân nhưng từ chối không đi. Năm 1787 đậu Tiến sĩ nhưng không ra làm quan.

Năm 1787 mở trường làng dạy học Thịnh Liệt, làng Sét và viết cuốn sách Bùi gia huấn hài. Trường học của ông hoạt động sang tận thời Nguyễn.

41

Nho sĩ ẩn danh.

Thừa Thiên Huế

Trường học Nguyễn Đăng Đàn (? -?)

chúa đời Dưới Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) mở trường dạy học tại núi Thanh Thủy (Huế).

42

Hòa Hưng, Bình Dương

Mở trường dạy học tại Gia Định.

Trường học Võ Trường Toản (? -1792)

Nho sinh không đỗ đạt qua khoa cử, ở ẩn mở trường dạy học.

43

Không rõ quê quán ở đâu.

Trường học Đặng Đức Thuật (? -?)

Không rõ đỗ đạt nhưng ông rất giỏi thơ văn và lịch sử.

Cho đến thời Nguyễn học trò theo học hơn một ngàn người, có 300 người đỗ đạt, gồm: Ngụy Khắc Thận đỗ Hương cống (1813). Ngụy Khắc Tuần (1799 - 1854) đỗ Hương cống (1821), đậu Tiến sĩ năm 1826; Bùi Thức Kiên (1813 - 1892) đỗ Cử nhân (1840), đậu Hoàng giáp năm 1848 làm quan đến Thượng thư bộ Lễ, Tổng đốc Hà Ninh… trăm trò vài Học người, thành đạt. Khi ông chết người đời gọi ông là Siêu Quần Tiên sinh131. Cháu nội là Nguyễn Đăng Trường cũng là một Nho sĩ thành danh. Nhiều học trò là bậc tôi trung của triều Nguyễn: Ngô Tùng Châu, Trịnh Hoài Đức, Phạm Ngọc Uẩn, Lê Quang Định, Lê Bá Phẩm, Ngô Nhơn Tịnh... Trong đó Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tĩnh rất nổi tiếng thơ văn ở cuối thế kỷ XVIII đầu XIX được mệnh danh là Gia Định tam gia. Học trò theo học có Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tĩnh, Lê Quang Định, Nguyễn Hương.

Ông ẩn cư mở trường học tại núi An Phước, Bình Thuận. Sau đó dời vào Gia Định mở trường dạy học.

44

Trường Lưu học Xã Song Lộc, Năm 1748 ông đỗ Năm 1781 ông về trí Hàng ngàn học trò,

131 Quốc Sử quán triều Nguyễn. 1995. Đại Nam liệt truyện tiền biên, Cao Cự Thanh dịch, Nxb KHXH, HN, tr.256. Cũng theo chú thích của sách này thì núi Thanh Thủy có lẽ cũng thuộc huyện Hương Trà.

175

hiệu của Nguyễn Huy Oánh (1713 -?)

huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.

sĩ và mở trường dạy học tại xã Song Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh.

30 người đỗ Tiến sĩ, nổi bật có Phạm Nguyễn Du, Phạm Quý Thích, Trần Công Xán.

45

Trường học Lê Quý Đôn (1726 -1784)

Trường được mở tại kinh đô Thăng Long (Hà Nội) khi ông đương chức.

Xã Diên Hà huyện Diên Hà (nay là xã Lập, Độc Hưng Hà) Thái Bình.

Có học trò Bùi Huy Bích. Khi Lê Quý Đôn mất, Bùi Huy Bích đã thay các môn sinh làm nhiều bài văn tế, hiện còn in trong Riêng của ông viết bài tế thày in trong Hoàng Việt văn tuyển.

46

Học trò theo học rất đông.

Trường học Nguyễn Trí Y (? - ?)

Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh. Làm đảm quan trách nhiều chức quan: Đông các học sĩ, Chánh sứ, Lại bộ tả Thị lang, Đô ngự sử. Năm 1752 đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh (Bảng nhãn). Từng giữ các chức Phó sứ, Thừa chỉ, Lễ bộ Thị lang, Nhập thị Bồi tụng, Trấn thủ xứ Quảng Nam, Hộ bộ Tả thị lang, hành Đô ngự sử, Hiệp trấn Nghệ An. Vốn là Hiệu sinh trường Phủ. Đỗ Sinh đồ năm 1753.

Làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An

47

Trường học Phan Hữu Hằng (? -?)

Làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An

Đỗ Hiệu sinh năm 1759, là người hiểu nghĩa lý sâu sắc sách vở.

Không rõ

48

Phương

Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội.

Năm 1760 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Trường Am Nguyễn Huy Cận (1729 -1790)

49

Học trò nhiều người thành đạt.

Trường học Hồ Sĩ Thích (? -?)

Không ra làm quan, ở nhà mở trường dạy học tại Quỳnh Đôi. Ông là người hiểu nghĩa lý sách vở. Ông mở trường dạy học tại quê Quỳnh Đôi. Con trai là Tiến sĩ Bích Xuyên hầu Phan Hữu Tính. Mở trường dạy học khi đương chức quan tại quê là thôn Phú Thị, xã Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội. Ông mở trường học tại làng Đăng Cảo, tổng Hoàng Trường (Diễn Châu) ngày nay.

Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An

50

Mở trường dạy học ở nhà tại Thăng Long (Hà Nội).

Trường học Lý Trần Quán (1735 -1786)

Vân Canh, Hoài Đức, Hà Nội

Các học trò của ông là Tuần Trang, Nho Nở dâng Trịnh Khải cho Tây Sơn sau đó ông tự chôn sống.

51

Trường học Hồ Sĩ Trạch (? -?)

Năm 1765 đỗ Giám sinh; từng giữ chức Huấn đạo phủ Đức Quang; Tri huyện Ngọc Sơn. Khi nhà Lê mất, ông từ quan về nhà dạy học. Năm 1766 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến thân, giữ sĩ xuất chức Thiêm sai Lại phiên. Khi mất phong được Thượng thư. Đỗ Giám sinh năm 1768, giữ Tri huyện Gia Lâm, Hà Nội cho đến năm 1788.

Năm 1788, loạn Tây Sơn ông về mở trường tại quê nhà ở Quỳnh Đôi, Nghệ An

Làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An.

52

Học trò nhiều người đỗ đạt, con trai ông là thi Hồ Sĩ Bằng Hương đậu Tam trường. Học trò 20 người, có các học trò xuất sắc là

Trường học Bùi Huy Bích

Định Công, Hoàng Mai,

Năm 1769 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất

Năm 1785 ông ẩn cử, mở trường dạy học.

176

(1744 -1802)

Hà Nội.

Nhà học ở Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội

Hà Tông Quyền; trong đó Nguyễn Văn Thắng, Lê Tông Quang đều đỗ đại khoa triều Nguyễn.

53

Trường học Hồ Trọng Điển (1748 -1826)

Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An.

Ông dạy học tại làng Hoa Lâm, Đông Thành (Diễn Châu), Nghệ An.

Học trò của ông có đến 500 - 600 người, đỗ đạt cao như Tiến sĩ Phan Hữu Tính (Quỳnh Đôi), Lê Duy Phác (Đông Thành- Diễn Châu), Nguyễn (Diễn Trung Mậu Châu) làm đến chức Thượng Thư.

54

Không rõ ông mở trường ở đâu.

Ông là thầy học của Nguyễn Hữu Chỉnh.

Xã An Vĩ, huyện Khoái Châu, Hưng Yên.

Trường học Trần Công Xán (sau đổi tên Trần Công Thước) (1731 -1787)

55

Trường học Trần Hưng Đạt (1746 -1810)

Văn Xá, Thừa Thiên Huế

Năm 1775 khi vào Quảng Nam chiêu sinh học trò dạy học. Lớp của ông hoạt động đến năm 1793 thì dừng vì khi này ông đi vào Gia Định theo Nguyễn Ánh.

56

Đào tạo nhiều học trò đỗ đạt cao.

Trường học Hồ Sĩ Đống (1739 -1785)

Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu, Nghệ An.

Mở trường dạy học khi đương chức quan nhưng không rõ ở đâu.

57

Ý Yên, Nam Định.

Học trò nhiều người thành đạt.

Trường học Ngô Tiêm (1749 -1818)

Khi về trí sĩ, về quê dạy học tại Cát Đằng, Ý Yên, Nam Định.

thân. Ông đảm trách nhiều chức vụ: Đốc an, đồng Nghệ Hành tụng, tham Đồng bình chương sự kiêm Tham tụng. Vốn là Giám sinh Quốc Tử Giám. đỗ Năm 1771 cống. Hương Nhưng gặp thời loạn lạc ở nhà dạy học. Đến triều Nguyễn ông làm quan cho triều Nguyễn, giữ chức: Chủ khảo trường thi Nghệ An. Năm 1772 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Làm quan đến chức Hình bộ Thượng thư, Bồi tụng, Đồng bình chương sự. Trần Hưng Đạt nhờ ấm thụ của cha được bổ chức quan. Lúc đầu giữ chức ở Viện Hàn lâm, đến năm 1775 lánh vào Quảng Nam. Giữ Tham tri bộ Lễ dưới triều Nguyễn. Năm đỗ 1772 Hoàng giáp, vua Lê lá cờ “Song ban nguyên Hoàng giáp”. Ông giữ các chức Hàn lâm viện lý, Tham Hiệu chính sứ Bắc Ninh, Thiêm sai tri bình phiên; Hiến sát sứ Hải Dương, Đề điệu trường thi Kinh Bắc, Hàn lâm viện Thị thư, Chánh chủ khảo, Hành Tham tụng kiêm Tri Hàn lâm viện, Tả thị lang bộ Lại. Năm 1779 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Làm quan đến chức

177

58

Học trò đông hàng trăm người, nhiều người đỗ đạt.

Trường Quan Hoa Công Nguyễn Thịnh (1757 -1824)

Thượng Yên Quyết, nay là phường Quan Cầu Hoa, Giấy, Hà Nội.

Đông các Hiệu thư, Đốc đồng kiêm Đốc trấn Lạng Sơn, Thái Hòa điện Học sĩ. Năm 1779 thi đỗ Hương cống, được bổ Giám sinh, sau bổ chức Huấn đạo phủ Lâm Thao của trấn Sơn Tây.

59

Trường học Phạm Nguyễn Du (1740 - ?)

Nghi Thạch, Nghi Lộc, Nghệ An

Thi Hương đỗ giải nguyên không rõ năm nào được bổ thảo. chức Hiệu Năm 1779 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Giữ các chức Đốc đồng Nghệ An.

Học trò xa gần theo học với ông rất đông, thành nhiều. đạt Người đời ví ông như Chu Văn An đời Trần là “bậc thượng tường sơn đầu”.

60

Trường học Lê Duy Hy (1757 -?)

Huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa

Năm 1786 ông trở về quê mở trường dạy học tại làng quê nhà ở Thượng Yên Quyết. Dấu tích hiện nay còn có lăng Quan Hoa gồm ban thờ, mộ của Hương cống Nguyễn Công Thịnh tại tổ 5 phường Quan Hoa. Sau khi thi đỗ Tiến sĩ, ông không ra nhậm chức vội mà ở nhà mở lớp dạy học tại Nghệ An. Ông đã soạn “Luận ngữ ngu án” phân giải rõ ràng, ra bốn mục chia Thánh, Học, Sĩ, Chánh phân minh. Ông mở trường dạy học ở kinh đô Thăng Long (Hà Nội).

Năm 1787 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Sau làm triều quan Nguyễn, bổ chức Đốc học.

Hàng nghìn học trò theo học, nhiều người đỗ Tiến sĩ dưới triều Nguyễn như: Lê Văn Trung, Nguyễn Lý, Phạm Sĩ Ái, Hoàng Tế Mỹ, Phạm Quỹ, Nguyễn Tôn Thố.

(Nguồn: Đại Việt sử ký toàn thư. 1993. Tập 3, Nxb KHXH; Quốc sử quán triều Nguyễn. 2005. Đại Nam nhất thống chí, 5 tập, Nxb Thuận Hóa; Quốc sử quán triều Nguyễn.1998. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2, Nxb Giáo dục; Phan Huy Chú. 2007. Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, Nxb Giáo dục; Trần Công Hiến, Trần Huy Phác. 2015. Hải Dương phong vật chí, Nxb Lao động Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây; Hồ Phi Hội (khởi biên), Hồ Trọng Chuyên (tục biên). 2004. Quỳnh Đôi cổ kim sự tích Hương biên, Nxb Lao Động; Mộ Trạch làng Tiến sĩ. 1997. Bảo tàng Hải Dương; Trần Văn Giáp. 1970. Tìm hiểu kho sach Hán Nôm, Tập 1, Thư viện quốc gia xuất bản, Hà Nội; Ngô Đức Thọ (Cb).2006. Các nhà khoa bảng Việt Nam (1075-1919), Nxb Văn học; Hội thảo khoa học làng khoa bảng Thăng Long - Hà Nội. 2010. Hà Nội; Sở Văn hóa Thông tin Vĩnh Phúc. 2008. Văn Miếu và truyền thống hiếu học ở Vĩnh Phúc (kỷ yếu hội thảo khoa học), tháng 4; Bùi Xuân Đính. 2003. Tiến sĩ Nho học Thăng Long, Nxb Hà Nội; Bùi Xuân Đính. 2003. “Tinh thần tôn sư trọng đạo qua một tấm bia cổ ở một làng khoa bảng”, Thông báo Hán Nôm; Trần Kim Anh. 1995. “Cuộc đời Phạm Đình Hổ và đôi điều về tác phẩm của ông”, Thông bào Hán Nôm, 1995; Hà Nội danh thắng và di tích. 2010. Nxb Hà Nội; Nguyễn Tá Nhí (Sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu). 1995. Phượng Dực đăng khoa lục, Nxb KHXH, Hà Nội; Hoằng Hóa đất hiếu học. 1996. Nxb Thanh Hóa.

178

Bảng 2. Danh sách quan chức Quốc Tử Giám Thăng Long thời Lê -Trịnh

Stt Họ và tên

Ghi chú

đỗ

Quê quán

Các chức quan đã trải qua

Chức vụ QTGiám

1

Khắc

Hà Nội

Tế tửu

Phùng Khoan (1528 -1613)

Năm Tiến sĩ và học vị 1580 Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp)

2

Tế tửu

Lương Chí (1542 - ?)

Thanh Hóa

Năm 1589 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân.

3 Ngô Trí Hòa (1564 - 1625)

1608: Tế tửu

tán

Nghệ An 1592 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân

4 Nguyễn Thực

Hà Nội

(1555 -1637)

1632: Tư Nghiệp

1595 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp)

5 Nguyễn Duy

Tế tửu

Vĩnh Phúc

Thì (1572 -1651)

Hà Nội

Tế tửu

6 Nguyễn Nghi (1588 -1657)

Con trai của Nguyễn Thực

1598 Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) 1619 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

7

Phạm Công Trứ (1602 -1675)

Hưng Yên

Tế tửu, Tri QTG

1628 đỗ Đệ giáp tam Đồng Tiến sĩ xuất thân

Thượng thư bộ Hộ, kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám tước Mai Quận công, khi mất tặng Thái tể. Hiệp mưu tá lý công thần, Tham tụng, Hộ bộ Thượng thư, kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu, Nhập thị kinh diên, tước bá. Hiệp mưu tá lý dực vận trị công thần, Hộ bộ Thượng thư kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu. Đi sứ nhà Minh, Tán trị công thần, Tham tụng, Lại bộ thư, Thượng Chưởng Hàn lâm viện sự kiêm Đông các Đại học sĩ, Tư nghiệp, Quốc lão. Tham tụng, Hộ bộ Thượng thư kiêm Chưởng lục bộ sự, Thái phó, Tế tửu. Thượng thư bộ Lại, Nhập Thị kinh diên, Tế tửu, Thiếu phó, tước Dương Quận công. Tham tụng, Lại bộ thư kiêm Thượng Đông các Đại học sĩ, Tế tửu, Tri Quốc Tử Giám, Chưởng Lục bộ sự, hàm Thiếu bảo.

Hà Nội

Tế tửu

Ông là người thâm trầm, giản dị chắc làm việc có chắn, mưu giúp thuật, vương tử từ khi ở cung tiềm để, mưu tính nhiều việc, giúp việc nước lâu ngày, pháp độ kiến minh được nhiều.

8 Dương Cảo (1586 -?)

Quốc Tử Giám Tế tửu

1628 Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân

Bắc Ninh 1631

đỗ

Không rõ

Hoàng giáp

9 Nguyễn Quang (Kiều

1665: Tư nghiệp

Nhạc Nhạc) (1626 -1706)

179

10 Nguyễn Văn

Hà Nội

Tế tửu

Quảng (1613 - )

Quốc Tử Giám Tế tửu, khi mất tặng Hữu thị lang.

11 Dương Hạo

Tư nghiệp

(1615 -1672)

Hưng Yên

Ngự sử đài đô Ngự sử, Tư nghiệp Quốc Tử Giám.

1640 đỗ Đệ giáp tam Đồng Tiến sĩ xuất thân 1640 đỗ Đệ giáp tam Đồng Tiến sĩ xuất thân

12 Nguyễn Đăng

Tế tửu

em

Làm đến chức Quốc Tử Giám Tế tửu.

Minh (1623 -1696)

Bắc Ninh 1646 đỗ Đệ giáp tam Đồng Tiến sĩ xuât thân.

Tế tửu

Ông của Nguyễn Đăng Cảo, cha của Nguyễn Đăng Tuân, Nguyễn Đăng Đạo.

13 Phạm Văn Đạt (1610 -?)

Hải Dương

Hộ bộ Tả thị lang, Tế tửu

Năm 1646 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân

Tư nghiệp

14 Nguyễn Chiêm (1599 - ?)

Làm quan đến chức Tư nghiệp

15 Ngô Hải (1638

Tế tửu

Hưng Yên

- ?)

Phó đô Ngự sử, Đề điệu, Tế tửu

16 Nguyễn Quán

Học chính

Bắc Ninh Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ khoa Đông các năm 1657 1664 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân Năm 1667 đỗ Tiến sĩ

Thanh Hóa

Nho (1638 -?)132

17 Nguyễn Quý

Đức (1648 - 1720)

Hà Nội 1676 đỗ Tiến sĩ cập Đệ tam danh

Tế tửu, Tri Quốc Tử Giám.

bàn

Tả thị lang bộ Hộ, bộ Hình, bộ Lại, Đốc Hải trấn Dương; Tể tướng, Phó đô Ngự sử đài, Đài trưởng Ngự sử, Học chính Quốc Tử Giám, Chánh sứ. Lại bộ Tả thị lang, Nhập thị Bồi tụng, Tế tửu, Đô Ngự sử, Thiếu phó, Thái phó, Tri Quốc Tử Giám.

Ông là người rộng rãi trung hậu, trầm tĩnh... Những luận chính sự có điều gì chưa thỏa đáng thì kiên quyết giữ ý kiến của mình đến vài bốn lay lần, không ai chuyển nổi. Làm văn thì không chuộng đẽo gọt nhưng ý tứ vẫn tinh tế, chặt chẽ. Việc sửa sang nhà Thái học, dựng bia Tiến sĩ ông đều đích thân trông coi cho đến khi hoàn thành tốt đẹp” (ĐVSK TB) Tác phẩm: Đại việt sử ký toàn thư khắc năm Chính Hòa 18

132 Trần Văn Thịnh. 2006. Văn quan -Võ tướng xứ Thanh, Nxb Thế giới, Hà Nội.

180

(1697). Thơ: Thi châu tập, Hoa trình thi tập.

Tư nghiệp

18 Nguyễn Long Bảng (1652 - ?)

Làm quan đến chức Tư nghiệp

19 Phạm Quang

Hà Nội

thượng

Tư nghiệp

Trạch (1653 -1716)

Thái tự khanh, Tư Nghiệp Quốc Tử Giám.

20 Trương Công

Tế tửu

Bắc Ninh 1683 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh (Thám hoa). Hà Nam 1685 đỗ Đệ giáp tam Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Giai (1665 -1728) (sau đổi tên Trương Công Khải)

21 Chu Phúc Cổn

Tế

(1655 -1743)

Hình bộ Thượng thư, Bồi tụng Hình bộ Thượng thư, phụng quản Tả tiệp cơ, Nhập thị Kinh diên, Lễ bộ sự, Tri Nội điện thị nội văn chức, Thự Trung Thư giám kiêm Tế tửu Quốc Tử Giám. Làm quan đến chức Tế tửu

1709 tửu

22 Nguyễn Thẩm

Hà Nội

Tế tửu

Tế tửu

Hà Nội

(1663 -1725) 23 Nguyễn Trù (1668 - 1736)

Nghệ An Năm 1685 đỗ Tam trường thi Hội 1694 đỗ Tam trường 1697 Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân

Đốc trấn, Hình bộ Hữu thị lang kiêm Tư nghiệp Quốc Tử Giám

Tư nghiệp Ông là người học hỏi rộng rãi, thường sửa định, chú thích sách vở. Ông đã biên khảo cuốn: Sách học đề cương tập chú, Quần hiền phú tập.

Tế tửu

24 Tạ Đăng Huân

Hà Nội

(1672 -1741)

Tế tửu, Lễ bộ Hữu Thị lang.

25 Nguyễn Quang

Hà Nội

Tri QTG

(Huy) Nhuận (1678 -1758)

1700 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) 1703 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

26 Nguyễn Viết

Tế tửu

Vĩnh Phúc

Tú (1671 -1752)

27 Nguyễn Trí Vị

Hà Nội

Tế tửu

(1670 -1744)

Phó sứ, Tham tụng, Hộ bộ Thượng thư, Tri Quốc Tử Giám, Phó đô Ngự sử, Tả thị lang bộ Hình. Làm quan đến chức tửu. Khi mất Tế được truy Phó đô Ngự sử. Tế tửu, Hàn lâm viện Thừa chỉ.

Hà Nội

Tư nghiệp

28 Từ Bá Cơ (1683 -?)

Thự Tham chính, Tư nghiệp Quốc Tử Giám

29 Nguyễn Công

Hà Nội

1710 đỗ Đệ giáp tam Đồng Tiến sĩ xuất thân 1712 đỗ Đệ giáp tam Đồng Tiến sĩ xuất thân. 1712 đỗ Đệ giáp tam Đồng Tiến sĩ xuất thân. 1715 đỗ Đệ giáp tam

Thái

Tế tửu Quốc Tử Giám, Phó sứ sang

1763: Tế Tri tửu,

Bản tính ông ngay thẳng, cứng cỏi, ít

181

(1684 -1758)

Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Quốc Tử Giám

nước Thanh, Tham tụng Thượng thư bộ Lại.

nói, ở chính phủ thiên vị ai. không Cho nên bọn tiểu nhân thường nhằm vào chỗ sơ hở của trích. ông mà chỉ Nhưng sự tin dùng của chúa Trịnh đối với ông thì không suy giảm, ông đã về trí sĩ mà trước sau 5 lần còn được vời giữ chức Tham tụng.

Tế tửu

30 Trần Ân Triêm (1673 -?)

Thanh Hóa

Tế tửu, Hàn lâm viện Thừa chỉ

1715 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

31 Nguyễn Phùng -

(1685

Hình bộ Tả Thị lang, Tế tửu

1736: Tế tửu

Thì 1754)

Hà Nội

Tế tửu

32 Nguyễn Cẩm (1678 -?)

Làm quan đến chức Quốc Tử Giám Tế tửu.

33 Lê Hữu Kiều (1691 - 1760)

Hưng Yên

1732: Tế tửu

Nghệ An 1715 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân 1718 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. 1718 Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

34 Trần Cảnh

Tế tửu

(1684 -1758)

Hải Dương

Tư vụ bộ Hộ, quyền Hiến sát sứ Kinh Bắc, Hàn Lâm viện Thừa chỉ, Hữu thị lang bộ Công, Phó sứ, Tả Thị lang bộ Công, Tế tửu, Đô đài, Thượng thư bộ Công, Tham tụng, Đốc Thái trấn Nguyên. Hình bộ Thượng thư, Tham tụng, Lễ bộ Thượng thư.

Tế tửu

35 Trần Xuân Yến (1689 -?)

Hải Dương

Làm quan đến Quốc Tử Giám Tế tửu

36 Giang Sĩ Đoan

Tế tửu

(1694 -1784)

Thái Bình

Hữu Thị lang bộ Hộ, Tế tửu Quốc Tử Giám

37 Hà Tông Huân (1697- 1766)

Thanh Hóa

Tri Quốc Tử Giám

1718 đỗ Tiến tam sĩ Đệ giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân 1721 Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân 1721 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân Năm 1724 đỗ Tiến sĩ cập đệ Đệ Nhị (Bảng danh nhãn)

Thị thư Hàn lâm viện, Đốc đồng, Đốc thị trấn, Tả lang bộ Hộ, Phòng sát sứ, hành Tham tụng, Tham đốc, Hiệp trấn, Thượng thư bộ Binh, Tri

Thuở nhỏ nối tiếng thần đồng. Sau nhờ học rộng đỗ cao, được người đời trọng vọng. Trải làm quan trong ngoài đều có công trạng được tiếng tốt. Học trò nhiều

182

Quốc Tử Giám.

38 Nguyễn Đức

Tế tửu

Vỹ (1700 -1775)

Bắc Ninh 1727 đỗ Đệ giáp tam Đồng Tiến sĩ xuất thân

người làm quan có tiếng. Người danh đương thời coi ông là bậc tôn sư. Ông là người thanh bạch, cẩn thẩn, làm quan ở đài sảnh hơn 18 năm nhà không chút của thừa, ai cũng phục là liêm khiết.

Danh

1743: Tế tửu

39 Trần Ninh (1703 -1766)

Bắc Ninh 1731 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp)

Đô Ngự sử, Hữu lang bộ Lại, Thị Đông các Hiệu thư, Hữu Thị lang bộ Hình, Hữu Thị lang bộ Binh, Tả Thị lang bộ Lại, Bồi tụng, Thượng thư bộ Công kiêm bộ Lại, Tế tửu, Nhập thị Kinh diên tước Nghĩa Phương hầu. Hàn lâm Thị độc, Tri lễ phiên, Nhập thị Bồi tụng, Tả thị lang, Thượng thư bộ Lễ tước hầu, kiêm Sử quán Tổng đài.

40 Dương Công

Tư nghiệp

Ông là người cương quyết, nghiêm nghị tự giữ cái phong thể của mình, việc giáp binh, việc tế lễ nào cũng làm được cả. Đến như ở chốn triều đình bàn việc chính trị thì ông rất khảng bằng, công khái, ngay thẳng, lẫm liệt, không dám ai dám phạm, có khuôn mẫu khí độ bậc danh thần, bấy giờ ai cũng kính phục.

Chú (1696 - ?)

Hưng Yên

Tư nghiệp Quốc Tử Giám, Lại bộ Tả Thị lang.

Hà Nội

41 Nguyễn Bá Lân (1701 -1786)

1756: Tế tửu

1731 đỗ Đệ giáp tam Đồng Tiến sĩ xuất thân. 1731 đỗ Đệ giáp tam Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Phiên tào, Tả chấp pháp, Lưu thủ, Đốc trấn, tụng Bồi Thiêm đô Ngự sử, Tế tửu

thể

loại

Ông là người hiếu tài văn học, chương, được người đời bấy giờ tôn là một trong “An Nam đại tứ tài”. Ông là tác giả của nhiều thơ như thể phú chữ Nôm (tác phẩm Giai cảnh hứng tình, Ngã Ba Hạc), phú chữ Hán (Dịch đình dương xa phú, Cung nhân trúc diệp phú, Trương Hàn tư thuần lô phú); thơ chữ Hán, chữ Nôm được chép trong Việt sử thi quyển và Quốc âm thi tập.

42 Nguyễn

Hà Tĩnh 1731 đỗ Đệ Tham nhung vụ Tế tửu, Tri Ông có các tác phẩm:

183

Nghiễm (1708-1775)

Quốc Tử Giám

nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp)

Việt sử bị lãm, Quân trung liên vịnh, Lạng Sơn Đoàn thành đồ chí.

Tế tửu

43 Mai Thế Chuẩn

(1703 -1761)

Thanh Hóa

44

Tư nghiệp

Nghệ An

Hiệp đồng tán lý, Tham chính sứ, Tế tửu Quốc Tử Giám, Hàn lâm Thừa chỉ, Hữu tri bộ tham Công, Bồi tụng, Tả Thị lang, Hiệp trấn, Đô ngự sử, Tả Thị lang bộ Hình, Tả thị lang bộ Lễ, Thượng thư bộ Công, Nhập thị Bồi tụng, đứng đầu Quốc Tử Gám, Thái tự thiếu bảo. Hữu thị lang, Tế tửu đổi sang ban võ giữ chức Quyền phụ sự. Làm quan đến chức Tư nghiệp, kiêm Đông các Đại học sĩ

Nguyễn Quýnh (1710 -1772)

45 Trịnh

Tuệ

Thừa chỉ, Tế tửu Quốc Tử Giám.

1741: Tế tửu

Tác phẩm: Tam giáo nhất nguyên thuyết.

(1704 -?)

Thanh Hóa

Tế tửu

46 Nhữ Đình Toản

(1703 -1774)

Hải Dương

1731 đỗ Đồng tiến sĩ xuất thân 1733 đỗ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân 1736 đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhất danh 1736 Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

47 Nguyễn Hoàn

(1713- 1792)

Thanh Hóa

Tri Quốc Tử Giám

1743 đỗ Đệ tam giác Đồng Tiến sĩ xuất thân

Ông tham gia làm sách Bách ty quan chưởng (còn gọi Tấn thân thực lục, Bách ty chức chưởng). Ông là người có công sưu tầm chỉnh lý và biên soạn bộ Đại Việt lịch triều đăng khoa lục, Đại Việt sử ký tục biên.

Tế tửu

48 Trần Văn Trứ (1716 -?)

Hải Dương

Tham tụng, Binh bộ Thượng thư. Sau ông đổi chức võ: Hiệu kiểm điểm, Tả Đô đốc, Nhập thị Tham tụng, Lại bộ thư kiêm Thượng hành Lễ bộ sự Hữu tư giảng, Tri Quốc Tử Giám, Tri Trung thư giám, Tri Đông các, Tri Hàn lâm viện sự. Hàn lâm viện Đãi chế, Thự Thiêm đô Ngự sử, Tế tửu

1743 đỗ Nhị giáp đồng TS xuất thân

thanh

Trí sĩ ông về quê dạy học, học trò của ông rất đông, nhiều người là thành đạt. Ông người liêm, nhân hậu.

Tế tửu

49 Nguyễn Kỳ (1718 -?)

Đông các Đại học sĩ, Hành Quốc Tử Giám Tế tửu.

Hà Nam 1748 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân

50 Nguyễn Huy

Tế tửu

Oánh (1713 -?)

Hà Tĩnh Năm 1748 đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám Hoa)

Hàn lân viện Đãi chế, Đông các Học sĩ, Giám khảo thi Hội, Tế tửu Quốc Tử Giám, Chánh sứ nhà Thanh, Lại bộ Tả thị lang, Thượng

184

51 Vũ Miên

Tế tửu

(1718 -1782)

Bắc Ninh Năm 1748 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân

thư bộ Công, Đô Ngự sử. Nhập thị Bồi tụng, thự Lại bộ Tả thị lang kiêm Quốc Tử Giám Tế tửu, Quốc sử quán Tổng tài, Tham tụng

52 Lê Quý Đôn

(1726 -1784)

Thái Bình

1767: Tế tửu

1752 đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị (Bảng danh nhãn)

Thừa chỉ, Nhập thị Bồi tụng, Hộ bộ Tả thị lang, Tham thị kiêm Trấn thủ xứ Thuận Quảng, Hộ bộ Tả thị lang, hành Đô ngự sử, Tế tửu, Tả hiệu điểm, Hiệp trấn Nghệ An.

53 Phan Huy Cẩn

Tư nghiệp

Tác phẩm: Lê triều Vũ Liên Khê công Bắc sự tự thuật, Đại Việt lịch triều đăng khoa lục đồng biên tập cùng Phan Trọng Phiên, Uông Sĩ Lăng. là nhà bách Ông khoa, có nhiều công trình nghiên cứu, sáng tác. Nổi tiếng nhất là: Vân đài loại ngữ, Đại Việt thông sử, Toàn Việt thi lục, Kiến văn tiểu lục, Phủ biên tạp lục, Bắc sứ thông lục, Quần thư khảo biện, Thư kinh diễn nghĩa, Quế Đường thi tập.

(1722 - 1789)

Hà Tĩnh 1754 Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Tế tửu

54 Vũ Huy Đĩnh (1730 -1789)

Hải Dương

1754 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Nhập thị Bồi tụng, Công bộ Hữu thị lang, Thự binh thị kiêm Quốc Tử Giám, Tả Thị lang bộ Lễ kiêm Quốc sử Tổng tài. Thừa chính sứ, Binh bộ Hữu thị lang, Lễ bộ Hữu thị lang, Tế tửu. Phó sứ đi nước Thanh.

Hà Nội

tác: ông

55 Phan Lê Phiên (1735-1809)

1767: Tư nghiệp

1757 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Tham tụng, Bình chương sự, Hành Tham tụng, Hộ bộ Hữu thị lang, Thự Lại bộ Hữu thị lang kiêm Tri Quốc Tử Giám Tư nghiệp.

Năm 1771 khi đi sứ sáng tác thành tập thơ có tên Hoa trình thi tập. Ông là người có kiến thức uyên bác, ham văn thơ, thích ngao du, từng đi nhiều nơi trong cảnh thắng nước. Ông còn là nhà biên khảo với công trình: Tùng vịnh tập, Tuyên Quang tập, Kỉ thắng tập, Nam trung tập, Bách đài tập, Tình tuyết tập, Thanh Hóa hậu tập. Trước là người biên tập cuốn Càn nguyên ngự chế thi tập (thơ văn chúa Trịnh Doanh), đồng biên tập Lịch triều đăng khoa lục, biên tập sách Trùng đính Phan thị gia phả. Ông là tác giả các bài

185

thi

Tế tửu

56 Nguyễn Khản (1734 -1768)

Hà Tĩnh 1760 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân

Hàn lâm viện Học sĩ, Đại học sĩ, Tả tư giảng, Hữu thị lang bộ Lại, Nhập thị Bồi tụng. Năm 1778 đổi sang võ ban chức Đô đốc, Tham tụng kiêm Trấn thủ Sơn Tây, Hưng Hóa.

văn bia: Đông Ngạc xã lệ phúc bi, Đông Ngạc xã tự sự bi, Kỷ Hợi thịnh khoa Tiến sĩ đề danh bi ký. Ông còn là tác giả của các bài thơ chữ Hán chủ yếu được ghi trong Quốc âm tập, Cẩm tuyền vinh lục, Lịch triều tế văn... Ông có công phò tá vua Lê trong cuộc tấn quân của Tây Sơn ra Bắc nhưng thất bại. Ông là người thơ văn giỏi, có tính nghệ sĩ, cùng với Nguyễn Hữu Chỉnh tổ chức nhiều buổi tiệc ca hát tại phủ đệ, thu hút được khá nhiều ca kỹ tài danh. Đồng thời ông là nhà thơ sáng tác bằng chữ Nôm, có bài Phú: Thuật hoài phú, Đan thư khiết khoán phú.

Hà Nội

sai

57 Lý Trần Quán (1734 -1786)

trước

1766 đỗ Đệ giáp Tam đồng Tiến sĩ xuất thân

tứ

Thiêm Lại phiên, Hiến sát sứ, Đốc đồng, Hiệp trấn, Đông các đại học sĩ, hành Quốc Tư Giám Tử nghiệp.

58 Nguyễn Đình

Tế tửu

Hưng Yên

Tố (1738 -?)

Tư nghiệp Ông là người hiếu hạnh, giản dị, chất phác.Về tác: ông viết lời bạt cho Thư kinh diễn nghĩa, lục, Lịch khoa tham gia biên tập bộ Đại Nam lịch khoa hội phú tuyển. Trước tác: Sử triều ngâm lục, Thiên nam lịch triều hội tuyển.

Năm 1769 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Công

Hải Dương

59 Nhữ Chân (1751 -?)

Ông là con của Nhữ Đình Toản, cháu nội Nhữ Tiến Hiền đều là những bậc Nho sĩ.

60 Vũ Huy Trác (1730 -?)

Nam Định

1772: Tư nghiệp

Năm 1772 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân 1772 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân

Làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị độc, Phó sứ, Khu mật viện, Tế tửu Quốc Tử Giám. Hàn lâm Thị chế, Tri Công phiên, Thự Lễ bộ Hữu thị lang Hàn lâm viện Thị giảng, Lễ bộ Tả thị lang kiêm Quốc Tử Giám Tư nghiệp Tư nghiệp

Tư nghiệp

61 Nguyễn Kiều

Nhạc

Tri QTG

62 Phạm Đình Dư (1742 -?)

Bắc Ninh Đỗ Hoàng giáp Bắc Ninh 1775 đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân

Lại bộ Hữu thị lang, Đốc bình Chương sự, Hành Lại bộ Thượng thư, Tri Quốc Tử Giám.

186

63 Chu Nguyên

Hà Nội

Tùy giảng

Mại (1740 -?)

1778 đỗ Đệ giáp tam Đồng Tiến sĩ xuất thân

Hàn lâm viện Đãi chế, Quốc Tử Giám Tùy giảng, Đông các Hiệu thư. Tế tửu

Tế tửu

64 Nguyễn Dịch

Chưa rõ ?

Tế tửu

Nhuận

Chưa rõ Chưa rõ

Tế tửu

(?) 65 Lê

(chưa rõ)

Hồng

Tế tửu Giáo thụ

66 Đình Thân 67 Trịnh Lục

Chưa rõ

Tế tửu Giáo thụ Quốc Tử Giám Tri Quốc Tử Giám 1764:

Tri QTG

Chưa rõ Chưa rõ Chưa rõ Hải Phòng 68 Trần Huy Bật Đông Sơn, Thanh Hóa

(Nguồn: Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê.1993. Đại Việt sử ký toàn thư (Bản khắc in năm Chính Hòa 18 -1697), Tập 1, 2, 3, Nxb Khoa học Xã hội; Đại Việt sử ký tục biên (1676 -1789). 1991. Nxb KHXH; Quốc sử quán triều Nguyễn. 1998. Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, Tập 2, Nxb Giáo dục; Phan Văn Các (Cb). 2010. Di sản văn chương Văn Miếu -Quốc Tử Giám, Nxb Hà Nội; Ngô Đức Thọ (Cb).2006. Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919 ,Nxb Văn học; Nguyễn Hoàng Điệp (Cb).2010. Các vị Tư nghiệp & Tế tửu Văn Miếu Quốc Tử Giám - Hà Nội, Nxb. Văn hóa Thông tin) Bảng 3. Một số đề thi thơ, phú, sách vấn trong thi Hương thời Lê -Trịnh

Đề phú

Sách vấn

Stt Khoa thi

Hải nội khang ninh

1

Đề thơ Thể quần thần, tử thứ dân

Nhân tài hữu quan ư tri đạo

2

3

Thời sử bạc liễm

Thân quân tử, xích tiểu nhân

4

Thận khuy ngũ điển

5

6

Lạc thiện bảo thiên hạ Thiên hạ nông giai duyệt

7

Vi chư hầu đồ

chúng,

thân

8

Vĩnh Thịnh 1 (1705) Vĩnh Thịnh 4 (1708) Vĩnh Thịnh 10 (1714) Vĩnh Thịnh 13 (1717) Bảo Thái 1 (1720) Bảo Thái 4 (1723) Bảo Thái 7 (1726)

Thụ nhân

Vương chính bản nhân ân Hành Vũ Thành Tam miếu Cửu bát nguyên, bố ngũ giáo

9

Trí bưu truyền mệnh Trí Hoằng Văn quán

Vĩnh Khánh 1 (1729)

Vị trị bất ngoại hồ nạp trung ngôn. Sư cổ huấn, sùng tiết nghĩa, ức bôn cạnh nhi dĩ.

10

Long Đức 1 (1732)

Kinh luân thiên hạ đại kinh

Thiên hạ dân mông hưu dức

11

Sử dĩ lễ, sự dĩ trung

Vĩnh Hựu 1 (1735)

Nam phong hảo phụ dân tài

Thiên hạ quốc gia tự hữu đại quy mô, hậu dân phong thẩm trị thế, chỉ từ tụng minh khóa pháp, giai quy mô chi đại dã

tài

12

Võ công văn đức

Vĩnh Hựu 4 (1738)

Lai bách công dụng túc

13 Cảnh Hưng 4 Phụ thế trưởng dân

Kiến quan duy hiền, vi

187

14

Đạo đức tề lễ nghĩa

Thánh nhân cảm nhân tâm nhi thiên hạ hòa bình

thiện

thần đạo hợp

15

16

17

18

Thánh nhân lưu trạch vạn thế, vô hữu đại ư tác nhân

19

(1743) Cảnh Hưng 11 (1750) Cảnh Hưng 14 (1753) Cảnh Hưng 17 (1756) Cảnh Hưng 20 (1759) Cảnh Hưng 23 (1762) Cảnh Hưng 26 (1765)

Thiện chính giáo Dữ bách tính đồng lạc Thần cư sở, chúng tinh củng Ôn lương cung kiệm nhường Ngũ cốc thục, nhân dân dục

sự duy năng Trạch hiền tài, trí bách quan Quân chính sự tu cử Giáp binh cường, nhân sĩ chúng Yển can qua, tu văn đức Thiết quan phân chức vị dân Tiến thiện nhân, hành chính đạo

20

Đắc nhân vi thịnh

Cảnh Hưng 29 (1768)

Thiên địa vị vạn vật dục

21

Tu thân tôn hiền

Cảnh Hưng 32 (1771)

Hưng giáo hóa chính trị

Vi quốc hữu cửu kinh, tôn hiển vi thượng; Khuyến hiền hữu tứ sự, khử sàm vi thủ. Càn đạo thủ xuất thứ vật nhi vạn vật hanh, quân đạo tôn lâm đại vị nhi tứ hải tòng.

22

Nhân giả vô địch

23

Tề trang trung chính

24

Công quang tổ tông, nghiệp thùy hậu tự Thiên tử kiến trung hòa Hộ khẩu tư đa, gia cấp nhân túc

tương

thần

25

Nam diện trị thiên hạ

Cảnh Hưng 35 (1774) Cảnh Hưng 38 (1777) Cảnh Hưng 40 (1779) Cảnh Hưng 41 (1780)

Trí quảng đại tân tinh vi Quân duyệt lạc

triết nhân,

26

Xử trí đắc nghị

Cảnh Hưng 44 (1783)

Phu cầu bàng cầu tuấn nhân

Thiên tử tác dân phụ mẫu, dĩ vi thiên hạ vương, khả dĩ tham thiên địa nhi tán hóa dục hồ? (Nguồn: Nguyễn Tá Nhí (Sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu). 1995.Phượng Dực đăng khoa lục, Nxb KHXH, Hà Nội)

Bảng 4. Các sự kiện liên quan đến thi Hương triều Lê - Trịnh

Stt Năm mở khoa thi

Sự kiện liên quan đến trường thi

1

Thời gian (tháng) 11

Không có thông tin

thø 2

2 3

8 8

Không có thông tin Không có thông tin

thø 2

Không có thông tin Không có thông tin

4 5 6

11 9 Không rõ Tiêu cực xảy ra tại trường thi Thanh Hoa và Sơn

Ho»ng §Þnh (1601) VÜnh Té thø 9 (1627) §øc Long (1630) C¶nh TrÞ thø 1 (1663) C¶nh TrÞ thø 8 (1670) D ¬ng §øc 2 (1673)

7 8

11 10

Nam, quan trường bị xử. Không rõ Trường thi Thanh Hoa, Nghệ An, Sơn Tây, Phụng Thiên khảo hạch lại Hương cống bị loại rất nhiều

9

Không rõ Ra lệnh các quan trường thay đổi cách ra đề thi

thø 7

§øc Nguyªn 2 (1675) ChÝnh Hoµ thø 17 (1696) VÜnh ThÞnh (1711)

Hương. Tăng ngạch đỗ trường Sơn Nam tăng 20 từ 60 Hương cống lên 80; Sinh đồ lấy từ 600 lên 800. Xảy ra tiêu cực ở trường thi Phụng Thiên

10

10 VÜnh

ThÞnh

thø

13(1717)

188

10

thø 16

11 VÜnh ThÞnh (1720)

10

12 B¶o Th¸i thø 7 (1726)

8

13 Cảnh Hưng 4 (1743)

10

Tăng ngạch đỗ trường thi Sơn Nam. Từ 60 Hương cống tăng thêm 20; Sinh đồ tăng từ 600 lên 800. Tăng thêm hạn ngạch lấy đỗ ở phủ Phụng Thiên. Hạng tam trường từ 100 lên 150; tứ trường từ 10 lên 20. Trường thi Nghệ An bị học trò cho đốt cháy ở kì đệ ba. Thêm ngạch lấy đỗ trường thi Hương do đầu năm Cảnh Hưng gặp nhiều thiên tai, binh lửa nên hoãn khoa thi. Khôi phục phép thi Hương đời Bảo Thái 3 (1721)

thø 8

10

Cho nộp tiền thông kinh để dự kì thi Hương.

thø 11

10

Không có thông tin

thø 20

14 C¶nh H ng (1747) 15 C¶nh H ng (1750) 16 C¶nh H ng (1759)

10

17 Cảnh Hưng 23 (1762)

10

thø 26

10

thø 29

18 C¶nh H ng (1765) 19 C¶nh H ng (1768)

10

thø 33

20 C¶nh H ng (1772)

10

21 Cảnh Hưng 35 (1774)

10

thø 38

22 C¶nh H ng (1777)

10

23 Cảnh Hưng 40 (1779)

11

thø 44

24 C¶nh H ng (1783)

Học trò trường thi Sơn Nam hỏng kì đệ nhị xin chúa Trịnh cho thi lại nhưng không đỗ ai cả. Nguyễn Thế Giai phục chức cho thi hành lệ nộp tiền thông kinh Tăng ngạch đỗ trường thi Sơn Nam. Trường Nghệ An có tiêu cực, xử quan trường Dương Sử, Nguyễn Duy Thức biếm chức. Khôi phục lại số lấy đỗ ở trường thi Sơn Nam Cuối năm 1771 quy định số Sinh đồ ở trường Sơn Nam là 1000 người, tứ trường là 100. Rồi lại cho các xứ lấy đỗ thêm Sinh đồ; Thanh Hoa 100 người, Nghệ An, Kinh Bắc, Hải Dương, Sơn Tây 80 người. Phụng Thiên 20; An Quảng, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa và Châu Bố cứ 10 người đỗ lấy thêm 1 người Học trò Thanh Hoa đốt phá trường thi, quan trường bị giáng chức Cho học trò trường Thanh Hoa dự thi Hương. Mở trường thi Hương ở Thuận Hóa. Chúa Trịnh Sâm tự mở khoa thi Hương ở ngoài lầu Ngũ Long. Tăng thêm ngạch đỗ dự thi Hương cho các huyện: huyện lớn trước lấy 70 nay tăng lên 100, huyện nhỏ trước lấy 50 nay tăng lên 70, lấy thêm cả hạng sảo thông và thứ thông

(Nguồn: Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê.1993. Đại Việt sử ký toàn thư (Bản khắc in năm Chính Hòa 18 -1697), Tập 3, Nxb Khoa học Xã hội; Đại Việt sử kỷ Tục biên (1676 -1789).1991. Nxb KHXH, Hà Nội; Ngô Cao Lãng. 1995. Lịch triều tạp kỷ, Nxb KHXH, Hà Nội; Quốc sử quán triều Nguyễn.1998. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục; Phan Huy Chú.2007. Lịch triểu hiến chương loại chí, Tập 1, 2 Nxb Giáo dục) :

189

Bảng 5. Thời gian tổ chức thi Hội và thi Đình của một số khoa thi Tiến sĩ thế kỷ XVII –XVIII

Stt

Khoa thi

Thi Hội

Thi Đình

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 51 52

Vĩnh Tộ 10 (1628) Đức Long 3 (1631) Dương Hòa 1 (1643) Phúc Thái 4 (1646) Khánh Đức 2 (1650) Khánh Đức 4 (1652) Thịnh Đức 4 (1656) Vĩnh Thọ 2 (1659) Vĩnh Thọ 4 (1661) Cảnh Trị 2 (1664) Cảnh trị 5 (1667) Cảnh trị 8 (1670) Dương Đức 2 (1673) Vĩnh Trị 1 (1676) Vĩnh Trị 5 (1680) Chính Hòa 4 (1683) Chính Hòa 6 (1685) Chính Hòa 9 (1688) Chính Hòa 12 (1691) Chính Hòa 15 (1694) Chính Hòa 18 (1697) Chính Hòa 21 (1700) Chính Hòa 24 (1703) Vĩnh Thịnh 2 (1706) Vĩnh Thịnh 8 (1712) Vĩnh Thịnh 11 (1715) Vĩnh thịnh 14 (1718) Bảo Thái 2 (1721) Bảo Thái 5 (1724) Bảo thái 8 (1727) Vĩnh Khánh 3 (1731) Long Đức 2 (1733) Vĩnh Hựu 2 (1736) Vĩnh Hựu 5 (1739) Cảnh Hưng 4 (1743) Cảnh Hưng 7 (1746) Cảnh Hưng 9 (1748) Cảnh Hưng 13 (1752) Cảnh Hưng 15 (1754) Cảnh Hưng 18 (1757) Cảnh Hưng 21 (1760) Cảnh Hưng 24 (1763) Cảnh Hưng 27 (1766) Cảnh Hưng 30 (1769) Cảnh Hưng 33 (1772) Cảnh Hưng 36 (1775) Cảnh Hưng 39 (1778) Cảnh Hưng 40 (1779) Cảnh Hưng 42 (1781) Cảnh Hưng 46 (1785) Chiêu Thống 1 (1787)

Tháng 4 Tháng 4 Tháng 12 Tháng 12 Tháng 12 Tháng 4 Tháng 12 Tháng 4 Tháng 4 Tháng 6 Tháng 4 1/1671 Ngày 16/12 Ngày 3/6 Tháng 6 1/1684 1/1686 1/1689 Ngày 2/5 Tháng 4 Tháng 12 Tháng 5 Tháng 12 Ngày 8/5 Ngày 5/6 Ngày 11/6 Tháng 6 1/1722 Tháng 4 Ngày26/5 Tháng 11 Tháng 5 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 12 Ngày21/5 Ngày25/5 Tháng 12 Tháng 4 Tháng 3 Tháng 3 Tháng 9 Tháng 5 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 11 Tháng 4 Tháng 12 Tháng 4 Tháng 4 Tháng 11

Tháng 2 Tháng 3 Tháng 10 Tháng 10 Tháng 10 Tháng 3 Th¸ng 10 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 3 Tháng 2 11/1670 Tháng 10 Tháng 3 Tháng 3 11/1683 12/1685 Tháng 10 Tháng 3 Tháng 3 Tháng 10 Tháng 3 Tháng 10 Tháng 3 Tháng 3 10/3 Tháng 2 Tháng 10 Tháng 3 Tháng 3 Tháng 10 Tháng 4 Tháng 3 Tháng 3 Tháng 10 Tháng 3 Tháng 3 Tháng 10 Tháng 3 tháng 2 Tháng 2 Mùa xuân Tháng 4 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 10 Tháng 3 Tháng 11 Tháng 3 Tháng 3 13/10

Khoảng cách giữa hai kì thi 2 tháng 1 tháng 2 tháng 2 tháng 2 tháng 1 tháng 2 tháng 2 tháng 1 tháng 3 tháng 2 tháng 2 tháng 2 tháng 3 tháng 3 tháng 2 tháng 1 tháng 3 tháng 2 tháng 1 tháng 2 tháng 2 tháng 2 tháng 2 tháng 3 tháng 3 tháng 4 tháng 3 tháng 2 tháng 2 tháng 1 tháng 1 tháng 1 tháng 2 tháng 2 tháng 2 tháng 2 tháng 2 tháng 1 tháng 1 tháng 1 tháng 8 tháng 1 tháng 1 tháng 1 tháng 1 tháng 1 tháng 1 tháng 1 tháng 1 tháng 1 tháng

190

(Nguồn: Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê.1993. Đại Việt sử ký toàn thư (Bản khắc in năm Chính Hòa 18 -1697), Tập 3, Nxb Khoa học Xã hội; Đại Việt sử kỷ Tục biên (1676 -1789).1991. Nxb KHXH, Hà Nội; Ngô Cao Lãng. 1995. Lịch triều tạp kỷ, Nxb KHXH, Hà Nội; Quốc sử quán triều Nguyễn.1998. Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Nxb Giáo dục; Phan Huy Chú.2007. Lịch triểu hiến chương loại chí, Tập 1, 2 Nxb Giáo dục; Cao Xuân Dục. 1993. Quốc triều hương khoa lục, Tp. Hồ Chí Minh). Đặng Xuân Bảng. 2000. Việt sử cương mục tiết yếu, Nxb KHXH, Hà Nội. Đỗ Văn Ninh.2000. Văn bia Quốc Tử Giám. Nxb. KHXH, Hà Nội).

Bảng 6. Một số viên Đề điệu, Tri cống cử, Giám thí trong kì thi Hội và thi Đình thời Lê -Trịnh.

Đề điệu

Tri cống cử

Giám thí

Loại hình

Chức quan Khoa thi Quang Hưng 18 (1595)

Đình

Quang Hưng 21 (1598)

Đình

Thái úy Đoan quốc công Nguyễn Hoàng Thái úy Ngạn quốc công Trịnh Đỗ.

Lại bộ Thượng thư thiếu phó Quỳnh Quận công Nguyễn Mậu Tuyên Ngự sử đài Đô Ngự sử Văn Trinh bá Lê Trạc Tú.

Đình

Hoằng Định 5 (1604)

Hoằng Định 8 (1607)

Lễ bộ Tả thị lang Hòa Lễ bá Ngô Tháo. Hộ bộ Tả thị lang Hồ Bỉnh Quốc. Lễ bộ Tả thị lang Hòa Lễ bá Ngô Tháo. Đại lý Tự khanh Trần Phúc Hựu Hình bộ Hữu thị lang Bút Giang nam Lê Đình Túc Địch Lương bá Hoa Hữu Mô.

Hội

Hộ bộ Thượng thư Vĩnh Lộc bá Nguyễn Văn Giai Hình bộ Thượng thư nghĩa Khê hầu Nguyễn Lễ.

Hoằng Định 11 (1610)

Hội

Thái bảo Kỳ Quận công Trịnh Ninh. Hữu Đô đốc Xuyên quận công Đỗ Thế Vinh Hữu Đô đốc Nguyên quận công Trịnh Đồng.

Hình bộ Thượng thư kiêm QTG Tế tửu, Đông các Đại học sĩ Nghĩa Khê hầu Nguyễn Lễ.

thị

Hoằng Định 14 (1613)

lang hầu

Lan

Lại bộ Tả thị lang Phú Xuân hầu Ngô Trí Hòa

Hội

bảo quận Lê

Hộ bộ Tả thị lang Phú Xuân hầu Ngô Trí Hòa; Lễ bộ Tả thị lang Phương Lan hầu Nguyễn Thực. Lễ bộ Ttả Phương Nguyễn Thực.

Hoằng Định 17 (1616)

Hội

Thái Đông công Ngạnh. Tả đô đốc Lỵ quận công Lê Lựu

Lễ bộ Thượng thư kiêm QTG Tế tửu, Đông các Đại học sĩ Nghĩa Khê hầu Nguyễn Lễ.

Hoằng Định 20 (1619)

Dương

Tả đô đốc Lễ quận công Trịnh Sâm.

Lan

Hội

Lại bộ Tả Thị lang Phú Xuân hầu Ngô Trí Hòa và Hộ bộ Tả thị lang Diễn gia hầu Lê Bật Tứ. Hình bộ Thượng thư kiêm Đông các học sĩ hầu Phương Nguyễn Thực.

Vĩnh Tộ 5 (1623)

Dương

bảo quận Lê

Ngự sử đài đô ngự sử Thụy bá Nguyễn Danh Thế, Hộ bộ Tả Thị lang Lương Xuyên bá Phạm Hồng Nho. Ngự sử đài Đô ngự sử Thụy bá Nguyễn Danh Thế.

Hội

Thiếu Đông công Ngạnh.

Lễ bộ Tả hị lang Phương Tuyền hầu Nguyễn Duy Thì, Lại bộ Hữu thị lang Nhân Lĩnh hầu Lưu Đình Chất .

Vĩnh Tộ 10

Thái

bảo Bộ binh Thượng thư Lại bộ Hữu thị lang Lai Đình

191

(1628)

bá Nguyễn

Quỳnh quận Trịnh công Đệ.

Phong Tuấn.

Đức Long 3 (1631)

Thái phó Lỵ quận công Lê Lựu.

Hội

Lại bộ Tả thị lang lại Phong hầu Nguyễn Tuấn, Lễ bộ Tả thị lang Xuân Lại hầu Nguyễn Tự Cường

Đức Long 6 (1634)

Thái phó Lỵ quận công Lê Lựu

Đình

Lại bộ Tả thị lang lại Phong hầu Nguyễn Tuấn, Lễ bộ Tả thị lang Xuân Lại hầu Nguyễn Tự Cường

Dương Hòa 3 (1637)

Thái bảo Kiên quận công Trịnh Quân.

Đình

thái úy Đăng quận công Nguyễn Khải, Hình bộ Thượng thư kiêm Ngự sử đài đô ngự sử, Thiếu phó Đường quận công Nguyễn Danh Thế. Lễ bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Chưởng hàn lâm viện sự Đông các đại học sĩ Thiếu úy Lan quận công Nguyễn Thực. Lễ bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thị giảng, Chưởng Hàn lâm viện sự Đông các đại học sĩ, Thiếu úy Lan quận công Nguyễn Thực Binh bộ Thượng thư kiêm QTG Tế tửu Thiếu phó Tuyền quận công Nguyễn Duy Thì.

Dương Hòa 6 (1640)

Lại bộ Tả thị lang Thọ Hải hầu Trần Hữu Lễ.

Đình

bảo Thiếu quận Lan công Hoàng Nghĩa Phì.

Phúc Thái 1 (1643)

Thái bảo Kiên quận công Trịnh Quân

Ngự sử đài Đô ngự sử Thọ Lĩnh hầu Nguyễn Nghi.

Đình

Phúc Thái 4 (1646)

Hội

Thiếu bảo Dương quận công Nguyễn Nghi, Hình bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Chưởng Hàn lâm viện Dương Trí Trạch.

Quốc lão Thái phó Kiên công Quận Trịnh Quân, Lễ bộ Thượng thư Tri kinh diên sự.

Khánh Đức 2 (1650)

Đình

phó Quận Trịnh

Hộ bộ Tả thị lang Mai quận công Nguyễn Tiến Dụng. -Lễ bộ Hữu thị lang Thọ Hải hầu Trần Hữu Lễ. -Lễ bộ Hữu thị lang Cẩm Lộc tử Nguyễn Bình -Ngự sử đài thiêm đô ngự sử Phúc Xuyên Thọ nam Nguyễn Quyến. - Lễ bộ Tả thị lang kiêm Hàn lâm viện Thị giảng, Tham chưởng Hàn lâm viện Sự Thọ Diên hầu Dương Trí Trạch. - Lại bộ Tả thị lang Mỹ hầu Nguyễn Thọ Quang Minh. Lễ bộ Tả thị lang Thọ Xuyên hầu Trần Nghi, ngự sử đài Phó Đô ngự sử Khánh Yên bá Phạm Trứ, Công Thiêm Đô ngự sử Diễn Thọ bá Lê Kính. Lại bộ Tả thị lang Mỹ Thọ hầu Nguyễn Quang Minh.

Lễ bộ Thượng thư Tri kinh diên sự Thiếu bảo công Dương Quận Nguyễn Nghi.

Khánh Đức 4 (1652)

Thiếu Bỉnh công Khuê. Thiếu phó La công quận Trịnh Tướng.

Đình

Hình bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thị giảng tham Chưởng Hàn lâm viện sự Bạt Quận công Dương Trí Trạch

Hộ bộ Tả thị lang Diễn Thọ hầu Nguyễn Bá Trạc. Lễ bộ Thị lang Văn Phú bá Nguyễn Sĩ Chính.

192

Cảnh Trị 8 (1670)

Hội

Phó tướng Thiếu úy Yên Quận công Trịnh Thiện.

-Lại bộ Tả thị lang Mỹ Thọ hầu Nguyễn Quang Minh. Bồi tụng Tả thị lang Bồi thị kinh diên Ngọc Trì tử Nguyễn Quốc Khôi.

thị

Dương Đức 2 (1673)

Trì

lang nam

Lễ bộ Tả Phương Nguyễn quốc Khôi.

Hội

Thái tể Bỉnh công quận Trịnh Quế (có chỗ chép là Khuể).

Vĩnh Trị 1 (1676)

Bồi tụng, Binh bộ Thượng thư Yên Lĩnh tử Nguyễn Mậu Tài.

Hội

- Ngự sử đài Phó Đô ngự sử Diễn Thọ bá Lê Kính. Bồi tụng Binh bộ Hữu thị lang Hải Sơn nam Nguyễn Danh Thực; Bồi tụng Công bộ Hữu thị lang Mai Lĩnh nam Lê Vinh. Lễ bộ Hữu thị lang nhập Thị kinh diên Bồi tụng Thọ nham tử Nguyễn Đình Chánh; Hình bộ hữu thị lang lĩnh và Bùi Tuyển Đình Tri. Bồi tụng, Lại bộ Tả thị lang, nhập Thị kinh diên Đặng Công Chất và Lễ bộ Hữu thị lang, nhập Thị kinh diên, Thọ Nham tử, Nguyễn Đình Chính.

Chính Hòa 4 (1683)

Hội

Bồi tụng Ngự sử đài Đô tử ngự sử Hải Sơn Nguyễn Danh Thực.

Bồi tụng Tả thị lang nhập Thị kinh diên Vĩnh Ngạn tử Nguyễn Công Vọng, Bồi tụng Lại bộ Hữu thị lang Nguyễn Viết Đương.

Chính Hòa 6 (1685)

Hội

Bồi tụng Ngự sử đài Đô ngự sử nhập Thị kinh diên Hải Sơn tử Nguyễn Danh Thực.

Bồi tụng Lại bộ Tả thị lang Hải Sơn, nam Nguyễn Viết Thứ và Bồi tụng Bộ binh Hữu thị lang Lai Sơn nam Lê Hy.

Chính Hòa 21 (1700)

Bồi tụng Ngự sử đài Đô ngự sử Hương Giang tử Nguyễn Quán Nho.

Hội

Bồi tụng Hình bộ Tả thị lang Khánh Sơn nam Nguyễn Thế Bá và Bồi tụng Lễ bộ Hữu thị lang Thi khánh nam Hoàng Công Chí.

Vĩnh Thịnh 2 (1706)

Trung quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Chương phủ sự Phó đô tướng Thái tể Quận Khê công Trịnh Trượng. Trung quân đô đốc phủ Tả đô đốc Thiếu phó Lộc quận công Đinh Văn Tả. Nam quân đô đốc phủ Tả đô đốc phó tướng phó Thiếu Quận Phái công Trịnh Du. Hậu hòa quân Phó doanh đốc tướng, bảo, Thái Tuyên Quận công Trịnh Quán. Thái phó Hội Quận công Trịnh Lộc.

Hội

Bồi tụng Ngự sử đài Đô ngự sử nhập Thị kinh diên Thọ tử lâm Nguyễn Đăng Đạo.

Vĩnh Thịnh 6 (1710)

Hình bộ Thượng thư, Tham tụng, Khánh Sơn bá Nguyễn Thế Bá.

Đình

Thiếu úy, Cơ quận công Trịnh Lang

Bồi tụng Binh bộ Tả thị lang Khánh Sơn tử Nguyễn Bá và Bồi tụng Hộ bộ Hữu thị lang Nhân thọ nam Nguyễn Đương Bao. Binh bộ Tả thị lang, Bồi tụng, Tư Trung thư giám, Hải Khánh tử Nguyễn Công Đổng; Hình bộ Tả thị lang, Bồi tụng, Thọ Nhạc tử Nhữ Đình Trinh.

193

Vĩnh Thịnh 8 (1712)

Hình bộ Thượng thư, Tham tụng, Khánh Sơn bá Nguyễn Thế Bá.

Hội

Thiếu phó Đông Quận công Trịnh Hoàn.

Hội

Bồi tụng binh Bộ Thượng thư Thọ Lâm bá Nguyễn Đăng Liên.

Vĩnh Thịnh 11 (1715)

thị

Vĩnh Thịnh 14 (1718)

Bồi tụng Ngự sử đài Đô ngự sử Nhập thị Kinh thư thự Trung diên giám Cẩm Sơn nam Trương Công Giai.

Hội

Lại bộ Tả thị lang, Nhập thị Kinh diên, Bồi tụng Nhân Thọ tử Nguyễn Đương Bao; Công bộ Tả thị lang Đông Lĩnh tử Nguyễn Danh Dự. Bồi tụng Lễ bộ Hữu thị lang Công Phạm Trạch; Bồi tụng Hình lang bộ Hữu Nguyễn Đương Hồ. Bồi tụng Hộ bộ Tả thị lang Tuần Thành nam Lê Anh Tuấn và Bồi tụng Lại bộ Hữu thị lang Kế Vũ nam Nguyễn Mậu Áng.

Thái

5

Bảo (1724)

tụng Hình bộ Bồi Thượng thư kiêm QTG Tế tửu Lỵ quận công Trương Công Giai.

Hội

Trung quân Đô đốc phủ Đô đốc Trạc công Quận Trịnh Thực. Tá lý công thần Tiền Hòa doanh quân Tây quân Đô đốc phủ thự phủ sự Thiếu Ứng phó Quận công Đặng Đình Tướng. Phó tướng đội tiền trung uy Thiếu bảo Vịnh Quận Trịnh công Khuê.

Bảo Thái 8 (1727)

Lại bổ Tả thị lang Bồi tụng Lỵ Quận công Trương Công Giai.

Hội

Đô đốc đồng trị Phó tướng Quận Bảo công Trịnh Khôi.

Vĩnh Khánh 3 (1731)

Hội

Phó tướng Đề đốc Phương công Quận Trịnh Bật.

Bồi tụng Lễ bộ Thượng thư Tri Hàn lâm viện sự Thiếu bảo Nông quận công Nguyễn Hiệu.

Long Đức 2 (1733)

Hội

Bồi tụng Lại bộ Tả thị lang Nhập thị kinh diên Lại Trạch hầu Phạm Đình Kính.

Bồi tụng Lại bộ Tả thị lang Nhập thị Kinh diên Quỳnh Quận công Hồ Phi Tích; Lễ bộ Hữu thị lang Phượng Sơn bá Tạ Đăng Huân; Bồi tụng Binh bộ Hữu thị lang Ân Hải hầu Nguyễn Đình Hoàn. Binh bộ Hữu thị lang Bồi tụng Lại Trạch hầu Phạm Đình Kính và Hình bộ Hữu thị lang Tín Trạch bá Nguyễn Trung Quán. Bồi tụng Lễ bộ Tả thị lang lại Trạch hầu Phạm Đình Kính, Công bộ Hữu thị lang Huy luân bá Ngô Đình Thạc Bồi tụng Hộ bộ Hữu thị lang Xuân Trì hầu Đỗ Lệnh Danh, Hình bộ Tả thị lang Nguyễn Trọng Thường.

Vĩnh Hựu 2 (1736)

Hội

Bồi tụng Công bộ Thượng thư Huy Lâm hầu Ngô Đình Thạch.

Đô đốc phủ Tả đô đốc Chưởng phủ sự Thiếu bảo Siêu quận công Nguyễn Minh Châu Phó tướng Tả Đô đốc Cảnh công Quận Trịnh Diễm.

Công bộ Thượng thư Thụ Hương bá Trịnh Bá Tương

Vĩnh Hựu 5 (1739)

Hội

Bồi tụng Lại bộ Hữu thị lang Gia Lạc bá Dương Lệ; Hộ bộ Hữu thị lang Đông Thọ bá Phạm Minh. Công bộ Tả thị lang Gia Lạc bá Dương Lệ; Lại bộ Hữu thị lang Nguyễn Vĩ.

Đô hiệu điểm ty Hữu hiệu Phó điểm Phúc tướng Quận công Trịnh Trang.

194

Cảnh Hưng 4 (1743)

Hội

Ngự sử đài Phó Đô ngự sử Dao Lĩnh bá Phạm Đình Trọng; Sơn Tây đẳng xứ Tán trị Thừa chính sứ ty Thừa chính sứ Lê Hoàn Viện

Tham Tụng Hộ bộ Thượng thư Nhập thị Kinh diên Tri QTG Thái tử Thiếu bảo trí sĩ phục dụng Phụng thị ngũ lão Triệu quận công Nguyễn Huy Nhuận.

Cảnh Hưng 7 (1746)

thị

Hành Tham tụng Lại bộ lang Nguyễn Tả Đình hầu Trịnh Ngô Dụng.

Hội

Thiêm sai Công bộ Hữu thị lang hành Phó Đô ngự sử kiêm Đông các học sĩ tả chính ngôn Thư Trạch hầu Vũ Công Trấn.

Cảnh Hưng 9 (1748)

Công bộ Thượng thư Liêu Đình hầu Lê Hữu Kiều.

Suy trung dực vận công thần Tả Hòa quân doanh Đô đốc phủ Tả đô đôc Phó đô tướng Đại tư đồ Thư trung công Trịnh Trụ. Đặc tiến phụ thượng quốc tướng quân Tả hòa công doanh Đô đốc Đồng tri Thự phủ sự Phó tướng Thụy Quận công Trịnh Tân. Phó tướng Đô hiệu điểm Khanh Quận Trịnh công Kiều

Hội

Cảnh Hưng 13 (1752)

Hình bộ Hữu thị lang, hành Lễ bộ Tả thị lang Lâm Xuyên bá Nguyễn Phùng Thí; Công bộ Hữu thị lang hành Phó Đô ngự sử kiêm Đông các học sĩ tả chính ngôn Thư Trạch hầu Vũ Công Trấn. Bồi tụng Hàn lâm viện Thừa chỉ Đạo Phái bá Dương Công Chú.

Nhập thị Bồi tụng Phó Đô ngự sử Bảo Lĩnh hầu Trần Danh Ninh.

Hội

Cảnh Hưng 15 (1754)

Tuyên lực công thần tụng Binh bộ Bồi Thượng thư trí sĩ phục dụng Nhuệ Xuyên hầu Ngô Đình Oánh.

Đô đốc Thiêm trị trí sĩ khởi phục ngũ lão Vịnh Quận công Đặng Đình Trứ. trung Hậu doanh quân Phó tướng hữu hiệu điểm Nghiêm Quận Trịnh công Miện

Hội

Cảnh Hưng 18 (1757)

Bồi tụng Công bộ Tả thị lang Bảo Lĩnh hầu Trần Danh Ninh.

Hội

Nhập tụng thị Bồi Công bộ Tả thị lang Bảo Lĩnh hầu Trần Danh Ninh. Nhập tụng thị Bồi Chính thủ hiệu Hữu dực cơ cai quan Hình bộ Hữu thị lang hành Ngự sử đài Phó Đô ngự sử Xuân Lĩnh hầu Nguyễn Nghiễm. Hàn lâm viện Thừa chỉ Thái Đình bá Vũ Trần Thiệu; Thiêm sai thị nội Thư tả hình phiên Đông các Đại học sĩ Tuân lĩnh bá Bùi Trọng Huyến.

Cảnh Hưng 21 (1760)

Hội

Bồi tụng Công bộ Thượng thư hành Lại bộ sự kiêm QTG Tế tửu thị Kinh diên Nhập Nghĩa Phương hầu Nguyễn Vĩ.

kính Trung quân doanh Thị phủ sự Đô tri Phó đốc Đô tướng Khanh Quận Trịnh công Kiều. Phó Đô tướng trung hậu doanh quân thự phủ sự Đô đốc phủ Đô đốc Thiêm sự Nghiêm Quận

Nhập thị Bồi tụng Lại bộ Hữu thị lang Du Nhạc hầu Trần Danh Lâm; Sơn Nam xứ Tán trị thừa chính sứ ty Thừa chính sứ Viên Lĩnh hầu Đào Xuân

195

Trịnh

Lan.

Cảnh Hưng 24 (1763)

Hội

Nhập thị Bồi tụng Hình bộ Thượng thư hành Ngự sử đài Đô ngự sử Bái xuyên hầu Trần Huy Bật.

Nhập thị tả chính ngôn Hộ bộ Hữu thị lang trí sĩ khởi phục Diên Phương bá Lê Trọng Thứ.

úy

Cảnh Hưng 27 (1766)

hậu

Hội

Nhập thị Bồi tụng Hình bộ Thượng thư Bái Xuyên hầu Trần Huy Bật.

công Miện. tướng Phó kính Trung quân doanh Đô đốc thiêm sự thự Phủ sự Khanh Quận công Trịnh Kiều Thái Phường Nghĩa Trịnh Phường.

Cảnh Hưng 30 (1769)

Nhập thị Kinh diên Bồi tụng Binh bộ Thượng thư Bái Xuyên hầu Trần Huy Bật.

Bồi tụng Lại bộ Hữu thị lang Du Nhạc hầu Trần Danh Lâm. Trí sĩ khởi phục Hộ bộ Hữu thị lang Diễn Phái bá Lê Trọng Thứ Thự Ngự sử đài Phó Đô ngự sử Hàn lâm viện Thị độc Trần Tiến.

Hội

Cảnh Hưng 33 (1772)

Công bộ Hữu thị lang Lê Doãn Giản.

Hội

Hộ bộ Hữu thị lang hành Lại bộ Tả thị lang Thái Đình bá Vũ Trần Thiện.

Cảnh Hưng 39 (1778)

Đông các học sĩ Phan Bá Ủng

Hội

Nhập thị hành Tham tụng Binh bộ Tả thị lang Liên Khê hầu Vũ Miên.

Cảnh Hưng 40 (1779)

Hội

Phó Đô tướng tả hòa quân doanh, Thự phủ sự Đô đốc phủ Đô đốc đồng tri Nghiêm Quận công Trịnh Miện. Phó tướng Đô đốc Thiêm sự quận Quế công Trịnh Bồng Phó đô tướng thự Phủ sự thiếu phó Nghiêm Quận công Trịnh Miện Phó Thủ hiệu Hậu uy cơ Phó cai quan Đề đốc quận công Nguyễn Trọng Viêm

Nhập tụng thị hành Hình bộ Tả thị lang thự Lại bộ Hữu thị lang kiêm QTG Tư nghiệp Tứ Xuyên hầu Phan Trọng Phiên.

Thiêm sai phủ liêu tri công phiên Hàn lâm viện Thị giảng Nguyễn Duy Hoành. Thiêm sai phủ liêu tri Hộ phiện Hàn lâm viện Hiệu ký Dương Trọng Khiêm.

(Nguồn: Ngô Cao Lãng.1995. Lịch triều tạp kỷ. Nxb KHXH, Hà Nội; Đỗ Văn Ninh. 2000. Văn bia Tiến sĩ Văn Miếu Quốc Tử Giám Thăng Long, Nxb KHXH, Hà Nội)

Bảng 7. Một số đề thi thơ, phú trong thi Hội thời Lê - Trịnh

Đề thơ

Đề phú Công nghiệp muôn đời

Stt Khoa thi 1 2

Hoằng Định 3 (1602) Thiên hạ có đạo Hoằng Định 5 (1604) Lấy ơn để cố kết lòng người Vua sáng tôi trung

Ban nhân chính, bớt hình phạt

3

Hoằng Định 8 (1607) Dè xẻn chi dùng, yêu nhân dân Lấy đạo thờ vua

11

Lấy việc được thiên hạ làm chính trị

4

14

Lập ở lễ, thành ở nhạc

Công thần văn võ cũ

5

Hoằng Định (1610) Hoằng Định (1613)

196

6

17

Chí ở đạo

Chư hầu, quần thần triều cống

7

20

Đặt luật lệnh, nghiêm quân

Hậu tắc dạy dân

Chính trị hay, giáo hóa tốt Chọn lựa cất nhắc Ca Dao Công Tiêu Hà đứng đầu

Hoằng Định (1616) Hoằng Định (1619) Vĩnh Tộ 5 (1623) 8 Vĩnh Tộ 10 (1628) 9 10 Đức Long 3 (1631) 11 Dương Hòa 3 (1637) Kẻ trí vui, kẻ nhân thọ 12 Vĩnh Trị 1 (1676)

Trời che, đất chở

Rồng lên mây tới Thiên hạ vui là mình vui

13 Chính Hòa 4 (1683) 14 Chính Hòa 6 (1685) 15 Chính Hòa 12 (1691) Chính sự vương giả chuộng

đức

16 Chính Hòa 15 (1694) Cùng vui với dân 17 Chính Hòa 18 (1697) Đức tốt truyền xa 18 Chính Hòa 21(1700) Lấy đức làm chính sự 19 Chính Hòa 24(1703) Lấy thiên hạ vạn toàn 20 Vĩnh Thịnh 2 (1706) Trong ngoài vui lớn 21 Vĩnh Thịnh 6 (1710) Vương giả chí công 22 Vĩnh Thịnh 8 (1712) Đạt đạo, đạt đức 23 Vĩnh

Làm văn phải trung tín

Thịnh

14

Chọn người giỏi trong thiên hạ Sùng chuộng hư vô Lấy đức làm chính trị Trung thần yêu vua phải cẩn thận Cung kính, khoan hòa, thủ tín, thông mẫn, từ huệ Bốn mùa xoay vần, muôn vật sinh sôi Tu dưỡng thân mình, làm gương cho dân Năm được mùa là điềm lành, bề tôi hiền là của báu. Tung lưới thu hào kiệt Quân tử trung dung Xây dựng nhà nước bền vững Thiên hạ thăng bình Thay bờ ruộng, nhẹ thuế khóa Nắm kỷ cương, tỏ pháp độ Thiên hạ đều vui Thu phục người xa, xếp đặt bốn phương

(1718)

24 Bảo Thái 2 (1721)

Giàu sang có bốn biển

Kẻ nhân đức thì dũng cảm Phượng hoàng kì lân

25 Bảo Thái 5 (1724) 26 Bảo Thái 8 (1727) 27 Vĩnh Khánh 3 (1731) Kẻ trí vui, kẻ nhân thọ

28 Long Đức 2 (1733) 29 Vĩnh Hựu 2 (1736) 30 Vĩnh Hựu 5 (1739)

Ôn hòa, thiện lương, cung kính, kiệm ước, nhường nhịn. Cùng vui với dân Năm sao chầu về sao Khuê Hiểu biết, sáng suốt, nhân từ, khôn ngoai, oai hùng, biết thời Nuôi nhân dân, biết người hiền Văn võ đều được dùng Chọn dụng người tài giỏi

Chấn hưng nền văn trị Chính trị hay, giáo hóa tốt Dấy ở thơ, lập ở lễ, thành ở nhạc

31 Cảnh Hưng 4 (1743) Hiền tài giúp, thiên hạ trị 32 Cảnh Hưng 7 (1746) Cất nhắc người tuấn dị 13 33 Cảnh Hưng

Trăm họ thái hòa, muôn vật sinh sôi Đồng lòng giúp việc chính sự Dốc lòng cung kính, thiên hạ thái bình

(1752)

34 Cảnh Hưng

15

Thiên hạ đại đồng

Bình trị là trách nhiệm của bầy tôi phụ chính Nhân nghĩa trung tín

(1754)

35 Cảnh Hưng

18

Chấn hưng kỷ cương

Gần xa nhờ đức

(1757)

36 Cảnh Hưng 21

( 1760) 37 Cảnh Hưng

Cung kính, khoan hòa, thủ tín, thông mẫn, từ huệ Nuôi dạy được anh tài

Lánh xa kẻ gian tà, cất nhắc người ngay thẳng Định yên thiên hạ, đưa tới thái bình

24

(1763)

38 Cảnh Hưng

27

Dân thỏa ý, nước thái bình

Giúp việc nuôi nấng vạn vật của trời đất

(1766)

39 Cảnh Hưng

30

Khiến muôn vật sinh sôi

Coi bốn biển như một nhà

(1769)

40 Cảnh Hưng

33

Đức của vua ngày một mới

cương Nghiêu,

(1772)

41 Cảnh Hưng

36

Cẩn thận về quyền hành, xét kỹ pháp độ

(1775)

42 Cảnh Hưng

39

Tin dùng đạo Nho, yêu nuôi dân chúng

Noi kỷ Thuấn, giữ pháp độ Văn Vũ Chấn hưng oai vũ, thu lại đất xưa Khiến muôn vật sinh sôi

(1778)

43 Cảnh Hưng

42 Trang nghiêm cung kính, Chính đạo đến khắp thiên hạ

197

(1781)

44 Cảnh Hưng

46

trung thành thẳng thắn Tiếp chư hầu, có thiên hạ

Thống

1

Cùng lòng dạ, chung đạo lý, hưng giáo hóa, đến trị bình Khôi phục nước cũ, hưởng ngôi lâu dài.

Mềm mỏng với người xa, yêu thương các chư hầu

(1785) 45 Chiêu (1787)

(Nguồn: Cao Xuân Dục. 1993. Quốc triều hương khoa lục, Tp.Hồ Chí Minh)

Bảng 8: Các khoa thi Hội và số lấy đỗ dự thi Đình thời Lê - Trịnh (1595 -1787)

Stt

Khoa thi

Thời gian

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38

Tháng 3 Quang Hưng 18 (1595) Tháng 4 Quang Hưng 21 (1598) Tháng 2 Hoằng Định (1602) Mùa xuân Hoằng Định 5 (1604) Hoằng Định 8 (1607) Mùa xuân Hoằng Định 11 (1610) Mùa xuân Hoằng Định 14 (1613) Mùa xuân Ngày 26/1 Hoằng Định 17 (1616) Tháng 2 Hoằng Định 20 (1619) Mùa xuân Vĩnh Tộ 5 (1623) Tháng 2 Vĩnh Tộ 10 (1628) Tháng 3 Đức Long 3 (1631) Không rõ Đức Long 6 (1634) Tháng 10 Dương Hòa 3 (1637) Mùa xuân Dương Hòa 6 (1640) Mùa xuân Dương Hòa 9 (1643) Tháng 10 Phúc Thái 4 (1646) Mùa đông Khánh Đức 2 (1650) Tháng 3 Khánh Đức 4 (1652) Tháng 10 Thịnh Đức 4 (1656) Tháng 2 Vĩnh Thọ 2 (1659) Tháng 3 Vĩnh Thọ 4 (1661) Tháng 3 Cảnh Trị 2 (1664) Tháng 2 Cảnh Trị 5 (1667) Tháng 11 Cảnh Trị 8 (1670) Tháng 11 Dương Đức 2 (1673) Tháng 3 Vĩnh Trị 1 (1676) Không rõ Vĩnh Trị 5 (1680) Chính Hòa 4 (1683) Tháng 11 Tháng Chạp Chính Hòa 6 (1685) Tháng 10 Chính Hòa 9 (1688) Tháng 3 Chính Hòa 12 (1691) Mùa xuân Chính Hòa 15 (1694) Tháng 10 Chính Hòa 18 (1697) Tháng 3 Chính Hòa 21 (1700) Tháng 10 Chính Hòa 24 (1703) Tháng 3 Vĩnh Thịnh 2 (1706) Tháng 3 Vĩnh Thịnh 6 (1710)

Sô người dự thi Không rõ Khồng rõ Không rõ Trên 5000 Không rõ Không rõ Hơn 1000 Không rõ Vài ngàn Hơn 3000 Không rõ Không rõ Không rõ Vài ngàn Trên 6000 Trên 2000 Không rõ Không rõ Hơn 2000 Dưới 3000 Không rõ Gần 3000 Không rõ Không rõ Trên 2000 Trên 3000 Khoảng 3000 Hơn 2000 Hơn 3000 2800 Không rõ 3000 Hơn 200 3000 Trên 2000 Đến 3000 Gần 3000 Không rõ

Đỗ thi Hội 6 5 10 7 5 7 7 4 7 7 18 5 5 20 22 9 17 8 9 6 20 13 13 3 31 5 20 19 18 13 7 11 5 10 19 6 5 21

Đỗ thi Đình 6 5 10 7 5 7 7 4 7 7 18 5 5 20 22 9 17 8 9 6 20 13 13 3 31 5 20 19 18 13 7 11 5 10 19 6 5 21

198

Tháng 3 10/3 Tháng 2 Tháng 10 Tháng 3 Tháng 3 Tháng 10 Tháng 4 Tháng 3 Tháng 3 Tháng 10 Mùa xuân Tháng 3 Mùa đông Tháng 3 Tháng 2 Tháng 2 Mùa xuân Tháng 4 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 10 Tháng 3 Tháng 11 Tháng 3 Tháng 3 13/10

Hơn 2000 Hơn 2500 Hơn 3000 Gần 3000 Gần 3000 Đến 3000 Không rõ Gần 3000 Không rõ Đến 3000 Hơn 2000 Dưới 2000 Đến 3000 Không rõ Không rõ Không rõ Không rõ Không rõ Không rõ Không rõ Không rõ Không rõ Không rõ Không rõ Không rõ Không rõ 1.212

17 20 17 25 17 10 12 18 15 8 7 4 13 6 8 6 5 5 11 9 13 18 4 15 2 5 14 727134

Khoảng 87.512133

39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 Tổng

Vĩnh Thịnh 8 (1712) Vĩnh Thịnh 11 (1715) Vĩnh Thịnh 14 (1718) Bảo Thái 2 (1721) Bảo Thái 5 (1724) Bảo Thái 8 (1727) Vĩnh Khánh 3 (1731) Long Đức 2 (1733) Vĩnh Hựu 2 (1736) Vĩnh Hựu 5 (1739) Cảnh Hưng 4 (1743) Cảnh Hưng 7 (1746) Cảnh Hưng 9 (1748) Cảnh Hưng 13 (1752) Cảnh Hưng 15 (1754) Cảnh Hưng 18 (1757) Cảnh Hưng 21 (1760) Cảnh Hưng 23 (1763) Cảnh Hưng 27 (1766) Cảnh Hưng 30 (1769) Cảnh Hưng 32 (1772) Cảnh Hưng 36 (1775) Cảnh Hưng 39 (1778) Cảnh Hưng 40 (1779) Cảnh Hưng 42 (1781) Cảnh Hưng 46 (1785) Chiêu Thống 1 (1787) 65 khoa

17 20 17 25 17 10 12 18 15 8 7 4 13 6 8 7 5 5 11 9 13 18 4 15 2 5 15 729

(Nguồn: Đại Việt sử ký toàn thư bản Chính Hòa 18 (1697), Lịch triều Hiến chương loại chí, Lịch triều tạp kỷ, Việt sử cương mục tiết yếu; Văn bia Tiến sĩ Văn Miếu Quốc Tử Giám

Thăng Long, Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919).

thi đỗ Chánh

Lăng,

2

Thủy,

3

Thủy,

Stt Họ và tên Bùi Dục Tài 1 Bảng 9. Một số Nho sĩ xuất thân Nho học vùng Đàng Trong trước thế kỷ XVII Xuất thân 1502 Tiến sĩ Quê quán Hải Quảng Trị

Nguyễn Đình Bảo Nguyễn Đình Cầu

Lệ Quảng Bình Lệ Quảng Bình

Giám sinh Quốc Tử Giám Đỗ khoa Hoành Từ năm 1513

133 Con số: 87.512 người chỉ tổng số thí sinh dự thi Hội của 32 khoa có ghi rõ số người dự thi như bảng thống kê ở trên. Có 2 khoa thi: 1619 và1637 có ghi “vài ngàn người” dự thi, nhưng tác giả không thống kê vào đây. 134 Trong 729 người trúng cách của 65 khoa thi Hội, có 2 trường hợp: Nguyễn Văn Quang ở khoa thi 1757 bị gạch tên khi dự thi Đình; 1 trường hợp khoa thi 1787, sách văn bia ghi 15 người trúng cách thi Hội, nhưng khi dự thi Đình chỉ có 14 người đỗ Tiến sĩ (còn 1 trường hợp không lấy đỗ không rõ lý do) . Như vậy, chỉ còn 727 người đỗ thi Đình, cộng với 2 người đỗ Chế khoa năm 1787, tổng số Tiến sĩ triều Lê -Trịnh là 729 người.

199

Chức quan Hiệu lý Viện Hàn Lâm, Tham chính đạo Thanh Hoa, Tả thị lang Bộ Lại, Tham tướng. Tri huyện Bồng Sơn, Tri phủ Hoài Nhơn

4

Nhân

Thủy,

Giám sinh QTG

Thái Nghĩa

Lệ Quảng Bình

5

từ An

Lăng,

Do có công được bổ Giáo quan đạo Quảng Nam, đồng Tri phủ Thăng Hoa, Tri phủ Lục sự, Tán Lý

Hoành Quán

Hải Quảng Trị

6

Lục sự vệ Hiệu lực, Tán Lý

Lệ Thủy, Quảng Bình

Giám sinh Quốc Tử Giám. Năm 1513 thi đỗ Hoành từ Giám sinh QTG 1513 thi đỗ Hoành Từ

7

Nguyễn Đình Giao/Nguyễn Đình Cầu Cao Bách Tuế

Điền,

Đan Huế

Xá sinh Quốc Tử Giám

8

Nguyễn Quang Kim Trà, Huế Có văn học được bổ

Tri huyện, Viên ngoại lang, Tri phủ Đồng Tri Phủ phủ Tân Bình

9

Trà,

Nguyễn Tiềm

Kim Huế

Huấn đạo Nho học ở Tư Vinh và Chương Nghĩa

dụng chức quan. Giám sinh Quốc Tử Giám, thi Hội nhiều lần trúng tam trường

Văn

10 Lê Hoàng Hoa 11 Lương Quán

12 Lương Công Th

uật

ông là người học rộng biết nhiều Nho sinh Quốc Tử Giám

13 Tri phủ họ Phan

(không rõ tên)

Nho sinh Quốc Tử Giám

Tri huyện, Tri phủ.

14 Tri phủ họ Lê

Tri huyện, Giảng dụ

Giám sinh

(không rõ tên) 15 Trần Văn Hòa

Tri huyện Khang Lộc

Vinh,

Xuất thân thi trúng Xá nhân. có tài văn học.

16 Hiến phó họ Hồ

Tư Vinh, Huế Xuất thân là Nho sinh Đồng Tri phủ phủ Tân Bình. Huấn đạo phủ Thăng Hoa, Vũ Xương, Chủ sự Quảng Nam. Quảng Trị Tri huyện, Tri phủ, Hiến sát Trà, Kim phó sứ Thừa Thiên Huế Trà, Kim Thừa Thiên Huế Vũ Xương, Quảng Trị Tư Huế Kim Trà, Huế Giám sinh

(không rõ tên)

17 Trần Vỹ

Thủy,

Giám sinh QTG

Hiến sát phó sứ đạo Quảng Nam Tri châu

Đức

18 Nguyễn Huệ

19 Dương Văn An

Thủy,

(1514 -1591)

Lệ Quảng Bình

Lệ Quảng Bình Tư Vinh, Huế Xá sinh Quốc Tử Giám Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1547 Nho sinh

Trạch,

20 Đỗ Thế

21 Võ Tri Giám

Tri huyện, Tri phủ phủ Thăng Hoa, phủ Hoài Nhơn Lại khoa Đô cấp sự trung, Thượng thư. Năm 1548 được bổ Tri huyện Hải Lăng. Huấn đạo phủ Triệu Phong

Nguyên

22 Trần Diễn

Bố Quảng Bình Lệ Thủy, Quảng Bình Lệ Thủy, Quảng Bình

Đỗ đầu thi Hương, thi Hội trúng tam trường Giám sinh Quốc Tử Giám

23 Hồ Cống

Chính,

Giám sinh

24 Trần Đình Hi

Nho sinh

Chính,

Tri huyện, Tri Phủ Thăng Hoa, Tổng binh Thiêm sự, Tham chính Tri châu, Đô quan đạo Lạng Sơn Tri huyện Hải Lăng

Bố Quảng Bình Bố Quảng Bình Quảng Bình Giám sinh

Tri châu

25 Trần Thường 26 Hoàng

Công Lệ Thủy,

Hương

cống

sung Năm 1545 bổ chức Giảng

200

Đán 27 Phạm Cư

dụ, Tri huyện Tư Vinh Giảng dụ

28 Phạm Phi Diệu

Đậu Nho sinh

Lui về dạy học

29 Hoàng Thượng

Quảng Bình Giám sinh Giám sinh Lệ Thủy, Quảng Bình Lệ Thủy, Quảng Bình Phong Lộc, Quảng Bình

30 Phạm Văn Các

Đậu Hương Tiến, thi Hội trúng ba trường nhưng mất sớm Giám sinh QTG

Huyện thừa , Đồng Tri phủ Tư nghĩa

31 Phạm Đán

Đỗ Nho sinh

Tri huyện Bồng Sơn

32 Phạm Thăng

Giám sinh.

Huấn đạo phủ Thăng Hoa, Tri huyện Tư Vinh. Mở trường dạy học ở nhà

33 Phạm Phi Diệu

Phong Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình Phong Thủy, Thủy, Lệ Quảng Bình Lệ Thủy, Quảng Bình Lệ Thủy, Quảng Bình

Đỗ đầu thi Hương, Nho sinh trúng thức

(Cháu nội Phạm Văn Các) 33 Lê Danh Năng

Giám sát Ngự sử.

Lệ Thủy, Quảng Bình

Quảng Trạch, Quảng Bình

Hiến sát sứ.

34 Nguyễn Trạch (1548 -?) 35 Phạm

Đại

tam giáp đồng

Giám sát Ngự sử.

Kháng

Lệ Thủy, Quảng Bình

Đệ nhị giáp Đồng chế khoa xuất thân năm 1565 Đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm 1580. Đệ Tiến sĩ khoa 1592

(Nguồn: Dương Văn An. 1961. Ô châu cận lục, Nxb Văn hóa Á châu, Sài Gòn; Quốc sử quán triều Nguyễn. 2005. Đại Nam nhất thống chí (5 tập), Nxb.Thuận Hóa, Huế; Nguyễn Thành Vân – Phạm Ngô Minh. 2016. Khoa bảng Quảng Bình & Giáo dục - khoa cử Triều Nguyễn, Nxb Đà Nẵng)

Stt Họ và tên

Quê quán

Chức vụ nắm giữ

Bảng 10. Danh sách một số những vị quan xuất thân Nho học thời chúa Nguyễn Con đường xuất thân

Thanh Hóa Tiến cử

Vệ úy Nội tán

1

Quảng Bình Đỗ Hoa văn

Văn chức,Tham Cơ Vụ

2

3

Quảng Bình Chưa rõ

cơ Cựu dinh,

4

1701 đỗ Sinh đồ

Đào Duy Từ (1571-1634) Nguyễn Hữu Dật ((1603 -1681) Nguyễn Hữu Hào (1642 -1713) Nguyễn Đăng Đệ (Chưa rõ)

Thừa Thiên Huế

Cai Chưởng cơ, Trấn thủ, Huấn đạo, Tri huyện Minh Linh, Văn chức lục dinh viện, Ký Quảng Nam, Đô tri Chính dinh, Ký lục

5

Nguyễn Đăng Thịnh (1716 - 1763)

Thừa Thiên Huế

1721 đỗ Hương cống Tri huyện, Văn chức, Thị giảng Đông cung, Đô tri, Cai bạ, Nha úy.

6

Nguyễn Cư Trinh

Thừa Thiên 1740

đỗ Hương Tri phủ, Văn chức Tuần

201

7

(1716 -1763) Nguyễn Đăng Tiến (Chưa rõ)

Huế Thừa Thiên Huế

cống, Thi Cống sĩ không đậu, Tiến cử

8

Khoa

(Chưa rõ)

Nguyễn Chiêm(1659 -1736)

Thừa Thiên Huế

9

Nguyễn Khoa Đăng (Chưa rõ)

10 Trần

Đình

Thừa Thiên Huế Quảng Trị

Khánh135(Chưa rõ)

phủ, Lại bộ, Tào vận sứ. Văn chức Viện, Đông cung Thị giảng, Tuần phủ Phú Yên, Ký lục Quảng Nam, Quản Tào vận Thủ hợp, cai hợp kiêm Tri bạ Chính dinh, Cai bạ Phó đoán sự, Tham chính Chánh Đoán sự Văn chức viện, Nội tán kiêm Án sát sứ Văn chức ở Chính dinh, Cai bạ Quảng Nam,

Quảng Trị

Nhờ là dòng dõi nhà quan được bổ dụng Nhờ phụ ấm được bổ quan. Văn tài mẫn tiệp, giỏi việc từ lệnh Nhờ phụ ấm bổ quan đời chúa Phước Chu

Văn chức, Đô tri, Cai bạ Phó Đoan sự

Quảng Bình Thi đậu Hương Tiến Tri phủ Quy Nhơn

11 Trần Đình Thuận (Chưa rõ) 12 Vũ Danh Thế

(Chưa rõ)

13 Vũ Đình Phương

Quảng Bình 18

tuổi đậu Thủ

Ký lục Quảng Bình,

khoa thi Hương

(chưa rõ) 14 Vũ Xuân Suyền (Chưa rõ) 15 Vũ Xuân Nùng (Chưa rõ)

Văn chức viện kiêm Giám trạng Văn Chức, Cai Bạ Bình Thuận, Ký lục Quảng Nam

Quảng Bình Năm 1695 đỗ Hương cống Quảng Bình 1728 đậu Sinh đồ, được ấm thụ bổ chức quan

Quảng Bình Đỗ Hương tiến

Tuần phủ Quy Nhơn

16 Vũ Xuân Đàm (Chưa rõ) 18 Phạm Hữu Kính (? -1745)

Giáo chức, Cai bạ Quảng Nam

19 Lê Cảnh (Chưa rõ)

20 Tôn Thất Tứ

Hàn lâm viện, Cai bạ Chánh dinh, mất được thăng Tham nghị Nội hữu Cai cơ

(Chưa rõ)

Thừa Thiên Huế

Chưởng Cơ

21 Tôn Thất Dục (Chưa rõ)

Thừa Thiên Huế

22 Nguyễn Quang Tiền

(? -1769)

Thừa Thiên Huế

Văn chức viện, Hàn lâm viện

Quảng Nam Đầu Nguyễn Phúc Khoát trúng cách thi Hương Quảng Nam Đậu Hương tiến đời chúa Nguyễn Phúc Chu Dòng dõi quý tộc, học rộng kinh, sử sở trường về thơ quốc âm Dòng dõi quý tộc, là người học rộng, có tài Không rõ, giỏi về môn tinh lịch (thiên văn)

23 Hồ Quang Đại

Thừa Thiên Năm 1652 đỗ thủ Văn chức viện, Tri huyện,

135Trần Đình Khánh, Trần Đình Thiện là con trai của Trần Đình Ân một Võ quan đời chúa Nguyễn Phúc Tần. Sau này con và cháu trai của Trần Đình Khánh cũng được ấm thụ bổ chức quan: con trai là Trần Đình Hy giữ chức Cai bạ Bình Thuận, sau làm Tri bạ Chính dinh, thăng Hộ bộ kiêm Hình bộ. Con trai Đình Hy là Hiến được ấm thụ làm quan ở Hàn lâm viện, Ký lục dinh Quảng Nam. Vì hai nhân vật này không thấy Đại Nam liệt truyện tiền biên chép về việc học hành nên tác gải không thống kê vào bảng.

202

(Chưa rõ)

Huế

khoa

Không rõ

24 Lê Quang Đại (? -1745)

Thừa Thiên Huế

25 Đặng Đại Lược (Chưa rõ)

Tri phủ,Thị giảng Kinh diên Ký lục, Tham mưu dinh Bình Thuận, Cai bạ Quảng Nam, Hộ bộ kiêm Binh bộ Văn chức viện, Ký lục dinh bố chính, Cai bạ dinh Quảng Nam

Quảng Bình Nhờ có Văn học được tiến cử. làm quan dưới đời chúa Nguyễn Phúc Hoạt

26 Đặng Đại Độ (Chưa rõ)

Quảng Bình Thi đậu Hương tiến. Làm quan đời chúa Nguyễn Phúc Hoạt.

27 Trần Phước Thành

Quảng Nam Đỗ

(? -1775)

thủ khoa đời chúa Nguyễn Phúc Thuần Có tài văn học

Văn chức Viện, Ký lục dinh Bình Khang, Trấn Biên Hàn lâm viện Thị độc, Ký lục Quảng Nam, Cai bạ Giáo thụ huyện, năm 1774 vào Gia Định. Hàn lâm viện Thị giảng

28 Nguyễn Bảo Trí (Chưa rõ) 29 Trần Hưng Đạt (Chưa rõ)

Thừa Thiên Huế Thừa Thiên Huế

30 Nguyễn Cửu Thống

(Chưa rõ)

Hương Trà, Thừa thiên

Là người có tài văn học chúa đời Nguyễn Phúc Thuần, giúp theo sau Nguyễn Ánh Là người có học hạnh.

Quảng Bình Tiến cử làm quan

31 Lê Xuân Chính (? -1727)

Quảng Bình Nhờ cha được ấm

thụ bổ chức quan

32 Lê Xuân Hy136 (? – 1749)

Quảng Bình Nhờ phụ ấm

33 Lê Xuân Huyên 137

(? – 1773)

Chưa rõ

Giữ chức Thị giảng, sau đó vào năm 1774 lẻn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh. Văn chức dinh Lưu Đồn, Ký lục, Văn chức viện, Ký lục dinh Quảng Bình Văn chức viện, Ký lục dinh Bố Chính, Hình bộ Văn chức viện, Ký lục dinh Bố Chính, Ký lục Quảng Nam, Hình Bộ, Cai bạ Quảng Nam Chưa rõ

Đỗ thủ khoa năm 1768 Quảng Bình Đỗ khoa thi 1768

Tri huyện Đồng Xuân.

34 Lê Chính Việp (Chưa rõ) 35 Bạch Doãn Triều (Chưa rõ)

36 Lê Chính Kỷ

Quảng Bình Đỗ Hương tiến

Hàn lâm viện

Quảng Bình Hương tiến

Ký lục Quảng Bình.

(Chưa rõ) 37 Võ Đình Phương (Chưa rõ)

136,Lê Xuân Hy, Lê Xuân Huyên là hai người con của Lê Xuân Chính. Tuy được nhờ phụ ấm mới được bổ chức quan song theo Đại Nam liệt truyện tiền biên, cả hai ông lúc nhỏ rất thông minh, chăm học, am hiểu đạo sách Thánh hiền. Khi làm quan được dân yêu mến.

203

Chưa rõ

chúa

38 Nguyễn Phú Điêu (Chưa rõ)

Thừa Thiên Huế

39

Nguyễn Hữu Tôn (Chưa rõ)

Thừa Thiên Huế

Nhờ có văn học và dòng dõi nhà quan được bổ chức quan

Huấn đời đạo Nguyễn Phúc Khoát Văn chức kiêm Thị giảng, Binh bộ kiêm Thị giảng, Lại bộ Tri kinh diên, kiêm Hình bộ, Tri Tào vận. Tham tán.

Đăng

Thừa Thiên Huế

Nhờ có văn học thành danh

40 Nguyễn Trường (? – 1776) 41 Mạc Thiên Tứ

Hà Tiên

Đô đốc Hà Tiên.

(1718 -1780)

Có văn học, rất am hiểu Kinh điển được chúa Nguyễn Phúc Trú phong chức.

(Nguồn: Đại Việt sử ký tục biên. 1991, Nxb KHXH, HN; Quốc sử quán triều Nguyễn. 2004. Đại Nam thực lục, Tập 1, Nxb Giáo dục; Quốc sử quán triều Nguyễn. 1995. Đại Nam liệt truyện tiền biên, Nxb KHXH, Hà Nội; Quốc sử quán triều Nguyễn. 2005. Đại Nam nhất thống chí, (5 tập), Nxb Thuận Hóa, Huế; Danh nhân Bình Trị Thiên.1986. Tập 1, Nxb Thuận Hóa, Huế)

204

Bảng 11. Quê quán các Tiến sĩ triều Lê - Trịnh

Khu vực

Tên tỉnh

Trung du miền núi Bắc Bộ

Thái Nguyên Phú Thọ Bắc Cạn

0,13 0,13 0,13

Đồng bằng Bắc Bộ

2,6 20,0 11,7 12,9 12,6 9,2 3,3 2,1 1,0 1,0 1,0

Vĩnh Phúc Hà Nội Hà Tây (cũ) Bắc Ninh Hải Dương Hưng Yên Thái Bình Nam Định Hải Phòng Bắc Giang Hà Nam

Trung bộ

Thanh Hóa Ninh Bình Nghệ An Hà Tĩnh Huế

Số người đỗ Tỷ lệ % 3 1/729 1/729 1/729 565 19/729 146/729 85/729 94/729 92/729 67/729 24/729 15/729 7/729 7/729 7/729 164 89/729 5/729 34/729 35/729 1/729 729

12,2 0,7 4,7 4,8 0,13 100,0

Cộng

(Nguồn: Thống kê từ Ngô Đức Thọ (Cb).2006. Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919, Nxb Văn học)

205

Bảng 12. Giám sinh Quốc Tử Giám Thăng Long- Hà Nội thế kỷ XVII –XVIII

Quê quán Xuất thân Năm đỗ và học vị Chức quan

Stt Họ và tên 1

Ghi chú

Tri phủ.

BắcNinh Ấm sinh

2

Hồ Nhân Quế Nghệ An Giám sinh 7 năm thi đỗ trúng trường thi Hội (khoảng từ 1643 - 1649) 1683 Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh

Nguyễn Đăng Đạo (1651 - ?)

vào học Quốc Tử giám

Đô Ngự sử, Thập nhị Kinh diên, bộ Binh Thượng thư, Tham tụng kiêm Đông các, Lại bộ Thượng thư.

Gia đình có truyền thống Nho học: Con Tiến sĩ Nguyễn Đăng Minh em (1646), Nguyễn Đăng Tuân (Tiến sĩ khoa 1673), hoa Thám cháu Nguyễn Đăng Cảo (1646)

3

Nghệ An Giám sinh Đậu Hương cống Quản sát hạt nội

4

Hà Nội

Hiệu thảo

Giám sinh Năm 1718 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân

5

Tham chính

Hưng Yên Giám sinh Năm 1718 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

6

thị

Thái Bình Giám sinh Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa thi 1721

7

Thái Bình Giám sinh Năm 1721 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

8

Hộ bộ Tả lang, Thị giảng Công bộ Hữu thị lang Không rõ

Nguyễn Hưng Tập Nguyễn Danh Hiền (1694 -?) Nguyễn Quốc Dực (1693 -?) Nguyễn Tông Khuê (1693 -1767) Giang Sĩ Đoan (1694 -1784) Trần Lệ

Nam Định Giám sinh Năm 1721 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

9

Hà Nội

Giám sinh Năm 1721 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

10

Hải Dương

Hình bộ Thượng thư, bộ Lễ Thượng thư Quốc Tử giám Tế tửu

Giám sinh Năm 1721 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Trịnh Tương (1691 -1740) Trần Xuân Yến (1689 -?) 11 Nguyễn Đăng

Hàn lâm Đãi chế

Bắc Ninh Giám sinh Năm 1721 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Giai (1697 -?) 12 Đặng Công

Phó sứ, Hộ bộ Hữu thị lang

Hà Nội Giám sinh Năm 1721 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Mậu (1688 -1765) Nhân

13 Vũ

Thừa chỉ

Hải Dương

Giám sinh Năm 1721 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

14

Đình

Hà Nội

Tự khanh

Giám sinh Năm 1721 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Chiêu (1688 -?) Trần Thu (1692 -?) 15 Nguyễn Huy

Hà Nội

Tự khanh

Giám sinh Năm 1721 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

16

lâm viện

Mãn (1688 -?) Trịnh Đồng Giai

Thanh Hóa

Giám sinh Năm 1721 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ

Hàn Đãi chế

206

xuất thân

(1697 -?) 17 Nguyễn Xuân

Hiến sát sứ

Hưng Yên Giám sinh Năm 1721 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Vịnh (1680 -?) 18 Đỗ Hy Thiều

(1693 - ?)

Công bộ Hữu thị lang

Vĩnh Phúc Giám sinh Năm 1721 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

19 Nguyễn Kinh Nghệ An Giám sinh Năm 1721 đỗ Tam

Không rõ

trường thi Hội

20

Hải Dương

Đông các Hiệu thư, Tham tụng

Giám sinh Năm 1724 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân

lâm Hiệu

Lương Nguyễn Huyễn (1693 -?) 21 Cao Nguyễn

Hàn thảo

Thái Bình Giám sinh Năm 1724 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

22

Hoàng

Hà Nội

Công bộ Hữu thị lang

Giám sinh Năm 1724 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

23

Phán (1696 -?) Lê Tuyên (1692 -1778) Lê Phú Thứ (1694 -1782)

Thái Bình Giám sinh Năm 1724 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Ông là cha Lê Quý Đôn, có tác phẩm: Trúc Am thi tập.

24 Nguyễn Thế

Giám quan, Tả thị lang bộ Hộ, Bồi tụng kiêm Tả chánh ngôn, Thượng thư bộ Hình. Hàn lâm Thừa chỉ, Phó sứ nhà Thanh.

Bắc Ninh Giám sinh Năm 1727 Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ tam danh

25

lâm viện

Hàn Kiểm thảo

Thái Bình Giám sinh Năm 1727 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Lập (1702 -?) Phạm Công Thế (1705 - ?) 26 Nguyễn Đình

lâm Thừa

Hàn chỉ

Bá (1695-?)

Hưng Yên Giám sinh Năm 1727 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

27 Vũ

Khâm

tụng phủ

Hải Dương

Bồi chúa Trịnh

Thận (1703 -?)

Giám sinh Năm 1727 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

28 Dương

Nghệ An Giám sinh Năm

đỗ

1729 Hương cống

Chung Tú

Bổ chức Câu kê, Tham mưu quân sự cho Siêu quận ở Thái Nguyên

thông là người Ông hiểu việc quân, nhiều lần lập công được vào Chính phủ, tính khảng khái, không a dua kẻ quyền quý. Tác phẩm: viết một bài tựa cho sách Chu Dịch quốc âm ca quyết. Về nhà mở trường dạy học, học trò có 7 -800 học trò. Ông có con trai cả Dương Huân đỗ Hương cống và trúng tam trường thi Hội năm 1753

29

Thị độc

Trần Mô (1694 -?)

Hà Nội Giám sinh Năm 1733 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

30 Nguyễn Hành Hà Tĩnh Giám sinh Năm 1733 đỗ Đệ Đông các Hiệu

207

(1701 -?)

thư

tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Hiến sát sứ

31 Nguyễn Quốc

Hà Nam Giám sinh Năm 1736 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ cập Đệ tam danh

32

Đông các học sĩ

Hiệu (1696 -?) Lê Sĩ Bàng (1705 -?)

Hà Tĩnh Giám sinh Năm 1736 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân

lâm Hiệu

Thái Nguyên

Hàn thảo

Giám sinh 1736 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

33 Đồng Doãn Khuê (701 -?)

Xuân

Thanh Hóa

Giám sinh 1736 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

lâm viện

Đi sứ nhà Thanh, Công bộ Tả Thị lang Hàn Đãi chế

Hưng Yên Giám sinh 1736 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

lâm viện

34 Đào Lan (1711 -?) 35 Nguyễn Bá Tuân (1699 -?) 36 Nguyễn Tông

Hàn Đãi chế

Hà Nam Giám sinh 1736 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

37

Hà Nội

Công bộ Hữu thị lang

Giám sinh Năm 1739 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Mại (1708 -?) Trương Đình Tuyên (1713 -?)

lâm Thừa

38 Bùi

Trọng

Thanh Hóa

Hàn chỉ

Giám sinh Năm 1379 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Giám sát Ngự sử

Hà Nội Giám sinh Năm 1739 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Hà Nội

lâm viện

40

Giám sinh Năm 1739 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

lâm viện

41

Thanh Hóa

Hàn Đãi chế Bồi tụng Hàn Hiệu lý

Huyến (1713 -?) 39 Nguyễn Huy Thục (1716 -?) Phạm Đình Trọng (1714 -1754) Lê Doãn Giai (1714 -?)

Giám sinh Năm 1743 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Nghệ An Giám sinh Năm

đỗ

Giảng dụ

42

1743 Hương cống

Phan Công Thực

Nghệ An Giám sinh Đỗ Hương cống

43 Nguyễn

Hà Nội

Tri huyện được thờ ở Văn hội. Tả thị lang

Giám Sinh 44 Đoàn Chú (1715 -?)

Giám sinh Năm 1746 đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân

Đô cấp sự trung

45

Hà Tĩnh Giám sinh Năm 1746: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Giám sát Ngự sử

Thái Bình Giám sinh Năm 1746: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

lâm viện

47

Hà Nội

Hàn Đãi chế

Trần Danh Tố (1713 -?) 46 Nguyễn Như Thức (1719 -?) Phan Nhuệ (1712 -?)

Giám sinh Năm 1748: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Thái Bình Giám sinh Năm 1752: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Đi sứ nhà Thanh, lâm viện Hàn Thừa chỉ

48 Nguyễn Dao (Nguyễn Xuân Huyên)(1728 -?)

208

49

Đình

Hà Tây

Cấp sự trung

Giám sinh Năm 1752: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Tạ Hoán (1723 -?) 50 Vũ Huy Đĩnh (1730- 1789)

Hải Dương

Giám sinh Năm 1752: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

51 Nguyễn Bá

Hà Nội

Từng sứ, đi Thừa chính sứ, Lễ bộ Hữu thị lang. Đông các Đại học sĩ

Giám sinh Năm 1752: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Hải Dương

Thủ (1713 -1774) 52 Nguyễn Điệu Huyền (1727 -?)

Giám sinh Năm 1752: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

53 Hồ

Nghệ An Giám sinh Năm

đỗ

Cấp sự trung, Chủ khảo trường thi Sơn Nam Giảng dụ

1756 Hương cống

54

Không rõ

Bắc Ninh Giám sinh Năm 1757: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Dòng dõi của Phạm Sính, anh Phạm Đình Dư

55

Nghệ An Giám sinh Đỗ Hương cống

56

Huấn đạo, Tri huyện Văn chức, Cấp sự trung

Hà Tĩnh Giám sinh Năm 1757: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

57

Hà Nội

Nguyện Phạm Nguyễn Đạt thật (Tên Phạm Tiến) (1729 -?) Phạm Quang Huân Phan Khiêm Thụ (1722 -?) Phan Phiên (1735 -1809)

Giám sinh Năm 1757: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

58 Đặng Dụng

lâm viện

Tham tụng, Bình Chương sự, hành Tham tụng, Hộ bộ Hữu thị lang, Thư lại bộ Hữu thị lang kiêm Tri Quốc Tử giám Tư nghiệp Hàn Đãi chế

Chu (1737 -?)

Hà Nội Giám sinh Năm 1766: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

59 Nguyễn

Trọng Hoành (1737 -?)

Hòa Nội Giám sinh Năm 1766 Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

60 Nguyễn Đình

lâm viện Hàn Thị giảng, Tri công phiên, Chánh sứ đi sứ nhà Thanh Không rõ

Thanh Hóa

Giám sinh Năm 1769: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Giản (1734 -?) 61 Nguyễn Huy

Tham tri chính sự

Hưng Yên Giám sinh Năm 1769: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Trạc (1733 -1788) Duy

62 Ngô Viên (1744)

Hà Nội Giám sinh Năm 1769: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

63 Nguyễn Duy

Hiệp (1744 -?)

Thái Bình Giám sinh Năm 1772: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Đô cấp sự trung, Nhập bồi tụng, Hàn lâm Thị giảng, Bồi tụng, Thị lễ bộ Hữu thị lang. Hiệp trấn Kinh Bắc, Đốc học Quảng Nam thời

209

64 Vũ

Huy

Hải Dương

Giám sinh Năm 1772: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Hà Nội

65

Diệm (1737 - ?) Lưu Tiệp (1742 -?)

Giám sinh Năm 1772: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

66

Lê Duy Đản (1743 -?)

Bắc Ninh Giám sinh Năm 1775: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

thi

67 Hồ Gia Huệ Nghệ An Giám sinh Không rõ 68 Hồ

Nghệ An Giám sinh Thi Hội trúng Tam

Hoàn

Nguyễn lâm viện Hàn Thị chế, Thự Hiến sát sứ Hàn lâm viện Thị độc, Đốc trấn Cao Bằng Hàn lâm viện Thừa chỉ, hành chính Tham Thanh Hoa (thời Lê). Hiệp trấn Lạng Sơn, Quan trường coi Sơn Nam, Kinh Bắc, Sơn Tây, Hoài Đức (thời Nguyễn). Tri huyện Tri phủ

trường nhiều lần

Khuê 69 Ngô

Duy

Trừng (1741 -1800)

Hà Nội Giám sinh Năm 1775: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

70

Phạm Trọng Huyến (1746 -?)

Nam Định Giám sinh Năm 1778: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Hưng Yên Giám sinh Năm 1779: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

72

71 Nguyễn Huy Quân (1744 -?) Lê Đăng Cử (1740 -?)

Hà Nội Giám sinh Năm 1779: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân 73 Hồ Yên Ninh Nghệ An Giám sinh Không rõ

74 Nguyễn

Hà Nội

Giám sinh Năm 1779: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

Kiêm (sau đổi Huy Đảng) (1751 -1817)

Bình khoa Đô cấp trung, sự Giám sát Ngự sử xứ Sơn Nam. lâm viện Hàn Đãi chế. Hàn lâm viện Thị chế, Tri Hộ phiên, Hàn lâm Thị thư. Hàn lâm viện Đãi chế, Thự hiến sát sứ. Đông các Hiệu thư, Đốc đồng Thái Nguyên. Quảng tiến lộc đại phu, kiêm Tế tửu Quốc Tử giám. Đông các Hiệu thư, Đốc đồng Tuyên Quang (thời Lê). Thời Nguyễn: Học sĩ, Đốc học Sơn Nam Không rõ

Nghệ An Giám sinh Năm 1779: Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

75 Hoàng Quốc Trân (1850 -?) 76 Ngô Nho

lâm viện

(1756 -1787)

Hàn Hiệu thảo.

Hà Nội Giám sinh Năm 1785 đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân

77

Nghệ An Giám sinh Đỗ Hương cống

Huấn đạo

Phạm Phan Truyền

210

78

Văn

Nghệ An Giám sinh Tam trường thi Hội Huấn đạo.

Phan Thuyên

Công

Nghệ An Giám sinh Nhị trường thi Hội Tri huyện,

79 Đậu Luận

lộ

chí

Ông có công vẽ bản đồ “Tứ đồ” gồm vùng quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam

(Nguồn: Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê. 1993. Đại Việt sử ký toàn thư (bản khắc năm Chính Hòa 18 - 1697) (tập 3), Sđd; Đại Việt sử ký tục biên (1676 -1789). 1991, Sđd; Quốc sử quán triều Nguyễn. 1998. Khâm Định Việt sử thông giám Cương mục (tập 2), Sđd; Ngô Cao Lãng.1995. Lịch triều tạp kỷ, Sđd; Phan Huy Chú. 2007. Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1; Sđd; Ngô Đức Thọ (Cb).2006. Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919, Sđd; Quốc sử quán triều Nguyễn. 2005. Đại Nam nhất thống chí (5 tập), Sđd; Đào Tam Tỉnh. 2005. Khoa bảng Nghệ An, Nxb Nghệ An; Nguyễn Thành Vân – Phạm Ngô Minh.2016. Khoa bảng Quảng Bình và giáo dục – khoa cử triều Nguyễn, Nxb Đà Nẵng)

Bảng 13. Tình trạng nhũng lạm của một số quan chức triều Lê -Trịnh Xuất thân Chức quan

Nguyên nhân

Họ và tên

Hình thức xử phạt

Nguyễn Lại

Tiến sĩ 1619 Hữu Thị lang Bãi chức

Ăn của đút công khai, bổ trao quan chức phần nhiều quá lạm

chính

Quách Đồng Đức Tiến sĩ 1640

Bãi chức

Hối lộ

thư

Phan Kiêm Toàn Tiến sĩ 1643

Lương Khoái

Tiến sĩ 1643

Giáng xuống Hữu thị lang bộ Hộ Biếm xuống Đông các hiệu thư

Cất nhắc không đúng Ức hiếp sĩ tử lấy tiền bạc

các

Trương Luân Đạo 1640

Bãi chức

Lê Sĩ Triệt

1640

Hiến sát sứ xứ Lạng Sơn

Lê Hiệu

Tiến sĩ 1643

Bãi chức

Tự tiện cho sắc chỉ và cấp bằng phê cho lại điển các nha môn làm việc có chỗ thiên vị

Phan Kiêm Toàn Tiến sĩ 1643

Giáng làm Thái thường tự khanh

Đô

Phùng Viết Tu

Tiến sĩ 1652

Thắt cổ chết

Thừa xứ Sơn Tây Thượng bộ Hình Tham chính xứ Nghệ An Đông hiệu thư Binh bộ Tả thị lang Tham tụng , Thượng thư bộ Hình Lại bộ Tả thị lang Thiêm ngự sử

Thân Toàn

Tiến sĩ 1652 Đô Ngự sử

biếm xuống Tả thị lang bộ Hộ

Nguyễn Đình Trụ Tiến sĩ 1656 Lại khoa cấp

Giáng xuống sự trung

Đỗ Thiện Chính

Tiến sĩ 1659 Đô Ngự sử

Lê Trí Bình

Tiến sĩ 1661

Hiến sát sứ Sơn Nam

Giáng xuống Hộ khoa đô cấp sự trung Giáng xuốn Giám sát Ngự sử đạo Hải Dương

Bẻ cong phép nước, ăn của đút lót, Vì khảo xét không đúng sự thực Không biết khảo xét quan lại kỹ, thẩm tra lại để bác Xét xử kiện tụng không được thích đáng Đốc suất đắp đường đê tính việc chưa rõ ràng A dua phụ họa, kết

Ngô Sĩ Giáo

Tiến sĩ 1664 Thiêm

đô Bãi chức

211

Ngự sử

chức

Ngô Hải

Tiến sĩ 1664

(sau chức Tể

Phó đô Ngự sử

Bãi phục tướng)

bè đảng bênh vực riêng cho nhau Che giấu hành vi của Ngô Sách Tuân thiên vị lấy đỗ con Lê Hy Nhận hối lộ

Bùi Tông

Tiến sĩ 1664 Cấp sự trung Bị khép tội

đô

Nguyễn Viết Thứ Tiến sĩ 1664

bị luận tội phạt

Trần Thế Vinh

Tiến sĩ 1670

Thiêm Ngự sử Tả thị lang bộ Lại

Biếm xuống Đại lý Tự khanh

Lê Chí Tuân

Tiến sĩ 1685

Giám sát

Biếm xuống Tư huấn

Đỗ Công Bật

Tiến sĩ 1685

Khi làm việc sai người làm trước rồi mới xin mệnh vua, để thuộc hạ đi yêu sách dân châu cung đốn rất khốn khổ

Vũ Cầu Hối

Tiến sĩ 1659

Nhận hối lộ mang giấu sách

Ngô Sách Dụ

Tiến sĩ 1664

Tội đồ

Lê Chí Đạo

Tiến sĩ1659

Chấm bài sai học trò

Tống Nho

Tiến sĩ 1670

Nguyễn Trí Trung Tiến sĩ 1670

Tham chính Thanh Hoa Phủ doãn Phủ Phụng Thiên Tham chính Sơn Tây Tham chính Sơn Nam Tham chính Thái Nguyên

Đăng

Tiến sĩ 1673 Phủ doãn

Tất cả hoặc bị biếm hoặc bị bãi chức

Đều bị liệt vào hạng hạ khảo, chỉ hạng quan tham ô bỉ ổi, tụng để ứ kiện đọng.

Tiến sĩ 1680

Giám sát Ngự sử

Nguyễn Tuân Nguyễn Quang Thọ Vũ Duy Dương

Tiến sĩ 1685 Tư huấn

Quang

Tiến sĩ 1683

Phạm Trạch

Tham chính Kinh Bắc

biếm Đô cấp sự trung

Danh

Tiến sĩ 1670

Nguyễn Nho

Tả thị lang bộ Lại

Giáng xuống Hữu thị lang bộ Hình

Đăng

Tiến sĩ 1675

Bãi chức

Nguyễn Long

Tham chính Sơn Nam

Ngô Sách Tuân

Tiến sĩ 1676 Hữu thị lang

-Giáng làm Tham chính Lạng Sơn -Khép tội chết

Hưng

Tiến sĩ 1680

Đi đày

Nguyễn Công

Lệ khoa cấp sự trung

Công

Tiến sĩ 1685

Nguyễn Đổng

Thái bộc tự khanh

Biếm xuống Hộ bộ cấp sự trung

công xét Khảo trạng của liêu thuộc ty không đúng sự thực Tuyển bổ các quan chức nhũng lạm, bừa bài, phần nhiều không hợp thể lệ Bắt bớ, đòi hỏi sách nhiễu quá lạm, làm việc tầm thường Tư túi tuyển bổ 2 người học trò của mình -Đổi quyển thi cho con Lê Hy tăng điểm Khi làm Hiến sát Thanh Hoa hà khắc, tham nhũng Không giữ gìn cái lặt vặt, vay nợ để

212

Công

thư

Tiến sĩ 1685

Trương Giai

Thượng bộ Hình

Giáng xuống Tả thị lang bộ Lại

thị

Hồ Phi Tích

Tiến sĩ 1700

Tả thị lang bộ Lại

Giáng Hữu lang bộ Lễ

đồng

Mai Danh Tông

Tiến sĩ 1731

Không bị gì

Đốc Cao Bằng

Trần Trọng Liêu

Tiến sĩ 1733 Lại khoa

Giáng chức

Bùi Trọng Huyến Tiến sĩ 1739

Bãi chức

Hàn lâm thừa chỉ

trấn

Lê Doãn Thân

Tiến sĩ 1748

Bãi chức

kiện người trước giữ chức ở Ngự sử đài không biết làm cho tỏ lẽ phải khiến cho có người mổ bụng kêu oan Tăng thuế dung nhiều hơn ngạch cũ luận tội về tuyển duyệt không tinh, Ẩn giấu hơn 1000 thông tiền quan kinh do học trò tục nạp Hà khắc, nhũng nhiễu dân

tham

Phan Nhuệ

Tiến sĩ 1748

Đốc Lạng Sơn Thự chính

Biếm chức

Khảo hạch học trò, lấy đỗ tùy tiện

Tông

Tiến sĩ 1754 Hiến sát

Nguyễn Trình

chính

Vũ Huy Đĩnh

Tiến sĩ 1754

Giáng chức

Tiêu lạm tiền công quỹ

Phạm Huy Cơ

Tiến sĩ 1757

Giam vào ngục

Ăn hối lộ

Nguyễn Kỳ

Tiến sĩ 1748

Bãi chức

Việc thỉnh thác bị lộ

Phan Cảnh

Tiến sĩ 763

Thừa sứ Hiến sát sứ trấn Sơn Nam đồng Đốc Thanh Hoa Thị Đốc thị Nghệ An

Tiến sĩ 1754

không rõ

Giáng chức

Duy

Lấy đỗ, đánh hỏng học trò

Tiên sĩ 1763

Dương Sử Nguyễn Thức

Phạm Bá Ưng

Hương cống

Hiến sát sứ trấn Nghệ An

Năm 1771 miễn chức vĩnh viễn

Hà khắc nhũng nhiễu dân Nghệ An.

Giáng chức

Khảo hạch làm bậy

Phủ doãn và quan hai ty

Tiến sĩ 1743 Tiến sĩ 1757 Tiến sĩ 1743

Trọng

Tiến sĩ 1754

Giáng chức

Khảo hạch làm bậy

Phủ doãn và quan hai ty

Tiến sĩ 1763 Tiến sĩ 1766

Lê Văn Bưu Đào Huy Điển Trần Văn Trứ Dương Khiêm Vũ Cơ Lý Trần Quán

(Nguồn: Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê. 1993. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 3, Sđd; Đại Việt sử ký tục biên 1676 -1789, Sđd; Quốc sử quán triều Nguyễn. 1998. Khâm Định Việt sử thông giám Cương mục, Tập 2, Sđd; Ngô Cao Lãng. 1995. Lịch triều tạp kỷ, Sđd; Phạm Đình Hổ. 1989. Vũ trung tùy bút, Nxb Trẻ; Đặng Xuân Bảng. 2000. Việt sử cương mục tiết yếu, Sđd; Ngô Đức Thọ (Cb). 206. Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075 -1919, Sđd)

213

II. HÌNH ẢNH

Ảnh 1: Bản chỉ dụ về quy chế học tập, thi cử ở Quốc Tử Giám, ban hành năm 1721. (Nguồn: Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám)

Ảnh 2: Bản sắc dụ của vua Lê Thần Tông cho tu sửa nhà Thái học (Quốc Tử Giám) năm 1662.

(Nguồn: Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám).

214

Ảnh 3 : Thầy đồ dạy chữ Hán ngày xưa (Nguồn: Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám Quốc Tử Giám, 2018)

Ảnh 4: Bút, nghiên, mực,sách cổ (Nguồn: Viện Thông tin Khoa học Xã hội)

215

Ảnh 5: Hình ảnh sách Tứ thư, Ngũ kinh (Nguồn: Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám)

216

Ảnh 6: Nhà thờ Nguyễn Huy Oánh – dấu tích trường Phúc Giang thư viện

(Nguồn ảnh: Phan Đăng Thuận)

Ảnh 7: Bản sắc phong của triều đình Lê -Trịnh cho trường Phúc Giang Thư viện của Nguyễn Huy Oánh năm Cảnh Hưng 44 (1784)

Bản chữ Hán:

敕 福 江 書 院 長 恩 會 魁 星 斗 坐 阮 恩 台 長 生 祿 位 芳 流 孔 水 派 續 尼 山 博 我 以 文 樹 人 贊 百 年 之 計 使 民 也 惠 醫 國 高 千 古 之 勳 同 人 稔 協 推 保 大 有 正 宜 用 享 為 嗣 王 進 封 王 位 臨 居 正 府 禮 有 登 秩 應 褎 封 美 字 二 字 可 封 福 江 書 院 長 恩 會 魁 星 斗 坐 阮 恩 台 長 生 祿 位 淵 普 弘 裕 大 王 故敕

景 興 四 十 四 年 七 月 二 十 六 日

217

Phiên âm: Sắc Phúc Giang Thư viện, Trường Ân hội, Khôi tinh đẩu tọa, Nguyễn Ân Thai (Đài), trường sinh lộc vị. Phương lưu Khổng thủy, phái tục Ni sơn, bác ngã dĩ văn, thụ nhân tán bách niên chi kế, sử dân dã huệ, y quốc cao thiên cổ chi huân, đồng nhân nhẫm hiệp, suy bảo đại hữu, chính nghi dụng hưởng, vị tự vương tiến phong vương vị, lâm cư chính phủ. Lễ hữu đăng trật. Ưng bao phong mỹ tự nhị tự, khả phong: Phúc Giang Thư viện, Trường Ân hội, Khôi tinh Đẩu tọa, Nguyễn Ân Thai. Trường sinh lộc vị, Uyên phổ Hoằng dụ Đại vương.

Cố sắc! Cảnh Hưng tứ thập tứ niên, thất nguyệt, nhị thập lục nhật.

Tạm dịch: Sắc cho thần là Khôi tinh Đẩu tọa Nguyễn Ân Thai (Đài), Trường Sinh Lộc

ở Hội Trường Ân Phúc Giang Thư viện: Tiếng thơm lưu chảy từ sông Khổng,

chi phái nối tiếp ở núi Ni, lấy văn học mà làm uyên bác cho ta, tỏ rõ kế sách

trăm năm trồng người, việc lợi cho dân thì dùng ân huệ, có công lao hộ quốc,

như bậc cao niên nghìn năm, cùng người giúp đỡ đã lâu, lo việc bảo vệ cũng

nhiều, chính đáng được phụng thờ. Triều đình tiến phong tước vương, quản

trong chính phủ, lễ có thêm phẩm trật, ban khen phong cho mỹ tự hai chữ Đại

vương. Nay xứng đáng được phong: Khôi tinh Đẩu tọa, Nguyễn Ân Thai (Đài),

Trường sinh lộc, Uyên phổ Hoằng dụ Đại vương ở hội Trường Ân Thư viện

Phúc Giang.

Vậy Ban sắc! Ngày 26 tháng 7 năm Cảnh Hương thứ 44

218

(Nguồn: Hình ảnh và bản dịch của ThS. Phan Đăng Thuận)

Ảnh 8: Văn Miếu – Hà Nội (nguồn: Tác giả chụp tháng 10 năm 2017)

Ảnh 9: Bia ký Tiến sĩ khoa thi năm Tân Sửu niên hiệu Vĩnh Thọ 4 (1661) (Nguồn: Trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu - Quốc Tử Giám)

Ảnh 10: Văn Miếu Mao Điền –Hải Dương (Nguồn: Ảnh chụp năm 2017)

219

Ảnh 11: Văn Miếu Trấn Biên (Nguồn: https://vi.m.wikipedia.org)

Ảnh 12: Dấu tích Văn chỉ làng Đông Ngạc (Nguồn: Ảnh chụp năm 2018)

220

Ảnh 13: Đình làng Kẻ Vẽ - làng Đông Ngạc, nơi thờ thầy giáo Nguyễn Đình Trụ thế kỷ XVII (Nguồn: Ảnh tác giả chụp tháng 8/2018)

Ảnh 14: Đền thờ Thủy tổ, Thần tổ họ Vũ - Thành hoàng làng Mộ Trạch, xã Tân Hồng, huyện Bình Giang, Hải Dương - làng có nhiều Tiến sĩ nhất cả nước (Nguồn: Ảnh tác giả chụp năm 2016)

221

Ảnh 15: Mộ danh sĩ Nguyễn Cư Trinh - tại xã Lộc Bốn, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế (Nguồn: http://ditichlichsuvanhoa.com/dttc/MO-NGUYEN-CU-TRINH-a457.ht)

Phụ lục: Một đề Chế sách thi Đình triều Lê - Trịnh [Khoa thi năm Vĩnh Thọ thứ 4 (1661)]

222

223

224

225

226

227

228

229

230

231

232

233

234

235

(Nguồn: Nguyễn Văn Thịnh. 2010. Văn sách thi Đình Thăng Long - Hà Nội, Tập 1, Nxb Hà Nội)

236