BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

DƯ THỊ LAN QUỲNH

TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐỐI VỚI

SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

TP. HỒ CHÍ MINH –NĂM 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

DƯ THỊ LAN QUỲNH

TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐỐI VỚI

SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng

MÃ SỐ: 9 34 02 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN ĐỨC TRUNG

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận án này chưa từng được trình nộp để lấy học vị Tiến sĩ tại bất cứ

một cơ sở đào tạo nào. Luận án là công trình nghiên cứu riêng của tác giả, kết quả nghiên cứu

là trung thực, trong đó không có các nội dung đã được công bố trước đây hoặc các nội dung

do người khác thực hiện ngoại trừ các trích dẫn được dẫn nguồn đầy đủ trong luận án.

Nghiên cứu sinh

Dư Thị Lan Quỳnh

ii

LỜI CẢM ƠN

Lời cảm ơn đầu tiên, tôi muốn dành cho PGS. TS. Nguyễn Đức Trung, người hướng dẫn

khoa học đã tận tình định hướng nghiên cứu, góp ý, chỉnh sửa luận án và luôn động viên tôi

nỗ lực trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành luận án này.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn quý Thầy/Cô trong Hội đồng các cấp, đặc biệt là PGS.TS.

Đoàn Thanh Hà đã cho tôi nhiều ý kiến góp ý tận tâm, quý báu giúp tôi hoàn thiện luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn quý Thầy/Cô các thế hệ của trường Đại học Ngân hàng TP Hồ

Chí Minh đã dày công trang bị cho tôi đầy đủ kiến thức, kỹ năng, phương pháp giúp tôi hoàn

thành tốt việc nghiên cứu trong suốt thời gian học tập và làm nghiên cứu sinh tại trường.

Trân trọng cảm ơn Ban lãnh đạo Trường và Khoa Sau đại học đã giúp đỡ, hỗ trợ tốt nhất

để tôi có thể hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh đúng hạn.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè và các Thầy/Cô trong

Khoa Tài chính đã động viên và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt chương trình học tập.

Đặc biệt, tôi muốn nói lời cảm ơn đến chồng tôi, người đã luôn đồng hành, chia sẻ, tạo động

lực giúp tôi hoàn thành luận án.

iii

TÓM TẮT LUẬN ÁN

Từ sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2008, thúc đẩy tài chính toàn diện – hay nói cách

khác là thúc đẩy việc tất cả các thành phần trong kinh tế có thể tiếp cận các dịch vụ tài chính

một cách chính thức và có thể sử dụng các dịch vụ đó một cách hiệu quả – được coi là chương

trình ưu tiên hàng đầu ở nhiều quốc gia hiện nay, đặc biệt là ở các quốc gia trong ASEAN –

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (xem Rahman, 2015; World Bank, 2015; Tambunlertchai,

2015; ADB, 2015; MAS, 2006; ASEAN, 2020; Trujillo, Sitorus and Aviles, 2018; UNCDF,

2020). Thuật ngữ này không chỉ được chính phủ các nước cân nhắc cẩn thận, còn được rất

nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm. Các nghiên cứu đã chỉ ra khái niệm của tài chính

toàn diện, xây dựng cách đo lường tài chính toàn diện, phân tích và cung cấp các bằng chứng

chứng tỏ vai trò tích cực của tài chính toàn diện đối với tăng trưởng kinh tế và đối với phát

triển bền vững (xem Iqbal and Sami, 2017; Kalunda, 2014; Shankar, 2013; Garcia, 2016;

Sarma, 2008, 2012, 2015; Sarma and Pais, 2011; v.v.)

Cũng từ sau năm 2008, ngoài vấn đề tài chính toàn diện, sự ổn định hệ thống ngân hàng

cũng là vấn đề được đề cập rất nhiều ở các quốc gia ASEAN (Ovi, Perera and Colombage,

2014). Bàn về ổn định hệ thống tài chính nói chung và ổn định hệ thống ngân hàng nói riêng,

các nghiên cứu trên thế giới có các quan điểm khác nhau về tác động của tài chính toàn diện

đối với sự ổn định này (xem Hannig and Jansen, 2010; Neaime and Gaysset, 2018; Ahamed

and Mallick, 2019; v.v.). Song, ở các nước khu vực ASEAN, chưa có nghiên cứu nào thật sự

chú ý đến việc điều tra xem mục tiêu phát triển tài chính toàn diện có ảnh hưởng như thế nào

đến sự ổn định của của hệ thống ngân hàng. Trong luận án, tác giả đã chỉ ra các quốc gia ở

khu vực này có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng, do vậy nghiên cứu về tài chính toàn

diện (dưới góc độ ngân hàng) là thật sự cần thiết; và đồng thời, việc tìm ra câu trả lời cho câu

hỏi nói trên, không chỉ mang lại ý nghĩa hết sức to lớn cho các nhà hoạch định chính sách ở

các quốc gia này, mà còn có ý nghĩa đối với những quốc gia có hệ thống tài chính tương tự.

Từ sự thiếu hụt nói trên trong các nghiên cứu ở ASEAN, đề tài nghiên cứu “TÁC ĐỘNG

CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐỐI VỚI SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG”

là cần thiết để bổ sung cơ sở lý luận cũng như bằng chứng thực nghiệm về tác động của tài

chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Nghiên cứu thực hiện trong phạm vi

sáu quốc gia khu vực ASEAN (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt

iv

Nam), thời gian 2008 – 2019, với các phương pháp định tính và định lượng (System

Generalized Method of Moments – SGMM)

Trong nghiên cứu này, tác giả đã nêu các cơ sở lý luận về tài chính toàn diện và ổn định

hệ thống ngân hàng. Với tài chính toàn diện, tác giả xác định khái niệm của thuật ngữ này

trên ba khía cạnh: thâm nhập, sẵn có và sử dụng, do vậy cũng sẽ đo lường mức độ tài chính

toàn diện trên ba phương diện này. Với ổn định hệ thống ngân hàng, tác giả xem nó là ổn định

của từng ngân hàng, từ đó tác giả sử dụng chỉ số đo lường là Zscore đại diện cho sự ổn định

chung của mỗi ngân hàng, ngoài ra tác giả còn quan sát sự ổn định của tăng trưởng tiền gửi

và tỷ lệ nợ xấu.

Tác giả cũng đã tìm ra hai kênh dẫn chính bao gồm tiền gửi và cho vay, thông qua đó tài

chính toàn diện có thể tác động đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Kết quả nghiên cứu

cho thấy tài chính toàn diện có vai trò tích cực với sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các

nước khu vực ASEAN. Kết quả này đồng nhất với các nghiên cứu thực nghiệm khác đã được

thực hiện trước đó. Đây là kết luận trọng yếu nhất của luận án, rằng các ngân hàng hoạt động

ở các môi trường có tài chính toàn diện cao có thể cải thiện sự ổn định. Tác giả cũng đã chỉ

ra các biến phụ thuộc khác có tác động tích cực đến ổn định hệ thống ngân hàng gồm quy mô,

mức độ vốn hóa, tỷ lệ tài sản có khả năng sinh lời và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đồng

thời cũng lưu ý việc gia tăng các trích lập dự phòng rủi ro vỡ nợ hay gia tăng các thu nhập

phi lãi sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định. Kết quả này của nghiên cứu đã có đóng góp cả

về lý luận, thực tiễn.

Chính vì vậy, nghiên cứu cho rằng thúc đẩy tài chính toàn diện vẫn cần được ưu tiên hàng

đầu của các chính phủ ở ASEAN hiện nay, để từ đó nâng cao tính ổn định của hệ thống ngân

hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung. Song thúc đẩy tài chính toàn diện không phải

là việc đơn giản. Do vậy, một số hàm ý chính sách dành cho chính phủ các nước ở ASEAN

cũng được tác giả đề xuất, với sự nhấn mạnh vào việc thúc đẩy tài chính toàn diện cần tập

trung đồng thời vào cả ba khía cạnh: (1) gia tăng số lượng tài khoản được mở tại các ngân

hàng trong người dân; (2) mở rộng các chi nhánh ngân hàng hoặc gia tăng số lượng ATM; và

(3) khuyến thích việc người dân sử dụng các dịch vụ tài chính chính thống ở các ngân hàng.

Ngoài ra việc duy trì một nền kinh tế lành mạnh và tăng trưởng ổn định cũng rất quan trọng

cho cả việc thúc đẩy tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng.

Từ khóa: tài chính toàn diện, ổn định hệ thống ngân hàng.

v

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................................ ii

TÓM TẮT LUẬN ÁN .......................................................................................................... iii

MỤC LỤC ............................................................................................................................... v

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ................................................................................................ ix

DANH MỤC BẢNG .............................................................................................................. xi

DANH MỤC HÌNH ............................................................................................................. xii

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ......................................................... 1

1.1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ......................................................... 1

1.2. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU .............................................................. 4

Mục tiêu tổng quát ............................................................................................................ 4

Mục tiêu cụ thể ................................................................................................................. 4

Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................................... 4

1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .......................................................... 5

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................. 5

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................ 5

1.3.2.1. Phạm vi về không gian.................................................................................... 5

1.3.2.2. Phạm vi về thời gian ....................................................................................... 6

1.3.2.3. Phạm vi về nội dung ....................................................................................... 8

1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU ..................................................... 9

Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................. 9

Dữ liệu ............................................................................................................................ 10

1.5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI ...................................................................................... 11

Đóng góp về mặt lý luận ................................................................................................. 11

Đóng góp về mặt thực tiễn .............................................................................................. 11

1.6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU ........................................................................ 12

TÓM TẮT CHƯƠNG 1 ................................................................................................... 13

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ...................................................................................................... 14

vi

2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ................................................ 14

2.1.1. Khái niệm của tài chính toàn diện ........................................................................ 14

2.1.2. Vai trò và ý nghĩa của tài chính toàn diện ............................................................ 17

2.1.2.1. Tài chính toàn diện và sự ổn định tài chính .................................................. 17

2.1.2.2. Tài chính toàn diện và tăng trưởng kinh tế ................................................... 18

2.1.2.3. Tài chính toàn diện và phát triển bền vững .................................................. 20

2.1.3. Các chỉ số đo lường tài chính toàn diện ............................................................... 25

2.1.3.1. Các chỉ số riêng lẻ ......................................................................................... 25

2.1.3.2. Chỉ số tổng hợp về tài chính toàn diện ......................................................... 27

2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ..................... 34

2.2.1. Khái niệm về ổn định hệ thống tài chính .............................................................. 34

2.2.2. Khái niệm về ổn định hệ thống ngân hàng ........................................................... 36

2.2.3. Các chỉ số đo lường ổn định hệ thống ngân hàng ................................................. 39

2.2.3.1. Chỉ số Zscore ................................................................................................ 39

2.2.3.2. Một số chỉ số đo lường khác ......................................................................... 41

2.2.4. Một số nhân tố ảnh hưởng đến ổn định hệ thống ngân hàng ................................ 43

2.2.4.1. Các nhân tố bên trong ................................................................................... 43

2.2.4.2. Các nhân tố bên ngoài ................................................................................... 49

2.3. TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐỐI VỚI SỰ ỔN ĐỊNH HỆ

THỐNG NGÂN HÀNG ......................................................................................................... 50

2.3.1. Tài chính toàn diện tác động tiêu cực đến ổn định hệ thống ngân hàng .............. 50

2.3.2. Tài chính toàn diện tác động tích cực đến ổn định hệ thống ngân hàng .............. 51

2.3.2.1. Gia tăng tiền gửi bán lẻ ổn định .................................................................... 52

2.3.2.2. Mở rộng cho vay an toàn .............................................................................. 54

2.3.2.3. Sự phát triển bền vững .................................................................................. 56

2.4. LƯỢC KHẢO CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN VÀ KHOẢNG TRỐNG NGHIÊN CỨU ........................................................................................................................ 57

2.4.1. Lược khảo các nghiên cứu về tài chính toàn diện ................................................ 58

2.4.2. Lược khảo các nghiên cứu về sự ổn định hệ thống ngân hàng ............................. 59

2.4.3. Lược khảo các nghiên cứu về tác động của tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng.............................................................................................................................. 61

vii

2.4.4. Khoảng trống nghiên cứu ..................................................................................... 64

TÓM TẮT CHƯƠNG 2 ................................................................................................... 66

CHƯƠNG 3: QUY TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................ 67

3.1. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU .................................................................................. 67

3.2. GIẢ THUYẾT ........................................................................................................... 69

3.3. MÔ HÌNH, CÁC BIẾN VÀ DỮ LIỆU .................................................................... 70

3.3.1. Mô hình nghiên cứu .............................................................................................. 70

3.3.2. Các biến ................................................................................................................ 71

3.3.2.1. Các biến đại diện của sự ổn định của ngân hàng .......................................... 71

3.3.2.2. Các biến đại diện của tài chính toàn diện ..................................................... 72

3.3.2.3. Biến đại diện cho sự cạnh tranh của ngân hàng ............................................ 73

3.3.2.4. Các biến kiểm soát khác ............................................................................... 75

3.3.2.5. Lựa chọn biến công cụ .................................................................................. 80

3.3.3. Nguồn dữ liệu ....................................................................................................... 81

3.4. PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG ............................................................................. 81

TÓM TẮT CHƯƠNG 3 ................................................................................................... 84

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ........................................... 85

4.1. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI CÁC QUỐC GIA ASEAN ................................................................... 85

4.1.1. Mức độ tài chính toàn diện ở các nước khu vực ASEAN .................................... 85

4.1.1.1. Khía cạnh thứ nhất: sự thâm nhập của ngân hàng ........................................ 85

4.1.1.2. Khía cạnh thứ hai: tính sẵn có của các dịch vụ ngân hàng ........................... 88

4.1.1.3. Khía cạnh thứ ba: mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng .......................... 91

4.1.1.4. Đánh giá mức độ tài chính toàn diện thông qua chỉ số tổng hợp IFI ............ 97

4.1.2. Mức độ ổn định hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN .............................. 99

4.2. TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI CÁC QUỐC GIA ASEAN ................................................. 102

4.2.1. Thống kê mô tả và tương quan giữa các biến ..................................................... 102

4.2.1.1. Một số thống kê mô tả các biến trong mô hình .......................................... 102

4.2.1.2. Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình ....................................... 104

viii

4.2.2. Kết quả hồi quy về sự tác động của tài chính toàn diện đến ổn định của hệ thống ngân hàng tại các quốc gia ASEAN ................................................................................... 107

4.2.2.1. Tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng thông qua biến chỉ số tài chính toàn diện IFI ........................................................................... 107

4.2.2.2. Tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng thông qua các khía cạnh của tài chính toàn diện ..................................................................... 108

hàng

4.2.3. Thảo luận về tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân ............................................................................................................................. 111

4.3. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIẾN KHÁC ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG TẠI CÁC QUỐC GIA ASEAN ................................................................. 115

TÓM TẮT CHƯƠNG 4 ................................................................................................. 119

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH ........................................ 120

5.1. KẾT LUẬN NGHIÊN CỨU .................................................................................. 120

5.2. CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH ................................................................................ 122

5.2.1. Tiếp tục thúc đẩy tiến trình tài chính toàn diện .................................................. 122

5.2.1.1. Thúc đẩy tài chính toàn diện cần được triển khai trên cả ba khía cạnh ...... 123

5.2.1.2. Gợi ý chiến lược thúc đẩy tiến trình triển tài chính toàn diện .................... 124

5.2.2. Đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng ổn định .......................................................... 126

5.2.3. Cải thiện các vấn đề nội tại của các ngân hàng ở khu vực ASEAN ................... 127

5.3. HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO .......... 128

TÓM TẮT CHƯƠNG 5 ................................................................................................. 130

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

ix

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Tên tiếng Anh

Tên tiếng Việt

ADB

Asian Development Bank

Ngân hàng Phát triển châu Á

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

ASEAN

Association of Southeast Asian Nations

ASEAN Economic Community

Cộng đồng kinh tế ASEAN

AEC

Automatic Teller Machine

Máy rút tiền tự động

ATM

Bank Negara Malaysia

Ngân hàng Trung ương Malaysia

BNM

The Bank of Korea

Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc

BOK

Bangko Sentral ng Pilipinas

Ngân hàng Trung ương Philippines

BSP

CARD

Trung tâm Nông nghiệp và phát triển nông thôn Philippines

CARD MRI

Tổ chức hỗ trợ CARD

Center for Agriculture and Rural Development The CARD Mutually Reinforcing Institutions

Central Bank of Namibia

Ngân hàng Trung ương Namibia

CBN

Doanh nghiệp

DN

ERIA

Viện Nghiên cứu Kinh tế ASEAN và Đông Á

Tỷ lệ tài sản sinh lời trên tổng tài sản

EAtoTA

Economic Research Institute for ASEAN and East Asia The ratio of total earning assets to total assets

EQA

The equity-to-assets ratio

Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản

FAO

Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc

Food and Agriculture Organization of the United Nations

Financial Inclusion Center

Ủy ban Tài chính toàn diện Anh

FIC

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

GDP

GDPrate

GDP growth rate

Tốc độ tăng trưởng GDP

HKMA

Hong Kong Monetary Authority Ngân hàng Trung ương Hong Kong

Index of Financial Inclusion

Chỉ số tài chính toàn diện

IFI

IFIa

Chỉ số tài chính toàn diện khía cạnh sẵn có các dịch vụ ngân hàng

IFI – Availability of the banking services

IFI – Banking Penetration

IFIp

IFIu

IFI – Usage

Chỉ số tài chính toàn diện khía cạnh thâm nhập ngân hàng Chỉ số tài chính toàn diện khía cạnh mức độ sử dụng dịch vụ ngân hàng

x

IMF

International Monetary Fund

Quỹ Tiền tệ Quốc tế

IMF FAS

IMF Financial Access Survey

IMF Khảo sát Tiếp cận tài chính

LossProv

Tỉ lệ dự phòng mất nợ trên tổng nợ

The ratio of loan loss provision to total loans

MAS

Monetary Authority of Singapore Ngân hàng Trung ương Singapore

MTI

Ministry of Trade and Industry

Bộ Thương mại và Công nghiệp Singapore

M-Pesa

M - mobile, pesa - money

Giao dịch thông qua thanh toán di động

MSME

Doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa

Micro, Small and Medium Enterprises

NHTW

Ngân hàng Trung ương

NonIncome

Tỉ lệ thu nhập phi lãi trên tổng thu nhập hoạt động

NPLTA

Tỷ lệ nợ xấu trên tổng tài sản

The ratio of non-interest income to total operating income Non-performing loan to total assets

ROA

Return on assets

sdGrDep

Standard deviation of deposit growth rates

Tỷ lệ lợi nhuận (sau thuế) trên tổng tài sản Độ lệch chuẩn của tốc độ tăng trưởng tiền gửi

SDG

Sustainable Development Goals Các mục tiêu Phát triển Bền vững

SGMM

System Generalized Method of Moments

SME

Small and Medium Enterprises

Doanh nghiệp nhỏ và vừa

TA

Tổng tài sản

Total assets

TCTC

Tổ chức tài chính

TCTD

Tổ chức tín dụng

UN

United Nations

Liên Hiệp Quốc

UNCDF

Quỹ phát triển vốn Liên Hiệp Quốc

United Nations Capital Development Fund

World Bank World Bank

Ngân hàng Thế giới

Zscore

Z score

Chỉ số Z, đo lường sự ổn định của ngân hàng

xi

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1. Tỷ lệ giá trị giao dịch trên thị trường chứng khoán và tỷ lệ tín dụng ngân hàng

so với GDP năm 2017 .............................................................................................................. 6

Bảng 2.1. Các mức độ tài chính toàn diện........................................................................ 33

Bảng 3.1. Tổng hợp các biến nghiên cứu thực nghiệm và kỳ vọng chiều hướng tác động

trong phương trình theo các biến phục thuộc ........................................................................ 77

Bảng 4.1. Tốc độ tăng trưởng về số lượng tài khoản ngân hàng trong 1000 người trưởng

thành ....................................................................................................................................... 86

Bảng 4.2. Tốc độ tăng trưởng số lượng chi nhánh ngân hàng trong 100,000 người trưởng

thành ....................................................................................................................................... 88

Bảng 4.3. Tốc độ tăng trưởng số lượng ATM trong 100,000 người trưởng thành .......... 90

Bảng 4.4. Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tiền gửi và cho vay trên GDP ................................... 92

Bảng 4.5. Số liệu thống kê về các khía cạnh của tài chính toàn diện .............................. 94

Bảng 4.6. Số liệu thống kê về các khía cạnh của tài chính toàn diện (tiếp theo) ............. 94

Bảng 4.7. Kết quả IFI của các quốc gia ASEAN năm 2008 – 2019 ................................ 97

Bảng 4.8. Chỉ số Zscore của hệ thống ngân hàng các nước và bình quân chung của cả khu

vực ASEAN từ năm 2008 – 2019 .......................................................................................... 99

Bảng 4.9. Tốc độ tăng trưởng tiền gửi của hệ thống ngân hàng các nước và bình quân

chung của cả khu vực ASEAN từ năm 2008 – 2019 ........................................................... 100

Bảng 4.10. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng các nước và bình quân chung của cả khu

vực ASEAN từ năm 2008 – 2019 ........................................................................................ 101

Bảng 4.11. Thống kê mô tả các biến .............................................................................. 103

Bảng 4.12. Ma trận tương quan các biến trong mô hình ................................................ 105

Bảng 4.13. Kết quả hồi quy tác động của IFI ................................................................. 107

Bảng 4.14. Kết quả hồi quy tác động của IFIp ............................................................... 108

Bảng 4.15. Kết quả hồi quy tác động của IFIa ............................................................... 109

Bảng 4.16. Kết quả hồi quy tác động của IFIu ............................................................... 110

Bảng 4.17. Tổng hợp hệ số hồi quy của các mô hình hồi quy tác động của tài chính toàn

diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng ....................................................................... 111

xii

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1. Đồ họa giải thích ba chiều (khía cạnh) của IFI ................................................ 31

Hình 3.1. Quy trình nghiên cứu ........................................................................................ 68

Hình 4.1. Số lượng tài khoản ngân hàng (trong 1000 người trưởng thành) bình quân qua

các năm ở các nước ASEAN và thế giới ............................................................................... 87

Hình 4.2. Số lượng chi nhánh ngân hàng và số lượng ATM trên 100,000 người trưởng

thành ở ASEAN và thế giới. .................................................................................................. 89

Hình 4.3. Tỷ lệ tiền gửi và cho vay trên GDP ở các quốc gia khu vực ASEAN và thế giới

................................................................................................................................................ 93

1

1. CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

1.1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Những năm gần đây, việc thúc đẩy tiếp cận tài chính được coi là chương trình ưu tiên

hàng đầu ở nhiều quốc gia. Từ đó làm nổi bật lên các vấn đề liên quan đến tài chính toàn diện

(Financial Inclusion) – có nghĩa là tất cả các thành phần trong kinh tế đều có thể tiếp cận các

dịch vụ tài chính một cách chính thức và có thể sử dụng các dịch vụ đó một cách hiệu quả

(Ahamed and Mallick, 2019). Không chỉ được các quốc gia cân nhắc cẩn thận, từ khóa “tài

chính toàn diện” còn được rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm.

Trong các nghiên cứu trên thế giới hiện nay, có nhiều tác giả đã chỉ ra khái niệm của tài

chính toàn diện, và xây dựng cách đo lường tài chính toàn diện, chẳng hạn Iqbal and Sami

(2017); Kalunda (2014); Shankar (2013); Garcia (2016) Sarma (2008, 2012, 2015); Sarma

and Pais (2011); v.v. Cũng có các nghiên cứu tập trung phân tích và cung cấp các bằng chứng

chứng tỏ vai trò tích cực của tài chính toàn diện đối với tăng trưởng kinh tế trên cả hai phương

diện: vi mô (Dupas and Robinson, 2013a; Brune, Giné, Goldberg and Yang, 2011; Cole, Giné

and Vickery, 2013; Jack and Suri, 2014) và vĩ mô (Demirgüç-Kunt, Honohan and Beck,

2008).

Đối với phát triển bền vững, tài chính toàn diện cũng có vai trò tích cực trong loại bỏ đói

nghèo (Banerjee and Newman, 1994; Beck, Demirgüç-Kunt and Levine, 2007; Ashraf, Karlan

and Yin, 2010; ; Burgess and Pande, 2005; Jack and Suri, 2014); giảm tình trạng thiếu đói và

tăng cường an ninh lương thực (Karlan, Osei, Osei-Akoto and Udry, 2014; Cole, Giné and

Vickery, 2013; Janzen and Carter, 2013; Brune et al., 2011; v.v.); đạt được sức khoẻ và hạnh

phúc (Krishna, 2006; Saksena, Xu and Evans, 2011; Frenk and Knaul, 2002; Klapper, El-

Zoghbi and Hess, 2016; PharmAccess, 2015; Dupas and Robinson, 2013b); tăng cường giáo

dục có chất lượng (Thomas and Burnett, 2013; Prina, 2015; Chiapa, Prina and Parker, 2014;

Chiapa, Prina and Parker, 2014; v.v.).

Cùng với sự quan tâm về tài chính toàn diện, từ sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2008,

các vấn đề về ổn định hệ thống ngân hàng cũng được các nhà quản lý ở các quốc gia hết sức

chú ý (Ovi, Perera and Colombage, 2014). Bởi vì sự ổn định hệ thống ngân hàng là yếu tố

quan trọng để giảm thiểu tác động tiêu cực đến kinh tế và xã hội khi phát sinh các vấn đề

(HKMA, 2017). Sự ổn định và lành mạnh của một hệ thống ngân hàng đảm bảo phân bổ tối

ưu các nguồn vốn (Jahn and Kick, 2012); do đó, sự ổn định của ngân hàng là rất quan trọng

2

để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho nhà đầu tư, bảo vệ khách hàng gửi tiền đồng thời

giúp nền kinh tế hoạt động trơn tru và hiệu quả. Hơn nữa, sự ổn định ở hệ thống ngân hàng

có mối liên kết mật thiết với ổn định hệ thống tài chính (Segoviano and Goodhart, 2009), một

yêu cầu thiết yếu không chỉ để ổn định giá cả – mục tiêu chính sách của NHTW, mà còn bảo

đảm sự phát triển lành mạnh và ổn định của nền kinh tế (BOK, 2020; CBN, 2020).

Đối với ổn định hệ thống ngân hàng nói trên, hiện nay vẫn tồn tại những nghi ngờ về việc

tài chính toàn diện có vai trò như thế nào và nghi ngờ này vẫn chưa được trả lời một cách rõ

ràng, từ đó khiến cho các ngân hàng lo sợ và 'né tránh' việc mở rộng dịch vụ tài chính sang

các phân đoạn khó khăn của xã hội (Leyshon and Thrift, 1995). Do đó, có thể tồn tại sự đánh

đổi giữa các mục tiêu duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng và thúc đẩy tài chính toàn

diện (Acharya, Hasan and Saunders, 2006; Hannig and Jansen, 2010). Mặc dù vậy, một số

nghiên cứu gần đây cũng đã chỉ ra rằng tài chính toàn diện có thể có tác động tích cực đến sự

ổn định này. Hannig and Jansen (2010) cho thấy khách hàng ở phân khúc thu nhập thấp chịu

nhiều rủi ro nhưng lại thường có tỷ lệ hoàn trả cao và việc giám sát rủi ro các dịch vụ tài chính

tại phân khúc này dường như được hiểu rõ hơn so với các phân khúc khác trên thị trường. Ở

cấp quốc gia, có bằng chứng cho thấy tài chính toàn diện có thể dẫn đến tính ổn định cao hơn

của trung gian tài chính; cụ thể, thông qua trung gian lượng tiết kiệm nội địa lớn hơn, dẫn tới

sự vững mạnh hơn về các chu kỳ tiết kiệm và đầu tư nội địa lành mạnh và từ đó có sự ổn định

lớn hơn (Prasad, 2010). Ahamed and Mallick (2019) cũng chỉ ra tài chính toàn diện giúp

những ngân hàng có tiền gửi của khách hàng cao hơn và chi phí cận biên cung cấp dịch vụ

ngân hàng thấp hơn, nhờ đó giúp ngân hàng trở nên ổn định hơn.

Trong phạm vi các quốc gia của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (sau đây gọi là các

quốc gia ASEAN), thúc đẩy tài chính toàn diện được quan tâm sâu sắc và cũng đã có những

động thái rõ ràng (xem Rahman, 2015; World Bank, 2015; Tambunlertchai, 2015; ADB,

2015; MAS, 2006; ASEAN, 2020; Banerjee and Donato, 2021; Loo, 2019; Trujillo, Sitorus

and Aviles, 2018; UNCDF, 2020; v.v). Các quốc gia ASEAN được đánh giá là có thành tựu

về ổn định chính trị và an ninh khu vực (Jetin and Mikic, 2016) và được xem là những quốc

gia có nền kinh tế đang phát triển của Châu Á (Hong and Tang, 2010). Mặt khác, các quốc

gia này đều có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng (bank-based financial system), theo cấu

trúc hoạt động – structure activity (Demirgiiu-Kunt and Levine, 1999; Levine, 2002). Do vậy,

ngân hàng toàn diện (banking inclusion) cũng được xem tương tự như tài chính toàn diện, và

3

thông qua các ngân hàng, các nhà hoạch định có thể điều chỉnh chính sách tài chính toàn diện

một các thuận lợi hơn so với các cách hay các kênh khác (Sarma, 2008, 2012).

Ở các quốc gia ASEAN, các tác giả nghiên cứu về tài chính toàn diện với các chủ đề khác

nhau. Chẳng hạn như Loo (2019) xác định mức độ mở rộng tài chính toàn diện ở các quốc

gia từ đó tìm kiếm thị trường có tiềm năng nhất cho công nghệ tài chính (Fintech); Johnston

and Morduch (2008) đã phân tích triển vọng mở rộng khả năng tiếp cận tài chính cho người

nghèo ở Indonesia; Rahman (2015) đã kiểm tra thực trạng tài chính toàn diện ở các nền kinh

tế này và rút ra bài học để điều chỉnh chương trình tài chính toàn diện ở quốc gia tương ứng,

bao gồm tám nền kinh tế trong SEACEN (Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Đông Nam Á),

cụ thể bao gồm Campuchia, Đài Bắc Trung Hoa, Indonesia, Malaysia, Nepal, Papua New

Guinea, Philippines và Sri Lanka. Các nghiên cứu trên cũng đã chỉ ra điểm chung rằng các

quốc gia ở khu vực này rất chú trọng việc phát triển tài chính toàn diện với nhiều cách thức

triển khai khác nhau.

Đồng thời, tương tự như các nước trên thế giới, các quốc gia ASEAN cũng rất quan tâm

đến ổn định hệ thống ngân hàng, nhất là từ sau khủng hoảng 2008 (Ovi, Perera and

Colombage, 2014). Tuy nhiên, liệu mục tiêu phát triển tài chính toàn diện nói trên và mục

tiêu gia tăng sự ổn định của của hệ thống ngân hàng có mâu thuẫn với nhau ở các quốc gia

này? Hay nói cách khác, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào tìm ra tác động của tài chính

toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở ASEAN. Điều này cho thấy một sự thiếu

hụt trong nghiên cứu, cần thiết được bổ sung bởi trong bối cảnh hiện nay, các ngân hàng ngày

càng tìm kiếm các cơ hội và thị trường mới và nhìn thấy những lợi ích có thể có được từ hoạt

động tài chính vi mô (Harper and Arora, 2005), nhất là từ các khoản tiền gửi rẻ và ổn định từ

khu vực bán lẻ (Ahamed and Mallick, 2019).

Hơn nữa, như đã đề cập trước, hệ thống tài chính của các quốc gia ASEAN dựa vào ngân

hàng, do vậy nghiên cứu về tài chính toàn diện dưới góc độ ngân hàng là thật sự cần thiết. Và

việc tìm ra câu trả lời cho câu hỏi liệu thúc đẩy tài chính toàn diện đang được đẩy mạnh triển

khai ở các quốc gia ASEAN hiện nay có tác động như thế nào đến sự ổn định của hệ thống

ngân hàng, sẽ mang lại ý nghĩa hết sức to lớn cho các nhà hoạch định chính sách ở các quốc

gia này.

Chính vì vậy, để hoàn hiện khoảng trống trên, tác giả lựa chọn đề tài “TÁC ĐỘNG CỦA

TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐỐI VỚI SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG” trong

4

phạm vi sáu quốc gia khu vực ASEAN (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái

Lan, Việt Nam), đặt ra kỳ vọng của đề tài sẽ làm sáng tỏ tác động của tài chính toàn diện đến

sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Tác giả đặc biệt tập trung vào sự ổn định của hệ thống

ngân hàng, vì ngân hàng chịu trách nhiệm cung cấp một phần không nhỏ các dịch vụ tài chính

chính thức cho các hộ gia đình, doanh nghiệp trong bất kỳ nền kinh tế nào, và chính vì như

vậy, sự hiểu biết rõ ràng về mối liên kết này có tầm quan trọng về quản lý và kinh tế vĩ mô.

Hơn nữa, các số liệu cần có để sử dụng phân tích trong nghiên cứu, lấy từ các ngân hàng cũng

đầy đủ và cập nhật hơn.

1.2. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

Mục tiêu tổng quát

Mục tiêu tổng quát của luận án là nghiên cứu tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn

định của hệ thống ngân hàng, từ đó đưa ra các hàm ý chính sách liên quan đến tài chính toàn

diện nhằm làm gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia trong khu vực

ASEAN.

Mục tiêu cụ thể

Trên cơ sở mục tiêu nghiên cứu tổng quát nói trên, các mục tiêu cụ thể được đặt ra như

sau:

- Xác định được mô hình tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống

ngân hàng tại các quốc gia ASEAN.

- Xác định được mức độ tác động của tài chính diện đối với sự ổn định của hệ thống ngân

hàng ở các quốc gia khu vực ASEAN.

- Đề xuất các hàm ý chính sách liên quan đến tài chính toàn diện nhằm góp phần gia tăng

sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia khu vực ASEAN.

Câu hỏi nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu nói trên, nghiên cứu cần giải quyết các câu hỏi sau:

- Khái niệm và cách thức nào được sử dụng để đo lường tài chính toàn diện và ổn định hệ

thống ngân hàng? Tài chính toàn diện có thể tác động đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng

thông qua những kênh nào? Mô hình nào được sử dụng để phân tích tác động này với các

biến nào được chọn làm đại diện?

5

- Mức độ tài chính toàn diện và mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ở

ASEAN như thế nào? Tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân

hàng ở các quốc gia khu vực ASEAN có chiều hướng và mức độ ra sao?

- Những hàm ý chính sách nào liên quan đến tài chính toàn diện được gợi ý nhằm góp

phần gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN?

1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu

Tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định hệ thống ngân hàng ở các quốc gia

trong khu vực ASEAN.

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu

1.3.2.1. Phạm vi về không gian

Luận án nghiên cứu trong phạm vi 102 ngân hàng (xem phụ lục A1) ở sáu quốc gia

ASEAN, bao gồm: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam.

Lý giải cho vấn đề này, trước tiên luận án chọn nghiên cứu ở các quốc gia ASEAN, bởi vì

các quốc gia này được đánh giá là có thành tựu về ổn định chính trị và an ninh khu vực (Jetin

and Mikic, 2016). Đồng thời, các quốc gia ASEAN cũng được xem là có nền kinh tế đang

phát triển của Châu Á (Hong and Tang, 2010).

Hai nữa, tác giả chọn sáu quốc gia làm đại diện cho toàn khu vực và chỉ tập trung nghiên

cứu trong phạm vi này, bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt

Nam, trong khi ASEAN có mười quốc gia thành viên (còn có Brunei, Cambodia, Lào và

Myanmar). Lý do, sáu quốc gia nói trên có hệ thống ngân hàng phát triển mạnh và chiếm tỷ

trọng lớn trong khu vực, cụ thể hệ thống ngân hàng ở các quốc gia này có tổng giá trị tài sản

chiếm hơn 90% qua các năm 2014 – 2017 và chi tiết hơn là chiếm gần 97.23% vào năm 2017

(số liệu được tác giả tự thống kê từ World Bank, 2017a). Vì thế, dù phạm vi chỉ có sáu quốc

gia nhưng có thể được xem là đại diện cho toàn khu vực ASEAN khi nghiên cứu về các vấn

đề liên quan đến hệ thống ngân hàng.

Mặt khác, sáu quốc gia này đều có đặc điểm chung là hệ thống tài chính dựa vào ngân

hàng (bank-based financial system), theo cấu trúc hoạt động – structure activity. Để làm sáng

tỏ điều này, dựa vào chỉ số được gợi ý bởi Demirgiiu-Kunt and Levine (1999) và Levine

6

(2002), tác giả thực hiện đo lường sau đó so sánh mức độ hoạt động của các ngân hàng so với

thị trường chứng khoán, thông qua hai chỉ tiêu cơ bản: tỷ lệ tín dụng tư nhân từ ngân hàng

trên GDP (Private Credit by Deposit Money Banks Ratio) và tỷ lệ tổng giá trị giao dịch trên

thị trường chứng khoán trên GDP (Stock Market Total Value Traded Ratio). Kết quả được

trình bày ở bảng 1.1. dưới đây.

Bảng 1.1. Tỷ lệ giá trị giao dịch trên thị trường chứng khoán và tỷ lệ tín dụng ngân

hàng so với GDP năm 2017

ĐVT:%

Tỷ lệ tín dụng Tỷ lệ giá trị giao dịch Quốc gia

Indonesia 9.013 31.419

Malaysia 37.017 116.366

Philippines 10.772 44.304

Singapore 60.215 125.013

Thái Lan 74.314 120.796

Việt Nam 15.748 120.796

(Nguồn: World Bank, 2017a)

Dữ liệu ở bảng 1.1, được lấy từ Global Financial Development (World Bank, 2017a), đã

cho thấy cả sáu quốc gia ASEAN đều có tỷ lệ tín dụng tư nhân được thực hiện bởi các ngân

hàng lớn hơn so tỷ lệ giá trị giao dịch trên thị trường chứng khoán. Kết quả này là minh chứng

rõ ràng cho việc hệ thống tài chính của các quốc gia này phụ thuộc lớn vào hệ thống ngân

hàng.

Tóm lại, xuất phát từ đặc điểm chung của các quốc gia ASEAN về ‘hệ thống tài chính dựa

vào ngân hàng’ nói trên, nghiên cứu kỳ vọng tìm ra được gợi ý chính sách thúc đẩy tài chính

toàn diện phù hợp dành cho các quốc gia này thông qua kết quả nghiên cứu. Trong khi các

nghiên cứu về mối quan hệ của tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng đã thực

hiện trước, đa số các tác giả đều lấy mẫu lớn các quốc gia trên thế giới với nhiều đặc điểm về

hệ thống tài chính khác nhau, chưa có sự đặc biệt chú ý để có thể có những gợi ý chính sách

phù hợp các quốc gia thuộc nhóm này.

1.3.2.2. Phạm vi về thời gian

Về phạm vi thời gian, tác giả quyết định chọn thời gian từ năm 2008 đến nay, cụ thể là năm

2008 – 2019, bởi quãng thời gian này nền kinh tế ASEAN được phục hồi sau khủng khoảng

7

và đa số các quốc gia trong khu vực đều có sự chú ý và những động thái nhất định cho tiến

trình thúc đẩy tài chính toàn diện. Một cách chi tiết hơn, có thể thấy từ sau khủng hoảng kinh

tế thế giới 2008, nền kinh tế ASEAN cũng được phục hồi mạnh mẽ và đã nổi lên như là một

động lực chính đối với sự phục hồi và tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong giai đoạn hậu khủng

hoảng tài chính nói trên (Daboub, 2010). Hơn nữa, từ sau năm 2008, sự ổn định nói chung

(trong đó bao hàm cả sự ổn định của hệ thống ngân hàng) nổi lên, trở thành mối quan tâm của

nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới (Siddik and Kabiraj, 2018).

Đồng thời, sau năm 2008, tài chính toàn diện cũng trở thành chính sách ưu tiên quan trọng

ở hầu hết các quốc gia (Ahamed and Mallick, 2019; Cihak, Mare and Melecky, 2016)), trong

đó có các quốc gia ASEAN. Cụ thể, bắt đầu từ sau năm 2008, hầu hết các quốc gia ở khu vực

đã có sự chú ý hay động thái nhất định nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện, chẳng hạn như ở

Malaysia, năm 2009, Đạo luật Ngân hàng Trung ương Malaysia được ban hành và quy định

rõ ràng rằng chức năng chính của Ngân hàng Negara Malaysia (BNM) là phát triển và thúc

đẩy một hệ thống tài chính toàn diện (Rahman, 2015).

Ở Philippines, từ sau năm 2008, cách vận hành cho các hoạt động tài chính vi mô của

Bangko Sentral ng Pilipinas (BSP) thu về kết quả ấn tượng, đưa Philippines vào nhóm các

nước tốt nhất trên thế giới về khuôn khổ pháp lý tài chính vi mô (Rahman, 2015). Từ sau đó,

quốc gia này đã có sự đề cập nhiều hơn về tài chính toàn diện trong các chương trình nghị sự

chính sách trong nước và quốc tế, do ngày càng nhận thấy tầm quan trọng của tài chính toàn

diện như một mục tiêu chính sách.

Ở Việt Nam, những quy định đầu tiên làm nền tảng cho sự thúc đẩy tài chính toàn diện

được xuất hiện vào năm 2010, thể hiện ở Luật các Tổ chức tín dụng (2010); và Luật Bảo vệ

quyền lợi người tiêu dùng 2010; sau đó một loạt các quy định, nghị định, luật sửa đổi bổ sung,

đề án, v.v. được ban hành nhằm làm rõ, hướng dẫn thực hiện và cuối cùng là hướng đến thúc

đẩy tài chính toàn diện (World Bank, 2015). Tài chính toàn diện cũng được bắt đầu chú ý ở

Indonesia vào năm 2008 và sau đó một thời gian, vào năm 2012, chiến lược quốc gia về tài

chính toàn diện được công bố với thiết kế để tập trung vào con người hoặc cá nhân, nhằm mở

rộng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính cho tất cả các bộ phận dân cư (Rahman, 2015).

Ở Thái Lan, kế hoạch tổng thể về lĩnh vực tài chính giai đoạn thứ hai (2010 – 2014) được

triển khai, đã khuyến khích các ngân hàng thương mại được mở rộng phạm vi tiếp cận của họ

đến các phân khúc có thu nhập thấp hơn, với nhiều ưu đãi (Tambunlertchai, 2015). Năm 2011

8

Bộ Tài chính cùng với sự hỗ trợ từ Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) nhằm phát triển tài

chính vi mô và thúc đẩy tài chính toàn diện cho các cá nhân và hộ gia đình, đã thông qua

Chiến lược quốc gia về hòa nhập tài chính ở Thái Lan (ADB, 2015; Tambunlertchai, 2015).

Riêng Singapore, các vấn đề liên quan đến tài chính toàn diện được đề cập từ sớm và từ

năm 2004, với Đạo luật Bảo vệ Người tiêu dùng (Thương mại Công bằng) - CPFTA; theo đó,

Bộ Thương mại và Công nghiệp (MTI) và Ngân hàng trung ương (MAS) phối hợp với nhau,

thực hiện việc đưa các dịch vụ tài chính toàn diện tham gia vào việc bảo vệ người tiêu dùng

thiếu chuyên môn hoặc nguồn tài chính để chống lại các hành vi không công bằng (MAS,

2006). Sau khủng hoảng năm 2008, đạo luật này bắt đầu được sửa đổi và hoàn thiện vào năm

2009 (MTI, 2009), được sử dụng cho đến hiện nay. Nhờ định hướng sớm, tài chính toàn diện

ở quốc gia này luôn được đánh giá cao trong các báo cáo hay nghiên cứu qua các năm (chẳng

hạn như ASEAN, 2020; Banerjee and Donato, 2021; Loo, 2019; Trujillo, Sitorusand Aviles,

2018; UNCDF, 2020).

1.3.2.3. Phạm vi về nội dung

Đề tài nghiên cứu tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng, với các giới hạn về

nội dung như sau:

(i) chỉ nghiên cứu tác động (một chiều) của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống

ngân hàng;

(ii) về tài chính toàn diện, chỉ nghiên cứu về phía các ngân hàng (tức là các tổ chức tài

chính cung cấp dịch vụ tài chính chính thức);

(iii) về ổn định hệ thống ngân hàng tác giả chỉ nghiên cứu về ổn định của các ngân hàng

một cách riêng lẻ.

Ở giới hạn về phạm vi nội dung (i), tác giả nhận thấy tài chính toàn diện đang được các

quốc gia ASEAN chú trọng thúc đẩy mạnh mẽ bởi sự ảnh hưởng tích cực của tài chính toàn

diện đến nhiều lĩnh vực (Rahman, 2015; World Bank, 2015; Tambunlertchai, 2015; ADB,

2015; MAS, 2006; ASEAN, 2020; UNCDF, 2020; v.v.). Tuy nhiên, vẫn chưa có câu trả lời

cho sự nghi ngờ rằng liệu ảnh hưởng của tài chính toàn diện đối với hệ thống ngân hàng có

tích cực như các nhà chính sách mong đợi (xem Neaime and Gaysset, 2018; Ahamed and

Mallick, 2019; García, 2016; Siddik and Kabiraj, 2018). Chẳng hạn như Rajan (2011) đã chỉ

ra tài chính toàn diện có thể là nguyên nhân của việc xuất hiện lượng lớn những người đi vay

9

có mức tín nhiệm tín dụng thấp (low creditworthy), làm mất ổn định hệ thống ngân hàng. Tác

giả này cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 xuất phát từ những khoản nợ dưới

chuẩn, cho thấy “tín dụng dễ dàng” có thể tạo ra một “đường đứt gãy” dọc theo hệ thống tài

chính làm xói mòn sự ổn định tài chính do những căng thẳng lớn. Chính vì lẽ đó, sự nghi ngờ

này cần làm rõ. Do vậy, luận án chỉ tập trung phân tích tác động (một chiều) của tài chính

toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Ở giới hạn về phạm vi nội dung (ii), tác giả tập trung nghiên cứu về phía ngân hàng, bởi

theo (Sarma, 2008, 2012), ngân hàng toàn diện (banking inclusion) cũng được xem tương tự

như tài chính toàn diện (financial inclusion), mà thông qua các ngân hàng, các nhà hoạch định

có thể điều chỉnh chính sách tài chính toàn diện một cách thuận lợi hơn so với các kênh khác

(như thông qua việc nâng cao nhận thức của người dân hay phát triển cơ sở hạ tầng, v.v). Hơn

nữa theo như phân tích trước của tác giả, các quốc gia ASEAN có hệ thống tài chính dựa vào

ngân hàng (bank-based financial system), vì thế việc tìm hiểu về tài chính toàn diện dưới góc

độ ngân hàng (nhà cung cấp tài chính chính thống) là cần thiết và giới hạn về phạm vi nội

dung thứ hai này là hoàn toàn phù hợp.

Ở giới hạn về phạm vi nội dung (iii), tác giả tập trung nghiên cứu về ổn định của các ngân

hàng một cách riêng lẻ, bởi hệ thống ngân hàng trở nên ổn định chỉ khi từng ngân hàng trong

hệ thống ổn định. Điều này được giải thích bởi hiện tượng lây lan tài chính (Financial

contagion), tức là rủi ro được truyền từ tổ chức tài chính này sang tổ chức tài chính khác, từ

ngân hàng này sang ngân hàng khác trong hệ thống (Brown et al., 2014) và như vậy chỉ cần

một ngân hàng trong hệ thống xảy bất ổn có thể dẫn đến sự bất ổn cho cả hệ thống ngân hàng.

Đồng thời, thông qua rất nhiều kênh khác nhau rủi ro của một ngân hàng có thể dẫn đến rủi

ro của cả hệ thống ngân hàng (xem Acharya, 2009; Allen and Gale, 2000; Brunnermeier and

Pedersen, 2009; Dasgupta, 2004; Rochet and Tirole, 1996; Wagner, 2010; v.v.).

1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU

Phương pháp nghiên cứu

Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu tổng quát, tác giả thực hiện kết hợp phương pháp

nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng, cụ thể như sau:

- Để trả lời câu hỏi thứ nhất, tìm ra mô hình phù hợp, nghiên cứu sử dụng phương pháp

phân tích, tổng hợp, so sánh, khảo cứu các nghiên cứu trước có liên quan.

10

- Để trả lời câu hỏi thứ hai, tức để đánh giá được mức độ tác động của tài chính diện đối

với sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia khu vực ASEAN, các phương pháp mà

tác giả chủ yếu sử dụng bao gồm thống kê mô tả; mô hình hồi quy System Generalized Method

of Moments (SGMM).

- Để trả lời câu hỏi thứ ba, nghiên cứu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm

thảo luận các kết quả nghiên cứu định lượng, từ đó, đề xuất các hàm ý chính sách nhằm góp

phần gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là những hàm ý chính sách liên

quan đến tài chính toàn diện.

Các bước nghiên cứu được thực hiện như sau:

Bước 1: Xác định vấn đề nghiên cứu (bao gồm tài chính toàn diện và sự ổn định của hệ

thống ngân hàng).

Bước 2: Tổng quan cơ sở lý thuyết và đề xuất mô hình nghiên cứu. Tác giả thực hiện tìm

hiểu các cơ sở lý thuyết cùng với các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới và ASEAN về vấn

đề nghiên cứu.

Bước 3: Thu thập và xử lý dữ liệu nghiên cứu. Dựa trên các dữ liệu có được, luận án tính

toán các số liệu cần thiết cho việc chạy mô hình nghiên cứu.

Bước 4: Chạy mô hình và kiểm định mô hình nghiên cứu. Luận án này sử dụng phần mềm

Stata 16.0 để chạy mô hình và thực hiện các kiểm định.

Bước 5: Trình bày và thảo luận kết quả nghiên cứu. Luận án trình bày kết quả nghiên cứu

đồng thời thảo luận và so sánh với kết quả của các nghiên cứu trước liên quan.

Bước 6: Kết luận và đưa ra hàm ý chính sách. Dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra

kết luận và hàm ý chính sách để gia tăng mức độ tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân

hàng ở các nước ASEAN.

Dữ liệu

Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng dữ liệu thứ cấp. Trong đó, các dữ liệu ở cấp độ

quốc gia dùng để tính toán chỉ số tài chính toàn diện chủ yếu lấy từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF

FAS, 2020); toàn bộ các dữ liệu ở cấp độ ngân hàng lấy từ Worldscope (trích xuất từ

Datastream, 2020). Ngoài ra, số liệu về tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm cũng được lấy từ

nguồn Worldscope nói trên.

11

1.5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI

So với các nghiên cứu đã được công bố trước, luận án có các đóng góp mới về mặt lý luận

và thực tiễn sau đây.

Đóng góp về mặt lý luận

Trong khi các nghiên cứu trước đưa ra quan điểm rằng khi mở rộng các khoản tín dụng

nhỏ cho nhiều người vay hơn do tài chính toàn diện, có thể làm mất ổn định hệ thống ngân

hàng vì những khoản dưới chuẩn có thể xuất hiện nhiều hơn (Rajan, 2011) và có thể tồn tại

sự đánh đổi giữa các mục tiêu duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng và thúc đẩy tài chính

toàn diện (Hannig and Jansen, 2010; Acharya, Hasan and Saunders, 2006). Luận án đã cung

cấp thêm về mặt lý luận rằng có tồn tại sự tác động tích cực của tài chính toàn diện đến sự ổn

định của hệ thống ngân hàng.

Đóng góp về mặt thực tiễn

So với các nghiên cứu ở ASEAN, hiện chưa có nghiên cứu nào phân tích tác động của tài

chính toàn diện đến ổn định hệ thống ngân hàng. Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào đánh

giá thực trạng tài chính toàn diện, bàn luận về các chính sách thực hiện ở các nước ASEAN.

Như tác giả đã phân tích rõ ở phần trước (mục 1.3.2.1), các quốc gia ASEAN có hệ thống tài

chính dựa vào ngân hàng (theo cấu trúc hoạt động), do vậy việc nghiên cứu về sự ổn định của

hệ thống ngân hàng và tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định này là vô cùng cần

thiết và cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm ở các quốc gia này. Đóng góp của luận án

không chỉ có ý nghĩa đối với các quốc gia trong khu vực ASEAN mà còn có ý nghĩa đối với

những quốc gia có hệ thống tài chính tương tự.

Hơn nữa, so với các nghiên cứu trước đã công bố trên thế giới, chỉ đề cập đến sự ổn định

của hệ thống ngân hàng dựa vào chỉ số Zscore (đo lường dựa trên sự biến động của lợi nhuận),

luận án còn quan sát sự ổn định thông qua sự biến động của tăng trưởng tiền gửi (phản ánh

khả năng hiện tượng tháo chạy khỏi ngân hàng có thể xảy ra) và tỷ lệ nợ xấu (phản ánh rủi ro

tín dụng). Mặt khác, về tài chính toàn diện, ngoài xem xét số lượng tài khoản ngân hàng được

mở và số lượng chi nhánh/ATM phục vụ người dân, tác giả còn bổ sung thêm khía cạnh về

mức độ sử dụng các dịch vụ tài chính, được đo lường thông qua tỷ lệ tiền gửi và cho vay so

với GDP. Từ đó, giúp cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của tài chính toàn

12

diện nói chung và tác động của từng các khía cạnh nói riêng đến ổn định hệ thống ngân hàng

ở các quốc gia ASEAN.

Ngoài ra, từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm, luận án đề xuất các hàm ý chính sách liên

quan đến tài chính toàn diện nhằm gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia

ASEAN. Các hàm ý được thể hiện một cách rõ ràng và được gợi ý theo các khía cạnh của tài

chính toàn diện. Ngoài ra, dựa vào kết quả hồi quy của các biến giải thích khác, tác giả đưa

ra các gợi ý chính sách dành cho các ngân hàng, hướng đến việc nâng cao sự ổn định của hệ

thống ngân hàng, giảm thiểu được rủi ro liên quan đến vấn đề rút vốn ồ ạt của khách hàng ra

khỏi ngân hàng và rủi ro tín dụng ngân hàng.

1.6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu này có năm nội dung chính sau:

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ SỰ ỔN ĐỊNH CỦA

HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

CHƯƠNG 3: QUY TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

13

TÓM TẮT CHƯƠNG 1

Những năm gần đây, việc thúc đẩy tiếp cận tài chính được coi là chương trình ưu tiên hàng

đầu ở nhiều quốc gia. Từ đó làm nổi bật lên các vấn đề liên quan đến tài chính toàn diện

(Financial Inclusion). Từ khóa này không chỉ được các quốc gia cân nhắc cẩn thận, còn được

rất nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm.

Đối với ổn định hệ thống tài chính nói chung và ổn định hệ thống ngân hàng nói riêng,

các nghiên cứu trên thế giới cũng đã chỉ ra tài chính toàn diện có tác động tích cực. Song, ở

các nước khu vực ASEAN, các đề tài rất ít chú ý đến việc điều tra xem liệu mục tiêu phát

triển tài chính toàn diện nói trên có làm ảnh hưởng đến sự ổn định của của hệ thống ngân

hàng hay không? Trong khi bối cảnh hiện nay, các tổ chức tài chính ngày càng tìm kiếm các

cơ hội và thị trường mới và nhìn thấy những lợi ích có thể có được từ hoạt động tài chính vi

mô, nhất là từ các khoản tiền gửi rẻ và ổn định từ khu vực bán lẻ, tác giả nhìn thấy sự thiếu

hụt này trong nghiên cứu ở ASEAN.

Do đó đề tài nghiên cứu “TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐỐI VỚI SỰ ỔN

ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG” là cần thiết để bổ sung cơ sở lý luận cũng như bằng

chứng thực nghiệm về tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân

hàng. Nghiên cứu thực hiện trong phạm vi sáu quốc gia khu vực ASEAN (Indonesia,

Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam), thời gian 2008 – 2019, với các

phương pháp định tính và định lượng (mô hình hồi quy SGMM). Những đóng góp của nghiên

cứu có ý nghĩa cả về mặt lý luận, thực nghiệm và thực tiễn.

14

2. CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ

SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

2.1.1. Khái niệm của tài chính toàn diện

Sự ảnh hưởng của tài chính toàn diện đến phát triển kinh tế xã hội, góp phần xoá đói giảm

nghèo và giảm bất bình đẳng đã được các nhà nghiên cứu, các tổ chức tài chính quốc tế cũng

như chính phủ các quốc gia ghi nhận. ASEAN (2015) coi tài chính toàn diện là một trong ba

trụ cột của Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) tầm nhìn 2025, trong hội nhập tài chính và đã

thành lập nhóm công tác về tài chính toàn diện để thúc đẩy lĩnh vực này trong khu vực.

Tuy nhiên, hiện chưa có khái niệm về tài chính toàn diện ở các tổ chức và các quốc gia

trên thế giới được sử dụng một cách thống nhất. Các khái niệm được đưa ra trong các báo cáo

của các tổ chức quốc tế, trong chiến lược của các quốc gia hay trong các nghiên cứu. Một số

tổ chức đã đưa ra quan điểm về tài chính toàn diện có thể kể đến như ADB, World Bank, Liên

Hiệp Quốc (UN).

Khung chiến lược của ADB, “Chiến lược 2020,” nhấn mạnh việc đưa tài chính vào như

một phần thiết yếu của sự phát triển khu vực tài chính, rằng nếu không được tiếp cận với các

dịch vụ tài chính chính thức, các bộ phận xã hội chưa được phục vụ sẽ không có được lợi ích

và bị loại khỏi sự phát triển chung (ADB, 2008, 2014). Trong một nghiên cứu của ADB, đã

nêu khái niệm về tài chính toàn diện nghĩa là tất cả các bộ phận dân cư - ngay cả những người

có thu nhập thấp nhất - có thể tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ tài chính chính thức (ADB,

2017)

Thuật ngữ này, trong nghiên cứu của World Bank cũng đã đề cập lần đầu vào năm 2008,

với tựa đề “tài chính cho mọi người” – finance for all (Demirgüç-Kunt, Honohan and Beck,

2008). Dựa trên báo cáo này, tài chính toàn diện “financial inclusion” còn được gọi là tiếp

cận dịch vụ tài chính mở rộng và được hiểu là việc loại bỏ rào cản phí và rào cản phi phí trong

việc sử dụng dịch vụ tài chính. Năm 2017, World Bank mở rộng khái niệm này, cụ thể, đã

xác định rõ tài chính toàn diện là việc cá nhân và doanh nghiệp tiếp cận đến các sản phẩm và

dịch vụ tài chính hữu ích với giá cả hợp lý và đáp ứng được nhu cầu của họ về giao dịch,

thanh toán, tiết kiệm, tín dụng và bảo hiểm – và các dịch vụ sản phẩm này đều được cung cấp

theo phương châm trách nhiệm và bền vững (World Bank, 2018).

15

UN cũng tiếp cận đến tài chính toàn diện và đưa ra khái niệm là khả năng tiếp cận tài

chính, với chi phí hợp lý, vào một loạt các dịch vụ tài chính, được cung cấp bởi nhiều tổ chức

lành mạnh và bền vững, từ đó tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính cho cả cá

nhân và doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (UN, 2015). Các nước đang phát triển, tiếp cận

các dịch vụ tài chính là rất quan trọng để tăng cường các lĩnh vực tài chính và huy động nguồn

lực trong nước, do đó có thể đóng góp đáng kể vào phát triển kinh tế và xã hội.

Dưới góc độ quốc gia, mỗi nước khi xây dựng chiến lược, chương trình hay kế hoạch hành

động triển khai tài chính toàn diện đều đưa ra khái niệm riêng của mình để từ đó xác định

mục tiêu và tầm nhìn cho chiến lược, chương trình hay kế hoạch hành động triển khai tài

chính toàn diện của quốc gia mình. Chẳng hạn như ở Anh, năm 2002, quốc gia này đã xây

dựng Ủy ban Tài chính toàn diện (FIC), một cơ quan công quyền độc lập với các thành viên

từ Quốc hội và chuyên gia tài chính, để thực hiện thúc đẩy tài chính toàn diện ở quốc gia

mình. Theo đó, Ủy ban này đã đưa ra quan điểm rằng tài chính toàn diện là phương tiện mà

mọi người có thể làm cho tiền của họ có thể sinh lời, cho phép họ tối đa hóa cơ hội, trở nên

tự chủ hơn, và nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần; do vậy, tài chính toàn diện góp phần

thúc đẩy sự di chuyển xã hội và nâng cao trình độ, một hệ thống phúc lợi hiệu quả hơn và khả

năng phục hồi quốc gia cao hơn trước cú sốc kinh tế (FIC, 2016).

NHTW Indonesia đã xây dựng chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện và xác định tài

chính toàn diện là quyền của mỗi cá nhân tiếp cận đầy đủ các loại hình dịch vụ tài chính với

đầy đủ thông tin về dịch vụ, chi phí phù hợp, kịp thời, thuận tiện và được cung ứng theo

phương châm tôn trọng nhân phẩm (NSFI, 2012). Mọi dịch vụ tài chính sẽ được cung ứng

đến mọi tầng lớp xã hội, với trọng tâm đến người nghèo, người thu nhập thấp, người nghèo

với hiệu suất làm việc hiệu quả, người lao động di cư và người sống ở vùng sâu, vùng xa. Với

mục tiêu này, tầm nhìn được đưa ra là “để có được hệ thống tài chính mà mọi tầng lớp xã hội

đều có thể tiếp cận để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm đói nghèo, công bằng thu nhập và

tạo nên sự ổn định hệ thống tài chính ở Indonesia”.

Dưới góc độ nghiên cứu, một trong những khái niệm xuất hiện sớm nhất của Leyshon

and Thrift (1995) đã xác định “tài chính toàn diện là quá trình một số nhóm xã hội và cá nhân

nhất định được tiếp cận với hệ thống tài chính chính thức”. Sinclair (2001) lại nhìn nhận “tài

chính toàn diện là khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính cần thiết bằng cách thức thích hợp”.

Hiểu biết về sự phù hợp dịch vụ và sản phẩm tài chính, bao gồm sự nhận thức về tài chính,

16

hiểu biết về ngân hàng, kênh dịch vụ ngân hàng và lợi ích khi sử dụng dịch vụ tài chính qua

các kênh cung ứng chính thức. Tuy nhiên, cần hiểu chất lượng dịch vụ tài chính trong hệ

thống toàn diện đầy đủ được cung ứng với giá cả hợp lý, thuận tiện và đảm bảo chất lượng

cho khách hàng.

Tài chính toàn diện thúc đẩy người dân không sử dụng dịch vụ ngân hàng sang sử dụng

dịch vụ tài chính chính thức để họ có cơ hội tiếp cận đa dạng các loại dịch vụ từ tiết kiệm,

thanh toán đến tín dụng, bảo hiểm (Hannig and Jansen, 2010). Do vậy, tài chính toàn diện là

quá trình bảo đảm tiếp cận dịch vụ tài chính và nhu cầu tín dụng được đáp ứng cho đối tượng

yếu thế như nhóm khách hàng có thu nhập thấp với chi phí hợp lý. Những điều này được thể

hiện qua khả năng tiếp cận qua tài khoản ngân hàng như tài khoản tiết kiệm, qua tiếp cận tín

dụng và qua thanh toán từ tài khoản ngân hàng (Khan, 2011).

Như vậy, có thể thấy ba khía cạnh chính của tài chính toàn diện là (i) tiếp cận, (ii) sử dụng,

và (iii) chất lượng. Tuy nhiên các nghiên cứu cho thấy tài chính toàn diện là một khái niệm

có tính chất đa chiều và được thể hiện đa dạng theo từng quốc gia phụ thuộc vào mục tiêu của

từng nước đối với tài chính toàn diện. Tài chính toàn diện không chỉ giới hạn trong việc cải

thiện khả năng tiếp cận tín dụng mà bao gồm cả nâng cao hiểu biết về tài chính cho người dân

và bảo vệ người tiêu dùng. Triển khai tài chính toàn diện giúp cho tất cả mọi người có quyền

tiếp cận và sử dụng hiệu quả các sản phẩm, dịch vụ tài chính phù hợp với nhu cầu, có chất

lượng, tiện lợi, nhanh chóng ở mức chi phí chấp nhận được. Từng quốc gia vì vậy sẽ phải

nghiên cứu để tìm ra một khái niệm phù hợp nhất với hoàn cảnh cụ thể và điều kiện thực tế

của chính quốc gia đó, và dựa trên khái niệm này mới có thể xác định cho mình mục tiêu,

định hướng chiến lược, các giải pháp, biện pháp phù hợp để hiện thực hóa tài chính toàn diện

một cách hiệu quả và bền vững.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả dựa theo quan điểm của Sarma (2012, trang

3) với khái niệm về tài chính toàn diện là “việc đảm bảo sự dễ dàng tiếp cận, sẵn có và mức

sử dụng của hệ thống tài chính chính thức cho tất cả các thành viên của nền kinh tế”. Theo

đó, khái niệm này đặc biệt nhấn mạnh vào các khía cạnh đã phân tích trên, bao gồm tính dễ

tiếp cận, sẵn có và mức sử dụng của của hệ thống tài chính, cấu thành nên tài chính toàn diện.

Các khía cạnh này sẽ liên quan sâu sắc đến nội dung của phần xây dựng chỉ số đo lường tài

chính toàn diện. Mặt khác, Sarma (2008, 2012) còn xem ngân hàng là tổ chức tài chính chủ

đạo trong cung cấp hình thức dịch vụ tài chính cơ bản nhất, do vậy ngân hàng toàn diện

17

(banking inclusion) được xem là tương tự như tài chính toàn diện. Chính vì vậy, trong nghiên

cứu này, tài chính toàn diện được chủ yếu nghiên cứu trên góc độ của ngân hàng.

2.1.2. Vai trò và ý nghĩa của tài chính toàn diện

Tài chính toàn diện có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với sự ổn định tài chính, tăng

trưởng kinh tế và phát triển bền vững.

2.1.2.1. Tài chính toàn diện và sự ổn định tài chính

Đứng ở cấp độ vi mô, theo nghiên cứu của Adasme, Majnoni and Uribe (2006) đã cho

thấy bằng chứng liên quan tới danh mục đầu tư của các ngân hàng Chi lê, chỉ ra rằng các thiệt

hại của các khoản vay nhỏ có rủi ro hệ thống thấp hơn thiệt hại liên quan tới các khoản vay

lớn, không thường xuyên và biến động khó dự đoán. Như vậy, tài chính toàn diện về mặt tiếp

cận tín dụng có thể đồng thời đồng nghĩa với sự ổn định lớn hơn ở cấp độ các nhà cung ứng

dịch vụ tài chính.

Ở cấp độ vĩ mô giữa tài chính toàn diện và sự ổn định tài chính, ở cấp quốc gia, bằng

chứng cho thấy tài chính toàn diện có thể dẫn đến tính hiệu quả cao hơn của trung gian tài

chính. Nói rõ hơn, thông qua trung gian lượng tiết kiệm nội địa lớn hơn, từ đó dẫn tới sự vững

mạnh hơn về các chu kỳ tiết kiệm và đầu tư nội địa lành mạnh và theo đó có sự ổn định lớn

hơn (Prasad, 2010).

Khan (2011) cũng đã chỉ ra ba cách thức chủ yếu mà việc mở rộng tài chính toàn diện có

thể đóng góp tích cực cho ổn định tài chính. Một là, việc gia tăng tín dụng cho các doanh

nghiệp nhỏ sẽ khiến tài sản của hệ thống ngân hàng được đa dạng hơn, từ đó làm giảm mức

độ rủi ro tổng thể của danh mục cho vay của hệ thống ngân hàng. Điều này sẽ làm giảm quy

mô tín dụng tương đối của từng khách hàng cũng như độ biến động của nó, hay nói cách khác

giảm rủi ro lan truyền của hệ thống tài chính. Hai là, việc gia tăng số lượng khách hàng gửi

tiết kiệm nhỏ sẽ làm tăng cả quy mô và độ ổn định của cơ số tiền gửi, từ đó giảm sự phụ thuộc

của hệ thống ngân hàng vào các nguồn huy động vốn dễ biến động trong thời kỳ khủng hoảng.

Ba là, một phạm vi tiếp cận tài chính rộng cũng có thể đóng góp tốt hơn vào cơ chế truyền

dẫn của chính sách tiền tệ cũng như một nền tảng ổn định tài chính vững chắc.

Mặt khác, những tầng lớp người dân có thu nhập thấp thường ít bị tác động bởi chu kỳ

kinh tế, do vậy việc thu hút họ tham gia vào lĩnh vực tài chính sẽ làm tăng mức độ ổn định

của cơ số tiền gửi và cho vay (Hannig and Jansen, 2010). Nhóm tác giả đã đưa ra minh chứng

18

điển hình là những tổ chức tài chính cung cấp dịch vụ cho các phân khúc thị trường thấp có

xu hướng thích nghi tốt hơn với những cuộc khủng hoảng ở tầm vĩ mô và giúp tăng cường

bền vững hoạt động kinh tế khu vực.

Tuy nhiên, tiếp cận tài chính quá dễ dàng cũng có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực

đến ổn định tài chính. Ví dụ rõ ràng nhất là nếu ngân hàng nỗ lực mở rộng khách hàng vay

thì dẫn đến là nới lỏng các tiêu chuẩn cho vay (Rajan, 2011). Khủng hoảng dưới chuẩn tại

Mỹ năm 2008 có một nguyên nhân quan trọng là từ vấn đề nêu trên. Bên cạnh đó, các ngân

hàng có thể làm tăng rủi ro đại diện (Acharya, Hasan and Saunders, 2006) nếu họ sử dụng các

tổ chức bên ngoài, chẳng hạn như tổ chức đánh giá tín dụng, để tiếp cận được các khách hàng

vay nhỏ. Cuối cùng, nếu các tổ chức tài chính vi mô không được quản lý và giám sát một cách

hiệu quả thì chỉ cần một sự gia tăng cho vay của nhóm đối tượng này có thể đưa đến hiệu lực

tổng thể của hệ thống quy định bị xói mòn và tăng rủi ro hệ thống tài chính.

2.1.2.2. Tài chính toàn diện và tăng trưởng kinh tế

Mức độ ảnh hưởng của tài chính toàn diện đến tăng trưởng kinh tế cũng đã được làm rõ

qua hai cấp độ: vi mô và vĩ mô.

Ở cấp độ kinh tế vi mô, tài chính toàn diện sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế thông

qua các kênh sau: tín dụng, tiết kiệm, bảo hiểm, thanh toán di động. Mặc dù, ở kênh tín dụng,

vai trò của tài chính toàn diện đối với tăng trưởng kinh tế là chưa rõ, nhưng kênh tiết kiệm lại

thể hiện khá nổi bật vấn đề này. Một đánh giá ngẫu nhiên ở nông thôn miền tây Kenya cho

thấy việc tiếp cận dịch vụ tiết kiệm mới cho phép các nhà cung cấp thị trường là nữ giảm

thiểu ảnh hưởng của cú sốc sức khoẻ, tăng chi tiêu cho gia đình (chi tiêu cá nhân tăng 13%)

và tăng đầu tư vào kinh doanh 38-56% so với các nhà cung cấp nữ mà không tiếp cận tới tài

khoản tiết kiệm (Dupas and Robinson, 2013a). Ngoài ra, ở Malawi, những tác động tích cực

của tiết kiệm đối với đầu tư kinh doanh, tăng chi tiêu và sản lượng cây trồng đã được tìm thấy

(Brune et al., 2011).

Các đánh giá ngẫu nhiên gần đây ở Ấn Độ và Ghana về bảo hiểm chỉ số thời tiết cho thấy

ảnh hưởng tích cực đến người nông dân bởi vì đảm bảo thu nhập tốt hơn đã khuyến khích

nông dân chuyển từ việc trồng trọt tự cấp sang các trồng cây hoa màu nhiều rủi ro hơn (Cole,

Giné and Vickery, 2013). Ở Ghana, nông dân được bảo hiểm mua thêm phân bón, trồng thêm

diện tích, thuê nhiều lao động hơn và có lợi nhuận và thu nhập cao hơn, dẫn tới việc ít bỏ bữa

19

ăn và ít trẻ em bỏ học hơn, từ đó, đời sống người dân được cải thiện và kích thích tăng trưởng

kinh tế.

Về thanh toán di động, Jack and Suri (2014) đã kiểm tra tác động của việc giảm chi phí

giao dịch của thanh toán di động (M-Pesa) đối với chia sẻ rủi ro ở Kenya. Nhóm tác giả cho

thấy rằng người sử dụng M-Pesa có thể ứng phó hoàn toàn những cú sốc tiêu cực lớn (như

bệnh nặng, mất việc làm, chết gia súc, và mất mùa hoặc thua lỗ trong kinh doanh) mà không

làm giảm mức tiêu thụ của hộ gia đình. Ngược lại, tiêu dùng cho các hộ gia đình không tiếp

cận M-Pesa giảm trung bình 7% để ứng phó với cú sốc lớn. Một đánh giá ngẫu nhiên về tác

động của một chương trình chuyển tiền bằng điện thoại di động, Aker et al. (2013) cho thấy

giảm cả chi phí phân phối đối với cơ quan thực hiện và chi phí để chuyển tiền cho người nhận

thuộc chương trình. Việc tiết kiệm chi phí của người nhận tiền đã dẫn đến đa dạng hóa các

khoản chi tiêu (bao gồm thực phẩm), tiêu tốn ít tài sản hơn và trồng được nhiều loại cây hoa

màu khác nhau hơn, đặc biệt những cây hoa màu do phụ nữ trồng.

Ở cấp độ kinh tế vĩ mô, các bằng chứng thực nghiệm cho thấy tài chính toàn diện có

tương quan tỷ lệ thuận với tăng trưởng và việc làm. Các nhà nghiên cứu thường tin vào tác

động nhân quả cơ bản. Các cơ chế chính mà họ trích dẫn để nói như vậy là chi phí giao dịch

thấp hơn và phân phối vốn và phân bổ rủi ro tốt hơn trong toàn bộ nền kinh tế. Theo Demirgüç-

Kunt, Honohan and Beck (2008), phát triển tài chính toàn diện sẽ có hai tác động đến quá

trình phát triển kinh tế: một là phát triển tài chính là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,

tăng khả năng tiết kiệm, giúp khởi nghiệp đầu tư, sản xuất, từ đó giảm đói nghèo và bất bình

đẳng; hai là cung cấp các dịch vụ tài chính phù hợp, giá cả hợp lý cho người nghèo, cải thiện

phúc lợi cho tầng lớp khó khăn.

Đồng thời, nhóm tác giả cũng cho rằng tài chính toàn diện có vai trò quan trọng trong phát

triển kinh tế bởi thông qua đó những đối tượng từng nằm ngoài khu vực kinh tế chính thức có

thể tiếp cận sản phẩm, dịch vụ tài chính, cải thiện cuộc sống. Như vậy, đối với một quốc gia

đang phát triển, tài chính toàn diện có ý nghĩa quan trọng trong việc tăng cường khả năng tiếp

cận dịch vụ tài chính của khu vực có thu nhập thấp, qua đó góp phần xóa đói, giảm nghèo và

thúc đẩy phát triển kinh tế. Tài chính toàn diện giúp tạo điều kiện cho người tham gia vào nền

kinh tế và hệ thống tài chính, từ đó tạo động lực cho khu vực tài chính phát triển hơn và hỗ

trợ tăng trưởng kinh tế thông qua huy động nguồn tiết kiệm và đầu tư vào tăng trưởng ở các

khu vực có hiệu quả.

20

2.1.2.3. Tài chính toàn diện và phát triển bền vững

Vào ngày 25/9/2015, đại hội đồng Liên Hiệp Quốc (UN) thông qua chương trình Nghị sự

2030 về sự phát triển bền vững cùng một bộ các mục tiêu phát triển mới được gọi chung là

các mục tiêu phát triển bền vững – SDG (UN, 2020). Chương trình Nghị sự là một kết quả

của nhiều năm đàm phán và đã được phê chuẩn bởi tất cả 193 quốc gia thành viên của Đại

hội đồng, cả các nước phát triển và đang phát triển – và áp dụng cho tất cả các nước. Các

SDG bao gồm 17 mục tiêu đầy tham vọng. Mặc dù các SDG không nhắm tới các vấn đề về

tài chính một cách rõ ràng, nhưng việc tiếp cận nhiều hơn tới các dịch vụ tài chính là chìa

khóa quan trọng để đạt được các mục tiêu này. Bằng cách xem xét nghiên cứu về mối liên hệ

giữa tài chính toàn diện và phát triển, các nghiên cứu cho thấy các dịch vụ tài chính ở đâu và

như thế nào để có thể giúp đạt được một số SDG.

SDG 1 – Loại bỏ đói nghèo

Tài chính toàn diện tạo điều kiện thực hiện mục tiêu này bằng cách cung cấp cho người

nghèo các dịch vụ họ cần để đầu tư và quản lý các chi phí phát sinh đột xuất. Banerjee and

Newman (1994) đã chỉ ra việc thiếu tiếp cận với các dịch vụ tài chính cơ bản gây khó khăn

cho những người có thu nhập thấp để kiểm soát cuộc sống kinh tế của họ. Khoảng cách thu

nhập giữa người giàu và người nghèo phản ánh sự thiếu hoàn hảo của thị trường, bao gồm sự

bất cân xứng về thông tin và thiếu sự tiếp cận với các dịch vụ tài chính – cả hai đều có thể tạo

ra cái gọi là cái bẫy nghèo đói buộc người dân luôn ở mức nghèo khổ (Banerjee and Newman,

1994; Beck, Demirgüç-Kunt and Levine, 2007).

Các dịch vụ tài chính như tiết kiệm có thể có tác động trực tiếp và gián tiếp đến việc giảm

nghèo đói. Ví dụ, việc cá nhân tiếp cận với các công cụ tiết kiệm có thể giúp làm tăng tiết

kiệm ròng của một quốc gia (Ashraf, Karlan and Yin, 2010), có thể dẫn đến sự gia tăng đầu

tư và tiêu dùng hiệu quả. Tiết kiệm cho phép các gia đình tăng khả năng để đối mặt với các

cú sốc tài chính, duy trì tiêu dùng đều đặn, tích lũy tài sản và đầu tư vào con người như y tế

và giáo dục .

Burgess and Pande (2005) nhận thấy rằng việc mở rộng ngân hàng của nhà nước tại các

khu vực không có ngân hàng ở Ấn Độ đã làm giảm đáng kể số người ở nông thôn nghèo đói

từ 14 đến 17 điểm phần trăm. Ngoài ra, các sản phẩm thanh toán tài chính kỹ thuật số cho

phép mọi người nhận tiền từ người thân và bạn bè xa trong thời gian khủng hoảng, làm giảm

khả năng rơi vào đói nghèo. Một nghiên cứu về chương trình tiền di động ở Kenya, M-Pesa,

21

cho thấy rằng khi phải đối mặt với một cú sốc tài chính người dùng M-Pesa có nhiều khả năng

nhận được các khoản tiền chuyển hơn là người không sử dụng (Jack and Suri, 2014).

SDG 2 – Giảm tình trạng thiếu đói và tăng cường an ninh lương thực

Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO), khoảng 795 triệu

người trên toàn cầu bị suy dinh dưỡng, hầu hết sống ở nông thôn không được hệ thống tài

chính phục vụ. Thiếu tiếp cận với tín dụng và bảo hiểm khiến người nông dân không thể đầu

tư tăng năng suất cây trồng và tăng cường an ninh lương thực (FAO, 2015). Tài chính toàn

diện giúp những người nông dân tiếp cận các dịch vụ tài chính từ đó sản xuất nhiều vụ mùa

bội thu hơn, dẫn đến mục tiêu thứ hai: Giảm đói và tăng cường an ninh lương thực.

Nói cụ thể hơn, các dịch vụ tài chính có thể giúp nông dân tăng sản lượng để đáp ứng nhu

cầu lương thực gia tăng của người dân, nói cách khác, an ninh lương thực được bảo đảm hơn.

Thông qua việc tiếp cận với bảo hiểm nông nghiệp có thể khuyến khích nông dân đầu tư vào

các khoản có rủi ro hơn, có khả năng làm tăng thu nhập. Một nghiên cứu kéo dài ba năm ở

Ghana thấy rằng người nông dân có sử dụng bảo hiểm theo chỉ số mưa – trong đó các khoản

thanh toán bảo hiểm dựa trên số lượng mưa – đã chi tiêu thêm 266 đô la cho chi tiêu cho vụ

mùa so với nông dân không có bảo hiểm; nhưng nông dân được bảo hiểm cũng kiếm thêm

được 285 đô la doanh thu, trong khi tài sản sau thu hoạch cao hơn 531 đô la (Karlan et al.,

2014). Ở Ấn Độ, nông dân bảo hiểm theo chỉ số dựa trên thời tiết đã chuyển hướng sang nhiều

vụ mùa nhạy cảm với mưa hơn nhưng cũng có lợi hơn (Cole, Giné and Vickery, 2013). Các

sản phẩm bảo hiểm hạn hán dựa trên chỉ số cũng cho thấy những ảnh hưởng tích cực ở nông

thôn Kenya. Cụ thể, các hộ gia đình được bảo hiểm trung bình có 36 điểm phần trăm thấp hơn

về khả năng rút bớt tài sản, và 25 điểm phần trăm thấp hơn về khả năng giảm bớt các bữa ăn

khi nhận được khoản thanh toán.

Các tài khoản tiết kiệm cũng giúp nông dân đầu tư lớn hơn. Nông dân trồng hoa màu

Malawi sử dụng sản phẩm tiết kiệm cam kết – không cho phép rút tiền cho đến một ngày nhất

định – tăng đầu tư thêm 13% và tăng sản lượng cây trồng lên 21% (Brune et al., 2011). Ngoài

ra, các sản phẩm tiết kiệm cho phép nông dân quản lý chi phí trong mùa khô. Các hộ gia đình

nông thôn thường phải khai thác để mua lương thực, vì họ không thể sản xuất đủ để tiêu thụ.

Tài khoản tiết kiệm được nhận thấy có liên quan đến việc chi tiêu nhiều hơn cho thực phẩm

(Prina, 2015). Theo FAO (2015) khẳng định rằng các dịch vụ tài chính cũng có thể giúp nông

dân tăng khả năng bảo đảm an ninh lương thực cho họ, cải thiện dinh dưỡng gia đình.

22

Một sản phẩm tài chính khác hỗ trợ cho an ninh lương thực là tín dụng. Cung cấp tín dụng

ngắn hạn cho nông dân ở Zambia giữa các vụ thu hoạch đã làm tăng sản lượng và doanh thu

khoảng mười phần trăm, chủ yếu là do tăng tiêu dùng thực phẩm và thuê lao động (Fink, Jack

and Masiye, 2014). Một nghiên cứu ở Mông Cổ cho thấy nợ theo nhóm cộng đồng làm tăng

việc tiêu dùng thực phẩm lành mạnh (Attanasio et al., 2015). Một nghiên cứu khác ở Mali

cho thấy rằng các hộ gia đình được nhận khoản cho vay đã tăng đầu tư và chi tiêu cho đầu

vào nông nghiệp (Beaman et al., 2014).

Các sản phẩm tài chính kỹ thuật số không yêu cầu đi đến chi nhánh ngân hàng có những

lợi ích đặc biệt cho những nông dân sống ở những khu vực ít được các ngân hàng truyền

thống phục vụ. Các dịch vụ tài chính số giúp người dân dễ dàng tiếp cận bảo hiểm và các sản

phẩm chính thức khác (Kirk et al., 2011; Manfre and Nordehn, 2013; Mbiti and Weil, 2015).

Chúng cũng tạo điều kiện phân phối tiền lương, chuyển tiền xã hội và trợ cấp cho người lao

động nông nghiệp (Aker et al., 2016; Aker and Mbiti, 2010; Muralidharan, Niehausand

Sukhtankar, 2016). Các công cụ quản lý rủi ro và thanh toán kỹ thuật số tạo cơ hội cho những

nhà nông nhỏ liên kết chặt chẽ hơn vào chuỗi giá trị nông nghiệp. Ví dụ ở Kenya, hơn một

nửa số người trưởng thành bán nông sản và 30% những người này được thanh toán hàng

thông qua tài khoản điện thoại di động, theo Global Findex. Cuối cùng, các dịch vụ tài chính

kỹ thuật số hỗ trợ các dịch vụ khuyến nông bằng cách cải thiện sự phổ biến thông tin (Aker

et al., 2015; Seetharam and Johnson, 2015).

SDG 3 – Đạt được sức khoẻ và hạnh phúc

Tài chính toàn diện cải thiện sức khoẻ bằng cách trao cho mọi người có khả năng quản lý

chi phí y tế và bình phục sau khi đau ốm. Nghiên cứu cho thấy các khoản chi đến đồng tiền

cuối cùng cho chăm sóc sức khoẻ ở các nước đang phát triển là nguyên nhân lý giải cho sự

nghèo đói của người dân (Krishna, 2006; Saksena, Xu and Evans, 2011). Trong trường hợp

thiếu vắng một hệ thống chăm sóc sức khoẻ hiệu quả, gánh nặng chi phí y tế đè nặng lên

người nghèo (Frenk and Knaul, 2002). Các cú sốc về sức khoẻ không chỉ làm tiêu hao nguồn

lực để chi cho điều trị y tế, mà còn dẫn đến mất thu nhập vì bệnh nhân không còn khả năng

làm việc hoặc cạn kiệt tài sản của mình để trang trải chi phí y tế (Klapper, El-Zoghbi and

Hess, 2016).

Ngoài ra, các sản phẩm mới được thiết kế để thúc đẩy công nghệ thanh toán kỹ thuật số

có thể giúp giảm chi phí y tế và tăng tính minh bạch về trợ cấp y tế. Chẳng hạn, các nghiên

23

cứu đang tiến hành ở Kenya kiểm nghiệm hoạt động trên nền tảng thanh toán di động M-Pesa

và giới hạn trong các khoản chi tiêu có điều kiện tại một số nhà cung cấp dịch vụ y tế được

lựa chọn (PharmAccess, 2015).

Tiết kiệm cũng là một công cụ quan trọng để quản lý chi phí y tế, dù là kế hoạch hay

không có kế hoạch. Trong một kiểm định thực địa ở Kenya, đã nhận thấy rằng cung cấp cho

người dân nơi lưu trữ tiền an toàn đã tăng tiết kiệm sức khoẻ lên 66%. Họ cũng quan sát thấy

rằng những người tham gia nghiên cứu đánh giá cao quỹ dành cho các trường hợp khẩn cấp

y tế. Tiếp cận các tài khoản chính thức, có lãi sẽ làm tăng thêm giá trị của các khoản đầu tư

này. Một nghiên cứu ở Nepal phát hiện rằng khi bị ảnh hưởng bởi cú sốc sức khoẻ, các hộ gia

đình có tài khoản tiết kiệm thu nhập bị giảm ít hơn so với các hộ không có (Prina, 2015).

SDG 4 – Tăng cường giáo dục có chất lượng

Sự tăng trưởng kinh tế có liên quan chặt chẽ với nguồn nhân lực, trình độ học thuật yếu

kém làm chậm lại sự phát triển. Trong nghiên cứu của 20 quốc gia, Thomas and Burnett

(2013) cho thấy lợi ích – chi phí của trẻ em thất học dao động từ 1% GDP đến 10% GDP, với

những tổn thất lớn nhất các quốc gia có tốc độ tăng trưởng chậm phải đối mặt. Sự kém hiệu

quả về giáo dục cũng góp phần gia tăng bất bình đẳng về kinh tế giữa các nước giàu và nghèo

(O’Neill, 1995).

Các sản phẩm tiết kiệm giúp gia đình hoạch định và quản lý chi phí giáo dục tốt hơn. Prina

(2015) đã chỉ ra chi phí giáo dục gia tăng 20% trong số các hộ gia đình mở tài khoản ngân

hàng tại Nepal. Trong một nghiên cứu riêng ở Nepal, việc tiếp cận các tài khoản tiết kiệm liên

quan đến trình độ học vấn được cải thiện và khát vọng nghề nghiệp cao hơn giữa các con gái

của các chủ tài khoản nữ (Chiapa, Prina and Parker, 2014). Các hành động khuyến khích

những thói quen tiết kiệm tốt cũng có hiệu quả. Các nghiên cứu ở Bolivia, Peru và Philippines

cho thấy rằng tiết kiệm tăng 6% khi người ta nhận được tin nhắn nhắc nhở họ chi tiêu (Karlan

et al., 2016). Ngoài ra, các khoản vay ngắn hạn, các sản phẩm cam kết, và dịch vụ ghi nợ trực

tiếp có thể giúp các hộ gia đình chi trả các khoản chi phí như tiền học gia sư (Ahamed and

Mallick, 2019; Ashraf, Gons, Karlan and Yin, 2003; Johnston and Morduch, 2008).

SDG 5 – Gia tăng bình đẳng giới

Các dịch vụ tài chính giúp phụ nữ khẳng định quyền lực kinh tế của họ, đó là chìa khóa

để thúc đẩy bình đẳng giới. Hơn một nửa phụ nữ trên toàn thế giới đang thất nghiệp và không

tìm kiếm việc làm (World Bank, 2016). Cuberes and Teignier (2016) ước tính khoảng cách

24

về giới làm giảm thu nhập khoảng 15% ở các nước OECD, và gần 38% ở Trung Đông và Bắc

Phi. Phụ nữ cũng có nhiều khả năng hơn nam giới làm việc tại các nước đang phát triển và do

đó cần được tiếp cận các dịch vụ tài chính chính thức (Demirguc-Kunt, Klapper and Singer,

2013).

Tài chính toàn diện của phụ nữ có thể tạo ra sự bình đẳng giới bằng cách tạo cho họ khả

năng kiểm soát tài chính tốt hơn (Ashraf, Karlan and Yin, 2010; Aker et al., 2016). Bằng

chứng từ nhiều quốc gia cho thấy việc tăng tỷ lệ thu nhập hộ gia đình do phụ nữ kiểm soát –

cho dù thông qua thu nhập của họ hoặc được chuyển tiền mặt - thay đổi cách thức chi tiêu

theo hướng có lợi cho phụ nữ (World Bank, 2011). Trong trường hợp không tiếp cận được

tới các khoản vay chính thức và không chính thức, thì các tài khoản tiết kiệm có thể cung cấp

cho phụ nữ nền tảng an toàn và chính thức để tạo dựng lịch sử tín dụng và cất trữ thu nhập

của mình để đầu tư trong tương lai (Anderson and Baland, 2002; Ashraf, Karlan and Yin,

2010; Dupas and Robinson, 2013a). Khi phụ nữ Kenya được tiếp cận với tài khoản tiết kiệm

mà không phải trả phí mở tài khoản, họ đã tăng chi tiêu cá nhân lên 38% (Dupas and Robinson,

2013a).

Các dịch vụ tài chính kỹ thuật số cũng hỗ trợ các doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ bằng

cách giảm thiểu nguy cơ trộm cắp và giảm chi phí hành chính và chi phí tiền mặt. Sử dụng

các kênh kỹ thuật số như điện thoại di động có thể cải thiện tiếp cận thị trường và thông tin,

chẳng hạn như dữ liệu về giá cả, đầu vào và đối thủ cạnh tranh (Malhotra, Kanesathasan and

Patel, 2012). Các dịch vụ này cũng có thể cho phụ nữ nhiều cơ hội làm việc xa nhà hoặc xa

cộng đồng của họ và mở ra cơ hội cho phụ nữ thay thế số giờ làm việc không lương bằng việc

làm có trả lương. Ngoài ra, các kiểm định thực tế cũng cho thấy rằng bảo hiểm đã giúp các

nhà nông nữ tăng sản lượng và quản lý tốt hơn sự mất an ninh lương thực và các biến động

thực phẩm (Manfre and Nordehn, 2013; Delavallade et al., 2015).

Với các mục tiêu phát triển bền vững khác, mối liên hệ giữa tài chính toàn diện và các

SDG này, đến nay vẫn chưa có minh chứng nào cụ thể. Chẳng hạn như không có bằng chứng

mạnh mẽ về việc tài chính toàn diện trực tiếp làm giảm sự bất bình đẳng trong và giữa các

quốc gia (SDG 10) hoặc dẫn tới tăng trưởng kinh tế toàn diện ở cấp quốc gia (SDG 8). Thúc

đẩy hòa bình và ổn định (SDG 16) là dễ dàng hơn khi thành công về kinh tế, nhưng thật khó

để thấy rằng các dịch vụ tài chính có thể có tác động mạnh mẽ đến hoà bình và ổn định. SDG

9, đề cập tới việc đổi mới công nghệ trong kinh doanh, có thể được thực hiện thông qua sự

25

tiếp cận tín dụng rộng rãi hơn, nhưng điều này vẫn chưa được chứng minh. Các mục tiêu còn

lại 11, 12, 13, 14, 15, và 17 của SDG không trực tiếp liên quan đến vai trò của dịch vụ tài

chính. Do vậy cần thêm những nghiên cứu mới để tìm ra mối liên hệ giữa tài chính toàn diện

và các SDG.

2.1.3. Các chỉ số đo lường tài chính toàn diện

Hiện nay chưa có một khung thống nhất được thừa nhận rộng rãi về chỉ số đo tài chính

toàn diện. Dù vậy, đã có khá nhiều tác giả đã sử dụng dữ liệu tổng hợp từ phía cung để đo

lường tài chính toàn diện như Honohan (2008), Sarma (2008), (2012)… Bên cạnh đó,

Demirgüç-Kunt and Klapper (2013) sử dụng dữ liệu về nhu cầu từ góc độ cá nhân và tập trung

vào một số chỉ số liên quan đến việc sử dụng và các loại rào cản đối với việc tiếp cận các dịch

vụ tài chính. Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, một số phương pháp đo lường tài chính

toàn diện sau đây đã được áp dụng trên thế giới, được xem là khá phổ biến.

2.1.3.1. Các chỉ số riêng lẻ

a. Các chỉ số Global Findex

Các chỉ số Global Findex nằm trong cơ sở dữ liệu Global Findex do World Bank thực hiện

(World Bank, 2017b). Đây là cơ sở dữ liệu toàn diện nhất về tài chính toàn diện, cung cấp dữ

liệu chuyên sâu về cách thức các cá nhân tiết kiệm, vay mượn, thanh toán và quản lý rủi ro.

Global Findex dựa trên các cuộc phỏng vấn với khoảng 150.000 người dân ở 140 quốc gia.

Các chỉ số Global Findex đo lường việc sử dụng và tiếp cận các dịch vụ tài chính. Khả năng

tiếp cận đề cập đến việc cung cấp các dịch vụ của nhà cung cấp, trong khi sử dụng được xác

định theo nhu cầu của khách hàng. Khả năng sử dụng đề cập đến mức độ và hình thức sử

dụng các dịch vụ tài chính khác nhau giữa các nhóm khác nhau như người nghèo, thanh niên

và phụ nữ (World Bank, 2008).

Global Findex (2017) bao gồm bảy nội dung lớn, được chia thành bảy chương. Bao gồm:

sở hữu các tài khoản chính thức (account ownership), người dân không giao dịch ngân hàng

(the unbanked), thanh toán (payments), sử dụng tài khoản (use of accounts), tiết kiệm, tín

dụng và phục hồi tài chính (saving, creditand financial resilience), truy cập vào điện thoại di

động và internet (access to mobile phones and the internet around the world) và công nghệ kỹ

thuật số (opportunities for expanding financial inclusion through digital technology).

26

Global Findex là hệ cơ sở dữ liệu công khai đầu tiên đưa ra một phương pháp đồng nhất

các chỉ số cho việc sử dụng các sản phẩm tài chính của cá nhân trên khắp các nền kinh tế

(Cámara and Tuesta, 2014). Dữ liệu xét đến từng cá nhân giúp nâng cao tính chính xác và khả

năng so sánh của các phân tích. Cơ sở dữ liệu này giúp thu hẹp một khoảng trống quan trọng

trong hệ dữ liệu tổng thể về tài chính toàn diện. Tuy nhiên, Global Findex không thu thập đủ

số liệu cho từng chỉ tiêu ở từng quốc gia, và việc thu thập không diễn ra hàng năm (xem

Global Findex, 2017). Điều này gây khó khăn trong việc nghiên cứu mức độ tài chính của

mỗi quốc gia trên thế giới.

b. Các chỉ số IMF FAS

Ngoài bộ chỉ số đo lường tài chính toàn diện nói trên của World Bank, IMF cũng xây dựng

các bộ dữ liệu về tiếp cận tài chính, trong đó có các chỉ tiêu về khảo sát tiếp cận tài chính,

FAS – Financial Access Survey, được đề khởi vào năm 2009 (FAS, 2021). Theo đó, FAS là

bộ dữ liệu từ phía cung của việc tiếp cận và sử dụng tài chính, hướng đến mục tiêu là giúp

các nhà hoạch định chính sách có thể đo lường, giám sát tài chính toàn diện ở quốc gia mình

đồng thời đối sánh tiêu chuẩn với các quốc gia khác. FAS được xây dựng dựa trên dữ liệu thu

thập từ các ngân hàng trung ương và các cơ quan quản lý tài chính khác.

Bộ dữ liệu này bao gồm 189 quốc gia trong thời gian hơn mười năm (kể từ 2004), chứa

121 chuỗi thời gian về tiếp cận tài chính và sử dụng các dịch vụ tài chính. Để thuận tiện cho

sự đối sánh giữa các quốc gia, FAS cũng có đưa ra 64 chỉ số liên quan đến lượng người dân

trưởng thành, diện tích, và GDP. Dữ liệu này được tách ra theo các phân loại như loại hình

của các nhà cung cấp (ngân hàng thương mại, hiệp hội tín dụng, tổ chức tài chính vi mô, v.v.),

các loại hình dịch vụ (tiền gửi, nợ vay, bảo hiểm, v.v.). Năm 2014, FAS bổ sung thêm dữ liệu

về thanh toán di động (Mobile Money), và năm 2017 FAS phân tách dữ liệu theo giới tính

(FAS, 2021).

Các chỉ số của FAS có chín chỉ số quan trọng cần được xem xét: (1) Số lượng ATM trên

100,000 người trưởng thành; (2) số chi nhánh ngân hàng trên 100,000 người trưởng thành;

(3) số giao dịch qua thanh toán di động trên 100,000 người trưởng thành; (4) số tài khoản tiền

gửi ở các ngân hàng trên 1000 người trưởng thành; (5) số người tham gia bảo hiểm nhân thọ

và phi nhân thọ trong 1000 người trưởng thành; (6) số tài khoản tiền gửi của các SME tại các

ngân hàng; (7) số tài khoản vay của các SME tại các ngân hàng; (8) số lượng điểm đại diện

27

giao dịch thông qua thanh toán di động trên 100,000 người trưởng thành; (9) số tài khoản vay

nợ ở các ngân hàng trên 1000 người trưởng thành (FAS, 2021) .

Bộ dữ liệu của FAS được công khai và cập nhật hàng năm, khá đầy đủ và tương đối dễ

tiếp cận, tuy nhiên dữ liệu rời rạc theo từng chỉ tiêu. Vì vậy cần phải có phương pháp tổng

hợp và phân tích các chỉ số này để đưa ra một chỉ số tổng hợp có ý nghĩa khi so sánh mức độ

tài chính toàn diện giữa các quốc gia theo thời gian. Hai phương pháp dưới đây phần nào khắc

phục những nhược điểm này.

2.1.3.2. Chỉ số tổng hợp về tài chính toàn diện

a. Chỉ số tài chính toàn diện (A Multidimensional Index) theo phương pháp phân tích

thành phần cơ bản.

Theo Cámara and Tuesta (2014), tài chính toàn diện được định nghĩa là quá trình tối đa

hóa việc sử dụng và tiếp cận tài chính, đồng thời giảm thiểu việc loại trừ tài chính không tự

nguyện. Do đó, mức độ tài chính toàn diện có thể được xác định bởi ba khía cạnh: sử dụng,

rào cản và sự tiếp cận. Để tính toán chỉ số, nhóm tác giả sử dụng phương pháp Phân tích thành

phần cơ bản (Principal Component Analysis), với bộ dữ liệu Global Findex của World Bank.

Việc tính toán chỉ số được thực hiện thông qua hai bước: bước thứ nhất ước tính ba chỉ số

(biến) phụ: sử dụng, rào cản và tiếp cận; bước thứ hai, nhóm tác giả ước tính các trọng số và

ước tính chỉ số tài chính toàn diện tổng thể bằng cách sử dụng các chỉ số (biến) phụ

(dimensions) làm các biến giải thích.

Theo đó công thức tính chỉ số tài chính toàn diện (FI) được xác lập như sau:

u + w2.Yi

b + w3.Yi

a + ei (2.1)

FIi = w1.Yi

Trong đó:

a: bộ các chỉ số phụ đại diện cho sử dụng, rào cản và tiếp cận.

i: quốc gia thứ i;

u ; Yi

b ; Yi

a) được ước tính như sau:

Yi

u ; Yi

b ; Yi

Cụ thể hơn, ở bước 1, các biến phụ (Yi

u = β1 * accounti + β2 * savingsi + β3 * loani + ui

Yi

b = θ1* distancei + θ2* affordabilityi + θ3* documentsi + θ4* trusti + єi

Yi

a = γ1*AT Mpopi + γ2*branchpopi + γ3*AT Mkm2i + γ4*branchkm2i + vi

Yi

28

Mức độ sử dụng dịch vụ tài chính chính thức của các cá nhân được đánh giá trong ba chỉ

tiêu: sử dụng ít nhất một dịch vụ tài chính (account), có tài khoản tiết kiệm (savings) và có

khoản vay trong một tổ chức tài chính chính thức (loan).

Những rào cản gây khó khăn khi tiếp cận các hệ thống tài chính được lượng hóa bằng các

chỉ tiêu khoảng cách địa lý tới các điểm cung cấp các dịch vụ tài chính (distance), khả năng

chi trả cho các dịch vụ tài chính (affordability), sự thiếu hụt các tài liệu cần thiết (documents),

và lòng tin vào hệ thống tài chính (trust).

Khía cạnh tiếp cận với dịch vụ tài chính được đánh giá từ bốn chỉ tiêu cơ bản: Tỷ lệ số

máy rút tiền tự động ATM trên 100,000 người trưởng thành (ATM), Tỷ lệ số chi nhánh ngân

hàng thương mại trên 100,000 người trưởng thành (branch), Tỷ lệ số máy ATM trên 1.000

km2 (ATMkm2) và Tỷ lệ số chi nhánh ngân hàng thương mại trên 1.000 km2 (branchkm2).

Bước hai tạo ra chỉ số tổng hợp tài chính toàn diện (FI) bằng cách tổng hợp trung bình

trọng số của các giá trị đã tính toán theo công thức số (1) nói trên.

Như vậy, ở bước đầu tiên, phương pháp tham số đã được sử dụng để xác định vai trò của

từng nhân tố trong chỉ số FI. Cách làm này có lợi thế là không sử dụng bất kì thông tin ngoại

sinh, chủ quan. Sau đó, ở bước 2, chỉ số FI tổng thể được tính toán bao gồm cả thông tin về

cung và cầu. Phương pháp này đã được sử dụng để đo lường mức độ tài chính toàn diện cho

một quốc gia hoặc một khu vực (Cámara and Tuesta, 2014).

Để đo lường mức độ tài chính toàn diện theo phương pháp này, cần có đủ dữ liệu của 11

biến nội sinh đã được xác định là nhân tố ảnh hưởng. Tuy nhiên, mức độ tài chính toàn diện

của một số quốc gia (chẳng hạn như các quốc gia ở ASEAN) không thể được tính toán theo

phương pháp này do hệ cơ sở dữ liệu Global Findex và dữ liệu từ cuộc khảo sát tiếp cận tài

chính của IMF không đầy đủ đối với 11 nhân tố cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Một hạn

chế nữa của phân tích thành phần chính là chỉ số FI theo phương pháp PCA có độ nhạy cao

với các lượng biến đột xuất; nghĩa là nếu trong bộ dữ liệu xuất hiện biến có giá trị quá cao

hay quá thấp so với trung bình chung thì chất lượng của chỉ số không cao.

b. Chỉ số tài chính toàn diện theo phương pháp bình khoảng cách Euclidian

Do tài chính toàn diện có tính chất đa chiều nên phương pháp tiếp cận đa chiều sẽ phù hợp

để xây dựng chỉ số tổng hợp đo lường mức độ tài chính toàn diện. Như đã trình bày ở phần

khái niệm của tài chính toàn diện, tác giả dựa vào đề xuất của (Sarma 2012), từ đó về chỉ số

29

tài chính toàn diện (IFI) được đo lường bằng cách xây dựng từng chỉ số riêng lẻ cho mỗi khía

cạnh của tài chính toàn diện và được gọi là chỉ số thành phần. Theo đó, việc tính toán chỉ số

IFI dựa trên ba khía cạnh cơ bản: khả năng thâm nhập, tính sẵn có và mức độ sử dụng dịch

vụ tài chính.

Công thức tính tổng quát

Khía cạnh (1) khả năng thâm nhập, được đánh giá bằng số lượng tài khoản tiền gửi tại các

ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính vi mô và số lượng tài khoản tiền gửi điện thoại di

động đã đăng ký trên 1000 người trưởng thành. Khía cạnh (2) sự sẵn có của dịch vụ tài chính

được đo lường thông qua số lượng phòng giao dịch ngân hàng, số đại lý cung cấp dịch vụ tài

chính di động đã đăng ký và số máy ATM trên 100,000 người trưởng thành. Khía cạnh (3) sử

dụng dịch vụ tài chính được đánh giá thông qua tổng khối lượng của các giao dịch tín dụng

và khối lượng tiền gửi.

Các chỉ số được tính toán cho từng khía cạnh của tài chính toàn diện (di), với mỗi khía

cạnh được tính toán theo công thức sau:

(2.2) di = wi Ai - mi Mi - mi

Trong đó:

Ai : giá trị thực tế của chỉ số khía cạnh thứ i

mi : giá trị tối thiểu của chỉ số khía cạnh thứ i

Mi: giá trị tối đa của chỉ số khía cạnh thứ i

wi: tỷ trọng được gán cho mỗi khía cạnh

Giá trị di tính được theo công thức này có giá trị ∈ [0; 𝑤𝑖]. Giá trị d càng cao, mức độ tài

chính toàn diện theo khía cạnh đó càng tốt. Nếu có nhiều khía cạnh của tài chính toàn diện

được xem xét, quốc gia nào đó được đại diện bởi điểm X trong không gian Cartesian đa chiều.

Giả sử, trong không gian n chiều (n khía cạnh của tài chính toàn diện), điểm O (0,0,0...0) là

điểm xấu nhất, và điểm W (w1, w2, w3, ….wn) là điểm tốt nhất. Khoảng cách giữa Di với O

càng lớn, và khoảng cách giữa Di với W càng nhỏ, mức độ tài chính toàn diện càng cao. Tuy

nhiên, trong không gian đa chiều, có thể có hai điểm có cùng khoảng cách với W nhưng lại

có khoảng cách với O khác nhau. Nếu hai quốc gia có điểm biểu diễn cùng khoảng cách với

W nhưng khoảng cách khác với O, thì quốc gia có khoảng cách từ O cao hơn nên được xem

30

xét toàn diện nhiều hơn về mặt tài chính; và ngược lại. Chính vì vậy, việc phát triển chỉ số đo

lường tài chính toàn diện cần chú ý đến cả hai khoảng cách này. Từ đó, Sarma (2012) tính chỉ

số IFI bằng cách trung bình đơn giản Euclidian khoảng cách giữa X – O và khoảng cách

Euclidian nghịch đảo giữa X–W.

Như vậy, để tính IFI, trước tiên cần tính X1 (khoảng cách giữa X và O) và tính X2 (khoảng

cách nghịch đảo giữa X và W); sau đó lấy trung bình đơn giản của X1 và X2. Kết quả của

phép tính này chính là IFI, chỉ số tài chính toàn diện tổng quát cuối cùng cần quan sát. Công

thức chính xác được xây dựng như sau:

2 + d2

2 + d3

2 2 …+ dn

2 …+ wn 2

√d1 X1=

2 + w2

2 + w3

√w1

2 …+ wn 2

√(w1 - d1)2 + (w2 - d2)2 +…+ (wn - dn)2 X2=1-

2 + w2

2 + w3

√w1

Chỉ số IFI của quốc gia cụ thể được tính bởi công thức tổng quát sau:

IFI = (2.3) X1+ X2 2

Giá trị IFI bất kỳ tính được sẽ có giá trị ∈ [0; 1], và IFI càng cao thì mức độ tài chính toàn

diện càng lớn.

Tài chính toàn diện có rất nhiều khía cạnh hay nhiều chiều cần xem xét. Tuy nhiên, như

đã trình bày trước đó, trong phạm vi nghiên cứu của mình, Sarma (2012) tập trung vào ba

khía cạnh cơ bản của hệ thống tài chính, bao gồm: thâm nhập ngân hàng (banking

penetration), tính sẵn có của dịch vụ ngân hàng (availability of the banking services) và mức

độ sử dụng của hệ thống ngân hàng (usage of the banking system).

31

Hình 2.1. Đồ họa giải thích ba chiều (khía cạnh) của IFI

Nguồn: Sarma (2012)

Với ba khía cạnh nói trên, một quốc gia nào đó được biểu diễn bởi điểm X(p ; a; u) trong

không gian Cartesian ba chiều (xem hình 2.1). Trong hình 2.1, điểm O (0,0,0) là điểm thấp

nhất, điểm W(w1; w2; w3) là điểm tốt nhất. Lúc này, việc tính toán IFI cho một quốc gia cụ

thể nào đó cũng được thực hiện hai bước tương tự như trên: xác định khoảng cách từ X đến

W, từ X đến O, rồi tính trung bình giản đơn. Công thức của IFI (công thức 2.3 nói trên) lúc

này được viết lại:

√(w1-p)2+(w2-a)2+(wn-u)2 √p2+a2+u2 + (2.4) 𝐈FI= 1 - 1 2 √w1

2 +w2

2 2 +w3

√w1

2 +w2

2 2 +w3

( ) [ ]

Các khía cạnh của tài chính toàn diện và trọng số

Chỉ số IFI theo lập luận của Sarma (2012) không quá khó để xác định. Việc quan trọng

tiếp theo là làm sáng tỏ các chỉ tiêu nào có thể được lựa chọn làm chỉ tiêu đại diện cho các

chiều (khía cạnh) của tài chính toàn diện. Tương ứng với mỗi khía cạnh tác giả phân tích khá

rõ các vấn đề tương ứng như sau.

Khía cạnh thứ nhất: thâm nhập ngân hàng (banking penetration – pi)

Một hệ thống tài chính toàn diện nên có càng nhiều người dùng càng tốt, nghĩa là một hệ

thống tài chính thâm nhập rộng rãi giữa những người dùng của nó. Quy mô của dân số có sử

dụng dịch vụ ngân hàng (“banked” population) được xem là thước đo sự thâm nhập ngân

32

hàng của hệ thống (chẳng hạn số người có tài khoản ngân hàng). Nếu mỗi người trong nền

kinh tế có tài khoản ngân hàng, thì giá trị của khía cạnh này sẽ là 1. Trong trường hợp không

có dữ liệu về dân số sử dụng dịch vụ ngân hàng, có thể sử dụng chỉ số tài khoản ngân hàng

tiền gửi trên 1000 dân số trưởng thành như một chỉ số cho chiều này. Với chiều này tác giả

gán nó với trọng số là 1, bởi vì sự thâm nhập ngân hàng là chỉ số chính về tài chính toàn diện.

Khía cạnh thứ hai: tính sẵn có (hoặc khả dụng) của các dịch vụ ngân hàng (availability

of the banking services – ai)

Các dịch vụ của hệ thống tài chính toàn diện cần có sẵn cho các khách hàng của nó. Tính

sẵn có của các dịch vụ có thể được biểu thị bằng số lượng phòng giao dịch ngân hàng (trên

1000 dân) và/hoặc bằng số ATM trên 1000 người hoặc số nhân viên ngân hàng trên mỗi khách

hàng. Trong trường hợp không có dữ liệu so sánh về số lượng ATM và số lượng nhân viên

ngân hàng cho một số lượng lớn các quốc gia, sử dụng số lượng chi nhánh ngân hàng trên

1000 dân để đo lường khía cạnh sẵn có này.

Tác giả đã sử dụng hai chỉ số để đo lường khía cạnh này, đó là số lượng chi nhánh ngân

hàng và số lượng ATM trên 100,000 người lớn. Hai chỉ số này được tính riêng biệt và sau đó,

trung bình có trọng số của hai chỉ số này. Việc xác định trọng số của hai chỉ số này khá đơn

giản. Trong quan sát thực nghiệm của nghiên cứu, chỉ cần có được tỷ lệ trung bình của ATM

trên chi nhánh ngân hàng, từ đó sẽ tính được trọng số. Chẳng hạn, tỷ lệ trung bình của số

ATM trên chi nhánh là 2,13; điều này có nghĩa là cứ một chi nhánh sẽ có hai ATM, từ đó

trọng số của chi nhánh (a1) là 2/3, còn trọng số của ATM (a2) là 1/3.

Khía cạnh thứ ba: sử dụng các dịch vụ ngân hàng (Usage – ui)

Khía cạnh này được Kempson, Atkinsonand Pilley (2004) thúc đẩy với ý tưởng về những

khách hàng “under-banked” và “marginally banked” – những người có tài khoản ngân hàng

nhưng lại sử dụng rất ít các dịch vụ ngân hàng đã được cung cấp (dĩ nhiên quốc gia của những

người này, có mức độ ngân hàng hóa cao). Do vậy, nếu chỉ xét về tài khoản ngân hàng thì

chưa đủ đối với hệ thống tài chính toàn diện; cần xét đến trường hợp các dịch vụ ngân hàng

phải được sử dụng đầy đủ hay không, đặc biệt là hai dịch vụ cơ bản nhất: gửi tiền và tín dụng.

Theo đó, có thể sử dụng khối lượng tín dụng và tiền gửi từ khu vực tư nhân so với GDP của

quốc gia.

Xét về trọng số gán cho một khía cạnh, hoàn toàn có thể nhận thấy rằng đây là việc không

dễ. Mặc dù cả ba yếu tố được xem xét ở đây đều quan trọng như nhau đối với hệ thống tài

33

chính toàn diện, tuy nhiên việc thiếu dữ liệu về các chỉ số quan trọng đặc trưng hoàn toàn cho

khía cạnh sẵn có và sử dụng khiến Sarma (2012) giảm trọng số tương đối cho các khía cạnh

này trong chỉ số IFI. Đối với khía cạnh sẵn có, nhiều quốc gia đã chuyển sang ngân hàng

internet, do đó làm giảm tầm quan trọng của các chi nhánh ngân hàng. Hay một số quốc gia

cũng cung cấp dịch vụ ngân hàng thông qua điện thoại. Do đó, chỉ sử dụng dữ liệu trên các

cửa hàng thực tế (như chi nhánh ngân hàng và ATM) có thể không đầy đủ. Tương tự, dữ liệu

về tín dụng và tiền gửi chỉ có thể mô tả một phần việc sử dụng hệ thống tài chính, bởi các

dịch vụ khác của hệ thống ngân hàng, như thanh toán, chuyển khoản và chuyển tiền không

được xét đến. Do đó trọng số gán cho khía cạnh thâm nhập là 1, khía cạnh sẵn có là 0,5 và

khía cạnh sử dụng là 0,5. Lúc này công thức tính IFI (công thức 2.3) được xác định lại:

√(1 - p)2+(0,5 - a)2+(0,5 - u)2 √p2+a2+u2 IFI= + 1 - (2.5) 1 2 √1,5 √1,5

[ ] ( )

Kết quả tính IFI luôn dao động trong đoạn [0,1]. Sarma (2012) cũng đã có gợi ý phân loại

các mức độ tài chính toàn diện theo chỉ số này (bảng 2.1), bao gồm ba mức: thấp, trung bình

và cao.

Bảng 2.1. Các mức độ tài chính toàn diện

IFI Mức độ tài chính toàn diện

0 ≤ IFI ≤ 0.3 Thấp

0.3 < IFI ≤ 0.6 Trung bình

0.6 < IFI ≤ 1 Cao

(Nguồn: Sarma, 2012)

Trong các cách đo lường tài chính toàn diện được trình bày ở trên, tác giả nhận thấy việc

sử dụng chỉ số tài chính toàn diện theo gợi ý của Sarma (2012) là phù hợp, vừa có thể xem

xét từng khía cạnh, đồng thời có thể đánh giá một cách tổng thể của một quốc gia và có thể

đối sánh giữa các quốc gia với nhau, qua các năm. Chính vì ưu điểm này, tác giả sử dụng chỉ

số tài chính toàn diện tổng hợp IFI cùng các chỉ số đo lường cho các khía cạnh của tài chính

toàn diện nói trên với các số liệu được lấy từ IMF FAS (2020), cách tính sẽ được trình bày rõ

hơn ở chương tiếp theo.

34

2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

Sự ổn định luôn là đề tài tranh luận quan trọng của các nhà hoạch định chính sách; nhất là

từ sau những bất ổn liên quan đến cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn của Mỹ (Beck, 2008). Sự

ổn định của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự ổn định của hệ thống tài chính (Segoviano

and Goodhart, 2009). Do vậy trước khi tìm hiểu về ổn định hệ thống ngân hàng, cần hiểu rõ

ổn định hệ thống tài chính cũng như tầm quan trọng của sự ổn định này.

2.2.1. Khái niệm về ổn định hệ thống tài chính

Sự ổn định luôn là đề tài tranh luận quan trọng của các nhà hoạch định chính sách; nhất là

từ sau những bất ổn liên quan đến cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn của Mỹ (Beck, 2008).

Thuật ngữ “sự ổn định (hệ thống) tài chính” được đề cập thường xuyên và được nhiều tổ chức

quốc tế, quốc gia và nhà nghiên cứu chia sẻ có các góc nhìn khá khác nhau. Khái niệm này

được tiếp cận từ hai hướng: định nghĩa trực tiếp về ổn định hệ thống tài chính và gián tiếp

thông qua định nghĩa về bất ổn (Alawode and Sadek, 2008). Những định nghĩa này có thể

thay đổi theo thời gian phù hợp với sự thay đổi trong các thành phần cấu thành nên tài chính

(Schinasi, 2004).

Theo World Bank (2020), ổn định tài chính hay một hệ thống tài chính ổn định là một hệ

thống “có khả năng phân bổ hiệu quả các nguồn lực, đánh giá và quản lý rủi ro tài chính, duy

trì mức độ việc làm gần với tỷ lệ tự nhiên của nền kinh tế và loại bỏ được các biến động về

giá của các tài sản thực hoặc tài sản tài chính có thể ảnh hưởng đến sự ổn định tiền tệ và mức

độ việc làm”. Một hệ thống tài chính được xem là ổn định nếu hệ thống có thể không bị mất

cân đối tài chính khi xảy ra bất cứ vấn đề hay có bất cứ một sự kiện nào diễn ra một cách bất

ngờ và không lường trước được, hay nói cách khác hệ thống sẽ tự hấp thụ các cú sốc ngăn

chặn các sự kiện bất lợi có ảnh hưởng đột phá đến nền kinh tế thực hoặc các hệ thống tài

chính khác.

Schinasi (2004) cho rằng “một hệ thống tài chính ở trong một phạm vi ổn định thì bất cứ

lúc nào nó cũng có khả năng tạo điều kiện (chứ không phải cản trở) thúc đẩy hiệu quả của

nền kinh tế và có khả năng làm mất đi sự bất cân bằng tài chính phát sinh nội sinh hoặc là hệ

quả của các sự kiện bất lợi và không lường trước được”. Giải thích cho quan điểm này, tác

giả lý giải, hệ thống tài chính này góp phần cho việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực thực tế,

tốc độ tăng sản lượng, thúc đẩy các quá trình tiết kiệm, đầu tư và tạo ra của cải; đồng thời tạo

ra chuyển động liên tục theo hướng ổn định, tránh xa sự bất ổn, ví dụ như giá tài sản và dòng

35

danh mục đầu tư, ngầm định thông qua cơ chế tự điều chỉnh. Từ đó tác giả rút ra quan điểm

chung như sau “ổn định hệ thống tài chính là điều kiện trong đó cơ chế định giá, phân bổ và

quản lý rủi ro tài chính của một nền kinh tế (tín dụng, thanh khoản, đối tác, thị trường, v.v.)

đang hoạt động đủ tốt để đóng góp vào kết quả hoạt động của nền kinh tế.”

Ở khía cạnh còn lại, thông qua định nghĩa gián tiếp sự bất ổn tài chính, Crockett (1996)

đã định nghĩa sự ổn định tài chính là sự không bất ổn tài chính (an absence of instability). Tác

giả xem sự bất ổn là một tình huống trong đó hoạt động kinh tế có khả năng bị suy giảm do

biến động giá tài sản tài chính hoặc do các tổ chức tài chính không có khả năng đáp ứng các

nghĩa vụ theo hợp đồng của họ. Cũng tương tự như vậy, Mishkin (1999) đã chỉ ra bất ổn tài

chính xảy ra khi các cú sốc đối với hệ thống tài chính làm cản trở dòng chảy thông tin khiến

hệ thống tài chính không thể thực hiện nhiệm vụ chuyển tiền đến những người có cơ hội đầu

tư hiệu quả. Từ đó, thị trường tài chính gây tổn hại hoặc đe dọa làm tổn hại đến hoạt động của

nền kinh tế, nhiều cách khác nhau, như có thể làm suy yếu điều kiện tài chính của các đơn vị

phi tài chính như hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ ở mức độ mà dòng tài chính cho họ

bị hạn chế; hoặc cũng có thể làm gián đoạn hoạt động của các tổ chức tài chính và thị trường

cụ thể khiến họ ít có khả năng tiếp tục tài trợ cho phần còn lại của nền kinh tế (Chant, Lai,

Illing and Daniel, 2003). Goodhart (2006, trang 3417) cũng cho rằng “Ổn định tài chính là

không có khủng hoảng tài chính, và Khủng hoảng tài chính được định nghĩa là một chuỗi các

sự kiện, hoặc rủi ro của nó, làm suy yếu trung gian tín dụng hoặc phân bổ vốn”.

Từ các quan điểm nói trên, có thể rút ra được thuật ngữ “ổn định hệ thống tài chính” bao

gồm nội hàm sau: thứ nhất, các yếu tố chính của hệ thống tài chính (thị trường tài chính, các

định chế tài chính, hạ tầng tài chính) thực hiện các chức năng của mình, góp phần phân bổ có

hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế; thứ hai, rủi ro cấp độ hệ thống cần được đánh giá chính

xác và quản lý hiệu quả để tránh khả năng sụp đổ hệ thống tài chính. Để đảm bảo mục tiêu

duy trì ổn định của cả hệ thống tài chính đòi hỏi phải có sự phối hợp của các cơ quan nhà

nước trong hệ thống giám sát tài chính quốc gia; và trong phần lớn các mô hình tổ chức hệ

thống giám sát tài chính, NHTW là cơ quan có chức năng chủ đạo trong việc thực hiện chức

năng ổn định tài chính.

Tầm quan trọng của ổn định tài chính được các NHTW các nước xác định rất rõ. NHTW

Hàn Quốc (BOK) cho rằng ổn định tài chính là một yêu cầu thiết yếu không chỉ để ổn định

giá cả, mục tiêu chính sách của NHTW mà còn cho sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế

36

(BOK, 2020). Bởi theo NHTW quốc gia này, sự ổn định đó tạo ra môi trường thuận lợi hơn

cho cả nhà đầu tư và người gửi tiền, tăng hiệu quả của hoạt động trung gian tài chính, tăng

các chức năng của các thị trường tài chính và cải thiện phân phối nguồn lực để phát triển hệ

thống tài chính lành mạnh và minh bạch, giảm đi các cú sốc và rủi ro hệ thống. NHTW

Namibia (CBN) xác định ổn định tài chính rất quan trọng, phản ánh một hệ thống tài chính

lành mạnh, từ đó củng cố lòng tin vào hệ thống và ngăn ngừa các hiện tượng như tháo chạy

khỏi ngân hàng, có thể gây mất ổn định nền kinh tế. Hơn nữa, một hệ thống tài chính lành

mạnh báo hiệu cho công chúng rằng tiền của họ được xử lý theo cách sẽ không gây nguy hiểm

quá mức cho nó. Điều này đặc biệt quan trọng đối với tiết kiệm, bao gồm cả tiết kiệm lương

hưu (CBN, 2020).

Ngược lại mất ổn định tài chính kéo theo những tình trạng như: (i) giảm tính hiệu quả của

chính sách tiền tệ; (ii) làm suy yếu chức năng trung gian của hệ thống tài chính do phân phối

nguồn lực không hợp lý, làm trì trệ sự phát triển của nền kinh tế; (iii) làm mất niềm tin của

người dân vào hệ thống tài chính; (iv) mất nhiều chi phí để giải quyết sự yếu kém của hệ

thống tài chính. Vì những lý do này, nhiều nước trên thế giới đã bắt đầu chú trọng nhiều hơn

đến ổn định tài chính khi thực thi các chính sách của mình, đặc biệt trong bối cảnh xuất hiện

ngày càng nhiều các nhân tố mới có khả năng gây bất ổn tài chính như mối liên kết ngày càng

chặt chẽ giữa khu vực tài chính của các quốc gia và sự phát triển không ngừng của các công

cụ tài chính phức tạp.

2.2.2. Khái niệm về ổn định hệ thống ngân hàng

Xét về sự ổn định hệ thống ngân hàng, đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất cho ổn

định hệ thống ngân hàng. Sự thiếu thống nhất trong việc xác định ổn định hệ thống ngân hàng

là gì, khiến cho các cơ quan giám sát khó khăn trong việc quyết định xem sự ổn định này là

ổn định của các ngân hàng truyền thống hay là sự ổn định của các tổ chức tài chính phi ngân

hàng hay thậm chí là các ngân hàng không chính thống – shadow banks (Ozili, 2018).

Để xác định khái niệm của thuật ngữ này, cũng có hai hướng tiếp cận: (1) mô tả trực tiếp

ổn định hệ thống ngân hàng và (2) gián tiếp thông qua sự bất ổn của ngân hàng. Ở hướng tiếp

cận đầu tiên, một số quan điểm cho rằng có thể định ra khái niệm thông qua ổn định tài chính

liên quan đến lĩnh vực ngân hàng, nội dung này đã được trình bày khá chi tiết ở phần trên

(mục 2.2.1). Một số khác đã khái niệm hóa sự ổn định này một cách rõ ràng, chẳng hạn như

Crockett (1997) đã xác định sự ổn định trong lĩnh vực ngân hàng (bank sector) liên quan đến

37

việc không có sự căng thẳng tài chính (financial stress), thứ có thể dẫn đến tổn thất ở các ngân

hàng lớn hơn thậm chí là sự phá sản ở các ngân hàng nhỏ hơn, do đó, các ngân hàng có tình

hình tài chính ổn định nhất có thể đáp ứng các nghĩa vụ của họ mà không cần hỗ trợ từ bên

ngoài. Ổn định hệ thống ngân hàng hay ổn định ngân hàng có thể hiểu là không có khủng

hoảng ngân hàng, đạt được thông qua sự ổn định của tất cả các ngân hàng trong hệ thống hoặc

lĩnh vực ngân hàng (Brunnermeier et al., 2009).

Từ đó, nếu xem xét sự phụ thuộc lẫn nhau (interdependence), Segoviano and Goodhart

(2009) xem ổn định ngân hàng hay ổn định hệ thống ngân hàng có thể được hiểu là sự ổn định

của các ngân hàng liên kết với nhau trực tiếp thông qua thị trường tiền gửi liên ngân hàng và

tham gia vào các khoản cho vay hợp vốn, hoặc gián tiếp thông qua cho vay các lĩnh vực (Ozili,

2018; Segoviano and Goodhart, 2009). Để làm rõ ý này hơn, Segoviano and Goodhart (2009)

đã giải thích dựa vào sự khó khăn (distress) của ngân hàng, với ba khía cạnh (i) khó khăn

chung của các ngân hàng trong hệ thống, (ii) khó khăn giữa các ngân hàng cụ thể, và (iii) khó

khăn trong hệ thống liên kết với một ngân hàng cụ thể.

Ở góc nhìn khác, thông qua khái niệm sự bất ổn của hệ thống ngân hàng, có thể hiểu thông

qua sự bất ổn từ các ngân hàng khi các cuộc tháo chạy khỏi ngân hàng (bank run) xảy ra.

Ngalawa, Tchana and Viegi (2016) cho rằng sự bất ổn này có thể xảy ra khi ngân hàng bị rút

tiền một cách bất thường (‘bank run’ – tháo chạy khỏi ngân hàng) hay khi xuất hiện vấn đề

mất khả năng thanh toán (‘insolvency problem’) của các ngân hàng. Về vấn đề tháo chạy khỏi

ngân hàng, người gửi tiền vội vàng rút tiền gửi của họ sau khi dự đoán ngân hàng sắp thất bại,

do đó buộc ngân hàng phải thanh lý tài sản của mình thua lỗ và dẫn đến thất bại thực sự. Sự

rút tiền ồ ạt này xảy ra khi người dân thay đổi sự kỳ vọng hoặc khi giá trị tổng tài sản của

ngân hàng giảm xuống so với lượng tiền gửi của ngân hàng, điều này khiến người gửi tiền

nhanh chóng rút tiền gửi của họ để cắt lỗ (Bryant, 1980). Sự tháo chạy khỏi ngân hàng có thể

xảy ra ngay cả khi không xuất hiện bất cứ một thông tin bất lợi nào về tương lai của ngân

hàng bởi các cá nhân quan sát thấy những người gửi tiền xếp hàng dài tại một ngân hàng, bất

kể thông tin mà những người xếp hàng nắm giữ, những cá nhân này suy luận rằng có khả

năng ngân hàng sắp thất bại và từ đó xảy ra sự tháo chạy (Chari and Jagannathan, 1988).

Sự bất ổn hệ thống ngân hàng cũng có thể thể hiện qua việc các ngân hàng mất khả năng

thanh toán, thường được đặc trưng bởi một lượng lớn các khoản nợ xấu không lường trước

được (Ngalawa, Tchana and Viegi, 2016; Guy and Lowe, 2011). Tình trạng này dễ xảy ra hơn

38

trong thời kỳ suy thoái kinh tế và sau thời kỳ “bùng nổ” cho vay tư nhân (Allen and Gale,

1998).

Ngoài ra, khi nhắc đến sự bất ổn của hệ thống, không thể không nhắc đến hiện tượng lây

lan tài chính (Financial contagion) – là hiện tượng rủi ro thanh khoản hoặc mất khả năng thanh

toán được truyền từ tổ chức tài chính này sang tổ chức tài chính khác (Brown et al., 2014).

Các tác giả đã chỉ ra rằng có nhiều kênh khác nhau dẫn dắt hiện tượng lây lan trong lĩnh vực

ngân hàng, từ đó dẫn đến rủi ro hệ thống ngân hàng và cả hệ thống tài chính (chẳng hạn Allen

and Gale, 2000; Acharya, 2009; Brunnermeier and Pedersen, 2009; Dasgupta, 2004; Freixas

and Parigi, 1998; Freixas, Parigi and Rochet, 2000; Ibragimov, Jaffee and Walden, 2011;

Rochet and Tirole, 1996; Wagner, 2010). Chính vì thế, chỉ cần một ngân hàng trong hệ thống

xảy bất ổn có thể dẫn đến sự bất ổn cho cả hệ thống ngân hàng.

Tóm lại, tổng hợp các quan điểm nói trên về ổn định hệ thống ngân hàng, với phạm vi

nghiên cứu của luận án, tác giả cho rằng khái niệm về sự ổn định của hệ thống ngân hàng

chính là sự ổn định của từng ngân hàng, không xuất hiện vấn đề mất khả năng thanh toán ở

các ngân hàng, vấn đề rút chạy khỏi ngân hàng hay các khoản nợ xấu không lường trước

được ở các ngân hàng.

Về tầm quan trọng của sự ổn định hệ thống ngân hàng, sự ổn định của hệ thống ngân hàng

là mối quan tâm lớn của các cơ quan quản lý ngân hàng, các công ty bảo hiểm tiền gửi và

công chúng nói chung vì khả năng lây lan trong lĩnh vực tài chính và hệ quả có thể là suy

thoái của hệ thống tài chính, thể hiện rõ ràng trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007– 2009

(Bai and Elyasiani, 2013). Do vậy, các NHTW, các tổ chức quốc tế và các nhà nghiên cứu

cũng đã đề cập khá nhiều. Chẳng hạn như, NHTW Hong Kong (HKMA) cho rằng các ngân

hàng tương tác với nhau trong một mạng lưới quốc tế để cung cấp các dịch vụ tài chính cho

khách hàng nước ngoài cũng như trong nước; do vậy bất kỳ sự gián đoạn lớn nào trong hoạt

động ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến toàn xã hội; và sự ổn định hệ thống ngân hàng là yếu tố

quan trọng để giảm thiểu tác động kinh tế và xã hội sâu rộng khi phát sinh từ các vấn đề

(HKMA, 2017).

Rose and Hudgins (2012) cho rằng ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một

danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh

toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào

trong nền kinh tế. Thông thường, ngân hàng sẽ liên kết chặt chẽ với mọi khía cạnh lĩnh vực

39

cuộc sống và hoạt động hằng ngày của người dân. Bất kỳ sự gián đoạn lớn nào của hoạt động

ngân hàng cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động của người dân. Sự ổn định và lành mạnh của

một hệ thống ngân hàng đảm bảo phân bổ tối ưu các nguồn vốn (Jahn and Kick, 2012), do

đó, sự ổn định của ngân hàng là rất quan trọng để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho

nhà đầu tư, bảo vệ khách hàng gửi tiền đồng thời giúp nền kinh tế hoạt động trơn tru và hiệu

quả.

Sự ổn định ở hệ thống ngân hàng có mối liên kết mật thiết với ổn định hệ thống tài chính

(Segoviano and Goodhart, 2009), bởi sức mạnh của hệ thống tài chính phụ thuộc vào sức

mạnh của các tổ chức tài chính là các ngân hàng cấu thành (Segoviano, 2006). Do đó, sự ổn

định của hệ thống ngân hàng là một khía cạnh quan trọng cần phân tích trước khi xem xét đến

sự ổn định tài chính. Čihák and Hesse (2010) nghiên cứu về vai trò của hệ thống ngân hàng

Hồi giáo đối với sự ổn định tài chính ở các nước này, đã chỉ ra sự ổn định hệ thống ngân hàng

có ảnh hưởng tích cực đến ổn định tài chính và nhất là các ngân hàng Hồi giáo nhỏ.

Như vậy, có thể thấy rằng, khi hệ thống ngân hàng ổn định, không chỉ hoạt động của ngân

hàng mà hoạt động của tất cả các chủ thể khác trong nền kinh tế đều có thể diễn ra trơn tru,

hiệu quả. Nhà nước dễ dàng điều tiết nền kinh tế, lạm phát duy trì ở mức thấp, nền kinh tế

quốc gia được cải thiện, đời sống người dân được nâng cao. Kết quả là nâng cao sức cạnh

tranh quốc gia trên trường quốc tế.

2.2.3. Các chỉ số đo lường ổn định hệ thống ngân hàng

Sự phức tạp của việc xác định ổn định hệ thống ngân hàng về mặt khái niệm dẫn đến việc

chưa thống nhất cách định lượng sự ổn định về thực nghiệm. Một số nhà nghiên cứu đề xuất

một số cách đo lường sự ổn định hệ thống ngân hàng thông qua sự biến động của lợi nhuận,

hay biến động của tiền gửi để xem xét hiện tượng tháo chạy khỏi ngân hàng, hoặc có thể dựa

vào chỉ số đơn giản như mức độ nợ xấu trên tổng tài sản. Sau đây là một số chỉ số mà tác giả

cho là cần thiết trong đánh giá sự ổn định tài chính của hệ thống ngân hàng.

2.2.3.1. Chỉ số Zscore

Chỉ số Zscore được đặt nền móng đầu tiên bởi Altman vào năm 1968 và từ những năm

1990, chỉ số này được chú ý đến nhiều hơn (Altman, 2000). Dựa vào nền tảng này, Boyd and

Runkle (1993) đã đề xuất công thức tính như sau:

Zscore = (2.6) k+μ σ

40

Trong đó:

k: (tổng vốn chủ sở hữu và các khoản dự trữ)/ tổng tài sản

μ: lợi nhuận trung bình/tổng tài sản

σ: độ lệch chuẩn của lợi nhuận/tổng tài sản. Chỉ số này đại diện cho mức biến động

lợi nhuận của ngân hàng.

Sau này, các tác giả đã phát triển công thức (2.5) và sử dụng chỉ số Zscore theo công thức

tính toán sau:

(2.7) Zscoreit = ROAit+EQAit σ(ROA) it

Trong đó:

ROA: tỷ lệ lợi nhuận bình quân trên tổng tài sản

EQA: vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản.

𝜎(ROA): Độ lệch chuẩn của ROA

i, t: ngân hàng thứ i, và năm t

Với giả định lợi nhuận của ngân hàng có phân phối chuẩn, Zscore nghịch đảo có thể được

sử dụng để ước tính xác suất vỡ nợ của ngân hàng (Laeven and Levine, 2009; Jiménez, Lopez

and Saurina, 2013; Goetz, 2015). Một ngân hàng sẽ vỡ nợ nếu khoản dự trữ vốn của họ được

sử dụng hết do thua lỗ. Điều đó có nghĩa là khi một ngân hàng có lợi nhuận âm đủ lớn, khiến

[ROA + E/A] <0, thì ngân hàng đó sẽ ngừng hoạt động. Do đó, giá trị của Zscore cho biết

khoảng cách với rủi ro. Zscore cao hơn có nghĩa là ổn định hơn. Chỉ số này đồng thời xem

xét đến cả ba khía cạnh quan trọng trong đánh giá hiệu suất hoạt động của ngân hàng, bao

gồm an toàn vốn (thông qua tỷ lệ vốn chủ sở hữu), lợi nhuận (thông qua ROA) và cả rủi ro

(thông qua độ lệch chuẩn của ROA, tức mức độ dao động của lợi nhuận).

Các phiên bản khác nhau của Zscore cũng đã xuất hiện khá nhiều và thậm chí còn xa rời

khỏi khái niệm ban đầu. Một số nghiên cứu ước tính giá trị độ lệch chuẩn của ROA chỉ căn

cứ trên một phần của mẫu thời gian (2, 3, 4 hoặc 5 năm) và tiếp tục nguyên tắc này trên phần

còn lại của mẫu để làm cho chỉ số Zscore trở nên nhạy hơn và do đó biến động nhiều hơn

(Anginer, Demirguc-Kunt and Zhu, 2012; Williams, 2014; Laeven and Levine, 2009 và

41

Ahamed and Mallick, 2019). Các tác giả cho rằng bằng cách này họ có thể nắm bắt tốt hơn

những thay đổi tức thời phù hợp với từng bối cảnh của ngân hàng.

Một số tác giả khác thậm chí còn xem xét chỉ số Zscore nhạy hơn, bằng cách ước tính

thước đo rủi ro hàng năm thông qua độ lệch chuẩn trung bình hàng quý (De Haan and

Poghosyan, 2012; Anolli, Beccalli and Molyneux, 2014). Đáng chú ý, ý nghĩa của chỉ số

Zscore hoàn toàn biến mất khi một số tác giả sử dụng lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)

thay vì phải sử dụng ROA. Do đó, để đảm bảo được tiêu chí tăng số lượng quan sát nhiều

nhất có thể, chỉ số Zscore được tính toán với độ lệch chuẩn của ROA cho cả giai đoạn khảo

sát nên được ưu tiên áp dụng (Niu, 2012; Djatche, 2019).

Chỉ số Zscore cho tới nay được xem là một tiêu chí đo lường khoảng cách với tình trạng

mất khả năng thanh toán (Roy, 1952; Laeven and Levine, 2009; Bai and Elyasiani, 2013) và

là đại diện tốt cho rủi ro tổng thể của một ngân hàng, hay đo lường sự ổn định của ngân hàng,

vì khi chỉ số này giảm có nghĩa là tính dễ đổ vỡ của ngân hàng gia tăng. Theo Chiaramonte

et al. (2016), 76% khả năng thất bại của các ngân hàng có thể được dự đoán tốt bằng chỉ số

Zscore. Chỉ số Zscore được sử dụng để tính toán hành vi chấp nhận rủi ro của các ngân hàng

thông qua vốn hóa, lợi nhuận và biến động tài sản của họ. Những biến động này là phù hợp

để đánh giá khả năng ổn định của ngân hàng. Ashraf, Ramady and Albinali (2016) cho rằng

Zscore là một thước đo tổng hợp về sự ổn định, xem xét sự ổn định một cách tổng thể của tổ

chức tài chính mà không cần quan tâm đến nguồn rủi ro và nhóm tác giả đã sử dụng chỉ số

này để đo lường sự ổn định của các ngân hàng. Vì tính chất này, Li and Malone (2016) đã

chọn sử dụng Zscore để đo lường rủi ro cho hệ thống ngân hàng ở New Zealand.

Hơn nữa, một ưu điểm khác của Zscore chính là ít đòi hỏi dữ liệu và dễ tính toán bởi chỉ

số này chỉ yêu cầu thông tin có sẵn trên báo cáo tài chính. Đây là lợi thế hàng đầu trong việc

ưu tiên sử dụng chỉ số Zscore trong việc đánh giá sự ổn định của ngân hàng đang trong giai

đoạn phát triển, còn nhiều ngân hàng chưa niêm yết trên sàn chứng khoán.

2.2.3.2. Một số chỉ số đo lường khác

Chỉ số được sử dụng để đo lường hiện tượng tháo chạy khỏi ngân hàng (bank run) của

người gửi tiền được đề xuất bởi Ngalawa, Tchana and Viegi (2016), xây dựa trên ý tưởng của

Eichengreen, Rose and Wyplosz (1994, 1996) và Hagen and Ho, (2007). Nhóm tác giả đo

lường sự ổn định của hệ thống ngân hàng bằng cách xây dựng nên thước đo cho sự rút tiền ồ

42

ạt khỏi ngân hàng (runt) thông qua tỷ lệ tăng trưởng của tiền gửi không kỳ hạn (DDt) và có

kỳ hạn (TDt). Bao gồm hai bước:

Bước 1: Tính tốc độ thay đổi của tiền gửi không kỳ hạn (grDDt) và tiền gửi có kỳ hạn

(grTDt).

Bước 2: Tính chỉ số đo lường sự “tháo chạy” khỏi ngân hàng.

Chỉ số tháo chạy khỏi ngân hàng:

) + ( ) ̅̅̅̅̅̅̅̅̅ gr_DDt - gr_DD ( σgr_DD ̅̅̅̅̅̅̅̅̅ gr_TDt - gr_TD σgr_TDt runt= 2

Hiện tượng tháo chạy khỏi ngân hàng là sự giảm xuống đột ngột của tiền gửi ngân hàng,

do vậy càng khiến hệ số runt này càng thấp. Khi runt được tính toán nằm trong 10% thấp nhất

của phân phối chuẩn thì có nghĩa là có bất ổn, khi các chỉ số được tính toán nằm trong 90%

cao nhất của phân phối chuẩn, nhóm tác giả phân loại đây là thời kỳ ổn định của ngân hàng.

Chỉ số này tuy có thể đo lường được sự ổn định của ngân hàng ở khía cạnh phản ánh được

hiện tượng tháo chạy khỏi ngân hàng, nhưng số liệu tính toán cho chỉ số này đòi hỏi dữ liệu

hàng tháng. Điều này rất khó tìm kiếm trong các báo cáo của ngân hàng ở các nước.

Sử dụng chỉ số khác đơn giản hơn, Neaime and Gaysset (2018) đã đo lường sự ổn định

thông qua sự biến động của tăng trưởng tiền gửi, với chỉ số đại diện là độ lệch chuẩn của tốc

độ tăng trưởng tiền gửi. Các ngân hàng cố gắng thu hút được lượng tiền gửi càng nhiều càng

tốt và để tránh được tình trạng thoát vốn ồ ạt khỏi ngân hàng của những người gửi tiền, ngân

hàng luôn tìm cách giữ cho sự tăng trưởng của tiền gửi được ổn định. Chỉ tiêu này chỉ đòi hỏi

thông tin về lượng tiền gửi hàng năm, dễ thu thập dữ liệu, đơn giản trong tính toán, mà vẫn

phản ảnh tốt sự ổn định này.

Nhiều nhà nghiên cứu sử dụng tỷ lệ nợ xấu (so với tổng nợ hoặc so với tổng tài sản) như

là thước đo cho sự ổn định của ngân hàng, và xem đây là thước đo truyền thống cho rủi ro

của tín dụng ngân hàng. Chẳng hạn như Fernández, González and Suárez (2016) ; S.Kasman

and A.Kasman (2015); Guy and Lowe (2011); Nier and Baumann (2006); Martinez Peria and

Schmukler (2001); v.v.

Một số các chỉ số khác được các tác giả chỉ ra, như Bordo, Dueker and Wheelock (2002)

phát triển và kiểm tra một chỉ số căng thẳng tài chính rời rạc bao gồm chuỗi thời gian về thất

bại kinh doanh, điều kiện ngân hàng, lãi suất thực và mức chênh lệch chất lượng mô tả tình

43

trạng của khu vực tài chính Hoa Kỳ. Puddu (2008) xây dựng một chỉ số liên tục thực sự cho

hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ bằng cách tổng hợp các biến bảng cân đối của ngân hàng thương

mại và xem xét tác động của các phương án tỷ trọng khác nhau đến khả năng nhân rộng của

các sự kiện khủng hoảng tài chính. Một số nhà nghiên cứu sử dụng độ lệch chuẩn của ROA

để đo lường rủi ro từ các ngân hàng như Ahamed and Mallick (2019); Fang, Hasan and Marton

(2014)

Tóm lại, trong bài nghiên cứu này, tác giả quyết định sử dụng Zscore làm đại diện cho sự

ổn định của các ngân hàng trong hệ thống ngân hàng. Chỉ số này không chỉ phán ánh rủi ro

mất khả năng thanh toán (Roy, 1952; Bai and Elyasiani, 2013) mà còn có thể phản ánh được

rủi ro tổng thể của một ngân hàng bất kỳ (Ashraf, Ramady and Albinali, 2016). Ngoài ra tác

giả còn sử dụng độ lệch chuẩn của tốc độ tăng trưởng tiền gửi để đo lường sự biến động liên

quan đến tiền gửi ngân hàng trước hiện tượng tháo chạy khỏi ngân hàng của các khách hàng

gửi tiền, và tỷ lệ nợ xấu để xem xét rủi ro tín dụng ngân hàng, qua đó đánh giá sự ổn định của

hệ thống ngân hàng.

2.2.4. Một số nhân tố ảnh hưởng đến ổn định hệ thống ngân hàng

Có khá nhiều nhân tố được các nhà nghiên cứu cho là ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ

thống ngân hàng (chẳng hạn như Beck, De Jonghe and Schepens, 2013; Bai and Elyasiani,

2013; Nier, 2005; v.v.). Nội dung phần này, tác giả tập trung vào các nhân tố bên trong và

bên ngoài hệ thống ngân hàng như sức cạnh tranh của các ngân hàng, quy mô vốn các ngân

hàng, kinh tế vĩ mô, v.v.

2.2.4.1. Các nhân tố bên trong

a. Sức cạnh tranh của các ngân hàng

Mối quan hệ giữa cạnh tranh - bất ổn được đề cập từ khá sớm. Từ quan điểm lý thuyết và

thực nghiệm, có một mối quan hệ không rõ ràng giữa sức mạnh thị trường và sự ổn định của

một ngân hàng nói riêng và cả hệ thống ngân hàng nói chung (Ahamed and Mallick, 2019).

Mô hình lý thuyết đầu tiên phải kể đến là Marcus (1984) và sau đó nghiên cứu thực nghiệm

đầu tiên do Keeley (1990) thực hiện. Cả hai đều cho rằng, cạnh tranh làm suy yếu ổn định hệ

thống ngân hàng. Cụ thể, nếu có sự cạnh tranh trên thị trường tiền gửi, giá trị nhượng quyền

của ngân hàng giảm, từ đó các ngân hàng thực hiện chiến lược chấp nhận rủi ro (Marcus,

1984); và thực nghiệm tại hệ thống ngân hàng Mỹ cũng cho thấy cạnh tranh lớn hơn làm giảm

44

giá trị nhượng quyền của các ngân hàng và sau đó làm tăng động cơ chấp nhận rủi ro quá mức

của các ngân hàng (Keeley, 1990). Saunders and Wilson (1996) cũng sử dụng dữ liệu của hệ

thống ngân hàng Mỹ nhưng trong khoảng thời gian dài hơn và tìm thấy bằng chứng làm vững

thêm lập luận của hai nhà nghiên cứu nói trên. Cũng thông qua kênh truyền dẫn về giá trị

nhượng quyền (franchise value) này, nghiên cứu của Berger, Klapper and Turk-Ariss (2009)

một lần nữa khẳng định, mức độ cạnh tranh tăng lên sẽ làm quyền lực ảnh hưởng thị trường

của ngân hàng giảm đi qua đó làm giảm giá trị nhượng quyền của ngân hàng; do đó, các ngân

hàng có động cơ chấp nhận rủi ro cao hơn, qua đó tăng nguy cơ phá sản.

Đồng thời, hệ thống ngân hàng tập trung nhiều (tức, ít cạnh tranh) có tính ổn định cao hơn,

do các ngân hàng thu được nhiều lợi nhuận hơn, đa dạng hơn và dễ kiểm soát hơn (Allen and

Gale, 1998). Những người ủng hộ quan điểm giữ ổn định 'sức mạnh thị trường' lập luận rằng

các hệ thống ngân hàng tập trung hơn và ít cạnh tranh hơn thì ổn định hơn bởi vì lợi nhuận

mà ngân hàng có được tạo ra một ‘bộ đệm’ chống lại sự mong manh và cung cấp các động

lực chống lại việc chấp nhận rủi ro quá mức (Beck, 2008). Quyền lực ảnh hưởng thị trường

tiết chế hành vi chấp nhận rủi ro của các ngân hàng (Carletti and Vives, 2009). Sau khi phân

tích mẫu gồm 821 ngân hàng đến từ 60 quốc gia đang phát triển, Ariss (2010) tìm thấy sự gia

tăng mức độ quyền lực thị trường dẫn đến sự ổn định của ngân hàng và nâng cao hiệu quả lợi

nhuận, điều này ngụ ý quyền lực ảnh hưởng thị trường tăng có thể tăng cường an toàn hoạt

động ngân hàng và góp phần ổn định kinh tế ở các quốc gia đang phát triển.

Ngoài ra, Allen and Gale (2004) phát hiện ra rằng, cạnh tranh với sự tham gia của nhiều

ngân hàng là điều kiện lý tưởng cho sự lan truyền các cú sốc tài chính. Cụ thể, bên cạnh những

ảnh hưởng trực tiếp, cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng và cấu trúc thị trường còn có thể

gián tiếp gia tăng hành vi chấp nhận rủi ro của các ngân hàng. Cạnh tranh ngân hàng có thể

tạo ra bất ổn và hệ quả là sự tháo chạy của người gửi tiền/nhà đầu tư. Tự do hóa tài chính dưới

hình thức chuyển đổi dần từ trạng thái độc quyền sang cạnh tranh có thể gia tăng tổn thương

(Chang and Velasco, 2001), bởi cạnh tranh gay gắt hơn khiến cho các ngân hàng lựa chọn các

chiến lược rủi ro hơn (Besanko and Thakor, 2004). Khi cạnh tranh trở nên gay gắt, các ngân

hàng chạy đua về lãi suất. Điều này có thể mang lại lợi ích cho khách hàng, tuy nhiên, lại

khiến các ngân hàng đối mặt với nguy cơ rủi ro.

Ở một khía cạnh khác, cạnh tranh lại không phải là yếu tố gây tổn thương cho hệ thống

ngân hàng. Xét về một góc nhìn nào đó, nếu ngân hàng gặp phải những vấn đề liên quan đến

45

rủi ro đạo đức dẫn tới phải đối mặt với rủi ro về thanh khoản thì việc ngân hàng đó đứng trước

nguy cơ phá sản trong một môi trường đầy tính cạnh tranh là cần thiết để ngân hàng điều

chỉnh hành vi và cách thức hoạt động phù hợp hơn, từ đó cạnh tranh là cần thiết để tăng cường

ổn định tài chính do khắc phục được những hạn chế của thị trường độc quyền (Caminal and

Matutes, 2002).

Hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung thấp hạn chế nguy cơ khủng hoảng tài chính.

Boyd and Runkle (1993), đã giải thích quan điểm này dựa trên hai lập luận chính - vấn đề

‘quá lớn để sụp đổ’ và ‘quá lớn để giám sát’. Chi tiết hơn, ở lập luận đầu tiên, bắt nguồn từ

thực tế các ngân hàng hoạt động trong một thị trường quá tập trung có thể trở nên quá lớn,

quá trọng yếu đối với nền kinh tế và quá liên kết với nhau đến nỗi sự sụp đổ của các ngân

hàng này có khuynh hướng gây ra tác động kéo dài đối với nền kinh tế thực và chi phí xã hội

tốn kém, do đó buộc chính phủ phải cứu trợ khi các ngân hàng này đối mặt với nguy cơ phá

sản. Khả năng các ngân hàng lớn sẽ được cứu trợ có thể tạo ra vấn đề rủi ro đạo đức vì các

ngân hàng này sẵn sàng chấp nhận rủi ro quá mức khi biết rằng sẽ được chính phủ cứu trợ

nếu thất bại. Điều này có thể khiến cho sự ổn định của hệ thống trở nên mong manh. Lập luận

thứ hai, tác giả cho rằng, quy mô của một ngân hàng tỷ lệ thuận với mức độ phức tạp do đó,

các ngân hàng nhỏ sẽ dễ quản lý và giám sát hơn là các ngân hàng lớn. Các ngân hàng lớn

cũng thường đi liền với vấn đề quá lớn để giám sát. Thực tế này có thể khuyến khích các ngân

hàng chấp nhận rủi ro quá mức vì họ biết rằng các cơ quan quản lý có thể không phát hiện

được rủi ro mà ngân hàng đang gặp phải. Như vậy, sự tập trung, độc quyền trong ngành ngân

hàng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng, hay nói cách khác,

cạnh tranh sẽ giúp tăng cường sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Boyd and De Nicolo (2005) đưa ra ‘giả thuyết cạnh tranh-ổn định’ và cho rằng cạnh tranh

lớn hơn góp phần duy trì sự ổn định trên thị trường ngân hàng. Tác giả đưa ra lập luận để làm

rõ, rằng sức mạnh thị trường cao hơn, mức độ tập trung cao vào một số ngân hàng làm tăng

chi phí đi vay cho các doanh nghiệp, khiến người đi vay lựa chọn các dự án rủi ro để chi trả

từ các khoản vay, do đó làm tăng rủi ro vỡ nợ của doanh nghiệp. Việc phải trả nợ khó hơn

làm trầm trọng thêm các động cơ rủi ro đạo đức của người đi vay và các ngân hàng kết thúc

với một nhóm khách hàng rủi ro hơn do các cân nhắc lựa chọn bất lợi (Berger, Klapper and

Turk-Ariss, 2009).

46

Cũng ủng hộ quan điểm này, De Nicolo and Loukoianova (2007); Uhde and Heimeshoff

(2009) tìm thấy bằng chứng ủng hộ cho quan điểm cạnh tranh - ổn định. Nhận định về quyền

lực ảnh hưởng thị trường tăng có khuynh hướng khiến cho ổn định khu vực tài chính giảm

được sự ủng hộ từ Uhde and Heimeshoff (2009) sau khi phân tích 2600 ngân hàng hoạt động

tại khu vực đồng euro trong giai đoạn 1997 - 2005. De Nicolo and Loukoianova (2007) sử

dụng dữ liệu ngân hàng từ 133 quốc gia chưa công nghiệp hoá trong giai đoạn 1993 - 2004

để nghiên cứu mối quan hệ giữa phá sản ngân hàng và cấu trúc thị trường. Nhóm tác giả đã

tìm thấy mối tương quan cùng chiều giữa tập trung và phá sản ngân hàng.

Từ đây, với bối cảnh hiện tại ở các quốc gia ASEAN, tác giả kỳ vọng, sự tập trung sẽ

không có tác động tốt đến sự ổn định và nói rõ hơn là sự cạnh tranh có tác động tích cực đến

sự ổn định của hệ thống ngân hàng với biến đại diện là Lerner (cách tính chỉ số này được trình

bày chi tiết ở chương 3.

b. Quy mô ngân hàng

Mối liên hệ giữa quy mô và sự ổn định của ngân hàng có thể được hiểu theo lý thuyết đại

diện của doanh nghiệp. Điểm mấu chốt của lý thuyết đại diện (Michael and William, 1976)

là các chủ sở hữu và người điều hành công ty không có cùng mục tiêu; các quyết định và hành

động của các nhà quản lý chắc chắn bị lệch về lợi ích cá nhân, mẫu thuẫn với lợi ích của cổ

đông. Từ đó, các nhà quản lý có thể tăng quy mô của một công ty để nhận được khoản thù

lao lớn hơn hoặc để hưởng lợi ích cá nhân từ uy tín điều hành một công ty lớn (Gabaix and

Landier, 2008).

Hơn nữa, từ sau khủng hoảng kinh tế thế giới 2007, có rất nhiều bằng chứng cho thấy các

ngân hàng lớn đã gây ra cuộc khủng hoảng gây ra thiệt hại đáng kể cho nhiều nền kinh tế trên

toàn cầu. Chẳng hạn Laeven, Ratnovski and Tong (2016) đã tìm ra bằng chứng chắc chắn

rằng rủi ro hệ thống tăng lên với quy mô ngân hàng ở các quốc gia thành viên OECD1, cụ thể

sự gia tăng một độ lệch chuẩn trong tổng tài sản làm tăng tỷ lệ đóng góp của ngân hàng vào

rủi ro hệ thống lên khoảng một phần ba độ lệch chuẩn khi đo bằng ∆CoVaR và khoảng một

nửa độ lệch chuẩn khi đo bằng SRISK. Mặt khác, khi các ngân hàng quy mô lớn sẽ kèm theo

1 OECD bao gồm: Úc, Áo, Bỉ, Canada, Cộng Hòa Séc, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hungary, Ai Xơ Len, Ai Len, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc, Luxemburg, Mexico, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Cộng hòa Slovakia, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ.

các vấn đề như quá lớn để thất bại và quá lớn để giám sát. Goetz, Laeven and Levine (2013);

47

Laeven and Levine (2007) nhận thấy rằng các ngân hàng quá lớn (tài sản quá cao), sẽ phá hủy

giá trị cho các cổ đông của họ, phù hợp với sự hiện diện của chi phí đại diện. Köhler (2015)

báo cáo rằng quy mô ngân hàng có tác động tiêu cực đáng kể đến sự ổn định của ngân hàng,

ngụ ý rằng các ngân hàng lớn hơn kém ổn định hơn các ngân hàng nhỏ hơn.

Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, với quan điểm rằng các nhà quản lý vốn đã đáng tin cậy

và do đó không dễ bị sử dụng sai nguồn lực của công ty (Donaldson and Davis, 1991; Davis,

Schoorman and Donaldson, 1997). Ảnh hưởng của quy mô ngân hàng đối với sự ổn định của

ngân hàng cũng có thể được xem xét từ quan điểm của các giả thuyết về tính ổn định tập trung

và tính dễ vỡ của tập trung (Uhde and Heimeshoff, 2009).

Adusei (2015) đã giải thích tính dễ vỡ sẽ giảm thông qua năm kênh sau: (1) các ngân hàng

lớn hơn có thể tăng lợi nhuận, xây dựng ‘vùng đệm vốn hóa’ cao, do đó cho phép họ ít nhạy

cảm hơn với thanh khoản hoặc các cú sốc kinh tế vĩ mô; (2) các ngân hàng lớn hơn có thể cải

thiện giá trị điều lệ của họ, ngăn cản các nhà quản lý ngân hàng khỏi hành vi chấp nhận rủi ro cao. Kết quả nghiên cứu của Boot and Thakor (2000) cũng cho thấy các ngân hàng lớn hơn

có xu hướng ghi nhận các khoản đầu tư tín dụng ít hơn nhưng chất lượng cao hơn để cải thiện

sự ổn định tài chính; (3) các cơ quan giám sát nhận thấy việc giám sát một lượng ít các ngân

hàng lớn sẽ dễ giám sát hơn, do đó, có sự giám sát hiệu quả tại các thị trường ngân hàng tập

trung, làm giảm nguy cơ lây lan toàn hệ thống; (4) các ngân hàng lớn hơn có xu hướng cung

cấp dịch vụ giám sát tín dụng; và (5) các ngân hàng lớn hơn được hưởng lợi thế về quy mô

và phạm vi kinh tế cao hơn, do đó, họ có thể đa dạng hóa rủi ro danh mục cho vay một cách

hiệu quả (Mirzaei, Moore and Liu, 2013).

Các nghiên cứu khác cũng có kết luận tương tự như De Haan and Poghosyan (2012) cho

rằng quy mô ngân hàng làm giảm biến động lợi nhuận, làm giảm rủi ro. Houston, James and

Marcus (1997) nhận thấy các ngân hàng lớn và có sự đa dạng hóa có khả năng hấp thụ các cú

sốc thanh khoản tốt hơn. Một nghiên cứu tại Ghana của Adusei (2015), cũng chỉ ra việc tăng

quy mô của ngân hàng nông thôn sẽ làm tăng tính ổn định của ngân hàng.

c. Dự phòng rủi ro mất nợ

Thông qua dự phòng mất nợ, Bushman and Williams (2012) đã chỉ ra việc trích lập dự

phòng hướng tới tương lai được sử dụng để tạo ra thu nhập ổn định làm giảm mức độ chấp

nhận rủi ro, bởi việc trích lập dự phòng phản ánh việc ghi nhận kịp thời các khoản lỗ cho vay

dự kiến trong tương lai. Kết quả nghiên cứu của tác giả này cũng cho thấy dấu hiệu tăng

48

cường hạch toán tổn thất cho vay tiềm ẩn những rủi ro đáng kể về hậu quả không mong muốn,

vì làm tăng phạm vi chấp nhận rủi ro, ít thận trọng hơn của các ngân hàng. Trong phạm vi

nghiên cứu của luận án, tác giả theo sự gợi ý của Bushman and Williams (2012) và Ahamed

and Mallick (2019) chọn tỷ lệ dự phòng mất nợ trên tổng nợ là đại diện để quan sát mức độ

ảnh hưởng của biến này đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng với kỳ vọng là một sự tác

động tiêu cực.

d. Thu nhập phi lãi

Thu nhập phi lãi đại diện cho sự đa dạng hóa trong thu nhập của các ngân hàng. Nhân tố

này được các nhà nghiên cứu xác định là một trong những nhân tố chính có thể góp phần vào

sự mong manh của các ngân hàng, theo đó các ngân hàng ngày càng phụ thuộc vào thu nhập

từ phí và càng gây nguy hiểm cho sự ổn định tài chính của toàn bộ hệ thống tài chính (xem

Ashraf, Ramady and Albinali, 2016; Ashraf, Karlan and Yin, 2010; Demirgüç-Kunt and

Huizinga, 2010).

DeYoung and Roland (2001) và DeYoung and Rice (2004) đã tìm thấy những tác động

của thu nhập phi lãi làm gia tăng sự biến động của lợi nhuận, ngầm cho thấy nhân tố này ảnh

hưởng tiêu cực đến sự ổn định. DeYoung and Roland (2001) đã lý giải các lý do cho vấn đề

này; cụ thể, một là, không giống như hầu hết các khoản vay ngân hàng, đa số các hoạt động

thu phí của ngân hàng không dựa trên mối quan hệ, do vậy, thu nhập phi lãi từ các hoạt động

thu phí có thể biến động nhiều hơn so với thu nhập lãi từ các khoản cho vay; hai là, hoạt động

thu phí có thể yêu cầu đòn bẩy hoạt động lớn hơn so với hoạt động cho vay (chẳng hạn như

chi phí nhân công), điều này làm cho thu nhập của ngân hàng dễ bị tổn thương hơn khi doanh

thu của ngân hàng sụt giảm.

Stiroh (2004) báo cáo rằng các ngân hàng Hoa Kỳ phụ thuộc nhiều hơn vào thu nhập

không lãi phải đối mặt với rủi ro cao hơn. Stiroh and Rumble (2006) cũng phát hiện ra các

công ty tài chính (Financail Holing Companies - FHCs) ở Mỹ khi gia tăng thu nhập phi lãi sẽ

làm giảm Zcore, tức là làm giảm sự ổn định. Phát hiện ra mối quan hệ tiêu cực giữa đa dạng

hóa và ổn định hệ thống ngân hàng, Abuzayed, Al-Fayoumi and Molyneux (2018) gọi đây là

mặt tối của đa dạng hóa. Chính vì vậy, trong nghiên cứu này, tác giả kỳ vọng nhân tố này (đo

lường thông qua thu nhập phi lãi) tác động tiêu cực đến sự ổn định.

49

e. Các nhân tố khác

Meyer and Pifer (1970); Espahbodi (1991); Kolari, Glennon, Shin and Caputo (2002);

Martin (1977) cũng chỉ ra rằng rủi ro vỡ nợ của các ngân hàng còn là do vốn hóa thấp (đại

diện thông qua tỷ lệ vốn chủ sở hữu). Berger and Bouwman (2013) đã kiểm tra vai trò của

vốn điều tiết trong việc cải thiện khả năng phục hồi của các ngân hàng trong thời kỳ khủng

hoảng, và nhận thấy rằng vốn làm giảm khả năng thất bại của ngân hàng.

Ngoài nhân tố vốn hóa nói trên, Ahamed and Mallick (2019) còn chỉ ra ngân hàng có chất

lượng quản lý tốt (đại diện thông qua tài sản sinh lời trên tổng tài sản) dẫn đến ít rủi ro hơn

và có thể giảm thiểu việc chấp nhận rủi ro quá mức. Tài sản sinh lời (earning asset) được

Haydon and Wicks (1966) chỉ ra là các khoản vay và các chứng khoán mà ngân hàng nắm

giữ. Theo nhóm tác giả này, việc tối ưu hóa danh mục tài sản này cũng rất quan trọng và mang

lại nhiều lợi ích cho ngân hàng.

2.2.4.2. Các nhân tố bên ngoài

Một trong các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng chính

là tình hình kinh tế vĩ mô ở mỗi quốc gia. Các nghiên cứu quan trọng đã được thực hiện bởi

Demirgüç-Kunt and Detragiache (1998, 2005) đã chỉ ra rằng trong cả nền kinh tế công nghiệp

và thị trường mới nổi, tăng trưởng kinh tế thực tế thấp, lạm phát cao và lãi suất thực tế cao

tác động đáng kể đến xác suất xảy ra khủng hoảng ngân hàng.

Borio and Drehmann (2009) tăng trưởng giá tài sản và bất động sản cao hơn gắn liền với

giai đoạn bùng nổ trong chu kỳ kinh doanh có thể dẫn đến sự mất cân bằng tài chính và dẫn

đến bất ổn hệ thống ngân hàng. Lorenzoni (2008) cho thấy rằng bùng nổ tín dụng và đầu tư

dẫn đến bất ổn hệ thống tài chính với thời gian kéo dài hơn tốc độ tăng giá tài sản cao hơn,

trong khi các cú sốc kinh tế thực tế ngoại sinh đồng thời đi kèm với bất ổn tài chính. Gertler

and Kiyotaki (2010) chú ý đến vai trò của các trung gian tài chính hơn là giải quyết các xung

đột tài chính, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng trong các mô hình cân bằng động ngẫu

nhiên tổng quát (DSGE) như là động lực quan trọng của sự ổn định hệ thống tài chính nói

chung (trong đó có ổn định hệ thống ngân hàng.

Ở cấp độ kinh tế vĩ mô, GDP bình quân đầu người, tăng trưởng GDP, lạm phát và tỷ lệ

thất nghiệp cũng có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động của ngân hàng (Ozili, 2018). Tăng

GDP cho thấy sự cải thiện thu nhập chung về kinh tế, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng tăng

50

trưởng GDP là nâng cao lợi nhuận và tăng cường ổn định (Kosmidou, 2008). Honohan (2008)

cũng đã cho rằng cần xem xét tác động của tài chính toàn diện sau khi kiểm soát GDP bình

quân đầu người.

Phát triển kinh tế nói chung làm gia tăng tài chính toàn diện, mà quan trọng là phải kiểm

soát GDP bình quân đầu người (GDP bình quân đầu người) khi đánh giá mối liên hệ giữa tài

chính toàn diện và sự ổn định của ngân hàng (Ahamed and Mallick, 2019). Trong các nghiên

cứu trước đây như Bourkhis and Nabi (2013); Cihak (2007); Köhler (2015); Sufian and

Habibullah (2012) đã sử dụng các yếu tố kinh tế vĩ mô làm biến kiểm soát để giải thích thay

đổi của các biến giải thích.

Ngoài các nhân tố kể trên, mức độ phát triển hay sự quan tâm của các chính phủ về tài

chính toàn diện cũng được xem là một nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định của hệ thống ngân

hàng. Tuy nhiên, về chiều hướng và mức độ tác động của nhân tố này đến sự ổn định hệ thống

ngân hàng vẫn tồn tại các quan điểm khác biệt nhau. Nội dung này sẽ được trình bày chi tiết

ở mục 2.3 dưới đây, với việc làm sáng tỏ hai chiều hướng tác động của tài chính toàn diện.

2.3. TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐỐI VỚI SỰ ỔN ĐỊNH HỆ

THỐNG NGÂN HÀNG

Như đã phân tích từ trước, tài chính toàn diện đóng vai trò quan trọng đối với một số vấn

đề, trong đó có sự ổn định; đồng thời sự ổn định hệ thống ngân hàng cũng chịu nhiều ảnh

hưởng từ nhiều nhân tố. Tuy nhiên từ góc độ lý thuyết, vẫn chưa rõ liệu tài chính toàn diện

có tác động tốt đến sự ổn định của ngân hàng hay không, từ đó tạo ra những tranh cãi về vấn

đề này với hai quan điểm đối lập nhau (Ahamed and Mallick, 2019). Nội dung phần này trình

bày các quan điểm trái chiều liên quan đến vấn đề nói trên, hướng đến mục tiêu xác định và

phân tích các cách tác động của tài chính toàn diện đến ổn định hệ thống ngân hàng.

2.3.1. Tài chính toàn diện tác động tiêu cực đến ổn định hệ thống ngân hàng

Ở quan điểm này, có tác giả cho rằng các ngân hàng thu hút một lượng lớn những người

đi vay có mức tín dụng thấp (low creditworthy) do tài chính toàn diện, điều này có thể làm

mất ổn định hệ thống ngân hàng khi họ cần mở rộng các khoản tín dụng nhỏ cho nhiều người

vay hơn. Lý giải chi tiết hơn, Rajan (2011) phân tích rằng từ cuộc khủng hoảng dưới chuẩn

gần đây, “tín dụng dễ dàng” (easy credit) như một cơ chế để giảm bất bình đẳng thu nhập,

nhưng lại có thể tạo ra một “đường đứt gãy” (fault line) dọc theo hệ thống tài chính làm xói

51

mòn sự ổn định tài chính do những căng thẳng lớn. Đây được xem như là sự đánh đổi giữa

các mục tiêu duy trì sự ổn định của hệ thống và thúc đẩy tài chính toàn diện (Hannig and

Jansen, 2010).

Các tác giả cho rằng những khó khăn mà các ngân hàng phải vượt qua khi thực hiện và

quản lý các khoản vay cho các hộ gia đình cá nhân (individual households) và các doanh

nghiệp nhỏ và vừa chính là thiếu các thông tin yêu cầu, thiếu tài sản đảm bảo và lịch sử tín

dụng (chẳng hạn như Conning, 1999; Demirgüç-Kunt, Honohan and Beck, 2008; Hermes,

Lensink and Meesters, 2011; v.v.). Do vậy, việc mở rộng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính

của các nhóm khách hàng này có thể làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng như

sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Trong khía cạnh thâm nhập của tài chính toàn diện, có trường hợp các ngân hàng mở rộng

tiếp cận, đa dạng hóa theo địa lý mang lại mất ổn định hệ thống ngân hàng do sự bất cân xứng

về thông tin ràng buộc với các hộ nghèo hoặc doanh nghiệp nhỏ. Điều này có thể xảy ra do

thiếu chuyên môn về quản lý và kỹ thuật, các vấn đề về đại diện (agency problems) liên quan

đến sự phức tạp của cơ cấu tổ chức và cấu trúc sản phẩm (Acharya, Hasan and Saunders,

2006). Về vấn đề này, các cuộc điều tra được thực hiện ở Italia (Acharya, Hasan and Saunders,

2006) và ở Hoa Kỳ (Goetz, Laeven and Levine, 2013), lại không tìm thấy bất kỳ sự cải thiện

nào trong việc đánh đổi giữa lợi nhuận - rủi ro và định giá thị trường khi ngân hàng thâm nhập

sâu rộng về mặt địa lý.

Neaime and Gaysset (2018) nghi ngờ tác động tích cực của tài chính toàn diện bởi có quan

điểm cho rằng khả năng tiếp cận tài chính dễ dàng (tài chính toàn diện) ảnh hưởng xấu đến

tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo, do người nghèo khó tích lũy tiền tiết kiệm, khó

xây dựng tài sản để phòng ngừa rủi ro cũng như đầu tư vào các dự án mang lại thu nhập.

Bên cạnh những tác động tiêu cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng, tài chính toàn

diện được các nhà nghiên cứu cho là có tác động tích cực nhiều hơn. Để làm sáng tỏ điều này,

nội dung tiếp theo sau đây sẽ phân tích vấn đề này thông qua các kênh thể hiện tác động của

tài chính toàn diện.

2.3.2. Tài chính toàn diện tác động tích cực đến ổn định hệ thống ngân hàng

Ở góc độ này, tài chính toàn diện được nhiều nhà nghiên cứu ủng hộ trong vai trò tích cực

thúc đẩy ổn định hệ thống ngân hàng. Cụ thể, tác động này được thể hiện thông qua hai kênh

52

chính yếu, bao gồm: tiền gửi và cho vay. Ngoài hai kênh này, tác động của tài chính toàn diện

còn thể hiện một cách gián tiếp thông qua việc góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền

vững, tạo môi trường cho hệ thống ngân hàng có được sự ổn định.

Cơ sở lý thuyết có thể vận dụng để luận giải sự tác động tích cực này của tài chính toàn

diện chính là lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại của Harry Markowitz công bố chính thức

vào năm 1959 (Markowitz, 1976). Theo đó, lý thuyết này nhấn mạnh tính đa dạng hóa của

danh mục so với việc lựa chọn các chứng khoán riêng lẻ, bởi nếu chỉ tập trung vào đầu tư trên

một kênh nào đó, nhà đầu tư sẽ rơi vào tình trạng “bỏ hết trứng vào một rổ”, rủi ro có thể xảy

ra khi thị trường phát triển không theo đúng hướng mà nhà đầu tư đã dự đoán. Vận dụng lý

thuyết này vào việc lý giải tác động của tài chính toàn diện, có thể thấy, tài chính toàn diện

có thể giúp các ngân hàng tiếp cận với nhiều khách hàng nhỏ lẻ, có tiềm năng (bán lẻ), tức là

các ngân hàng có thể đa dạng hóa danh mục tiền gửi và cho vay theo các đối tượng khách

hàng này. Nội dung của lý thuyết này sẽ được vận dụng để phân tích cách tác động của tài

chính toàn diện thông qua hai kênh chính đã đề cập ở trên, với hàm ý rằng tài chính toàn diện

giúp các ngân hàng gia tăng tiền gửi bán lẻ ổn định và mở rộng cho vay an toàn.

2.3.2.1. Gia tăng tiền gửi bán lẻ ổn định

Thông qua tài chính toàn diện - thâm nhập mạng lưới chi nhánh ngân hàng theo địa lý

hoặc nhân khẩu học - các ngân hàng có thể phục vụ nhiều đối tượng khách hàng có khả năng

với chi phí giảm một khi đã có sẵn cơ sở hạ tầng cần thiết (Berger, Hasan and Zhou, 2010).

Bằng cách khai thác chuyên sâu về quản lý và kỹ thuật, ngân hàng có thể cải thiện hiệu quả

hoạt động và doanh thu vì họ có nguồn vốn rẻ hơn, các cơ hội mới, một bước đệm để tạo ra

sự ổn định (kết quả này được thể hiện trong các nghiên cứu của Berger and DeYoung, 2001;

Deng and Elyasiani, 2008; Demirgüç-Kunt and Huizinga, 2010).

Một số tác giả lập luận rằng tiền gửi bán lẻ phản ứng chậm, thậm chí không nhạy cảm với

rủi ro, từ đó cung cấp một nguồn tài trợ dài hạn, ổn định và rẻ hơn (Calomiris and Kahn, 1991;

Song and Thakor, 2007) so với nguồn vốn bán buôn, rất dễ bay hơi và thường tốn kém

(Demirgüç-Kunt and Huizinga, 2010; Huang and Ratnovski, 2011; Poghosyan and Čihak,

2011). Nói rõ hơn, các khoản tiền gửi bán lẻ phản ứng chậm bởi vì việc rút tiền ở các khoản

gửi này được quyết định bởi nhu cầu của người gửi tiền cá nhân, có thể dự đoán được dựa

trên quy luật số lượng lớn (Ahamed and Mallick, 2019). Đồng thời, các khoản tiền gửi bán lẻ

không nhạy cảm với rủi ro một phần là do chính phủ cung cấp bảo hiểm tiền gửi (Kim, Kliger

53

and Vale, 2003; Song and Thakor, 2007). Một ví dụ khác bổ sung thêm cho luận điểm này là

trường hợp của Northern Rock, việc người gửi tiền bán lẻ rút tiền ồ ạt khỏi ngân hàng diễn ra

sau khi ngân hàng này gần như cạn kiệt tài sản thanh khoản để trả cho các nhà tài chính bán

buôn ngắn hạn (Shin, 2009; Goldsmith-Pinkham and Yorulmazer, 2010). Điều này cho thấy

các nhà tài chính bán buôn ngắn hạn thoát vốn ra nhanh hơn những người gửi tiền lẻ.

Mặt khác, Huang and Ratnovski (2011) cho thấy rằng các nhà tài chính bán buôn dễ bị tác

động bởi những thông tin hoặc tin đồn tiêu cực nhẹ, và gần như không muốn rút hay chuyển

vốn ngắn hạn vì họ có quyền truy cập thông tin về chất lượng của các dự án ngân hàng, tuy

nhiên, nhà tài trợ bán buôn này có thể ngừng cấp vốn cho một dự án có giá trị âm, trừ khi họ

được đền bù bằng lãi suất cao hơn (Rajan, 1992). Các nghiên cứu thực nghiệm gần đây cũng

cho thấy rằng các ngân hàng có tiền gửi bán lẻ nhiều hơn bán buôn, có tính ổn định hơn trong

cuộc khủng hoảng tài chính (Demirgüç-Kunt and Huizinga, 2010; Poghosyan and Čihak,

2011). Cụ thể, Demirgüç-Kunt and Huizinga (2010), sử dụng mẫu các ngân hàng niêm yết ở

101 quốc gia trong giai đoạn 1995-2007, cũng nhận thấy rằng tỷ lệ tài trợ không phải là tiền

gửi (non-deposit) cao hơn, làm tăng tính mong manh của ngân hàng. Ratnovski and Huang

(2009) chỉ ra rằng nguồn tiền gửi bán lẻ dồi dào là yếu tố then chốt cho khả năng phục hồi

tương đối của các ngân hàng Canada trong thời kỳ hỗn loạn năm 2008.

Hơn nữa, trong cuộc khủng hoảng tín dụng gần đây khi nguồn vốn bán buôn cạn kiệt, cơ

sở tiền gửi bán lẻ đa dạng đã làm đệm các tổ chức tài chính thoát khỏi sự mong manh (Hannig

and Jansen, 2010). Hơn nữa, khi các ngân hàng mở rộng cơ sở tiền gửi cho một nhóm lớn

khách hàng, họ có thể thu hút một số lượng lớn các khoản tiền gửi nhỏ lẻ thường rẻ hơn nguồn

vốn bán buôn. Nhận thức được điều này, một số chính phủ, đặc biệt là ở các nước đang phát

triển, đang đưa tài chính trở thành một phần thiết yếu trong các kế hoạch quốc gia. Ví dụ điển

hình, vào năm 2014, chính phủ Ấn Độ đã phát động ‘Pradhan Mantri Jan Dhan Yojana’ (Đề

án tiền cho nhân dân của Thủ tướng Chính phủ), với mục đích rõ ràng là xóa bỏ loại trừ tài

chính. Mặc dù chương trình này có tùy chọn mở tài khoản ngân hàng mới với số dư bằng

không, các ngân hàng có thể thu được khoản tiền gửi ₹ 1500 crore (240 triệu đô la Mỹ) trong

vòng hai tuần kể từ khi ra mắt chương trình, với khoảng 30,2 triệu tài khoản mới (Ahamed

and Mallick, 2019).

Do đó, việc đa dạng hóa hơn nữa trong chiến lược tài trợ gắn với tài chính toàn diện trong

huy động tiền gửi sẽ giảm thiểu rủi ro và chi phí tài trợ cho ngân hàng, tăng cường sự ổn định

54

của ngân hàng (Diamond and Dybvig, 1983; Shin, 2009). Gần đây, Han and Melecky (2014)

đã tìm thấy bằng chứng quốc tế trong giai đoạn 2006-2010 rằng, theo quy luật số lượng lớn,

việc rút tiền gửi có liên quan lẫn nhau (tháo chạy khỏi ngân hàng – bank runs) có thể được

giảm thiểu trong thời gian căng thẳng nếu tiền gửi ngân hàng đa dạng hơn, tức là nhiều cá

nhân và công ty nắm giữ tiền gửi hơn. Han and Melecky (2014) chỉ ra tài chính toàn diện

nhiều hơn với tiền gửi ngân hàng có thể tăng cường khả năng phục hồi cơ sở huy động vốn

của ngành ngân hàng trong thời điểm căng thẳng tài chính, từ đó giúp hệ thống ngân hàng ổn

định hơn.

Ahamed and Mallick (2019) cũng ủng hộ quan điểm này, rằng tài chính toàn diện càng

sâu rộng sẽ góp phần giúp các ngân hàng ổn định hơn thông qua việc cung cấp một cơ sở tiền

gửi ít rủi ro, chi phí rẻ và dễ phục hồi dù có khủng hoảng xảy ra. Tầm quan trọng của việc

đảm bảo duy trì hệ thống tài chính toàn diện không chỉ có ý nghĩa đối với mục tiêu phát triển

mà còn là vấn đề cần được các ngân hàng ưu tiên, bởi điều này sẽ tốt cho sự ổn định của ngân

hàng. Việc mở rộng khả năng tiếp cận của tất cả các tác nhân kinh tế đối với các dịch vụ tài

chính chính thức – tức là tài chính toán diện cao hơn – có thể có ảnh hưởng tích cực đến mức

độ ổn định của ngân hàng.

2.3.2.2. Mở rộng cho vay an toàn

Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng khoảng cách lớn giữa người cho vay và người đi

vay, làm giảm hiệu quả của các dịch vụ ngân hàng chính là do sự gia tăng về vấn đề thông tin

bất cân xứng (Hauswald and Marquez, 2006; Deng and Elyasiani, 2008). Song, các ngân hàng

cũng có thể giảm bớt sự bất cân xứng về thông tin bằng cách thu thập thông tin độc quyền về

người đi vay khi cung cấp quyền tiếp cận các dịch vụ tài chính cơ bản khác trước đó (Black,

1975; Fama, 1985; Rajan, 1992). Hauswald and Marquez (2006) phát triển một mô hình và

chỉ ra rằng người cho vay có thể nhận được tín hiệu chính xác về chất lượng của người đi vay

nếu giảm được khoảng cách với người đi vay. Tài chính toàn diện sâu rộng hơn cũng có khả

năng ảnh hưởng đến mức độ cơ hội cho vay chung của các ngân hàng; thông qua việc gia tăng

khả năng tiếp cận các khu vực không có ngân hàng (unbanked) hoặc thiếu ngân hàng

(underbanked) bằng cách mở rộng các khoản tín dụng nhỏ, các ngân hàng có thể giảm khoảng

cách và xây dựng mối quan hệ bền chặt với khách hàng (Ahamed and Mallick, 2019).

Để đối phó với những khách hàng kém uy tín và những người thường thiếu tài sản thế

chấp, các ngân hàng cần áp dụng các kỹ thuật cho vay dựa trên thông tin mềm (tức là cho vay

55

theo quan hệ). Khai thác kỹ thuật cho vay này, họ cũng có thể giảm thiểu rủi ro đạo đức và

các vấn đề lựa chọn bất lợi, đồng thời có được lợi thế so sánh so với các tổ chức tài chính

khác đang tìm kiếm thông tin khách hàng (Sharpe, 1990; Petersen and Rajan, 1994; Buch,

Koch and Koetter, 2012). Chi tiết hơn, trong nghiên cứu Beck et al. (2018) đã cho thấy rằng

cho vay theo mối quan hệ làm giảm bớt các hạn chế tín dụng của các doanh nghiệp vừa và

nhỏ gặp phải trong thời kỳ suy thoái theo chu kỳ và tác động này là mạnh nhất đối với các

doanh nghiệp siêu nhỏ (loại hình này thường không minh bạch về thông tin tài chính), và ở

những vùng mà suy thoái kinh tế trầm trọng hơn.

Một hướng nghiên cứu khác đã cho thấy rằng đa dạng hóa địa lý nâng cao giá trị ngân

hàng và giảm rủi ro (Akhigbe and Whyte, 2003; Deng and Elyasiani, 2008). Chi tiết hơn,

Deng and Elyasiani (2008) cũng nhận thấy đa dạng hóa ở các khu vực xa xôi hơn (trong

trường hợp các khu vực mà dịch vụ tài chính hầu như không có sẵn) có liên quan đến việc

nâng cao giá trị hơn và giảm thiểu rủi ro hơn. Do đó, khi các ngân hàng đa dạng hóa đến các

khu vực có nhiều dân số không có ngân hàng hơn, họ có thể hiểu rõ hơn các sắc thái của môi

trường hộ gia đình/doanh nghiệp địa phương, điều này sẽ làm giảm xác suất vỡ nợ, chi phí

giám sát và tăng cường sự gần gũi giữa người cho vay và người đi vay, và mối quan hệ, từ đó

tăng cường giảm thiểu rủi ro.

Trong một nghiên cứu gần đây, Adasme, Majnoni and Uribe (2006) xem xét danh mục

đầu tư của các ngân hàng Chile và cho thấy tổn thất đối với các khoản cho vay lớn thường

nhiều hơn và khó lường hơn so với tổn thất đối với các khoản vay nhỏ. Các nghiên cứu thực

nghiệm sau này ở một số quốc gia cũng cho thấy điều tương tự. Ở Sri Lanka, nhóm tác giả

De Mel, McKenzie and Woodruff (2008) và ở Mexico, nhóm tác giả McKenzie and Woodruff

(2008), đã điều tra thấy các doanh nhân vi mô thực sự có khả năng trả lãi suất cao mà tài chính

vi mô đòi hỏi. Điều đó cho thấy rằng bằng cách cung cấp khả năng tiếp cận tín dụng cho một

số lượng lớn những người vay nhỏ, các ngân hàng có thể giảm chi phí giám sát, sàng lọc và

giảm sự biến động của thu nhập, bởi giải ngân các khoản vay nhỏ luôn là một nhiệm vụ thường

xuyên và tiêu chuẩn (Ahamed and Mallick, 2019).

Hơn nữa, theo lý thuyết danh mục đầu tư, các ngân hàng đa dạng hóa có thể làm giảm sự

biến động trong thu nhập và giảm sự chấp nhận rủi ro bất lợi thông qua trợ cấp chéo, cross-

subsidisation (Boot and Schmeits, 2000). Rossi, Schwaiger and Winkler (2009) với dữ liệu

ngân hàng Áo nhận thấy rằng việc đa dạng hóa danh mục cho vay ngày càng tăng đòi hỏi các

56

ngân hàng phải duy trì mức trích lập dự phòng trong tương lai thấp hơn, do đó dẫn đến giảm

rủi ro thực tế. Xem xét các ngân hàng Hồi giáo, giai đoạn 2002-2010, Shaban et al. (2014)

nhận thấy rằng khả năng sinh lời là một trong những lý do chính để các ngân hàng Indonesia

cho các doanh nghiệp nhỏ vay. Họ cũng nhận thấy rằng việc đa dạng hóa hơn các khoản vay

đối với các doanh nghiệp nhỏ có liên quan đến việc dự phòng rủi ro thấp hơn cho các ngân

hàng Indonesia. Do đó, bằng cách mở rộng khả năng tiếp cận của một nhóm lớn khách hàng

bán lẻ với các khoản tín dụng nhỏ, các ngân hàng có thể giảm chi phí giám sát tiềm ẩn và tổn

thất so với các khoản cho vay lớn, do đó cải thiện sự ổn định của ngân hàng.

Mặt khác, vì tài chính toàn diện nhiều hơn làm tăng cung cấp tín dụng ngân hàng – một

nguồn tài chính bên ngoài quan trọng và rẻ, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (Petersen and

Rajan, 1997; Berger and Udell, 1998), từ đó cũng hỗ trợ sự tăng trưởng của các công ty nhỏ

và các công ty cần nguồn tài trợ bên ngoài. Lý thuyết cũng gợi lên rằng sự phát triển tài chính

(tức là tài chính toàn diện) sẽ điều hòa lại sự không cân xứng đối với các ngành có số lượng

lớn các doanh nghiệp nhỏ, và cả những ngành phụ thuộc nhiều vào nguồn tài trợ bên ngoài

(Rajan and Zingales, 1998). Vì các hệ thống tài chính toàn diện tốt hơn sẽ cải thiện các mâu

thuẫn thị trường - tức là sự thiếu thông tin và chi phí giao dịch - các công ty nhỏ và các công

ty phụ thuộc nhiều vào nguồn tài chính bên ngoài trong nền kinh tế sẽ phát triển nhanh hơn

do khả năng tiếp cận tín dụng tương đối dễ dàng hơn.

Với nguồn cung cấp tín dụng ngày càng tăng, người đi vay sẽ có được các hợp đồng cho

vay thuận lợi, điều này rất cần thiết để người vay thoát khỏi vấn đề tài sản thay thế, asset

substitution – tức là người vay sử dụng tiền để đầu tư vào các dự án rủi ro hơn. Và từ đó sẽ

tăng cường sự ổn định của ngân hàng khi xác suất vỡ nợ của người đi vay giảm (Ahamed and

Mallick, 2019).

2.3.2.3. Sự phát triển bền vững

Ngoài hai kênh quan trọng nói trên, một trong các vai trò của tài chính toàn diện (đã được

trình bày ở mục 2.1.2) chính là thúc đẩy sự phát triển bền vững cả về kinh tế và xã hội. Thông

qua đó, tài chính toàn diện có thể tác động một cách gián tiếp đến sự ổn định của hệ thống

ngân hàng. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy rằng tài chính toàn diện nhiều hơn làm giảm

bất bình đẳng thu nhập và nghèo đói (Burgess and Pande, 2005; Beck, Demirgüç-Kunt and

Levine, 2007; Bruhn and Love, 2014); tăng việc làm (Prasad, 2010); cải thiện sức khỏe tinh

thần (Karlan and Zinman, 2009; Angelucci, Karlan and Zinman, 2013); ủng hộ giáo dục (Flug,

57

Spilimbergo and Wachtenheim, 1998); giúp ra quyết định tốt hơn (Mani et al., 2013); và tăng

cường thành lập công ty mới (Karlan et al., 2013).

Bauchet et al. (2011) đã tìm ra chứng cứ từ các đánh giá ngẫu nhiên về tài chính vi mô,

phát hiện ra các dịch vụ tài chính có tác động tích cực đến nhiều chỉ số kinh tế vi mô, bao

gồm tư nhân, hoạt động kinh doanh, tiêu dùng của hộ gia đình và hạnh phúc. Một ví dụ khác,

Burgess and Pande (2005) nhận thấy rằng việc mở rộng các chi nhánh ngân hàng ở khu vực

nông thôn có tác động tích cực đáng kể đến việc giảm nghèo thông qua sử dụng dữ liệu cấp

nhà nước ở Ấn Độ. Hay như Jayaratne and Strahan (1996) nhận thấy rằng chính sách nới lỏng

việc mở chi nhánh trong và giữa các tiểu bang có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.

Tương tự như thế, Bruhn and Love (2014) cung cấp bằng chứng từ Mexico sử dụng đánh giá

ngẫu nhiên cho thấy rằng tạo điều kiện tài chính toàn diện tốt hơn cho những người nghèo

nhất trong số nghèo có tác động tích cực đến xóa đói giảm nghèo.

Bên cạnh đó, việc tiếp cận các dịch vụ tài chính có tác động tích cực đến sự phát triển kinh

tế thông qua kênh bảo đảm việc làm và thúc đẩy sự hình thành và phát triển hoạt động kinh

doanh phi chính thức. Do bản chất của hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và

nhỏ là duy trì lao động, Prasad (2010) nhận thấy rằng hạn chế tài chính (tài chính loại trừ) đối

với các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng việc làm. Trong một

nghiên cứu ở Mexico, Angelucci, Karlan and Zinman (2013) nhận thấy rằng khả năng tiếp

cận tín dụng có tác động tích cực đến sức khỏe tinh thần.

Như vậy, những tác động tích cực của tài chính toàn diện không chỉ thể hiện thông qua

tiền gửi và cho vay của ngân hàng, mà còn thông qua vấn đề kinh tế xã hội, đây là điều không

thể thiếu đối với tăng trưởng kinh tế toàn diện và ổn định, do đó có thể dẫn đến hiệu quả cao

hơn trong các trung gian tài chính và sự lành mạnh của các ngân hàng (Cull, Demirguc-

kuntand Layman, 2012; Hannig and Jansen, 2010; Khan, 2011; Ahamed and Mallick, 2019).

Từ những phân tích này, tác giả ủng hộ quan điểm rằng tài chính toàn diện cao hơn sẽ giúp

các ngân hàng ổn định nhiều hơn là có hại. Và đây cũng chính là cơ sở cho giả thuyết mà tác

giả trình bày ở chương 3.

2.4. LƯỢC KHẢO CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN VÀ KHOẢNG TRỐNG

NGHIÊN CỨU

Xét một cách riêng lẻ, hiện có rất nhiều nghiên cứu về tài chính toàn diện cũng như sự ổn

định của hệ thống ngân hàng ở ASEAN và quốc tế. Tuy nhiên, ở ASEAN hiện chưa có nghiên

58

cứu về sự tác động của tài chính toàn diện với sự ổn định hệ thống ngân hàng. Một số nghiên

cứu quốc tế tương tự cũng chỉ ra một số kết quả ở các nước, được tác giả trình bày dưới đây.

2.4.1. Lược khảo các nghiên cứu về tài chính toàn diện

Về các nghiên cứu về tài chính toàn diện, đã được nhiều tác giả chú ý đến với nhiều cách

khai thác đề tài khác nhau. Chẳng hạn như Sarma (2008, 2012) đã xây dựng chỉ số tài chính

toàn diện (IFI) là một chỉ số đa chiều dựa trên dữ liệu kinh tế vĩ mô về tiếp cận ngành ngân

hàng. Chỉ số IFI có thể được sử dụng để so sánh mức độ của tài chính toàn diện giữa các nền

kinh tế khác nhau và theo dõi tiến độ của các nền kinh tế liên quan đến tài chính toàn diện

theo thời gian. Ưu diểm nổi bật của chỉ số này là chỉ số có thể được sử dụng để đo lường mức

độ tài chính toàn diện tại các thời điểm khác nhau và ở các cấp độ khác nhau của nền kinh tế

(tỉnh, bang, quốc gia, v.v.). Nhưng tác giả mới chỉ dừng lại ở chỉ số dùng để đánh giá mức độ

của tài chính toàn diện nói chung.

Sarma and Pais (2011) đã kiểm tra mối quan hệ giữa bao gồm tài chính và phát triển bằng

cách xác định các yếu tố cụ thể của quốc gia và ngân hàng có liên quan đến mức độ tài chính

toàn diện; với các yếu tố như mức độ phát triển con người, cơ sở hạ tầng và kinh tế xã hội,

thu nhập, bất bình đẳng, tỷ lệ biết đọc biết viết, đô thị hóa và cơ sở hạ tầng vật chất cho kết

nối, thông tin, cũng như sự lành mạnh của khu vực ngân hàng. Son, Liemand Ly (2019) với

mục tiêu là phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến tài chính toàn diện ở Việt Nam bằng cách sử

dụng bộ dữ liệu Global Findex của World Bank. Kết quả phân tích cho thấy thu nhập ảnh

hưởng đến việc sử dụng tài khoản chính thức và tiết kiệm chính thức; Giáo dục có tương quan

thuận với tài khoản chính thức và tiết kiệm chính thức, nhưng có tương quan nghịch với việc

sử dụng tín dụng chính thức; Tuổi tác ảnh hưởng đến tiết kiệm chính thức và sử dụng tín dụng

chính thức và mối quan hệ này là phi tuyến tính; v.v. Hạn chế của nghiên cứu này chính là

chỉ nghiên cứu một quốc gia đơn lẻ, cụ thể là ở Việt Nam, cần mở rộng cỡ mẫu theo không

gian để tăng quan sát và tính thuyết phục.

Về vai trò của tài chính toàn diện cũng được quan tâm và phân tích ở nhiều nghiên cứu

khác nhau. Nhóm tác giả Allen, Demirguc-Kunt, Klapperand Martinez Peria (2016) đã xem

tài chính toàn diện là việc sử dụng các tài khoản chính thức và từ đó, có thể mang lại nhiều

lợi ích cho cá nhân. Nhóm tác giả phỏng vấn 124,000 người trưởng thành ngẫu nhiên, từ 123

quốc gia, thông qua các phân tích (kết hợp với các nhân tố cố định quốc gia), và đã chỉ ra rằng

sự tài chính toàn diện nhiều hơn có liên quan đến chi phí tài khoản thấp hơn, sự gần gũi hơn

59

với các trung gian tài chính, quyền pháp lý mạnh mẽ hơn và môi trường ổn định hơn về mặt

chính trị.

Suidarma (2019) đã nghiên cứu về tài chính toàn diện và sự tăng trưởng kinh tế ở các quốc

gia ASEAN, với nội dung chú ý đến mối quan hệ dài hạn của tài chính toàn diện (thông qua

công cụ là số lượng máy giao dịch tự động (ATM) và chi nhánh ngân hàng) đối với tăng

trưởng kinh tế ASEAN thông qua tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Phương

pháp tác giả sử dụng Panel Vector Error Correction Model (VECM) để xem mối quan hệ này

khi các cú sốc xảy ra trong bao gồm tài chính biến đổi. Kết quả ước tính cho thấy việc tài

chính toàn diện có thể đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế ở ASEAN.

Chauvet and Jacolin (2017) đã sử dụng dữ liệu ở cấp độ công ty với một mẫu gồm 55.596

công ty ở 79 quốc gia, tài chính toàn diện, phân bổ của các dịch vụ tài chính giữa các công ty,

có tác động tích cực đến tăng trưởng của công ty. Tác động tích cực này được tăng lên khi thị

trường ngân hàng ít tập trung hơn, tức là có tính cạnh tranh cao hơn.

Mbutor and Uba (2013) trình bày một mô hình đơn giản (OLS) cho thấy tác động của tài

chính toàn diện đối với chính sách tiền tệ ở Nigeria từ năm 1980 đến năm 2012. Kết quả của

nghiên cứu ủng hộ quan điểm rằng việc tài chính toàn diện ngày càng tăng sẽ cải thiện hiệu

quả của chính sách tiền tệ.

2.4.2. Lược khảo các nghiên cứu về sự ổn định hệ thống ngân hàng

Các nghiên cứu về ổn định hệ thống ngân hàng, đã được nhiều tác giả chú ý đến với nhiều

cách khai thác khác nhau. Trong phần lược khảo này, tác giả chủ yếu tập trung vào những

nhân tố ảnh hưởng đến ổn định của ngân hàng nói riêng và của hệ thống ngân hàng nói chung.

Các nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định này nhận được quan tâm và phân tích ở nhiều

nghiên cứu khác nhau. Goetz (2018) bằng cách sử dụng dữ liệu hàng năm từ 1976 – 2006,

với 374 ngân hàng ở khu vực MSA2 (Mỹ) đã cho rằng sự gia tăng khả năng cạnh tranh của

thị trường cải thiện đáng kể sự ổn định của ngân hàng. Chi tiết hơn, sự cạnh tranh lớn hơn

làm giảm xác suất thất bại của các ngân hàng, tỷ lệ các khoản nợ xấu và tăng khả năng sinh

lời. Những phát hiện này cho thấy rằng cạnh tranh làm tăng tính ổn định, vì nó cải thiện lợi

2 MSA là một khu vực địa lý có mật độ dân số tương đối cao và quan hệ kinh tế chặt chẽ trong toàn khu vực,

được sử dụng bởi cục điều tra dân số và các cơ quan chính phủ liên bang khác cho các mục đích thống kê.

nhuận ngân hàng và chất lượng tài sản.

60

Nier (2005) đã tìm thấy tính minh bạch làm giảm nguy cơ xảy ra các vấn đề ngân hàng

nghiêm trọng và do đó tăng cường sự ổn định tài chính tổng thể. Kết quả hồi quy probit từ bộ

dữ liệu hàng năm về 550 ngân hàng được liệt kê từ 32 quốc gia trong những năm 1994–2000,

cho hệ số hồi âm, cho thấy mối quan hệ nghịch chiều giữa tính ít minh bạch và nguy cơ gặp

phải vấn đề hơn, một phát hiện có ý nghĩa thống kê ở mức 5%.

Shim (2019) kiểm tra xem lựa chọn đa dạng hóa khoản vay ngân hàng và tập trung thị

trường có liên quan đến sự ổn định tài chính của ngân hàng hay không. Tác giả nhận thấy

rằng việc đa dạng hóa khoản vay tăng lên có tác động tích cực đến sức mạnh tài chính của

ngân hàng và tập trung thị trường có liên quan tiêu cực với rủi ro mất khả năng thanh toán

của ngân hàng, phù hợp với quan điểm “tập trung-ổn định”.

Hsieh, Chen, Lee and Yang (2013) xem xét tác động của đa dạng hóa ngân hàng đối với

sự ổn định, sử dụng dữ liệu cấp ngân hàng cho 22 quốc gia châu Á trong giai đoạn từ 1995

đến 2009. Kết quả trước tiên cho thấy rằng ở châu Á, sự đa dạng tài sản không đủ để cải thiện

sự ổn định của ngân hàng, nhưng, sự ổn định của ngân hàng có thể được tăng cường thông

qua chiến lược đa dạng thu nhập. Thứ hai, mức độ toàn cầu hóa cao hơn làm giảm sự ổn định

của ngân hàng thông qua đa dạng thu nhập, nhưng sự ổn định lại tăng lên thông qua đa dạng

tài sản. Thứ ba, một quốc gia có trình độ quản trị công ty cao hơn sẽ giảm bớt vấn đề về cơ

quan, do đó tăng cường hơn nữa sự ổn định thông qua sự đa dạng. Cuối cùng, một quốc gia

có trình độ phát triển kinh tế cao hơn sẽ hỗ trợ đa dạng tài sản để các ngân hàng có thể thu

được lợi nhuận cao hơn đi kèm với rủi ro thấp hơn.

Adusei (2015) với dữ liệu từ ngành ngân hàng nông thôn ở Ghana, tác giả tìm thấy kết

quả về mối quan hệ tích cực giữa quy mô và sự ổn định của ngân hàng. Điều này có tác động

quan trọng đối với cuộc tranh luận hiện tại về việc có nên hạn chế quy mô ngân hàng để cách

ly hệ thống tài chính khỏi khủng hoảng trong tương lai hay không.

Abuzayed, Al-Fayoumi and Molyneux (2018) xem xét các chiến lược đa dạng hóa ngân

hàng và mối liên hệ với sự ổn định của khu vực tài chính. Sử dụng một số mẫu ngân hàng

niêm yết và chưa niêm yết hoạt động tại các quốc gia thuộc Hội đồng Hợp tác Vùng Vịnh

(GCC) từ năm 2001-2014, tác giả phát hiện ra thu nhập hoặc đa dạng hóa tài sản không tăng

cường sự ổn định của ngân hàng. Tuy nhiên, có bằng chứng về mối quan hệ phi tuyến tính

giữa thu nhập phi lãi suất (phi tài trợ) và sự ổn định cho thấy rằng các ngân hàng có khả năng

61

giảm thiểu rủi ro ở mức độ đa dạng hóa cao hơn. Các ngân hàng thông thường dường như bị

tác động xấu hơn về mặt rủi ro so với các ngân hàng Hồi giáo.

Köhler (2015) nghiên cứu cho thấy rằng các ngân hàng sẽ ổn định nếu họ tăng tỷ trọng

thu nhập ngoài lãi, cho thấy rằng lợi ích đáng kể sẽ đạt được từ việc đa dạng hóa thu nhập.

Đối với các ngân hàng tiết kiệm và hợp tác xã ổn định hơn trong khi, các ngân hàng đầu tư

trở nên rủi ro hơn đáng kể. Các ngân hàng định hướng bán lẻ sẽ kém ổn định hơn đáng kể nếu

họ tăng tỷ trọng tài trợ không phải tiền gửi.

Acemoglu, Ozdaglar and Tahbaz-Salehi (2015) về mức độ lây lan tài chính và nhìn thấy

ở một mức độ nào đó của các cú sốc tiêu cực ảnh hưởng đến các tổ chức tài chính đủ nhỏ,

một mạng lưới tài chính được kết nối dày đặc hơn (tương ứng với mô hình nợ liên ngân hàng

đa dạng hơn) sẽ tăng cường tài chính sự ổn định. Tuy nhiên, ngoài một số điểm nhất định, các

mối liên kết dày đặc đóng vai trò như một cơ chế lan truyền các cú sốc, dẫn đến một hệ thống

tài chính mong manh hơn.

Ozili (2018) điều tra các yếu tố quyết định sự ổn định của ngân hàng ở Châu Phi, và tìm

thấy hiệu quả ngân hàng, sự hiện diện của ngân hàng nước ngoài, mức độ tập trung ngân hàng,

quy mô khu vực ngân hàng, hiệu quả của chính phủ, ổn định chính trị, chất lượng quy định,

bảo vệ nhà đầu tư, kiểm soát tham nhũng và mức độ thất nghiệp là những yếu tố quyết định

đáng kể đến sự ổn định hệ thống ngân hàng ở châu Phi. Ý nghĩa của từng yếu tố quyết định

phụ thuộc vào (i) ủy quyền ổn định hệ thống ngân hàng được sử dụng (ii) và phụ thuộc vào

giai đoạn phân tích: trước khủng hoảng, trong khủng hoảng hay sau khủng hoảng.

Fang, Hasan and Marton (2014) cho thấy rằng sự ổn định tài chính của các ngân hàng tăng

lên đáng kể sau khi các quốc gia này cải cách thể chế pháp lý, tự do hóa ngân hàng và cơ cấu

lại quản trị doanh nghiệp. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng tác động của cải cách luật pháp và

quản trị đối với rủi ro ngân hàng có thể phụ thuộc rất nhiều vào tiến độ cải cách ngân hàng.

2.4.3. Lược khảo các nghiên cứu về tác động của tài chính toàn diện và ổn định

hệ thống ngân hàng

Về mối quan hệ giữa tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng, hiện nay có ít

nghiên cứu đề cập đến một cách trực tiếp, đa số xem xét tài chính toàn diện với ổn định tài

chính. Nghiên cứu có nội dung khá gần với nội dung của luận án là nghiên cứu của Ahamed

and Mallick (2019). Tác giả đã sử dụng mẫu quốc tế của 2,600 ngân hàng ở 86 quốc gia trong

62

giai đoạn 2004-2012, và mô hình OLS đơn giản, Generalized Method of Moments (GMM).

Kết quả cho thấy rằng mức độ tài chính toàn diện cao hơn góp phần ổn định hệ thống ngân

hàng lớn hơn. Những kết quả cũng kết luận rằng tài chính toàn diện giúp các ngân hàng có

được nhiều khoản tiền gửi không có rủi ro và rẻ, từ đó giảm chi phí, nâng cao sức mạnh và

làm cho ngân hàng ổn định hơn. Hơn nữa, tài chính toàn diện cao sẽ thúc đẩy môi trường

chính trị - xã hội ổn định, nhờ đó các ngân hàng có thể cải thiện sự ổn định khi họ hoạt động

hiệu quả trong những môi trường như vậy. Chính vì vậy, nhóm tác giả nhấn mạnh rằng tầm

quan trọng của việc đảm bảo hệ thống tài chính toàn diện không chỉ là mục tiêu phát triển mà

còn là vấn đề cần được các ngân hàng ưu tiên, vì một chính sách như vậy là tốt cho sự ổn định

của họ.

Tuy nhiên, nghiên cứu này có những hạn chế như sau: kết quả thực nghiệm mới chỉ phản

ánh thông qua Zscore và biến động của lợi nhuận chưa thể hiện tác động của tài chính toàn

diện đến sự biến động của tiền gửi, hay rủi ro tín dụng ngân hàng; các hàm ý chính sách còn

mang tính chung chung, và dựa trên kết quả hồi quy với biến Zscore và ROA; bỏ sót việc

quan sát tài chính toàn diện dưới góc nhìn về mức độ sử dụng (tỷ lệ tiền gửi và tín dụng tư

nhân so với GDP); nghiên cứu trên mẫu lớn nhưng chưa chú ý đến các quốc gia có hệ thống

tài chính dựa vào ngân hàng.

Neaime and Gaysset (2018) thực hiện nghiên cứu bằng cách sử dụng phương pháp GMM

và Generalized Least Squares (GLS); và một mẫu lớn của tám nước MENA trong giai đoạn

2002-2015. Bài báo này đánh giá thực nghiệm tác động của tài chính toàn diện vào sự bất

bình đẳng trong thu nhập, nghèo đói và ổn định tài chính. Kết quả cho thấy rằng tài chính toàn

diện làm giảm bất bình đẳng thu nhập, góp phần tích cực vào sự ổn định tài chính. Cụ thể

hơn, nhóm tác giả có nhấn mạnh việc tiếp cận các dịch vụ tài chính nhiều hơn đang góp phần

tích cực vào khả năng phục hồi của cơ sở tiền gửi của hệ thống ngân hàng, điều này đặc biệt

quan trọng trong thời gian khủng hoảng tài chính. Nghiên cứu này sử dụng biến đại diện cho

sự ổn định tài chính là độ lệch chuẩn của tốc độ tăng tiền gửi, và hai biến đại diện cho tài

chính toàn diện là số ATM và số chi nhánh ngân hàng (trên 100,000 người trưởng thành).

Hạn chế của nghiên cứu là: (1) dùng độ lệch chuẩn của tốc độ tăng tiền gửi để đo lường sự ổn

định là chưa đủ, bởi nó mới chỉ phản ánh một khía cạnh tiền gửi, chưa phản ảnh được sự ổn

định chung của ngân hàng; (2) về biến đại diện của tài chính toàn diện tác giả sử dụng hai

biến rời rạc, điều này làm khó quan sát khi hai chỉ số này cho kết luận không thống nhất và

dễ dẫn đến việc khó đối sánh.

63

Hannig and Jansen (2010), đã trao đổi về vấn đề rằng tài chính toàn diện nhiều hơn sẽ tạo

nhiều cơ hội cho việc thúc đẩy sự ổn định tài chính. Bài viết cho rằng tài chính toàn diện có

thể sẽ gây ra các rủi ro ở mức độ cá thể từng tổ chức tài chính nhưng khó ảnh hưởng đến toàn

bộ hệ thống. Hơn nữa, các chi phí tiềm ẩn của tài chính toàn diện sẽ được thay thế hoặc cân

bằng để bảo đảm cho việc thúc đẩy ổn định tài chính qua hệ thống tài chính sâu rộng hơn,

nhờ nhu cầu về tiết kiệm chính thức ngày càng lớn giúp vượt qua các rào cản tín dụng tốn

kém để mở rộng kinh doanh. Bài nghiên cứu cũng nhấn mạnh vào việc phân tích rủi ro của

hoạt động mở rộng chính sách tài chính toàn diện đối với sự ổn định tài chính và khuyến nghị

rằng các nhà hoạch định chính sách tạo điều kiện bằng cách điều chỉnh khung pháp lý để đổi

mới tài chính trong phân khúc thị trường thu nhập thấp kết hợp với các mục tiêu chính sách

về sự ổn định tài chính hoặc bảo vệ khách hàng. Với khuyến nghị này, có tiềm năng để đạt

được những lợi ích cần thiết trong việc mở rộng truy cập tài chính mà không ảnh hưởng đến

sự ổn định tài chính. Do đó, với bối cảnh đương thời (vừa trải qua khủng hoàng kinh tế năm

2008), chỉ có một cơ hội duy nhất cho các nhà hoạch định chính sách là thúc đẩy các chính

sách tài chính toàn diện để thúc đẩy khả năng phục hồi kinh tế. Bài viết chủ yếu phân tích

thống kê mô tả giản đơn, kết hợp với phân tích các chính sách để đưa ra kết luận và gợi ý

chính sách.

Han and Melecky (2014) xem xét mối liên hệ giữa khả năng tiếp cận rộng hơn đối với tiền

gửi ngân hàng trước cuộc khủng hoảng năm 2008 và động lực tăng trưởng tiền gửi ngân hàng

trong cuộc khủng hoảng, đồng thời kiểm soát các biến số liên quan và nhận thấy rằng khả

năng tiếp cận tiền gửi ngân hàng nhiều hơn có thể làm cho cơ sở huy động vốn của các ngân

hàng linh hoạt hơn trong thời điểm căng thẳng tài chính. Do đó, các nỗ lực chính sách nhằm

tăng cường ổn định tài chính không chỉ tập trung vào các quy định bảo đảm vĩ mô mà còn

phải ghi nhận tác động tích cực của việc tiếp cận rộng rãi hơn với tiền gửi ngân hàng đối với

sự ổn định tài chính. Trong thời kỳ khủng hoảng, sự tăng cao của rủi ro bị khách hàng rút tiền

gửi ngân hàng – bởi người gửi tiền cảm thấy lo lắng, có xu hướng tháo chạy khỏi ngân hàng

và rút tiền gửi của họ – có thể được giảm thiểu nếu tiền gửi ngân hàng đa dạng hơn. Đề tài

này chỉ tập trung vào tiền gửi ngân hàng, và nghiên cứu trong thời kỳ khủng hoảng.

Alvi, Rafique and Shehzad (2020) đã nhìn thấy rằng gia tăng tài chính sẽ tăng cường sự

ổn định của ngân hàng trên các nền kinh tế của khu vực Nam Á; bằng cách sử dụng dữ liệu

từ 88 ngân hàng thương mại từ bốn nền kinh tế (Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan và Sri Lanka)

trong giai đoạn 2012–2018. Nghiên cứu này bao gồm một số hàm ý chính sách quan trọng

64

nhằm tạo ra các cơ hội thực sự để tài chính toàn diện cải thiện sự ổn định của ngân hàng. Tuy

nhiên trong mô hình, tác giả chỉ sử dụng Zscore là biến đại diện cho ổn định hệ thống ngân

hàng. Hay với một nghiên cứu nhỏ khác, Garcia (2016) đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa

tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng, tuy nhiên tác giả chỉ tổng hợp các lý thuyết

mà không có phân tích thực nghiệm.

2.4.4. Khoảng trống nghiên cứu

Từ việc khảo lược các nghiên cứu nói trên, tác giả nhận thấy rằng vẫn còn có những

khoảng trống trong nghiên cứu về tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của

ngân hàng như sau: (i) sự tác động của tài chính toàn diện đến ổn định hệ thống ngân hàng

chưa được phân tích rõ là thông qua những kênh nào; (ii) đa số các tác giả sử dụng biến Zscore

để đo lường rủi ro hay sự ổn định của ngân hàng, trong khi đó, vẫn có nhiều chỉ tiêu khác đo

lường sự ổn định của hệ thống ngân hàng; (iii) về biến đại diện cho tài chính toàn diện, các

nghiên cứu sử dụng các chỉ số riêng lẻ hoặc chỉ tổng hợp được hai khía cạnh thâm nhập và

sẵn có, tuy nhiên nếu xem xét tài chính toàn diện chỉ có hai khía cạnh này là chưa đủ, bởi hiện

tượng các ngân hàng mở rộng chi nhánh, khách hàng mở nhiều tài khoản, nhưng không thúc

đẩy tài chính toàn diện (Pearce, 2011; Neaime and Gaysset, 2018), cần bổ sung thêm khía

cạnh để quan sát đầy đủ hơn; (iv) các nghiên cứu có gợi ý chính sách khá sơ sài, đa số chỉ

dừng lại ở việc nên hay không nên thúc đẩy tài chính toàn diện để các ngân hàng có mức ổn

định cao hơn.

Từ những khoảng trống được trình bày rõ ở trên, luận án sẽ hoàn thiện theo các hướng

sau:

Thứ nhất, luận án xác định và giải thích rất rõ sự tác động của tài chính toàn diện đến sự

ổn định của hệ thống ngân hàng được thể hiện thông qua hai kênh chính, bao gồm tiền gửi và

cho vay. Ngoài ra, tài chính toàn diện còn thông qua thúc đẩy sự phát triển bền vững cả về

kinh tế và xã hội, có thể là tác động gián tiếp đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Thứ hai, ngoài việc sử dụng biến Zscore đại diện cho rủi ro tổng thể của một ngân hàng

(đo lường thông qua sự biến động của lợi nhuận), luận án còn dùng thêm độ lệch chuẩn của

tăng trưởng tiền gửi (sdGrDep) đo lường sự ổn định của tiền gửi và tỷ lệ nợ xấu (NPLTA) đại

diện sự ổn định của các khoản vay. Hai biến này không chỉ giúp bổ sung cho việc đo lường

sự ổn định của hệ thống ngân hàng trở nên đầy đủ hơn, mà thông qua đó còn cho thấy rõ sự

65

tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN

thông qua hai kênh chính đã được đề cập ở trên.

Thứ ba, luận án sử dụng chỉ số tổng hợp IFI đo lường mức độ tài chính toàn diện trên ba

khía cạnh của tài chính toàn diện, bao gồm khả năng thâm nhập, tính sẵn có và mức độ sử

dụng dịch vụ tài chính, giúp phản ánh đúng và đầy đủ hơn. Đồng thời, trong phân tích tác

động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng, ngoài biến tổng hợp IFI,

luận án tiến hành phân tích sự tác động này thông qua từng khía cạnh này để có sự đánh giá

đa chiều và hoàn chỉnh hơn.

Cuối cùng, luận án gợi ra các hàm ý chính sách một cách rõ ràng, nhất là các hàm ý liên

quan đến tài chính toàn diện trong việc thúc đẩy sự ổn định hệ thống ngân hàng ở các quốc

gia ASEAN. Các hàm ý chính sách được xây dựng dựa trên kết quả phân tích tác động của

từng khía cạnh tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng và được chi tiết hóa

theo từng các khía cạnh này.

66

TÓM TẮT CHƯƠNG 2

Chương 2 đã nêu các cơ sở lý thuyết về tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng,

theo đó trình bày rõ về khái niệm của tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng, xác

định rõ phương thức đo lường. Cụ thể:

- Với tài chính toàn diện, tác giả xác định khái niệm của thuật ngữ này trên ba khía cạnh:

thâm nhập, sẵn có và sử dụng, do vậy tác giả đo lường mức độ tài chính toàn diện cũng dựa

trên ba phương diện này. Chỉ số tài chính toàn diện có cả ba khía cạnh này giúp phản ánh tốt

hơn mức độ tài chính toàn diện ở các quốc gia.

- Với ổn định hệ thống ngân hàng, tác giả khái niệm thuật ngữ này là sự ổn định của từng

ngân hàng. Từ đó tác giả sử dụng ba chỉ số đo lường là Zscore, đại diện cho rủi ro của tổng

thể của một ngân hàng, sự biến động của tăng trưởng tiền gửi (đại diện cho rủi ro tháo chạy

vốn khỏi ngân hàng của khách hàng gửi tiền) và tỷ lệ nợ xấu (đại diện cho rủi ro tín dụng).

Chương này cũng tìm ra kênh thể hiện tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của

hệ thống ngân hàng cụ thể gia tăng tiền gửi rẻ, ổn định; mở rộng cho vay an toàn và phát triển

kinh tế bền vững. Tác động tổng hợp của ba kênh này đều có thể phản ánh qua tác động lên

Zscore bởi chỉ tiêu này dựa trên sự biến động về lợi nhuận, đo lường rủi ro tổng thể của một

ngân hàng.

Đồng thời, tác giả có khảo lược các nghiên cứu trước để tìm ra khoảng trống nghiên cứu,

những điểm mới của nghiên cứu có thể kể đến như sau: sử dụng biến IFI có tính tổng hợp tốt

hơn; sử dụng thêm biến đại diện cho sự biến động của tăng trưởng tiền gửi (đo lường khả

năng hiện tượng tháo chạy khỏi ngân hàng có thể xảy ra) và tỷ lệ nợ xấu (đo lường rủi ro tín

dụng); xác định rất rõ kênh tác động; các hàm ý chính sách rõ ràng hơn.

67

3. CHƯƠNG 3: QUY TRÌNH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU

Để thực hiện đề tài này, các bước chính của quy trình nghiên cứu được tiến hành như sau:

Bước 1: Xác định vấn đề nghiên cứu. Tác giả xác định vấn đề nghiên cứu là tài chính toàn

diện và sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Bước 2: Tổng quan cơ sở lý thuyết và đề xuất mô hình nghiên cứu. Từ vấn đề nghiên cứu

ở bước 1, tác giả thực hiện tìm hiểu các cơ sở lý thuyết cùng với các nghiên cứu thực nghiệm

trên thế giới và ASEAN về vấn đề nghiên cứu. Đặc biệt tác giả tập trung vào các cách đo

lường tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng, để từ đó xác định các biến phụ thuộc

và biến giải thích trọng yếu của mô hình; đồng thời nhấn mạnh vai trò của tài chính toàn diện

nói chung và tập trung vào tác động của tài chính toàn diện đến ổn định hệ thống ngân hàng.

Thông qua cơ sở lý thuyết và đánh giá tổng quan về các nghiên cứu trước, tác giả đề xuất mô

hình nghiên cứu lý thuyết.

Bước 3: Thu thập và xử lý dữ liệu nghiên cứu. Các dữ liệu của các ngân hàng ở ASEAN

(sáu nước) được thu thập từ Worldscope (trích xuất từ Datastream), các dữ liệu về mức độ tài

chính toàn diện được lấy từ khảo sát tiếp cận tài chính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF FAS,

2020) và Ngân hàng thế giới (World Bank). Dựa trên các dữ liệu này, luận án tính toán các

số liệu cần thiết cho việc chạy mô hình nghiên cứu. Cách tính các biến được trình bày rõ ở

phần tiếp theo.

Bước 4: Chạy mô hình và kiểm định mô hình nghiên cứu. Luận án này thực hiện mô hình

hồi quy với ước lượng SGMM trên phần mềm Stata 16.0, và kiểm định các vấn đề liên quan

thông qua p-value của AR1, AR2, Hansen.

Bước 5: Trình bày và thảo luận kết quả nghiên cứu. Luận án trình bày kết quả nghiên cứu

về tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng, đồng thời thảo

luận và so sánh với kết quả của các nghiên cứu trước liên quan.

Bước 6: Kết luận và đưa ra hàm ý chính sách. Dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra

kết luận và hàm ý chính sách nhằm làm gia tăng tài chính toàn diện (ở mức độ tổng hợp và

mức độ từng khía cạnh) và ổn định hệ thống ngân hàng ở các nước ASEAN.

Quy trình nghiên cứu được tóm tắt ở hình 3.1 sau đây.

68

BƯỚC 1

Xác định vấn đề nghiên cứu

BƯỚC 2

Tổng quan cơ sở lý thuyết và đề xuất mô hình nghiên cứu lý thuyết

Chỉ số đo lường tài chính Tác động của tài chính

toàn diện và ổn định hệ

thống ngân hàng toàn diện đến ổn định hệ thống ngân hàng

BƯỚC 3

Thu thập và xử lý dữ liệu nghiên cứu

nghiên cứu lý thuyết

BƯỚC 4

Chạy mô hình và kiểm định mô hình

nghiên cứu

BƯỚC 5

nghiên cứu lý thuyết

Trình bày và thảo luận kết quả nghiên cứu

BƯỚC 6

Kết luận và hàm ý chính sách

Hình 3.1. Quy trình nghiên cứu

69

3.2. GIẢ THUYẾT

Như đã phân tích chi tiết ở phần 2.3, có hai chiều hướng tác động của tài chính toàn diện

đến ổn định hệ thống ngân hàng, bao gồm tích cực và tiêu cực. Do trong lĩnh vực tài chính

toàn diện, các ngân hàng sẽ có tỷ lệ chi nhánh hoặc ATM cao hơn trên khắp các khu vực và

sẽ có khách hàng thuộc mọi nhóm thu nhập, điều này có thể có hai tác động trái ngược nhau

đến sự ổn định của ngân hàng. Dù vậy, các tác giả nghiên cứu ở các nước trên thế giới về mối

quan hệ giữa tài chính toàn diện với sự ổn định tài chính nói chung hay sự ổn định của hệ

thống ngân hàng nói riêng, đều đưa ra cơ sở vững chắc cho sự kỳ vọng về sự tác động tích

cực của tài chính toàn diện và kết quả nghiên cứu của các tác giả này hoàn toàn trùng khớp

với kỳ vọng đã đặt ra.

Ở ASEAN, hiện chưa có nghiên cứu nào trực tiếp chỉ rõ phương thức hay chiều hướng mà

tài chính toàn diện tác động đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng, tuy nhiên một cách gián

tiếp có thể lập luận về chiều hướng của tác động này. Đa số các nghiên cứu ở ASEAN đều

cho thấy những ảnh hưởng tích cực của tài chính toàn diện, chẳng hạn như nghiên cứu của

Banerjee and Donato (2021), CARD MRI and UNCDF (2020) đã thừa nhận vai trò của tài

chính toàn diện đối với phát triển kinh tế, đây là nền tảng của việc tạo môi trường cho hệ

thống ngân hàng có được sự ổn định (Cull, Demirguc-kunt and Layman, 2012; Hannig and

Jansen, 2010; Khan, 2011; Ahamed and Mallick, 2019). Quan điểm này được ủng hộ trong

một nghiên cứu của ERIA, bằng chứng thực nghiệm từ các quốc gia ASEAN và Đông Á cho

thấy tài chính toàn diện có tác động tích cực mạnh mẽ đến tất cả các kết quả phát triển và tác

động này được cải thiện tốt hơn đối với các quốc gia có rủi ro chính trị thấp hơn (Banerjee,

Donato and Maruta, 2020). Cụ thể, nhóm tác giả đã chỉ rõ tài chính toàn diện không chỉ góp

phần nâng cao tăng trưởng kinh tế và giảm bất bình đẳng; mà phạm vi của nó cũng mở rộng

để cải thiện các kết quả phát triển khác, đặc biệt là giáo dục và y tế.

Hơn nữa, tài chính toàn diện còn giúp người dân giảm bất bình đẳng thu nhập, nghèo đói;

mang lại cơ hội tăng thu nhập cho người dân thông qua ba kênh: (1) người dân nhờ tiếp cận

tín dụng và thông tin về các khoản đầu tư thông qua hệ thống tài chính cho phép người nghèo

đầu tư vào các hoạt động tạo thu nhập; (2) tiết kiệm, bảo hiểm và tín dụng cho phép người

nghèo tiêu dùng suôn sẻ, bảo vệ tài sản và thu nhập của họ trước các cú sốc và đầu tư nhiều

lần vào nhà ở, giáo dục và y tế và (3) các dịch vụ thanh toán giúp người nghèo chuyển tiền,

kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và giảm chi phí giao dịch (CARD MRI and UNCDF, 2020).

70

Banerjee, Donato and Maruta (2020) cũng chỉ ra tài chính toàn diện sâu rộng hơn, đã giúp

mọi người dễ dàng tiếp cận kiến thức tài chính, chuyển tiền cho người khác và đăng ký tín

dụng và bảo hiểm. Tất cả những yếu tố này đều có ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển kinh

tế và tác động tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Bởi khi người dân vừa có kiến

thức về tài chính vừa có thu nhập được gia tăng, ổn định và an toàn, sẽ là cơ sở để ngân hàng

có được các khoản tiền gửi nhỏ nhưng ổn định và các khoản vay có khả năng chi trả, và từ đó

gia tăng tính ổn định của hệ thống ngân hàng. Tài chính toàn diện với mức độ gia tăng nhiều

hơn về tiền gửi ngân hàng có thể tăng cường khả năng phục hồi cơ sở huy động vốn của ngành

ngân hàng trong thời điểm căng thẳng tài chính (Han and Melecky, 2014). Hơn nữa, tài chính

toàn diện giúp có được một hệ thống báo cáo tín dụng tốt hơn (Banerjee, Donato and Maruta,

2020), giúp hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN an toàn và ổn định hơn.

Từ cơ sở lý luận được trình bày ở mục 2.3 cùng với các luận lập về tác động của tài chính

toàn diện nói trên ở các quốc gia ASEAN, tác giả nhận thấy những lợi ích mà tài chính toàn

diện có thể mang lại cho sự ổn định hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN, và do vậy

đưa ra giả thuyết duy nhất của luận án như sau:

Giả thuyết: Tài chính toàn diện có tác động tích cực đối với sự ổn định của hệ thống ngân

hàng tại các quốc gia ASEAN.

Ngoài tác động của tài chính toàn diện, tác giả còn quan sát các nhân tố khác, và có những

kỳ vọng nhất định và được đề cập ở mục 3.3.2.

3.3. MÔ HÌNH, CÁC BIẾN VÀ DỮ LIỆU

3.3.1. Mô hình nghiên cứu

Phân tích hồi quy cơ bản được tiến hành theo công thức do Ahamed and Mallick (2019)

gợi ý, có dạng như sau:

Bank Stabilityijt = β0 + β1 Financial Inclusionjt + β2 Bank Sizeijt+ β3 Loan Loss provisionijt

+ β4 Income Diversificationijt + β5 Bank Equityijt + β6 Management Qualityijt + β7 Bank

Competitionijt + β8 GDP Growthjt + ԑijt (3.1)

Trong đó:

i, j và t: cho biết ngân hàng, quốc gia và năm tương ứng;

Bank Stability: các biến đại diện cho sự ổn định của hệ thống ngân hàng;

71

Financial Inclusion: các biến đại diện cho mức độ tài chính toàn diện. Chỉ số tài chính

toàn diện IFI – được tính dựa trên ba khía cạnh riêng lẻ: thâm nhập ngân hàng (P), tính sẵn

có của các dịch vụ ngân hàng (A), sử dụng các dịch vụ ngân hàng (U).

Các biến kiểm soát: về đặc điểm ngân hàng bao gồm quy mô ngân hàng (Bank size), dự

phòng rủi ro cho vay (Loan Loss Provision), đa dạng hóa thu nhập (Income Diversification),

chất lượng quản lý (Management Quality), vốn hóa (Capitalisaion) và sức mạnh thị trường

(Market Power); biến kiểm soát về tốc độ tăng trưởng GDP (GDP Growth).

Nội dung chi tiết về các biến trình bày trong phương trình 3.1 được tác giả giải thích ở

mục tiếp theo sau đây.

3.3.2. Các biến

3.3.2.1. Các biến đại diện của sự ổn định của ngân hàng

Chỉ số đầu tiên, theo gợi ý các nghiên cứu trước được trình bày ở mục 2.2.3, được tác giả

lựa chọn làm biến đại diện cho sự ổn định của ngân hàng là Zscore, chỉ số này được sử dụng

rộng rãi – có thể thấy chỉ số này được sử dụng ở các nghiên cứu của Čihák and Hesse (2010);

Delis, Tran and Tsionas (2012); Goetz (2015); Houston, Lin, Lin and Ma (2010); Jiménez,

Lopez and Saurina (2013); v.v. Chỉ số được tính theo công thức 2.7 ở phần trên và được trình

bày như sau:

Zscoreit = ROAit+EQAit σ(ROA) it

Trong đó:

ROA: tỷ lệ lợi nhuận bình quân trên tổng tài sản

EQA: vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản.

𝜎(ROA)it: Độ lệch chuẩn của ROA (được tính bằng cách lấy độ lệch chuẩn trong ba

năm: năm nay và hai năm trước đó).

Chỉ số này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đo lường sự ổn định của ngân hàng,

và cho biết lợi nhuận mà ngân hàng tạo ra trên độ rủi ro khi vốn chủ sở hữu trở nên cạn kiệt.

Nếu ngân hàng ổn định thì nghịch đảo của Zscore chính là xác suất vỡ nợ của ngân hàng. Lợi

nhuận cao và giá trị vốn hóa cao sẽ mang lại sự ổn định cho ngân hàng và ngược lại. Hơn nữa

chỉ số này có độ lệch khá cao, do vậy tác giả theo gợi ý của Beck, De Jonghe and Schepens

72

(2013); Houston et al. (2010); Laeven and Levine (2009) sử dụng logarit tự nhiên của chỉ số

Zscore, ký hiệu: ln(Zscore).

Ngoài ra, trong nghiên cứu, tác giả tính toán chỉ số Zscore cho toàn bộ hệ thống ngân hàng

của các nước để có thể nhìn thấy xu hướng chung, và từ đó hỗ trợ cho việc phân tích kết quả

được đầy đủ hơn. Tác giả tính ROA, EQA, 𝜎(ROA) cho toàn bộ hệ thống ngân hàng, và từ

đó tính Zscore cho toàn hệ thống, phục vụ cho việc xem xét thực trạng của sự ổn định của hệ

thống ngân hàng nói chung.

Chỉ số thứ hai đại diện cho sự ổn định của ngân hàng về tiền gửi, đo lường thông qua sự

biến động của tăng trưởng tiền gửi, với biến đại diện là độ lệch chuẩn của tốc độ tăng trưởng

tiền gửi (theo gợi ý của Neaime and Gaysset, 2018). Độ lệch chuẩn được tính trong ba năm,

năm nay và hai năm trước đó, và được ký hiệu là sdGrDep. Khác với Zscore, biến này không

có độ lệch cao, tuy nhiên lại có phân phối đuôi lệch (xem phụ lục A2), chính vì vậy cần đưa

về ln(sdGrDep), để giúp gia tăng tính đối xứng của phân phối (Nguyễn Quang Dong và

Nguyễn Thị Minh, 2013) .

Chỉ số thứ ba đại diện cho sự ổn định của ngân hàng về các khoản cho vay, chính là tỷ lệ

nợ xấu so với tổng tài sản, ký hiệu NPLTA. Đây là thước đo truyền thống cho rủi ro của tín

dụng ngân hàng, được nhiều tác giả sử dụng như Fernández, González and Suárez (2016);

S.Kasman and A.Kasman (2015); Guy and Lowe (2011); Nier and Baumann (2006); Martinez

Peria and Schmukler (2001); v.v.

3.3.2.2. Các biến đại diện của tài chính toàn diện

Chương 2 (mục 2.1.3) đã trình bày rất chi tiết về cách xác định các chỉ số có thể sử dụng

làm đại diện cho mức độ tài chính toàn diện. Trên cơ sở đó, tác giả lựa chọn bộ các chỉ số tài

chính toàn diện theo gợi ý của Sarma (2012) như sau: (1) chỉ số tổng hợp IFI và (2) các chỉ

số riêng lẻ đại diện cho từng khía cạnh. Với bộ chỉ số này, luận án có thể phân tích các tác

động đến sự ổn định hệ thống ngân hàng một cách toàn diện và đầy đủ hơn.

Để xác định bộ các chỉ số nói trên, tác giả trước tiên cần tính toán các chỉ số đại diện cho

từng khía cạnh của tài chính toàn diện, bao gồm khía cạnh thâm nhập (ký hiệu IFIp), khía

cạnh sẵn có (ký hiệu IFIa) và khía cạnh mức độ sử dụng (ký hiệu IFIu). Theo gợi ý của Sarma

(2008, 2012), tác giả sử dụng công thức sau để đo lường, tính toán:

73

IFId = (3.2) Ad - md Md - md

Trong đó:

IFId : chỉ số đại diện cho từng khía cạnh, bao gồm IFIp, IFIa, IFIu

Ad : giá trị thực tế của chỉ số khía cạnh d

md : giá trị tối thiểu của chỉ số khía cạnh d

Md: giá trị tối đa của chỉ số khía cạnh d

Các giá trị tối đa được xác định như sau (xem chi tiết phụ lục 3):

✓ Khía cạnh thâm nhập ngân hàng (banking penetration – pi): Mp = 2500

✓ Khía cạnh sẵn có của các dịch vụ ngân hàng (availability of the banking services –

ai): Ma1 = 60 ; Ma2 =120

✓ Khía cạnh mức độ sử dụng (Usage – u): Mu = 300

Sau khi xác định được các giá trị tối đa ở trên, tác giả tiến hành tính toán các chỉ số đại

diện từng khía cạnh theo công thức 3.2 và sau đó tiếp tục tính chỉ số tổng hợp IFI theo công

thức 2.5.

Chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp IFI và các chỉ số đại diện các khía cạnh của tài chính

toàn diện IFIp, IFIa, IFIu đều nhận giá trị từ 0 đến 1. Theo giả thuyết đã đề cập ở mục 3.2, tác

giả kỳ vọng chỉ số IFI và các chỉ số IFIp, IFIa, IFIu sẽ có tác động làm gia tăng sự ổn định

của hệ thống ngân hàng, hay nói rõ hơn làm tăng ln(Zscore), giảm ln(sdGrDep) và giảm

NPLTA.

3.3.2.3. Biến đại diện cho sự cạnh tranh của ngân hàng

Tác giả sử dụng chỉ số Lerner (trong mô hình tác giả dùng ký hiệu là Lerner) được sử

dụng để đo lường mức độ cạnh tranh của ngân hàng. Nó được coi là thước đo chính xác nhất

về cạnh tranh của từng ngân hàng (Carbo-Valverde, Rodriguez-Fernandez and Udell, 2009).

Bản chất của sức mạnh định giá được phản ánh thông qua chỉ số Lerner vì nó đo lường khoảng

cách giữa giá cả và chi phí cận biên được biểu thị bằng phần trăm giá cả, hay nói cách khác,

chỉ số này cho thấy mức độ mà ngân hàng có thể tăng giá vượt quá chi phí cận biên của nó

(Ahamed and Mallick, 2019).

74

Theo Berger, Klapper and Turk-Ariss (2009) chỉ số Lerner là thước đo sức mạnh thị trường

duy nhất được tính ở cấp ngân hàng. Chỉ số Lerner được hiểu là nghịch đảo của cạnh tranh;

Chỉ số này càng cao thì sức mạnh định giá càng lớn, ngụ ý các điều kiện thị trường kém cạnh

tranh hơn. Chỉ số này được tính theo công thức 3.3. sau:

(3.3) Lernerit= Pit - MCit Pit

Trong đó:

Pit là giá của tổng tài sản tính theo tỷ lệ giữa tổng doanh thu (lãi và thu nhập ngoài

lãi) trên tổng tài sản của ngân hàng i tại thời điểm t.

MCit là chi phí biên của việc sản xuất thêm một đơn vị sản lượng.

Để xác định ra MCit tác giả thu thập các dữ liệu về tổng chi phí (tổng chi phí lãi và chi phí

phi lãi), chi phí lao động, chi phí hoạt động và quản lý, chi phí lãi của các ngân hàng (nguồn

WorldScope – lấy từ Datastream) và sử dụng hồi quy Fixed-Effects để hỗ trợ tính các hệ số

(xem kết quả phụ lục A4). Công thức tính chi phí biên chính là hàm logarit chuyển đổi chi

3

3

phí, có công thức:

j=1

k=1

3

3

+ ∑ ∅kln TAi Wk,it lnCit=β0+β1 ln TAit + β2(ln TAi)2 + ∑ γktln Wk,it 1 2

k=1

j=1

+ ∑ ∑ ln Wk,itln Wj,it + εit (3.4)

Trong đó:

Cit : Tổng chi phí của ngân hàng (chi phí lãi và chi phí phi lãi)

TAit : tổng tài sản của ngân hàng i tại thời điểm t

Wk,it : giá đầu vào của ba chi phí.

Cụ thể, W1,it; W2,it; W3,it: giá đầu vào của lao động, quỹ và vốn cố định. Theo De Guevara

et al. (2005), các giá này được tính bằng cách:

✓ Giá cả sức lao động (price of labor): Chi phí nhân sự/Tổng tài sản. Trường hợp

không có sẵn dữ liệu, có thể sử dụng tỷ lệ chi phí lao động trên tổng tài sản.

✓ Giá vốn (price of capital): Chi phí hoạt động (trừ chi phí nhân sự)/Tài sản cố định.

75

✓ Giá tiền gửi (price of funds): chi phí lãi trên tổng số tiền gửi.

Sau khi chạy hồi quy FEM theo phương trình trên, ước lượng được các hệ số hồi quy, tác

3

giả tính toán chi phí biên (MCit) theo công thức như sau:

k=1

MCit= Wk,it] (3.5) [β1+ β2ln TAi + ∑ ∅k 1 2

Sau khi có được chi phí biên MCit, thay kết quả này vào công thức tính Lerner (công thức

3.3), sẽ tính được chỉ số Lerner cần tìm. Giá trị của chỉ số này càng thấp, mức độ cạnh tranh

càng cao; và ngược lại nếu giá trị của chỉ số này càng cao, chứng tỏ mức độ tập trung cao vào

một số ngân hàng cao, đồng nghĩa với mức độ cạnh tranh thấp.

Ở biến này, tác giả kỳ vọng, các ngân hàng càng cạnh tranh sẽ giúp cho hệ thống ngân

hàng càng trở nên ổn định. Kỳ vọng này đồng thuận với kết quả nghiên cứu của Ovi, Perera

and Colombage (2014) thực hiện ở một số nước ASEAN, chỉ ra rằng sức mạnh thị trường cao

có liên quan tích cực với rủi ro tín dụng của ngân hàng và tiêu cực đến sự ổn định, hay nói

cách khác, các ngân hàng càng cạnh tranh càng làm giảm sự biến động của tăng trưởng tiền

gửi, giảm tỷ lệ nợ xấu và gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

3.3.2.4. Các biến kiểm soát khác

Từ các phân tích rất chi tiết ở nội dung về các nhân tố ảnh hưởng đến ổn định hệ thống

ngân hàng (mục 2.2.4), tác giả sử dụng một loạt các biến kiểm soát, cụ thể như sau:

✓ Các biến kiểm soát về đặc điểm ngân hàng:

(1) Logarit tự nhiên của tổng tài sản (ký hiệu lnTA) đại diện cho quy mô ngân hàng (Bank

Size) để tính đến ảnh hưởng của quy mô tiềm năng đối với sự ổn định của ngân hàng. Adusei

(2015); Khan, Scheuleand Wu (2017); Morgan and Pontines (2014); Boot and Thakor (2000)

cho thấy các ngân hàng lớn có sự ổn định tốt hơn. Boot and Thakor (2000) còn chỉ rõ có xu

hướng ghi nhận các khoản đầu tư tín dụng ít hơn nhưng chất lượng cao hơn ở các ngân hàng

lớn. Kaufman (1972) cho thấy sự thay đổi trong tiền gửi (nhất là tiền gửi không kỳ hạn) lớn

hơn ở các ngân hàng nhỏ hơn, hay nói cách khác, các ngân hàng lớn có sự ổn định hơn về

lượng tiền gửi. Chính vì vậy, quy mô tài sản có kỳ vọng ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định,

tức là tác động tích cực đến Zscore, làm giảm sdGrDep và NPLTA. Ngoài ra, theo sự gợi ý

từ các nghiên cứu trên, tác giả sử dụng logarit tự nhiên của tài sản và quan điểm này được sự

76

đồng thuận của Dong and Minh (2013) rằng việc lấy logarit tự nhiên phù hợp với các biến số

đều nhận giá trị dương lớn như giá trị tài sản.

(2) Tác giả sử dụng tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay trên tổng số khoản cho vay (ký hiệu

LossProv) được sử dụng để tính toán rủi ro danh mục cho vay của từng ngân hàng, theo gợi

ý của Ahamed and Mallick (2019); Raza, Ansariand Younis (2012). Với chỉ tiêu này, tác giả

kỳ vọng là có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng, và là biểu hiện của

việc gia tăng nợ xấu.

(3) Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi trên tổng thu nhập hoạt động (ký hiệu NonIncome) đại diện

cho sự đa dạng trong thu nhập (Income Diversification). Chỉ tiêu này được DeYoung and

Roland (2001) và DeYoung and Rice (2004) tìm thấy là có tác động làm gia tăng sự biến động

của lợi nhuận, hay nói cách khác là có ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định. Quan điểm này

cùng được ủng hộ bởi nhiều tác giả như Abuzayed, Al-Fayoumi and Molyneux (2018); Adusei

(2015); Ashraf, Ramady and Albinali (2016); Kaur et al. (2019). Mối quan hệ tiêu cực giữa

đa dạng hóa và ổn định hệ thống ngân hàng được Abuzayed, Al-Fayoumi and Molyneux

(2018) gọi là mặt tối của đa dạng hóa. Chính vì vậy, trong nghiên cứu này, tác giả kỳ vọng

biến đại diện nhân tố này tác động tiêu cực đến sự ổn định.

(4) Tác giả sử dụng tỷ lệ vốn chủ sở hữu (ký hiệu EQA) để kiểm soát rủi ro vốn (Bank

Equity) vì các ngân hàng có vốn hóa tốt được cho là ít rủi ro hơn (Berger, Klapper and Turk-

Ariss, 2009; Delis and Kouretas, 2011; Li and Malone, 2016), và từ đó cho thấy biến này có

tác động tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

(5) Tỷ lệ giữa tổng tài sản sinh lời trên tổng tài sản (ký hiệu EAtoTA) được sử dụng đại

diện cho việc chất lượng quản lý (Management Quality). Chất lượng quản lý tốt hơn có thể

giảm thiểu việc chấp nhận rủi ro quá mức (Ahamed and Mallick, 2019; Poghosyan and Čihak,

2011). Do vậy, trong luận án, biến này được kỳ vọng có ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định

của hệ thống ngân hàng.

✓ Tốc độ tăng tưởng GDP (ký hiệu GDPrate) được sử dụng để kiểm soát sự phát triển

kinh tế và chu kỳ kinh doanh của nền kinh tế, bởi trong thập kỷ qua, các nền kinh tế thế giới

quan sát thấy sự biến động đáng kể. Tác giả đồng thuận với quan điểm của Ahamed and

Mallick (2019), sự phát triển kinh tế hiện nay đi cùng với sự gia tăng của tài chính toàn diện,

vì vậy cần phải kiểm soát tăng trưởng kinh tế, khi thực hiện đánh giá mối liên hệ giữa tài

chính toàn diện và sự ổn định của ngân hàng.

77

Phương trình (3.1) viết lại theo các mã biến:

ln(Zscore)ijt= β0 + β1 IFIkjt + β2 ln(TA)ijt+ β3 LossProvijt + β4 NonIncomeijt + β5 EQAijt +

β6 EatoTAijt + β7 Lernerijt + β8 GDPrate jt + ԑijt (3.6)

ln(sdGrDep)ijt= β0 + β1 IFIkjt + β2 ln(TA)ijt+ β3 LossProvijt + β4 NonIncomeijt + β5 EQAijt

+ β6 EatoTAijt + β7 Lernerijt + β8 GDPrate jt + ԑijt (3.7)

EatoTAijt + β7 Lernerijt + β8 GDPrate jt + ԑijt (3.8)

NPLTAijt= β0 + β1 IFIkjt + β2 ln(TA)ijt+ β3 LossProvijt + β4 NonIncomeijt + β5 EQAijt + β6

Trong đó: i,j,t lần lượt là ngân hàng, quốc gia, và năm

IFIk: bao gồm IFI, IFIp, IFIa và IFIu

Các mã biến ở phương trình 3.6, 3.7, 3.8 được tổng hợp ở bảng 3.1 dưới đây. Trong bảng

này, tác giả còn có tổng hợp các mô tả, cách tính, các nghiên cứu đã đề xuất sử dụng và kỳ

vọng chiều hướng tác động của các biến độc lập đến biến phụ thuộc.

Bảng 3.1. Tổng hợp các biến nghiên cứu thực nghiệm và kỳ vọng chiều hướng tác

động trong phương trình theo các biến phục thuộc

Kỳ vọng chiều tác động

Mã biến

Tên biến

Cách tính

Nghiên cứu

ln(Zscore) ln(sdGrDep) NPLTA

Biến phụ thuộc

Zscore

Trình bày chi tiết ở mục 3.3.2.1

Ahamed and Mallick (2019); Alvi, Rafique and Shehzad (2020); Laeven and Levine (2009); Houston et al. (2010)

Chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống ngân hàng

[Trong mô hình tác giả sử dụng ln(Zscore)]

Beck, De Jonghe and Schepens (2013)

78

sdGrDep

Neaime and Gaysset (2018)

[Trong mô hình tác giả sử dụng ln(sdGrDep)]

Độ lệch chuẩn của tăng trưởng tiền gửi trong ba năm (năm nay và hai năm trước đó)

Chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống ngân hàng thông qua sự ổn định của tăng trưởng tiền gửi

NPLTA

Nợ xấu/Tổng tài sản

[Tỷ lệ nợ xấu]

Chỉ số đo lường mức độ ổn định hệ thống ngân hàng thông qua rủi ro tín dụng ngân hàng

Fernández, González and Suárez (2016); S.Kasman and A.Kasman (2015); Guy and Lowe (2011); Nier and Baumann (2006); Martinez Peria and Schmukler (2001)

Li and Malone (2016)

Biến độc lập

IFI

+

-

-

Chỉ số tài chính toàn diện

Sarma, 2008, 2012; Sarma and Pais, 2011

Sarma, 2008, 2012; Sarma and Pais, 2011

IFIp

+

-

-

Trình bày chi tiết ở mục 2.1.4.2b và 3.3.2.2

Chỉ số tài chính toàn diện về mức độ thâm nhập

Ahamed and Mallick (2019)

IFIa

+

-

-

Sarma, 2008, 2012; Sarma and Pais, 2011

Chỉ số tài chính toàn diện về

79

mức độ sẵn có

Ahamed and Mallick (2019)

Neaime and Gaysset, (2018)

IFIu

+

-

-

Sarma, 2008, 2012; Sarma and Pais, 2011

Chỉ số tài chính toàn diện về mức độ sử dụng

lnTA

Quy mô

+

-

-

Uhde and Heimeshoff (2009) De Haan and Poghosyan (2012)

Logarit tự nhiên của tổng tài sản

Adusei (2015) Ahamed and Mallick (2019)

LossProv

-

+

+

Ahamed and Mallick (2019)

Dự phòng rủi ro cho vay

Tỷ lệ dự phòng rủi ro cho vay / tổng số cho vay

Ahamed and Mallick (2019);

NonIncome

-

+

+

Đa dạng hóa thu nhập

Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi / tổng thu nhập hoạt động

Ashraf, Karlan and Yin (2010; Ashraf, Ramady and Albinali (2016); Demirgüç-Kunt and Huizinga (2010)

80

Ahamed and Mallick (2019)

EQA

+

-

-

Kiểm soát rủi ro vốn

Tỷ lệ vốn chủ sở hữu / Tổng tài sản

Kolari, Glennon, Shin and Caputo (2002);

EAtoTA

+

-

-

Ahamed and Mallick (2019)

Chất lượng quản lý

Tổng tài sản sinh lời / tổng tài sản

Ahamed and Mallick (2019) Caminal and Matutes, (2002).

Lerner

-

+

+

Trình bày chi tiết ở mục 3.3.2.3

Đo lường mức độ cạnh tranh của ngân hàng

De Nicolo and Loukoianova (2007); Uhde and Heimeshoff (2009)

GDPrate

+

-

-

Tốc độ tăng trưởng

Ahamed and Mallick, (2019); Ozili (2018); Kosmidou (2008)

(Nguồn: Tác giả tổng hợp)

3.3.2.5. Lựa chọn biến công cụ

Tác giả lựa chọn hai biến công cụ để thực hiện hồi quy SGMM: quy mô tài sản, ln(TA)

và chỉ số đăng ký dịch vụ điện thoại trên 100 người, trong luận án này tác giả lấy logarit tự

nhiên của tỷ lệ này, ký hiệu ln(Mobi).

Ở biến công cụ thứ nhất lnTA, theo Sarma and Pais (2011) yếu tố ảnh hưởng đến mức độ

tài chính toàn diện có liên quan quy mô ngân hàng được đo lường thông qua lnTA. Chính vì

vậy, đây là biến đầu tiên được lựa chọn làm biến công cụ.

Ở biến công cụ thứ hai, ln(Mobi), chính là logarit tự nhiên của chỉ số đăng ký dịch vụ điện

thoại trên 100 người. Chỉ số này bao gồm số lượng đăng ký trả sau và số lượng tài khoản trả

trước đang hoạt động (tức là đã được sử dụng trong ba tháng qua). Số lượng đăng ký di động

81

lớn có thể làm tăng các giao dịch di động của họ và do đó tạo điều kiện cho một số lượng lớn

người tham gia vào lĩnh vực tài chính chính thức thông qua hệ thống giao dịch (chuyển tiền)

di động (m-transfer), từ đó có thể ảnh hưởng đến tài chính toàn diện (Ahamed and Mallick,

2019).

3.3.3. Nguồn dữ liệu

Để tìm hiểu vai trò của tài chính toàn diện đối với ổn định hệ thống ngân hàng, tác giả đã

lấy dữ liệu từ các nguồn:

(1) Bộ dữ liệu ở cấp độ ngân hàng ở các quốc gia khu vực ASEAN tổng hợp từ

WorldScope, được trích xuất từ Datastream (2020), tác giả sử dụng tài khoản của trường Đại

học Ngân hàng TP Hồ Chí Minh;

(2) dữ liệu của các biến được sử dụng để xây dựng chỉ số tài chính toàn diện được tổng

hợp từ cơ sở dữ liệu IMF FAS (2020). Bộ dữ liệu thu thập được bao gồm 102 ngân hàng (xem

phụ lục A1), ở sáu quốc gia (Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt

Nam), trong thời gian từ năm 2008 – 2019; các đơn vị tiền tệ được sử dụng thống nhất là USD

(đô la Mỹ).

3.4. PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG

Theo Gujarati (2004) nếu hệ số tương quan giữa các biến độc lập vượt quá 0.8 thì có khả

năng dẫn đến hiện tượng đa cộng tuyến cao trong mô hình. Khi đó dấu của hệ số hồi quy trong

mô hình có thể bị thay đổi, dẫn đến kết quả nghiên cứu bị sai lệch. Do đó, trước khi chạy mô

hình hồi quy thì luận án kiểm tra hệ số tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình, đồng

thời kiểm tra lại có hiện tượng đa cộng tuyến hay không bằng hệ số phóng đại phương sai

VIF. Hệ số VIF của các biến số nhỏ hơn mười thì đa cộng tuyến không là một vấn đề nghiêm

trọng ảnh hưởng đến kết quả ước lượng của mô hình.

Khi chạy mô hình hồi quy, nghiên cứu sử dụng SGMM (SystemGMM) hai bước của

Arellano and Bover (1995); Blundell and Bond (1998) để có những ước tính hoàn hảo. Các

ước lượng của phương pháp GMM sẽ thích hợp sử dụng trong các trường hợp sau (Roodman,

2009):

• Dữ liệu bảng có T nhỏ, N lớn (rất nhiều quan sát với ít mốc thời gian)

• Tồn tại mối quan hệ tuyến tính giữa biến phụ thuộc với các biến giải thích

82

• Mô hình động với một hoặc hai vế của phương trình có chứa biến trễ

• Các biến độc lập không phải là một biến ngoại sinh ngặt (strictly exogenous), nghĩa là

chúng có thể tương quan với các phần dư (hiện tại hoặc trước đó) hoặc tồn tại biến nội sinh

(endogenous variables) trong mô hình.

• Tồn tại vấn đề phương sai thay đổi hoặc tự tương quan ở các sai số đo lường

(idiosyncratic disturbances)

• Tồn tại các tác động cố định riêng rẻ (fixed individual effects)

• Tồn tại phương sai thay đổi và tự tương quan trong mỗi đối tượng (nhưng không tồn tại

giữa các đối tượng)

Mô hình nghiên cứu này là mô hình động với biến trễ của biến phụ thuộc trong phương

trình thì sẽ xuất hiện vấn đề nội sinh. Ngoài ra, do tính đồng thời trong mối quan hệ giữa biến

độc lập và biến phụ thuộc (cụ thể là giữa biến đa dạng hóa thu nhập và biến hiệu quả kinh

doanh) nên mô hình nghiên cứu có vấn đề nội sinh. Vấn đề nội sinh có thể gây ra ước tính sai

lệch trong phân tích.

Ngoài ra, đặc điểm cụ thể của ngân hàng bất biến theo thời gian (hiệu ứng cố định) cũng

có thể tương quan với các sai số. Sự tồn tại của biến phụ thuộc bị trễ trong mô hình (đặc tính

tự phát) cũng có thể gây ra tự tương quan. Hơn nữa, tập dữ liệu của nghiên cứu bao gồm

khoảng thời gian ngắn (12 năm) và các đơn vị ngân hàng tương đối dài hơn (102 ngân hàng).

Do đó, nghiên cứu dùng SGMM (SystemGMM) hai bước của Arellano and Bover (1995) và

Blundell and Bond (1998) là phù hợp trong trường hợp này. SGMM (System-GMM), một

phương pháp nghiên cứu hiệu quả trong các nghiên cứu. Blundell và Bond (1998) đã chứng

minh rằng SGMM có phương sai nhỏ hơn và hiệu quả hơn, do đó cải thiện độ chính xác trong

công cụ ước tính.

SGMM được sử dụng để giải quyết vấn đề nội sinh của một số biến giải thích thông qua

biến công cụ. Hiệu quả của ước lượng phụ thuộc vào sự phù hợp của biến công cụ. Kiểm định

Sargan hoặc kiểm định Hansen đối với tính chất xác định quá mức (over-identifying) cho

phép kiểm tra sự phù hợp của các biến công cụ. Về lý thuyết, kiểm định Hansen trong ước

lượng hai bước được xem hiệu quả hơn kiểm định Sargan trong ước lượng một bước

(Roodman, 2009). Do đó, kiểm định Hansen được sử dụng để kiểm định tính over-identifying

của các biến công cụ. Kiểm định này xác định liệu có sự tương quan giữa biến công cụ và

83

phần dư trong mô hình hay không thông qua kiểm tra giả thuyết H0: các biến công cụ là phù

hợp (thỏa tính over-identifying). Khi chấp nhận giả thuyết H0 (p-value > alpha) nghĩa là các

biến công cụ được sử dụng trong mô hình là phù hợp. Bên cạnh đó, kiểm định tự tương quan

bậc hai (AR2) cũng là một kiểm định quan trọng về sự tương quan bậc hai của phần dư trong

mô hình. Trong kiểm định AR2, kiểm định giả thuyết H0: không có sự tương quan bậc hai

của phần dư. Khi p-value lớn hơn alpha, ta chấp nhận H0: phần dư của mô hình không tồn tại

hiện tượng tự tương quan bậc 2, nghĩa là mô hình đạt yêu cầu.

Ngoài ra, Roodman (2009) lưu ý về việc sử dụng biến công cụ trong hồi quy SGMM.

Rằng, sự gia tăng số lượng công cụ có thể làm quá tải các biến nội sinh và không loại bỏ được

các thành phần nội sinh của chúng, từ đó làm suy yếu sức mạnh của phép thử Hansen để phát

hiện ra chính vấn đề này. Vì vậy, các nhà nghiên cứu nên báo cáo số lượng công cụ và kiểm

tra độ chắc chắn để giảm số lượng công cụ.

84

TÓM TẮT CHƯƠNG 3

Chương 3 đã trình bày về mô hình nghiên cứu, dữ liệu nghiên cứu, các phương pháp và

giả thuyết nghiên cứu được xây dựng. Giả thuyết duy nhất của của nghiên cứu dựa trên sự

cân nhắc của các quan điểm nghiên cứu trước, rằng: Tài chính toàn diện có liên quan tích cực

với sự ổn định của hệ thống ngân hàng tại các quốc gia ASEAN.

Trong chương này, tác giả giải thích cách tính các biến và kỳ vọng chiều hướng tác động

của các biến độc lập đến biến phụ thuộc. Tác giả đề cập đến các biến đại đại diện cho tài chính

toàn diện (IFI, IFIp, IFIa, IFIu), ổn định hệ thống ngân hàng (lnZscore, lnsdGrDep và

NPLTA). Ngoài ra, còn có các biến khác như: quy mô ngân hàng (lnTA), dự phòng rủi ro cho

vay (LossProv), thu nhập ngoài lãi (NonIncome), vốn hóa (EQA - tỷ lệ vốn chủ sở hữu), tài

sản sinh lời (EAtoTA), sự cạnh tranh của ngân hàng (Lerner), tốc độ tăng trưởng GDP

(GDPrate).

Tương ứng với các biến được trình bày chi tiết, tác giả cũng xác định phương trình hồi

quy, trình bày theo mã biến. Sau khi xác định phương trình, tác giả xem xét lựa chọn SGMM,

nhằm có thể đưa ra một kết quả hồi quy vững, không chệch và hiệu quả nhất.

85

4. CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

4.1. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG

NGÂN HÀNG TẠI CÁC QUỐC GIA ASEAN

4.1.1. Mức độ tài chính toàn diện ở các nước khu vực ASEAN

Mỗi quốc gia sẽ có chính sách triển khai tài chính toàn diện khác nhau (xem chi tiết ở phụ

lục A5) phù hợp với bối cảnh của quốc gia đó. Do vậy mà mức độ tài chính toàn diện ở các

quốc gia không đồng nhất với nhau. Ở phần này tác giả tập trung đánh giá mức độ tài chính

toàn diện thông qua từng khía cạnh và tổng hợp các khía cạnh. Như đã làm rõ ở chương 1,

nội dung về các cách thức đo lường tài chính toàn diện, tác giả lựa chọn chỉ số tài chính toàn

diện IFI do Sarma (2012) đã đề xuất với các số liệu thu thập từ bộ dữ liệu của IMF FAS

(2020) để đánh giá và phân tích các khía cạnh của tài chính toàn diện.

4.1.1.1. Khía cạnh thứ nhất: sự thâm nhập của ngân hàng

Chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá mức độ thâm nhập của ngân hàng chính là số tài khoản

ngân hàng trên 1000 người trưởng thành3. Đây cũng là một chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá

tài chính toàn diện. Kết quả cho thấy bình quân qua các năm của sáu nước khối ASEAN, cứ

1000 người dân sẽ có 1,148.19 tài khoản ngân hàng, hay nói cách khác cứ mỗi người dân ở

ASEAN sẽ có hơn một tài khoản ngân hàng được mở (kết quả này tác giả tính toán dựa trên

số liệu được thu thập và trình bày chi tiết ở phụ lục A6). Đồng thời các quốc gia có mức độ

thâm nhập ngân hàng là rất khác nhau.

Các quốc gia như Malaysia, Singapore, và Thái Lan đều là những quốc gia có số tài khoản

ngân hàng cao trong 1000 người. Cụ thể bình quân qua mỗi năm, số lượng tài khoản ở ba

quốc gia nói trên lần lượt là 2,271.56; 2,145.42; 1,506.66; cao hơn so với bình quân chung

của cả khu vực. Trong đó, Malaysia đạt cao nhất vào năm 2013, ở mức 2,490.847 tài khoản

ngân hàng trong 1000 người dân. Singapore có số người gửi tiền trong 1000 người dân cao

vượt trội trong khu vực. Bình quân qua các năm, cứ 1000 người dân ở Singapore, có 2,145.42

người gửi tiền, cao nhất là năm 2019 với con số là 2,316.98. Thái Lan có số lượng thấp hơn

3 Ở một số quốc gia, có thể sử dụng dữ liệu này thay cho số người gửi tiền ở ngân hàng thương mại hoặc ngược lại, bởi vì sự thiếu đầy đủ về thông tin cung cấp. Trong bài nghiên cứu, đối với Singapore tác giả sử dụng dữ liệu và số người gửi tiền thay cho số lượng tài khoản vì sự thiếu hụt về số liệu.

so với hai quốc gia trên nhưng vẫn cao hơn so với quân bình chung.

86

Các quốc gia khác, có số lượng tài khoản thấp hơn, như Philippines, Việt Nam hay

Indonesia lần lượt bình quân mỗi năm đạt 536.27; 783.00; 943.6; đều thấp hơn so bình quân

chung của khối ASEAN. Hiểu một cách khác, ở những quốc gia này, cứ một người dân có

chưa đến một tài khoản ngân hàng được mở và sử dụng. Trong khi, những con số ở nhóm

quốc gia được phân tích trước đó (Malaysia, Singapore và Thái Lan) đều có kết quả cao hơn

vượt trội so với bình quân của cả khối ASEAN, chẳng hạn như Malaysia và Singapore có kết

quả gần gấp đôi. Điều này cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các quốc gia.

Mặc dù có khá nhiều quốc gia thuộc nhóm có mức độ thâm nhập của ngân hàng thấp hơn

bình quân chung, nhưng ở các quốc gia này có sự tăng trưởng với tốc độ cao hơn so nhóm

còn lại. Quốc gia có tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm cao nhất là Việt Nam, với tốc

độ là 18.97%. Trong đó, tốc độ tăng cao nhất là vào năm 2011 với con số là 99.30%. Bảng

4.1 dưới đây đã cho thấy cụ thể tốc độ thay đổi qua từng năm ở mỗi quốc gia trong khoảng

thời gian từ năm 2008 – 2019.

Bảng 4.1. Tốc độ tăng trưởng về số lượng tài khoản ngân hàng trong 1000 người

ĐVT: %

trưởng thành

Năm

Indonesia Malaysia

Philippines Singapore Thái Lan

Việt Nam

- 4.44 16.22 8.66 11.35 23.28 4.80 3.54 12.89 48.03 1.40 2.75

- -0.60 2.32 2.56 4.32 7.35 -0.44 -6.57 -1.52 -0.73 -1.14 -0.92

- 3.29 15.64 12.17 -9.46 6.60 1.74 5.26 3.66 2.34 7.75 14.29

- -0.31 2.18 1.90 1.27 1.81 1.51 0.42 0.70 1.18 1.85 2.15

- - - 99.30 22.33 9.75 15.18 9.44 12.94 -0.23 14.28 9.94

- -0.09 2.82 -2.83 4.64 2.05 1.58 1.44 1.42 3.89 4.51 1.16

2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ IMF FAS, 2020)

Xét riêng trong năm năm gần nhất, số liệu ở bảng 4.1 trên cho thấy có sự tăng trưởng

dương qua các năm ở một số quốc gia như Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan.

Tương tự như vậy, Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng trưởng tương đối biến động qua các

năm, nếu như năm 2011, có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các nước là 99.3%, nhưng

87

những năm sau đó, nhất là trong năm năm gần nhất, có tốc độ tăng trưởng chững lại, thậm chí

năm 2017 có tốc độ âm. Mặc dù mức độ giảm không cao, nhưng điều này cũng cho thấy sự

không ổn định trong việc thúc đẩy người trưởng thành có tài khoản ngân hàng.

Tốc độ âm còn xuất hiện ở Malaysia, trong suốt năm năm liên tục, từ 2014 – 2019. Mặc

dù đây là quốc gia thuộc nhóm có số lượng cao, thậm chí trước đó năm 2013 là nước có kết

quả cao nhất, quốc gia này vẫn có mức giảm hàng năm, với tốc độ nhất định, tốc độ giảm bình

quân mỗi năm trong năm năm gần nhất, là -2.20%.

Ở một góc nhìn khác, so với bình quân các nước trên thế giới, trong 1000 người dân ở các

nước ASEAN có số lượng tài khoản ngân hàng duy trì ở mức thấp hơn, nhưng khoảng cách

2,000.00

1,800.00

1,600.00

1,400.00

1,200.00

1,000.00

800.00

600.00

400.00

200.00

0.00

2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

ASEAN

Thế giới

với bình quân các quốc gia trên thế giới là không nhiều (hình 4.1).

Hình 4.1. Số lượng tài khoản ngân hàng (trong 1000 người trưởng thành) bình

quân qua các năm ở các nước ASEAN và thế giới

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ IMF FAS, 2020)

Qua các năm từ 2008 – 2019, bình quân mỗi năm, ở các nước ASEAN, cứ 1000 người

trưởng thành sẽ có 1,148.19 tài khoản ngân hàng được mở. So với các quốc gia trên thế giới,

1,164.89 tài khoản, con số này vẫn thấp hơn 3.22%. Các quốc gia như Việt Nam, Indonesia,

dù có tốc độ tăng cao nhưng so với bình quân chung của khu vực và thế giới vẫn thấp hơn.

Tóm lại, ở góc nhìn đầu tiên về tính thâm nhập của ngân hàng, với đại diện chính là số

lượng tài khoản ngân hàng, các nước trong khối ASEAN có sự khác biệt nhau khá rõ, cụ thể

là có sự chênh lệch về số lượng; đồng thời, xu hướng tăng trưởng ở một số quốc gia có dấu

âm. So với các quốc gia trên thế giới, ASEAN vẫn còn ở dưới mức bình quân chung.

88

4.1.1.2. Khía cạnh thứ hai: tính sẵn có của các dịch vụ ngân hàng

Tính sẵn có của ngân hàng được xem xét thông qua hai chỉ tiêu: số lượng chi nhánh ngân

hàng và số lượng ATM trên 100,000 người trưởng thành (xem phụ lục A6). Kết quả tính toán

dựa trên số liệu ở phụ lục A6 cho thấy bình quân qua các năm của khối ASEAN, cứ 100,000

người dân sẽ có 9.13 chi nhánh ngân hàng và 41.16 máy ATM phục vụ. Và trong 12 năm, từ

2008 – 2019, cũng có khá nhiều sự biến đổi ở các quốc gia.

a. Về số lượng chi nhánh

Indonesia, Thái Lan và Malaysia là nhóm ba quốc gia có số lượng chi nhánh ngân hàng

cao vượt trội so với khu vực, bình quân mỗi năm cứ 100,000 người dân ở các nước này có

14.40; 11.62; 10.76 chi nhánh ngân hàng phục vụ. Những con số này đều cao hơn so với trung

bình của khu vực. Các quốc gia còn lại có số lượng chi nhánh ngân hàng thấp hơn so với bình

quân chung. Singapore và Philippines có số bình quân mỗi năm tương ứng 9.05 và 8.32 chi

nhánh. So với bình quân của cả khối ASEAN là 9.13, kết quả này ở các quốc gia nói trên đều

thấp hơn hơn. Quốc gia có số chi nhánh bình quân mỗi năm thấp nhất trong khu vực là Việt

Nam với con số là 3.57. So với các nước có số lượng chi nhánh cao ở trên, có thể nhận thấy

trung bình ở Indonesia gấp hơn bốn lần so với Việt Nam; từ đó minh chứng tồn tại sự chênh

lệch giữa các quốc gia.

Bảng 4.2. Tốc độ tăng trưởng số lượng chi nhánh ngân hàng trong 100,000 người

trưởng thành

Indonesia Malaysia - 16.11 6.17 81.34 14.72 4.56 1.07 -1.07 -2.17 -2.93 -3.64 -3.08

- -1.32 -1.88 3.01 -0.87 -1.66 -1.43 -1.11 -2.36 -2.00 0.12 -1.59

ĐVT: % Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam - - 0.37 -1.00 -1.95 -0.50 10.06 -2.34 -12.18 -1.79 17.34 -3.29 5.14 -1.19 -1.98 -0.58 2.09 -3.04 -10.01 -5.32 13.53 -1.13 1.72 -3.78

- -1.07 0.81 1.47 3.61 3.87 4.56 1.71 0.84 1.77 0.29 1.98

- 4.66 1.94 3.02 3.07 3.47 3.52 0.10 -1.40 -3.98 -1.35 -3.95

Năm 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ IMF FAS, 2020)

89

Indonesia là quốc gia có tốc độ tăng trưởng số chi nhánh ngân hàng cao nhất, với tốc độ

bình quân 8.19%/năm trong suốt 12 năm. Tuy nhiên trong năm năm gần đây, quốc gia này lại

có xu hướng giảm số chi nhánh, với tốc độ âm ở các năm (xem bảng 4.2), bình quân tốc độ

giảm -2.96%. Các quốc gia khác như Malaysia, Singapore có số chi nhánh ngân hàng giảm

qua hầu hết các năm, thậm chí còn có tốc độ tăng trưởng âm. Đặc biệt là Singapore có số

lượng chi nhánh ngân hàng thấp hơn bình quân chung và có xu hướng giảm dần qua tất cả

các năm từ 2008 -2019.

Cũng trong năm năm gần nhất, Philippines và Việt Nam là những quốc gia có tăng trưởng

bình quân với tốc độ dương, lần lượt là 1.22%; 1.49%. Riêng Việt Nam, năm 2018 đạt tốc độ

tăng cao nhất và có tốc độ bình quân cao hơn so cả khu vực. Cả khối ASEAN có tốc độ bình

Số ATM trên 100,000 người

Số chi nhánh ngân hàng trên 100,000 người

70

25

60

20

50

40

15

30

10

20

5

10

0

0

ASEAN

ASEAN

Thế giới

Thế giới

quân chung chỉ đạt 0.96%.

Hình 4.2. Số lượng chi nhánh ngân hàng và số lượng ATM trên 100,000 người

trưởng thành ở ASEAN và thế giới.

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ IMF FAS, 2020)

Ở một góc nhìn khác, cả ASEAN bình quân chung qua các năm, số lượng chi nhánh ngân

hàng có xu hướng tăng nhẹ (hình 4.2). Cụ thể, năm 2008 cứ mỗi 100,000 người dân có số

lượng chi nhánh là 8.51; tăng lên 9.94 vào năm 2019. Xu hướng thay đổi của chỉ tiêu này khá

tương đồng với thế giới, nhất là trong năm năm gần nhất. Tuy nhiên mức bình quân chung

của khu vực vẫn còn thấp hơn so với bình quân các quốc gia trên thế giới; cụ thể ASEAN có

9.13 chi nhánh ngân hàng phục vụ cho 100,000 người dân, trong khi trên thế giới có 18.87

chi nhánh, thấp hơn 51.15%.

90

b. Về số lượng ATM

Về số lượng ATM, trong giai đoạn từ 2008 – 2019, bình quân mỗi năm ở các nước

ASEAN, cứ 100,000 người trưởng thành có 41.16 máy ATM. Quốc gia có nhiều ATM là Thái

Lan, năm 2017, có 117.04 máy ATM phục vụ 100,000 người dân; bình quân mỗi năm quốc

gia này có 98.99 ATM. Tiếp theo là Singapore và Malaysia, với con số bình quân mỗi năm

đạt được là 58.14 và 49.99.

Xét về tốc độ tăng trưởng, bảng 4.3 dưới đây đã cho thấy cụ thể tốc độ thay đổi qua từng

năm ở mỗi quốc gia trong khối ASEAN trong khoảng thời gian từ năm 2008 – 2019.

ĐVT: %

Bảng 4.3. Tốc độ tăng trưởng số lượng ATM trong 100,000 người trưởng thành

Năm

Indonesia Malaysia Philippines

Singapore

Thái Lan

Việt Nam

2008

-

-

-

-

-

-

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

7.63 -7.62 26.14 117.22 17.60 17.11 7.64 2.59 1.48 -1.39 -1.78

25.19 3.26 0.11 -0.59 2.62 -4.18 -2.15 -4.51 -2.87 -2.00 -4.07

6.35 7.84 11.24 12.18 16.31 5.74 8.02 7.98 4.04 2.71 0.27

4.24 11.84 0.99 -0.80 -1.72 -1.21 0.95 -3.85 13.06 2.36 -9.00

24.52 15.57 15.11 5.52 5.74 3.80 4.65 2.11 1.43 2.98 2.30

12.25 11.63 6.63 8.56 7.98 7.56 2.22 0.30 3.69 -1.53 -0.14

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ IMF FAS, 2020)

Các quốc gia ở khu vực có sự tăng trưởng khác nhau giữa các nước và giữa các năm. Các

nước luôn có sự tăng trưởng về số lượng ATM bao gồm Việt Nam và Philippines. Mặc dù

các quốc gia này có tốc độ thay đổi khá khác biệt giữa các năm, nhưng tốc độ tăng trưởng ở

tất cả các năm đều dương và bình quân mỗi năm lần lượt là 7.39% và 7.43%. Ngược lại, quốc

gia có số lượng ATM nhiều, dù có xu hướng tăng nhưng với tốc độ tăng không cao và không

đồng đều qua các năm là Singapore và Malaysia – những quốc gia có tốc độ bình quân mỗi

năm là thấp nhất trong khu vực, chỉ đạt 1.35% và 0.70%.

Xét riêng trong năm năm gần nhất, số liệu ở bảng 4.3 cho thấy ngoài các nước có sự tăng

trưởng nhất định đã được đề cập ở trên, còn có những trường hợp đặc biệt cần chú ý đến.

Chẳng hạn như Malaysia có tốc độ khá khác biệt; với tốc độ bình quân lần lượt là -3.37%, và

91

có xu hướng biến động giảm trong suốt năm năm liên tục, kết quả năm 2019 chỉ có 44.71 máy

ATM phục vụ cho 100,000 người dân.

Riêng Việt Nam, trong năm năm gần nhất có số lượng ATM tăng trưởng khá ổn định qua

các năm, với tốc tăng bình quân trong quãng thời gian này là 2.20%, so với tốc độ tăng những

năm trước đó đã cho thấy sự chậm lại trong việc gia tăng máy rút tiền trong dân cư. Năm 2019

là năm có số lượng ATM cao nhất trong các năm, đạt 25.9 máy trên 100,000 người trưởng

thành, song con số này vẫn thấp hơn so với trung bình chung của cả khối trong năm là 47.89.

Ở một góc nhìn khác, so với bình quân các nước trên thế giới, trong 100,000 người dân ở

các nước khối ASEAN có số lượng ATM là 41.16 so với các nước trên thế giới là 46.04 máy,

thấp hơn 10.59%. Hình 4.2 cho thấy mức ATM bình quân của từng năm riêng biệt ở ASEAN

và thế giới có xu hướng biến động tương đồng nhau, biến động cùng chiều tăng ở năm năm

gần nhất. Khoảng cách giữa khối và các nước thế giới được thu ngắn ở những năm 2010 –

2012, qua các năm số lượng ATM ở ASEAN đều thấp hơn bình quân toàn thế giới.

Nhìn chung, ở khía cạnh thứ hai về tính sẵn có của các dịch vụ ngân hàng, với đại diện

chính là số lượng chi nhánh ngân hàng và số lượng ATM trong 100,000 người trường thành,

các nước trong khối ASEAN có sự khác biệt nhau, cụ thể là có sự chênh lệch về số lượng;

đồng thời, xu hướng tăng trưởng giữa các quốc gia trái chiều với nhau; ngoài ra, so với các

quốc gia trên thế giới, ASEAN vẫn còn ở dưới mức bình quân ở cả hai chỉ số đại diện cho

khía cạnh này của tài chính toàn diện.

4.1.1.3. Khía cạnh thứ ba: mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng

Chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng chính là tổng

tiền gửi và cho vay so với GDP. Số liệu thu thập cho thấy bình quân qua các năm của cả khối

ASEAN có số tiền gửi và cho vay chiếm 128.19% GDP. Mức độ sử dụng dịch vụ ngân hàng

ở các quốc gia có sự khác nhau khá lớn.

Chi tiết hơn, những quốc gia bao gồm Singapore, Việt Nam, và Malaysia có tỷ lệ bình

quân qua các năm là cao; lần lượt đạt 263.40%; 224.00%; 211.58% so với GDP; trong đó,

Singapore có tỷ lệ cao nhất đạt vào năm 2014, ở mức 290.15%, Việt Nam năm 2019 có tỷ lệ

cao nhất, đạt 285.39%; và Malyaisa có tỷ lệ cao nhất, đạt 222.35% vào năm 2013; vượt trội

hơn hẳn so với bình quân của cả khối. Thái Lan có tỷ lệ này tương đối cao, bình quân các

năm đạt 138.95%, cao hơn một chút so với bình quân của cả khối ASEAN.

92

Các quốc gia khác, có tỷ lệ thấp hơn, như Indonesia và Philippines, lần lượt bình quân mỗi

năm đạt 69.18% và 69.58% thấp hơn so bình quân chung của khối các nước ASEAN. Mặc dù

vậy, các quốc gia này có sự tăng trưởng với tốc độ khá ổn định. Cụ thể, bảng 4.4 dưới đây đã

cho thấy tốc độ thay đổi qua từng năm ở mỗi quốc gia trong khối ASEAN trong khoảng thời

gian từ năm 2008 – 2019.

ĐVT: %

Bảng 4.4. Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tiền gửi và cho vay trên GDP

Năm

Indonesia Malaysia

Philippines

Singapore

Thái Lan Việt Nam

- 5.14 -0.32 1.73 0.68 14.22 4.83 5.13 8.67 4.99 -0.52 -1.26

2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

- -1.64 -1.72 6.44 8.19 5.83 1.12 -0.27 1.09 -0.67 -0.22 -0.37

- 16.88 -4.91 3.06 2.62 1.43 -1.06 0.89 -2.65 -5.16 0.21 -0.72

- 19.62 12.95 -12.12 -3.02 6.68 5.13 10.06 10.34 4.42 1.93 4.63

- -1.42 -4.34 5.83 9.58 4.96 1.57 1.24 -2.10 -1.84 0.25 -0.55

- 5.32 -2.89 11.15 6.46 5.53 0.44 -5.61 0.87 -2.53 -1.75 2.46

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ IMF FAS, 2020)

Về tốc độ tăng trưởng bình quân, trong quãng thời gian 2008 – 2019, các quốc gia đều có

sự gia tăng về tỷ lệ tiền gửi và tín dụng. Tuy nhiên, riêng trong năm năm gần nhất (xem bảng

4.4 trên), tốc độ tăng trưởng có sự chậm lại, thậm chí, một số quốc gia như Malaysia, Thái

Lan có tốc độ tăng trưởng mỗi năm duy trì ở con số âm, giảm sâu nhất so với các nước, lần

lượt với tốc độ -2.10%; -1.06%. Một số quốc gia khác cũng có tốc độ tăng trưởng âm có thể

kể đến như Thái Lan và Indonesia với -1.06% và -0.05%; cả hai nước này đều có mức bình

quân thấp hơn so với khu vực. Mức độ giảm ở các quốc gia nói trên tuy không cao, nhưng

cho thấy sự không ổn định trong việc thúc đẩy gia tăng mức độ sử dụng các dịch vụ tài chính

ngân hàng chính thống.

Hơn nữa, tại đây, có thể thấy quốc gia có mức độ thâm nhập hay tính sẵn có dịch vụ ngân

hàng tốt chưa hẳn là quốc gia có mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng cao và ngược lại.

Minh chứng rõ nhất là Việt Nam, có số lượng tài khoản ngân hàng trong 1000 người trưởng

thành, số lượng chi nhánh ngân hàng hay số lượng ATM bình quân đều thấp hơn so với bình

93

quân chung của ASEAN, tuy nhiên tỷ lệ tiền gửi và cho vay so với GDP thuộc nhóm cao nhất

trong các nước khu vực ASEAN, từ đó cho thấy mức độ sử dụng dịch vụ ngân hàng tốt. Và

để củng cố hơn cho lập luận này, tác giả thu thập thêm số liệu riêng về tín dụng ngân hàng

dành cho khối tư nhân so với GDP ở các nước (xem phụ lục A6); kết quả cho thấy những năm

2016 – 2019, Việt Nam luôn là quốc gia có kết quả cao nhất trong ASEAN, và tăng đều qua

các năm.

Tỷ lệ tiền gửi và cho vay trên GDP

180.00 160.00 140.00 120.00 100.00 80.00 60.00 40.00 20.00 0.00

2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

ASEAN

Thế giới

Hình 4.3. Tỷ lệ tiền gửi và cho vay trên GDP ở các quốc gia khu vực ASEAN và thế

giới

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ IMF FAS, 2020)

Ở một góc nhìn khác, đối sánh với hầu hết các nước thế giới (theo bộ dữ liệu thu thập

được của IMF), có thế thấy, mức độ sử dụng tiền gửi và cho vay tại các ngân hàng thương

mại so với GDP của ASEAN đều có tỷ lệ cao hơn (hình 4.3). Mặc dù hai khía cạnh trước đều

cho thấy mức độ thâm nhập và sử dụng của các nước thuộc khối ASEAN thấp hơn, nhưng ở

khía cạnh thứ ba này, kết quả lại đảo chiều. Theo đó qua các năm, tỷ lệ tiền gửi và cho vay so

với GDP của các nước ASEAN cao hơn so với thế giới. Riêng năm 2019, khoảng cách giữa

các nước ASEAN với bình quân thế giới là lớn nhất so với các năm, gấp 1.34 lần.

Ngoài ra, như đã phân tích ở trên, tác giả nhìn thấy có sự tồn tại sự khác biệt giữa các quốc

gia ASEAN. Tuy nhiên để nhìn rõ hơn vấn đề này, tác giả thực hiện thêm các thống kê đơn

giản (Bảng 4.5 và 4.6) các khía cạnh của chỉ số tài chính toàn diện từ 2008 – 2019 với các số

liệu về giá trị thấp nhất, giá trị cao nhất, trung bình, độ lệch chuẩn, hệ số biến thiên. Qua số

liệu này, có thể nhìn thấy sự khác biệt giữa các nước ASEAN có xu hướng giảm dần qua các

năm.

94

Bảng 4.5. Số liệu thống kê về các khía cạnh của tài chính toàn diện

Năm

2008

2009

2010

2011

2012

2013

Khía cạnh 1: Tính thâm nhập của ngân hàng - Số tài khoản ngân hàng trên 1000 người

Thấp nhất

77.00

99.41

113.05

122.21

142.96

155.84

Cao nhất

2132.16

2119.47

2168.73

2224.33

2320.34

2490.85

Trung bình

1040.59

1049.09

1003.47

1053.46

1133.33

1120.93

Độ lệch chuẩn

862.89

855.65

859.78

844.04

902.71

915.36

Hệ số biến thiên

0.83

0.82

0.86

0.80

0.80

0.82

Khía cạnh 2: Tính sẵn có của các dịch vụ ngân hàng - Số chi nhánh ngân hàng trên 100.000 người trưởng thành

Thấp nhất

1.47

1.49

1.53

1.68

1.86

2.73

Cao nhất

23.00

23.67

23.28

23.17

22.76

23.02

Trung bình

8.51

8.17

8.21

8.98

9.20

9.50

Độ lệch chuẩn

6.46

6.50

6.36

6.61

6.75

6.73

Hệ số biến thiên

0.76

0.80

0.77

0.74

0.73

0.71

Khía cạnh 2: Tính sẵn có của các dịch vụ ngân hàng - Số ATM trên 100.000 người trưởng thành

Thấp nhất

2.64

4.36

5.25

6.03

0.09

0.61

Cao nhất

71.52

82.33

82.01

87.31

94.79

102.35

Trung bình

30.39

34.72

37.30

39.01

39.54

41.08

Độ lệch chuẩn

27.08

30.52

31.75

31.58

34.26

33.26

Hệ số biến thiên

0.89

0.88

0.85

0.81

0.87

0.81

Khía cạnh 3: Mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng - Tổng tiền gửi và cho vay so với GDP

Thấp nhất

7.98

8.87

10.64

13.94

18.80

28.54

Cao nhất

226.21

238.25

231.36

257.16

273.76

288.89

Trung bình

101.45

111.26

109.89

112.88

119.00

126.73

Độ lệch chuẩn

73.02

80.77

80.64

81.21

82.67

84.33

Hệ số biến thiên

0.72

0.73

0.73

0.72

0.69

0.67

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ IMF FAS, 2020)

Bảng 4.6. Số liệu thống kê về các khía cạnh của tài chính toàn diện (tiếp theo)

Năm

2014

2015

2016

2017

2018

2019

95

Khía cạnh 1: Tính thâm nhập của ngân hàng - Số tài khoản ngân hàng trên 1000 người

Thấp nhất

176.33

223.37

250.94

224.52

291.77

383.19

Cao nhất

2479.89

2317.03

2281.93

2265.38

2268.14

2316.98

Trung bình

1120.11

1137.64

1169.11

1226.64

1276.78

1406.14

Độ lệch chuẩn

852.00

806.64

782.82

779.89

760.39

757.09

Hệ số biến thiên

0.76

0.71

0.67

0.64

0.60

0.54

Khía cạnh 2: Tính sẵn có của các dịch vụ Ngân hàng - Số chi nhánh ngân hàng trên 100.000 người trưởng thành

Thấp nhất

2.88

2.90

3.00

3.09

3.17

3.98

Cao nhất

20.36

20.95

19.72

18.48

17.26

17.60

Trung bình

9.49

9.57

9.47

9.33

9.25

9.94

Độ lệch chuẩn

6.03

6.10

5.69

5.22

4.77

4.40

Hệ số biến thiên

0.63

0.64

0.60

0.56

0.52

0.44

Khía cạnh 2: Tính sẵn có của các dịch vụ Ngân hàng - Số ATM trên 100.000 người trưởng thành

Thấp nhất

1.68

1.95

2.66

4.38

5.63

6.86

Cao nhất

110.10

112.54

112.88

117.04

115.25

115.09

Trung bình

42.92

44.16

44.07

45.20

46.04

47.89

Độ lệch chuẩn

34.03

33.70

32.87

32.92

32.47

32.57

Hệ số biến thiên

0.79

0.76

0.75

0.73

0.71

0.68

Khía cạnh 3: Mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng - Tổng tiền gửi và cho vay so với GDP

Thấp nhất

35.04

40.10

48.57

50.73

53.98

63.24

Cao nhất

290.15

273.89

276.27

269.27

272.77

285.39

Trung bình

131.92

137.38

143.88

144.26

145.91

156.59

Độ lệch chuẩn

82.71

79.36

79.63

78.87

79.49

84.47

Hệ số biến thiên

0.63

0.58

0.55

0.55

0.54

0.54

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ IMF FAS, 2020)

Quan sát ở một thời điểm cụ thể, ở năm gần nhất, năm 2019, số tài khoản ngân hàng trong

1000 người trưởng thành từ mức thấp nhất 724.42 ở Philippines đến mức cao nhất 2,316.98

ở Singapore. Bình quân trong khu vực là 1406.14 tài khoản ngân hàng trong 1000 người dân,

hay nói cách khác là cứ một người trưởng thành có ít nhất một tài khoản ngân hàng. Số lượng

96

chi nhánh ngân hàng trong 100,000 người trưởng thành dao động từ 3.98 ở Việt Nam đến

15.64 tại Indonesia; mức bình quân chung của cả khu vực là 9.94 chi nhánh ngân hàng phục

vụ cho 100,000 người dân. Số lượng ATM trong 100,000 người trưởng thành từ mức thấp

nhất 25.90 ở Việt Nam đến mức cao nhất 115.09 tại Thái Lan; mức bình quân chung của cả

khu vực là 47.89 máy ATM phục vụ cho 100,000 người dân. Cuối cùng là tỷ lệ tiền gửi và

cho vay so với GDP. Chỉ tiêu này cũng có sự khác biệt khá rõ giữa các quốc gia, với Indonesia

chỉ đạt 73.36% là quốc gia có tỷ lệ thấp nhất và Việt Nam đạt 285.39% là quốc gia có mức

sử dụng cao nhất. Mức bình quân chung của toàn khu vực duy trì ở mức 156.59%.

Các quốc gia khác nhau có cách thức triển khai tài chính toàn diện khác nhau (xem phụ

lục A5); từ đó, kết quả mức độ tài chính toàn diện có được sẽ khác biệt nhau. Đây là điều hiển

nhiên và có thể chấp nhận được. Hơn nữa, xu hướng của sự khác biệt có dấu hiệu giảm dần

qua các năm ở các nước khu vực ASEAN và sự sai khác này ít hơn so với các quốc gia trên

thế giới nói chung. Để chứng minh điều này, tác giả sử dụng độ lệch chuẩn và hệ số biến thiên

để phân tích. Kết quả ban đầu cho thấy trong năm năm, tồn tại một xu hướng giảm dần chênh

lệch giữa các quốc gia. Cụ thể, ở khía cạnh thứ nhất, độ thâm nhập, độ lệch chuẩn từ 765.24

ở năm 2015 giảm còn 721.37 ở năm 2018 và duy trì ở mức 757.09 ở năm 2019; hệ số biến

thiên từ 0.67 ở năm 2015 giảm còn 0.54 ở năm 2019 – năm này cũng là năm có độ lệch chuẩn

và hệ số biến thiên thấp nhất trong năm năm. Năm 2019, cả độ lệch chuẩn và hệ số biến thiên

đều thấp hơn so với các quốc gia trên thế giới với con số lần lượt là 1335.64 và 0.84 (xem chi

tiết ở phụ lục A7).

Tiếp theo, khía cạnh thứ hai, tính sẵn có, với hai tiêu chí số lượng chi nhánh và số lượng

ATM, từ độ lệch chuẩn ở năm 2015 lần lượt là 5.78 và 31.97, đến 4.40 và 32.57 ở năm 2019.

Năm 2019 cũng là năm ASEAN có độ lệch chuẩn thấp hơn so với thế giới ở cả hai tiêu chí

nói trên với con số lần lượt là 16.26 và 50.67. Hệ số biến thiên của các tiêu chí này giảm đều

hơn so với độ lệch chuẩn, từ con số 0.60 và 0.72 ở năm 2015, còn 0.44 và 0.68 ở năm 2019.

Năm 2019, hệ số biến thiên của cả hai chỉ số đều thấp hơn so với các quốc gia trên thế giới

có hệ số này là 0.91 và 0.90. Cuối cùng, khía cạnh thứ ba, mức độ sử dụng, độ lệch chuẩn từ

75.28 ở năm 2015 tăng lên 84.47 ở năm 2019; hệ số biến thiên từ 0.55 ở năm 2015 giảm nhẹ

còn 0.54 ở năm 2019. Cả độ lệch chuẩn và hệ số biến thiên đều thấp hơn so với các quốc gia

trên thế giới với con số lần lượt là 93.70 và 0.76 ở năm 2019.

97

Nhìn chung, các khía cạnh cơ bản của tài chính toàn diện đã cho thấy mức độ tài chính

toàn diện khác nhau giữa các quốc gia, và mỗi quốc gia có sự thay đổi nhất định qua các năm.

Qua phân tích tác giả nhận thấy, so với các nước trên toàn thế giới, sự chênh lệch giữa các

quốc gia thành viên của ASEAN là thấp hơn và chấp nhận được. Tuy nhiên, mỗi khía cạnh

lại có kết quả đánh giá khác nhau, và để có cái nhìn một cách tổng quát và dễ đối sánh hơn,

tác giả tiếp tục phân tích chỉ số tài chính toàn diện.

4.1.1.4. Đánh giá mức độ tài chính toàn diện thông qua chỉ số tổng hợp IFI

Kết quả xác định IFI (bảng 4.7) của các quốc gia ASEAN cho thấy mức độ tài chính toàn

diện tương đối khác nhau giữa các quốc gia, nhưng nhìn chung tài chính toàn diện có xu

hướng được cải thiện qua các năm ở các quốc gia. Bình quân các nước, IFI có mức dao động

từ 0.4193 đến 0.4910. Qua các năm, quốc gia luôn có chỉ số IFI thấp nhất chính là Philippines,

trong khi đó quốc gia có IFI cao nhất có sự thay đổi ở những năm gần đây. Để thấy rõ hơn,

tác giả xét từng quốc gia hoặc từng nhóm để phân tích chi tiết.

Bảng 4.7. Kết quả IFI của các quốc gia ASEAN năm 2008 – 2019

Năm

Indonesia Malaysia

Philippines

Singapore

Thái Lan

Việt Nam

2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

0.1864 0.1949 0.2169 0.2546 0.2916 0.3414 0.3563 0.3656 0.3971 0.5277 0.5310 0.5215

0.7045 0.7227 0.7275 0.7433 0.7638 0.7938 0.7892 0.7616 0.7499 0.7396 0.7345 0.7123

0.1664 0.1716 0.1892 0.2064 0.1947 0.2101 0.2160 0.2266 0.2367 0.2435 0.2557 0.2698

0.6964 0.7015 0.7108 0.7304 0.7420 0.7538 0.7599 0.7557 0.7574 0.7616 0.7680 0.7602

0.4993 0.5026 0.5139 0.5104 0.5381 0.5541 0.5660 0.5738 0.5772 0.5914 0.6090 0.5938

- - 0.2428 0.2763 0.2973 0.3215 0.3533 0.3842 0.4250 0.4300 0.4669 0.4950

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ IMF FAS, 2020)

Singapore và Malaysia: là nhóm quốc gia có IFI cao (IFI > 0.6) và là cao nhất trong

ASEAN và tương đối ổn định qua các năm, với tốc độ thay đổi lần lượt là 0.7%; 0.18%. Trong

đó, Malaysia là quốc gia có IFI cao nhất từ năm 2008 – 2015, những năm sau đó 2016 – 2019,

Singapore là quốc gia có IFI cao nhất. Cả hai quốc gia đều được xếp là nhóm có mức tài chính

toàn diện cao.

98

Quốc gia có chỉ số IFI thuộc nhóm thấp (IFI < 0.3) và cũng là thấp nhất trong các quốc

gia qua tất cả các năm chính là Phillipines. Mặc dù vậy, quốc gia này có xu hướng tăng mức

độ tài chính toàn diện liên tục qua các năm. Năm 2019, có IFI 0.2698, đạt tốc độ tăng trưởng

hàng năm 3.60%.

Quốc gia có IFI duy trì ở nhóm trung bình (0.3 < IFI < 0.6) là Thái Lan ở tất cả các năm

từ 2008 – 2019, tăng từ 0.4993 và 0.5938. Quốc gia này có IFI khá ổn định qua các năm và

có tốc độ thay đổi bình quân mỗi năm là 1.53%.

Indonesia và Việt Nam có mức độ tài chính toàn diện thấp ở những năm đầu và sau đó đã

cải thiện nâng lên ở mức trung bình. Cụ thể, Indonesia, có IFI từ 0.1864 tăng lên và đạt 0.5215

vào năm 2019 với tốc độ tăng trưởng bình quân mỗi năm là 9.63%. Quốc gia này đạt chỉ số

tài chính toàn diện trung bình kể từ năm 2013 cho đến 2019. Về Việt Nam, tốc độ thay đổi

bình quân là 7.56%, tăng đều qua các năm từ 0.2399 năm 2010 đến 0.4950 năm 2019; từ quốc

gia có mức độ tài chính toàn diện thấp, nâng lên đến mức trung bình vào năm 2013 và duy trì

trạng thái này cho đến năm 2019. Trong đó, so với bình quân chung của ASEAN, giai đoạn

2010 – 2016, Việt Nam có IFI thấp hơn so với bình quân, song ba năm gần đây 2017 – 2019

đã tăng cao hơn, dù vậy vẫn chưa vượt qua ngưỡng trung bình.

Như vậy, các nước trong khối ASEAN có xu hướng cải thiện mức độ tài chính toàn diện.

Đa số các quốc gia đều có chỉ số IFI tăng qua các năm. Trong các quốc gia, với số liệu được

tính toán, Philippines có IFI nhỏ nhất đạt 0.1664 (năm 2008), trong khi đó Malaysia có mức

cao nhất đạt 0.7938 (năm 2013). Xét riêng năm 2019, quốc gia có IFI thấp nhất vẫn là

Philippines ở mức 0.2698 và quốc gia cao nhất chính là Singapore đạt mức 0.7602.

Trong các quốc gia thuộc nhóm có chỉ số tài chính toàn diện cao, Malaysia là quốc gia có

IFI cao nhất trong quãng thời gian dài. Sở dĩ để có được kết quả trên, từ năm 2006, quốc gia

này đã triển khai các chính sách phát triển khu vực tài chính, khuyến khích các ngân hàng

thương mại đóng vai trò then chốt trong việc mở rộng tiếp cận tài chính cho các doanh nghiệp

vi mô (Rahman, 2015).

Bên cạnh đó, tác giả rất chú ý đến hiện tượng các ngân hàng mở rộng chi nhánh hay gia

tăng số lượng ATM, nhưng không thúc đẩy tài chính toàn diện. Kinh nghiệm từ một số quốc

gia Trung Đông và Nam Phi (MENA) cho thấy sự lan rộng của các tổ chức tài chính vi mô

cũng như ngân hàng đã không thành công trong việc giảm loại trừ tài chính, nghèo đói, bất

bình đẳng thu nhập và khả năng tiếp cận ít ỏi đối với các dịch vụ tài chính cơ bản vẫn là một

99

thiếu thốn đối với một bộ phận lớn dân số, nhất đặc biệt là những bộ phận yếu kém của xã

hội (Pearce, 2011; Neaime and Gaysset, 2018). Do vậy, trong các khía cạnh tác giả quan sát,

có khía cạnh sử dụng, với đo lường bằng tỷ lệ tiền gửi và cho vay trên GDP, khắc phục được

vấn đề này. Nhờ đó, phần phân tích này về mức độ tài chính toàn diện trở nên chính xác và

đầy đủ hơn.

Tóm lại, ở phần phân tích này, nghiên cứu đã cho thấy các quốc gia với sự quan tâm nhất

định đến tài chính toàn diện, dù có các kết quả về tài chính toàn diện khác nhau, nhưng cùng

có xu hướng ngày càng coi trọng vấn đề này và mức độ tài chính toàn diện ngày càng cao.

Tuy nhiên, nghi ngờ về sự gia tăng về tài chính toàn diện có thật sự giúp cho các ngân hàng

trở nên ổn định hơn hay không, tiếp tục được làm sáng tỏ ở các nội dung tiếp theo.

4.1.2. Mức độ ổn định hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN

Về chỉ số Zscore, chỉ số này được tính toán cho các ngân hàng các nước trong khối

ASEAN có sự thay đổi qua các năm (xem bảng 4.8). Các nước Việt Nam, Thái Lan, Indonesia

là ba quốc gia có chỉ số Zscore biến động thất thường và không thống nhất với bình quân

chung của khu vực.

Bảng 4.8. Chỉ số Zscore của hệ thống ngân hàng các nước và bình quân chung của

cả khu vực ASEAN từ năm 2008 – 2019

Năm ASEAN 317.77 2008 113.20 2009 159.65 2010 209.03 2011 160.30 2012 176.25 2013 171.45 2014 361.85 2015 228.94 2016 219.65 2017 224.05 2018 234.00 2019

Indonesia Malaysia Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam 169.08 153.42 29.49 41.38 208.62 127.48 236.42 104.00 51.48 51.38 57.06 62.11

60.89 54.56 1640.96 1942.62 182.11 116.90 182.25 343.18 194.53 390.92 393.09 403.08

24.68 51.11 121.53 344.22 133.15 89.88 81.96 133.18 113.57 365.60 373.54 385.83

40.05 57.65 80.39 105.54 64.66 83.59 392.50 774.85 525.05 120.55 127.54 131.39

906.27 871.00 75.64 72.13 87.85 324.47 178.26 184.15 179.18 144.18 144.41 148.82

204.31 176.75 164.92 109.36 162.69 126.75 140.79 178.28 211.18 405.43 414.79 444.61

(Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp từ Worldscope – trích xuất từ Datastream, 2020)

Xét từng quốc gia, cụ thể là Việt Nam, có thể thấy, các ngân hàng ở Việt Nam có mức độ

ổn định không đồng đều qua các năm. Chỉ có ba năm 2009, 2012, 2014, hệ thống ngân hàng

có sự ổn định cao hơn so với bình quân chung của cả khu vực ASEAN, những năm còn lại

100

chỉ số này đều thấp hơn và thấp hơn nhiều. Cụ thể trong ba năm này, Zscore của hệ thống

ngân hàng ở Việt Nam lần lượt đạt 153.42; 208,62; 236.42, bình quân của cả khu vực ASEAN

lần lượt đạt 113.20; 160,35; 171.45. Tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm ở Việt Nam

là -8.65%.

Ở Thái Lan, các ngân hàng ở quốc gia này có sự ổn định thấp trong suốt quãng thời gian

từ năm 2013 – 2016, nhưng ba năm sau đó 2017 – 2019 đều có Zscore cao lần lượt đạt 405.43;

414.79; 444.61 và cao hơn bình quân chung lần lượt là 219.65; 224.05; 234.00. Indonesia

cũng có kết quả tương tự như Thái Lan, thậm chí trong giai đoạn 2009 – 2016, hệ thống ngân

hàng quốc gia này chỉ năm 2012 mới có hệ số Zscore cao (đạt 344.22) và cao hơn bình quân,

các năm còn lại đều ở mức thấp hơn bình quân và thấp hơn so với Thái Lan; nhưng ba năm

gần nhất 2017 - 2019, kết quả đã được cải thiện rõ rệt, đạt 365.60; 373.54; 385.83 cao hơn so

với bình quân chung. Tốc độ tăng trưởng bình quân qua các năm ở hai quốc gia này là 9.66%

và 22.40%.

Các quốc gia còn lại, bao gồm Malaysia, Philippines, Singapore có kết quả tương đồng

với sự biến động của bình quân chung của cả khu vực cụ thể là từ năm 2012 đến năm 2019.

Trong đó năm cao nhất là năm 2011, ở Malaysia chỉ số này cao nhất trong tất cả các quốc gia

trong khu vực. Trong ba năm gần nhất, cả Philippines và Singapore đều duy trì ở mức thấp

hơn so với mức chung, trong khi Malaysia đạt kết quả này cao hơn. Tốc độ tăng tưởng bình

quân qua các năm của cả ba nước nói trên lần lượt là 22.14%; 8.59%; -16.20%.

Bảng 4.9. Tốc độ tăng trưởng tiền gửi của hệ thống ngân hàng các nước và bình

ĐVT: %

quân chung của cả khu vực ASEAN từ năm 2008 – 2019

Năm ASEAN Indonesia Malaysia Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam

2008 0.0733

0.0722

0.0919

0.1503

0.0574

0.0796

0.4233

2009 0.0577

0.1162

0.0880

0.1470

0.0673

0.0063

0.2979

2010 0.0645

0.1203

0.0472

0.0588

0.0683

0.0826

0.2996

2011 0.0349

0.0650

0.0320

0.0544

0.0623

0.0970

0.2510

2012 0.0340

0.0708

0.0302

0.0581

0.0433

0.1338

0.0649

2013 0.0555

0.1223

0.0799

0.0946

0.0318

0.1539

0.0529

2014 0.0504

0.1028

0.0619

0.0662

0.0163

0.1442

0.1419

2015 0.0562

0.0935

0.0651

0.0982

0.0802

0.0517

0.1432

2016 0.0587

0.0697

0.0576

0.0316

0.0639

0.0527

0.1032

101

2017 0.0782

0.0657

0.1065

0.0281

0.0886

0.0948

0.0425

2018 0.0453

0.0524

0.0619

0.0347

0.0568

0.0639

0.0596

2019 0.0436

0.0440

0.0474

0.0387

0.0570

0.0519

0.0262

(Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp từ Worldscope – trích xuất từ Datastream, 2020)

Về sự biến động của tăng trưởng tiền gửi (được đo lường thông qua độ lệch chuẩn –

sdGrDep), cho biết sự ổn định trong việc thu hút tiền gửi cũng có thấy qua các năm có sự thay

đổi giữa các năm và giữa các quốc gia (xem bảng 4.9). Trong đó Việt Nam là quốc gia có độ

lệch chuẩn được giảm thiểu rõ nhất, từ 0.4233 ở năm 2008 giảm xuống còn 0.0262. Các quốc

gia còn lại trong khu vực cũng có xu hướng giảm sự biến động này.

Về tỷ lệ nợ xấu (so với tổng tài sản), như đã phân tích ở trên, được sử dụng để đo lường

sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Chỉ số này ở các nước biến động khác nhau ở các quốc

gia trong khu vực (xem bảng 4.10), nhưng nhìn chung toàn khu vực cho xu hướng giảm tỷ lệ

nợ xấu.

Bảng 4.10. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng các nước và bình quân chung của

ĐVT: %

cả khu vực ASEAN từ năm 2008 – 2019

Năm ASEAN Indonesia Malaysia Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam

2008 1.97 2.40 2.13 2.38 0.90 1.37 3.49

2009 2.03 2.57 2.06 2.41 1.07 1.22 3.38

2010 1.82 2.28 1.96 2.21 0.93 0.67 3.02

2011 1.72 1.95 1.72 2.14 0.86 0.99 3.20

2012 1.58 1.69 1.34 1.99 0.88 1.07 3.10

2013 1.33 1.66 1.13 1.40 0.82 0.92 2.46

2014 1.32 1.64 1.02 1.29 0.80 0.86 2.69

2015 1.35 1.89 0.94 1.19 0.84 1.17 2.58

2016 1.53 2.36 0.99 1.13 0.87 1.23 3.10

2017 1.45 2.26 0.60 1.09 0.84 1.11 3.39

2018 1.46 2.16 0.69 1.01 0.71 1.26 3.62

2019 1.44 2.08 0.68 1.04 0.69 1.21 3.91

(Nguồn: Tác giả tính toán và tổng hợp từ Worldscope – trích xuất từ Datastream, 2020)

Trong các nước, quốc gia có tỷ lệ nợ xấu thấp và luôn thấp hơn so với bình quân của cả

khu vực là Singapore và Việt Nam. Ở Singapore, năm có kết quả thấp nhất là năm 2019 chỉ

102

0.69% so với tổng tài sản của hệ thống ngân hàng của nước này. Ở Việt Nam, con số này thấp

nhất ở mức 0.67% vào năm 2010.

Philippines và Malaysia những năm đầu có tỷ lệ nợ xấu cao, nhưng những năm sau được

cải thiện tốt hơn. Cụ thể, ở Malaysia, từ năm 2012 trở đi, hệ thống ngân hàng ở quốc gia này

có tỷ lệ nợ xấu duy trì ở mức thấp hơn so với toàn khu vực. Tình trạng này ở Philippines bắt

đầu từ năm 2014 cho đến năm 2019. Hai quốc gia còn lại, Thái Lan và Indonesia là hai quốc

gia có tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng khá cao, cao hơn so với khu vực; với Indonesia

có xu hướng giảm tỷ lệ này trong những năm gầy đây, 2016 – 2019.

Phần phân tích này cho thấy, mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia có

sự khác biệt nhau, và có sự biến động qua các năm ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, xu hướng

chung, nhất là những năm gần đây, hệ thống ngân hàng các nước có sự cải thiện về ổn định,

với chỉ số Zscore được nâng lên, mức độ biến động của tăng trưởng tiền gửi và tỷ lệ nợ xấu

được giảm xuống. Sự ổn định hệ thống ngân hàng, như đã được trình bày trước, chịu sự tác

động của nhiều nhân tố, trong đó phải kể đến mức độ tài chính toàn diện ở các quốc gia. Trong

khi đó, nội dung ở mục 4.1.1 đã phân tích cho thấy tài chính toàn diện ở các quốc gia ASEAN

được nâng cao đáng kể. Vậy, liệu sự cải thiện về tài chính toàn diện có giúp thúc đẩy sự ổn

định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia trong khu vực hay không; câu hỏi này sẽ được

trả lời ở nội dung tiếp theo, với phần trình bày về kết quả hồi quy và các thảo luận về kết quả

đạt được.

4.2. TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ

THỐNG NGÂN HÀNG TẠI CÁC QUỐC GIA ASEAN

4.2.1. Thống kê mô tả và tương quan giữa các biến

4.2.1.1. Một số thống kê mô tả các biến trong mô hình

Bảng 4.11 cho thấy các biến trong mô hình một cách tổng quát nhất, từ mẫu quan sát là

102 ngân hàng ở các nước trong khu vực ASEAN. Giá trị trung bình của ln (Zscore) xấp xỉ

1.4318 với độ lệch chuẩn là 0.3233, ngụ ý rằng ROA trung bình sẽ phải giảm 1.4318 lần độ

lệch chuẩn của chính ROA mới làm vốn chủ sở hữu ngân hàng bằng 0. Giá trị nhỏ nhất của

ln (Zscore) là -0.8642 và giá trị lớn nhất là 2.0394 cho thấy có sự khác biệt về sự ổn định hệ

thống ngân hàng giữa các ngân hàng ở các quốc gia, nhưng từ giá trị trung bình vả độ lệch

chuẩn cho thể thấy sự khác biệt này là không quá lớn. Tương tự như vậy, giá trị trung bình

103

của ln(sdGrDep) xấp xỉ -2.3315 với độ lệch chuẩn là 0.9933, giá trị nhỏ nhất là -6.1964 và

lớn nhất là 5.2725. Biến NPLTA có giá trị trung bình xấp xỉ 0.0146 với độ lệch chuẩn là

0.0364; giá trị nhỏ nhất là 0 và giá trị lớn nhất là 0.1967.

Bảng 4.11. Thống kê mô tả các biến

Biến Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất

0.3233

-0.8642

2.0394

lnZscore

1.4318

0.9933

-6.1964

5.2725

ln(sdGrDep)

-2.3315

0.0364

0

0.1967

NPLTA

0.0146

0.1856

0.1664

0.7938

IFI

0.4386

0.2365

0.1001

0 .9963

IFIp

0.4403

0.0988

0.0716

0.4011

IFIa

0.2254

0.2445

0.1843

0.9672

IFIu

0.4164

2.1226

6.6373

19.8801

lnTA

15.6841

0.0281

-0.0332

0.4048

LossProv

0.0109

16.7629

-1.0880

99.5271

NonIncome

1.0661

0.2682

-3.9607

0.9134

EQA

0.1020

0.0795

0.1387

0.9854

EAtoTA

0.8557

0.1594

-1.0273

0.5455

Lerner

0.2203

0.0172

-0.0151

0.1453

GDPrate

0.0529

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ Stata 16.0)

Đối với biến về tài chính toàn diện, giá trị lớn nhất của IFI là 0.7938 và giá trị nhỏ nhất là

0.1664 cho thấy sự không đồng nhất về mức độ tài chính toàn diện của các hệ thống tài chính

ở các quốc gia trong ASEAN, nhưng giá trị trung bình của IFI là 0.4386, độ lệch chuẩn 0.1856

lại cho cho thấy sự không đồng nhất này là không quá lớn. Các chỉ số đại diện cho từng khía

cạnh của tài chính toàn diện như khía cạnh thâm nhập (IFIp) có giá trị lớn nhất 0.9963 và nhỏ

nhất 0.1001; khía cạnh sẵn có (IFIa) có giá trị lớn nhất 0.4011 và nhỏ nhất 0.0716; khía cạnh

sử dụng (IFIu) có giá trị lớn nhất 0.9672 và nhỏ nhất 0.1843.

Các biến khác, như về quy mô của ngân hàng, biến đại diện là ln(TA) có giá trị trung bình

là 15.6841, độ lệch chuẩn 2.1226, đã cho thấy không có sai biệt quá lớn giữa các ngân hàng

các quốc gia. Các biến như lợi nhuận hoạt động (EAtoTA), tốc độ tăng trưởng kinh tế

(GDPrate), cũng có kết luận tương tự. Tuy nhiên, một số biến tồn tại sự khác biệt rõ ràng

104

giữa các ngân hàng, như dự phòng rủi ro mất nợ (LossProv), tỷ lê thu nhập phi lãi

(NonIncome), mức độ sử dụng vốn chủ sở hữu (EQA).

4.2.1.2. Ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình

Hệ số tương quan (r) là chỉ số thống kê phản ánh mức độ quan hệ tuyến tính giữa các biến.

Hệ số này biến thiên từ +1 đến -1. Thông qua hệ số tương quan có thể biết chiều tương quan

riêng giữa biến phụ thuộc với biến giải thích. Đồng thời cho thấy xuất hiện hiện tượng đa

cộng tuyến trong mô hình hồi quy (nếu r > 0.8). Trong trường hợp có sự khác biệt về xu

hướng tác động của các biến giải thích và biến phụ thuộc giữa kết quả theo hệ số tương quan

và kết quả theo mô hình hồi quy. Khi đó, mô hình hồi quy có thể chưa đáp ứng đủ các giả

thuyết của mô hình nghiên cứu, điều này làm dấu của hệ số ước lượng có thể khác biệt so với

xu hướng tác động dựa trên số liệu thực tế. Theo Hoàng Ngọc Nhậm (2008), mối quan hệ

tuyến tính giữa các biến có thể được ước lượng thông qua giá trị hệ số tương quan như sau:

(i) r > 0: Hai biến số có mối quan hệ cùng chiều;

r < 0: Hai biến số có mối quan hệ ngược chiều;

r = 0: Hai biến số không có mối quan hệ tuyến tính.

(ii) |r| = 1: Tương quan tuyến tính tuyệt đối.

(iii) |r| > 0.8: Tương quan tuyến tính rất mạnh.

(iv) |r| = 0.6 – 0.8: Tương quan tuyến tính mạnh.

(v) |r| = 0.4 – 0.6: Có tương quan tuyến tính.

(vi) |r| = 0.2 – 0.4: Tương quan tuyến tính yếu.

(vii) |r| < 0.2 Tương quan tuyến tính rất yếu hoặc không có tương quan tuyến tính.

Cụ thể hơn, khi tương quan cặp giữa các biến giải thích cao (lớn hơn 0.5) thì có thể xảy ra

đa cộng tuyến (Hoàng Ngọc Nhậm, 2008). Bảng 4.12, cho biết sự tương quan giữa tất cả các

biến trong mô hình, với biến đại diện của tài chính toàn diện là chỉ số tài chính toàn diện tổng

hợp – IFI và các biến phụ thuộc bao gồm ln(Zscore), ln(sdGrDep) và NPLTA. Hầu hết, các

biến đều có tương quan tuyến tính rất yếu hoặc yếu. Ma trận tương quan các biến đối với các

biến còn lại đại diện của tài chính toàn diện như IFIp, IFIa, IFIu được trình bày ở phụ lục A8.

105

Bảng 4.12. Ma trận tương quan các biến trong mô hình

Với biến phụ thuộc là ln(Zscore)

ln(Zscore) IFI lnTA LossProv NonIncome EQA EAtoTA Lerner GDPrate

Ln(Zscore) 1

IFI 0.1493 1

lnTA 0.3277 0.4895 1

LossProv -0.1916 -0.0441 -0.1304 1

NonIncome -0.0462 0.0127 0.0433 0.0138 1

EQA 0.0692 -0.1579 -0.4186 0.1828 -0.0329 1

EAtoTA 0.1335 0.4203 0.2491 -0.0529 -0.0037 -0.2137 1

Lerner 0.4132 0.0795 0.2401 -0.3731 -0.0099 -0.0028 0.1324 1

GDPrate 0.0553 -0.2932 -0.1466 -0.0228 -0.0102 0.0212 -0.2486 -0.0117 1

Với biến phụ thuộc là ln(sdGrDep)

ln(sdGrDep) IFI lnTA LossProv NonIncome EQA EAtoTA Lerner GDPrate

ln(sdGrDep) 1

-0.1299 1 IFI

-0.2764 0.5322 1 lnTA

0.0127 -0.0632 -0.1610 1 LossProv

-0.0192 0.0154 0.0387 0.0132 NonIncome 1

0.0125 -0.0367 -0.1830 -0.0451 -0.0278 EQA 1

0.0518 0.4218 0.2704 -0.0550 -0.0040 -0.1092 EAtoTA 1

Lerner -0.0508 0.0772 0.1834 -0.5915 -0.0047 0.2367 0.0730 1

GDPrate -0.0825 -0.2366 -0.1186 -0.0168 -0.0049 -0.0498 -0.2342 -0.0039 1

106

Với biến phụ thuộc là NPLTA

NPLTA IFI lnTA LossProv NonIncome EQA EAtoTA Lerner GDPrate

NPLTA 1

IFI -0.1364 1

lnTA -0.0565 0.4985 1

LossProv 0.1784 -0.0474 -0.1636 1

NonIncome 0.0232 0.0132 0.0423 1 0.0108

EQA -0.0132 -0.1396 -0.4379 -0.0251 1 0.1866

EAtoTA -0.0407 0.4079 0.2392 -0.0037 -0.1220 1 -0.0594

Lerner -0.1584 0.0806 0.2671 -0.0070 -0.0272 0.1388 1 -0.4566

GDPrate -0.0883 -0.2862 -0.1467 -0.0104 0.0295 -0.2346 -0.0123 1 -0.0285

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ Stata 16.0)

107

4.2.2. Kết quả hồi quy về sự tác động của tài chính toàn diện đến ổn định của hệ

thống ngân hàng tại các quốc gia ASEAN

4.2.2.1. Tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng

thông qua biến chỉ số tài chính toàn diện IFI

Kết quả hồi quy bằng ước lượng SGMM tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định

của hệ thống ngân hàng ở các nước ASEAN được trình bày ở bảng 4.13, với biến đại diện

ln(sdGrDep) và NPLTA. Với kết quả được trình bày ở bảng trên, biến IFI có tác động đến

cho tài chính toàn diện là chỉ số tổng hợp IFI và ba biến đại diện cho sự ổn định là ln(Zscore),

biến ln(Zscore), ln(sdGrDep) và NPLTA có ý nghĩa thống kê ở mức độ tin cậy là 99% với hệ

số hồi quy là 0.0933, -0.8211, -0.0076. Điều này có nghĩa rằng IFI tác động tích cực đến

ở mô hình 2, hầu hết các biến còn lại đều có kết quả đúng như kỳ vọng và ý nghĩa thống kê.

Zscore, tiêu cực đến sdGrDep và NPLTA. Ngoại trừ biến Lerner ở mô hình một và NonIncome

Bảng 4.13. Kết quả hồi quy tác động của IFI

Biến (1) ln(Zscore) (2) ln(sdGrDep) (3) NPLTA

l.ln(Zscore) 0.1923***

l.ln(sdGrDep) 0.3023***

l.NPLTA 0.3346***

IFI 0.0933*** -0.8211*** -0.0076***

lnTA 0.0476*** -0.1663*** -0.0003***

LossProv -2.5901*** 2.5630** 0.7426***

NonIncome -0.0012*** 0.0000 0.0001***

EQA 2.0283*** -4.4926*** -0.1338***

EAtoTA 0.2221** 4.2236*** -0.0339***

Lerner 0.0670 0.7917*** 0.0141***

GDPrate 0.3484** -0.3826 -0.0587***

Constant -0.0740 -1.8397*** 0.0574***

Số nhóm 93 93 93

Số công cụ 68 68 93

AR2 0.183 0.200 0.333

Hansen 0.572 0.369 0.676

***,**, *: mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ Stata 16.0)

108

Ở cả ba mô hình nói trên, kết quả kiểm định Hansen để kiểm định tính over-identifying

của các biến công cụ cho thấy hệ số p-value đều lớn hơn 0.05, tức biến công cụ trong mô hình

thỏa tính over-identifying. Bên cạnh đó, kiểm định tự tương quan bậc hai (AR2) cho kết quả

p-value đều lớn hơn 0.05 nên phần dư của mô hình không tồn tại hiện tượng tự tương quan

bậc 2. Như vậy, các kiểm định đối với ước lượng bằng SGMM đều thỏa điều kiện nên các kết

quả tìm thấy được trong mô hình là vững và hoàn toàn có thể phân tích được.

4.2.2.2. Tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng

thông qua các khía cạnh của tài chính toàn diện

a. Khía cạnh thâm nhập (IFIp)

Khía cạnh thâm nhập là một trong ba khía cạnh quan trọng của tài chính toàn diện. Kết

quả hồi quy (bảng 4.14) cho thấy kết quả có cùng chiều với IFI nói trên. Với mức độ tin cậy

là 99%, IFIp có tác động đến biến ln(Zscore), ln(sdGrDep) và NPLTA.

Bảng 4.14. Kết quả hồi quy tác động của IFIp

Biến (4) ln(Zscore) (5) ln(sdGrDep) (6) NPLTA

l.ln(Zscore) 0.1932***

l.ln(sdGrDep) 0.2910***

l.NPLTA 0.3291***

IFIp 0.0574*** -0.6269*** -0.0074***

lnTA 0.0490*** -0.1700*** -0.0002***

LossProv -2.5496*** 2.3873* 0.7370***

NonIncome -0.0012*** 0.0003 0.0001***

EQA 2.1078*** -4.6729*** -0.1258***

EAtoTA 0.2617*** 4.0664*** -0.0333***

Lerner 0.0664 0.7667*** 0.0140***

GDPrate 0.3204** -0.2878 -0.0581***

Constant -0.1277 -1.6953*** 0.0545***

Số nhóm 93 93 93

Số công cụ 68 68 93

AR2 0.193 0.237 0.332

Hansen 0.590 0.361 0.721

***,**, *: mức ý nghĩa 1%, 5%,10%

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ Stata 16.0)

109

Hệ số hồi quy lần lượt là 0.0574, -0.6269 và -0.0074, kết quả này cho biết, IFIp tác động

làm tăng ln(Zscore) và làm giảm sdGrDep, NPLTA. Hầu hết các biến còn lại, ngoại trừ biến

Lerner ở mô hình 4 và NonIncome ở mô hình 5, đều có hệ số hồi quy đúng với kỳ vọng và có

ý nghĩa thống kê. Các kiểm định Hansen ở cả ba mô hình có hệ số p-value đều lớn hơn 0.05,

tức biến công cụ trong mô hình thỏa tính over-identifying; kiểm định tự tương quan bậc hai

(AR2) cho kết quả p-value đều lớn hơn 0.05 nên phần dư của mô hình không tồn tại hiện

tượng tự tương quan bậc 2. Như vậy, các kiểm định đối với ước lượng bằng SGMM đều thỏa

điều kiện nên các kết quả tìm thấy được trong mô hình này cũng có tính vững và hoàn toàn

có thể phân tích được.

b. Khía cạnh sẵn có (IFIa)

Khía cạnh thứ hai của tài chính toàn diện chính là tính sẵn có (IFIa), với kết quả hồi quy

ở bảng 4.15, cũng có kết quả tương tự. Với mức độ tin cậy là 99%, IFIa có tác động tiêu cực

đến biến ln(sdGrDep) và NPLTA, hệ số hồi quy lần lượt là -0.6626 và -0.0014.

Bảng 4.15. Kết quả hồi quy tác động của IFIa

Biến (7) ln(Zscore) (8) ln(sdGrDep) (9) NPLTA

l.ln(Zscore) l.ln(sdGrDep) l.NPLTA IFIa lnTA LossProv NonIncome EQA EAtoTA Lerner GDPrate Constant Số nhóm Số công cụ AR2 Hansen 0.1960*** -0.0434 0.0501*** -3.478*** -0.0009*** 2.3586*** 0.4328*** 0.1974** 0.3168* -0.3278*** 93 68 0.166 0.377 0.3267*** -0.6626*** -0.2032*** 1.7711 0.0008 -5.7944*** 3.6495*** 0.5204** 0.1113 -0.7434* 93 68 0.190 0.251 0.3461*** -0.0014*** -0.0009*** 0.7419*** 0.0001*** -0.1574*** -0.0399*** 0.0137*** -0.0533*** 0.0707*** 93 93 0.343 0.567

***,**, *: mức ý nghĩa 1%, 5%,10%

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ Stata 16.0)

110

Tuy nhiên ở khía cạnh này, tác giả không tìm thấy bằng chứng làm sáng tỏ tác động của

IFIa đến ln(Zscore); bởi hệ số hồi quy không có độ tin cậy cao. Các biến còn lại, ngoại trừ

biến LossProv, NonIncome, GDPrate ở mô hình 8, hầu hết đều có hệ số hồi quy đúng với kỳ

vọng và có ý nghĩa thống kê. Các kiểm định Hansen ở hai mô hình có hệ số p-value và kiểm

định tự tương quan bậc hai (AR2) cho kết quả p-value đều lớn hơn 0.05. Như vậy, các kiểm

định đối với ước lượng bằng SGMM đều thỏa điều kiện nên các kết quả tìm thấy được trong

mô hình này cũng có tính vững và hoàn toàn có thể phân tích được.

c. Khía cạnh sử dụng (IFIu)

Cuối cùng là khía cạnh sử dụng – biến đại diện IFIu, với kết quả hồi quy ở bảng 4.16,

cũng cho thấy sự tác động tượng tự với IFI và hai khía cạnh nói trên. Với mức độ tin cậy là

99%, IFIu có tác động đến biến ln(Zscore), ln(sdGrDep) và NPLTA.

Bảng 4.16. Kết quả hồi quy tác động của IFIu

Biến (10) ln(Zscore) (11) ln(sdGrDep) (12) NPLTA

l.ln(Zscore) 0.1785***

l.ln(sdGrDep) 0.3145***

l.NPLTA 0.3408***

0.2486*** -0.5061** IFIu -0.0034***

0.0385*** -0.1908*** lnTA -0.0007***

-3.1601*** 3.2551** LossProv 0.7489***

NonIncome -0.0008** -0.0002 0.0001***

EQA 1.9812*** -6.5123*** -0.1572***

EAtoTA 0.1047 3.6191*** -0.0394***

Lerner 0.0282 0.8732*** 0.0148***

GDPrate 0.5677*** -0.5434 -0.0548***

Constant 0.1449 -0.8216* 0.0685***

Số nhóm 93 93 93

Số công cụ 68 68 93

AR2 0.118 0.151 0.336

Hansen 0.417 0.322 0.666

***,**, *: mức ý nghĩa 1%, 5%,10%

(Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ Stata 16.0)

111

Hệ số hồi quy lần lượt là 0.2486, -0.5061 và -0.0034; kết quả này cho biết, IFIu tác động

tích cực đến Zscore và làm giảm sdGrDep, NPLTA, từ đó cho thấy là thúc đẩy tính ổn định

của hệ thống ngân hàng.Các biến còn lại, ngoại trừ biến Lerner ở mô hình 5, hầu hết cũng đều

có hệ số hồi quy đúng với kỳ vọng và có ý nghĩa thống kê. Các kiểm định Hansen ở hai mô

hình có hệ số p-value và kiểm định tự tương quan bậc hai (AR2) cho kết quả p-value đều lớn

hơn 0.05. Như vậy, các kiểm định đối với ước lượng bằng SGMM đều thỏa điều kiện nên các

kết quả tìm thấy được trong mô hình này cũng có tính vững và hoàn toàn có thể phân tích

được.

Nhìn chung xu hướng tác động của các biến IFI, IFIp, IFIa, IFIu – đại diện cho tài chính

toàn diện, đến biến ln(Zscore), ln(sdGrDep) và NPLTA – đại diện cho sự ổn định của hệ

thống ngân hàng, là đúng như kỳ vọng ban đầu của tác giả và có ý nghĩa thống kê. Hầu hết

các biến còn lại của các mô hình cũng đều có kết quả đúng như kỳ vọng. Các giải thích chi

tiết cho kết quả này sẽ được thảo luận ở phần tiếp theo.

4.2.3. Thảo luận về tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống

ngân hàng

Một cách khái quát, kết quả hồi quy từ mô hình ước lượng SGMM cho thấy tài chính toàn

diện có tác động tích cực đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng tại các nước ASEAN trong giai đoạn 2008 – 2019 (sau khi kiểm soát các biến cấp ngân hàng và quốc gia). Hầu hết

các hệ số hồi quy ở các mô hình khác nhau – được tác giả tập hợp ở bảng 4.17 – đều có chiều

hướng đúng kỳ vọng và có ý nghĩa thống kê.

Bảng 4.17. Tổng hợp hệ số hồi quy của các mô hình hồi quy tác động của tài chính

toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng

Ổn định hệ thống ngân hàng

Tài chính toàn diện ln(Zscore) ln(sdGrDep) NPLTA

IFI 0.0933*** -0.8211*** -0.0076***

IFIp 0.0574*** -0.6269*** -0.0074***

IFIa -0.0434 -0.6626*** -0.0014***

IFIu 0.2486*** -0.5061** -0.0034***

(Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Stata 16.0)

112

Bảng 4.17 cho thấy tài chính toàn diện, với biến đại diện là chỉ số tổng hợp tài chính toàn

diện – IFI, có tồn tại mối quan hệ thuận chiều với sự ổn định của hệ thống ngân hàng, biến

đại diện là Zscore (trong bài nghiên cứu tác giả dùng ln(Zscore)) với độ tin cậy cao 99%. Hệ

số hồi quy của biến IFI là 0.0933 cho thấy khi các yếu tố khác không đổi, IFI của quốc gia

tăng (giảm) 0.01 đơn vị thì Zscore tăng (giảm) 0.0933%.

Với biến đại diện là ln(sdGrDep), hệ số hồi quy của IFI là -0.8211, cho biết IFI tăng 0.01

đơn vị thì sdGrDep giảm với tỷ lệ là 0.8211%. Điều này đồng nghĩa với với việc càng nâng

cao tài chính toàn diện càng làm giảm sự biến động của tốc độ tăng tiền gửi, từ đó làm giữ

lượng tiền gửi ổn định, và giúp ổn định các ngân hàng. Đồng thời, với biến phụ thuộc là

NPLTA, IFI cũng có tác động nghịch chiều với tỷ lệ nợ xấu, tức là càng gia tăng mức độ tài

chính toàn diện, thì nợ xấu ở ngân hàng càng được giảm; với hệ số hồi quy là -0.0076, cho

biết IFI tăng 0.01 đơn vị, thì tỷ lệ nợ xấu giảm 0.0076 đơn vị.

Chỉ số tài chính toàn diện chỉ dao động từ 0 đến 1, vì vậy một sự gia tăng nhẹ về mức độ

của tài chính toàn diện cũng có thể thúc đẩy sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Đây cũng là

kết quả trọng yếu nhất trong phân tích, có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nhất là về mặt kinh tế

vì nó cho thấy rằng tài chính toàn diện giúp các ngân hàng có cơ sở tiền gửi an toàn cũng như

các cơ hội cho vay rộng hơn; làm giảm rủi ro thanh toán và gia tăng sự ổn định. Do đó, với

tài chính toàn diện càng tốt, các ngân hàng được hưởng sự ổn định tài chính cao hơn.

Xét đến từng khía cạnh của tài chính toàn diện, có thể thấy cả ba khía cạnh thâm nhập, sẵn

có và sử dụng, biến đại diện IFIp, IFIa và IFIu, đều có những kết quả tích cực đối với sự ổn

định của hệ thống ngân hàng. Ở khía cạnh thâm nhập, với biến đại diện cho sự ổn định của

hệ thống ngân hàng là ln(Zscore), ln(sdGrDep), NPLTA, có hệ số hồi quy lần lượt là 0.0574,

-0.6269, -0.0074. Điều này cho thấy, khi IFIp tăng (giảm) 0.01 đơn vị, thì Zscore tăng (giảm)

với tỷ lệ tăng là 0.0288%; sdGrDep giảm (tăng) với tỷ lệ giảm (tăng) là 0.6269% và NPLTA

cũng giảm (tăng) 0.0074 đơn vị. Như vậy, kết quả của khía cạnh này đã củng cố cho lập luận

về tác động của tài chính toàn diện và chỉ rõ rằng sự gia tăng về số lượng tài khoản mà người

trưởng thành sở hữu, sẽ có ảnh hưởng tích cực đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng,

đúng như kỳ vọng ban đầu của tác giả. Hơn nữa kết quả hồi quy về sự tác động tích cực của

khía cạnh này, tương thích với xu hướng gia tăng số lượng tài khoản ngân hàng trong 100,000

người dân; cùng với xu hướng cải thiện sự ổn định của hệ thống ngân hàng, nhất là trong

những năm từ 2015 trở lại đây (nội dung này được trình bày ở phần 4.1).

113

Ở khía cạnh sẵn có, mặc dù chưa có bằng chứng làm sáng tỏ về sự tác động của khía cạnh

này (IFIa) với biến ln(Zscore), nhưng kết quả hồi quy với biến phụ thuộc ln(sdGrDep) và

NPLTA lại có chiều đúng như kỳ vọng và có ý nghĩa thống kê. Hệ số hồi quy lần lượt là

-0.6626, -0.0014, cho thấy, khi IFIa tăng (giảm) 0.01 đơn vị, thì sdGrDep giảm (tăng) với tỷ

lệ giảm (tăng) là 0.6626% và NPLTA cũng giảm 0.0014 đơn vị. Kết quả của khía cạnh này

ủng hộ cho quan điểm rằng tài chính toàn diện mang lại lợi ích cho sự ổn định của hệ thống

ngân hàng ở các quốc gia ASEAN, đồng thời chỉ rõ rằng sự gia tăng về số lượng chi nhánh

ngân hàng hay ATM, sẽ giúp cho ngân hàng dễ tiếp cận với các khách hàng nhỏ lẻ, nhất là ở

vùng nông thôn, giúp cho ngân hàng có được các khoản tiền gửi ổn định và các khoản vay an

toàn, từ đó ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng, đúng như kỳ vọng ban

đầu của tác giả.

Ở khía cạnh mức độ sử dụng (IFIu), với các biến đại diện cho sự ổn định của hệ thống

ngân hàng là ln(Zscore), ln(sdGrDep), NPLTA, hệ số hồi quy thu về lần lượt là 0.2486,

-0.5061, -0.0034, có chiều hướng đúng như kỳ vọng và có ý nghĩa thống kê. Các hệ số hồi

quy cho biết khi IFIu tăng 0.01 đơn vị, thì thì Zscore tăng với tỷ lệ tăng là 0.24%, sdGrDep

giảm với tỷ lệ giảm là 0.5061%, NPLTA cũng giảm 0.0034 đơn vị, và ngược lại. Kết quả hồi

quy thu được từ khía cạnh này đã cung cấp thêm bằng chứng ủng hộ cho các giải thích trên,

và làm sáng tỏ rằng tài chính toàn diện với sự gia tăng về mức độ sử dụng, tức là sự gia tăng

về tỷ lệ tiền gửi và cho vay (so với GDP), nhất là các tiết kiệm và tín dụng tư nhân cho các

khách hàng bán lẻ, có thể giúp cho ngân hàng duy trì được lượng tiền gửi ổn định và hạn chế

các rủi ro đến từ các khoản vay, từ đó ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân

hàng.

Từ những phân tích trên, có thể kết luận rằng tài chính toàn diện có tác động tích cực đối

với sự ổn định của hệ thống ngân hàng tại các nước ASEAN trong giai đoạn 2008 – 2019. Cụ

thể, tài chính toàn diện có tác động làm tiền gửi tăng trưởng ổn định và làm giảm tỷ lệ nợ xấu,

từ đó giảm rủi ro và gia tăng sự ổn định. Đối với biến Zscore, tài chính toàn diện có xu hướng

tác động làm gia tăng chỉ số này, đồng nghĩa với việc làm gia tăng tính ổn định của hệ thống

ngân hàng.

Tác động tích cực của tài chính toàn diện đối với ổn định của hệ thống ngân hàng thông

qua kênh dẫn (i) về tiền gửi, thể hiện ở lượng tiền gửi ổn định (trong luận án, tác giả sử dụng

độ lệch chuẩn của tốc độ tăng trưởng tiền gửi) đã được khá nhiều tác giả ủng hộ. Chẳng hạn

114

như Ahamed and Mallick (2019) đã khẳng định rằng tài chính toàn diện càng sâu rộng sẽ góp

phần giúp các ngân hàng ổn định hơn thông qua việc cung cấp cơ sở tiền gửi ít rủi ro, chi phí

rẻ và dễ phục hồi dù có khủng hoảng xảy ra. Nghiên cứu ở các quốc gia MENA, Neaime and

Gaysset (2018) cũng có kết quả rằng tài chính toàn diện (đo lường thông qua số lượng ATM

trong 100,000 người trưởng thành) có tác động tích cực đến sự ổn định của tốc độ tăng trưởng

tiền gửi. Ahamed and Mallick (2019) còn có kết quả phân tích cho thấy số lượng tài khoản

ngân hàng trong 100,000 người trưởng thành và mức độ phổ biến của các chi nhánh ngân

hàng hay ATM có tác động thúc đẩy sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Hay nói cách khác,

khía cạnh thâm nhập và sự sẵn có của tài chính toàn diện cần được chú ý thúc đẩy để nâng

cao sự ổn định.

Giải thích cho vấn đề này, các tác giả cho rằng thâm nhập mạng lưới chi nhánh ngân hàng

theo địa lý hoặc nhân khẩu học - các ngân hàng có thể phục vụ nhiều đối tượng khách hàng

có khả năng với chi phí giảm (Berger, Hasan and Zhou, 2010). Các nghiên cứu thực nghiệm

cũng cho thấy rằng các ngân hàng có tiền gửi bán lẻ nhiều hơn, có tính ổn định cao hơn trong

cuộc khủng hoảng tài chính (Demirgüç-Kunt and Huizinga, 2010; Poghosyan and Čihak,

2011). Và Han and Melecky (2014) đã tìm thấy bằng chứng rằng, theo quy luật số lượng lớn,

việc rút tiền gửi có liên quan lẫn nhau (hiện tượng tháo chạy khỏi ngân hàng – bank runs) có

thể được giảm thiểu trong thời gian căng thẳng nếu tiền gửi ngân hàng đa dạng hơn, tức là

nhiều cá nhân và nhiều công ty nắm giữ tiền gửi hơn. Các ngân hàng định hướng bán lẻ sẽ

kém ổn định hơn đáng kể nếu họ tăng tỷ trọng tài trợ không phải tiền gửi (Köhler, 2015). Tất

cả những quan điểm của các tác giả nói trên đã củng cố cho kết quả nghiên cứu của luận án,

rằng việc càng nâng cao tài chính toàn diện càng hạn chế được tình trạng tháo chạy khỏi ngân

hàng, thông qua tiền gửi được gửi vào ngân hàng ổn định, từ đó giúp hệ thống ngân hàng

được ổn định hơn.

Đối với kênh dẫn (ii) về cho vay, kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy về việc tài chính

toàn diện sâu rộng giúp ngân hàng giảm tỷ lệ nợ xấu, qua đó gia tăng sự ổn định, và kết quả

này được nhiều nghiên cứu trước ủng hộ. Hauswald and Marquez (2006) đã chỉ ra rằng người

cho vay có thể nhận được tín hiệu chính xác về chất lượng của người đi vay nếu họ giảm

khoảng cách với người đi vay. Điều này hoàn toàn phù hợp với kết quả hồi quy của luận án,

khi các ngân hàng ngày càng mở rộng chi nhánh, sự tiếp cận người đi vay càng thuận tiện

hơn, khoảng cách giữa ngân hàng và khách hàng được giảm xuống. Ngoài ra, các tác giả

115

Ahamed and Mallick (2019); Bruhn and Love (2014); Burgess and Pande (2005) đã giải thích

rõ rằng tài chính toàn diện góp phần cải thiện tình trạng thất nghiệp, tạo ra thêm công ăn việc

làm, giúp người lao động được tiếp tục có việc làm, có thu nhập; từ đó, người lao động có

thêm nguồn ổn định để chi trả cho các khoản nợ ngân hàng hay có thể tiếp tục sử dụng dịch

vụ các ngân hàng cung cấp, thông qua đó ngân hàng cũng có sự ổn định tốt hơn. Việc nâng

cao tài chính toàn diện giúp ngân hàng mở rộng các khoản vay nhỏ lẻ, có thể mang lại lợi

nhuận nhiều hơn và an toàn hơn, nhờ tính chất của đa dạng hóa danh mục đầu tư (Boot and

Schmeits, 2000; Rossi, Schwaiger and Winkler, 2009; Shaban et al., 2014). Adasme, Majnoni

and Uribe (2006) nghiên cứu ở các ngân hàng Chile đã cho thấy các khoản vay nhỏ thường

an toàn hơn. Từ đó, các ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro liên quan đến nợ xấu và duy trì

được sự ổn định.

Ngoài ra, những tác động tích cực của tài chính toàn diện không chỉ thể hiện thông qua

tiền gửi và cho vay của ngân hàng, mà còn thông qua tăng trưởng kinh tế toàn diện và ổn

định, do đó có thể dẫn đến hiệu quả cao hơn trong các trung gian tài chính và sự lành mạnh

của các ngân hàng (Cull, Demirguc-kunt and Layman, 2012; Hannig and Jansen, 2010; Khan,

2011). Như vậy, tổng hợp tất cả các quan điểm trên, từ những nhận định kết quả hồi quy của

luận án, đến các quan điểm của các nghiên cứu trước, có thể khẳng định rằng tài chính toàn

diện càng được thúc đẩy, ổn định hệ thống ngân hàng càng được nâng cao. Ngoài tác động

tích cực từ hai khía cạnh của tài chính toàn diện (thâm nhập và sẵn có) đã được các tác giả

nghiên cứu trước quan tâm, luận án cũng đã chỉ ra, mức độ sử dụng của tài chính toàn diện

(đo lường thông qua tỷ lệ tiền gửi và cho vay so với GDP) có tác động tích cực đến sự ổn

định của hệ thống ngân hàng, giúp làm giảm sự biến động của tăng trưởng tiền gửi và nợ xấu.

Như vậy, các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia khu vực ASEAN không phải đối

mặt với sự đánh đổi khi quyết định lựa chọn giữa việc tập trung vào cải cách để thúc đẩy tài

chính toàn diện với việc cải thiện hơn nữa sự ổn định của hệ thống ngân hàng nói riêng và ổn

định hệ thống tài chính nói chung.

4.3. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIẾN KHÁC ĐẾN SỰ ỔN ĐỊNH CỦA HỆ THỐNG

NGÂN HÀNG TẠI CÁC QUỐC GIA ASEAN

Các kết quả về các biến kiểm soát cũng phù hợp với kỳ vọng ban đầu. Như dự đoán, các

ngân hàng có quy mô lớn, có mức dự phòng phải trích lập thấp, sự đa dạng hóa trong thu nhập

116

phù hợp, vốn tự có cao hơn, có tính cạnh tranh cao, sẽ mang lại sự ổn định hơn. Biến tốc độ

tăng trưởng GDP cũng có ý nghĩa thống kê.

Về quy mô của ngân hàng, kết quả hồi quy cho thấy, quy mô ngân hàng càng lớn, tính ổn

định của hệ thống ngân hàng càng cao. Thông qua tổng tài sản của ngân hàng – trong mô hình

tác giả lấy logarit tự nhiên của tổng tài sản, ký hiệu ln(TA), đã cho thấy, quy mô ngân hàng

lớn có thể giúp bảo đảm sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Cụ thể, với cùng mức độ tin cậy

là 99%, ở mô hình (1) ở bảng 4.13 với biến phụ thuộc là ln(Zscore), biến lnTA có hệ số hồi

quy bằng 0.0476, cho biết, khi tài sản của ngân hàng tăng 1% thì Zscore tăng 0.0476%; ở mô

1% thì sự biến động của tốc độ tăng trưởng tiền gửi giảm 0.1663%; và cuối cùng, ở mô hình (3)

hình (2), với biến ln(sdGrDep), hệ số hồi quy của lnTA bằng -0.1663, tức là khi tài sản tăng

với biến phụ thuộc là tỷ lệ nợ xấu – NPLTA, hệ số hồi quy của lnTA bằng -0.0076, cho thấy

sự gia tăng về quy mô có thể dẫn đến sự sụt giảm các khoản nợ xấu với mức độ tin cậy là

99%. Và kết quả này đúng với kỳ vọng và các mô hình còn lại cũng có kết quả tương tự.

Kết quả nói trên phù hợp với kết quả của các nghiên cứu trước đây, rằng quy mô ngân

hàng làm giảm biến động lợi nhuận, làm giảm rủi ro (De Haan and Poghosyan, 2012), hay

các ngân hàng lớn và có sự đa dạng hóa có khả năng hấp thụ các cú sốc thanh khoản tốt hơn

(Houston, Jamesand Marcus, 1997). Một nghiên cứu tại Ghana của Adusei (2015), cũng cho

việc tăng quy mô của ngân hàng nông thôn sẽ làm tăng tính ổn định của ngân hàng, đã củng

cố cho kết quả nghiên cứu này của tác giả.

Về dự phòng rủi ro mất nợ, kết quả hồi quy cho biết, tỷ lệ dự phòng càng cao tính ổn định

càng giảm. Tác giả sử dụng biến tỷ lệ dự phòng so với tổng nợ (ký hiệu là LossProv), với biến

phụ thuộc là ln(Zscore), hệ số hồi quy thu được là -2.5901 ở mô hình (1), cho thấy, sự gia tăng

mức dự phòng sẽ làm ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Chỉ cần

mức dự phòng này tăng 1%, thì Zscore giảm 2.5901%. Với biến phụ thuộc là ln(sdGrDep),

hệ số hồi quy thu được là 2.5630 ở phương trình (2), cũng cho thấy, việc tăng dự phòng khiến

cho tốc độ tăng trưởng tiền gửi trở nên bất ổn. Với biến phụ thuộc là NPLTA, hệ số hồi quy

thu được là 0.7426 ở phương trình (3), cũng cho thấy, việc tăng dự phòng khiến cho tỷ lệ nờ

xấu gia tăng. Kết quả này, được củng cố bởi quan điểm của Bushman and Williams (2012)

và Ahamed and Mallick (2019) rằng sự gia tăng trong dự phòng mất nợ thể hiện sự gia tăng

phạm vi chấp nhận rủi ro, ít thận trọng hơn của các ngân hàng, và mức độ ổn định hệ thống

ngân hàng giảm đi.

117

Về thu nhập phi lãi, trong mô hình tác giả lấy tỷ lệ thu nhập phi lãi trên lợi nhuận hoạt

động (NonIncome), đã cho thấy hệ số hồi quy ở mô hình (1), (3) có kết quả lần lượt là -0.0012

và 0.0001 có ý nghĩa thống kê (độ tin cậy 90%). Hệ số hồi quy của biến này cho biết khi mức

độ thu nhập phi lãi tăng lên một đơn vị, thì Zscore giảm 0.0011% và NPLTA tăng 0.0001 đơn

vị. Điều này có nghĩa rằng ngân hàng càng có nhiều thu nhập từ phí càng gây nguy hiểm cho

sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Kết quả này cùng trùng khớp với (Ashraf, Karlan

and Yin, 2010; Demirgüç-Kunt and Huizinga, 2010; Ashraf, Ramady and Albinali, 2016) và

Stiroh (2004). Hiện tượng này còn được Abuzayed, Al-Fayoumi and Molyneux (2018) gọi là

mặt tối của đa dạng hóa. Ngoài ra, ở phần này, tác giả không tìm ra được bằng chứng chứng

tỏ mối quan hệ giữa NonIncome với sự ổn định của tăng trưởng tiền gửi.

Về mức độ vốn hóa, tác giả đo lường thông qua tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản

(EQA), hệ số hồi quy ở hai phương trình (1), (2) và (3) đều có ý nghĩa thống kê và chứng tỏ

mức vốn hóa tốt, làm tăng Zscore, làm giảm sự biến động của tăng trưởng tiền gửi và giảm

tỷ lệ nợ xấu, từ đó có ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định của ngân hàng. Kết quả này đúng

với kỳ vọng của tác giả và đồng thuận với Meyer and Pifer (1970); Espahbodi (1991); Kolari,

Glennon, Shinand Caputo (2002); Martin (1977) rằng một trong các nguyên nhân dẫn đến

việc gia tăng rủi ro của các ngân hàng là vốn hóa thấp. Ahamed and Mallick (2019) cũng chỉ

ra ngân hàng có vốn hóa (đại diện thông qua tỷ lệ vốn chủ sở hữu) tốt hơn có thể giảm thiểu

việc chấp nhận rủi ro quá mức ở các ngân hàng.

Về tài sản sinh lời, tác giả đo lường thông qua tỷ lệ tài sản sinh lời trên tổng tài sản

(EAtoTA), hệ số hồi quy ở hai phương trình (1) và (3) đều có ý nghĩa thống kê và chứng tỏ

ngân hàng có nhiều tài sản sinh lời càng có những ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định của

ngân hàng. Poghosyan and Čihak (2011) đã nghiên cứu và nhận định rằng chất lượng quản lý

tài sản có tác động làm giảm sự căng thẳng ở các ngân hàng. Việc gia tăng tỷ lệ tài sản sinh

lời làm chất lượng quản lý tốt hơn, có thể giảm thiểu việc chấp nhận rủi ro quá mức và từ đó

dẫn đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng (Ahamed and Mallick, 2019).

Về mức độ cạnh tranh, tác giả đo lường thông qua chỉ số Lerner, được tính toán khá phức

tạp, thông qua chi phí biên. Chỉ số này có sự tác động tích cực đến ổn định hệ thống ngân

hàng. Kết quả hồi quy ở mô hình (1), hệ số hồi quy không có ý thống kê, nhưng ở mô hình

(2) và (3) hệ số hồi quy bằng 0.7917 và 0.0141, với độ tin cậy 99%. Hệ số Lerner càng cao

cho thấy sức cạnh tranh thấp. Chính vì vậy, kết quả này cho thấy, sự cạnh tranh càng thấp ở

118

các ngân hàng, tăng trưởng tiền gửi càng bất ổn và nợ xấu càng gia tăng. Hay nói cách khác,

càng cạnh tranh càng làm gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Kết quả này trùng khớp với quan điểm của Boyd and De Nicolo (2005); De Nicolo and

Loukoianova (2007); Uhde and Heimeshoff (2009); Goetz, (2018); Klapper, Arissand Berger

(2009). Lý giải cho hiện tượng này, Boyd and De Nicolo (2005) đã chỉ ra mức độ tập trung

cao vào một số ngân hàng (tức là ít cạnh tranh) sẽ khiến cho các doanh nghiệp hay người đi

vay chịu chi phí cao và từ đó, lựa chọn các dự án rủi ro để có đủ chi trả từ các khoản vay, do

đó làm tăng rủi ro vỡ nợ hay nói cách khác làm giảm sự ổn định của ngân hàng nói riêng và

hệ thống ngân hàng nói chung.

Về tốc độ tăng trưởng GDP, đại diện cho tốc độ phát triển kinh tế, với độ tin cậy 95-99%

có hệ số hồi quy là 0.8639 (mô hình 1), -0.0587 (mô hình 3). Kết quả này cho thấy tác động

tích cực của biến giải thích GDPrate đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Các mô hình

còn lại cũng có kết quả tương tự. Kết quả này hoàn toàn trùng khớp với Ahamed and Mallick

(2019); Honohan (2008); Ozili (2018), với quan điểm rằng, một nền kinh tế phát triển sẽ thúc

đẩy sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

119

TÓM TẮT CHƯƠNG 4

Ở chương 4, đề tài đã thực hiện việc phân tích thực trạng tài chính toàn diện và mức độ

ổn định hệ thống ngân hàng thông qua thống kê mô tả. Sau đó, dựa trên mô hình nghiên cứu

được xác định, phương pháp ước lượng mô hình đã trình bày trong chương 3, tác giả đã thực

hiện hồi quy mô hình và kiểm định lựa chọn mô hình phù hợp.

Mô hình hồi quy theo phương pháp ước lượng SGMM, với kết quả đã cho thấy tài chính

toàn diện có tác động tích cực với sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các nước khu vực

ASEAN. Kết quả này đồng nhất với các nghiên cứu thực nghiệm khác đã được thực hiện trước

đó. Các biến khác cũng có kết quả đúng với kỳ vọng mà tác giả đã trình bày ở chương 2 và

tóm tắt lại chương 3.

Vậy, đến chương 4, nghiên cứu đã trả lời được đa số các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra

và hoàn thiện phần lớn các khoảng trống nghiên cứu, làm rõ tác động của tài chính toàn diện

đối với sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia khu vực ASEAN. Kết quả của

nghiên cứu này là một bằng chứng thực nghiệm về sự ảnh hưởng tích cực của tài chính toàn

diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng, có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây cũng là cơ

sở để tác giả đề xuất các hàm ý chính sách ở chương tiếp theo.

120

5. CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH

5.1. KẾT LUẬN NGHIÊN CỨU

Tài chính toàn diện có ý nghĩa to lớn đối với kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, là tiền đề

quan trọng cho công tác xóa đói giảm nghèo và tăng trưởng bền vững. Thúc đẩy tài chính

toàn diện luôn là nỗ lực của các nhà chính sách trong thời gian vừa qua. Nghiên cứu tập trung

vào phân tích tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các

quốc gia thuộc khu vực ASEAN, từ đó gợi ra các hàm ý chính sách. Thành công lớn nhất của

luận án chính là đã chỉ ra tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân

hàng được thể hiện thông qua hai kênh chính yếu, bao gồm tiền gửi và cho vay; đồng thời,

tương ứng với từng các kênh dẫn đó, kết quả hồi quy của luận án đã cung cấp thêm bằng

chứng thực nghiệm về sự tác động này ở các quốc gia ASEAN.

Tác giả đã tóm lược các cơ sở lý luận về tài chính toàn diện cũng như sự ổn định của hệ

thống ngân hàng, xác định và lựa chọn các cách đo lường phù hợp. Cụ thể, tác giả lựa chọn

cách đo lường tài chính toàn diện thông qua phương pháp bình quân giản đơn khoảng cách

Euclidian do Sarma (2012) đề xuất. Đồng thời chọn chỉ số Zscore, độ lệch chuẩn của tăng

trưởng tiền gửi (sdGrDep) và tỷ lệ nợ xấu (NPLTA) làm đại diện cho sự ổn định của hệ thống

ngân hàng. Việc lựa chọn hai biến sdGrDep và NPLTA không chỉ là đại diện cho sự ổn định

mà còn là biểu hiện cho hai kênh dẫn tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ

thống ngân hàng.

Với dữ liệu thu thập từ 102 ngân hàng của sáu quốc gia khu vực ASEAN, nghiên cứu đã

thực hiện hồi quy SGMM; và kết quả của nghiên cứu đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm

rằng tài chính toàn diện tác động tích cực đến sự ổn định của hệ ngân hàng ở các quốc gia

ASEAN. Hơn nữa, nghiên cứu cũng cho thấy rằng các ngân hàng coi tài chính toàn diện như

một cơ chế để có được tiền gửi ổn định và các khoản cho vay an toàn. Kết luận trọng yếu nhất

của nghiên cứu chính là các ngân hàng hoạt động ở các môi trường có tài chính toàn diện cao

có thể cải thiện sự ổn định. Kết quả này có ý nghĩa chính sách vô cùng quan trọng, cho thấy

các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia ASEAN không phải đối mặt với sự đánh đổi

khi quyết định xem có nên tập trung vào cải cách để thúc đẩy toàn diện hay tập trung vào cải

thiện hơn nữa sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

121

Sự tác động tích cực nói trên của tài chính toàn diện, không chỉ thể hiện ở kết quả hồi quy

của chỉ số tổng hợp về mức độ tài chính toàn diện (IFI) mà còn thông qua các chỉ số của từng

khía cạnh (IFIp, IFIa, IFIu), nhờ đó tác giả có được sự phân tích đa chiều và đầy đủ hơn. Cụ

thể, bên cạnh phân tích tác động tích cực của hai khía cạnh tài chính toàn diện đã được các

tác giả nghiên cứu trước ở các nước trên thế giới làm rõ (bao gồm sự thâm nhập và tính sẵn

có), luận án cũng đã bổ sung thêm kết quả thực nghiệm chứng minh rằng khía cạnh mức độ

sử dụng của tài chính toàn diện (đo lường thông qua tỷ lệ tiền gửi và cho vay so với GDP)

cũng có tác động tích cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng, giúp làm giảm sự biến động

của tăng trưởng tiền gửi và nợ xấu. Các kết quả này là cơ sở quan trọng và là nền tảng vững

chắc để tác giả có thể đề xuất các hàm ý chính sách về tài chính toàn diện nhằm tăng cường

sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN.

Ngoài ra, kết hợp kết quả nghiên cứu về tác động tích cực nói trên với thực trạng hiện nay

ở các quốc gia ASEAN về tài chính toàn diện (theo kết quả phân tích ở mục 4.1.1) với sự gia

tăng không ngừng về số tài khoản, mức độ sử dụng tiền gửi và cho vay, có thể thấy xu hướng

phát triển này là hoàn toàn phù hợp và nên được tiếp tục thúc đẩy. Bởi, tài chính toàn diện

không chỉ mang những lợi ích cho khách hàng là người dân có thu nhập thấp hay ở vùng nông

thôn (Dupas and Robinson, 2013a, 2013b; Burgess and Pande, 2005), mà còn thúc đẩy sự ổn

định ở các ngân hàng cao hơn. Sự ổn định của hệ thống ngân hàng chịu sự tác động bởi mức

độ các hộ gia đình, doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận với các dịch vụ tài chính chính thống,

từ đó cho thấy tầm quan trọng của việc đảm bảo một khu vực tài chính toàn diện để đạt được

mục tiêu giảm thiểu rủi ro cho hệ thống ngân hàng, hướng đến sự phát triển bền vững. Bằng

cách mở rộng các dịch vụ ngân hàng đến những người chưa hoặc ít tiếp cận ngân hàng, các

ngân hàng không chỉ có thể tận dụng được việc khai thác các khách hàng tiềm năng mà còn

hỗ trợ một chương trình phát triển toàn diện, phân bổ nguồn lực vào các phân khúc hoặc lĩnh

vực có hiệu quả hơn.

Bên cạnh kết luận quan trọng về tác động của tài chính toàn diện được đề cập ở trên, các

biến kiểm soát còn lại trong mô hình có kết quả và ý nghĩa thống kê đúng như kỳ vọng của

tác giả. Nâng cao quy mô (tổng tài sản) của ngân hàng, kiểm soát tốt dự phòng vỡ nợ, kiểm

soát các thu nhập phi lãi, mức vốn hóa (tỷ lệ vốn chủ sở hữu) cao, gia tăng các tài sản sinh

lời, nâng cao tính cạnh tranh ở các ngân hàng và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế (GDP) là

những yếu tố góp phần tích cực cho sự thúc đẩy sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

122

Như vậy, đến đây, có thể thấy nghiên cứu đã hoàn thiện hầu hết các khoảng trống trong

nghiên cứu như (i) đã xác định rất rõ cơ sở của sự tác động của tài chính toàn diện đến ổn

định hệ thống ngân hàng (ở chương 2); (ii) bên cạnh việc sử dụng biến Zscore đại diện cho

rủi ro chung của một ngân hàng, tác giả còn dùng thêm sdGrDep để quan sát sự biến động

của tăng trưởng tiền gửi và biến NPLTA để quan sát tỷ lệ nợ xấu trong ngân hàng (chương 2

và 4); (iii) sử dụng biến tổng hợp IFI trên ba khía cạnh (thâm nhập, sẵn có, sử dụng) đồng

thời xem xét từng khía cạnh để đánh giá mức độ tài chính toàn diện ở các quốc gia khu vực

ASEAN một cách đầy đủ (chương 2 và 4).

Nội dung tiếp theo, sau khi phân tích kết quả nghiên cứu, tác giả kết hợp kết quả này,

cùng với các nhân tố ảnh hưởng đến tài chính toàn diện (phụ lục A10) và các chính sách thúc

đẩy tài chính ở các nước (phụ lục A5) để gợi ra các hàm ý chính sách dành cho chính phủ và

các ngân hàng các nước khu vực ASEAN. Nội dung này hoàn thiện khoảng trống thứ tư mà

nghiên cứu muốn hướng đến, là chỉ rõ các hàm ý chính sách, đặc biệt là các hàm ý liên quan

đến tài chính toàn diện trong thúc đẩy sự ổn định tài chính nói chung và ổn định hệ thống

ngân hàng nói riêng.

5.2. CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH

5.2.1. Tiếp tục thúc đẩy tiến trình tài chính toàn diện

Từ kết quả nghiên cứu được trình bày ở trên, luận án đưa ra gợi ý rằng tiến trình tài chính

toàn diện cần được tiếp tục thúc đẩy các nước trong khu vực ASEAN để gia tăng sự ổn định

của hệ thống ngân hàng và cần tập trung vào ba khía cạnh thâm nhập, sẵn có và mức độ sử

dụng các dịch vụ ngân hàng chính thống.

Hàm ý này xuất phát từ kết quả nghiên cứu rằng tài chính toàn diện có tác động tích cực

đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Tài chính toàn diện góp phần phát triển kinh tế bền

vững, giúp các ngân hàng gia tăng tiền gửi một cách ổn định và thực hiện các khoản cho vay

an toàn, từ đó các ngân hàng giảm tránh được sự bất ổn, hướng đến sự ổn định của toàn bộ hệ

thống ngân hàng ở các quốc gia ASEAN. Kết quả phân tích cũng cho thấy ba khía cạnh của

tài chính toàn diện bao gồm thâm nhập, sẵn có và mức độ sử dụng đều có các tác động tích

cực đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Chính vì vậy, tiến trình thúc đẩy tài chính toàn

diện cần tập trung vào ba khía cạnh nói trên, cụ thể: (1) gia tăng số lượng tài khoản được mở

tại các ngân hàng trong người dân; (2) mở rộng các chi nhánh ngân hàng hoặc gia tăng số

123

lượng ATM và (3) khuyến thích việc người dân sử dụng các dịch vụ tài chính chính thống ở

các ngân hàng.

5.2.1.1. Thúc đẩy tài chính toàn diện cần được triển khai trên cả ba khía cạnh

a. Gia tăng số lượng tài khoản được mở tại các ngân hàng

Việc thúc đẩy gia tăng số lượng tài khoản được mở bởi người dân trưởng thành tại các

ngân hàng chính nhằm nâng cao khả năng thâm nhập của ngân hàng. Kết quả nghiên cứu đã

cho thấy nếu gia tăng được chỉ tiêu này thì sự tăng trưởng tiền gửi vào ngân hàng sẽ được duy

trì ổn định, đồng thời giảm được tỷ lệ nợ xấu, từ đó làm giảm sự biến động về lợi nhuận của

ngân hàng hay nói cách khác làm gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia

ASEAN. Thực trạng thúc đẩy tài chính toàn diện ở khía cạnh này cho thấy mặc dù so với các

quốc gia trên thế giới nói chung, số lượng tài khoản ở khu vực là thấp hơn, nhưng sự chênh

lệch giữa các quốc gia ít hơn và số lượng tài khoản được mở tăng lên qua từng năm với tốc

độ tăng khá ổn định. Đây là dấu hiệu của sự tăng trưởng bền vững về khía cạnh thâm nhập

của tài chính toàn diện, và cần được tiếp tục phát huy ở các quốc gia ASEAN.

b. Mở rộng các chi nhánh hoặc gia tăng số lượng ATM

Về việc mở rộng các chi nhánh ngân hàng hay ATM cũng cần được xem xét thúc đẩy,

nhất là việc đưa các chi nhánh ngân hàng hay ATM về vùng nông thôn. Kết quả nghiên cứu

dù không tìm ra được bằng chứng về mối quan hệ giữa khía cạnh này với sự ổn định của ngân

hàng thông qua biến Zscore (biến động của lợi nhuận), nhưng đối với sự ổn định của tiền gửi

và kiểm soát nợ xấu, việc mở rộng chi nhánh hay ATM đều có tác động tích cực. Tuy nhiên,

qua phân tích thực trạng tài chính toàn diện ở các quốc gia, có thể thấy tốc độ mở rộng các

chi nhánh và ATM có dấu hiệu chững lại hay thậm chí giảm ở một số quốc gia trong khu vực

ASEAN, đặc biệt là trong năm năm gần đây, từ 2015 – 2019. Mặc dù so với các quốc gia trên

thế giới, số lượng chi nhánh và ATM không chênh lệch nhiều giữa các quốc gia trong khu

vực, nhưng số lượng chi nhánh và ATM đều thấp hơn. Thực trạng này cần được cải thiện

trong tương lai.

c. Khuyến thích người dân sử dụng các dịch vụ tài chính chính thống ở các ngân hàng

Việc gia tăng lượng người dân mở tài khoản, việc mở rộng các chi nhánh ngân hàng và

các ATM cần đi cùng với việc kích thích sử dụng dịch vụ tài chính mà các ngân hàng cung

cấp. Cả ba khía cạnh này cần được thực hiện phối hợp với nhau, tránh tình trạng khách hàng

124

chỉ mở tài khoản ngân hàng hay các ngân hàng ra sức mở chi nhánh, tăng lượng ATM mà

không phát sinh bất cứ giao dịch nào liên quan.

Hiện nay, các quốc gia ASEAN đang có xu hướng tăng trưởng về số lượng tài khoản mà

người trưởng thành sở hữu cùng tỷ lệ tiền gửi và cho vay so với GDP qua các năm và thậm

chí, so với bình quân các quốc gia trên thế giới, ASEAN đã duy trì tỷ lệ này cao hơn trong

những năm gần đây. Điều này cho thấy các tài khoản được mở và được sử dụng nhiều. Xu

hướng tăng lên này cần được tiếp tục thúc đẩy, để sự ổn định của hệ thống ngân hàng ngày

càng được cải thiện. Bởi rõ ràng, khi người dân mở tài khoản và sử dụng các dịch vụ về tiết

kiệm, sẽ giúp duy trì một lượng tiền gửi ổn định, ngân hàng tránh được rủi ro tháo chạy khỏi

ngân hàng và sẽ tạo ra sự ổn định cho hệ thống ngân hàng. Lập luận này cũng được củng cố

bởi kết quả nghiên cứu rằng với việc gia tăng sử dụng các dich vụ tài chính, sự biến động về

tăng trưởng tiền gửi và tỷ lệ nợ xấu sẽ được kiểm soát, nhờ đó, gia tăng sự ổn định chung của

một ngân hàng cũng như sự ổn định của cả hệ thống ngân hàng.

Tóm lại, việc thúc đẩy tài chính toàn diện cần được thực hiện một cách đồng bộ cả ba khía

cạnh nói trên, và cần có chiến lược thúc đẩy tài chính toàn diện một cách rõ ràng, chẳng hạn

như về phía các chính phủ các nước cần có cơ chế, thể chế và khung pháp lý hoàn thiện nhằm

tạo môi trường để phát triển tài chính toàn diện; về phía các ngân hàng nói riêng và các tổ

chức tài chính nói chung cần có sự củng cố, cải tiến sản phẩm dịch vụ tài chính, các kênh

phân phối; đồng thời về phía người dân (hay là khách hàng) cần nâng cao nhận thức và kiến

thức tài chính. Những vấn đề này được trình bày chi tiết ở nội dung tiếp theo sau đây.

5.2.1.2. Gợi ý chiến lược thúc đẩy tiến trình triển tài chính toàn diện

Việc đẩy mạnh tài chính toàn diện cần được ưu tiên hàng đầu của các chính phủ ở ASEAN

hiện nay. Song thúc đẩy tài chính toàn diện không phải là việc đơn giản, bởi tài chính toàn

diện chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố và nhiều rào cản (phụ lục A10), do vậy cần có chiến

lược phát triển rõ ràng, đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng của nhiều yếu tố nhằm tạo

điều kiện để phát triển tài chính toàn diện.

a. Về phía chính phủ các nước

Chính phủ cần có cơ chế, thể chế và khung pháp lý cần hoàn thiện nhằm tạo cơ sở nền

tảng cũng như môi trường để phát triển tài chính toàn diện. Để thực hiện được nội dung này

tác giả nhấn mạnh các lưu ý sau đây:

125

Thứ nhất, nhiệm vụ xây dựng và triển khai tài chính toàn diện được pháp lý hóa dưới hình

thức quyết định của người đứng đầu chính phủ hoặc quy định trong luật. Điều này không chỉ

thể hiện sự cam kết của chính phủ đối với thúc đẩy tài chính toàn diện mà còn tạo dựng một

sơ sở pháp luật để xây dựng và triển khai khuôn khổ tài chính toàn diện một tầm nhìn rõ ràng

và các mục tiêu cụ thể.

Thứ hai, NHTW hoặc Bộ Tài chính là đơn vị đầu mối thực hiện nhiệm vụ xây dựng và

triển khai Chiến lược/Kế hoạch Tài chính toàn diện. Tuy nhiên, tài chính toàn diện là một vấn

đề lớn, bao trùm và mang tính liên ngành có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và tất cả các

khu vực trong nền kinh tế. Do đó để triển khai thành công một Chiến lược/Kế hoạch có tầm

ảnh hưởng lớn như vậy cần phải có được sự cam kết của chính phủ hay phê chuẩn của thủ

tướng để giải quyết được một vấn đề quan trọng là sự phối hợp giữa các bộ ngành liên quan

dưới hình thức một ủy ban/hội đồng điều phối tài chính toàn diện, đứng đầu là Thủ tướng

hoặc Phó Thủ tướng và thành viên là đại diện các bộ, ngành liên quan. Ủy ban/hội đồng điều

phối chịu trách nhiệm định hướng, ra các quyết sách liên quan đến thúc đẩy tài chính toàn

diện cũng như giám sát quá trình thực hiện tài chính toàn diện.

Thứ ba, có sự tham gia của tất cả các tác nhân trong nền kinh tế, bao gồm từ khu vực nhà

nước, khu vực tư nhân và khu vực dân sự/phi chính phủ để đảm bảo cho sự thành công của

tài chính toàn diện. Sự tham gia này cần thiết ngay trong quá trình soạn thảo xây dựng chiến

lược để đảm bảo hài hòa lợi ích của tất cả các bên. Đặc biệt là sự can thiệp của nhà nước nếu

có cần dựa trên những nguyên tắc thị trường để các kết quả đạt được có tính chất bền vững.

b. Về phía các ngân hàng

Các ngân hàng nói riêng và các tổ chức tài chính nói chung cần có sự củng cố một cách

toàn diện, từ đó sẽ giúp khơi thông các kênh, cho phép phát triển tài chính toàn diện. Sự phát

triển các tổ chức tài chính cho phép phát triển các sản phẩm tài chính, từ đó người dân dễ

dàng tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ tài chính hơn. Thông qua các tổ chức tín dụng, chính phủ

các nước có thể phát triển tài chính toàn diện bằng việc cung cấp các loại hình sản phẩm tín

dụng cho người có thu nhập thấp (Jones, 2006). Rõ ràng khi mạng lưới tài chính càng phát

triển, rào cản về khoảng cách địa lý được khắc phục, khiến cho việc tiếp cận các sản phẩm,

dịch vụ của người dân sẽ dễ dàng, thuận tiện hơn, từ đó khuyến khích người dân sử dụng dịch

vụ tài chính.

126

Hơn nữa, đối với ngân hàng, sự củng cố toàn diện, chẳng hạn như cải thiện tỷ lệ tài sản

không hiệu quả của ngân hàng, nâng cao tỷ lệ vốn trên tổng tài sản, điều chỉnh sở hữu của

nhà nước góp phần làm thúc đẩy tài chính toàn diện (Sarma and Pais, 2011). Việc củng cố

này, giúp cải thiện vấn đề thiếu sự tin tưởng đối với các tổ chức tài chính (Clamara, Peña and

Tuesta, 2014), từ đó người dân mới có thể gửi tiền của mình hay sử dụng các dịch vụ tài chính

khác ở các ngân hàng.

Đồng thời các ngân hàng cần cải tiến sản phẩm dịch vụ tài chính, mở rộng các kênh phân

phối. Với các sản phẩm dịch vụ tài chính, ngoài việc mở rộng kênh phân phối thông qua mạng

lưới tài chính nói trên, cũng cần có sự cải thiện để phù hợp với người dân nói chung hay nhóm

người có thu nhập thấp nói riêng. Chẳng hạn như cần giảm thiểu yêu cầu duy trì tối thiểu khi

mở tài khoản tại ngân hàng, bởi nếu yêu cầu này quá cao sẽ khiến nhiều tài khoản bị đóng khi

không đáp ứng được (Shankar, 2013). Ngoài ra, những sản phẩm tín dụng cần điều chỉnh

giảm các đòi hỏi sự phức tạp của thủ tục hành chính và việc khó khăn trong cung cấp tài liệu

của người tiêu dùng khiến họ không thể đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tài chính, do vậy họ

ngại sử dụng các dịch vụ, sản phẩm của các tổ chức này; hoặc chi phí dịch vụ tài chính (phí

sử dụng dịch vụ) đắt đỏ cản trở người dân, đặc biệt đối với nhóm có thu nhập thấp sử dụng

các dịch vụ, sản phẩm tài chính (Clamara, Peña and Tuesta, 2014).

c. Về phía người dân

Người dân (là khách hàng) cần nâng cao nhận thức và kiến thức tài chính. Bởi nhận thức

yếu kém của người dân về các sản phẩm tài chính là một trong những yếu tố cốt lõi khiến họ

không tìm đến các sản phẩm tài chính, đặc biệt đối với người dân có thu nhập thấp (Tuesta et

al., 2015; Shankar, 2013). Khi nhận thức cùng với trình độ học vấn càng được cao, người dân

tìm các nguồn tài chính chính thức thay vì các nguồn tài chính phi chính thức nhiều hơn. Mặt

khác người dân có kiến thức sẽ có khả năng tiết kiệm cao hơn người có trình độ thấp (Sarma

and Pais, 2008). Người có trình độ thấp hơn thiếu sự tự tin cũng như thiếu kỹ năng cần thiết

để sử dụng các dịch vụ, sản phẩm tài chính. Do vậy, phổ cập kiến thức tài chính là điều rất

cần thiết trong việc thúc đẩy tài chính toàn diện.

5.2.2. Đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng ổn định

Chính phủ các nước cần chú ý đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Gợi ý này xuất

phát từ kết quả phân tích của tác giả, trong mô hình hồi quy, tốc độ tăng trưởng GDP góp

127

phần gia tăng tính ổn định cho hệ thống ngân hàng. Điều này đại biểu cho việc một nền kinh

tế lành mạnh, tăng trưởng và phát triển bền vững có thể giúp cho hệ thống ngân hàng nâng

cao tính ổn định.

Môi trường kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng tiêu dùng nói chung và

định hướng sử dụng các sản phẩm tài chính nói chung. Phát triển kinh tế bền vững khiến cho

cuộc sống người dân được cải thiện, nhu cầu gửi tiền, vay mượn chi tiêu cải thiện cuộc sống

cũng như nhu cầu sử dụng các sản phẩm tài chính của họ sẽ tăng cao để đáp ứng yêu cầu cuộc

sống. Hơn nữa, khi nền kinh tế địa phương phát triển sẽ kéo theo sự năng động, phát triển các

hoạt động, dịch vụ của ngân hàng và các tổ chức tài chính, điều này khiến cho người dân nhạy

cảm hơn với các sản phẩm, dịch vụ này.

5.2.3. Cải thiện các vấn đề nội tại của các ngân hàng ở khu vực ASEAN

Bên cạnh việc thúc đẩy tài chính toàn diện, bảo đảm duy trì một môi trường kinh tế lành

mạnh, ổn định và phát triển bền vững của các chính phủ, các ngân hàng các nước ASEAN

cũng cần chú ý đến các vấn đề từ chính nội tại của ngân hàng. Tác giả đề xuất một số gợi ý

chính sách sau:

Một là gia tăng quy mô, vốn tự có và tài sản sinh lời của ngân hàng.

Kết quả nghiên cứu cho thấy khi quy mô, vốn chủ sở hữu và tài sản sinh lời của ngân hàng

tăng thì ổn định của hệ thống ngân hàng sẽ tăng. Điều này được thể hiện thông qua hệ số hồi

quy của hai biến giải thích ln(TA), EQA, EAtoTA là dương.

Khi tăng vốn điều lệ thì ngân hàng mới có đủ tiềm lực tài chính để đầu tư công nghệ, phát

triển các sản phẩm dịch vụ mới, hiện đại cũng như đầu tư vào các lĩnh vực khác mà ngân hàng

có thế mạnh. Từ đó, quy mô của ngân hàng cũng tăng nhanh và tạo sự cộng hưởng để hiệu

quả kinh doanh ngân hàng ngày càng tốt hơn. Khi quy mô của ngân hàng được nâng cao làm

giảm biến động lợi nhuận, làm giảm rủi ro; và giúp các ngân hàng có khả năng hấp thụ các

cú sốc thanh khoản tốt hơn, nhờ việc giữ ngân hàng an toàn trước cuộc tháo chạy.

Chẳng hạn như các ngân hàng thương mại ở Việt Nam đều đã tăng vốn điều lệ đáp ứng

quy định của Nhà nước nhưng để có thể mở rộng kinh doanh thì ngân hàng cần tăng vốn điều

lệ, tăng quy mô hơn nữa. Trong thời gian vừa qua, việc các ngân hàng tăng vốn điều lệ, sáp

nhập là đúng đắn vì đã giúp các ngân hàng có vốn chủ sở hữu và quy mô lớn hơn, có điều

128

kiện phát triển các hoạt động ngoài lãi, tăng đa dạng hóa thu nhập và cải thiện hiệu quả kinh

doanh ngân hàng.

Tài sản sinh lời của ngân hàng gia tăng tức là ngân hàng nâng cao được chất lượng quản

lý (Ahamed and Mallick, 2019). Việc gia tăng tài sản sinh lời giúp cho ngân hàng duy trì sự

ổn định và từ đó tạo nên sự ổn định cho cả hệ thống ngân hàng.

Hai là kiểm soát dự phòng rủi ro mất nợ và các thu nhập phi lãi.

Kết quả cho thấy dự phòng rủi mất nợ, việc trích lập dự phòng đúng quy định và hợp lý

giúp ngân hàng không bị lãng phí nguồn lực, hạn chế phạm vi chấp nhận rủi ro của các ngân

hàng. Mặt khác, các khoản thu nhập phi lãi, có thể gia tăng sự biến động trong lợi nhuận của

ngân hàng. Điều có nghĩa rằng ngân hàng càng phụ thuộc vào thu nhập phi lãi, gây nguy hiểm

cho sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Do vậy, các thu nhập phi lãi cần được điều

chỉnh giảm so với tổng lợi nhuận hoạt động của ngân hàng.

Ba là gia tăng khả năng cạnh tranh của các ngân hàng.

Càng có sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, càng làm giảm tỷ lệ nợ xấu và làm giảm sự

biến động của sự tăng trưởng tiền gửi, tức là làm giảm rủi ro và gia tăng sự ổn định. Việc

khuyến khích cạnh tranh khiến cho các ngân hàng luôn tìm cách tiếp cận khách hàng, chắc

chắn sẽ làm gia tăng tiền gửi và duy trì sự ổn định về nguồn tiền này. Hơn nữa, cạnh tranh

cao giữa các ngân hàng tức là giảm việc chỉ tập trung vào một số ngân hàng – điều mà sẽ

khiến cho các doanh nghiệp hay người đi vay chịu chi phí cao và từ đó, lựa chọn các dự án

rủi ro để có đủ chi trả từ các khoản vay, và vì thế làm tăng rủi ro vỡ nợ.

Những gợi ý nói trên, đối với hệ thống ngân hàng rõ ràng sẽ nâng cao được sự ổn định, và

đối với tiến trình tài chính toàn diện sẽ được thúc đẩy mạnh hơn, bởi những hoạt động này

làm củng cố lại hệ thống ngân hàng, làm khơi thông đường truyền, tiếp cận khách hàng dễ

dàng hơn. Một khi tài chính toàn diện được thúc đẩy sẽ lại tác động làm sự ổn định của hệ

thống ngân hàng cũng được cải thiện.

5.3. HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

Luận án đã có những phát hiện quý giá và có những đóng góp nhất định cả về khoa học

lẫn thực tiễn về tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân hàng ở các nước ASEAN. Tuy

nhiên, luận án cũng tồn tại những hạn chế sau:

129

Thứ nhất, luận án chưa xét đến vấn đề về sự phát triển của công nghệ, nhất là các vấn đề

liên quan đến công nghệ tài chính – Fintech. Nghiên cứu Zetzsche, Buckley and Arner (2019)

đã chứng minh rằng tồn tại mối quan hệ giữa tài chính toàn diện, Fintech và sự bền

vững. Trong một số nghiên cứu khác, Fintech được xem là động lực chủ yếu để phát triển tài

chính toàn diện (Zetzsche, Buckley and Arner, 2019) và là một phương tiện của tài chính toàn

diện (Mehrotra, 2019).

Thứ hai, các chỉ số liên quan đến tài chính toàn diện mà tác giả thu thập là chủ yếu các số

liệu từ ngân hàng, chưa xét đến doanh nghiệp, các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa. Đặc

biệt đối với Việt Nam trong những năm gần đây, các chính sách tài chính toàn diện hướng

đến việc tiếp cận vốn vay để phát triển sản xuất kinh doanh dành cho các doanh nghiệp nhỏ

và vừa đã có những thay đổi tích cực. Do vậy, trong tương lai tác giả kỳ vọng sẽ tiếp tục

nghiên cứu về tài chính toàn diện một cách đầy đủ hơn với các tiêu chí này.

Thứ ba, giới hạn nghiên cứu ở các nước khu vực ASEAN, chưa có sự mở rộng về phạm

vi cho các quốc gia ở khu vực Châu Á hoặc rộng hơn là các nước trên thế giới. Đồng thời,

luận án chưa phân tích chi tiết về tài chính toàn diện cho Việt Nam, để có giá trị và tính ứng

dụng cao hơn. Dự kiến trong tương lai sẽ mở rộng nghiên cứu và tiếp tục thực hiện nghiên

cứu sâu hơn ở Việt Nam về tác động của tài chính toàn diện đến sự ổn định hệ thống ngân

hàng với phương pháp phân tích phù hợp.

130

TÓM TẮT CHƯƠNG 5

Ở chương 5, tác giả sau khi phân tích kết quả hồi quy ở chương 4 đã đưa ra những kết luận

trọng yếu nhất của luận án, rằng các ngân hàng hoạt động ở các môi trường có tài chính toàn

diện cao có thể cải thiện sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Tác giả đã chỉ ra các biến phụ

thuộc khác có tác động tích cực đến ổn định hệ thống ngân hàng gồm quy mô, tỷ lệ của các

khoản vay có khả năng chi trả, mức độ vốn hóa và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế; đồng

thời cũng lưu ý việc gia tăng các trích lập dự phòng rủi ro vỡ nợ hay gia tăng các thu nhập

phi lãi sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự ổn định.

Do vậy, thúc đẩy tài chính toàn diện vẫn luôn là ưu tiên hàng đầu của các chính phủ ở

ASEAN hiện nay. Song thúc đẩy tài chính toàn diện không phải là việc đơn giản. Do đó, một

số hàm ý chính sách dành cho chính phủ các nước ở ASEAN đã được tác giả đưa ra. Theo

đó, việc tiếp tục thúc đẩy tài chính toàn diện vẫn là việc mà các quốc gia đang phát triển nói

chung và các nước ASEAN nói riêng cần được xem trọng hàng đầu, với việc thực hiện triển

khai tùy thuộc theo bối cảnh của mỗi nước. Ngoài ra việc duy trì một nền kinh tế lành mạnh

và tăng trưởng ổn định cũng rất quan trọng cho cả việc thúc đẩy tài chính toàn diện và ổn định

hệ thống ngân hàng.

Ở cấp độ các ngân hàng, cần tiếp tục gia tăng quy mô, nâng cao vốn chủ sở hữu, chất

lượng các khoản vay, bởi những nhân tố này làm gia tăng tính ổn định. Đồng thời, xem xét

giảm rủi ro vỡ nợ (thể hiện bởi mức dự phòng mất nợ) và giảm thu nhập phi lãi vì những tác

động tiêu cực. Các chính sách được tác giả trình bày trên nếu được thực hiện đồng bộ, sẽ nâng

cao tính ổn định của hệ thống ngân hàng tại ASEAN.

Như vậy, nghiên cứu đã hoàn thiện các khoảng trống sau đây:

(1) Đã xác định rất rõ các kênh thể hiện sự tác động của tài chính toàn diện đến ổn định

hệ thống ngân hàng ở chương 2;

(2) Sử dụng biến tổng hợp IFI trên ba khía cạnh (thâm nhập, sẵn có, sử dụng) và đồng thời

xem xét riêng lẻ từng khía cạnh để đánh giá mức độ tài chính toàn diện ở các quốc gia khu

vực ASEAN một cách đầy đủ hơn (chương 2 và 4);

(3) Bên cạnh việc sử dụng biến Zscore đại diện cho rủi ro tổng thể của ngân hàng, tác giả

còn dùng thêm sdGrDep để quan sát sự biến động của tăng trưởng tiền gửi và biến NPLTA

để quan sát tỷ lệ nợ xấu trong ngân hàng (chương 2 và 4);

131

(4) Nghiên cứu chỉ rõ các hàm ý chính sách, nhất là các hàm ý liên quan đến tài chính toàn

diện trong thúc đẩy sự ổn định tài chính (chương 5).

Tuy nhiên, giới hạn của nghiên cứu chính là mới chỉ tập trung vào ba khía cạnh của tài

chính toàn diện, chưa xét đến vấn đề về sự phát triển của công nghệ, nhất là các vấn đề liên

quan đến Công nghệ Tài chính – Fintech. Hơn nữa, các chỉ số liên quan đến tài chính toàn

diện mà tác giả thu thập là chủ yếu các số liệu từ cá nhân, chưa xét đến doanh nghiệp, nhất là

các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa. Do đó, trong tương lai, tác giả sẽ hoàn thiện theo

hướng nghiên cứu này.

i

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Hoàng Ngọc Nhậm (2008) “Giáo trình Kinh tế lượng,” Trường ĐH Kinh tế TPHCM, p. 265.

Nguyễn Quang Dong and Nguyễn Thị Minh (2013) Giáo trình kinh tế lượng. NXB Đại học Kinh

tế Quốc dân.

Tài liệu tiếng Việt

Abuzayed, B., Al-Fayoumi, N. and Molyneux, P. (2018) “Diversification and bank stability in the GCC,” Journal of International Financial Markets, Institutions and Money. Elsevier B.V., 57, pp.

17–43. doi: 10.1016/j.intfin.2018.04.005.

Acemoglu, D., Ozdaglar, A. and Tahbaz-Salehi, A. (2015) “Systemic risk and stability in financial

networks,” American Economic Review, 105(2), pp. 564–608. doi: 10.1257/aer.20130456.

Acharya, V. V. (2009) “A theory of systemic risk and design of prudential bank regulation,”

Journal of Financial Stability, 5(3), pp. 224–255. doi: 10.1016/j.jfs.2009.02.001.

Acharya, V. V, Hasan, I. and Saunders, A. (2006) “Should banks be diversified? Evidence from

individual bank loan portfolios,” The Journal of Business. JSTOR, 79(3), pp. 1355–1412.

Adasme, O., Majnoni, G. and Uribe, M. (2006) “Access and risk-friends or foes? Lessons from

Chile,” World Bank Policy Research Working Paper. The World Bank, 4003.

ADB (2008) “Strategy 2020: The Long-Term Strategic Framework of the Asian Development

Bank.,” Manila.

ADB (2014) “Midterm Review of Strategy 2020: Meeting the Challenges of a Transforming Asia

and Pacific,” Manila.

ADB (2015) “National financial inclusion strategy: Thailand experience.”

ADB (2017) “Accelerating financial inclusion in South-East Asia with digital finance,” p. pp.1-

86.

Adusei, M. (2015) “The impact of bank size and funding risk on bank stability,” Cogent

Economics and Finance, 3(1), pp. 1–19. doi: 10.1080/23322039.2015.1111489.

Ahamed, M. . and Mallick, S. (2016) “Is financial inclusion good for bank stability? International

evidence By M. Mostak Ahamed 1,2 and Sushanta Mallick 3,” 44(0), pp. 1–65.

Ahamed, M. M. and Mallick, S. K. (2019) “Is financial inclusion good for bank stability? International evidence,” Journal of Economic Behavior and Organization, 157, pp. 403–427. doi:

10.1016/j.jebo.2017.07.027.

Aker, J. et al. (2013) “How do electronic transfers compare? Evidence from a mobile money cash

Tài liệu tiếng Anh

ii

transfer experiment in Niger,” Tufts University.

Aker, J. C. et al. (2015) “The foundations of financial inclusion: Understanding ownership and

use of formal accounts,” The journal of finance. Washington, DC: World Bank Group: National Bureau of Economic Research, 38(1), pp. 1–37. doi: 10.1257/app.5.1.163.

Aker, J. C. et al. (2016) “Payment mechanisms and antipoverty programs: Evidence from a mobile money cash transfer experiment in Niger,” Economic Development and Cultural Change,

65(1), pp. 1–37.

Aker, J. C. and Mbiti, I. M. (2010) “Mobile phones and economic development in Africa,”

Journal of economic Perspectives, 24(3), pp. 207–232.

Akhigbe, A. and Whyte, A. M. (2003) “Changes in market assessments of bank risk following

the Riegle–Neal Act of 1994,” Journal of banking & finance. Elsevier, 27(1), pp. 87–102.

Alawode, A. A. and Al Sadek, M. (2008) “What is financial stability,” Financial Stability Paper

Series, 1.

Allen, F. et al. (2016) The foundations of financial inclusion: Understanding ownership and use

of formal accounts, Journal of Financial Intermediation. doi: 10.1016/j.jfi.2015.12.003.

Allen, F. and Gale, D. (1998) “Optimal financial crises,” The journal of finance. Wiley Online

Library, 53(4), pp. 1245–1284.

Allen, F. and Gale, D. (2000) “Financial contagion,” Journal of political economy. The University

of Chicago Press, 108(1), pp. 1–33.

Allen, F. and Gale, D. (2004) “Competition and financial stability,” Journal of money, credit and

banking. JSTOR, pp. 453–480.

Altman, E. I. (2000) “Predicting financial distress of companies: revisiting the Z-score and ZETA® models,” in Handbook of research methods and applications in empirical finance. Edward

Elgar Publishing.

Alvi, M. A., Rafique, A. and Shehzad, K. (2020) “Financial inclusion and bank stability

controversy: Evidence from South Asian region,” International Journal of Financial Engineering, 7(4), p. 2050038. doi: 10.1142/s2424786320500383.

Anderson, S. and Baland, J. M. (2002) “The economics of roscas and intrahousehold resource doi:

Economics,

Quarterly

963–995.

Journal

117(3),

pp.

allocation,”

of

10.1162/003355302760193931.

Angelucci, M., Karlan, D. and Zinman, J. (2013) Win some lose some? Evidence from a

randomized microcredit program placement experiment by Compartamos Banco. National Bureau of Economic Research.

Anginer, D., Demirguc-Kunt, A. and Zhu, M. (2012) “How Does Deposit Insurance Affect Bank

Risk?,” Evidence from the recent crisis: The World Bank.

iii

Anolli, M., Beccalli, E. and Molyneux, P. (2014) “Bank earnings forecasts, risk and the crisis,”

Journal of International Financial Markets, Institutions and Money. Elsevier, 29, pp. 309–335.

Arellano, M. and Bover, O. (1995) “Another look at the instrumental variable estimation of error-

components models,” Journal of econometrics. Elsevier, 68(1), pp. 29–51.

Ariss, R. T. (2010) “On the implications of market power in banking: Evidence from developing

countries,” Journal of banking & Finance. Elsevier, 34(4), pp. 765–775.

ASEAN (2015) ASEAN 2025: Forging Ahead Together, Journal of Chemical Information and

Modeling. Available at: https://asean.org/asean-community-vision-2025-2/.

ASEAN (2020) “Report on Promoting Sustainable Finance in Asean,” ASEAN Working

Committee on Capital Market Development, (April).

Ashraf, D., Ramady, M. and Albinali, K. (2016) “Financial fragility of banks, ownership structure

and income diversification: Empirical evidence from the GCC region,” Research in International Business and Finance. Elsevier B.V., 38, pp. 56–68. doi: 10.1016/j.ribaf.2016.03.010.

Ashraf, N. et al. (2003) “A review of commitment savings products in development countries.”

Ashraf, N., Karlan, D. and Yin, W. (2010) “Female empowerment: Impact of a commitment

savings product in the Philippines,” World Development, 38(3), pp. 333–344.

Attanasio, O. et al. (2015) “The impacts of microfinance: Evidence from joint-liability lending in

Mongolia,” American Economic Journal: Applied Economics, 7(1), pp. 90–122.

Bai, G. and Elyasiani, E. (2013) “Bank stability and managerial compensation,” Journal of

Banking & Finance, 37(3), pp. 799–813. doi: https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2012.10.026.

Banerjee, A. V and Newman, A. F. (1994) “Poverty, Incentives, and Development,” The

American Economic Review. American Economic Association, 84(2), pp. 211–215. Available at: http://www.jstor.org/stable/2117831.

Banerjee, R. and Donato, R. (2021) “The Composition of Financial Inclusion in ASEAN and East Asia: A New Hybrid Index and Some Stylised Facts,” Financial Inclusion in Asia, (341). doi:

10.4324/9781003035916.

Banerjee, R., Donato, R. and Maruta, A. A. (2020) “The Effects of Financial Inclusion on

Development Outcomes: New Insights from ASEAN and East Asian Countries,” Financial Inclusion in Asia, (342), pp. 1–53.

Bauchet, J. et al. (2011) Latest findings from randomized evaluations of microfinance. World

Bank.

Beaman, L. et al. (2014) Self-selection into credit markets: Evidence from agriculture in mali.

National Bureau of Economic Research.

Beck, T. (2008) Bank competition and financial stability: friends or foes? The World Bank.

iv

Beck, T. et al. (2018) “When arm’s length is too far: Relationship banking over the credit cycle,”

Journal of Financial Economics. Elsevier, 127(1), pp. 174–196.

Beck, T., Demirgüç-Kunt, A. and Levine, R. (2007) “Finance, inequality and the poor,” Journal

of economic growth, 12(1), pp. 27–49.

Beck, T., De Jonghe, O. and Schepens, G. (2013) “Bank competition and stability: Cross-country

heterogeneity,” Journal of Financial Intermediation, 22(2), pp. 218–244.

Berger, A. N. and Bouwman, C. H. S. (2013) “How does capital affect bank performance during

financial crises?,” Journal of Financial Economics. Elsevier, 109(1), pp. 146–176.

Berger, A. N. and DeYoung, R. (2001) “The effects of geographic expansion on bank efficiency,”

Journal of financial services research. Springer, 19(2–3), pp. 163–184.

Berger, A. N., Hasan, I. and Zhou, M. (2010) “The effects of focus versus diversification on bank

performance: Evidence from Chinese banks,” Journal of Banking & Finance. Elsevier, 34(7), pp. 1417–1435.

Berger, A. N., Klapper, L. F. and Turk-Ariss, R. (2009) “Bank competition and financial stability,” Journal of Financial Services Research, 35(2), pp. 99–118. doi: 10.1007/s10693-008-

0050-7.

Berger, A. N. and Udell, G. F. (1998) “The economics of small business finance: The roles of

private equity and debt markets in the financial growth cycle,” Journal of banking & finance. Elsevier, 22(6–8), pp. 613–673.

Besanko, D. and Thakor, A. V (2004) Relationship banking, deposit insurance and bank portfolio

choice. University Library of Munich, Germany.

Black, F. (1975) “Bank funds management in an efficient market,” Journal of Financial

Economics. Elsevier, 2(4), pp. 323–339.

Blundell, R. and Bond, S. (1998) “Initial conditions and moment restrictions in dynamic panel

data models,” Journal of econometrics. Elsevier, 87(1), pp. 115–143.

BOK

(2020) Definition and

at:

Importance of Financial Stability. Available https://www.bok.or.kr/eng/main/contents.do?menuNo=400037 (Accessed: September 5, 2020).

Boot, A. W. A. and Schmeits, A. (2000) “Market discipline and incentive problems in conglomerate firms with applications to banking,” Journal of financial intermediation. Elsevier, 9(3),

pp. 240–273.

Boot, A. W. A. and Thakor, A. V (2000) “Can relationship banking survive competition?,” The

journal of Finance. Wiley Online Library, 55(2), pp. 679–713.

Bordo, M. D., Dueker, M. J. and Wheelock, D. C. (2002) “Aggregate price shocks and financial

instability: A historical analysis,” Economic Inquiry. Wiley Online Library, 40(4), pp. 521–538.

Borio, C. E. V and Drehmann, M. (2009) “Assessing the risk of banking crises–revisited,” BIS

v

Quarterly Review, March.

Bourkhis, K. and Nabi, M. S. (2013) “Islamic and conventional banks’ soundness during the

2007–2008 financial crisis,” Review of Financial economics. Wiley Online Library, 22(2), pp. 68– 77.

Boyd, J. H. and De Nicolo, G. (2005) “The theory of bank risk taking and competition revisited,”

The journal of finance, 60(3), pp. 1329–1343.

Boyd, J. H. and Runkle, D. E. (1993) “Size and performance of banking firms: Testing the

predictions of theory,” Journal of monetary economics. Elsevier, 31(1), pp. 47–67.

Brown, M. et al. (2014) Understanding Bank-Run Contagion - ECB Working Paper 1711, ECB

Working Paper Serices. Available at: https://www.ecb.europa.eu/pub/pdf/scpwps/ecbwp1711.pdf.

Bruhn, M. and Love, I. (2014) “The real impact of improved access to finance: Evidence from

Mexico,” The journal of finance, 69(3), pp. 1347–1376.

Brune, L. et al. (2011) Commitments to save: A field experiment in rural Malawi. The World

Bank.

Brunnermeier, M. et al. (2009) “The Fundamental Principles of Financial Regulation,” Geneva

Reports on the World Economy 11, 11. doi: 10.1108/13581980210810175.

Brunnermeier, M. K. and Pedersen, L. H. (2009) “Market liquidity and funding liquidity,” The

review of financial studies. Society for Financial Studies, 22(6), pp. 2201–2238.

Bryant, J. (1980) “A model of reserves, bank runs, and deposit insurance,” Journal of Banking

and Finance, 4(4), pp. 335–344. doi: 10.1016/0378-4266(80)90012-6.

Buch, C. M., Koch, C. T. and Koetter, M. (2012) “Do banks benefit from internationalization?

Revisiting the market power–risk nexus,” Review of Finance, 17(4), pp. 1401–1435.

Burgess, R. and Pande, R. (2005) “Do rural banks matter? Evidence from the Indian social

American Economic Review,

95(3),

pp.

780–795.

doi:

experiment,”

banking 10.1257/0002828054201242.

Bushman, R. M. and Williams, C. D. (2012) “Accounting discretion, loan loss provisioning, and discipline of Banks’ risk-taking,” Journal of Accounting and Economics. Elsevier, 54(1), pp. 1–18.

doi: 10.1016/j.jacceco.2012.04.002.

Calomiris, C. W. and Kahn, C. M. (1991) “The role of demandable debt in structuring optimal

banking arrangements,” The American Economic Review, pp. 497–513.

Cámara, N. and Tuesta, D. (2014) “Measuring financial inclusion: A muldimensional index,”

BBVA Research Paper, (14/26).

Caminal, R. and Matutes, C. (2002) “Market power and banking failures,” International Journal

of Industrial Organization. Elsevier, 20(9), pp. 1341–1361.

vi

Carbo-Valverde, S., Rodriguez-Fernandez, F. and Udell, G. F. (2009) “Bank market power and

SME financing constraints,” Review of Finance. Oxford University Press, 13(2), pp. 309–340.

CARD MRI and UNCDF (2020) “Doubling financial inclusion in the ASEAN by 2020,” Outcome

Report of the Consultation with Southern Market Leaders in Financial Services for the Poor.

Carletti, E. and Vives, X. (2009) “Regulation and competition policy in the banking sector,” Competition Policy in Europe, Fifty Years of the Treaty of Rome, Oxford University Press,

forthcoming. Citeseer.

CBN (2020) What

is

financial stability and why

is

it

important? Available at:

https://www.bon.com.na/Bank/Financial-Stability/What-is-financial-stability-and-why-is-it-

importan.aspx#Top (Accessed: September 5, 2020).

Chang, R. and Velasco, A. (2001) “A model of financial crises in emerging markets,” The

Quarterly Journal of Economics. MIT Press, 116(2), pp. 489–517.

Chant, J. et al. (2003) “Essays on Financial Stability,” Technical Report Bank of Canada, (95), p.

111.

Chari, V. V and Jagannathan, R. (1988) “Banking panics, information, and rational expectations

equilibrium,” The Journal of Finance. Wiley Online Library, 43(3), pp. 749–761.

Chauvet, L. and Jacolin, L. (2017) “Financial Inclusion, Bank Concentration, and Firm

World

Development,

97,

pp.

1–13.

doi:

Performance,” https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2017.03.018.

Chiapa, C., Prina, S. and Parker, A. (2014) “The Effects of Financial Inclusion Beyond Financial

Outcomes,” Cleveland: Case Western Reserve University.

Chiaramonte, L. et al. (2016) “How accurately can Z‐score predict bank failure?,” Financial

Markets, Institutions & Instruments. Wiley Online Library, 25(5), pp. 333–360.

Cihak, M. (2007) “Systemic Loss: A Measure of Financial Stability (in English),” Czech Journal

of Economics and Finance (Finance a uver), 57, pp. 5–26.

Čihák, M. and Hesse, H. (2010) “Islamic Banks and Financial Stability: An Empirical Analysis,”

Journal of Financial Services Research, 38(2), pp. 95–113. doi: 10.1007/s10693-010-0089-0.

Cihak, M., Mare, D. S. and Melecky, M. (2016) “The Nexus of Financial Inclusion and Financial Stability A Study of Trade-Offs and Synergies,” Policy Research Working Paper, (June), p. 45. doi:

10.1596/1813-9450-7722.

Clamara, N., Peña, X. and Tuesta, D. (2014) “Factors that Matter for Financial Inclusion:

Evidence from Peru Factors that Matter for Financial Inclusion: Evidence from Peru Working Paper,” Madrid: BBVA Research, Working Pa(14/09). Available at: www.bbvaresearch.com.

Cole, S., Giné, X. and Vickery, J. (2013) “How does risk management influence production decisions,” Evidence from a field experiment. World Bank Policy Research Working Paper, 30(6),

vii

pp. 1935–1970.

Conning, J. (1999) “Outreach, sustainability and leverage in monitored and peer-monitored

lending,” Journal of development economics. Elsevier, 60(1), pp. 51–77.

Crockett, A. (1996) “The theory and practice of financial stability,” De Economist, 144(4), pp.

531–568.

Crockett, A. (1997) “Why is financial stability a goal of public policy?,” Economic Review-

Federal Reserve Bank of Kansas City. Federal Reserve Bank of Kansas City, 82, pp. 5–22.

Cuberes, D. and Teignier, M. (2016) “Aggregate effects of gender gaps in the labor market: A

quantitative estimate,” Journal of Human Capital, 10(1), pp. 1–32. doi: 10.1086/683847.

Cull, R., Demirguc-kunt, A. and Layman, T. (2012) “Financial Inclusion and Stability: What Does

Research Show?,” CGAP Brief, (May), pp. 1–4. doi: 10.1002/jid.

Daboub, J. J. (2010) “Bài Phát biểu tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN lần thứ 14.” Available at: https://www.worldbank.org/vi/news/speech/2010/04/08/vietnam-global-economic-

prospects-challenges-post-crisis-period.

Dasgupta, A. (2004) “Financial contagion through capital connections: A model of the origin and

spread of bank panics,” Journal of the European Economic Association. Oxford University Press, 2(6), pp. 1049–1084.

Datastream (2020) Datastream Eikon Data.

Davis, J. H., Schoorman, F. D. and Donaldson, L. (1997) “Toward a stewardship theory of

management,” Academy of Management review. Academy of Management Briarcliff Manor, NY, 22(1), pp. 20–47.

Delavallade, C. et al. (2015) Managing Risk with Insurance and Savings: Experimental Evidence for Male and Female Farm Managers in West Africa, Policy Research working paper. Washington,

DC: World Bank Group. doi: 10.2139/ssrn.2583847.

Delis, M. D. and Kouretas, G. P. (2011) “Interest rates and bank risk-taking,” Journal of Banking

and Finance. Elsevier B.V., 35(4), pp. 840–855. doi: 10.1016/j.jbankfin.2010.09.032.

Delis, M. D., Tran, K. C. and Tsionas, E. G. (2012) “Quantifying and explaining parameter

heterogeneity in the capital regulation-bank risk nexus,” Journal of Financial Stability, 8(2), pp. 57– 68. doi: https://doi.org/10.1016/j.jfs.2011.04.002.

Demirgiiu-Kunt, A. and Levine, R. (1999) “Bank-Based and Market- Based Financial Systems,”

Policy Research Working Paper, (July).

Demirgüç-Kunt, A. and Detragiache, E. (1998) “The determinants of banking crises in developing

and developed countries,” Staff Papers. Springer, 45(1), pp. 81–109.

Demirgüç-Kunt, A. and Detragiache, E. (2005) “Cross-country empirical studies of systemic bank distress: a survey,” National Institute Economic Review. Sage Publications Sage CA: Thousand Oaks,

viii

CA, 192(1), pp. 68–83.

Demirgüç-Kunt, A., Honohan, P. and Beck, T. (2008) Finance for all?: Policies and Pitfalls in

Expanding Access. World bank.

Demirgüç-Kunt, A. and Huizinga, H. (2010) “Bank activity and funding strategies: The impact

on risk and returns,” Journal of Financial economics. Elsevier, 98(3), pp. 626–650.

Demirgüç-Kunt, A. and Klapper, L. (2013) “Measuring financial inclusion: Explaining variation

in use of financial services across and within countries,” Brookings Papers on Economic Activity, 2013(1), pp. 279–340.

Demirguc-Kunt, A., Klapper, L. and Singer, D. (2013) Financial Inclusion and Legal

Discrimination against Women: Evidence from Developing Countries. The World Bank. doi: 10.1596/1813-9450-6416.

Deng, S. and Elyasiani, E. (2008) “Geographic diversification, bank holding company value, and

risk,” Journal of Money, Credit and Banking. Wiley Online Library, 40(6), pp. 1217–1238.

DeYoung, R. and Rice, T. (2004) “Non-Interest Income and Financial Performance at

Commercial Banks in the Caribbean,” The Financial Review, 2003(January), pp. 101–127.

DeYoung, R. and Roland, K. P. (2001) “Product mix and earnings volatility at commercial banks: Evidence from a degree of total leverage model,” Journal of Financial Intermediation. Elsevier,

10(1), pp. 54–84.

Diamond, D. W. and Dybvig, P. H. (1983) “Bank runs, deposit insurance, and liquidity,” Journal

of political economy. The University of Chicago Press, 91(3), pp. 401–419.

Djatche, M. J. N. (2019) “Re-exploring the nexus between monetary policy and banks’ risk-

taking,” Economic Modelling. Elsevier, 82, pp. 294–307.

Donaldson, L. and Davis, J. H. (1991) “Stewardship theory or agency theory: CEO governance

and shareholder returns,” Australian Journal of management. SAGE Publications Sage UK: London, England, 16(1), pp. 49–64.

Dupas, P. and Robinson, J. (2013a) “Savings constraints and microenterprise development: Evidence from a field experiment in kenya,” American Economic Journal: Applied Economics, 5(1),

pp. 163–192. doi: 10.1257/app.5.1.163.

Dupas, P. and Robinson, J. (2013b) “Why don’t the poor save more? Evidence from health

experiments,” American Economic Review,

103(4),

pp.

1138–1171.

doi:

savings 10.1257/aer.103.4.1138.

Eichengreen, B., Rose, A. K. and Wyplosz, C. (1994) “Speculative Attacks on Pegged Exchange Rates: An Empirical Exploration with Special Reference to the European Monetary System,” NBER Working Paper No. 4898.

Eichengreen, B., Rose, A. and Wyplosz, C. (1996) Contagious Currency Crises, Capital Flows

ix

and Crises. National Bureau of Economic Research, Inc. doi: 10.7551/mitpress/1731.003.0009.

Espahbodi, P. (1991) “Identification of problem banks and binary choice models,” Journal of

Banking and Finance, 15(1), pp. 53–71. doi: 10.1016/0378-4266(91)90037-M.

Fama, E. F. (1985) “What’s different about banks?,” Journal of monetary economics. Elsevier,

15(1), pp. 29–39.

Fang, Y., Hasan, I. and Marton, K. (2014) “Institutional development and bank stability: Evidence

from transition countries,” Journal of Banking & Finance, 39, pp. 160–176.

FAO (2015) The State of Food Insecurity in the World: Meeting the 2015 international hunger targets, FAO, IFAD and WFP. Available at: http://www.fao.org/3/a4ef2d16-70a7-460a-a9ac-

2a65a533269a/i4646e.pdf.

FAS

(2021)

Financial

Access

Survey

-

About

FAS. Available

at:

https://data.imf.org/?sk=E5DCAB7E-A5CA-4892-A6EA-598B5463A34C&sId=1412015057755 (Accessed: April 5, 2021).

Fernández, A. I., González, F. and Suárez, N. (2016) “Banking stability, competition, and economic volatility,” Journal of Financial Stability. Elsevier B.V., 22, pp. 101–120. doi:

10.1016/j.jfs.2016.01.005.

FIC (2016) “Financial Inclusion Commission Strategy 2020,” Financial Inclusion Commission,

pp. 1–3. Available at: http://www.financialinclusioncommission.org.uk/history.

Fink, G., Jack, B. K. and Masiye, F. (2014) Seasonal credit constraints and agricultural labor

supply: evidence from Zambia. National Bureau of Economic Research.

Flug, K., Spilimbergo, A. and Wachtenheim, E. (1998) “Investment in education: do economic

volatility and credit constraints matter?,” Journal of Development Economics. Elsevier, 55(2), pp. 465–481.

Freixas, X. and Parigi, B. (1998) “Contagion and efficiency in gross and net interbank payment

systems,” Journal of Financial Intermediation. Elsevier, 7(1), pp. 3–31.

Freixas, X., Parigi, B. M. and Rochet, J.-C. (2000) “Systemic risk, interbank relations, and liquidity provision by the central bank,” Journal of money, credit and banking. JSTOR, pp. 611–638.

Frenk, J. and Knaul, F. (2002) “Health and the economy: empowerment through evidence.”

SciELO Public Health.

Gabaix, X. and Landier, A. (2008) “Why has CEO pay increased so much?,” The Quarterly

Journal of Economics. MIT Press, 123(1), pp. 49–100.

Garcia, M. J. R. (2016) “Can financial inclusion and financial stability go hand in hand?,”

Economic Issues Journal Articles, 21(2), pp. 81–103.

Gertler, M. and Kiyotaki, N. (2010) “Financial intermediation and credit policy in business cycle

analysis,” in Handbook of monetary economics. Elsevier, pp. 547–599.

x

Global Findex (2017) “Report.” Available at: https://globalfindex.worldbank.org/#GF-

ReportChapters.

Goetz, M. R. (2015) “Bank Diversification, Market Structure and Bank Risk Taking: Theory and

Evidence from U.S. Commercial Banks,” SSRN Electronic Journal. doi: 10.2139/ssrn.2651161.

Goetz, M. R. (2018) “Competition and bank stability,” Journal of Financial Intermediation, 35,

pp. 57–69.

Goetz, M. R., Laeven, L. and Levine, R. (2013) “Identifying the valuation effects and agency costs of corporate diversification: Evidence from the geographic diversification of US banks,” The Review of Financial Studies. Oxford University Press, 26(7), pp. 1787–1823.

Goldsmith-Pinkham, P. and Yorulmazer, T. (2010) “Liquidity, bank runs, and bailouts: spillover effects during the Northern Rock episode,” Journal of Financial Services Research. Springer, 37(2–

3), pp. 83–98.

Goodhart, C. A. E. (2006) “A framework for assessing financial stability?,” Journal of Banking

and Finance, 30(12), pp. 3415–3422. doi: 10.1016/j.jbankfin.2006.06.003.

De Guevara, J. F. et al. (2005) “Market Power in European Banking Sectors,” Journal of

Financial Services Research, 27(2), pp. 109–137. doi: 10.1007/s10693-005-6665-z.

Gujarati, D. N. (2004) Basic Economics. 4th editio. McGraw-Hill Inc. New York.

Guy, K. and Lowe, S. (2011) “Non-performing loans and bank stability in Barbados,” Economic

Review, 37(1), pp. 77–99.

De Haan, J. and Poghosyan, T. (2012) “Bank size, market concentration, and bank earnings volatility in the US,” Journal of International Financial Markets, Institutions and Money. Elsevier,

22(1), pp. 35–54.

Hagen, J. Von and Ho, T.-K. (2007) “Money Market Pressure and the Determinants of Banking

Crises,” Journal of Money, Credit and Banking. [Wiley, Ohio State University Press], 39(5), pp. 1037–1066. Available at: http://www.jstor.org/stable/4494286.

Han, R. and Melecky, M. (2014) “Financial Inclusion for Financial Stability Access to Bank Deposits and the Growth of Deposits in the Global Financial Crisis,” World Development Report,

Background(2014), pp. 2–24. doi: 10.1596/1813-9450-6577.

Hannig, A. and Jansen, S. (2010) “Financial inclusion and financial stability: Current policy

issues,” ADBI Working Paper, 259, pp. 284–318.

Harper, M. and Arora, S. S. (2005) Small customers, big market: commercial banks in

The

(TERI). Available

Resources

Institute

and

at:

microfinance. Energy https://books.google.com.vn/books?hl=vi&lr=&id=zyCO6T- oxr4C&oi=fnd&pg=PR5&dq=Harper,+M.,+Arora,+S.S.,+2005.+Small+customers,+big+market:+c ommercial+banks+in+microfinance.+TERI+Press&ots=_HMQOg36uj&sig=FlYtQfGO8reYtdkhtxI

xi

TGIobnuc&redir_esc=y#v=onepage&q&f=.

Hauswald, R. and Marquez, R. (2006) “Competition and strategic information acquisition in

credit markets,” The Review of Financial Studies. Oxford University Press, 19(3), pp. 967–1000.

Haydon, R. B. . and Wicks, J. H. . (1966) “A Model of Commercial Bank Earning Assets

Selection,” The Journal of Financial and Quantitative Analysis, 1(2), pp. 99–113.

Hermes, N., Lensink, R. and Meesters, A. (2011) “Outreach and efficiency of microfinance

institutions,” World development. Elsevier, 39(6), pp. 938–948.

HKMA (2017) “Bank Resolution Regime – A Newly Established Line of Defence for Banking Stability.” Available at: https://www.hkma.gov.hk/eng/news-and-media/insight/2017/08/20170810/.

Hong, K. and Tang, H. C. (2010) “ADB Working Paper Series on Regional Economic Integration Crises in Asia: Recovery and Policy Responses,” ADB Working Paper Series on Regional Economic

Integration, 48.

Honohan, P. (2008) “Cross-country variation in household access to financial services,” Journal

of Banking & Finance. Elsevier, 32(11), pp. 2493–2500.

Houston, J. F. et al. (2010) “Creditor rights, information sharing, and bank risk taking,” Journal

of financial Economics. Elsevier, 96(3), pp. 485–512. doi: 10.1016/J.JFINECO.2010.02.008.

Houston, J., James, C. and Marcus, D. (1997) “Capital market frictions and the role of internal

capital markets in banking,” Journal of financial Economics. Elsevier, 46(2), pp. 135–164.

Hsieh, M. F. et al. (2013) “How does diversification impact bank stability? the role of

globalization, regulations, and governance environments,” Asia-Pacific Journal of Financial Studies, 42(5), pp. 813–844. doi: 10.1111/ajfs.12032.

Huang, R. and Ratnovski, L. (2011) “The dark side of bank wholesale funding,” Journal of

Financial Intermediation, 20(2), pp. 248–263.

Ibragimov, R., Jaffee, D. and Walden, J. (2011) “Diversification disasters,” Journal of financial

economics. Elsevier, 99(2), pp. 333–348.

IMF

Cross-Country

(2020)

Data.

FAS

Available

at:

FAS https://data.imf.org/regular.aspx?key=61063967 (Accessed: October 25, 2020).

Iqbal, B. A. and Sami, S. (2017) “Role of banks in financial inclusion in India,” Contaduría y

administración, 62(2), pp. 644–656.

Jack, W. and Suri, T. (2014) “Risk sharing and transactions costs: Evidence from Kenya’s mobile

money revolution,” American Economic Review, 104(1), pp. 183–223.

Jahn, N. and Kick, T. (2012) “Determinants of Banking System Stability: A Macro-Prudential Analysis,” A joint workshop hosted by the Basel Committee on Banking Supervision, the Centre for Economic Policy Research (CEPR), and the Journal of Financial Intermediation, pp. 1–35. Available at: http://www.bis.org/bcbs/events/bhbibe_programme.pdf.

xii

Janzen, S. A. and Carter, M. R. (2013) “The impact of microinsurance on consumption smoothing

and asset protection: Evidence from a drought in Kenya.”

Jayaratne, J. and Strahan, P. E. (1996) “The finance-growth nexus: Evidence from bank branch

deregulation,” The Quarterly Journal of Economics. MIT Press, 111(3), pp. 639–670.

Jetin, B. and Mikic, M. (2016) ASEAN Economic Community: A Model for Asia-wide Regional

Integration?, Palgrave Macmillan. doi: 10.1057/9781137535085_9.

Jiménez, G., Lopez, J. A. and Saurina, J. (2013) “How does competition affect bank risk-taking?,”

Journal of Financial Stability, 9(2), pp. 185–195. doi: https://doi.org/10.1016/j.jfs.2013.02.004.

Johnston Jr, D. and Morduch, J. (2008) “The unbanked: evidence from Indonesia,” The world

bank economic review, 22(3), pp. 517–537.

Jones, P. A. (2006) “Giving credit where it’s due: Promoting financial inclusion through quality

credit unions,” Local Economy. SAGE Publications Sage UK: London, England, 21(1), pp. 36–48.

Kalunda, E. (2014) “Financial inclusion impact on small-scale tea farmers in Nyeri County,

Kenya,” World Journal of Social Sciences, 4(1), pp. 130–139.

Karlan, D. et al. (2013) “Poverty impedes cognitive function,” The Quarterly Journal of

Economics. MIT Press, 111(3), pp. 591–629.

Karlan, D. et al. (2014) “Agricultural decisions after relaxing credit and risk constraints,” The

Quarterly Journal of Economics, 129(2), pp. 597–652.

Karlan, D. et al. (2016) “Getting to the top of mind: How reminders increase saving,”

Management Science, 62(12), pp. 3393–3411.

Karlan, D. and Zinman, J. (2009) “Expanding credit access: Using randomized supply decisions

to estimate the impacts,” The Review of Financial Studies, 23(1), pp. 433–464.

Kaufman, G. G. . (1972) “Deposit Variability and Bank Size Author,” The Journal of Financial

and Quantitative Analysis, 7(5), pp. 2087–2096.

Kaur, N. et al. (2019) “Income Diversification and Bank Stability: Evidence from India,” SSRN

Electronic Journal, pp. 1–20. doi: 10.2139/ssrn.3340806.

Keeley, M. C. (1990) “Deposit insurance, risk, and market power in banking,” The American

economic review. JSTOR, pp. 1183–1200.

Kempson, E., Atkinson, A. and Pilley, O. (2004) “Policy level response to financial exclusion in

developed economies: lessons for developing countries,” Report of Personal Finance Research Centre, University of Bristol.

Khan, H. R. (2011) “Financial inclusion and financial stability: are they two sides of the same

coin?,” in BANCON. The Indian Bankers Association and Indian Overseas Bank.

Khan, M. S., Scheule, H. and Wu, E. (2017) “Funding liquidity and bank risk taking,” Journal of

xiii

Banking and Finance. Elsevier B.V., 82, pp. 203–216. doi: 10.1016/j.jbankfin.2016.09.005.

Kim, M., Kliger, D. and Vale, B. (2003) “Estimating switching costs: the case of banking,”

Journal of Financial Intermediation. Elsevier, 12(1), pp. 25–56.

Kirk, M. et al. (2011) “Connected Agriculture: The role of mobile in driving efficiency and

sustainability in the food and agriculture value chain,” Oxfam Policy and Practice: Agriculture, Food and Land, 11(6), pp. 85–106.

Klapper, L., Ariss, R. and Berger, A. (2009) “Bank Competition and Financial Stability,” Journal

of Financial Services Research, 35, pp. 99–118. doi: 10.1007/s10693-008-0050-7.

Klapper, L., El-Zoghbi, M. and Hess, J. (2016) “Achieving the sustainable development goals:

The role of financial inclusion,” Washington, DC: CGAP.

Köhler, M. (2015) “Which banks are more risky? The impact of business models on bank

stability,” Journal of Financial Stability. Elsevier, 16, pp. 195–212.

Kolari, J. et al. (2002) “Predicting large US commercial bank failures,” Journal of Economics

and Business, 54(4), pp. 361–387. doi: https://doi.org/10.1016/S0148-6195(02)00089-9.

Krishna, A. (2006) “Pathways out of and into poverty in 36 villages of Andhra Pradesh, India,”

World Development, 34(2), pp. 271–288.

Kumar, N. (2013) “Financial inclusion and its determinants: evidence from India,” Journal of

Financial Economic Policy. Emerald Group Publishing Limited, 5(1), pp. 4–19. doi: 10.1108/17576381311317754.

Laeven, L. and Levine, R. (2007) “Is there a diversification discount in financial conglomerates?,”

Journal of financial economics. Elsevier, 85(2), pp. 331–367.

Laeven, L. and Levine, R. (2009) “Bank governance, regulation and risk taking,” Journal of

Financial economics, 93(2), pp. 259–275.

Laeven, L., Ratnovski, L. and Tong, H. (2016) “Bank size, capital, and systemic risk: Some international evidence,” Journal of Banking and Finance. Elsevier B.V., 69(June), pp. S25–S34. doi:

10.1016/j.jbankfin.2015.06.022.

Levine, R. (2002) “Bank-based or market-based financial systems: which is better?,” NBER

Working Paper, No. 9138.

Leyshon, A. and Thrift, N. (1995) “Geographies of financial exclusion: financial abandonment in

Britain and the United States,” Transactions of the Institute of British Geographers, pp. 312–341.

Li, X. and Malone, C. B. (2016) “Measuring Bank Risk: An Exploration of Z-Score,” SSRN

Electronic Journal, (January). doi: 10.2139/ssrn.2823946.

Loo, M. K. L. (2019) “Enhancing Financial Inclusion in ASEAN: Identifying the Best Growth Markets for Fintech,” Journal of Risk and Financial Management, 12(4), p. 181. doi: 10.3390/jrfm12040181.

xiv

Lorenzoni, G. (2008) “Inefficient credit booms,” The Review of Economic Studies. Wiley-

Blackwell, 75(3), pp. 809–833.

Malhotra, A., Kanesathasan, A. and Patel, P. (2012) “Connectivity How Mobile Phones,

Computers and the Internet Can Catalyze Women’s Entrepreneurship.”

Manfre, C. and Nordehn, C. (2013) “Exploring the promise of information and communication

technologies for women farmers in Kenya,” Cultural practice, LLC, MEAS Case Study, 4.

Mani, A. et al. (2013) “Poverty impedes cognitive function,” science, 341(6149), pp. 976–980.

Marcus, A. J. (1984) “Deregulation and bank financial policy,” Journal of banking & finance.

Elsevier, 8(4), pp. 557–565.

Markowitz, H. M. (1976) “Markowitz Revisited,” Financial Analysts Journal, 32(5), pp. 47–52.

doi: 10.2469/faj.v32.n5.47.

Martin, D. (1977) “Early warning of bank failure: A logit regression approach,” Journal of

banking & finance. Elsevier, 1(3), pp. 249–276.

Martinez Peria, M. S. and Schmukler, S. L. (2001) “Do depositors punish banks for bad behavior? Market discipline, deposit insurance, and banking crises,” The journal of finance. Wiley Online

Library, 56(3), pp. 1029–1051.

MAS (2006) “Annual Report 2005/2006,” Monetary Authority of Singapore.

Mbiti, I. and Weil, D. N. (2015) “Mobile banking: The impact of M-Pesa in Kenya,” in African Successes, Volume III: Modernization and Development. University of Chicago Press, pp. 247–293.

Mbutor, O. and Uba, I. A. (2013) “The impact of financial inclusion on monetary policy in International Finance, 5(8), pp. 318–326. doi:

Nigeria,” Journal of Economics and

10.5897/jeif2013.0541.

McKenzie, D. and Woodruff, C. (2008) “Experimental evidence on returns to capital and access

to finance in Mexico,” The World Bank Economic Review. Oxford University Press, 22(3), pp. 457– 482.

Mehrotra, A. (2019) “Financial Inclusion Through FinTech–A Case of Lost Focus,” in 2019 International Conference on Automation, Computational and Technology Management (ICACTM).

IEEE, pp. 103–107.

De Mel, S., McKenzie, D. and Woodruff, C. (2008) “Returns to capital in microenterprises:

evidence from a field experiment,” The quarterly journal of Economics. MIT Press, 123(4), pp. 1329– 1372.

Meyer, P. A. and Pifer, H. W. (1970) “Prediction of bank failures,” The journal of finance. Wiley

Online Library, 25(4), pp. 853–868.

Michael, J. and William, M. (1976) “Theory of the firm: Managerial behavior, agency costs and

ownership structure,” Journal of Financial Economics, 3(4), pp. 305–360.

xv

Mirzaei, A., Moore, T. and Liu, G. (2013) “Does market structure matter on banks’ profitability and stability? Emerging vs. advanced economies,” Journal of Banking and Finance. Elsevier B.V.,

37(8), pp. 2920–2937. doi: 10.1016/j.jbankfin.2013.04.031.

Mishkin, F. S. (1999) “Global Financial Instability: Framework, Events, Issues,” Journal of

Economic Perspectives, 13(4), pp. 3–20. doi: 10.1257/jep.13.4.3.

Morgan, P. and Pontines, V. (2014) “Financial Stability and Financial Inclusion,” SSRN

Electronic Journal, (488). doi: 10.2139/ssrn.2464018.

MTI (2009) “Consumer Protection (Fair Trading) Act,” Ministry of Trade and Industry

Singapore. Available at: https://www.mti.gov.sg/Legislation/Legislation/Consumer-Protection.

Muralidharan, K., Niehaus, P. and Sukhtankar, S. (2016) “Building state capacity: Evidence from

biometric smartcards in India,” American Economic Review, 106(10), pp. 2895–2929.

Neaime, S. and Gaysset, I. (2018) “Financial inclusion and stability in MENA: Evidence from doi:

inequality,” Finance Research

230–237.

Letters,

and

pp.

24,

poverty

https://doi.org/10.1016/j.frl.2017.09.007.

Ngalawa, H., Tchana, F. T. and Viegi, N. (2016) “Banking instability and deposit insurance: the

role of moral hazard,” Journal of Applied Economics. Universidad del CEMA, 19(2), pp. 323–350. doi: 10.1016/S1514-0326(16)30013-7.

Nguyễn Quang Dong and Nguyễn Thị Minh (2013) Giáo trình kinh tế lượng. NXB Đại học Kinh

tế Quốc dân.

De Nicolo, G. and Loukoianova, E. (2007) “Bank ownership, market structure and risk.” IMF

Working paper.

Nier, E. and Baumann, U. (2006) “Market discipline, disclosure and moral hazard in banking,”

Journal of Financial Intermediation. Elsevier, 15(3), pp. 332–361.

Nier, E. W. (2005) “Bank stability and transparency,” Journal of Financial Stability, 1(3), pp.

342–354. doi: https://doi.org/10.1016/j.jfs.2005.02.007.

Niu, J. (2012) “An empirical analysis of the relation between bank charter value and risk taking,”

The Quarterly Review of Economics and Finance. Elsevier, 52(3), pp. 298–304.

NSFI (2012) “National Strategy for Financial Inclusion Fostering Economic Growth and Accelerating Poverty Reduction,” National Strategy for Financial Inclusion Working Group -

Sekretariat Wakil Presiden Republik Indonesia.

O’Neill, D. (1995) “Education and income growth: Implications for cross-country inequality,”

Journal of Political Economy, 103(6), pp. 1289–1301.

Ovi, N. Z., Perera, S. and Colombage, S. (2014) “Market power, credit risk, revenue diversification and bank stability in selected ASEAN countries,” South East Asia Research, 22(3), pp. 399–416. doi: 10.5367/sear.2014.0221.

xvi

Ozili, P. K. (2018) “Banking stability determinants in Africa,” International Journal of

Managerial Finance, 14(4), pp. 462–483. doi: 10.1108/IJMF-01-2018-0007.

Park, C.-Y. and Mercado, R. (2015) “Financial inclusion, poverty, and income inequality in

developing Asia,” Asian Development Bank Economics Working Paper Series, (426).

Pearce, D. (2011) Financial inclusion in the Middle East and North Africa: Analysis and roadmap

recommendations. The World Bank.

Pena, X., Hoyo, C. and Tuesta, D. (2014) Determinants of financial inclusion in Mexico based on

the 2012 National Financial Inclusion Survey (ENIF).

Petersen, M. A. and Rajan, R. G. (1994) “The benefits of lending relationships: Evidence from

small business data,” The journal of finance, 49(1), pp. 3–37.

Petersen, M. A. and Rajan, R. G. (1997) “Trade credit: theories and evidence,” The review of

financial studies. Oxford University Press, 10(3), pp. 661–691.

PharmAccess (2015) Medical Credit Fund Progress Report 2014. Amsterdam: PharmAccess

https://issuu.com/pharmaccess/docs/medical_credit_fund_-

Available

at:

Foundation. _progress_repo_5d77872a6f95ea.

Poghosyan, T. and Čihak, M. (2011) “Determinants of Bank Distress in Europe: Evidence from a New Data Set,” Journal of Financial Services Research, 40(3), pp. 163–184. doi: 10.1007/s10693-

011-0103-1.

Prasad, E. S. (2010) Financial sector regulation and reforms in emerging markets: An overview.

National Bureau of Economic Research.

Prina, S. (2015) “Banking the poor via savings accounts: Evidence from a field experiment,”

Journal of Development Economics, 115, pp. 16–31.

Puddu, S. (2008) Optimal weights and stress banking indexes. HEC-Université de Lausanne

Switzerland. mimeo.

Rahman, W. M. Z. M. Z. & Z. A. (2015) ADVANCING INCLUSIVE FINANCIAL SYSTEM IN

THE NEXT DECADE, The South East Asian Central Banks (SEACEN) Research and Training Centre.

Raichoudhury, A. (2016) “Financial Inclusion & Human Development: A Cross Country

Analysis,” Asian Journal of Business Research, 6(1). doi: 10.14707/ajbr.160020.

Rajan, R. G. (1992) “Insiders and outsiders: The choice between informed and arm’s‐length debt,”

The Journal of finance. Wiley Online Library, 47(4), pp. 1367–1400.

Rajan, R. G. (2011) Fault lines: How hidden fractures still threaten the world economy. princeton

University press.

Rajan, R. and Zingales, L. (1998) “Financial Dependence and Growth, American Economic

Review.”

xvii

Ramji, M. (2009) “Financial inclusion in Gulbarga: Finding usage in access,” Center for Micro

Finance Working Paper, 26.

Ratnovski, L. and Huang, R. (2009) “Why are Canadian banks more resilient?,” IMF Working

Paper. IMF working paper, 152.

Raza, A., Ansari, R. H. and Younis, M. U. (2012) “Does the loan loss provision profitability in

case of Pakistan ?,” Asian Economic and Financial Review, 2(7), pp. 772–783.

Rochet, J.-C. and Tirole, J. (1996) “Interbank lending and systemic risk,” Journal of Money, credit

and Banking. JSTOR, 28(4), pp. 733–762.

Roodman, D. (2009) “How to do xtabond2: An introduction to difference and system GMM in

Stata,” The stata journal. SAGE Publications Sage CA: Los Angeles, CA, 9(1), pp. 86–136.

Rose, P. S. and Hudgins, S. C. (2012) Bank management & financial services. McGraw-Hill

Education.

Rossi, S. P. S., Schwaiger, M. S. and Winkler, G. (2009) “How loan portfolio diversification

affects risk, efficiency and capitalization: A managerial behavior model for Austrian banks,” Journal of Banking & Finance. Elsevier, 33(12), pp. 2218–2226.

Roy, A. D. (1952) “Safety first and the holding of assets,” Econometrica: Journal of the

econometric society. JSTOR, pp. 431–449.

S.Kasman, S. and A.Kasman, A. (2015) “Bank competition, concentration and financial stability in the Turkish banking industry,” Economic Systems. Elsevier B.V., 39(3), pp. 502–517. doi:

10.1016/j.ecosys.2014.12.003.

Saksena, P., Xu, K. and Evans, D. B. (2011) “Impact of out-of-pocket payments for treatment of

noncommunicable diseases in developing countries: a review of literature,” Geneva: World Health Organization [WHO], Department of Health Systems Financing.

Sarma, M. (2008) “Index of financial inclusion (ICRIER working paper No. 215),” Retrieved from Indian Council for Research on International Economic Relations website: http://www. icrier.

org/pdf/Working_Paper_215. pdf.

Sarma, M. (2012) “Index of financial inclusion,” Berlin Working Papers on Money, Finance,

Trade and Development . Working paper, (No.07/2012).

Sarma, M. (2015) “Measuring financial inclusion,” Economics Bulletin, 35(1), pp. 604–611.

Sarma, M. and Pais, J. (2011) “Financial inclusion and development,” Journal of international

development, 23(5), pp. 613–628.

Saunders, A. and Wilson, B. (1996) “Contagious bank runs: evidence from the 1929–1933

period,” Journal of Financial Intermediation. Elsevier, 5(4), pp. 409–423.

Schinasi, M. G. J. (2004) “Defining Financial Stability (EPub),” IMF Working Paper.

International Monetary Fund, WP/04/187.

xviii

Seetharam, B. and Johnson, D. (2015) “Mobile Money’s Impact on Tanzanian Agriculture,” IEEE

Software, 32(1), pp. 29–34.

Segoviano, B. M. A. (2006) “Portfolio Credit Risk and Macroeconomic Shocks: Applications to Stress Testing Under Data-Restricted Environments,” IMF Working Papers, 06(283), p. 1. doi:

10.5089/9781451865431.001.

Segoviano, M. A. and Goodhart, C. (2009) “Banking Stability Measures,” IMF Working Paper,

4.

Shaban, M. et al. (2014) “Diversification and banks’ willingness to lend to small businesses: Evidence from Islamic and conventional banks in Indonesia,” Journal of Economic Behavior &

Organization. Elsevier, 103, pp. S39–S55.

Shankar, S. (2013) “Financial inclusion in India: Do microfinance institutions address access

barriers,” ACRN Journal of Entrepreneurship Perspectives, 2(1), pp. 60–74.

Sharpe, S. A. (1990) “Asymmetric information, bank lending, and implicit contracts: A stylized

model of customer relationships,” The journal of finance. Wiley Online Library, 45(4), pp. 1069– 1087.

Shim, J. (2019) “Loan portfolio diversification, market structure and bank stability,” Journal of

Banking and Finance. Elsevier B.V., 104, pp. 103–115. doi: 10.1016/j.jbankfin.2019.04.006.

Shin, H. S. (2009) “Securitisation and financial stability,” The Economic Journal, 119(536), pp.

309–332.

Siddik, M. N. A. and Kabiraj, S. (2018) “Does financial inclusion induce financial stability? Evidence from cross-country analysis,” Australasian Accounting, Business and Finance Journal,

12(1), pp. 33–46. doi: 10.14453/aabfj.v12i1.3.

Sinclair, S. P. (2001) Financial exclusion: An introductory survey. CRSIS, Edinburgh College of

Art/Heriot Watt University.

Son, T. H., Liem, N. T. and Ly, H. T. N. (2019) “Understanding financial inclusion in Vietnam,”

Research in World Economy, 10(3), pp. 382–390. doi: 10.5430/RWE.V10N3P382.

Song, F. and Thakor, A. V (2007) “Relationship banking, fragility, and the asset-liability

matching problem,” The Review of Financial Studies, 20(6), pp. 2129–2177.

Stiroh, K. J. (2004) “Diversification in banking: Is noninterest income the answer?,” Journal of

money, Credit and Banking. JSTOR, pp. 853–882.

Stiroh, K. J. and Rumble, A. (2006) “The dark side of diversification: The case of US financial

holding companies,” Journal of Banking and Finance, 30(8), pp. 2131–2161. doi: 10.1016/j.jbankfin.2005.04.030.

Sufian, F. and Habibullah, M. S. (2012) “Globalizations and bank performance in China,”

Research in International Business and Finance. Elsevier, 26(2), pp. 221–239.

xix

Suidarma, I. M. (2019) “The Nexus Between Financial Inclusion and Economic Growth in

ASEAN,” Jejak, 12(2), pp. 267–281. doi: 10.15294/jejak.v12i2.18747.

Tambunlertchai, K. (2015) “Financial Inclusion, Financial Regulation, and Financial Education

in Thailand,” ADBI Working Paper Series, (537). doi: 10.2139/ssrn.2650235.

Thomas, M. and Burnett, N. (2013) “Exclusion from education: the economic cost of out of school

children in 20 countries,” Washington DC: Results for Development and Educate a Child.

Trujillo, V., Sitorus, D. and Aviles, A. M. (2018) Advancing Digital Financial Inclusion in

ASEAN, World Bank Group; ASEAN WC-FINC. doi: 10.1596/30183.

Tuesta, D. et al. (2015) “Financial inclusion and its determinants: the case of Argentina,” Madrid:

BBVA Research.

Uhde, A. and Heimeshoff, U. (2009) “Consolidation in banking and financial stability in Europe:

Empirical evidence,” Journal of Banking & Finance. Elsevier, 33(7), pp. 1299–1311.

UN (2015) Inclusive Finance. Available at: https://www.un.org/esa/ffd/topics/inclusive-local-

finance/inclusive-finance.html (Accessed: March 29, 2021).

UN (2020) The 17 Goals. Available at: https://sdgs.un.org/goals (Accessed: December 25, 2020).

Wagner, W. (2010) “Diversification at financial institutions and systemic crises,” Journal of

Financial Intermediation. Elsevier, 19(3), pp. 373–386.

Williams, B. (2014) “Bank risk and national governance in Asia,” Journal of Banking & Finance.

Elsevier, 49, pp. 10–26.

World Bank (2008) Payments systems worldwide : a snapshot - outcomes of the global payment systems survey 2008 : Global survey book (English). Washington, DC: World Bank Group. Available

at: http://documents.worldbank.org/curated/en/831891468340224062/Global-survey-book.

World Bank (2011) World Development Report: Gender Equality and Development, World

Development Report 2012. doi: 10.1596/9780821388105_ch5.

World Bank (2015) “Diagnostic review of consumer protection and financial literacy,” Finance

and Markets global practice, 1.

World Bank (2016) Gender Strategy 2016–2023: Gender Equality, Poverty Reduction, and

Inclusive Growth.

World

Bank

(2017a)

Global

Financial

Development.

Available

at:

(Accessed:

https://databank.worldbank.org/reports.aspx?source=1250&series=GFDD.DI.02 December 25, 2020).

World

Bank

(2017b)

Global

Findex.

Available

at:

https://globalfindex.worldbank.org/#data_sec_focus.

World

Bank

(2018)

Financial

inclusion

Overview.

Available

at:

xx

https://www.worldbank.org/en/topic/financialinclusion/overview.

World

Bank

(2020)

Financial

stability.

Available

at:

https://www.worldbank.org/en/publication/gfdr/gfdr-2016/background/financial-stability.

Zetzsche, D. A., Buckley, R. P. and Arner, D. W. (2019) “FinTech for financial inclusion: driving

sustainable growth,” Sustainable Development Goals: Harnessing Business to Achieve the SDGs through Finance, Technology, and Law Reform. Wiley Online Library, pp. 177–203.

xxi

PHỤ LỤC

A1. PHỤ LỤC 1. DANH SÁCH CÁC NGÂN HÀNG Ở KHU VỰC ASEAN

Quốc gia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Indonesia Malaysia Malaysia Malaysia Malaysia Malaysia Malaysia Malaysia Malaysia

Mã ngân hàng ID:NIS ID:BEI ID:BUM ID:BKT ID:BKM ID:BRI ID:MEG ID:BCA ID:BBA ID:BKK ID:PBH ID:BKD ID:BKJ ID:BKN ID:BKB ID:BMT ID:BCI ID:ARO ID:BTX ID:IPA ID:BTN ID:BVI ID:BPD ID:NAR ID:PAN ID:BIP ID:BJT ID:BKI ID:BKP ID:BNE ID:BMD ID:BMI ID:BMY ID:BPA ID:BAA ID:BYU ID:PTB ID:HAR ID:BAO ID:BGA ID:BTP ID:BRY ID:AAR L:HOLB L:AFIN L:BIMB L:HONG L:AMMB L:COMS L:MALY L:PBOM

STT 52 53 54 55 56 57 58 59 60 61 62 63 64 65 66 67 68 69 70 71 72 73 74 75 76 77 78 79 80 81 82 83 84 85 86 87 88 89 90 91 92 93 94 95 96 97 98 99 100 101 102

Quốc gia Malaysia Malaysia Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Phillippines Singapore Singapore Singapore Thailand Thailand Thailand Thailand Thailand Thailand Thailand Thailand Thailand Thailand Thailand Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam Vietnam

Mã ngân hàng L:RHBC L:MYPB PH:PSB PH:SBP PH:CSB PH:BDO PH:UBP PH:MED PH:LTG PH:PNB PH:CHB PH:MTB PH:PCA PH:BPI PH:RCA PH:TST PH:EAW PH:PBB PH:AUB T:OCBC T:UOBS T:DBSS Q:KTBT Q:BAYT Q:NFST Q:TIST Q:LHBA Q:TMBT Q:KNFT Q:UBTT Q:SBBT Q:TFBT Q:BBLT VT:STB VT:CTG VT:VCB VT:EIB VT:ACB VT:SHB VT:NVB VT:MBB VT:BID VT:VIB VT:KLB VT:VPB VT:LPB VT:BAB VT:HDB VT:TPB VT:TCB VT:VBB

STT 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 51

xxii

A2. PHỤ LỤC 2. PHÂN PHỐI CỦA ĐỘ LỆCH CHUẨN TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG

TIỀN GỬI

Đồ thị histogram của biến sdGrDep trên cho thấy biến này không có phân phối chuẩn.

Chính vì vậy cần chuyển biến này sang các dạng khác.

Các dạng được chuyển đổi có biểu đồ như sau:

xxiii

Dựa vào các đồ thị nói này, trong các hàm chuyển đổi, hàm logarit biểu đồ có dạng gần

với phân phối chuẩn hơn so với các hàm chuyển đổi khác. Do vậy, tác giả tiến hành kiểm

định xem ln(sdGrDep) có phân phối chuẩn hay không.

Kết quả kiểm định có Prob>chi2 bằng 0.3328 > 0.05, có nghĩa là biến lnsdGrDep có phân

phối chuẩn. Chính vì vậy, trong luận án, tác giả sử dụng biến lnsdGrDep thay vì sdGrDep.

xxiv

A3. PHỤ LỤC 3. XÁC ĐỊNH CẬN DƯỚI, CẬN TRÊN TRONG CHỈ SỐ TÀI

Các chỉ số được tính toán cho từng khía cạnh của tài chính toàn diện (di), với mỗi khía cạnh

được tính toán theo công thức sau:

di=wi

Ai-mi Mi-mi

Ai : giá trị thực tế của chỉ số khía cạnh thứ i

mi : giá trị tối thiểu của chỉ số khía cạnh thứ i

Mi: giá trị tối đa của chỉ số khía cạnh thứ i

wi: tỷ trọng được gán cho mỗi khía cạnh

Việc chọn ra giá trị tối thiểu (cận dưới) và giá trị tối đa (cận trên) của chỉ số khía cạnh thứ i

là việc không hề đơn giản. Ta có thể lấy 0 là giá trị cận dưới cho mọi khía cạnh, tuy nhiên việc

cố định giá trị cận trên là cho mọi chiều điều không thể. Giá trị lớn nhất trong quan sát thực

nghiệm có thể lấy làm cận trên. Tuy nhiên nó có thể xảy ra 3 vấn đề. Một là, nếu giá trị cận trên

là do một trường hợp đột biến ngoại lệ thì rõ ràng nó sẽ là cho giá trị IFI tính ra được sẽ không

chính xác. Hai là, giới hạn trên có thể khác nhau qua các năm, và vì thế việc so sánh các chỉ số

theo thời gian là một việc rất khó khăn. Ba là tùy thuộc vào kích thước mẫu được lựa chọn, mà

các cận trên sẽ khác nhau, từ đó dẫn đến tính không thống nhất trong tính toán chỉ số này giữa

các nhóm quốc gia được quan sát.

CHÍNH TOÀN DIỆN

Một điểm đáng lưu ý của phần này chính là xác định các cận trên của các chỉ số ở các khía

cạnh (công thức 2.1). Tác giả đã sử dụng toàn bộ thông tin về các khía cạnh của các quốc gia

trên thế giới theo dữ liệu từ IMF FAS (2020), và lựa chọn cận trên dựa vào bách phân vị 90th,

giá trị mà tại đó nhiều nhất là 90% số quan sát là kém hơn giá trị này (xem phụ lục A3). Kết

giả đã sử dụng bộ dữ liệu về các khía cạnh của tất cả các quốc gia được thu thập trong dữ liệu của

IMF từ năm 2008 – 2019 để kiểm lại tính phù hợp của việc lựa chọn cận trên.

Cuối cùng các giới hạn cận trên được sử dụng như sau:

✓ Khía cạnh thâm nhập ngân hàng (banking penetration – pi): Mp = 2500

✓ Khía cạnh khả dụng của các dịch vụ ngân hàng (availability of the banking services – ai):

Ma1 = 60 ; Ma2 =120

quả khá tương thích với đề suất của Sarma (2012). Đồng thời, nhằm tăng tính thuyết phục, tác

xxv

✓ Khía cạnh sử dụng (Usage – u): Mu = 300

Sau khi xác định được cận trên, tác giả tiến hành tính toán cho các khía cạnh theo công thức

(1) và sau đó tiếp tục tính chỉ số IFI theo công thức (2) kết quả được trình bày trong nội dung

luận án.

xxvi

A4. PHỤ LỤC 4. KẾT QUẢ HỒI QUY FEM ĐỂ TÍNH TOÁN CHI PHÍ BIÊN MCit

xxvii

A5. PHỤ LỤC 5. MÔ HÌNH, CƠ CHẾ VẬN HÀNH CHIẾN LƯỢC TÀI CHÍNH TOÀN

Việc triển khai thực hiện các chính sách thúc đẩy tài chính toàn diện khác nhau ở mỗi quốc gia,

bởi bối cảnh và điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau của chính mỗi quốc gia làm định hướng phát

triển tài chính toàn diện khác nhau ở các quốc gia.

Các quốc gia trên thế giới nói chúng và các nước thuộc khối ASEAN nói riêng theo đuổi tài chính

toàn diện cũng đều hướng đến những lưu ý mà (World Bank, 2018)đã chỉ ra, bao gồm: Các chính

sách được cung cấp trên quy mô lớn; Tận dụng các khoản thanh toán của chính phủ; Các dịch vụ tài

chính di động được phép phát triển mạnh; Các mô hình kinh doanh mới được hoan nghênh, chẳng

hạn như tận dụng dữ liệu thương mại điện tử để bao gồm tài chính; Thực hiện một cách tiếp cận

chiến lược bằng cách phát triển một chiến lược bao gồm tài chính quốc gia (NFIS) nhằm tập hợp các

bên liên quan đa dạng bao gồm các cơ quan quản lý tài chính, viễn thông, cạnh tranh và các bộ giáo

dục; Chú trọng bảo vệ người tiêu dùng và khả năng tài chính để thúc đẩy các dịch vụ tài chính bền

vững, có trách nhiệm.

Tuy nhiên tương ứng với đó, là định hướng thực hiện của mỗi quốc gia là khác nhau. Chẳng hạn

những năm gần đây Singapore và Thái Lan là hai lựa chọn định hướng chính là ứng dụng ngân hàng

số. Trong khi đó, Lào với có sở hạ tầng chưa thật sự phát triển, đã lựa chon phương thức khác là

thông qua các đối tác phát triển để thúc đẩy tài chính toàn diện (Rahman, 2015); cụ thể nhờ tổ chức

hợp tác quốc tế Đức GIZ đã đặc biệt tích cực thông qua dự án Tiếp cận Tài chính cho Người nghèo

(AFP), bao gồm phát triển thể chế và các tổ chức hỗ trợ mạng lưới và một phần có liên quan đến

Hiểu biết Tài chính và Bảo vệ Người tiêu dùng. Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đã giúp phát

triển chính sách và thể chế trong lĩnh vực ngân hàng và tổ chức tài chính vi mô; KfW-ahs đã cung

cấp một quỹ để các ngân hàng thương mại cho MSME vay lại, trong khi Tổ chức Tài chính Quốc tế

(IFC) đang hỗ trợ sự phát triển của hệ thống thanh toán quốc gia và văn phòng tín dụng. Ngân hàng

Thế giới đang hỗ trợ Cục Giám sát Ngân hàng BoL về các quy định và chỉ số hoạt động thận trọng.

Campuchia, từ đầu những năm 1990, các chính sách tài chính toàn diện được thực hiện chủ yếu

thông qua các dự án tài chính vi mô do các cơ quan tài trợ, tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác

thực hiện. Tương tự như vậy Phillippines cũng lựa chọn công nhận tài chính vi mô là một hoạt động

ngân hàng hợp pháp và đặt ra các quy tắc và quy định cho hoạt động của nó trong lĩnh vực ngân

hàng. Trong khi, Indonesia có chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện được công bố vào tháng

DIỆN Ở CÁC NƯỚC ASEAN+.

xxviii

sáu năm 2012 với tầm nhìn đạt được một hệ thống tài chính mà mọi tầng lớp trong cộng đồng đều

có thể tiếp cận, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm nghèo và bình đẳng thu nhập ở Indonesia.

Chiến lược nhằm mở rộng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính cho tất cả các bộ phận dân cư và

mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ.

Ở Malaysia, Đạo luật Ngân hàng Trung ương Malaysia năm 2009 quy định rõ ràng rằng chức

năng chính của Ngân hàng Negara Malaysia (BNM) là phát triển và thúc đẩy một hệ thống tài chính

toàn diện Được hỗ trợ bởi một nhiệm vụ rõ ràng, BNM là cơ quan hàng đầu chịu trách nhiệm về các

chính sách và sáng kiến nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện ở Malaysia. Việt Nam triển khai thông

qua các chính sách hoặc các đề án do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ như Chính sách hỗ trợ

tín dụng phát triển nông nghiệp nông thôn; Đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt; Đề án

xây dựng và phát triển hệ thống tài chính vi mô; Đề án Nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân

hàng cho nền kinh tế; Chiến lược Quốc gia về Tài chính toàn diện; v.v.

Rhaman(2015) đã chỉ ra một số quốc gia đặc thù với những định hướng cho mỗi giai đoạn và

các chính sách đã được triển khai thực hiện nhằm hướng đến thúc đẩy tài chính toàn diện, thông qua

đó có thể thấy rõ sự tương đồng và khác nhau trong việc triển khai các chính sách. Những điểm

tương đồng và cũng là những mặt tích cực của việc triển khai thực hiện, được tác giả tổng hợp ngay

sau đây:

+ Thứ nhất, nhiệm vụ xây dựng và triển khai tài chính toàn diện được pháp lý hóa dưới hình

thức quyết định của người đứng đầu Chính phủ hoặc quy định trong luật. Điều này không chỉ thể

hiện sự cam kết của Chính phủ đối với thúc đẩy tài chính toàn diện mà còn tạo dựng một sơ sở pháp

luật để xây dựng và triển khai khuôn khổ tài chính toàn diện một tầm nhìn rõ ràng và các mục tiêu

cụ thể.

Malaysia đã đưa nhiệm vụ về tài chính toàn diện trong Luật NHTW 2009 và Chiến lược tổng

thể phát triển khu vực tài chính năm 2011-2020 (Master Plan/Blueprint). Trên cơ sở văn bản pháp

luật này, Khuôn khổ tài chính toàn diện đã được xây dựng với một tầm nhìn rõ ràng và đặt ra các

mục tiêu cụ thể. Việc có được một cơ sở pháp luật và sự cam kết của Chính phủ là nhân tố quan

trọng quyết định sự thành công của chiến lược tài chính toàn diện ở Malaysia.

Giữa năm 2015, NHTW In-đô-nê-si-a đã viết lại Chiến lược Tài chính toàn diện và pháp lý hóa

Chiến lược tài chính toàn diện mới thông qua Quyết định thủ tướng số 82. Theo Quyết định thủ

xxix

tướng số 82 năm 2016 này, Chiến lược tài chính toàn diện được xây dựng với định hướng thực hiện

mục tiêu Kế hoạch phát triển quốc gia trung hạn giai đoạn 2015-2019 và tạo sự phối kết hợp chặt

chẽ giữa các Bộ ngành khi thực hiện các giải pháp chiến lược.

+ Thứ hai, NHTW hoặc Bộ Tài chính thường là đơn vị đầu mối thực hiện nhiệm vụ xây dựng và

triển khai Chiến lược/Kế hoạch tài chính toàn diện. Tuy nhiên, tài chính toàn diện là một vấn đề lớn,

bao trùm và mang tính liên ngành có ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế và tất cả các khu vực trong

nền kinh tế. Do đó để triển khai thành công một Chiến lược/Kế hoạch có tầm ảnh hưởng lớn như vậy

cần phải có được sự cam kết của Chính phủ hay phê chuẩn của Thủ tướng để giải quyết được một

vấn đề quan trọng là sự phối hợp giữa các bộ ngành liên quan dưới hình thức một Ủy ban/Hội đồng

điều phối tài chính toàn diện, đứng đầu là Thủ tướng hoặc Phó Thủ tướng và thành viên là đại diện

các Bộ, ngành liên quan. Ủy ban/Hội đồng điều phối chịu trách nhiệm định hướng, ra các quyết sách

liên quan đến thúc đẩy tài chính toàn diện cũng như giám sát quá trình thực hiện tài chính toàn diện

Trường hợp Malaysia, BNM được giao là cơ quan đầu não xây dựng và triển khai thực hiện tài

chính toàn diện mà không cần phải có một chiến lược riêng do Thủ tướng phê chuẩn vì BNM bao

hàm cả khu vực bảo hiểm do đó không gặp vấn đề lớn trong phối hợp. Trong khi với các nước khác,

nếu khu vực ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán thuộc các bộ quản lý khác nhau thì, chiến lược tài

chính toàn diện tổng thể có một ủy ban/hội đồng điều phối đứng đầu là Thủ tướng/Phó Thủ tướng

với các thành viên khác là lãnh đạo các bộ liên quan, tuy nhiên vai trò điều phối vẫn thuộc về NHTW.

Quyết định 82 của Chính phủ Indonesia nêu rõ việc thành lập một Hội đồng quốc gia về tài chính

toàn diện, bao gồm Ủy ban tài chính toàn diện và các Tổ Công tác.

Ủy ban tài chính toàn diện có trưởng ban là Thủ tướng với bốn phó trưởng ban thường trực (Phó

thủ tướng, Bộ trưởng bộ kinh tế, Thống đốc NHTW, Trưởng Cục giám sát dịch vụ tài chính Indonesia

(OJK). Thành viên của Ủy ban bao gồm đại diện các Bộ, ngành: Bộ Phát triển con người và văn hóa,

Bộ chính trị, luật và các vấn đề an ninh quốc gia, Bộ Hải quân; Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch phát triển

quốc gia, Bộ văn hóa xã hội, Bộ trưởng thông tin và truyền thông, Bộ trưởng các doanh nghiệp siêu

nhỏ, nhỏ và vừa, Bộ trưởng Bộ các vấn đề gia đình. Ủy ban có trách nhiệm lập kế hoạch thực hiện

các giải pháp chiến lược và định hướng cho các Tổ Công tác lập kế hoạch hành động chi tiết cho

năm trụ cột mới của Chiến lược tài chính toàn diện.

xxx

Các Tổ Công tác bao gồm Tổ Công tác về Giáo dục Tài chính; Tổ Công tác về quyền tài sản của

cộng đồng, Tổ Công tác về các kênh phân phối tài chính sáng tạo; Tổ Công tác về dịch vụ tài chính

trong các ban ngành Nhà nước; Tổ Công tác về Bảo vệ người tiêu dùng; Tổ Công tác về Pháp chế

và chính sách; Tổ Công tác về công nghệ và hạ tầng tài chính.

Với cơ cấu Hội đồng quốc gia về tài chính toàn diện như vậy, Indonesia thể hiện quyết tâm tăng

cường sự phối hợp triển khai giữa các bộ ngành để đảm bảo kết quả đầu ra cho Chiến lược tài chính

toàn diện.

Tanzania đã nhìn nhận tài chính toàn diện nhu một yếu tố động lực thúc đẩy sự tăng trưởng kinh

tế và làm giảm nhẹ khả năng dễ tổn thương của cá nhân và hộ gia đình, giảm tình trạng nghèo đói và

cải thiện chất lượng sống cho dân chúng ở Tanzania. Tuy nhiên nước này không xây dựng Chiến

lược về tài chính toàn diện mà thay vào đó, xây dựng Khuôn khổ về tài chính toàn diện, xuất phát từ

những đặc thù mang tính thể chế. Nước này cũng hình thành một cơ chế phối hợp cấp quốc gia.

Theo đó, có ba cấp được thành lập, gồm: Hội đồng Quốc gia (NC), Ban chỉ đạo quốc gia (NSC) và

Ủy ban Kỹ thuật quốc gia (NTC) về tài chính toàn diện. Ngân hàng trung ương Tanzania là thư ký

thường trực cho tất cả các Ủy ban.

Hội đồng quốc gia (National Council - NC) là một cơ quan ra chính sách tổng thể cho chương

trình quốc gia thúc đẩy tài chính toàn diện. Hội đồng chịu trách nhiệm định hướng chiến lược tổng

thể và giám sát chương trình tài chính toàn diện. Chức năng cụ thể là: (i) Xây dựng chiến lược tài

chính toàn diện cho Tanznia; (ii) Xem xét các Kế hoạch hành động để đạt được mục tiêu Tài chính

toàn diện; (iii) Xem xét quá trình triển khai Tài chính toàn diện; (iv) Xác định các vấn đề chính sách

và phê chuẩn đề xuất của Ban Chỉ đạo quốc gia; (v) Xem xét bất kể vấn đề nào liên quan đến việc

thực thi các sáng kiến tài chính toàn diện nếu cần, với quan điểm tư vấn cho chính phủ về cách thức

giải quyết tốt nhất.

Ban Chỉ đạo quốc gia (National Steering Committee - NSC) có thành viên là những người đứng

đầu 27 bộ và cơ quan chính phủ, các Hiệp hội, các ban hợp tác phát triển…Vai trò cụ thể là: (i) Điều

phối và giám sát các hoạt động của Ủy ban kỹ thuật, xem xét báo cáo của Ủy ban kỹ thuật về quá

trình thực hiện kế hoạch hành động; (ii) Hướng dẫn các hoạt động của Ủy ban kỹ thuật và khuyến

nghị về những vấn đề liên quan đến tài chính toàn diện; (iii) Chuân bị báo cáo đệ trình Hội đồng

quốc gia quyết định và ban hành.

xxxi

Ban Chỉ đạo quốc gia phải báo cáo Hội đồng quốc gia, họp ít nhất một năm hai lần theo định kỳ

và họp đột xuất nêu có nhu cầu.

Ủy ban Kỹ thuật quốc gia (National Technical Committee - NTC) là một nhóm công tác hình

thành từ các quan chức cấp cao của 27 bộ và cơ quan chính phủ, cơ quan quản lý và hiệp hội nghề

nghiệp. Về nguyên tắc, đây là một Ủy ban thực thi và báo cáo về các sáng kiến tài chính toàn diện.

Vai trò cụ thể của Ủy ban này là: (ii) Xây dựng và thực hiện Khuôn khổ tài chính toàn diện; (ii) Xây

dựng nhận thức cộng đồng về tài chính toàn diện; (iii) Xem xét Kế hoạch hành động trong Khuôn

khổ; (iv) Xác đinh, đo lường các chỉ số phát triển; (v) Đánh giá các chỉ số; (vi) Xác định những trở

ngại chủ yếu đối với các hoạt động Tài chính toàn diện; (vii) Xác định cơ hội cho Tài chính toàn

diện; (viii) Chuẩn bị các báo cáo đệ trình Ban Chỉ đạo

Ủy ban Kỹ thuật quốc gia hình thành mối liên kết giữa các định chế và Ủy ban với vai trò là

thành viên, chia sẻ kinh nghiệm về những sáng kiến, cùng thách thức mà các định chế gặp phải trong

quá trình thực thi tài chính toàn diện. Ủy ban kỹ thuật báo cáo cho Ban Chỉ đạo và mỗi quý họp định

kỳ một lần.

Tổ Thư ký quốc gia giữ vai trò thường trực, thu thập và tổng hợp thông tin về tài chính toàn diện,

cung cấp thông tin nếu được yêu cầu. Tổ thư ký chịu trách nhiệm tổ chức tất cả các cuộc họp cho

các cấp hội đồng, ủy ban khác nhau và xây dựng trước chương trình tài chính toàn diện và báo cáo

cho tất cả các cấp hội đồng/ban/ủy ban nói trên. Tổ thư ký quốc gia do NHTW Tanzania đảm nhận,

xuất phát từ vai trò trung tâm của Ngân hàng đối với Tài chính toàn diện tại quốc gia này.

Thứ 3, có sự tham gia của tất cả các tác nhân trong nền kinh tế, bao gồm từ khu vực nhà nước,

khu vực tư nhân và khu vực dân sự/phi chính phủ để đảm bảo cho sự thành công của tài chính toàn

diện.

Sự tham gia này cần thiết ngay trong quá trình soạn thảo xây dựng chiến lược để đảm bảo hài

hòa lợi ích của tất cả các bên. Đặc biệt là sự can thiệp của nhà nước nếu có cần dựa trên những

nguyên tắc thị trường để các kết quả đạt được có tính chất bền vững.

xxxii

A6. PHỤ LỤC 6. CÁC KHÍA CẠNH CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

A6.1. Trích từ IMF – FAS

Khía cạnh 1: Tính thâm nhập của ngân hàng - Số tài khoản ngân hàng trên 1000 người trưởng thành

126.20 129.91 122.21 142.96 155.84 176.33 223.37 250.94 224.52 291.77

385.43 462.49 538.07 571.22 625.67 672.48

99.41 113.05 129.83 149.21 173.02 216.95 249.63 279.74 316.41 376.39

1,756.25 1,850.44 1,880.76 2,241.48 2,337.22 1,991.16 2,011.06 1,983.85 1,910.30 1,946.52 2,075.96

2,119.47 2,168.73 2,224.33 2,320.34 2,490.85 2,479.89 2,317.03 2,281.93 2,265.38 2,239.65 2,218.97

1,997.04 2,040.60 2,079.46 2,105.91 2,144.11 2,176.41 2,185.44 2,200.85 2,226.87 2,268.14 2,316.98

Lào Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam 413.65 250.26 478.32 498.75 536.54 610.12 485.76 669.58 517.80 771.23 526.81 844.02 554.50 953.24 574.81 951.07 588.27 1,086.88 633.85 1,194.86 724.42

1,387.32 1,426.47 1,386.14 1,450.44 1,480.14 1,503.48 1,525.15 1,546.76 1,606.96 1,679.44 1,698.99

Năm Brunei Campuchia Indonesia 493.39 2009 573.41 2010 623.09 2011 693.80 2012 855.29 2013 896.34 2014 2015 928.06 1,047.72 2016 1,550.95 2017 1,572.68 2018 2019 1,616.01 Khía cạnh 2.1: Tính sẵn có của các dịch vụ Ngân hàng - Số chi nhánh ngân hàng trên 100.000 người trưởng thành Năm Brunei Campuchia 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam 3.28 3.21 3.54 3.10 3.64 3.83 3.75 3.83 3.45 3.92 3.98

Indonesia Lào 7.64 8.11 14.71 16.87 17.64 17.83 17.64 17.26 16.75 16.14 15.64

23.67 23.28 23.17 22.76 23.02 20.36 20.95 19.72 18.48 17.26 17.60

11.13 10.92 11.25 11.15 10.97 10.81 10.69 10.44 10.23 10.24 10.08

10.80 11.00 11.34 11.68 12.09 12.52 12.53 12.35 11.86 11.70 11.24

9.87 9.83 9.60 9.42 9.11 9.01 8.95 8.68 8.22 8.13 7.82

7.49 7.55 7.66 7.93 8.24 8.62 8.76 8.84 8.99 9.02 9.20

2.35 2.54 2.55 2.70 2.73 2.88 2.90 3.00 3.09 3.17

1.49 1.53 1.68 1.86 2.74 3.39 3.36 3.40 4.70 5.09

3.96 4.12 4.28 4.49 4.77 5.69 6.12 7.24 7.52 7.84

xxxiii

Khía cạnh 2.2: Tính sẵn có của các dịch vụ Ngân hàng - Số ATM trên 100.000 người trưởng thành Năm Brunei Campuchia

Indonesia Lào

Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam

14.01 15.11 16.80 18.85 21.93 23.18 25.04 27.04 28.14 28.90 28.98

52.85 59.11 59.70 59.22 58.21 57.50 58.05 55.81 63.10 64.59 58.78

73.36 81.89 87.31 94.79 102.35 110.10 112.54 112.88 117.04 115.25 115.09

14.73 17.02 19.59 20.67 21.86 22.69 23.74 24.24 24.59 25.32 25.90

0.09 0.61 1.68 1.95 2.66 4.38 5.63

51.85 53.54 53.60 53.29 54.68 52.39 51.27 48.96 47.55 46.60 44.71

14.12 13.04 16.45 35.73 42.02 49.21 52.97 54.34 55.14 54.38 53.41

4.84 8.71 10.85 12.90 17.85 19.75 22.97 23.95 25.74 25.74

4.36 5.25 6.03 7.18 8.48 10.92 13.34 14.49 16.72 19.45

82.33 82.01 80.77 92.69 82.86 81.75 79.69 76.36 69.59 74.50 73.97

111.21 78.68 71.29 70.56 76.48 81.94 100.10 109.66 101.09 96.47 99.97

53.81 61.31 70.05 84.37 88.19 107.10 119.72 135.98 149.71 169.19

42.53 51.06 59.07 67.69 75.33 80.79 87.33 93.39 95.90 93.64

8.87 10.64 13.94 18.80 28.54 35.04 40.10 48.57 50.73 53.98

Malaysia Myanmar Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam 195.47 220.78 194.03 188.17 200.74 211.03 232.27 256.28 267.60 272.77 285.39

238.25 231.36 257.16 273.76 288.89 290.15 273.89 276.27 269.27 264.57 271.08

217.98 207.27 213.61 219.20 222.35 219.99 221.94 216.06 204.90 205.33 203.85

125.74 120.28 127.30 139.50 146.42 148.71 150.56 147.39 144.68 145.05 144.25

57.91 57.73 58.72 59.12 67.53 70.79 74.42 80.88 84.91 84.47 83.41

2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Khía cạnh 3: Mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng - Tổng tiền gửi và nợ so với GDP Indonesia Lào Năm Brunei Campuchia 60.84 2009 59.80 2010 63.65 2011 68.86 2012 72.88 2013 73.69 2014 73.49 2015 74.30 2016 73.80 2017 73.63 2018 2019 73.36 Nguồn: IMF (FAS) – cập nhật ngày 20/11/2020

xxxiv

A6.2. Trích từ World Bank - Tín dụng cho khu vực tư nhân của ngân hàng (% so với GDP)

Malaysia Myanmar

17.24 20.92

27.90 28.33 30.50 31.91 34.34 37.58 39.90 42.86 45.61 47.56

111.45 107.04 108.35 114.05 119.79 120.53 123.07 121.94 117.18 120.36 120.84

24.57 27.53 28.24 38.71 52.00 62.39 74.17 81.43 86.43 99.37 114.16

44.33 36.59 27.87 27.77 30.92 32.91 41.14 43.57 38.81 34.40 34.94

3.47 4.77 6.75 9.31 12.84 15.56 17.75 21.21 23.64 24.96 25.74

24.89 24.36 26.88 29.89 32.37 32.93 33.09 33.13 32.42 32.74 32.48

Philippines Singapore Thái Lan Việt Nam 103.32 114.72 101.80 94.83 96.80 100.30 111.93 123.81 130.72 133.14 137.91

90.34 90.68 101.43 106.37 111.52 113.99 115.86 113.72 112.10 112.19 111.36

96.86 94.86 104.70 112.97 124.07 128.13 122.42 123.87 121.48 118.94 120.78

.. .. .. .. .. .. .. .. ..

..

Năm Brunei Campuchia Indonesia Lào 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 Nguồn: World Bank (World Development Indicators) – truy cập trích xuất ngày 09/08/2020

xxxv

A7. PHỤ LỤC 7. THÔNG KÊ MÔ TẢ CÁC KHÍA CẠNH CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN TỪ NĂM 2008– 2019

CỦA CÁC THẾ GIỚI

2011

2009

2008

2013

2014

2012

2015

2016

2017

2018

2019

25.37 7270.62 1170.00 1133.89 0.97 125

14.55 7173.92 1062.39 1127.71 1.06 98

11.89 7122.47 1064.20 1118.31 1.05 102

17.25 7107.19 1106.12 1168.43 1.06 111

22.77 7239.98 1144.53 1148.95 1.00 123

20.32 7144.34 1132.34 1147.75 1.01 120

28.17 7250.52 1229.12 1139.64 0.93 121

30.97 7211.06 1232.93 1102.07 0.89 123

34.17 7188.68 1327.63 1159.14 0.87 121

33.34 7257.96 1352.39 1181.45 0.87 121

41.83 7224.29 1418.12 1163.61 0.82 114

42.64 7156.46 1597.46 1335.64 0.84 104

49

47

33

33

37

43

41

51

51

50

47

42

Khía cạnh 1: Tính thâm nhập của ngân hàng - Số tài khoản ngân hàng trên 1000 người trưởng thành Năm 2010 Nhỏ nhất Cao nhất Trung bình Độ lệch chuẩn Hệ số biến thiên Số quốc gia Số quốc gia có trị cao hơn bình quân

65

69

74

79

80

78

72

72

70

71

67

62

Số quốc gia có trị thấp hơn bình quân

2011

2008

2010

2009

2013

2014

2012

2016

2017

2018

2019

0.65 251.95 19.07 22.88 1.20 184

0.77 238.38 18.99 22.06 1.16 179

0.47 283.70 19.95 27.07 1.36 178

0.61 258.34 19.24 23.91 1.24 185

0.48 280.26 19.73 26.22 1.33 183

0.60 276.78 19.56 25.70 1.31 183

0.65 258.72 19.12 23.59 1.23 186

0.56 229.03 18.31 21.11 1.15 179

0.50 223.81 18.36 20.80 1.13 171

0.45 189.93 17.78 18.79 1.06 171

0.43 181.18 17.83 18.16 1.02 162

0.42 140.45 17.79 16.26 0.91 147

73

72

72

64

67

72

69

73

66

65

60

57

Khía cạnh 2(1): Tính sẵn có của các dịch vụ Ngân hàng - Số chi nhánh ngân hàng trên 100.000 người trưởng thành Năm 2015 Nhỏ nhất Cao nhất Trung bình Độ lệch chuẩn Hệ số biến thiên Số quốc gia Số quốc gia có trị cao hơn bình quân

114

116

114

113

113

111

107

107

105

106

102

90

Số quốc gia có trị thấp hơn bình quân

2013

2009

2010

2008

2011

2012

2014

2015

2016

2017

2018

2019

Khía cạnh 2(2): Tính sẵn có của các dịch vụ Ngân hàng - Số ATM trên 100.000 người trưởng thành Năm Nhỏ nhất Cao nhất

0.61 288.59

0.32 281.23

0.07 241.80

0.30 265.38

0.10 247.09

0.09 288.45

0.69 280.81

0.85 275.88

0.86 282.42

0.51 313.20

0.49 324.17

0.67 322.70

xxxvi

39.28 43.18 1.10

41.06 43.43 1.06

41.56 45.14 1.09

41.47 43.47 1.05

42.73 43.79 1.02

45.35 45.05 0.99

48.12 47.62 0.99

49.16 47.81 0.97

51.37 48.95 0.95

52.18 49.04 0.94

54.26 49.55 0.91

165

168

177

183

184

181

180

180

174

173

168

54.26 50.67 0.90 147

63

67

69

73

74

73

74

72

68

68

66

58

Trung bình Độ lệch chuẩn Hệ số biến thiên Số quốc gia Số quốc gia có trị cao hơn bình quân

102

101

108

110

110

108

106

108

106

105

102

89

Số quốc gia có trị thấp hơn bình quân

2011

2010

2009

2008

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

1.70 540.20 93.26 73.86 0.79

5.30 650.74 99.15 80.30 0.81

2.83 576.66 98.66 77.05 0.78

3.18 620.03 99.80 80.02 0.80

8.56 676.46 100.09 81.23 0.81

12.12 726.55 103.42 83.75 0.81

14.45 762.53 108.08 86.97 0.80

15.92 758.03 112.03 88.20 0.79

19.50 788.70 117.73 91.82 0.78

17.31 824.81 118.01 94.57 0.80

16.69 808.01 122.20 94.52 0.77

179

180

182

183

183

181

177

176

171

170

156

16.98 838.50 123.40 93.70 0.76 148

70

71

65

63

62

63

61

61

59

58

53

47

Khía cạnh 3: Mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng - Tổng tiền gửi và nợ so với GDP Năm Nhỏ nhất Cao nhất Trung bình Độ lệch chuẩn Hệ số biến thiên Số quốc gia Số quốc gia có trị cao hơn bình quân

109

109

117

120

121

118

116

115

112

112

103

101

Số quốc gia có trị thấp hơn bình quân

(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ số liệu IMF-FAS)

xxxvii

A8. PHỤ LỤC 8. MA TRẬN TƯƠNG QUAN CÁC BIẾN ĐỐI VỚI CÁC BIẾN CÒN LẠI ĐẠI DIỆN CÁC KHÍA

CẠNH CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

xxxviii

xxxix

xl

A9. PHỤ LỤC 9. KẾT QUẢ HỒI QUY

xli

xlii

xliii

xliv

xlv

xlvi

xlvii

xlviii

xlix

l

li

lii

Các nhân tố tác động đến tài chính toàn diện có thể chia thành ba nhóm: (1) nhóm nhân tố đến từ

phía cung, liên quan đến sự phát triển của hệ thống tài chính; (2) nhóm nhân tố đến từ phía cầu, liên

quan đến đặc điểm khách hàng; và (3) nhóm nhân tố liên quan đến môi trường kinh tế - xã hội.

A10. PHỤ LỤC 10. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

Sự phát triển của tài chính toàn diện gắn liền với sự phát triển của các nhân tố nhóm cung có thể

kể đến như các tổ chức tài chính, các sản phẩm tài chính, và đặc điểm của các ngân hàng. Cụ thể:

Nhóm phía cung

Một là, các tổ chức tài chính chính là kênh dẫn, là mạng lưới cho phép sự phát triển của tài chính

toàn diện. Nghiên cứu của Jones (2006) nêu rõ rằng sự phát triển các tổ chức tín dụng cho phép phát

triển các sản phẩm tài chính, từ đó người dân dễ dàng tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ tài chính hơn.

Thông qua các tổ chức tín dụng, Chính phủ có thể phát triển tài chính toàn diện bằng việc cung cấp

các loại hình sản phẩm tín dụng cho người có thu nhập thấp. Rõ ràng khi mạng lưới tài chính càng

phát triển, việc tiếp cận các sản phẩm, dịch vụ của người dân sẽ dễ dàng, thuận tiện hơn, từ đó khuyến

khích người dân sử dụng dịch vụ tài chính.

Điều này được khẳng định trong kết quả nghiên cứu tại các quốc gia khác nhau như nhóm tác giả

Pena, Hoyo, & Tuesta (2014) tại Mexico, tác giả Kumar (2013) tại Ấn độ. Tại Brazil, tài chính toàn

diện cũng được phát triển thông qua mạng lưới đại lý của các ngân hàng. Các nghiên cứu chỉ rõ rằng

mạng lưới chi nhánh của các tổ chức tài chính phát triển sẽ ảnh hưởng tích cực đến việc tiết kiệm

cũng như vay tiền của người dân. Tuesta, Sorensen, Haring, & Camara (2015) cũng chỉ ra rằng

khoảng cách địa lý giữa khu dân cư và các điểm giao dịch là một trong những rào cản quan trọng đối

với việc tiếp cận tài chính toàn diện của người dân. Nghiên cứu của Ramji (2009) tại quận Gulbarga,

Ấn độ cho thấy 70% mẫu điều tra nói rằng khi họ đến ngân hàng, họ phải mất một ngày làm việc,

chính điều đó đã khiến họ không sử dụng các dịch vụ tài chính. Kết quả trong mô hình hồi quy của

Clamara, Peña, & Tuesta (2014), Sarma & Pais (2008) chỉ ra rằng các hộ sống ở nông thôn có khả

năng tiếp cận các sản phẩm dịch vụ tài chính thấp hơn các hộ tại thành thị.

Hai là, mức độ phát triển của các sản phẩm tài chính, đặc biệt là sự phù hợp của các sản phẩm

này với người dân nói chung hay nhóm người có thu nhập thấp nói riêng. Yêu cầu duy trì tối thiểu

khi mở tài khoản tại ngân hàng quá cao, do vậy nhiều tài khoản bị đóng khi không đáp ứng được

điều kiện trên (Shankar, 2013). Hay như những sản phẩm tín dụng đòi hỏi các thủ tục giấy tờ chứng

liii

minh khả năng trả nợ hoặc các tài sản đảm bảo khiến cho người thu nhập thấp không thể đáp ứng

được. Mặt khác, với quy mô giao dịch nhỏ lẻ, mức độ rủi ro cao dẫn tới chi phí giao dịch, quản lý

lớn, do đó nhóm khách hàng này dường như không được chào đón như những khách hàng thu nhập

cao tại ngân hàng, điều này khiến cho họ không mặn mà sử dụng các sản phẩm tài chính.

Nghiên cứu Clamara et al. (2014) tại Peru chỉ rõ năm rào cản lớn đối với việc tiếp cận tài chính

toàn diện. Thứ nhất, khoảng cách địa lý, yếu tố này đã được phân tích rõ thông qua sự phát triển

mạng lưới tài chính ở trên. Thứ hai, chi phí dịch vụ tài chính (phí sử dụng dịch vụ) là một rào cản

đối với người dân, đặc biệt đối với nhóm có thu nhập thấp khi nhu cầu sử dụng các dịch vụ, sản phẩm

tài chính của họ chưa cao khiến cho mức phí trở lên đắt đỏ với họ. Thứ ba, sự thiếu sự tin tưởng đối

với các tổ chức tài chính, nghiên cứu chỉ ra mức độ tin tưởng các tổ chức tài chính ở phụ nữ cao hơn

nam giới là 8%, điều này dẫn tới một số chương trình cho vay và tiết kiệm đối với phụ nữ thành công

cao hơn nam giới và dường như phụ nữ có xu hướng mong muốn sử dụng dịch vụ tài chính cao hơn.

Thứ tư, thiếu tiền, đặc biệt đối với nhóm thu nhập thấp, khiến họ không có nhu cầu nhóm sản phẩm

này. Thứ năm, sự phức tạp của thủ tục hành chính và việc khó khăn trong cung cấp tài liệu của người

tiêu dùng khiến họ không thể đáp ứng yêu cầu của các tổ chức tài chính, do vậy họ ngại sử dụng các

dịch vụ, sản phẩm của các tổ chức này.

Ba là, đặc điểm của các ngân hàng cũng ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn cung của tài chính toàn

diện. Nghiên cứu của Sarma & Pais (2011) tiến hành phân tích sự ảnh hưởng của các biến liên quan

tới ngân hàng và sự phát triển tài chính toàn diện dựa trên số liệu phân tích 20 quốc gia. Cụ thể, tác

giả xem xét sự ảnh hưởng của các biến độc lập: tỷ lệ tài sản không hiệu quả của ngân hàng (NPA),

tỷ lệ vốn trên tổng tài sản (CAR), ngân hàng nước ngoài, ngân hàng quốc doanh và tỷ lệ lãi suất. Kết

quả nghiên cứu chỉ ra rằng NPA có ý nghĩa và ảnh hưởng tiêu cực tới phát triển tài chính toàn diện

bởi nghiên cứu giải thích rằng đối với các ngân hàng có tỷ lệ tài sản kém hiệu quả cao là do tỷ lệ

cung cấp tín dụng cho nhóm thu nhập thấp lớn đến từ các chương trình tín dụng ưu tiên để mở rộng

tài chính toàn diện. Song khi tỷ lệ này cao nó có thể tác động ngược trở lại và khiến ngân hàng thu

hẹp cho vay đối với nhóm đối tượng này.

Đối với tỷ lệ vốn, tỷ lệ này có ý nghĩa và tác động nghịch tới tài chính toàn diện bởi các ngân

hàng có tỷ lệ CAR cao thường thận trọng hơn khi cho vay để đảm bảo an toàn trong hoạt động, điều

đó đồng nghĩa với việc ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển tài chính toàn diện. Kết quả nghiên cứu

cũng chỉ ra biến ngân hàng quốc doanh và lãi suất không có ý nghĩa trong mô hình, song biến ngân

liv

hàng nước ngoài có ý nghĩa và tác động nghịch chiều tới tài chính toàn diện. Điều này được giải

thích bởi mức rủi ro của tài chính toàn diện cao nên không hấp dẫn với nhóm ngân hàng này. Tại

Madagascar, Armenia và Jordan, tỷ lệ ngân hàng nước ngoài cao, chiếm trên 60%, do vậy chỉ số tài

chính toàn diện của các nước này rất thấp, ngược lại với các nước Đan Mạch, Úc, Bỉ và Pháp tỷ lệ

ngân hàng nước ngoài thấp, do vậy chỉ số phát triển tài chính toàn diện rất cao.

Các yếu tố nội tại của bản thân người khách hàng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của tài

chính toàn diện thông qua các đặc điểm cá nhân của người dân cũng như hộ gia đình. Các yếu tố này

đã được các nghiên cứu phân tích khá rõ.

Nghiên cứu của Pena et al. (2014) đã nghiên cứu trường hợp tại Mexico. Nhóm tác giả sử dụng

bộ số liệu điều tra tài chính toàn diện quốc gia được thực hiện năm 2012 đối với 7000 hộ gia đình tại

thành thị và nông thôn Mexico. Số liệu thu thập được phân tích thông qua mô hình hồi quy tuyến

tính đối với các biến độc lập là: giới tính, tuổi, quy mô hộ gia đình, tình trạng hôn nhân, vị trí trong

gia đình, trình độ giáo dục, chức vụ công việc, mức lương, khả năng tiết kiệm, mức độ tổn thương

(khả năng gặp sự cố), hỗ trợ của kiều hối, có công việc hay thất nghiệp. Kết quả nghiên cứu chỉ ra

rằng tuổi, vị trí trong gia đình, tình trạng hôn nhân, học vấn, khả năng tiết kiệm, mức độ tổn thương

và công việc là các yếu tố có ý nghĩa trong mô hình. Cụ thể, tài chính toàn diện sẽ được tiếp cận cao

hơn đối với người lớn tuổi, tuy nhiên nó chỉ dừng lại ở tuổi là 57.46. Đối với người chủ gia đình và

những người đã lập gia đình cũng có nhu cầu tiếp cận tài chính toàn diện cao hơn. Bên cạnh các yếu

tố này, trình độ học vấn được xem là biến quan trọng nhất và mối tương quan thuận trong mô hình.

Trình độ học vấn càng cao thì việc tìm các nguồn tài chính chính thức thay vì các nguồn tài chính

phi chính thức càng cao. Mặt khác họ cũng có kiến thức, khả năng tiết kiệm cao hơn người có trình

độ thấp. Điều này một lần nữa được khẳng định khi kết quả mô hình chỉ ra rằng hành vi tiết kiệm có

ảnh hưởng tích cực đến việc tiếp cận tài chính toàn diện. Một biến khác cũng có ý nghĩa trong mô

hình là mức độ tổn thương của hộ gia đình. Đối với các hộ gia đình có mức độ tổn thương cao như

ốm đau, mất việc, dễ đón nhận thảm họa tự nhiên thì nhu cầu tiếp cận tài chính toàn diện của họ sẽ

thấp hơn. Biến cuối cùng liên quan đến đặc điểm của người tiêu dùng là công việc, đối với những

người có công việc thì họ cũng sử dụng các sản phẩm tài chính nhiều hơn.

Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả nói trên (Pena, Hoyo and Tuesta, 2014) tại Mexico đồng

thuận với nghiên cứu của Tuesta et al. (2015) thực hiện tại Argentina. Nghiên cứu này được thực

Nhóm phía cầu

lv

hiện dựa trên bộ số liệu điều tra bởi Worldank đối với 147 quốc gia, mỗi quốc gia tối thiểu 1000

người từ 15 tuổi trở lên tham gia điều tra. Nhóm tác giả phân tích ảnh hưởng của các biến giới tính,

tuổi, trình độ giáo dục và thu nhập tới việc sử dụng tài chính toàn diện dựa trên mô hình hồi quy

Probit. Kết quả nghiên cứu thu nhận được tại Argentina hoàn toàn trùng khớp với nghiên cứu của

Pena et al. (2014) tại Mexico. Cụ thể, độ tuổi, trình độ giáo dục và thu nhập là những biến quan trọng

ảnh hưởng đến việc sử dụng các sản phẩm tài chính toàn diện, ngược lại, giới tính là biến không có

ý nghĩa trong mô hình. Kết quả này góp phần khẳng định đặc điểm cá nhân người tiêu dùng là những

yếu tố có ảnh hưởng quan trọng tới việc sử dụng sản phẩm tài chính toàn diện của họ.

Những phân tích, nhận định trên một lần nữa được khẳng định thông qua nghiên cứu của Clamara

et al. (2014) tại Peru. Nhóm tác giả này đã dựa trên bộ số liệu điều tra quốc gia về hộ gia đình được

thực hiện năm 2011 với quy mô mẫu lên tới 26.456 hộ trong đó có 16.368 hộ tại khu vực thành thị

và 10.088 hộ tại khu vực nông thôn do World Bank thực hiện. Tương tự với nghiên cứu của Tuesta

et al. (2015), Clamara et al. (2014) cũng áp dụng mô hình Probit để tìm ra các biến ảnh hưởng đến

việc sử dụng tài chính toàn diện. Mặc dù tại hai quốc gia khác nhau nhưng kết quả nghiên cứu tương

đối đồng nhất. Cụ thể, độ tuổi, mức thu nhập, công việc, giáo dục là những biến có ảnh hưởng lớn

tới việc sử dụng tài chính toàn diện. Kết quả chỉ rõ người có trình độ thấp hơn thiếu sự tự tin cũng

như các kỹ năng cần thiết để sử dụng các dịch vụ, sản phẩm tài chính. Cũng như nghiên cứu của

Pena et al. (2014), việc tiếp cập tài chính toàn diện sẽ cao hơn đối với người lớn tuổi hơn, song nó

chỉ dừng lại tại tuổi 53 thay vì tuổi 57.46 như tại Mexico. Tuy nhiên, khác với hai nghiên cứu trên,

nghiên cứu của Clamara et al. (2014) tại Peru lại cho thấy giới tính là biến có ý nghĩa đối với việc sử

dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính toàn diện. Đối với phụ nữ, sống ở khu vực nông thôn có mức thu

nhập và trình độ giáo dục thấp có xu hướng không muốn tiếp cận nguồn tài chính chính thức.

Sự ảnh hưởng của các đặc điểm cá nhân một lần nữa được chia sẻ trong nghiên cứu của Demirguc-

Kunt et al. (2013) dựa trên số liệu tài chính toàn diện toàn cầu (Global Financial Inclusion) của 140

quốc gia đang phát triển. Kết quả nghiên cứu cũng khẳng định: thu nhập, giáo dục, có công việc, độ

tuổi và giới tính là các yếu tố tác động đến việc sử dụng các dịch vụ, sản phẩm tài chính của người

dân.

Môi trường kinh tế - xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc định hướng tiêu dùng nói

chung và định hướng sử dụng các sản phẩm tài chính nói riêng, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến nhận

Nhóm các nhân tố từ môi trường kinh tế - xã hội

lvi

thức, văn hóa và xu hướng sử dụng sản phẩm của người dân. Đối với các sản phẩm tài chính toàn

diện cũng vậy, môi trường kinh tế - xã hội có những ảnh hưởng nhất định.

Tuesta et al. (2015) khẳng định nhận thức người dân về các sản phẩm tài chính là một trong

những yếu tố cốt lõi khiến họ không tìm đến các sản phẩm tài chính, đặc biệt đối với người dân có

thu nhập thấp. Đối với người có thu nhập thấp việc nhận thức rào cản khi tiếp cận các dịch vụ này

cao hơn khoảng 15% so với nhóm có thu nhập cao. Điều này khiến họ ‘chùn bước’ khi có nhu cầu

sử dụng dịch vụ tài chính. Nhận định này được chia sẻ trong nghiên cứu của Shankar (2013), nghiên

cứu chỉ rõ sự phát triển của tài chính toàn diện phụ thuộc vào nhận thức của người dân và văn hoá

sử dụng sản phẩm tài chính trong xã hội. Đặc biệt, tại các quốc gia đang phát triển, nắm giữ và sử

dụng tiền mặt đã trở thành một thói quen cố hữu của người dân, điều này khiến cho họ không có nhu

cầu sử dụng sản phẩm tài chính.

Bên cạnh đó, nghiên cứu của Park & Mercado, 2015 cũng chỉ ra rằng cấu trúc dân số trong xã

hội ảnh hưởng đến sự phát triển tài chính toàn diện của quốc gia. Quốc gia nào có cấu trúc dân số

già hoá và tỷ lệ phụ thuộc cao thì tài chính toàn diện có xu hướng kém phát triển hơn. Điều này hoàn

toàn hợp lý và được giải thích bởi sự tác động của biến tuổi đã được đề cập tại phần trên. Khi độ tuổi

vượt quá ngưỡng giới hạn, nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ tài chính có xu hướng giảm.

Tại một số quốc gia, giới tính là yếu tố được xã hội nhìn nhận và phân biệt, dường như vị thế của

người phụ nữ vẫn chưa được đặt ngang bằng với nam giới trong mọi hoạt động xã hội cũng như kinh

tế, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển. Nghiên cứu của Demirguc-Kunt et al. (2013) cũng cho

thấy ở các quốc gia đang phát triển phụ nữ phải chịu các quy định chặt chẽ hơn trong khả năng thực

hiện công việc, vai trò làm chủ gia đình, do vậy so với nam giới số lượng tài khoản tín dụng và tiết

kiệm của phụ nữ tại các tổ chức tín dụng chính thức ít hơn.

Sarma & Pais (2008) tiến hành phân tích ảnh hưởng của hạ tầng xã hội đến phát triển tài chính

toàn diện, cụ thể nhóm tác giả đi phân tích sự tác động của các yếu tố mạng lưới giao thông, điện

thoại, việc tiếp cận thông tin qua các kênh truyền thông như báo, đài, tivi, internet đến việc thúc đẩy

phát triển tài chính toàn diện. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng mạng lưới giao thông có ảnh hưởng

tích cực tới việc phát triển tài chính toàn diện. Kết quả này củng cố thêm nhận định ở phần trên cho

rằng khả năng tiếp cận tài chính toàn diện ở khu vực nông thôn thấp hơn thành thị. Ngoài mạng lưới

giao thông, điện thoại và Internet là hai biến có ý nghĩa và ảnh hưởng tích cực trong mô hình nghiên

lvii

cứu của nhóm tác giả này, điều đó cho thấy thông tin, truyền thông đóng vai trò quan trọng trong

việc thúc đẩy phát triển tài chính toàn diện.

Song song với các yếu tố xã hội, sự phát triển, điều kiện kinh tế địa phương, vùng cũng là nhân

tố ảnh hưởng tích cực đến phát triển tài chính toàn diện bởi điều này ảnh hưởng đến mức sống, thu

nhập cũng như tiêu chuẩn cuộc sống của người dân (Kumar, 2013). Khi cuộc sống người dân được

cải thiện, nhu cầu gửi tiền, vay mượn chi tiêu cải thiện cuộc sống cũng như nhu cầu sử dụng các sản

phẩm tài chính của họ sẽ tăng cao để đáp ứng yêu cầu cuộc sống. Mặt khác, khi nền kinh tế địa

phương phát triển sẽ kéo theo sự năng động, sự phát triển các hoạt động, dịch vụ của ngân hàng và

các tổ chức tài chính, điều này khiến cho người dân cũng nhạy cảm hơn với các sản phẩm, dịch vụ

này. Kết quả nghiên cứu của Sarma & Pais (2008) cũng chỉ rõ GDP bình quân đầu người có ảnh

hưởng tích cực đến tài chính toàn diện, GDP bình quân đầu người càng cao thì nhu cầu sử dụng các

sản phẩm tài chính càng lớn. Khẳng định thêm nhận định trên, nghiên cứu của Park & Mercado

(2015) đối với tài chính toàn diện và đói nghèo tại 37 nước châu Á cũng cho thấy cấu trúc kinh tế,

thu nhập bình quân đầu người là biến có ý nghĩa trong mô hình tài chính toàn diện.

lviii

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ

Cấp độ

Thời gian

STT

Tên bài nghiên cứu

Tạp chí/hội thảo/Cấp đề tài

tham gia

hoàn thành

Tăng cường tiến trình tài

Đồng tác

01

chính toàn diện trong khu

Tạp chí Tài chính

12/2020

giả

vực ASEAN

3rd International Conference

Financial Inclusion and

on Finance, Accounting and

Đồng tác

02

Bank Stability: Theory

Auditing: Sustainable

12/2020

giả

and Practice in ASEAN

development in accounting,

auditing and finance.

Measuring Financial

International Conference on

03

Inclusion: Theory and

Finance, Accounting and

Tác giả

Practice in Vietnam

Auditing (ICFAA 2019)

8/11/2019

Các nhân tố ảnh hưởng

đến cấu trúc vốn của các

Thành

04

Đề tài cấp trường

05/2020

viên

doanh nghiệp ngành thực

phẩm niêm yết trên thị

trường chứng khoán Việt

Evolution of monetary policy

Macroprudential policy and

Đồng tác

05

framework after the global

12/2017

systemic risk: a review

giả

financial crisis.

Financing renewable

Financing for innovation,

06

energy projects – an

entrepreneurship & renewable

Tác giả

8/2017

introduction of hybrid bond

energy development.

Liên kết vùng trong phát

Thành

07

triển kinh tế - xã hội gắn

Đề tài cấp trường

2016

viên

với đảm bảo an ninh Quốc

Nam

lix

phòng biển, đảo vùng

duyên hải miền Trung

Một số lưu ý về chiến lược

08

nguồn nhân sự trong bối

Hội thảo cấp trường

Tác giả

2016

cảnh hội nhập hiện nay.

Sự hài lòng của người tiêu

dùng về chương trình bình

Thành

09

ổn mặt hàng lương thực

Đề tài cấp trường

2015

viên

thực phẩm thiết yếu trên

địa bàn Tp Hồ Chí Minh