intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận án Tiến sĩ: Thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ tại khu trung tâm cũ thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: ViJenchae ViJenchae | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:150

33
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận án trình bày các nội dung chính sau: Phân loại và đánh giá các dạng nhóm cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ tại khu trung tâm cũ Tp. Hồ Chí Minh; Xây dựng hệ thống tiêu chí thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ tại khu trung tâm cũ Tp. Hồ Chí Minh; Đề xuất giải pháp thiết kế đa dạng cảnh quan cho các dạng nhóm tuyến phố thương mại dịch vụ khu trung tâm cũ Tp. Hồ Chí Minh.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận án Tiến sĩ: Thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ tại khu trung tâm cũ thành phố Hồ Chí Minh

  1. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết cuả đề tài Với cư dân thành phố Hồ Chí Minh, những ngôi chợ và những tuyến phố buôn bán trải khắp thành phố gắn bó cùng đời sống, cùng cuộc mưu sinh đã bao đời nay. Cũng chính vì thế mà kỷ niệm thành phố 300 năm, hình ảnh Chợ Bến Thành cũng từng được đưa vào danh sách những công trình được lựa chọn làm biểu tượng cho thành phố. Từ tên gọi “Bến Nghé” xưa đã cho thấy Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh gắn liền cùng hình ảnh trên bến dưới thuyền và hình thành, phát triển nhờ hoạt động thương mại. Các khu phố chợ xưa kia thường gắn liền với cảng sông như Chợ Bến Thành, Chợ Thị Nghè…và là những đầu mối giao thương quan trọng. Sau nhiều năm tháng, các khu phố chợ phát triển ngày càng lớn, kết hợp cùng các công trình thương mại hiện đại mới mọc lên, hình thành nên các tuyến phố thương mại dịch vụ, tạo nên bức tranh sinh động và nhiều màu sắc cho thành phố. Nghĩ đến thành phố Hồ Chí Minh, đôi khi người ta nghĩ đến một khu “Chợ” lớn, bởi các không gian thương mại dịch vụ ở khắp mọi nơi, trên hầu hết mọi tuyến đường trọng yếu của thành phố. Điều này góp phần tạo nên tính đặc trưng cho đô thị, đồng thời tạo ra chất keo gắn kết con người với đô thị. Do Tp.Hồ Chí Minh là một thành phố hình thành và phát triển phần lớn nhờ vào hoạt động thương mại, nên các khu thương mại dịch vụ cũng được xác định như các tâm điểm cho sự phát triển không gian đô thị. Tâm điểm của các khu thương mại dịch vụ thời bấy giờ thường là các khu phố chợ mang đậm hình thức sinh hoạt truyền thống Á Đông, hòa trộn cùng nét kiến trúc Phương Tây như: Chợ Bến Thành, Chợ Tân Định, Chợ Bình Tây… Qua hơn 100 năm sử dụng, các không gian quy hoạch thời Pháp đã dần dần được cư dân người Việt biến đổi và sử dụng lại theo lối sống riêng của mình. Ở các đô thị Đông Á và tại TP.HCM, mọi cư dân đều tham gia vào việc hình thành nên không gian cảnh quan đô thị. Điều này tạo nên bức tranh sinh động cho cảnh quan, tạo điều kiện cho nhiều thành phần dân cư cùng có cơ hội sinh sống trong một khu vực, nhưng đồng thời cũng gây nên nhiều hệ quả xấu như: xây dựng cơi nới, lấn
  2. 2 chiếm, phát triển buôn bán nhỏ dọc hai bên đường một cách tùy tiện, kiến trúc lộn xộn về phong cách, nhiều công trình TMDV cũ gắn bó mật thiết với đời sống kinh tế và văn hóa tinh thần của người dân Tp.HCM đang dần bị phá bỏ và thay thế bằng các công trình mới. Bên cạnh đó, nhiều cư dân tại khu trung tâm cũ thành phố Hồ Chí Minh đang dần bị “đẩy” ra khỏi môi trường sống quen thuộc lâu đời, để nhường chỗ ở của mình cho các trung tâm thương mại và cao ốc văn phòng mới. Điều này khiến cho nhiều tuyến phố dần mất đi đặc trưng đa dạng về cảnh quan ban đầu mà trở nên rập khuôn, với những tòa cao ốc hay trung tâm thương mại lớn có hình dạng tương tự nhau. Tình trạng trên còn gây nên những xáo trộn về đời sống và các giá trị văn hóa tinh thần của người dân đô thị. Việc thay thế các công trình thương mại, nhà ở, công viên cũ ở khu trung tâm bằng các công trình mới, hiện đại và phục vụ cho tầng lớp thu nhập cao làm tăng lên sự tách biệt không gian và tách biệt xã hội, dẫn đến sự phân chia đẳng cấp và gây mất công bằng vì người dân có thu nhập thấp và trung bình không còn có cơ hội thụ hưởng các dịch vụ tiện ích xã hội tại khu trung tâm như trước đây. Theo Peach (2001), có một sự liên hệ giữa tính di động xã hội với tính di động không gian. Việc thay thế một không gian kiểu này bằng không gian kiểu khác khiến cho khó có thể giữ lại các cư dân hay khách hàng cũ. Ngược lại nó sẽ thu hút những thành phần cư dân hay khách hàng mới phù hợp với nó. Đây là quá trình đồng hóa giữa không gian và xã hội, với hậu quả là tạo nên những không gian đô thị phục vụ riêng biệt cho một vài đối tượng xã hội nhất định. Những thay đổi nói trên làm cho bản sắc sinh động, hấp dẫn của không gian đô thị Tp.HCM ngày càng mai một và mất đi, thay vào đó là sự lộn xộn hay rập khuôn nhau. Trong khi đó, các đô thị hiện nay trên thế giới cạnh tranh nhau không chỉ ở tính hiện đại, tính kinh tế mà còn nhờ nét hấp dẫn về bản sắc của mình. So với trước đây, tính thẩm mỹ và đặc thù năng động của không gian thương mại dịch vụ đô thị trở nên quan trọng hơn rất nhiều trong việc tạo sức hấp dẫn cho đô thị (Hình MĐ-1) Có thể thấy rằng, đối với không gian cảnh quan đô thị Tp.HCM, sự đa dạng là một trong những nét đặc trưng quý giá. Điều này đã hình thành và tồn tại một cách tự nhiên theo những quy luật vận động riêng, phù hợp với đời sống cư dân
  3. 3 Tp.HCM. Tuy nhiên, để tránh rơi vào tình trạng lộn xộn mất kiểm soát, hoặc những tác động chủ quan có tính chất hành chính làm mất đi đặc trưng vốn có, cần có các nghiên cứu khoa học về vấn đề này để tạo cơ sở cho việc thiết kế và quản lý. Hiện nay, còn rất nhiều hạn chế trong vấn đề quản lý và thiếu các nghiên cứu mang tính định hướng cho giải pháp kiến tạo không gian đô thị. Với những lý do trên, đề tài nghiên cứu về thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ tại khu trung tâm cũ thành phố Hồ Chí Minh có mục đích tìm ra định hướng cho không gian kiến trúc cảnh quan của đô thị, tạo tiền đề cho việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa cũng như kiến trúc, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và cải thiện môi trường, hướng đến các giá trị thẩm mỹ không gian và an sinh xã hội. Luận án lựa chọn khu vực nghiên cứu là tuyến phố thương mại dịch vụ khu trung tâm cũ Tp.HCM vì có nhiều giá trị về tính đa dạng và nhiều vấn đề cần giải quyết về đa dạng cảnh quan. 2. Đối tượng nghiên cứu Luận án đưa ra các đối tượng nghiên cứu chính là: - Cảnh quan các tuyến phố thương mại dịch vụ tại khu trung tâm cũ Tp.HCM. - Hệ thống tiêu chí và giải pháp thiết kế đa dạng cảnh quan áp dụng cho tuyến phố thương mại dịch vụ tại khu trung tâm cũ thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục đích của luận án là Thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ tại khu trung tâm cũ thành phố Hồ Chí Minh. Đô thị hiện đại, với sự đề cao tính công năng, đã làm mất dần đi những đặc tính đa dạng của cảnh quan. Tại nhiều đô thị phát triển trong thế kỷ 21, tư tưởng thiết kế và công nghệ hiện đại cùng với các yếu tố kinh tế xã hội khác đã hình thành nên các không gian đô thị thuận lợi cho sự đơn điệu hơn là sự đa dạng. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những đô thị vẫn còn giữ được sự đa dạng tại nhiều nơi, nhưng ở một số nơi khác thì yếu tố này đang ngày càng trở nên ít đi. Các tuyến phố TMDV Tp.HCM có nhiều yếu tố đa dạng cảnh quan, nhưng chưa được chú trọng nghiên cứu. Luận án tập trung nghiên cứu vào các giải pháp thiết kế
  4. 4 đa dạng cảnh quan không chỉ nhằm mục đích tạo môi trường cảnh quan sinh động mà còn để tạo tiền đề cho sự phát triển đa dạng và bình đẳng về mặt xã hội. Với mục đích nêu trên, luận án đưa ra những mục tiêu nghiên cứu cụ thể là: - Phân loại và đánh giá các dạng nhóm cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ tại khu trung tâm cũ Tp. Hồ Chí Minh - Xây dựng hệ thống tiêu chí thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ tại khu trung tâm cũ Tp. Hồ Chí Minh - Đề xuất giải pháp thiết kế đa dạng cảnh quan cho các dạng nhóm tuyến phố thương mại dịch vụ khu trung tâm cũ Tp. Hồ Chí Minh 4. Nội dung nghiên cứu Luận án bao gồm 3 chương chính, phần mở đầu và phần kết luận, kiến nghị. Với các mục tiêu nghiên cứu như trên, có các nội dung nghiên cứu cụ thể như sau: Nội dung 1: Các khái niệm đa dạng cảnh quan và thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố TMDV. Nội dung 2: Hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn về thiết kế đa dạng cảnh quan tại Việt Nam và trên thế giới. Nội dung 3: Khái quát về đặc trưng cảnh quan tuyến phố TMDV tại khu trung tâm cũ Tp. Hồ Chí Minh. Nội dung 4: Xây dựng các cơ sở khoa học trong nghiên cứu thiết kế đa dạng cảnh quan, bao gồm: Cơ sở phân loại, đánh giá đặc trưng đa dạng cảnh quan; Cơ sở xây dựng hệ thống tiêu chí, phương thức, cách thức thiết kế đa dạng cảnh quan; Cơ sở xây dựng giải pháp thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố TMDV tại khu trung tâm cũ Tp. HCM Nội dung 5: Phân loại, đánh giá đặc trưng đa dạng cảnh quan các dạng nhóm tuyến phố TMDV tại khu trung tâm cũ Tp.HCM. Nội dung 6: Xây dựng hệ thống tiêu chí, phương thức, cách thức thiết kế đa dạng cảnh quan các dạng nhóm tuyến phố TMDV tại khu trung tâm cũ Tp.HCM. Nội dung 7: Đề xuất giải pháp thiết kế đa dạng cảnh quan cho các dạng nhóm tuyến phố TMDV tại khu trung tâm cũ Tp.HCM.
  5. 5 5. Phương pháp nghiên cứu Cách tiếp cận đối với đề tài thể hiện ở hai tiêu chí cơ bản: tính khoa học và tính thực tiễn trong điều kiện hiện nay của TP.HCM. Với nghiên cứu thiết kế đa dạng cảnh quan thì cần thiết phải có phương pháp nghiên cứu cung cấp được các thông số, dữ liệu về khu vực làm cơ sở định tính và định lượng cho việc phân loại và thiết kế. Kết quả nghiên cứu sẽ có ý nghĩa không chỉ đối với khu vực đang nghiên cứu mà còn có thể áp dụng cho những khu vực khác có điều kiện tương đồng. Ngoài ra, phạm vi áp dụng của phương pháp nghiên cứu không chỉ cho tuyến phố mà còn có thể áp dụng đối với những nghiên cứu khác về thiết kế đa dạng cảnh quan. Vì vậy, các phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm: * Phương pháp khảo sát điền dã Quan sát, phỏng vấn và ghi chép, phác họa, chụp ảnh về đặc điểm hiện trạng của các tuyến phố TMDV tại khu trung tâm cũ Tp.HCM. * Phương pháp lịch sử Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ điển hình trong và ngoài nước. * Phương pháp điều tra xã hội học Khảo sát lấy ý kiến người dân và khách du lịch về cảm thụ cảnh quan, về thói quen sinh hoạt, về lối sống của họ tại khu vực nghiên cứu. * Phương pháp bản đồ Dựa trên phân tích bản đồ các giai đoạn phát triển của Tp.HCM để đánh giá tiến trình phát triển các tuyến phố TMDV khu trung tâm cũ Tp.HCM và xác định vị trí các tuyến phố điển hình. * Phương pháp thống kê Thu thập và thống kê các số liệu cảnh quan tuyến phố TMDV tại khu trung tâm cũ Tp.HCM, làm cơ sở dữ liệu cho các phân tích. * Phương pháp phân tích Phân tích chi tiết các thông tin, số liệu để nhận dạng, phân loại, đánh giá đặc trưng đa dạng cảnh quan tuyến phố TMDV tại khu trung tâm cũ Tp.HCM.
  6. 6 Phân tích hồi quy để đánh giá cảm thụ cảnh quan tuyến phố. * Phương pháp tổng hợp Tổng hợp các đánh giá, phân tích về cảnh quan tuyến phố TMDV tại khu trung tâm cũ Tp.HCM, tại các đô thị khác trên thế giới để tìm ra quy luật phát triển và phương pháp thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố TMDV. * Phương pháp so sánh So sánh điều kiện thực tại của tuyến phố TMDV tại khu trung tâm cũ Tp.HCM và tại các đô thị khác trên thế giới để làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng các tiêu chí đa dạng. * Phương pháp đánh giá đa tiêu chí Đánh giá các dạng tuyến phố TMDV điển hình khu trung tâm cũ Tp.HCM theo hệ thống tiêu chí đa dạng. 6. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi khu vực nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu giới hạn trong phạm vi các tuyến phố TMDV điển hình tại 3 quận trung tâm cũ của đô thị Tp. Hồ Chí Minh: Quận 1, Quận 3, Quận 5. Các tuyến phố được lựa chọn là những tuyến phố có đặc trưng tiêu biểu cho tuyến phố TMDV Tp.HCM hoặc cho từng quận trung tâm. Những đoạn đường phố được lựa chọn khảo sát là những đoạn có đặc điểm không gian hình khối và không gian hoạt động mang tính điển hình cho toàn tuyến. - Phạm vi nội dung và lĩnh vực nghiên cứu: Trong khuôn khổ luận án, không đề cập và nghiên cứu áp dụng nhiều xu hướng thiết kế mà chỉ tập trung vào xu hướng thiết kế đa dạng. Nghiên cứu cũng không hướng đến việc thiết kế đa dạng cho mọi yếu tố trong khu vực nghiên cứu mà chỉ hướng đến yếu tố cảnh quan. Nghiên cứu vận dụng các cơ sở khoa học từ cả hai lĩnh vực có liên quan là kiến trúc cảnh quan và thiết kế đô thị. - Phạm vi thời gian áp dụng: Cho đến khi nào các tuyến phố TMDV khu trung tâm cũ Tp. Hồ Chí Minh vẫn còn giữ được hoặc có khả năng tái tạo được sự đa dạng về hình thức kiến trúc công trình, hình thức phối kết không gian, loại hình cây xanh, loại hình TMDV…
  7. 7 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1.1. Các khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đối tượng nghiên cứu của đề tài 1.1.1. Khái niệm đa dạng và thiết kế đa dạng 1.1.1.1. Khái niệm đa dạng * Định nghĩa đa dạng Khái niệm đa dạng được đề cập đến trước tiên là trong lĩnh vực sinh học với cụm từ “đa dạng sinh học”. Yếu tố đa dạng trong môi trường sinh học tự nhiên được xem như là yếu tố đặc biệt quan trọng để tạo nên sự cân bằng sinh học. Về sau, sự đa dạng được quan tâm nghiên cứu mở rộng trong nhiều lĩnh vực khác, trong đó có lĩnh vực kiến trúc. Một khu vực được cho là đa dạng khi nó có sự tập hợp để cùng tồn tại của những đối tượng có điều kiện kinh tế, văn hóa, chủng tộc, giới tính, tuổi tác, lối sống khác nhau… Việc hình thành các loại hình kiến trúc và thành phần dân cư khác nhau là một tính năng thiết yếu trong những khu vực đa dạng. (“Design for diversiry”, Emily Talen, 2008). Có rất nhiều định nghĩa khác về tính đa dạng. Thời báo New York Times mô tả “đa dạng” như là một từ mang tính “ thời thượng” (Feedman, 2004) hay một học giả văn hóa như David Brooks (2004) thì mô tả đa dạng là “một vùng văn hóa không ngừng tham vọng”. Đa dạng không phải là sự hỗn loạn hoặc ngẫu nhiên. Theo Jane Jacobs (1961), đa dạng yếu tố vật lý, xã hội, kinh tế cùng tồn tại hiệu quả trong một hệ thống trật tự cơ bản, mà bà gọi là "sự phức tạp có tổ chức". Tương tự như vậy, Eliel Saarinen (1943) cho rằng sự đa dạng của các yếu tố đô thị có thể được đưa vào "một hình ảnh duy nhất của trật tự nhịp nhàng". Nghiên cứu "Trật tự trong đa dạng" của Melvin Webber (1953) phê phán việc nhầm lẫn giữa đa dạng và hỗn loạn. Ông cho rằng các thiết kế thích ứng với sự đa dạng là những thiết kế "phù hợp với nhiều nhu cầu khác nhau về đất ở và nơi ở được thực hiện bởi các cá nhân và các nhóm khác nhau". Các nghiên cứu trên chỉ ra rằng tính đa dạng phải vững chắc chứ không hời hợt. Đó là sự phong phú tạo nên bởi những thay đổi của con người và mang lại sức sống,
  8. 8 sự sinh động cho một khu vực. Một tuyến phố thương mại dịch vụ nhiều màu sắc, hình khối phức tạp có thể không hoàn toàn đồng nhất, nhưng có thể có một trật tự trong sự đa dạng. Ngược lại với đa dạng là sự đơn điệu. Sự đơn điệu gây cảm giác nhàm chán, trong khi sự đa dang tạo cảm giác sinh động. Không gian đơn điệu và nguyên nhân cũng như hệ quả của chúng là tâm điểm của nhiều nghiên cứu về đô thị. Các không gian đơn điệu chỉ dành cho một số đối tượng nhất định là nguyên nhân dẫn đến sự chia cắt, tách biệt giữa khu vực này và khu vực khác. Nó thể hiện sự giới hạn về quyền lựa chọn của người tiêu dùng, sự phân biệt đối xử trong tổ chức và quản lý, và có nguyên nhân dựa trên tính chất ở cấp độ vĩ mô của nền kinh tế, chính trị và xã hội. Nhiều ý kiến nhìn nhận đây là sự "chia rẽ và phân cực", xem nó như là một sản phẩm của các hoạt động, chính sách của nhà nước (Marcuse and Van Kempen, 2002). * Ý nghĩa của sự đa dạng - Sức sống khu vực Sự đa dạng là một yếu tố tích cực trong một xã hội toàn cầu hóa, là một đặc tính giúp tăng cường kinh nghiệm của con người. Trong lĩnh vực quy hoạch và thiết kế đô thị, có một ý tưởng cơ bản là: "sự kết hợp của hỗn hợp các hoạt động, chứ không phải sự riêng biệt, là chìa khóa để thành công trong đô thị" (Montgomery, 1998). Sự đa dạng được xem như là nguồn năng lượng chính cho sức sống đô thị bởi vì nó làm tăng sự tương tác giữa nhiều thành phần đô thị. Sự đa dạng cung cấp khả năng "hỗ trợ lẫn nhau liên tục". Jacobs (1961) lập luận rằng "Sự đa dạng trở thành khoa học và nghệ thuật của sự xúc tác đồng thời nuôi dưỡng những mối quan hệ". Các hình thức thể hiện sức sống khu vực thông qua sự đa dạng bao gồm: + Sức khỏe kinh tế Một trong những hình thức của "sức sống khu vực” là sức khỏe kinh tế. Sự đa dạng về "kích thước, mật độ" của các khu vực được xem là "một trong những tài sản kinh tế quý giá nhất của đô thị" (Jacobs). Sự phong phú đa dạng của hoạt động con người cũng là một tài sản kinh tế vì thúc đẩy sự đổi mới trong doanh nghiệp. Đa
  9. 9 dạng thúc đẩy sức khỏe kinh tế bởi vì nó thúc đẩy cơ hội. Theo Jacobs, nếu những thành phố có tính đa dạng cao thì chúng "cung cấp mảnh đất màu mỡ cho các kế hoạch của hàng ngàn người". Richard Florida cũng lập luận một cách rõ ràng về tầm quan trọng của sự đa dạng về mặt kinh tế. Ông cho rằng mật độ cao của nguồn nhân lực đa dạng, chứ không phải sự đa dạng của các doanh nghiệp hoặc các ngành công nghiệp trong quan điểm kinh tế thông thường, là những thứ thúc đẩy sự đổi mới và tăng trưởng kinh tế. Một khu vực đa dạng có khả năng tự tồn tại tốt hơn. Khu vực đa dạng có khả năng chống lại suy thoái kinh tế một cách bền bỉ và linh hoạt (Grannoveter, 1983). + Cân bằng hệ sinh thái và có tính bền vững Sinh thái học có nguồn gốc như là một lĩnh vực nghiên cứu tập trung vào khái niệm toàn diện về tích hợp, cân bằng các cộng đồng sinh vật phụ thuộc lẫn nhau của hệ sinh học. Sự liên quan giữa tính đa dạng của cộng đồng loài người với đa dạng sinh học là một chủ đề phổ biến trong quy hoạch đô thị, được khám phá bởi các nhà hoạch định theo hướng sinh thái như Patrick Geddes (1915), Lewis Mumford (1925), và sau đó là Ian McHarg (1969). Ý nghĩa của quy hoạch đô thị sinh thái, bền vững có nghĩa là trong đó sự đa dạng phát triển mạnh dưới hình thức các cộng đồng tích hợp chặt chẽ trong một bối cảnh sinh thái lớn. - Công bằng xã hội Đa dạng liên quan đến công bằng xã hội theo hai ý nghĩa. Đầu tiên là ý nghĩa rằng sự đa dạng xã hội đem lại công bằng vì đảm bảo tiếp cận các nguồn lực tốt hơn cho tất cả các nhóm xã hội. Ý nghĩa thứ hai là đa dạng được xem như cơ sở cho một thế giới tốt hơn, sáng tạo hơn, khoan dung hơn, hòa bình hơn và ổn định hơn. Ý tưởng về pha trộn xã hội bằng cách đưa những người có nguồn gốc khác nhau vào cùng một khu vực chung ra đời vào thế kỷ 19, sau khi các nhà tư tưởng và phê bình xã hội lên tiếng về điều kiện sống của người nghèo. * Xu hướng phát triển đa dạng Cho tới khoảng cuối thế kỷ 20, tại Mỹ và Châu Âu, các mô hình đô thị theo dạng phân khu (có sự tách biệt giữa các khu vực) được xem là mô hình đô thị hiện đại, và
  10. 10 được khuyến khích phát triển. Tình trạng này được duy trì trong nhiều năm bởi các tổ chức quy hoạch, chính phủ liên bang, và các nhóm có thế lực như Hiệp hội xây dựng nhà ở quốc gia.Từ cuối thế kỷ 20 đã dấy lên phong trào ủng hộ cho lý tưởng đa dạng, từ đa dạng thành phần dân cư cho đến đa dạng không gian sống, đa dạng thể chế xã hội… Một trong những người tiên phong mạnh mẽ cho lý tưởng này, bất chấp mọi sự cản trở, là nhà nghiên cứu người Mỹ nổi tiếng Jane Jacobs (1916- 2006). Bà đã dành cả đời để nghiên cứu và đấu tranh vì lợi ích của tầng lớp dân nghèo đô thị. Sau khi vấp phải rất nhiều phản bác thì lý tưởng đa dạng dần được sự ủng hộ nhiệt liệt của mọi tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là cộng đồng cư dân nghèo. Các tiêu chí đa dạng mà Jane Jacobs đưa ra vẫn thường được nhắc đến như là nền tảng cho các nghiên cứu lý luận về thiết kế đa dạng hiện nay, bao gồm: pha trộn sử dụng, pha trộn lứa tuổi, khối ngắn, mật độ [62]. Theo bà, sự đa dạng sẽ tạo nên một số điểm đặc trưng và thế mạnh của khu vực như: - Sức sống (kinh tế, hệ sinh thái và tính bền vững) - Công bằng xã hội Tiếp nối những nền móng đầu tiên của Jane Jacobs, đã có khá nhiều các nghiên cứu và thiết kế theo lý tưởng đa dạng, hình thành nên một xu hướng mạnh mẽ trên khắp thế giới. Xu hướng này được thể hiện trong một số nghiên cứu của các học giả phương Tây như Emily Talen (Mỹ), Ian Bentley (Anh)... Còn ở phương Đông, tại một số quốc gia như Nhật Bản hay Hong Kong, do những đặc tính văn hóa xã hội có nhiều thuận lợi nên lý tưởng đa dạng đã hòa quyện vào các lĩnh vực đời sống một cách tự nhiên và tất yếu như một thứ chủ nghĩa. Một số nhà nghiên cứu phương Đông tiêu biểu trong lĩnh vực này là Yoshinobu Ashihara (Nhật Bản), William S.W.Lim (Singapore). * Các yếu tố tạo nên sự đa dạng Nghiên cứu của Jane Jacobs đã làm rõ các kết nối cơ bản giữa yếu tố vật lý và sự đa dạng. Về ảnh hưởng của môi trường vật lý đối với sự đa dạng của con người, bà đã khẳng định rằng: phẩm chất vật lý tạo ra sự đa dạng trong việc sử dụng và người sử dụng, và đó là cơ sở của một thành phố hoạt động tốt và lành mạnh. Các tiêu chí
  11. 11 của bà về sự đa dạng là: pha trộn cách sử dụng, pha trộn lứa tuổi, khối ngắn, mật độ là nguyên tắc hướng dẫn cho các nhà quy hoạch sau này hướng đến các thiết kế đa dạng. Trong nghiên cứu về tính đa dạng khu dân cư của Emily Talen, do trước đó không có định nghĩa rõ ràng về "khu vực đa dạng xã hội", người ta xem xét sự pha trộn các khu vực bằng chủng tộc / sắc tộc, mức độ thu nhập, tuổi tác, loại hình chức năng và yếu tố hình khối… Theo nghiên cứu về phát triển đa dạng cho thành phố Chicago (Mỹ) của Emily Talen, một khu phố đa dạng có thể dựa trên ba yếu tố: lịch sử / kinh tế / xã hội (historical / economic / social), chính sách (policy - related) và yếu tố vật lý / vị trí (physica / locational). Những yếu tố này liên quan đến nhau. Yếu tố lịch sử / kinh tế / xã hội ảnh hưởng đến chính sách và các yếu tố lịch sử / kinh tế / xã hội và chính sách ảnh hưởng đến các yếu tố vật lý / vị trí (Sơ đồ 1-1) Yếu tố lịch sử / kinh tế / xã hội Historical / economic Khu vực / social factor đa dạng Yếu tố vật lý Physical / locational Diverse factor places Yếu tố chính sách Policy - related factors Sơ đồ 1-1. Khung các yếu tố đa dạng của Emily Talen (Nguồn: Design for diversity, Emily Talen, 2008) Như vậy, từ các nghiên cứu trên cho thấy có ba yếu tố tạo nên sự đa dạng, đó là: - Yếu tố lịch sử / kinh tế / xã hội - Yếu tố chính sách - Yếu tố vật lý 1.1.1.2. Khái niệm thiết kế đa dạng Thiết kế đa dạng (Design for diversity) là khái niệm có xuất xứ từ các lĩnh vực quy hoạch và thiết kế đô thị. Xuất xứ từ quy hoạch đô thị là do các nguyên tắc quy
  12. 12 hoạch như “quy hoạch cộng đồng”, nhằm giảm bớt sự bất bình đẳng xã hội. Xuất xứ từ thiết kế đô thị là do liên quan tới sự can thiệp vào môi trường xây dựng. Theo Emily Talen, thiết kế đa dạng kết hợp sự quan tâm thẩm mỹ của thiết kế đô thị với các mục tiêu xã hội của quy hoạch đô thị. Đó là những đề xuất, kiến nghị của các nhà thiết kế đô thị bắt nguồn sâu xa từ mục tiêu công bằng xã hội, và là mối quan tâm của các nhà quy hoạch đô thị về công bằng xã hội thông qua thiết kế. Thiết kế đa dạng là thiết kế nên những công trình hay không gian có các yếu tố vật lý mang tính đa dạng cao. Trong ba yếu tố đa dạng chính của Emily Talen (Yếu tố vật lý, Yếu tố lịch sử / kinh tế / xã hội, Yếu tố chính sách), có sự phân định và gắn kết với nhau bằng một dây chuyền tương tác. Vì vậy, nghiên cứu thiết kế đa dạng là nghiên cứu một mắt xích trong dây chuyền, đó là nghiên cứu thiết kế yếu tố vật lý. Trong giới hạn phạm vi đề tài nghiên cứu về cảnh quan, luận án tập trung vào nghiên cứu về thiết kế đa dạng cho yếu tố cảnh quan, tức là nghiên cứu tính đa dạng của yếu tố vật lý thể hiện qua cảnh quan. 1.1.2. Khái niệm cảnh quan và thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ 1.1.2.1. Khái niệm cảnh quan Cảnh quan là tổ hợp phong cảnh bao gồm những phần thiên nhiên và nhân tạo trong lãnh thổ được phân chia một cách ước lệ, mang đến cho con người những cảm xúc và tâm trạng khác nhau. Ngoài ra, cảnh quan phụ thuộc rất lớn vào trình độ nhận thức, văn hoá, lối sống, phong tục tập quán… của người cảm thụ cảnh quan, nên những yếu tố tác động gián tiếp như kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội… cũng cần được xem xét đến. [32]. Sơ đồ 1-2. Quá trình nhận thức cảnh quan (Nguồn: The human landscape perception)
  13. 13 Như vậy, các yếu tố cấu thành cảnh quan bao gồm các yếu tố khách quan là không gian vật lý và yếu tố chủ quan là nhận thức của chủ thể cảm thụ cảnh quan. - Yếu tố vật lý cấu thành cảnh quan Các yếu tố vật lý cấu thành cảnh quan bao gồm các yếu tố hình khối tự nhiên lẫn nhân tạo như địa hình, cây xanh, mặt nước, con người, kiến trúc công trình, trang trí. Ngoài ra tùy từng vị trí mà có thể các không gian trống hoặc các hoạt động của con người cũng có thể góp phần tạo nên yếu tố vật lý cho cảnh quan một khu vực. - Chủ thể cảm thụ cảnh quan Là những người quan sát và cảm nhận, đánh giá về cảnh quan tuyến phố TMDV. Chủ thể cảm thụ của cảnh quan tuyến phố TMDV bao gồm cư dân của tuyến phố và khách vãng lai đến mua sắm, vui chơi, du lịch… Yếu tố cảm thụ cảnh quan tuyến phố TMDV được xác định dựa trên cảm nhận của chủ thể cảm thụ cảnh quan. Cảm nhận của chủ thể cảm thụ có được dựa trên tất cả các giác quan (thị giác, xúc giác, thính giác, khứu giác…) và trình độ nhận thức, văn hoá, lối sống, phong tục tập quán… (Sơ đồ 1-3) Cảnh quan Yếu tố vật lý cấu Chủ thể cảm thụ thành cảnh quan cảnh quan Sơ đồ 1-3. Khái niệm cảnh quaN (Nguồn: Tác giả) 1.1.2.2. Khái niệm cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ * Khái niệm tuyến phố (street) Theo từ điển tiếng Anh Oxford, tuyến phố được định nghĩa như sau “Là những tuyến đường tương đối rộng chạy giữa hai dãy nhà, thường bao gồm cả phần vỉa hè và có mối tương quan mật thiết với các công trình hai bên”. Theo định nghĩa này thì
  14. 14 tuyến phố được mô tả bao gồm phần đường, phần không gian lân cận, và không thể tách rời với các công trình hai bên [72]. Từ “tuyến phố” - Street bắt nguồn từ tiếng Latin “Sternere” nghĩa là “to pave”, nghĩa tiếng Việt là “Mở”. Từ Street có liên quan đến tất cả các từ tiếng Latin có nguồn gốc từ gốc “str” chỉ những thứ có liên quan đến xây dựng. Biến thể của từ Street trong nhiều ngôn ngữ Châu Âu như “Strada” - Ý, “strasse” - Đức chỉ một khu vực sử dụng công cộng và có thể bao gồm các không gian đơn giản, phân chia ranh giới. Nó không nhất thiết phải dẫn đến một nơi nào đặc biệt, có thể kết thúc bằng một ngõ cụt hoặc một quảng trường (Rykwert, 1991). Có thể sử dụng các thuật ngữ tương tự như Road, Boulevard, Promenade, Avenue… để chỉ tuyến phố. Bên cạnh đó, không gian tuyến phố còn được định nghĩa là có các vai trò sau: - Là không gian công cộng (Public space) - Là thước đo xã hội ( Social dimensions) - Là nơi thông tin liên lạc (Place for communication) - Là yếu tố không gian đô thị (Urban space element) Các khái niệm khác liên quan đến tuyến phố : - Khoảng lùi: Là khoảng cách giữa vỉa hè và công trình - Hẻm: Là các con đường nhỏ hơn hoặc bằng 6m giao cắt với đường phố chính - Đường cắt ngang: Là các con đường lớn hơn hoặc bằng 8m giao cắt với đường phố chính, tạo thành các ngã 3,4,5… * Khái niệm tuyến phố thương mại dịch vụ (Commercial-Service Street) Trong từ “ tuyến phố thương mại dịch vụ” có 2 phần: - Tuyến phố: bao gồm phần đường, phần không gian lân cận và các công trình dọc hai bên cạnh (định nghĩa ở trên) - Thương mại dịch vụ (Commercial - Service): Chỉ sự kinh doanh mua bán (commercial) và các hoạt động hỗ trợ cho kinh doanh (service). Như vậy, tuyến phố thương mại dịch vụ là đường phố có hoạt động thương mại và dịch vụ. Sự phát triển của các tuyến phố này thường mang tính dây chuyền, lan
  15. 15 tỏa, có nghĩa là một tuyến phố thương mại dịch vụ hình thành sẽ kích hoạt sự hình thành của các tuyến phố kế cận. Các tuyến phố thương mại dịch vụ cũng có bốn chức năng cơ bản của tuyến phố: Không gian công cộng, Thước đo xã hội, Thông tin liên lạc, Không gian đô thị (Sơ đồ 1-4). Trong đô thị Việt Nam, đặc biệt là các đô thị lớn như Tp. Hồ Chí Minh, vai trò chức năng không gian đô thị của tuyến phố (bao gồm không gian thương mại dịch vụ) đóng vai trò rất lớn. Các khái niệm liên quan đến tuyến phố TMDV được sử dụng trong luận án : - Loại hình TMDV nhỏ: Là các loại hình TMDV có quy mô nhỏ, thường do tư nhân sở hữu và quản lý. - Loại hình TMDV lớn: Là các loại hình TMDV có quy mô lớn, thường do nhà nước, tập đoàn sở hữu và quản lý. - Công trình TMDV nhỏ: Là các công trình TMDV có quy mô nhỏ, thường do tư nhân sở hữu và quản lý. - Công trình TMDV lớn: Là các công trình TMDV có quy mô lớn, thường do nhà nước, tập đoàn sở hữu và quản lý - Công trình buôn bán phụ: Là các công trình TMDV nhỏ nằm cùng chung khu đất với công trình TMDV lớn nhưng riêng rẽ và kế cận với công trình lớn. - Tuyến phố TMDV thấp tầng: Là tuyến phố TMDV có các công trình có chiều cao hầu hết thấp tầng. Theo “Tiêu chuẩn thiết kế nhà cao tầng” (TCXDVN 323 - 2004) có quy định nhà cao tầng là từ 9 đến 40 tầng. Như vậy, nhà thấp tầng là từ 1 đến 8 tầng [2]. - Tuyến phố TMDV hỗn hợp tầng cao: Là tuyến phố TMDV có các công trình có chiều cao bao gồm cả cao tầng và thấp tầng (từ 1 đến 40 tầng). - Tuyến phố TMDV liên kế: Là tuyến phố TMDV có các công trình hầu hết theo dạng nhà phố liên kế. Theo “Tiêu chuẩn thiết kế nhà liên kế (TCXDVN - 2008), có định nghĩa “Nhà liên kế là loại nhà ở riêng, gồm các căn hộ được xây dựng liền nhau, thông nhiều tầng được xây dựng sát nhau thành dãy trong những lô đất nằm liền nhau và có chiều rộng nhỏ hơn nhiều lần so với chiều sâu của nhà, cùng sử
  16. 16 dụng chung một hệ thống hạ tầng của khu vực đô thị”. Còn nhà phố liên kế thì được định nghĩa “Là loại nhà liên kế, được xây dựng ở các trục đường phố, khu vực thương mại dịch vụ theo quy định đã được duyệt. Nhà phố liên kế ngoài chức năng để ở còn sử dụng làm cửa hàng buôn bán, dịch vụ văn phòng, nhà trọ, khách sạn, cơ sở sản xuất nhỏ…” [2] - Tuyến phố TMDV kiến trúc bản điạ: Là tuyến phố TMDV có các công trình hầu hết theo phong cách kiến trúc địa phương của Tp.HCM. Phong cách kiến trúc này hiện nay có nhiều loại khác nhau như sau: + Phong cách kiến trúc phục cổ, nhái cổ: sử dụng các thức cột cổ điển Châu Âu, hoa văn trang trí, mái vòm, ban công cong… + Phong cách kiến trúc hiện đại: Tạo khối và sử dụng sự tương phản hình khối, đặc rỗng, sử dụng vật liệu hiện đại như kính và cửa nhôm, điều hòa nhân tạo… + Phong cách hậu hiện đại: Tập trung vào hình khối, có một số mô típ điển hình của kiến trúc truyền thống, tạo mối liên hệ không gian trong - ngoài…[9] - Tuyến phố TMDV kiến trúc phương Tây: Là tuyến phố TMDV có các không gian và công trình hầu hết xây dựng từ thời Pháp và Mỹ, với một số đặc điểm sau: Trục đường thẳng và có công trình làm điểm nhấn ở cuối trục; Vỉa hè rộng, nhiều cây xanh và không gian mở; Nút giao thông có hình thái rõ ràng; Công trình kiểu Pháp có các thức cột cổ điển, hoa văn trang trí, mái vòm, ban công cong, terrace…; Công trình kiểu Mỹ có đường nét đơn giản, đề cao tính thích dụng, sử dụng các vật liệu hiện đại như kính, sắt thép…[4] - Tuyến phố TMDV kiến trúc người Hoa: Là tuyến phố TMDV có các không gian và công trình hầu hết xây dựng theo kiểu kiến trúc của người Hoa và sử dụng bởi người Hoa, với một số đặc điểm sau: Các tuyến phố thường có một số ngôi chùa, trường học của người Hoa nằm cạnh nhau với nét kiến trúc Trung Quốc. Hầu hết các nhà có dạng hình ống (3m~4m x 15m~20m), cao từ 2-4 tầng. Tầng 1 dành để buôn bán, các tầng trên để ở. Hầu hết các nhà ở đây đều có cửa sau thông với nhau, để tiện hỗ trợ trong việc cung cấp hàng hóa cho khách. Tầng 2 thường có ban công
  17. 17 chạy dọc suốt chiều ngang nhà. Mái lợp ngói ống và có các conson đỡ mái bằng gỗ hoặc bê tông giống nhau trên suốt dãy phố [13] * Khái niệm cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ Là tổ hợp các yếu tố vật lý của không gian tuyến phố TMDV (bao gồm cả không gian hình khối và không gian hoạt động) được cảm nhận và đánh giá thông qua đối tượng cảm thụ tại đó.Các yếu tố vật lý trong cảnh quan tuyến phố TMDV bao gồm yếu tố không gian hình khối và yếu tố hoạt động của con người. - Yếu tố không gian hình khối: bao gồm các yếu tố địa hình, cây xanh, mặt nước, không gian trống, kiến trúc. - Yếu tố không gian hoạt động: bao gồm các không gian hoạt động kinh tế, hoạt động văn hóa xã hội, hoạt động giao thông. (Sơ đồ 1-5) 1.1.2.3. Khái niệm thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ Thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố TMDV là hoạt động thiết kế với mục đích đảm bảo sự duy trì và phát triển đa dạng các yếu tố vật lý cấu thành cảnh quan, bao gồm Yếu tố không gian hình khối và Yếu tố không gian hoạt động ( Mục 1.1.2.2). Tương tự như các xu hướng thiết kế khác, thiết kế đa dạng cũng tuân theo một số tiêu chí được thiết lập dựa trên các cơ sở lý luận và thực tiễn phù hợp với khu vực thiết kế. Ví dụ như tiêu chí thiết kế đa dạng của Jane Jacobs đưa ra là pha trộn sử dụng, pha trộn lứa tuổi, khối ngắn, mật độ; hay như tiêu chí thiết kế đa dạng của Emily Talen áp dụng cho khu dân cư ở Chicago, Mỹ là kết hợp, kết nối, an toàn. Việc đưa ra các thiết kế tích cực có thể thay đổi hành vi của người dân, như khuyến khích việc sử dụng các không gian mở công cộng, khuyến khích các sinh hoạt cộng đồng…
  18. 18 1.2. Tổng quan về thiết kế đa dạng cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ khu trung tâm đô thị 1.2.1. Tổng quan về các nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn nghiên cứu về đề tài cùng thể loại 1.2.1.1. Nghiên cứu trong nước Tại Việt Nam có rất ít nghiên cứu đề cập đến vấn đề thiết kế đa dạng cũng như về cảnh quan tuyến phố thương mại dịch vụ. Các nghiên cứu về cảnh quan hiện nay chủ yếu xoay quanh những nội dung về lý thuyết kiến trúc cảnh quan, tổ chức cảnh quan vườn, công viên hoặc các khu ở… Các nghiên cứu mang tính lý thuyết tiêu biểu nhất là các nghiên cứu của Ts.Kts Hàn Tất Ngạn (Kiến trúc cảnh quan đô thị, Hàn Tất Ngạn, Nxb xây dựng, 1996). Bên cạnh đó là các nghiên cứu mang tính chuyên sâu như phương pháp thiết kế vườn - công viên (Bố cục vườn - công viên, Viện quy hoạch đô thị và nông thôn, Nxb xây dựng, 1980); Các loại hình kiến trúc phong cảnh (Kiến trúc phong cảnh, Nguyễn Thị Thanh Thủy, Nxb KHKT, 1996); Phương pháp thiết kế kiến trúc cảnh quan trong khu ở (Thiết kế kiến trúc cảnh quan khu ở, Ts.Kts Đàm Thu Trang, Nxb xây dựng, 2006). Ngoài ra, còn có các nghiên cứu liên quan đề cập đến vấn đề tổ chức không gian đô thị, đặc biệt là các khu thương mại dịch vụ, xoay quanh những nội dung về tổ chức không gian trong quy hoạch cải tạo và phát triển trung tâm thương mại dịch vụ công cộng tại các đô thị lớn (“Tổ chức không gian quy hoạch - kiến trúc trung tâm thương mại dịch vụ tại thành phố Hồ Chí Minh”, Ts.Kts. Nguyễn Thanh Hà, 2005; “ trưng và xu hướng phát triển tuyến phố thương mại dịch vụ khu trung tâm cũ Tp.HCM”, Ths.Kts. Nguyễn Thị Bích Ngọc, 2005). 1.2.1.2. Nghiên cứu nước ngoài Hiện nay trên thế giới cũng chưa có nhiều nghiên cứu về thiết kế đa dạng cảnh quan, tuy vậy các nghiên cứu về vấn đề này cũng đưa ra được một số lý luận sắc bén và phương pháp nghiên cứu khoa học, rõ ràng, có tính ứng dụng cao. Nghiên cứu đầu tiên đề cập đến khái niệm đa dạng trong đô thị là của nhà nghiên cứu và cũng là nhà hoạt động xã hội Jane Jacobs, đó là “Cái chết và cuộc
  19. 19 sống của các thành phố Mỹ” (The Death and Life of Great American Cities,1961). Nghiên cứu của Jacobs được thực hiện bằng cách phân tích các quận trung tâm và các khu vực lân cận. Quận Greenwich Village, New York được dùng làm bối cảnh nghiên cứu vì nó là nơi bà sinh sống và nó hỗ trợ cho ý tưởng của bà. Nghiên cứu chỉ trích ý tưởng về các thành phố được thiết kế nên bởi những tư tưởng cứng nhắc, chẳng hạn như của Le Corbusier và Ebenezer Howard, vì những gì đô thị đang có là một hệ thống hữu cơ phức tạp chứ không phải một cỗ máy cứng nhắc. Jane Jacobs đã làm rõ các kết nối cơ bản giữa địa điểm và đa dạng. Bà cho rằng sự đa dạng tương ứng với hình thái vật chất và các mô hình duy trì sự tương tác của con người - các mối quan hệ và mô hình của các mối quan hệ. Bà đưa ra bốn điều kiện đa dạng của một khu vực là: pha trộn sử dụng, pha trộn lứa tuổi, khối ngắn, mật độ (mixed primary uses, mixed ages, short blocks, concentration). Nghiên cứu cũng đề cập đến khái niệm “Mắt trên đường phố” (Eyes on the street) và cho đó là yếu tố thiết kế có thể làm tăng khả năng an toàn cho không gian đường phố. Một nghiên cứu đáng chú ý khác cũng đề cập đến vấn đề phát triển đa dạng là nghiên cứu “Thích ứng môi trường” ( Responsive Environments, 1998) của Ian Benley. Nghiên cứu đề ra các tiêu chí thiết kế thích ứng môi trường như tiêu chí của chất lượng hình thái cư trú là đạt được các yêu cầu của Sự thông suốt - Sức sống - Tính đa dạng - Tính rõ ràng. Ngòai ra nghiên cứu còn đưa ra các gợi ý thiết kế nhằm đạt được các tiêu chí trên trong từng lĩnh vực của thiết kế môi trường đô thị, trong đó có cảnh quan. Nếu ở phương Tây người ta bắt đầu xem xét đến khái niệm phát triển đa dạng như một hướng đi mới, thì ở một số quốc gia phương Đông như Nhật Bản điều này đã được thực thi một cách tự nhiên do sự hòa hợp của tính đa dạng với triết lý sống của người Á Đông. Trong nghiên cứu “Mỹ học đô thị Tokyo: Hỗn loạn và trật tự” (The Aesthetics of Tokyo: Chaos and Order, 1998), Yoshinobu Ashihara đã miêu tả và phân tích cảnh quan đô thị Tokyo với những đặc trưng đa dạng được hình thành một cách hết sức tự nhiên. Theo ông, cảnh quan đô thị Nhật Bản, với những con phố ngoằn ngoèo viền hai bên là những công trình không đồng nhất, không giống như cảnh quan đô thị của bất cứ quốc gia nào khác và hé lộ một quan điểm độc đáo
  20. 20 của người Nhật về không gian. Tùy theo hình dạng khu đất, một công trình sẽ phải cao hay thấp, hình cong hoặc thẳng cạnh. Chúng không tuân theo những quy luật của màu sắc, vật liệu hay việc hoàn thiện mặt tiền. Mỗi công trình lại có một đặc trưng riêng, do mỗi công trình tự khẳng định mình, nhưng khi khảo sát quanh phạm vi chúng được xây dựng, người ta phát hiện ra sự đa dạng này là kết quả của sự kết hợp ngẫu nhiên giữa sự ưa thích và theo đuổi của một tiểu thuyết, hay sự hội tụ giữa tham vọng thương mại của khách hàng và sự ham muốn tự khẳng định mình của người kiến trúc sư. Yoshinobu Ashihara cho rằng các công trình kiến trúc và đô thị Nhật Bản được quan niệm rất giống các cơ thể sinh vật và hiển nhiên là phải trải qua quá trình chuyển hóa vật chất. Các đô thị Nhật Bản có thể được gọi là “đô thị amip”, thải bỏ những gì không còn được sử dụng và bổ sung những gì nó cần. Các thành phố Châu Âu như Paris và Rome có cảnh quan xinh đẹp nhưng không thay đổi. Các thành phố Nhật, mặt khác, lại luôn được đổi mới, và thậm chí ngay người Nhật cũng ngạc nhiên bởi sự thay đổi không ngừng đó. Có lẽ thoạt tiên người ta không thấy có một trật tự nào đằng sau sự thay đổi đó, nhưng sau đó sẽ nhận thấy rằng có một “trật tự ẩn giấu” của sự biến đổi. Nếu hoàn toàn không có một trật tự nào tồn tại, các đô thị Nhật Bản có lẽ đã không thể tồn tại lâu đến thế. Điều này không có nghĩa là cái gì cũng chấp nhận được. Mỗi sự thay đổi ít nhất phải được sự chấp thuận của phần lớn cư dân. Đối với nước Nhật, chủ nghĩa thương mại phớt lờ những mối quan tâm của quy hoạch đô thị phải được bù đắp bởi sự phát triển của một văn hóa đô thị độc đáo (Sơ đồ 1-6). Sơ đồ 1-6. So sánh tiếp cận tổng thể và tiếp cận từng phần (Nguồn: Mỹ học đô thị Tokyo, Yoshinobu Ashihara, 1998)
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1