HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỒ THANH HỚN
VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN,
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
HÀ NỘI - 2018
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỒ THANH HỚN
VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN,
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS,TS. TRƯƠNG HỒ HẢI
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo
quy định.
Tác giả luận án
Hồ Thanh Hớn
MỤC LỤC
1
6 6 16
MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 1.1. Các công trình nghiên cứu của tác giả trong nước 1.2. Tình hình nghiên cứu của tác giả nước ngoài 1.3. Đánh giá chung các công trình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục
nghiên cứu của luận án
20
24
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG 2.1. Khái niệm về vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống
24 43
2.2. Nội dung vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị
văn hóa truyền thống
54
2.4. Nghiên cứu kinh nghiệm về việc phát huy vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống một số nước và giá trị tham khảo cho Việt Nam
62
71
Chương 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM 3.1. Vai trò của pháp luật trong thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về giữ
gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
71
3.2. Vai trò của pháp luật trong việc tạo lập cơ sở pháp lý cho các chủ thể giữ gìn,
phát huy giá trị văn hóa truyền thống
80
3.3. Vai trò của pháp luật trong bảo đảm hiệu quả đối với việc giữ gìn, phát huy giá trị
văn hóa truyền thống
95
3.4. Vai trò của pháp luật trong giáo dục nâng cao ý thức cho các chủ thể giữ gìn, phát
huy giá trị văn hóa truyền thống
107
3.5. Vai trò của pháp luật trong việc chuyển tải nội dung, bảo đảm thực hiện các cam kết
quốc tế liên quan đến giá trị văn hóa truyền thống mà Việt Nam là thành viên
111
3.6. Nguyên nhân những kết quả đạt được và những hạn chế về vai trò của pháp luật
trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở Việt Nam
115
124
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 4.1. Các quan điểm bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn
hóa truyền thống ở Việt Nam
124
4.2. Giải pháp bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống ở Việt Nam hiện nay
133 155
KẾT LUẬN DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
157 158 174
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc
dân tộc là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Chính sách này đòi hỏi phải có
bước đi thích hợp với sự tham gia của nhiều phương tiện và nhiều thiết chế khác nhau
như kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật, nhà nước, các tổ chức xã hội bằng những
phương thức và biện pháp khác nhau. Trong hệ thống các thiết chế thuộc kiến trúc
thượng tầng, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống (GTVHTT) tốt đẹp của dân tộc, nhằm bảo đảm thực hiện thành công
các mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa. Để phát huy được vai trò đó, hệ thống
pháp luật phải đồng bộ, hoàn chỉnh. Từ đó pháp luật mới tạo lập được cơ sở pháp lý
vững chắc cho việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam vừa tiên tiến phù hợp các tiêu
chuẩn, chuẩn mực mới, hiện đại nhưng cũng vừa phát huy hết các giá trị văn hóa đặc
sắc vốn có nhằm đáp ứng yêu cầu giữ vững giá trị cốt lõi của dân tộc đồng thời tiếp thu
có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.
Hệ thống pháp luật Việt Nam bước đầu đã thể chế hóa các quan điểm của Đảng
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân
tộc; tạo được hành lang pháp lý cơ bản cho các hoạt động giữ gìn, phát huy GTVHTT
góp phần giáo dục nâng cao ý thức cho con người cũng như góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý nhà nước về văn hóa. Tuy nhiên, vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát
huy GTVHTT vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể, pháp luật chưa chưa kịp thời thể chế hóa
các quan điểm, chủ trương của Đảng về giữ gìn và phát huy các GTVHTT; chưa bảo
đảm hành lang pháp lý vững chắc cho các chủ thể trong các hoạt động giữ gìn, phát
huy giá trị ấy. Pháp luật chưa trở thành một công cụ bảo đảm hiệu quả đối với việc giữ
gìn, phát huy những giá trị ấy dẫn đến những hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu
quốc gia về văn hóa. Bên cạnh đó, pháp luật cũng chưa làm tốt vai trò giáo dục nâng
cao ý thức con người đối với việc giữ gìn, phát huy giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền
thống trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa, con người Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Từ đó đã ảnh hưởng tiêu cực đến chính sách xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc và không phát huy
được các GTVHTT trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội.
2
Trên thực tế, ở một số địa phương hiện nay, có tình trạng lễ hội văn hóa truyền
thống được tổ chức tràn lan, gây lãng phí về thời gian và kinh phí, mất trật từ an toàn
xã hội, gây bức xúc trong nhân dân, thậm chí, một số lễ hội bị thương mại hóa. Việc lợi
dụng các hoạt động văn hóa truyền thống nhằm trục lợi và đáp ứng các lợi ích cục bộ ở
các địa phương ngày càng phổ biến. Thực trạng này đòi hỏi cần tăng cường vai trò của
nhà nước trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm phát huy và bảo
đảm tính hiệu quả vai trò của pháp luật trong việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Cần
phải có lộ trình và bước đi thích hợp để phát huy vai trò của pháp luật trong việc điều tiết
các quan hệ xã hội bảo đảm cho các hoạt động văn hóa ngày càng lành mạnh, phát huy
tối đa các giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân
cư. Qua đó góp phần xây dựng xã hội văn hóa, văn minh, dân chủ và hiện đại.
Trên bình diện quốc tế, việc gia nhập cộng đồng kinh tế ASEAN và hội nhập
quốc tế ngày càng sâu hơn trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội đỏi hỏi pháp luật
về văn hóa trong điều kiện này phải tiên tiến, hiện đại bảo đảm sự tương thích với hệ
thống pháp luật các quốc gia khác, phù hợp với luật pháp quốc tế và nội dung của các
điều ước quốc tế có liên quan. Ngoài ra, pháp luật cũng phải bảo đảm giữ vững các giá
trị cốt lõi của văn hóa truyền thống đã làm nên cốt cách, bản sắc, tâm hồn người Việt
trong suốt chiều dài lịch sử mà trong quá trình phát triển cần phải giữ vững. Trong điều
kiện đó hệ thống pháp luật phải có vai trò chuyển tải nội dung, bảo đảm củng cố, thực
hiện các cam kết quốc tế về văn hóa mà Việt Nam tham gia.
Từ thực trạng và yêu cầu trên đây, nhiệm vụ nghiên cứu một cách có hệ thống
những vấn đề lý luận và thực tiễn vai trò của pháp luật về văn hóa nói chung và vai trò
của pháp luật trong giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nói riêng có tính
cấp thiết. Chính vì vậy, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Vai trò của pháp luật trong
giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở Việt Nam hiện nay” làm Luận án
tiến sĩ luật học, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Từ việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn vai trò pháp luật trong giữ gìn phát huy
GTVHTT, Luận án đề xuất quan điểm và các giải pháp bảo đảm phát huy vai trò của pháp luật
trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay.
3
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận án có các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan các công trình khoa học đã được công bố liên quan đến vai trò của
pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT, từ đó chỉ ra những vấn đề đã được nghiên
cứu và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy
GTVHTT ở Việt Nam. Cụ thể, phân tích làm rõ khái niệm, đặc trưng, nội dung, các
yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt
Nam; đồng thời, nghiên cứu kinh nghiệm về vai trò của pháp luật đối với giá trị truyền
thống một số quốc gia trên thế giới và rút ra giá trị tham khảo cho Việt Nam.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật để làm rõ những kết quả
đạt được, những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến thực trạng vai trò của pháp luật trong
giữ gìn, phát huy GTVHTT.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ
gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò
của pháp luật trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT ở Việt Nam dưới góc độ lý luận và
lịch sử nhà nước và pháp luật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Là đề tài thuộc chuyên ngành lý luận về nhà nước và pháp luật, nên việc nghiên
cứu không đi vào nghiên cứu vai trò của một ngành luật cụ thể, mà luận án chỉ tài tập
trung nghiên cứu trong phạm vi:
- Về nội dung: Thông qua nghiên cứu, phân tích hệ thống pháp luật thực định có
liên quan nhằm đánh giá vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt
Nam, bao gồm cả các quy định pháp luật cụ thể và kết quả thực thi các quy định đó đối
thực tiễn một số nội dung trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam.
- Về không gian: Để có dữ liệu phong phú và toàn diện, đề tài xác định phạm vi
nghiên cứu trên toàn quốc.
- Về thời gian: Luận án nghiên cứu thời gian từ năm 1986 đến nay.
4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Về cơ sở lý luận
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến nội dung đề tài. Hệ thống quan
điểm của Học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật nói
chung và lý luận về vai trò của pháp luật nói riêng, các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta hiện
nay về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, về hoàn thiện hệ thống pháp luật
cũng như các quan điểm về xây dựng và thực hiện pháp luật trong thời kỳ mới.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận án sử dụng phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, hệ thống; quy nạp, diễn dịch, cụ thể:
Ở Chương 1: Sử dụng phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, tổng hợp
các tài liệu, công trình nghiên cứu khoa học đã được công bố để khảo cứu các kết quả
liên quan đến đề tài; từ đó chỉ ra những vấn đề tiếp tục nghiên cứu của luận án.
Ở Chương 2: Sử dụng phương pháp pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp quy
nạp, diễn dịch để nghiên cứu, phân tích, luận giải các khái niệm, phạm trù có tính lý
luận về vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT.
Ở Chương 3: Sử dụng phương pháp khảo sát văn bản, thống kê, đối chiếu, so
sánh, luận án phân tích đánh giá thực trạng với những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của
thực trạng về vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay.
Ở Chương 4: Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp - diễn dịch để
luận giải và đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ
gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay.
5. Đóng góp mới trong của luận án
Luận án là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu tương đối toàn diện cả phương diện
lý luận lẫn thực tiễn về vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt
Nam nên có những đóng góp mới như sau:
- Luận giải, đưa ra được khái niệm và xác định được nội dung vai trò của pháp
luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam; đồng thời xác định được các yếu tố
ảnh hưởng đến vai trò đó của pháp luật.
- Luận án chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng
vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam.
5
- Luận án đề xuất được các quan điểm, giải pháp nhằm bảo đảm vai trò của
pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án đã luận chứng được sự tác động, ảnh hưởng của những khuôn khổ và
quy tắc pháp lý trong thực hiện các mục tiêu về giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt
Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học
+ Về mặt lý luận: Kết quả của luận án làm sáng tỏ thêm vấn đề lý luận về vai trò
của pháp luật nói chung, vai trò của pháp luật về giữ gìn, phát huy GTVHTT nói riêng
và làm phong phú thêm kho tàng lý luận chung về nhà nước và pháp luật.
+ Về mặt thực tiễn:
- Kết quả đề tài góp phần nâng cao nhận thức pháp luật cho các cơ quan, tổ chức
và cá nhân về việc giữ gìn, phát huy GTVHTT trong quá trình thực hiện các mục tiêu
về kinh tế xã hội.
- Kết quả của đề tài là tài liệu cung cấp luận cứ khoa học giúp các cơ quan và tổ
chức những cơ sở để hoạch định chủ trương, chính sách, pháp luật hợp lý nhằm xây
dựng nền văn hóa
- Đề tài có giá trị tham khảo trong công tác nghiên cứu, giảng dạy ở các đơn vị
đào tạo chuyên ngành liên quan và có giá trị tham khảo cho nhưng ai quan tâm đến lĩnh
vực này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận án được kết cấu làm 4 chương, 15 tiết.
6
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
Nghiên cứu các công trình khoa học đã được công bố cho thấy đến nay đã có
một số công trình nghiên cứu đề cập đến những nội dung liên quan đến đề tài luận án.
Những công trình đó được các tác giả trong nước và ngoài nước nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau và được đề cập đến những vấn đề sau:
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ TRONG NƯỚC
1.1.1. Nhóm công trình liên quan đến văn hóa truyền thống và giá trị văn
hóa truyền thống
- Công trình Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay của Phan
Huy Lê, Vũ Minh Giang [111]. Ở công trình này, nhiều vấn đề được các tác giả tập
trung nghiên cứu như truyền thống yêu nước, truyền thống dân chủ của Việt Nam, con
người Việt Nam ở thế kỷ XIX qua con mắt người nước ngoài; biểu hiện của giá trị
truyền thống Việt Nam qua ca dao, tục ngữ, qua tư liệu hương ước và sự biến đổi cấu
trúc cộng đồng làng quê Việt, trong đó đáng chú ý có bài nghiên cứu về con người Việt
Nam hiện tại trong mối liên hệ với các giá trị và phản giá trị của truyền thống. Trên cơ
sở số liệu do điều tra xã hội học cung cấp các tác giả đã đưa ra những nhận định của
mình về những vấn đề có liên quan đến con người Việt Nam hiện tại với các giá trị
truyền thống.
- Sách về giá trị văn hoá tinh thần Việt Nam của tập thể tác giả [149]. Trong
công trình này các tác giả khẳng định những tính cách dân tộc, những giá trị tinh thần
như lòng yêu nước, thương người là truyền thống vô cùng quý báu của con người Việt
Nam, dân tộc Việt Nam. Qua đó, đặt vấn đề phải kế thừa và phát huy những giá trị tinh
thần này trong việc xây dựng nền văn hoá Việt Nam.
- Trong cuốn Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam của Trần Văn
Giàu [70], tác giả đã đưa ra những kiến giải sâu sắc về các giá trị truyền thống đặc thù
của dân tộc Việt Nam và đã khái quát cơ bản về các khái niệm giá trị tinh thần truyền
thống của dân tộc, ảnh hưởng của lịch sử đối với việc phát triển các giá trị truyền
thống. Tác giả cũng đã tập trung phân tích các đức tính tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
7
bao gồm: yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa; các
phạm trù được trình bày một cách có hệ thống và khoa học với ý nghĩa giống như một
“bảng giá trị tinh thần” của người Việt. Đặc biệt, tác giả nhấn mạnh trong bảng giá trị
tinh thần, yêu nước là giá trị đầu tiên và quan trọng nhất, là thước đo tiêu chuẩn cho
mọi thước đo trong cuộc sống của con người.
- Sách Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ Sĩ Quý [30]. Trong
công trình này các tác giả đã đề cập mấy vấn đề về giá trị, giá trị truyền thống, giá trị
văn hóa truyền thống và sự chuyển biến của chúng sang hiện đại. Cuốn sách cũng đã đề
cập đến vấn đề khai thác, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống trong quá trình
phát triển đất nước hiện nay
- Sách Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa của
Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên [31]. Cuốn sách đề cập đến vai trò của giá
trị truyền thống trong sự phát triển văn hóa Việt Nam trong quá khứ, cũng như trong sự
phát triển nền văn hóa mới Việt Nam. Qua công trình này, các tác giả muốn đề cập đến
thách thức của toàn cầu hóa đối với việc giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống
của dân tộc. Trên cơ sở đánh giá thực trạng các giá trị truyền thống Việt Nam trước xu
thế toàn cầu hóa, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm giữ gìn, phát huy các giá trị truyền
thống Việt Nam.
- Sách Bản sắc văn hóa Việt Nam của Phan Ngọc [134]. Cuốn sách đã cung cấp
những khái niệm cơ bản của văn hóa học với những cách tiếp cận riêng của tác giả
trong nghiên cứu văn hóa. Qua việc khảo sát một số vấn đề cụ thể trong văn hóa Việt
Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp để bảo vệ văn hóa Việt Nam trong quá trình giao
lưu hội nhập cũng như cách phát huy văn hóa trong cuộc tiếp xúc văn hóa hiện nay.
- Sách Đại cương về văn hóa Việt Nam của Phạm Việt Thái, Đào Ngọc Tuấn
[152]. Cuốn sách này các tác giả tập trung tiến hành hệ thống hóa một số khái niệm và
phương pháp cơ bản của văn hóa học như làm rõ việc định vị và kết cấu văn hóa Việt
Nam, các yếu tố tinh thần của văn hóa. Các tác giả cũng đã xác đinh được thực trạng
văn hóa Việt Nam trong mối quan hệ tương tác với văn hóa bên ngoài trong bối cảnh
toàn cầu hóa.
- Tác giả Ngô Đức Thịnh có nhiều công trình về văn hóa và giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam, trong số đó tiêu biểu có quyển sách Những giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam [171]. Ở công trình này, tác giả xây dựng lý thuyết nghiên cứu
8
giá trị và hệ giá trị tổng quát văn hóa truyền thống Việt Nam và nghiên cứu các giá trị
văn hóa thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống dân tộc như trong thích
ứng, khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên; trong đời sống vật chất và tinh
thần của con người; trong giao lưu văn hóa; trong đấu tranh chống ngoại xâm. Còn
quyển Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và biến đổi [172], tác giả đã thống kê,
phân tích những giá trị văn hóa đặc trưng của dân tộc cũng như của mỗi vùng. Qua đó
khẳng định rằng, khi bước vào thời kỳ đổi mới, hội nhập và toàn cầu hóa, hệ GTVHTT
cũng có nhiều biến đổi để phù hợp với tình hình mới, nhưng dù ở bất cứ giai đoạn nào
của lịch thì các GTVHTT của dân tộc vẫn giữ nguyên vị trí đứng đầu trong quan niệm
của người dân, đó là tinh hoa của dân tộc.
- Tác giả Nguyễn Văn Dân có quyển sách Văn hóa và phát triển trong bối cảnh
toàn cầu hóa của [37]. Ở công trình này tác giả tập trung làm rõ một số vấn đề như
khái niệm về văn hóa; bản sắc văn hóa và bản sắc dân tộc; toàn cầu hóa văn hóa và đa
dạng văn hóa; toàn cầu hóa văn hóa và văn hóa toàn cầu; toàn cầu hóa và xung đột văn
hóa; vai trò của văn hóa trong đổi với phát triển bền vững, trong bối cảnh toàn cầu hóa
và một số vấn đề cơ sở văn hóa của phát triển bền vững.
1.1.2. Nhóm công trình liên quan đến giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống
- Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam- mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn của Thành Duy [44]. Ở công trình này tác giả khẳng định mối quan hệ
giữa bản sắc dân tộc với hiện đại hóa văn hóa Việt Nam là mối quan hệ biện chứng,
phát triển, nghĩa là hiện đại hóa chỉ có thể thành công nếu bản sắc dân tộc được coi
trọng như một động lực. Đồng thời khẳng định bản sắc dân tộc của văn hóa cũng
chỉ có thể được phát huy trong một đất nước được hiện đại hóa, do đó phát triển
kinh tế và văn hóa phải đồng bộ với nhau, chú trọng phát triển văn hóa làm nền tảng
tinh thần của xã hội.
- Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường
ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Duy Bắc [11]. Công trình này đã xây dựng được hệ
thống lý luận cơ bản về văn hóa, giá trị văn hóa và biến đổi giá trị văn hóa. Công trình
cũng đã chỉ ra thực trạng biến đổi các giá trị văn hóa, phát triển văn hóa ở nước ta trong
điều kiện hiện nay.
- Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong
đổi mới và hội nhập của Ngô Đức Thịnh [169]. Cuốn sách đề cập đến hệ giá trị tổng
9
quát truyền thống Việt Nam, ngoài nghiên cứu hệ giá trị tổng quát, cuốn sách còn phân
tích các giá trị văn hóa thể hiện trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội của
dân tộc. Tác giả đã lựa chọn ra năm giá trị hàng đầu và tiêu biểu của dân tộc Việt Nam
trong tổng số 19 giá trị văn hóa đã đưa ra để khảo sát, đó là: Chủ nghĩa yêu nước; tính
cộng đồng (làng xóm, vùng miền, dân tộc); cần cù, chịu khó; hiếu học, khát vọng học;
gắn bó huyết thống và làng bản. Bên cạnh đó, tác giả còn nhìn nhận vấn đề hệ giá trị
văn hóa một cách hệ thống và đặc biệt là đặt nó trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đã và
đang hội nhập với văn hóa khu vực và toàn nhân loại. Qua việc đánh giá thực trạng
biến đổi hệ giá trị văn hóa truyền thống hiện nay, tác giả đặt vấn đề bảo tồn, làm giàu
và phát huy GTVHTT trong đổi mới và hội nhập.
- Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay của
Phạm Thanh Hà [74]. Theo tác giả, giữ gìn bản sắc dân tộc không có nghĩa là giữ lại
tất cả những gì của quá khứ, mà phải giữ gìn một cách hợp lý, chúng ta phải chủ động
hội nhập trên cơ sở lựa chọn cái tốt đẹp của dân tộc mình và dân tộc khác, đồng thời
phải mạnh dạn vứt bỏ cái lạc hậu, cái không phù hợp. Do đó, đối với việc định hướng
và giải pháp nhằm giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay, tác giả nhấn mạnh muốn giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam thì việc giữ gìn phải
được thực hiện thường xuyên, đồng bộ và cần có sự quan tâm của mọi cấp, ngành,
địa phương.
- Các giá trị văn hóa Việt Nam- Từ truyền thống đến hiện đại của Đỗ Huy [92].
Cuốn sách nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về các chuẩn mực, các giá trị
văn hóa và lịch sử văn hóa Việt Nam trên góc nhìn giá trị học. Từ đó tác giả đặt vấn đề
kế thừa các giá trị văn hóa và định hướng xây dựng những giá trị của nền văn hóa mới
cũng như hướng phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam.
- Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay của Trần Ngọc
Thêm [162]. Sách là công trình tập hợp các bài viết tập trung làm rõ giá trị học và hệ
giá trị trong các nền văn hóa trong đó bàn về cơ sở lý luận cùng kinh nghiệm nghiên
cứu và xây dựng hệ giá trị ở nhiều quốc gia (Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Đức,..)
xác định hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và hệ giá trị Việt Nam trên
các bình diện, các vùng miền.
- Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con đường tới tương lai
của Trần Ngọc Thêm [163]. Cuốn sách được tác giả tập trung vào các khái niệm học
thuật, các phương pháp, công cụ lý thuyết về các giá trị văn hóa chung. Cuốn sách cũng
10
chỉ rõ phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam như: tính mực thước, lạc quan, vui vẻ,
yêu đời, lòng biết ơn, trọng thể diện, trọng nữ. Đồng thời cuốn sách cũng bàn về
"Những biến động của hệ giá trị Việt Nam truyền thống trong giai đoạn hiện đại", theo
đó trước những thay đổi nhanh chóng, mạnh mẽ của không gian, thời gian, bối cảnh xã
hội, tốc độ thay đổi của nền kinh tế... đã khiến cho nhiều tính cách "xấu xí" của người
Việt bộc lộ rõ rệt.
Ngoài ra, sách cũng nói về "Con đường đi đến hệ giá trị Việt Nam mới", đề cao
vai trò của văn hóa trong mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Theo đó, văn hóa dân
tộc được tác giả khẳng định chính là được hình thành nên từ văn hóa của mỗi cá nhân,
sau đó nới rộng ra gia đình, cộng đồng, xã hội; các yếu tố như chính trị, kinh tế, giáo
dục đều giữ vai trò trong việc nhào nặn, định hình nền văn hóa.
- Quản lý nhà nước và vai trò của cộng đồng trong bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể của tác giả Nguyễn Thị Hiền [79]. Công trình này tác giả khẳng
định để bảo vệ và phát huy giá trị kho tàng di sản văn hóa phi vật thể, việc nâng cao vai
trò chủ động, tích cực của cộng đồng cùng với vai trò định hướng, đề ra các chính sách
của nhà nước là hướng đi đúng, cần triển khai tốt trong thực tế. Tuy nhiên, định hướng
này chưa được thực hiện tốt trong thực tiễn. Các địa phương trong chỉ đạo, quản lý về
di sản văn hóa chưa thống nhất và còn chồng chéo. Qua đánh giá thực trạng quản lý
nhà nước và vai trò của cộng đồng trong bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật
thể thông qua một vài trường hợp nghiên cứu di sản văn hóa tiêu biểu, tác giả đề xuất
một số phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và vai trò của
cộng đồng trong bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam.
- Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc trong việc xây
dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay của Võ Văn Thắng [158]. Công trình này tác giả đã
làm rõ vai trò và phân tích, đánh giá thực trạng của việc kế thừa, phát huy các
GTVHTT của dân tộc trong xây dựng lối sống ở nước ta thời gian qua, đồng thời đề
xuất một số phương hướng và giải pháp kế thừa, phát huy tốt hơn các GTVHTT để xây
dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay.
- Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị truyền thống của dân tộc trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay của Mai Thị Quý [145]. Luận án được tác giả tập trung
làm rõ các vấn đề về giá trị truyền thống, đánh giá thực trạng các giá trị truyền thống và
khẳng định sự cần thiết phải kế thừa các giá trị truyền thống dân tộc trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay.
11
- Tác giả Huỳnh Thanh Quang với công trình luận án tiến sĩ triết học Phát huy
giá trị văn hóa khơmer vùng đồng bằng sông Cửu Long góp phần củng cố khối đại
đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay [140] đã tập trung phân tích làm sáng tỏ các
giá trị văn hóa khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long và việc phát huy các giá trị đó
trong việc củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Tác giả đã làm sáng tỏ những vấn đề đặt
ra hiện nay về việc phát huy các giá trị văn hóa khơmer ở vùng này, đồng thời đề xuất
các phương hướng và giải pháp nhằm phát huy các giá trị văn hóa khơmer trong việc
phát huy khối đại đoàn kết ở vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay.
- Kế thừa và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Gia- Rai ở tỉnh Gia
Lai trong môi trường văn hóa đương đại của tác giả Lê Văn Liêm [113]. Công trình
này tác giả đã làm rõ tầm quan trọng của vai trò kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống trong xây dựng môi trường văn hóa của dân tộc Gia- Rai ở tỉnh Gia Lai
trong điều kiện mới. Qua đó xác định nội dung, phương hướng giải pháp cơ bản bảo
đảm kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nhằm xây dựng đời sống văn
hóa tốt đẹp của dân tộc Gia- Rai trong môi trường văn hóa đương đại.
- Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ Việt
Nam hiện nay của tác giả Ngô Thị Thu Ngà [130]. Công trình tác giả đã đánh giá vai
trò của các giá trị đạo đức truyền thống và thực trạng phát huy các giá trị đạo đức
truyền thống trong việc xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ. Từ đó đề xuất các
phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt các giá trị đạo đức truyền thống trong
giai đoạn hiện nay.
- Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng nhân cách con người
Việt Nam hiện nay của tác giả Cao Thu Hằng [76]. Công trình này tác giả khẳng định
các giá trị đạo đức truyền thống có vai trò rất quan trọng trong việc hình thành nhân
cách con người Việt Nam, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Từ việc phân tích và luận
giải về giá trị đạo đức truyền thống cũng như nhân cách và tính tất yếu của việc kế thừa
các giá trị của đạo đức truyền thống, tác giả đưa ra các giải pháp trong việc xây dựng
nhân cách con người Việt Nam hiện nay sao cho hiệu quả hơn.
- Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc nước ta hiện nay của Hoàng Thị Hương [98].
Công trình này tác giả tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa phát
triển kinh tế với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta.
Qua việc đánh giá thực trạng mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với giữ gìn và phát
12
huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc, công trình đã đưa ra một
số phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở miền
núi phía Bắc.
- Di sản văn hóa người Việt ở thành phố Hồ Chí Minh và vấn đề bảo tồn, phát
huy trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Hồ Văn Tường [190]. Công trình
này tác giả trình bày khái quát về đất và người thành phố Hồ Chí Minh; đặc điểm di
sản văn hóa vật thể của người Việt tại thành phố Hồ Chí Minh qua các công trình kiến
trúc nghệ thuật tiêu biểu. Qua đó, tác giả đặt ra vấn đề bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa của người Việt ở thành phố Hồ Chí Minh qua các công trình nghệ thuật tiêu
biểu trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
- Phát triển bền vững với việc giữ gìn giá trị truyền thống các dân tộc thiểu số
bản địa tỉnh Đăk Nông trong giai đoạn hiện nay của Bùi Thi Hòa [86]. Tác giả luận án
đã tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và đánh giá trực tiễn của phát triển bền vững và
mối quan hệ giữa phát triển bền vững với việc giữ gìn giá trị truyền thống các dân tộc
thiểu số bản địa ở Đắk Nông. Qua đó, công trình luận chứng các phương hướng, giải
pháp giữ gìn các giá trị truyền thống các dân tộc thiểu số ở ĐăkNông đáp ứng yêu cầu
phát triển bền vững hiện nay trên địa bàn tỉnh.
- Công trình Hoạt động giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho sinh viên hiện
nay của tác giả Lê Cao Thắng [159] đã nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về giá
trị, GTVHTT của dân tộc và đánh giá thực trạng về giáo dục các GTVHTT cho sinh
viên trên địa bàn Hà Nội. Từ đó tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục GTVHTT cho thanh niên nhằm xây dựng đội ngũ thanh niên phát triển
toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Qua đó góp phần vào việc thực hiện
chiến lược con người, phát triển giáo dục- đào tạo, xây dựng nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến vai trò của pháp luật và
vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
1.1.3.1. Nhóm các công trình có liên quan đến vai trò của pháp luật
Tác giả Đào Trí Úc ở công trình Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật
[193] đã làm rõ tại sao phải hình thành lối sống theo pháp luật. Qua đó, công trình
khẳng định tầm quan trọng của pháp luật trong đời sống xã hội. Công trình đã gợi
mở những vấn đề về tăng cường vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội và đề
13
xuất các giải pháp xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật cho các tầng lớp nhân
dân trong cộng đồng dân cư.
- Đổi mới, hoàn thiện pháp luật trong phòng chống văn hóa độc hại và tệ nạn
xã hội ở nước ta hiện nay của Đỗ Văn Bích [12]. Công trình này tác giả làm rõ các
quan niệm về mối liên hệ giữa văn hóa độc hại và tệ nạn xã hội, đồng thời khẳng định
sự cần thiết dùng pháp luật để phòng chống văn hóa độc hại để góp phần giữ gìn và
nâng cao bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán
tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới làm giàu đẹp thêm nền
văn hóa Việt Nam. Từ đó công trình xác định vai trò, nội dung điều chỉnh bằng pháp
luật cũng như đề xuất phương hướng, giải pháp đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong
phòng, chống văn hóa độc hại và tệ nạn xã hội.
- Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về trật tự an toàn xã hội trong
hoạt động của lực lượng cảnh sát nhân dân ở nước ta hiện nay của tác giả Lê Thế
Tiệm [178]. Ở công trình này tác giả đã tập trung làm rõ những phạm trù cơ bản của
quản lý nhà nước bằng pháp luật về trật tự an toàn xã hội, về vai trò của pháp luật trong
quản lý nhà nước về trật tự an toàn xã hội nói chung và trong hoạt động của lực lượng
cảnh sát nhân dân. Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước về trật tự
an toàn xã hội, tác giả đề xuất những phương hướng và giải pháp tăng cường quản lý
nhà nước bằng pháp luật về trật tự an toàn xã hội trong hoạt động của lực lượng cảnh
sát nhân dân.
- Tăng cường đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội bằng pháp luật ở Việt Nam
hiện nay của Phan Đình Khánh [106]. Luận án này được tác giả tập trung nghiên cứu
cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội bằng pháp luật
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam. Tác giả tập trung làm rõ vai trò và
phương tiện của pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội. Từ đó khẳng
định pháp luật có vai trò quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội. Trên
cơ sở đó luận án đề xuất phương hướng và giải pháp tăng cường đấu tranh phòng,
chống tệ nạn xã hội bằng pháp luật ở Việt Nam.
- Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động bảo hiểm xã
hội ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Kim Thái [156]. Qua công trình này tác giả
khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước, do đó
cần phải tăng cường hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động bảo
hiểm xã hội ở Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá thực trạng về quản lý nhà nước đối với
14
bảo hiểm xã hội, luận án đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước
bằng pháp luật đối với bảo hiểm xã hội nhằm phát huy vai trò của pháp luật trong quản
lý nhà nước trong đó có quản lý hoạt động bảo hiểm xã hội.
1.1.3.2. Nhóm các công trình có liên quan đến vai trò của pháp luật trong các
lĩnh vực cụ thể
- Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội của tác giả Nguyễn Minh Đoan
[62]. Công trình này tác giả khẳng định pháp luật là công cụ điều chỉnh các mối quan
hệ xã hội và đời sống cộng đồng, là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang tính
khách quan vừa mang tính chủ quan. Từ khẳng định đó tác giả tập trung phân tích mối
liên hệ, vai trò, những tác động qua lại giữa pháp luật với nhà nước, với kinh tế, chính
trị, với đường lối, chính sách của Đảng, với dân chủ, đạo đức, tập tục, tôn giáo, với
điều lệ, văn kiện của tổ chức xã hội, với hương ước và với dư luận xã hội. Qua đó có
thể thấy rằng pháp luật không chỉ là công cụ quản lý xã hội cần thiết, mà còn rất quan
trọng và hiệu quả. Tuy vậy, qua công trình này tác giả cũng khẳng định pháp luật
không phải là chìa khóa vạn năng, nó có mối liên hệ mật thiết với các công cụ khác,
các lĩnh vực của đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, đạo đức, tập quán, tôn giáo… và
chỉ đạt được hiệu quả cao nhất khi có sự phối hợp nhịp nhàng, hỗ trợ giữa pháp luật với
các công cụ đó.
- Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách của tác giả
Nguyễn Đình Đặng Lục [118]. Tác giả đã nêu lên vai trò của nhà trường, xã hội và
gia đình trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của người chưa thành
niên. Qua đó khẳng định đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên có liên quan đến
ý thức pháp luật để từ đó rút ra những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác giáo
dục pháp luật đối với thế hệ công dân tương lai của đất nước. Từ kết quả nghiên cứu
trên, tác giả đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho
những người chưa thành niên với mục đích giúp người chưa thành niên có nhận thức
tốt, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, bạn bè, cộng đồng và xã hội; có được
kỹ năng sống, cách ứng xử có văn hóa để thành công trong cuộc sống và đóng góp
cho sự phát triển của xã hội.
- Vai trò của pháp luật trong cuộc đấu tranh chống lợi dụng nhân quyền bảo vệ
an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay của Nguyễn Quang Thiện [166]. Luận án đã được
tác giả xây dựng cơ sở lý luận nhằm phát huy vai trò của pháp luật trong cuộc đấu tranh
chống lợi dụng nhân quyền, bảo vệ an ninh quốc gia, chống diễn biến hòa bình của chủ
15
nghĩa đế quốc. Trên cơ sở đó, tác giả luận chứng đề xuất các phương hướng và giải
pháp hoàn thiện pháp luật trong đấu tranh lợi dụng nhân quyền nhằm bạo vệ an ninh
quốc gia ở nước ta.
- Tác giả Đỗ Ngọc Thịnh trong luận án Vai trò của pháp luật trong quá trình
chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường
[168] đã nghiên cứu một cách có hệ thống và tổng quát vai trò của pháp luật trong quá
trình chuyển đổi cơ chế kinh tế nước ta. Qua đó khẳng định vai trò của pháp luật đối
với sự phát triển kinh tế, đồng thời làm sáng tỏ nguyên nhân pháp luật mất vai trò hoặc
trở nên hình thức trong kinh tế kế hoạch hóa tập trung- bao cấp trước đây ở Việt Nam.
Trên cơ sở luận chứng về cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò cụ thể của pháp luật trong
nhiều lĩnh vực của nền kinh tế thị trường, tác giả đề xuất những kiến nghị về các
phương hướng hoàn thiện pháp luật trong việc tăng cường vai trò của pháp luật trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Tác giả Vũ Anh Tuấn trong luận án tiến sĩ luật học Vai trò của pháp luật trong
việc bảo đảm công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay [189] đã xây dựng cơ sở lý luận
và điều kiện để khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật trong việc đảm bảo công
bằng xã hội trong việc tiếp cận và hưởng thụ những thành quả của quá trình phát triển,
đó là mục tiêu mà trong quá trình quản lý nhà nước luôn hướng tới. Qua việc đánh giá
thực trạng pháp luật về vấn đề bảo đảm công bằng xã hội ở Việt Nam, tác giả đề xuất
các giải pháp nhằm tăng cường vai trò của pháp luật trong việc bản đảm công bằng xã
hội ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án tiến sĩ luật học Vai trò của pháp luật đối với sự phát triển bền vững ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay của tác giả Võ Hãi Long [115] đã xây dựng những
luận cứ khoa học và thực tiễn, tìm kiếm giải pháp hữu ích cho việc phát huy vai trò của
pháp luật đối với sự phát triển bền vững ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
- Vai trò của pháp luật trong việc xây dựng đạo đức cho cán bộ lãnh đạo chính
trị ở Việt Nam hiện nay của Nguyễn Thị Thu Hường [100] được tác giả nghiên cứu
dưới góc độ triết học những vấn đề lý luận chung về vai trò của pháp luật trong việc
xây dựng đạo đức cho người cán bộ lãnh đạo chính trị. Qua việc đánh giá thực trạng
đạo đức cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay, luận án đã luận chứng các quan điểm và
một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tốt vai trò của pháp luật trong việc xây dựng
đạo đức cho người cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam hiện nay.
16
- Các bài viết liên quan đến vai trò của pháp luật như: Vai trò của pháp luật
trong việc tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ, công chức ở nước ta của tác giả Nguyễn
Quốc Hiệp, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 02 năm 2007; Vai trò của pháp luật đối
với việc hình thành và phát triển ý thức đạo đức ở nước ta hiện nay của tác giả Lê Thị
Tuyết Ba, tạp chí triết học số 10 năm 2006; Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của pháp
luật trong việc bảo vệ con người của tác giả Tống Đức Thảo, tạp chí Cộng sản, số 02
năm 2005; Vai trò của pháp luật quản lí chất thải nguy hiểm ở Việt Nam của tác giả Vũ
Thị Duyên Thuỷ, tạp chí luật học, số 03 năm 2009; Bàn về khái niệm, vị trí, vai trò của
pháp luật về đặc xá của tác giả Nguyễn Ngọc Anh, tạp chí tòa án nhân dân, số 13 năm
2007; Mấy ý kiến về hoạt động khuyến mại và Vai trò của pháp luật ở Việt Nam hiện
nay của tác giả Trần Dũng Hải, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 06 năm 2008; Vai trò
của pháp luật với vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay của tác giả
Lê Xuân Huy, tạp chí Lịch sử Đảng, số 11 năm 2007; Vai trò của pháp luật về đạo đức
Việt Nam của tác giả Lê Đinh Mùi, Niên giám khoa học 2011-2014 - Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh (tập 5)
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ NƯỚC NGOÀI
- Quyển sách Anthropological Perspectives on Intangible Cultural Heritage
[Cách tiếp cận nhân học tới di sản văn hóa phi vật thể] của tác giả Arizpe, Lourdes
[205]. Cuốn sách như là một cẩm nang liên quan đến khái niệm, quan điểm, nội dung,
tinh thần của Công ước 2003 của UNESCO về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể. Cuốn
sách cũng phân tích vai trò của nhà nước và cộng đồng xã hội trong việc nhận diện di sản
văn hóa phi vật thể và đề ra chính sách cùng bảo vệ, giữ gìn và phát triển giá trị di sản.
- Cuốn sách Indigenous Heritage and Intellectual Property: Genetic Resourcer,
Traditional Knowledge and Folklore [Di sản văn hóa bản địa và quyền sở hữu trí tuệ:
Nguồn lực phát sinh, trí thức truyền thống và văn hóa dân gian] [210], do Lewinskin
Von Silke làm chủ biên đã phân tích sâu về quyền của những tộc người bản địa, các
nguồn lực địa phương trong sáng tạo, duy trì các loại hình văn hóa truyền thống, trong
đó nhấn mạnh quyền của các dân tộc bản địa về di sản văn hóa còn được pháp luật của
các quốc gia bảo vệ.
- Blake, Janet có các công trình tiêu biểu như Commentary on the 2003
UNESCO Convention on the Safeguarding of the Intangible Cultural Heritage [Nhận
xét về Công ước 2003 của UNESCO về bảo vệ văn hóa phi vật thể] [206]. Công trình
này tác giả đã cung cấp một phần chung giới thiệu về Công ước 2003 và lịch sử phát
17
triển của nó, đồng thời tác giả cũng phân tích kỹ các điều khoản của Công ước xem
như là tư liệu quý giá giải thích về khái niệm, nội dung, quan điểm và tinh thần của
Công ước. Còn ở công trình Safeguarding Intangible Cultural Heritage- Challenges
and Approaches [Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể- Thách thức và cách tiếp cận]
[207], tác giả đã tập hợp các bài viết từ các ngành khoa học khác nhau như nhân học,
luật pháp, lịch sử và những ngành liên quan khác đến lĩnh vực di sản văn hóa phi vật
thể. Qua công trình này, tác giả muốn khẳng định việc bảo vệ di sản văn hóa là vấn đề
thu hút sự quan tâm của nhiều quốc gia, các nhà nghiên cứu cũng như những người
thực hành trên thế giới và cũng còn nhiều cách hiểu, quan niệm khác nhau. Do đó, theo
tác giả cần có sự quan tâm sâu sắc hơn và chia sẽ những ý tưởng, trải nghiệm để thực
sự có chính sách về bảo vệ giá trị di sản phù hợp và hiệu quả hơn.
- Heritage Management in Korea and Japan. The Politics of Antiquity and
identily [Quản lý di sản ở Hàn Quốc và Nhật Bản. Chính trị hóa về cổ tục và bản
sắc] của Hyung II Pai [209]. Ở công trình này, tác giả đã phân tích di sản văn hóa
phi vật thể như là tài sản quốc gia với các lăng mộ của triều đình, kiến trúc Phật
giáo, cung điện và kho tàng nghệ thuật ở Hàn Quốc và Nhật Bản đã thu hút các học
giả, nhà sưu tầm, những người bảo tồn và hàng triệu khách du lịch. Đó cũng là dấu
mốc mang tính biểu tượng của bản sắc văn hóa. Công trình đã chỉ ra nhiều vấn đề
về quản lý di sản, luật di sản và sự can thiệp, hỗ trợ của nhà nước vào lĩnh vực di
sản ở Hàn Quốc và Nhật Bản.
- Intangible Heritage [Di sản phi vật thể], của Smith, Laurajane, Natsuko
Akagawa [213]. Cuốn sách này đưa ra phân tích về các tác động và hậu quả của ý
tưởng “di sản phi vật thể” đối với các cuộc tranh luận chính trị và học thuật quốc tế về
ý nghĩa và bản chất của di sản văn hóa và các quy trình quản lý được phát triển để bảo
vệ nó. Công trình đã cung cấp dữ liệu theo nhiều cách khác nhau về di sản văn hóa phi
vật thể đã được xác định và quản lý trong cả bối cảnh quốc gia và quốc tế với mục đích
tạo thuận lợi cho cuộc tranh luận quốc tế về ý nghĩa, bản chất và giá trị của di sản văn
hóa phi vật thể.
- On Intangible Heritage Safeguarding Governance: An Asia- Pacific Context
[Quản trị bảo vệ di sản phi vật thể: Bối cảnh Châu Á- Thái Bình Dương] của Seong-
Yong Park [212]. Cuốn sách này bao gồm quản lý di sản văn hóa phi vật thể thông qua
bối cảnh châu Á - Thái Bình Dương, đề cập đến sự phát triển mang tính lịch sử của các
công cụ quốc tế hướng dẫn chính sách văn hóa phi vật thể. Đây là công trình quan
18
trọng trực tiếp hướng tới việc quản lý di sản văn hóa phi vật thể. Với việc xem xét
Công ước 2003 về bảo vệ sự phát triển của di sản văn hóa phi vật thể, công trình này
cung cấp một sự hiểu biết về lý do tại sao Công ước này phải ra đời, cách thức phát
triển và áp dụng nó trong các tình huống khác nhau cũng như việc cần có những
phương thức quản lý, bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể phù hợp với bối cảnh kinh tế, xã
hội, văn hóa, chính trị.
- Quyển sách Safeguarding Intangible Cultural Heritage [Bảo vệ di sản văn
hóa phi vật thể] do Stefano, Michelle L., Peter Davis, Gerard Corsane làm chủ biên
[214]. Cuốn sách này cung cấp một loạt các quan điểm quốc tế về những vấn đề di sản
văn hóa phi vật thể, khám phá cách tiếp cận toàn diện và tích hợp để bảo vệ văn hóa
phi vật thể. Các tác giả chứng minh rằng các phương pháp và thái độ thay thế thường
xuyên tồn tại ở cấp địa phương có thể là cách hiệu quả nhất để bảo vệ văn hóa phi vật
thể. Các quan điểm quản lý được thể hiện trong sách không chỉ từ phía nhà nước mà
còn từ những quyền lực tạo nên; và từ các nhà chuyên môn và những người thực hành.
Cuốn sách đề xuất một quan điểm trong quản lý di sản bao gồm nhiều quyền lực của cả
nhà nước, cộng đồng.
- Boswell, Rosabelle với công trình Challenges to Identifying and Managing
Intangible Cultural Heritage in Mauritius, Zanzibar and Seychelles [Thách thức nhận
diện và quản lý di sản văn hóa phi vật thể ở Mauritius, Zanzibar and Seychelles] [208].
Cuốn sách đã cung cấp một cuộc thảo luận sơ bộ về các yếu tố thách thức việc quản lý
di sản văn hóa phi vật thể trong các cộng đồng châu Phi của Zanzibar, Mauritius và
Seychelles. Tác giả cho rằng, quản lý di sản thiếu sự chỉ đạo, quan tâm của chính phủ
và không có sự đầu tư về nguồn lực, vật lực và tài lực thì di sản ít được trao truyền và
phát huy hiệu quả. Từ đó kết luận rằng cần có nhiều nguồn tài trợ và sự chú ý hơn cho
việc quản lý di sản ở châu Phi và cộng đồng người di cư của nó. Vì rằng, nếu không có
sự quan tâm của chính phủ kịp thời cũng như việc khuyến khích cộng đồng thực hành
di sản thì di sản sẽ bị kiệt quệ và khó có thể khôi phục lại được.
- Lewis, J, với công trình Designing a Cultural Polity [Phác thảo về chính sách
văn hóa] [211], đã đưa ra định hướng chung về chính sách văn hóa và sự phát huy
quyền lực nhà nước trong quản lý di sản văn hóa. Đồng thời, làm rõ vai trò của người
dân trong việc tham gia vào việc hoạch định và trực tiếp thực hiện các chính sách.
- Đánh giá về Công ước 2003 ở Hàn Quốc của Dawnhee Yim [36]. Ở công
trình này tác giả nhấn mạnh đến vai trò của nhà nước và yếu tố cộng đồng trong việc
19
bảo vệ và phát triển các giá trị văn hóa phi vật thể. Để thực hiện chương trình bảo tồn
di sản văn hóa phi vật thể, cơ sở pháp lý quan trọng vẫn là đạo Luật Bảo vệ di sản văn
hóa do Chính phủ Hàn Quốc thông qua năm 1962. Theo đó các cơ quan quản lý của
nhà nước về văn hóa như Ủy ban quản lý di sản văn hóa đóng vai trò quan trọng trong
thực hiện các chương trình này. Tác giả khẳng định ở Hàn Quốc, bất kỳ hình thức di
sản văn hóa phi vật thể nào được công nhận là di sản phi vật thể quốc gia, thì di sản
nhân văn sống phải truyền tải di sản phi vật thể đó cho thế hệ tương lai, bao gồm cả
hình thức và khuôn mẫu của nó phải được giữ gìn mà không có bất kỳ sự thay đổi nào;
người học không phải trả bất cứ khoản tiền cho việc đào tạo này. Còn các nghệ nhân
được nhà nước hỗ trợ các chế độ và lương bỗng hàng tháng. Hàn Quốc cũng quan tâm
đến việc phục hồi, xây dựng các làng văn hóa truyền thống, các nhà hát trình diễn
nhằm quảng bá hình ảnh đất nước thông qua di sản và thu hút khách du lịch.
- Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể và vấn đề quản lý ở Miến Điện của Sanwin
[147] khẳng định chính sách nhất quán của Chính phủ Myanmar luôn coi văn hóa có
giá trị to lớn trong việc giữ gìn truyền thống và tinh thần dân tộc. Do đó, người dân
Myanmar luôn được định hướng tới việc bảo tồn và quảng bá văn hóa Myanmar.
Chính phủ luôn chú trọng đến công tác giảng dạy và nghiên cứu các giá trị văn hóa phi
vật thể, hoạt động hợp tác quốc tế trong và ngoài khối Asean nhằm bảo đảm thực hiện
có hiệu quả các cam kết quốc tế theo Công ước 2003 về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật
thể được quan tâm và thúc đẩy mở rộng mạng lưới và trao đổi chuyên môn. Vai trò của
các tổ chức đoàn thể cũng được chú trọng như Hiệp hội nghệ sĩ và Nghệ nhân
Myanmar, Hội sân khấu Myanmar đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực văn hóa.
- Suy ngẫm về việc thực hiện Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ở
Mexico: 10 năm trải nghiệm và thử thách của Elady Quiroz [66]. Tác giả khẳng
định ở Mexico các cộng đồng có quyền tự trị để bảo vệ và phát huy môi trường
sống và toàn vẹn đất đai của mình. Họ cũng có một số luật đặc thù về các lĩnh vực
di sản văn hóa phi vật thể như Luật chung về phát triển xã hội, Luật về ngôn ngữ
của các dân tộc bản địa. Theo tác giả Sau khi Mexico phê chuẩn Công ước Bảo tồn
di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO, các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện
công ước này bắt đầu được quan tâm rộng rãi hơn cả trong các lĩnh vực học thuật và
thể chế trong môi trương văn hóa. Hiến pháp nước này xác định Công ước hay các
Điều ước quốc tế phù hợp với các điều khoản và mục tiêu của Hiến pháp do Tổng
thống và Thượng viện phê chuẩn, thì có tính chất của Luật tối cao. Từ nguyên tắc
20
Hiến pháp này cho thấy đó là một nghĩa vụ đối với chính phủ Mexico để thực hiện
các hành động cho phép thực hiện đầy đủ mọi quy tắc và nghĩa vụ được quy định
trong Công ước Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể.
- Khi cái vô hình gặp cái hữu hình: 10 năm thực hiện việc bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa phi vật thể: kinh nghiệm, bài học của Nigeria và định hướng toàn cầu
trong tương lai của Augustus B. Ajibola [5]. Tác giả cho rằng Nigeria có một kho tàng
di sản văn hóa phi vật thể vô cùng phong phú trên tất cả các lĩnh vực khác nhau như
truyền thống truyền miệng và các loại hình biểu hiện văn hóa, bao gồm ngôn ngữ như
là một phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể. Tác giả khẳng định Chính phủ
Nigeria xác định tầm quan trọng của mối quan hệ giữa văn hóa và phát triển, cụ thể di
sản văn hóa phi vật thể như là sự bảo đảm cho sự phát triển bền vững. Nhà nước đã cho
triển khai chương trình tư liệu hóa các di sản văn hóa phi vật thể và đã thiết lập một hệ
thống kho báu nhân văn sống.
1.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.3.1. Đánh giá chung
Một là, các công trình nghiên cứu về văn hóa truyền thống đều rất sâu sắc
nhưng được nghiên cứu dưới góc độ ngành khoa học khác không thuộc khoa học pháp
lý, nên mục đích, nhiệm vụ đặt ra và kết quả đạt được không đánh giá được thực trạng
pháp luật với tư cách là công cụ tạo lập cơ sở pháp lý cho các chủ thể và bảo đảm hiệu
quả giữ gìn, phát huy các GTVHTT ở Việt Nam.
Các khái niệm về văn hóa, giá trị, GTVHTT, bản sắc văn hóa được các tác giả
nhìn nhận hết sức đa dạng với nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các khái niệm này
được xem là những cứ liệu quan trọng qua đó giúp tác giả luận án xác định các khái
niệm công cụ có liên quan đến những vấn đề lý luận GTVHTT dưới góc độ lý luận
chung về pháp luật. Đồng thời các quan điểm, giải pháp về bảo tồn, giữ gìn và phát huy
các giá trị truyền thống của dân tộc là căn cứ quan trọng để thông qua đó luận án đề
xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy
GTVHTT ở Việt Nam hiện nay.
Hai là, các công trình nghiên cứu về vấn đề liên quan đến vai trò của pháp
luật trên một số lĩnh vực của đời sống xã hội, trong một số công trình các tác giả đã
tập trung, khai thác, làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn về những lĩnh vực cụ thể liên
quan đến pháp luật về văn hóa, cung cấp những thông tin có giá trị cho luận án để
21
thực hiện khảo cứu và đánh giá thực trạng về vai trò của pháp luật trong giữ gìn,
phát huy các GTVHTT. Một số kết quả nghiên cứu sẽ gợi mở, cung cấp thông tin,
sự kiện để tác giả luận án tham khảo làm luận cứ khoa học cho đề tài luận án. Tuy
nhiên, các công trình này không trực tiếp đề cập các vấn đề lý luận và thực tiễn về
vai trò của pháp luật đối với văn hóa và trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT ở
Việt Nam hiện nay.
Ba là, mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của pháp luật nhưng
vấn đề vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam chưa được
nghiên cứu một cách có chiều sâu dưới cấp độ là luận án tiến sĩ, đề tài cấp Bộ, cấp Nhà
nước hay sách chuyên khảo.
Bốn là, về lý luận và thực tiễn nêu trên mới chỉ đề cập đến những mặt, những vấn
đề cụ thể mà chưa nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ, có tính hệ thống trong tất cả
các đề tài, công trình đã công bố liên quan đến pháp luật về văn hóa. Không những chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc về vai trò của pháp luật trong
giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam mà còn chưa có một công trình nào đưa ra được
những giải pháp khả thi để bảo đảm nâng cao hiệu quả pháp luật với tư cách là công cụ
nhằm giữ gìn, phát huy tốt nhất GTVHTT ở Việt Nam.
Từ những đánh giá trên có thể kết luận rằng, trong luận án này ngoài nội dung
về văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống phải kế thừa các công trình nghiên cứu về
văn hóa dưới góc độ văn hóa, chính trị, triết học; những vấn đề lý luận về vai trò của
pháp luật nói chung có thể kế thừa một phần từ những công trình khác như các khái
niệm công cụ tiếp cận vấn đề dưới góc độ khoa học pháp lý; phương pháp đánh giá
thực trạng vai trò của pháp luật, thì những nội dung về cơ sở lý luận, thực trạng vai trò
của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam; các quan điểm, giải pháp
thể hiện sự đóng góp mới của đề tài cho vấn đề nghiên cứu.
Với nhận định như vậy, có thể khẳng định đề tài luận án “Vai trò của pháp luật
trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở Việt Nam hiện nay” hoàn toàn
mới, không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã công bố.
Để đạt được mục tiêu của luận án là nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về vai trò của
pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT dưới góc độ của chuyên ngành lý luận và
lịch sử về nhà nước và pháp luật, luận án kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu
của các công trình khoa học nêu trên và tiếp tục làm rõ một số vấn đề
22
1.3.2. Những vấn đề đặt ra đề tài cần tiếp tục nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đây đã gợi mở, cung cấp thông tin,
phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận vấn đề trong nhiều nội dung của luận án. Tuy
nhiên, nhiều vấn đề liên quan đến vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy
GTVHTT chưa được nghiên cứu đầy đủ và toàn diện, có tính hệ thống. Do vậy, luận án
tiếp tục nghiên cứu những nội dung sau:
Về mặt lý luận: các vấn đề tiếp tục nghiên cứu, giải quyết gồm: xây dựng khái
niệm, phân tích đặc trưng, làm rõ mối quan hệ giữa pháp luật với văn hóa và các hiện
tượng khác; xây dựng cơ sở lý luận về nội dung vai trò của pháp luật trong giữ gìn và
phát huy GTVHTT; nghiên cứu có chọn lọc việc phát huy vai trò của pháp luật đối với
GTVHTT ở một số nước và chỉ ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, các vấn đề tiếp tục nghiên cứu, giải quyết gồm: phân tích,
đánh giá toàn diện, có hệ thống thực trạng vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy
các GTVHTT ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, luận án đề xuất các quan điểm và
các nhóm giải pháp đồng bộ nhằm bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát
huy các GTVHTT ở Việt Nam hiện nay.
1.3.3. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu của luận án
- Giả thuyết của luận án: Luận án luận chứng rõ cơ sở lý luận về vai trò của
pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay.
- Câu hỏi nghiên cứu của luận án:
+ GTVHTT có vai trò như thế nào trong tiến trình xây dựng và phát triển đất
nước? Làm thế nào để giữ gìn, phát huy GTVHTT?
+ Pháp luật có mối quan hệ với văn hóa và các hiện tượng khác như thế nào?
+ Làm thế nào để phát huy vai trò của pháp luật trong việc đặt ra và thực
hiện các mục tiêu về xây dựng và phát triển nền văn hóa? Pháp luật có vai trò thế
nào trong giữ gìn, phát huy GTVHTT?
+ Thực tiễn vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam
thời gian qua được thể hiện như thế nào? Nguyên nhân?
+ Làm gì để bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở
Việt Nam hiện nay?
23
Tiểu kết chương 1
Từ những kết quả nghiên cứu của các công trình trên cho thấy đến nay đã có
khá nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố liên quan đến đề tài luận án. Những
công trình này liên quan đến các nhóm vấn đề cơ bản sau:
Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến đến văn hóa chủ yếu đi sâu
vào các khái niệm về giá trị, GTVHTT được các tác giả nhìn nhận hết sức đa dạng
với nhiều góc độ khác nhau. Đồng thời, tác giả các công trình cũng đưa ra các quan
điểm, giải pháp về bảo tồn, giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống ở Việt Nam
hiện nay.
Liên quan đến vai trò của pháp luật, các tác giả đã nêu các công trình đều
nghiên cứu về vấn đề liên quan đến vai trò của pháp luật pháp luật nói chung. Trong
một số công trình các tác giả đã tập trung, khai thác, làm rõ vấn đề lý luận và thực tiễn
về những lĩnh vực cụ thể liên quan đến pháp luật về văn hóa, cung cấp những thông tin
có giá trị cho luận án để thực hiện khảo cứu và đánh giá thực trạng về vai trò của pháp
luật trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Một số kết quả nghiên cứu sẽ gợi mở, cung
cấp thông tin, sự kiện để ứng viên tham khảo làm luận cứ khoa học cho đề tài của
mình. Tuy nhiên, các công trình này không trực tiếp đề cập các vấn đề lý luận và thực
tiễn về vai trò của pháp luật đối với văn hóa và trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT
ở Việt Nam hiện nay.
Tóm lại, các công trình khoa học được đề cập có liên quan đến đề tài, ở mức độ
khác nhau đều liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. Tuy nhiên, cho đến nay
chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, có hệ thống vấn đề vai trò của pháp luật
trong giữ gìn, phát huy GTVHTT dưới góc độ lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
Mặc dù vậy các công trình khoa học đó là các tài liệu tham khảo có giá trị đối với việc
nghiên cứu, giải quyết mục đích và nhiệm vụ của luận án.
24
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN,
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
2.1. KHÁI NIỆM VỀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT
HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
2.1.1. Khái niệm giá trị văn hóa truyền thống và giữ gìn, phát huy giá trị
văn hóa truyền thống
2.1.1.1. Khái niệm văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống
Khái niệm văn hóa rất phức tạp và đa nghĩa, hiện nay đã có rất nhiều định nghĩa
khác nhau về văn hóa như: văn hóa là trình độ phát triển vật chất và tinh thần của loài
người; văn hóa là khái niệm có nội dung bao gồm khoa học, kỹ thuật, giáo dục, văn
học, nghệ thuật; văn hóa là khái niệm chỉ lối sống, nếp sống, đạo dức xã hội. Đã có rất
nhiều nhà Nhân học, Dân tộc học đã đưa ra vô số định nghĩa, mà cho đến nay cũng
chưa thể nào thống kê được. Có thể nói “văn hóa là cái mà khi nhắc đến, ai cũng có thể
hình dung ra được nó như thế nào nhưng lại không nói được chính xác nó là cái gì”
[37, tr.11], có lẽ trong khoa học xã hội và nhân văn chưa có khái niệm nào phức tạp
như là khái niệm văn hóa. Năm 1988, khi phát động thập kỷ thế giới phát triển văn hóa,
ông Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO khi ấy đã đưa ra một định nghĩa có thể
coi là định nghĩa của UNESCO cho văn hóa như sau: “Văn hóa phản ánh và thể hiện
một cách sống động mọi mặt của cuộc sống con người đã diễn ra trong quá khứ và
cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó cấu thành nên một hệ
thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng
định bản sắc riêng của mình” [37, tr.18].
Ở Việt Nam, theo từ điển tiếng Việt phổ thông của Viện ngôn ngữ học thì văn
hóa có năm nghĩa:
1. Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng
tạo ra trong quá trình lịch sử (ví dụ: kho tàng văn hóa dân tộc, văn hóa
phương đông, nền văn hóa cổ).
2. Những hoạt động của con người nhằm thỏa mãn nhu cầu đời sống tinh thần-
nói một cách tổng quát (ví dụ: phát triển văn hóa; công tác văn hóa, văn nghệ).
3. Tri thức kiến thức khoa học (ví dụ: Văn hóa học, trình độ văn hóa).
25
4. Trình độ cao trong sinh hoạt văn hóa xã hội, biểu hiện của văn minh (ví
dụ: Sống có văn hóa, ăn nói thiếu văn hóa).
5. Nền văn hóa của một thời kỳ lịch sử cổ xưa được xác định trên cơ sở một
tổng thể những di vật tìm thấy được có những đặc điểm giống nhau (ví dụ:
Văn hóa Đông Sơn) [197, tr.1014].
Ông cha ta trước đây hay dùng khái niệm “văn hiến”, bao gồm các ý nghĩa: Xây
dựng một quốc gia có điển chương chế độ, kỹ cương sách vở, văn chương nghệ thuật
với những anh hùng hào kiệt. Cùng với sự tiếp biến văn hóa, thuật ngữ “văn hóa” đã
dần xâm nhập vào đời sống xã hội và được rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa quan tâm.
Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi đã khẳng định: “Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn
xưng nền văn hiến đã lâu”, học giả Đào Duy Anh trong cuốn “Việt Nam văn hóa sử
cương” thì cho rằng văn hóa là chung cho tất cả các phương tiện sinh hoạt của loài
người cho nên nói tới cách sinh hoạt của con người tức là văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng quan niệm văn hóa theo các quan điểm trên. Trong mục đọc sách ở phần
cuối tập Nhật ký trong tù (1942- 1943), lần đầu tiên Hồ Chí Minh có nêu ra một định
nghĩa về văn hóa như sau:
Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và
các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với
biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn [124, tr.431]
Quan niệm trên về văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ thống kê các
yếu tố cơ bản của đời sống tinh thần của con người, mà còn làm rõ bản chất, chức năng
của văn hóa. Người đã coi văn hóa là đời sống tinh thần, là thuộc về kiến trúc thượng
tầng, để có sự phân biệt tương đối với các mặt khác của đời sống xã hội; văn hóa phải
đi tiên phong trong mọi nhiệm vụ bảo vệ và kiến thiết đất nước. Do đó, tại Hội nghị
Văn hóa toàn quốc vào tháng 11 năm 1946 Người khẳng định văn hóa phải soi đường
cho quốc dân đi.
Theo Trần Ngọc Thêm thì khái niệm văn hoá bao giờ cũng có thể qui về hai
cách hiểu chính: Theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng.
26
Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng,
theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa
được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ
thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị
trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn
theo không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng
vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian,
văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn (văn hoá Hoà
Bình, văn hoá Đông Sơn…).
Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do
con người sáng tạo ra [164].
Vẫn theo ông thì tuy có nhiều quan điểm khác nhau về văn hóa với những
khuynh hướng khác nhau nhưng tựu trung lại các định nghĩa văn hoá đều chứa một nét
nghĩa chung là “con người”, đều thừa nhận và khẳng định mối liên hệ mật thiết giữa
văn hóa với con người. Văn hoá và con người là hai khái niệm không tách rời nhau,
con người xuất hiện từ lúc nào thì văn hoá xuất hiện từ lúc ấy, con người là chủ thể
sáng tạo ra văn hoá. Trong suốt lịch sử hình thành và phát triển của mình, con người
luôn sáng tạo không ngừng để làm nên các giá trị văn hoá. Theo ông thì văn hóa có tính
giá trị, do đó không phải cái gì do con người làm ra đều là văn hóa, mà chỉ có những gì
có giá trị mới thuộc về văn hoá.
Còn theo Tiến sĩ Trần Thị Minh ở công trình “Phát triển văn hóa với tư cách là
nền tảng tinh thần của xã hội”, tác giả cho rằng “Văn hóa là tổng thể các giá trị vật chất
và tinh thần do con người tạo ra nhằm mục đích phát triển bản thân con người và xã
hội” [13, tr.22].
Theo giáo trình Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng của Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (dùng cho hệ cử nhân chính trị) thì nói đến văn hóa là
“nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực, bản chất của con người nhằm
hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội” [87, tr.12]. Do đó, khái niệm văn hóa chứa
đựng bản chất nhân văn, nhân bản và cơ sở của mọi hoạt động văn hóa là hướng đến
cái chân, thiện, mỹ. Từ đó khẳng định: Văn hóa là hoạt động tinh thần hướng tới việc
sản xuất ra các giá trị chân, thiện, mỹ [87, tr.15].
Văn hóa là phương thức hoạt động của con người và sáng tạo là đặc điểm cơ
bản của văn hóa, nó trở thành lực đẩy kích thích xã hội phát triển và hình thành cùng
27
lúc khi con người tạo thành quần thể xã hội. Thường người ta chia văn hóa ra thành hai
lĩnh vực: Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, “sự phân chia này cũng là cần thiết để
có cái nhìn toàn diện hơn đối với các hoạt động và các sản phẩm văn hóa” [87, tr15].
Bên cạnh các sản phẩm tinh thần như các tác phẩm văn học - nghệ thuật, phong tục tập
quán, lối sống còn có các sản phẩm vật chất như các công trình kiến trúc, di tích lịch
sử… Tuy nhiên, sự phân chia đó cũng chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi “cái gọi là văn hóa
vật chất hay văn hóa vật thể thực ra là vật thể hóa các giá trị tinh thần” [87, tr.15]. Cho
nên, không có cái văn hóa thuần túy tinh thần nào mà lại không thấy qua một yếu tố vật
chất để tồn tại và biểu hiện được.
Nói chung văn hóa là một hiện tượng xã hội có phạm vi biểu hiện rất rộng.
Vì thế theo GS. Đặng Xuân Kỳ khi tìm hiểu về lĩnh vực này khẳng định từ trước tới
nay đã có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa, chung quy lại có ba cách hiểu
chính sau đây:
Thứ nhất, văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất- đó là toàn bộ những giá
trị vật chất và tinh thần do loài người sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu tồn tại
và phát triển của mình trong tiến trình đi lên của lịch sử. Văn hóa là đặc
trưng của toàn bộ cuộc sống của loài người. Xây dựng văn hóa là xây dựng
tất cả các mặt của đời sống xã hội và quan tâm đến trình độ phát triển của
con người.
Thứ hai, văn hóa được hiểu theo nghĩa hẹp - đó là những giá trị tinh thần, là
đời sống tinh thần của xã hội, như đạo đức, tín ngưỡng, tôn giáo, nghệ
thuật… Như vậy, văn hóa chỉ là một mặt, chứ không phải là toàn bộ đời
sống xã hội loài người.
Thứ ba, văn hóa còn được hiểu theo nghĩa hẹp nhất, thường dùng hàng ngày
- đó là trình độ học vấn của con người [109, tr155].
Từ các phân tích trên, có thể nói hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về
văn hóa. Các quan niệm đó được nghiên cứu bởi các ngành khoa học khác nhau nhưng
có điểm chung là đều khẳng định văn hóa có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, văn hóa bao hàm sự kết tinh của quá trình tiến hóa loài người. Tuy nhiên, trong
phạm vi luận án khái niệm văn hóa được hiểu “là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nhằm
thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của mình” [172, tr.18].
28
Ngày nay, chúng ta đang xây dựng đất nước với một hành trang văn hóa chủ
yếu do xã hội truyền thống để lại, xã hội ấy đã tích lũy được những giá trị văn hóa đạt
tới đỉnh cao của xã hội văn minh nông nghiệp cổ truyền. Song trong điều kiện khoa
học, công nghệ phát triển mạnh mẽ và đang đóng vai trò của lực lượng sản xuất trực
tiếp như hiện nay thì văn hóa càng đóng một vai trò quan trọng trong việc đón nhận và
sử dụng kịp thời những thành tựu khoa học công nghệ để xây dựng kinh tế, văn hóa
của đất nước trên nền tảng các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Văn hóa truyền thống theo GS.TS Ngô Đức Thịnh là từ gốc Hán- Việt, do vậy
nó chịu ảnh hưởng về quan niệm của người Trung Hoa. Ông lý giải rằng theo từ điển
bách khoa toàn thư Trung Hoa- Từ Hải thì “truyền thống là sức mạnh của tập quán xã
hội được lưu truyền lại từ lịch sử. Nó tồn tại ở các lĩnh vực chế độ (chế độ xã hội), tư
tưởng, văn hóa, đạo đức. Truyền thống có tác động khống chế vô hình đến hành vi xã
hội của con người. truyền thống là biểu hiện tính kế thừa của lịch sử” [170, tr.20].
Cũng theo ông thì từ điển bách khoa thư của Liên Xô cho rằng truyền thống đó là:
Những yếu tố của di tồn văn hóa, xã hội truyền thống từ đời này qua đời
khác và được lưu giữ trong các xã hội, giai cấp và nhóm xã hội trong quá
trình lâu dài, truyền thống được thể hiện trong chế định xã hội, chuẩn mực
và hành vi, các giá trị, tư tưởng, phong tục tập quán và lối sống… Truyền
thống tác động khống chế đến mọi xã hội và tất cả mọi lĩnh vực trong đời
sống xã hội [170, tr.20].
Nhưng không phải tất cả những gì thuộc về văn hóa truyền thống thì đều phải
giữ gìn, phát huy. Chỉ những yếu tố bền vững, có giá trị thúc đẩy quá trình phát triển thì
mới xem xét giữ gìn, phát huy nhằm tạo ra những động lực thúc đẩy thực hiện các mục
tiêu về kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII
khẳng định nền văn hóa chúng ta là nền văn hóa tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị
quyết không nói đến GTVHTT nhưng nói đến bản sắc dân tộc, theo đó bản sắc dân bao
hàm tất cả các yếu tố thuộc văn hóa truyền thống, đó là:
Những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, y chí tự cường dân tộc, tinh
thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ
29
quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù,
sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối
sống [59, tr.304].
Do vậy khi nói đến văn hóa là nói đến giá trị. Dưới góc độ văn hóa học “giá trị
cũng như tập quán, chuẩn mực, tri thức…đều là sản phẩm của quá trình tư duy, sản
xuất tinh thần của con người, nó là yếu tố cốt lõi nhất của văn hóa” [170, tr.21].
Hiện nay, thuật ngữ giá trị được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học
khác nhau như toán học, xã hội học, triết học, văn hóa học… và theo nhiều nghĩa rộng,
hẹp khác nhau. J. H. Fichter, một nhà xã hội học hiện đại Mỹ, đã đưa ra một định nghĩa
và chuẩn xác về giá trị: “Theo cách mô tả của chúng ta có thể nói rằng, tất cả những gì
có lợi ích, đáng ham chuộng hoặc đáng kính phục đối với con người hoặc nhóm, đều là
“có một giá trị” [172, tr.21]. GS,TS Nguyễn Văn Huyên thì cho rằng “giá trị là phạm
trù người- chỉ con người xã hội mới có cái gọi là giá trị” [96, tr.84].
Còn theo GS,TS Trần Ngọc Thêm khi nói đến GTVHTT là nói đến hệ thống,
thang, bảng giá trị của dân tộc. Tất nhiên, các thang, bảng giá trị này phải mang tính
trường tồn bền vững, nó phải là giá đỡ tinh thần nhìn về cội nguồn truyền thống hướng
đến tương lai phát triển tốt đẹp hơn. Truyền thống thì có cái tốt, cái xấu, nhưng khi
chúng ta nói “giá trị truyền thống” thì như GS Trần Văn Giàu khẳng định ở đây chỉ có
cái tốt mà thôi, bởi vì chỉ có cái gì tốt đẹp đều được gọi là giá trị. Thậm chí, ông cũng
nhắc nhở rằng: “không phải mỗi cái gì tốt đẹp thì mới được gọi là giá trị, mà phải là
những cái phổ biến, cơ bản, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức luân lý, có cả tác
dụng hướng dẫn sự nhận định và hướng dẫn sự hành động, thì mới được mang danh là
giá trị truyền thống” [69, tr.50]
Trong tác phẩm “giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam- truyền thống và biến
đổi” GS,TS Ngô Đức Thịnh cho rằng giá trị cũng như tập quán, chuẩn mực, tri
thức…đều là sản phẩm của quá trình tư duy, sáng tạo tinh thần của con người, nó là
yếu tố cốt lỗi nhất của văn hóa. Theo ông giá trị văn hóa là hình thái ý thức, của đời
sống tinh thần, tuy nhiên nó phản ánh và kết tinh những giá trị của cả đời sống vật chất
và đời sống văn hóa tinh thần của con người. Do vậy, với quan niệm này có thể khẳng
định GTVHTT là yếu tố cốt lỗi của văn hóa tinh thần. Ông cho rằng các nhà xã hội học
Việt Nam, trong quan niệm về giá trị đã khẳng định rõ hơn yếu tố chủ thể qua nhận
thức, tình cảm và hành vi của chủ thể.
30
Từ những nhận định trên ông đã đi đến kết luận về giá trị như sau:
Giá trị là hệ thống những đánh giá mang tính chủ quan của con người về bất
cứ một hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy theo hướng những cái đó là
cần, là tốt, là hay, là đẹp, nói theo cách các nhà triết học phương Tây một
thời, đó chính là những cái được con người cho là chân, thiện, mỹ, giúp
khẳng định và nâng cao bản chất người. Một khi những nhận thức giá trị ấy
đã hình thành và định hình thì nó chi phối cách suy nghĩ, niềm tin, hành vi,
tình cảm của con người [172, tr.22].
Theo ông nói đến giá trị thì có giá trị cá nhân và giá trị xã hội, từ đó ông lý giải:
Giá trị văn hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa, nó được sáng tạo và kết tinh
trong trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tương ứng với môi
trường tự nhiên và xã hội nhất định. Giá trị văn hóa hướng đến những nhu
cầu và khát vọng của cộng đồng về những điều tốt đẹp (chân, thiện, mỹ),
từ đó bồi đắp và nâng cao bản chất Người. Giá trị văn hóa luôn ẩn tàng
trong bản sắc văn hóa, di sản văn hóa, biểu tượng, chuẩn mực văn hóa.
Chính vì vậy mà văn hóa thông qua hệ giá trị của nó góp phần điều tiết sự
phát triển xã hội [172, tr.23]
Khi nói đến truyền thống là nói đến “những truyền thống đã được thừa nhận,
đánh giá, thẩm định nghiêm ngặt của thời gian, nó được lựa chọn, thừa nhận của cộng
đồng qua những giai đoạn lịch sử” [158, tr.21]. Như vậy, giá trị truyền thống là những
cái tốt đẹp, có vai trò tích cực trong hiện tại, do đó khi nói đến GTVHTT là “nói đến
những giá trị tốt đẹp tiêu biểu cho một nền văn hóa được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Cho nên nói đến GTVHTT cũng là nói đến những giá trị văn hóa
được hình thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước của mỗi dân tộc,
nó có tính di truyền xã hội” [158, tr.22].
Trên cơ cở phân tích các tài liệu có liên quan trên, có thể khẳng định rằng khi
nói đến GTVHTT Việt Nam là nói đến hệ giá trị tốt đẹp đã được hun đúc trong suốt
chiều dài lịch sử của dân tộc và hệ giá trị đó là:
(1) Lòng yêu nước
Đây là giá trị phổ quát xuyên suốt tạo nên bản sắc văn hóa người Việt trong suốt
chiều dài lịch sử của dân tộc. Theo GS Trần Văn Giàu thì “tình cảm và tư tưởng yêu
nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, của dân tộc Việt Nam” [69,
tr.100]. Yêu nước đó là từ tình yêu gia đình, dòng tộc, làng xóm đến tình yêu quê
31
hương, xứ sở, đất nước và được nâng lên thành một thứ chủ nghĩa- chủ nghĩa yêu
nước; trở thành “cái trục chính của ý thức hệ Việt Nam, nó sản sinh và tích hợp các giá
trị tiêu biểu của Việt Nam” [172, tr.76].
(2) Tinh thần đoàn kết dân tộc
Tinh thần đoàn kết dân tộc gắn liền với chủ nghĩa yêu nước trong quá trình đấu
tranh chống giặc ngoại xâm, đây là nét đặc sắc tạo nên sự gắn bó keo sơn của cộng
đồng các dân tộc Việt Nam qua các cuộc đấu tranh giữ nước và mỡ mang bờ cỏi, nó đã
trở thành chân lí, là truyền thống ngàn đời của dân tộc Việt Nam.
(3) Tính nhân đạo, khoan dung, yêu thương con người người
Được bắt nguồn từ lòng yêu nước, tính cộng đồng, đoàn kết dân tộc, từ đó được
kết tinh thành sự khoan dung độ lượng, yêu thương con người, yêu thương đồng loại.
Đó là giá trị đạo đức lớn, có nét đẹp riêng, hình thành nên hệ giá trị văn hoá đặc sắc
Việt Nam.
(4) Quan niệm về giá trị chân- thiện- mỹ Đó là tôn trọng lý lẽ, sự công bằng, bảo vệ lẽ phải, tôn trọng kỷ cương; các giá trị thuần phong mỹ tục của người Việt; giá trị về đạo đức, nhân cách, phẩm giá con người được đề cao.
(5) Các loại hình di sản văn hóa phi vật thể Các di sản về tiếng nói, chữ viết trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; các làng nghề truyền thống; phong tục, tập quán, lễ hội truyền thống; các loại hình văn hóa nghệ thuật truyền thống.
Từ những luận giải trên, có thể hiểu GTVHTT là những yếu tố tinh thần có giá trị bền vững, tốt đẹp tiêu biểu cho nền văn hóa của dân tộc, có tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử cũng như hiện tại có vai trò góp phần thúc đẩy đạt được các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội trong tương lai.
2.1.1.2. Khái niệm giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống Giữ gìn, phát huy GTVHTT là nội dung cốt lõi, yêu cầu bắt buộc trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa hiện nay, đồng thời phải luôn gắn chặt với
quá trình hội nhập, tiếp nhận các giá trị của văn hóa đương đại. Qua đó, sẽ thúc đẩy
thực hiện thành công các mục tiêu về xây dựng, phát triển nền văn hóa và làm giàu đẹp
thêm giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc.
Giữ gìn theo Từ điển Tiếng Việt đó là: “Giữ cho được nguyên vẹn, không bị
mất mát, tổn hại (nói khái quát); giữ được ý tứ, thận trọng và đúng mực, tránh sơ suất trong cử chỉ, nói năng” [197, tr.360].
32
Từ đó có thể khẳng định giữ gìn GTVHTT là việc lưu giữ lại, truyền lại, kế thừa
lại những yếu tố tích cực của văn hóa truyền thống để trở thành nền tảng, tiền đề cho
xây dựng và phát triển nền văn hóa mới tiên tiến, hiện đại. Như vậy, việc giữ gìn
GTVHTT ở đây không phải là quay về cái cũ, quá khứ mà là việc chắc lọc, có bổ sung
và phát triển các giá trị tích cực của văn hóa truyền thống, đồng thời loại bỏ các yếu tố
lạc hậu, lỗi thời không còn phù hợp.
Phát huy theo Từ điển Tiếng Việt là “làm cho cái hay, cái tốt tiếp tục có tác
dụng và nảy nở thêm” [197, tr.701].
Theo tiến sĩ Lê Văn Liêm: “phát huy không chỉ là việc bảo tồn mà còn là sự mở
rộng, bổ sung hoặc sự hoàn thiện và nâng cao về chất những đặc điểm, đặc tính vốn có
trong sự vật và hiện tượng dẫn đến một trạng thái mới về chất” [113, tr.16].
Phát huy GTVHTT là việc trên cơ sở những yếu tố tích cực được truyền lại, giữ
lại và các chủ thể liên quan phải nhân rộng, điển hình hóa, phổ biến nhằm thúc đẩy tạo
dựng các mối quan hệ tốt đẹp. Việc phát huy có tác dụng góp phần phát triển các mối
quan hệ kinh tế, xã hội tốt đẹp và bền vững hơn; đồng thời, thúc đẩy thực hiện thành
công các mục tiêu về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc
dân tộc.
Như vậy giữ gìn và phát huy là khái niệm bổ sung cho nhau, không thể tách rời
nhau, không thể chỉ giữ gìn mà không phát huy và ngược lại không thể phát huy nếu
không làm tốt việc giữ gìn. Do vậy, có thể khẳng định đây là cụm từ (giữ gìn, phát huy)
cần thiết phải sử dụng trong hoạt động liên quan đến việc thực hiện các mục tiêu xây
dựng nền văn hóa.
Từ các lý giải trên có thể khẳng định: Giữ gìn, phát huy GTVHTT là quá trình lưu
giữ, kế thừa, chọn lọc và phát triển các GTVHTT làm cho các giá trị đó ngày đặc sắc
hơn, hoàn thiện hơn đồng thời phát huy tính tích cực của văn hóa truyền thống trong quá
trình xây dựng và thực hiện các mục tiêu về văn hóa, kinh tế, xã hội.
Để giữ gìn các giá trị tốt đẹp đó cũng như phát huy tính tích cực của nó cần phải
có sự tham gia của nhiều thiết chế khác nhau trong hệ thống kiến trúc thượng tầng như
văn hóa, chính trị, pháp lý, đạo đức, tôn giáo, phong tục, tập quán....Trong hệ thống các
thiết chế đó, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện thành công
các mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa. Vì giữa pháp luật và văn hóa có mối
quan hệ chặt chẽ lẫn nhau, cho nên để sử dụng hiệu quả vai trò của pháp luật trong thực
hiện mục tiêu về giữ gìn, phát huy GTVHTT cần phải hiễu rõ mối quan hệ giữa pháp
33
luật với văn hóa với các hiện tượng khác để thấy được vị trí, vai trò, tầm quan trọng, sự
cần thiết bảo đảm vai trò của pháp luật đối với giá trị văn hóa truyền thống
2.1.2. Mối quan hệ giữa pháp luật với văn hóa và các hiện tượng khác
trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống
Pháp luật và văn hóa có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã
hội của mỗi quốc gia, là những công cụ nhà nước sử dụng nhằm đạt được các mục tiêu
đề ra trong quá trình thực hiện chức năng quản lý. Lý luận và thực tiễn đã chứng minh
pháp luật và văn hóa có mối quan hệ gắn bó, khăng khít và tương hỗ lẫn nhau. Thông
qua mối quan hệ giữa chúng sẽ tạo ra hệ thống giá trị văn hóa và pháp lý nhằm hướng
đến việc thúc đẩy và bảo đảm các mối quan hệ xã hội ngày càng tốt đẹp hơn. Giữa
pháp luật và văn hóa tác động qua lại, bổ sung cho nhau. Sự tác động đó được thể hiện
ở các khía cạnh sau:
Pháp luật và văn hóa đều là tổng hợp quy tắc, các chuẩn mực hành vi xử sự của
các chủ thể khác nhau khi tham gia vào các mối quan hệ xã hội cụ thể, việc khẳng định
giá trị các quy tắc, chuẩn mực trên được thực hiện trong từng giai đoạn khác nhau.
Những quy tắc, chuẩn mực của văn hóa mang tính tự nguyện xuất phát từ lương tâm,
trách nhiệm của con người đối với cộng đồng xã hội, ngoài phạm vi đã được chuẩn
mực hóa, nó còn tồn tại dưới nhiều dạng thức khác nhau. Do vậy nó sẽ hỗ trợ cho pháp
luật những vấn đề, những lĩnh vực mà pháp luật không thể hoặc chưa thể (vì các lý do
khác nhau) điều chỉnh. Về vấn đề này, các GTVHTT đóng vai trò quan trọng trong
việc bỗ khuyết những hạn chế của pháp luật đối với việc điều chỉnh hành vi con người
trong các quan hệ xã hội. Những quy tắc, chuẩn mực pháp luật thường mang tính phổ
cập và là những chuẩn mực tối thiểu cho mọi người phải thực hiện đồng thời nó được
bảo đảm bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà nước. Do đó, các GTVHTT một khi được
nhà nước thể chế hóa thành các quy tắc, chuẩn mực chung thì sẽ mang tính bắt buộc
đối với mọi chủ thể khác nhau trong xã hội có nghĩa vụ bảo vệ và phát huy. Sự tồn tại
giữa pháp luật và văn hóa là song song nhau, không phụ thuộc lẫn nhau mà cũng không
loại trừ nhau, trái lại còn hỗ trợ và bổ sung cho nhau phát huy hiệu quả hơn vì có cùng
một mục đích là làm cho các quan hệ xã hội trật tự hơn, tốt đẹp hơn và phát triển theo
những định hướng đã được xác lập. Vì vậy, không nên tuyệt đối hóa vai trò của pháp
luật hoặc bỏ qua hay đánh giá thấp các giá trị văn hóa trong xây dựng và phát triển xã
hội. Từ đó cho thấy một hệ thống pháp luật toàn diện, đồng bộ, phù hợp và bảo đảm
tính thống nhất là điều kiện tiên quyết để bảo đảm hiệu lực thi hành cũng như phát huy
34
tác dụng đối với việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT của dân tộc. Ngược lại, nếu một
hệ thống pháp luật trở nên lỗi thời, lạc hậu hoặc hiệu lực thi hành kém hiệu quả rất khó
để giữ gìn và phát huy các giá trị tích cực của văn hóa truyền thống. Đồng thời, đó
cũng là mãnh đất màu mỡ để các hiện tượng tiêu cực thuộc yếu tố truyền thống trỗi dậy
và thống lĩnh đời sống tinh thần của xã hội.
Pháp luật góp phần giữ gìn, phát huy các giá trị tích cực của văn hóa truyền
thống phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội. Trong mối quan hệ này pháp luật thúc
đẩy các giá trị văn hóa phát triển và phát huy tác dụng. Bởi trong hệ thống các
GTVHTT thì những giá trị mang quy tắc phổ biến, phù hợp với sự tiến bộ và phát triển
đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam được nhà nước ghi nhận
và bảo vệ thông qua việc hình thành hệ thống các văn bản nhằm bảo đảm hiện thực hóa
chúng. Bên cạnh đó, pháp luật cũng loại trừ dần những yếu tố thuộc về văn hóa nhưng
đã cũ kỹ, lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với chủ trương, quan điểm, đường lối của
Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước bằng việc đặt ra các quy định thay thế hoặc
cấm đoán việc thực hiện những hành vi nhất định. Có thể nói với một hệ thống pháp
luật không phù hợp, lạc hậu, không chứa đựng các giá trị xã hội phổ biến, đi ngược các
giá trị truyền thống sẽ cản trở việc thực hiện các chính sách của nhà nước về văn hóa
và từ đó sẽ tác động tiêu cực đến việc giữa gìn, phát huy GTVHTT của dân tộc.
Pháp luật không phải là ở chỗ “đẩy nhanh hay níu lại các quá trình khách
quan của xã hội một cách duy ý chí theo chủ ý của nhà làm luật, mà khi nhu cầu
khách quan của xã hội đã chín muồi thì đó chính là chân lý, là khuôn mẫu, là mô
hình cần phải được pháp luật quy phạm hóa” [100, tr.46]. Về vấn đề này C. Mác
viết: “Nhà làm luật không làm ra luật, không sáng chế ra luật lệ mà chỉ hình thức
hóa chúng” và giải thích thêm: “Nhà lập pháp phải coi mình như là nhà khoa học tự
nhiên. Ông ta không làm ra pháp luật, ông ta không phát minh ra chúng, mà chỉ nêu
chúng lên; ông ta biểu hiện những quy luật nội tại của mối quan hệ tinh thần thành
những đạo luật thành văn có ý thức” [24, tr.128]. Như vậy, có thể khẳng định rằng
việc luật hóa các giá trị văn hóa đó là việc ghi nhận lại thực tế khách quan đặt ra mà
đòi hỏi nhà nước cần phải thực hiện trong quá trình thực hiện các chức năng của
mình. Bên cạnh việc luật hóa các quy tắc, chuẩn mực thuộc GTVHTT, làm cho chúng
phát huy yếu tố tích cực, có sức sống trong đời sống xã hội hiện đại, pháp luật còn
thông qua các giá trị đó hình thành và phát triển những giá trị văn hóa mới tiên tiến,
hiện đại. Do đó, đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và được tổ chức
35
thực hiện nghiêm minh, triệt để nhằm hướng đến mục tiêu trên. Một khi tính bắt buộc
được công dân tự giác thực hiện một cách đầy đủ và chính xác thì pháp luật sẽ tác động
có hiệu quả tới việc giữ gìn, phát huy GTVHTT. Từ đó sẽ góp phần tích cực thúc đẩy
hình thành các giá trị văn hóa mới, tiên tiến, phù hợp hơn trong xã hội hiện đại.
Sự tác động của pháp luật đến văn hóa còn được thể hiện ở chỗ pháp luật sẽ
giúp định hướng hành vi của con người theo những yêu cầu khác nhau từ phía xã
hội, qua đó cũng góp phần hạn chế các xung đột trong các mối quan hệ xã hội. Thực
tiễn đã chứng minh trong xã hội văn minh hiện đại, việc tuân theo pháp luật không
điều kiện đã trở thành những chuẩn mực văn hóa của con người như văn hóa kinh
doanh, văn hóa giao thông, văn hóa giáo dục, văn hóa công sở, văn hóa pháp lý, văn
hóa từ chức...Ngược lại pháp luật cũng tác động tiêu cực tới các giá trị văn hóa khi
việc tuân theo pháp luật hoặc thực thi pháp luật cứng nhắc, bỏ qua những yêu cầu
về văn hóa dễ dẫn đến độc tài, độc đoán. Điều này thể hiện rất rõ ở các kiểu pháp
luật mang bản chất giai cấp bốc lột thống trị khi chúng muốn sử dụng pháp luật là
công cụ để bốc lột, đàn áp giai cấp bị trị nhằm đoạt lấy những lợi ích cục bộ, cá
nhân dẫn đến mất dân chủ, nhân quyền, chà đạp lên các GTVHTT tốt đẹp mà con
người đã tạo ra. Có thể khẳng định giữa pháp luật và văn hóa có quan hệ chặt chẽ
với nhau trong việc xác định và thực hiện các mục tiêu văn hóa cụ thể, trong việc
hình thành các thiết chế văn hóa cũng như các hành vi văn hóa của các chủ thể khác
nhau trong xã hội. Từ mối quan hệ này pháp luật khẳng định vai trò quan trọng
trong việc thực hiện các mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện
đại, giàu bản sắc dân tộc.
Giữa pháp luật và văn hóa đều có điểm tương đồng - đều là yếu tố thuộc kiến
trúc tượng tầng, cho nên cùng chịu sự tác động của yếu tố chính trị và chịu sự quy
định bởi các điều kiện về kinh tế, xã hội trong quá trình tồn tại và phát triển. Do đó,
một nền chính trị tốt với một hệ quan điểm tiến bộ cùng với nền kinh tế phát triển
và các điều kiện xã hội tốt đẹp sẽ bảo đảm được một hệ thống pháp luật hoàn thiện,
đó cũng là điều kiện tiên quyết cho hệ thống các giá trị văn hóa tốt đẹp hình thành
và cùng với pháp luật xác lập nên hệ thống các chuẩn mực điều chỉnh các quan hệ
xã hội. Như vậy, mối quan hệ mật thiết giữa pháp luật với văn hóa cho thấy văn hóa-
vốn dĩ tồn tại trong mọi mặt của đời sống xã hội nhưng vẫn cần tới pháp luật như là
phương tiện bảo đảm hiệu quả để thể hiện nội dung, mục đích, yêu cầu, phổ biến các
giá trị của mình trong đời sống xã hội. Mặt khác, các giá trị văn hóa phải trở thành
36
nguyên tắc, mục tiêu của pháp luật khi đóng vai trò là quy tắc chung, phổ biến cho cách
xử sự của mọi thành viên khác nhau trong xã hội. Có thể khẳng định rằng, những quan
hệ giữa pháp luật và văn hóa được phân tích như trên là tiền đề cơ bản để pháp luật thể
hiện vai trò của mình trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay.
Ngoài ra, pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với đạo đức và các phong tục, tập
quán trong quá trình giữ gìn, phát huy các GTVHTT của dân tộc. Không khó để nhận
thấy rằng các quy tắc đạo đức được hình thành trong quá trình giáo dục của cá nhân và
qua hoạt động thực tiễn. Quy tắc đạo đức chi phối, định hướng hành vi của mỗi cá
nhân, cộng đồng trong việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Các hành vi ứng xử của cá
nhân, cộng đồng trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT phải phù hợp với chuẩn mực,
tiến bộ xã hội. Trong khi đó, pháp luật cũng quy định quy tắc xử sự của hành vi các
chủ thể khi tham gia hoạt động giữ gìn, phát huy các GTVHTT nhưng các quy tắc ấy
được pháp lý hóa bởi nhà nước với những quyền và nghĩa vụ cụ thể, rõ ràng hơn. Như
vậy, pháp luật và đạo đức có thể tạo ra những tương tác thuận chiều, những hợp lực
trong quá trình bảo vệ, phát triển các GTVHTT. Trong trường hợp này, đạo đức sẽ là
môi trường, yếu tố tác động, bảo đảm để thực thi có hiệu quả các nội dung quy định
của pháp luật về giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Do đó, nhà nước khi ban hành quy
định pháp luật hoặc triển khai tổ chức thực hiện pháp luật cần chú ý khái thác
những nhân tố hợp lý trong các quy tắc đạo đức để phát huy hiệu quả vai trò của
pháp luật trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT tốt đẹp của dân tộc.
Riêng những phong tục, tập quán là những quy tắc ứng xử của cộng đồng, được
thực hiện một cách tự giác và trở thành thói quen. Trong khi đó, pháp luật là hệ thống
các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành, hoặc thừa nhận. Khác với phong tục, tập
quán, quy định của pháp luật có tính bắt buộc, phổ biến, áp dụng cho tất cả mọi chủ thể
trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Pháp luật có phạm vi điều chỉnh rộng lớn, có hiệu lực
cả không gian và thời gian trong khi phong tục, tập quán điều chỉnh phạm vi hẹp hơn.
Mặc dù vậy, cả pháp luật và phong tục, tập quán có quan hệ chặt chẽ với nhau và
chúng đều là phương tiện điều chỉnh hành vi con người, tạo lập và thúc đẩy các quan
hệ xã hội phát triển ổn định. Trong việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT, pháp luật ghi
nhận, củng cố, bảo vệ những phong tục, tập quán được coi là những GTVHTT, hoặc
phong tục, tập quán đó cũng thực hiện sứ mệnh bảo vệ và giữ gìn các GTVHTT tốt đẹp
của dân tộc. Ngược lại, pháp luật hạn chế, loại bỏ dần những phong tục, tập quán cản
trở hoặc gây khó khăn cho việc lưu giữ, bảo vệ, phát triển các GTVHTT. Phong tục,
37
tập quán là điều kiện để giúp cho các chủ thể thực hiện quy định pháp luật về giữ gìn,
phát huy GTVHTT, là môi trưởng để thực thi pháp luật. Phong tục, tập quán cũng có
thể trở thành nguồn của pháp luật nếu chúng chứa đựng những giá trị nhân văn, cao
đẹp, tiến bộ. Khi đó nhà nước sẽ thừa nhận, nâng lên thành luật và bảo đảm thực hiện
thông qua quy trình, thủ tục pháp lý chặt nhằm bảo đảm giá trị cũng như hiệu lực pháp
lý của chúng trong đời sống xã hội.
2.1.3. Khái niệm và đặc trưng vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy
giá trị văn hóa truyền thống
2.1.3.1. Khái niệm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn
hóa truyền thống
Vai trò nói chung là chỉ cách xử sự, là tác dụng, ảnh hưởng hoặc chỉ những
phần việc của một tổ chức, cá nhân trong tổ chức hoặc trong xã hội nhằm đảm bảo sự
vận hành của tổ chức hay xã hội. Theo từ điển tiếng Việt thì vai trò được hiểu là “chức
năng, tác dụng của cái gì hoặc của ai trong sự vận động, phát triển của nhóm, tập thể
nói chung” [203, tr.1736]. Như vậy, ở mức độ khái quát nhất, có thể hiểu vai trò là
những phần việc cơ bản, trọng trách chủ yếu mà một chủ thể nắm giữ, nó phản ánh đặc
trưng bản chất của chủ thể, mang tính khái quát và bao trùm, nó thể hiện tầm quan
trọng của chủ thể trong mối tương quan so sánh với các chủ thể khác. Do đó, khi đề cập
đến vai trò của pháp luật ở đây cũng là đề cập đến tầm quan trọng của pháp luật trong
mối tương quan giữa pháp luật với các quy phạm khác trong xã hội.
Pháp luật là một hiện tượng xã hội có tính giai cấp, xuất hiện rất sớm từ khi xã
hội loài người bước sang hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp đối kháng về lợi ích căn
bản với sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước. Tuy nhiên, dưới góc độ lý luận, cho đến
nay nay, vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của pháp luật. Có quan điểm
coi vai trò và giá trị cao nhất của pháp luật là chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội
của nó [196, tr.130], nhưng có quan điểm xem xét vai trò của pháp luật trong mối liên
hệ, tác động với các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, đạo đức, tư tưởng
[65, tr.196-201] và khẳng định pháp luật là công cụ không thể thiếu trong quản lý xã
hội. Về vấn đề này tác giả Nguyễn Minh Đoan nhận xét: “Cùng với việc xây dựng một
nhà nước kiểu mới, hệ thống pháp luật mới cũng nhanh chóng được xây dựng để ghi
nhận, củng cố, bảo vệ và phát triển những thay đổi cơ bản của xã hội về kinh tế, chính
trị- xã hội từ phương diện pháp lý” [62, tr.107]. Từ đó tác giả khẳng định pháp luật “là
công cụ quản lý không thể thiếu, một công cụ quản lý xã hội quan trọng và hiệu quả”
38
[62, tr.7-21]. Có tác giả tiếp cận vai trò của pháp luật thông qua các giá trị xã hội của
nó [192, tr.31-37], tác giả Nguyễn Đình Đặng Lục khẳng định: “Với tư cách là những
chuẩn mực, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình hình thành và phát
triển nhân cách” [118, tr.83], trong đó pháp luật hình thành tính hướng thiện trong hành
vi của chủ thể. Theo tác giả pháp luật là những quy tắc xử sự do nhà nước xác lập
nhằm điều chỉnh hành vi của mọi thành viên trong xã hội. Do đó, sự điều chỉnh của
pháp luật ở đây có vai trò “nhằm chống lại cái ác bảo vệ cái thiện, hướng con người
hành động trong mối quan hệ vươn tới cái thiện” [118, tr.85]. Tác giả Vũ Anh Tuấn
cho rằng vai trò của pháp luật được thể hiện bằng hoạt động xây dựng pháp luật, thực
hiện pháp luật, ý thức pháp luật cùng với hình thức thể hiện của pháp luật [189, tr43-
58]. Một số khác lại khẳng định pháp luật có nhiều vai trò trong xã hội và chỉ ra những
vai trò cơ bản của nó trong việc thiết lập, củng cố quyền lực nhà nước, là phương tiện
để nhà nước quản lý xã hội, để tạo dựng những quan hệ xã hội mới, tạo ra môi trường
ổn định cho việc thiết lập các mối quan hệ hợp tác và phát triển [186, tr.336-347]. Còn
tác giả Võ Hải Long thì cho rằng vai trò của pháp luật phải được tiếp cận từ chức năng
của nó cho nên để làm rõ vai trò của pháp luật cần phải xem xét nội dung pháp luật
điều chỉnh về vấn đề gì [115, tr.28-37].
Qua những phân tích trên đây có thể thấy, vai trò pháp luật có thể được biểu
hiện thông qua các chức năng của pháp luật hay mối liên hệ của pháp luật đối với các
sự vật và hiện tượng cụ thể trong đời sống xã hội. Đối với nhà nước, pháp luật có vai
trò là công cụ để nhà nước thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý. Đối với các chủ
thể khác (cá nhân, tổ chức phi nhà nước), pháp luật là phương tiện bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp, tạo ra môi trường an toàn và “sân chơi” bình đẳng cho họ khi tham gia
vào quan hệ kinh tế - xã hội. Trong điều kiện dân chủ, pháp quyền, với cá nhân, pháp
luật tiến bộ có thể chuyển tải thông tin, thực hiện sự mệnh, góp phần tạo lập, hình thành
nhân cách, ý thức và trách nhiệm của mỗi người đối với xã hội.
Pháp luật có vai trò tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình điều chỉnh
các quan hệ xã hội nhằm thiết lập trật tự xã hội. Sự tác động và ảnh hưởng của pháp
luật thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau tùy thuộc vào từng loại đối tượng và từng loại
quan hệ, nhưng sự biểu hiện cụ thể của sự tác động đó bao giờ cũng phản ánh trong
khuôn mẫu của các hành vi xử sự được xác định, mà các chủ thể pháp luật phải tuân
theo, chấp hành hoặc lấy làm cơ sở để sử dụng và áp dụng chúng phù hợp với những
điều kiện thực tiễn. Mặt khác, sự khác nhau về mức độ điều chỉnh các quan hệ xã hội
39
nói lên vai trò của pháp luật được thể hiện ở các hình thức chính để tổ chức thực hiện
các chức năng của nhà nước là xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo
vệ pháp luật. Để giải quyết những nhiệm vụ hết sức phức tạp đòi hỏi nhà nước phải dựa
trên cơ sở pháp lý vững chắc. Vì vậy phải chú trọng công tác xây dựng pháp luật, đồng
thời phải coi trọng công tác bảo vệ pháp luật, bảo đảm cho pháp luật phát huy được vai
trò trong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội, bảo đảm duy trì ổn định và phát triển
các quan hệ đó. Tuy nhiên, những điểm nói trên mới chỉ phản ánh vai trò của pháp
luật ở bình diện chung về mặt lý luận. Để thấy rõ vai trò của pháp luật cần phải xem
xét nó ở góc độ cụ thể gắn với việc thực hiện các chức năng cụ thể của nhà nước và
nhu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội. Bởi vì, pháp luật đặt ra nhằm thực hiện
những mục đích đã được xác định, những mục đích đó luôn xuất phát từ chức năng
và nhiệm vụ của nhà nước và nhu cầu cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật
đối với các quan hệ xã hội trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể.
Là bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng, pháp luật tác động đến các
quan hệ xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật còn tác động, ảnh hưởng và có quan hệ với các
yếu tố của kiến trúc thượng tầng như chính trị, nhà nước, đạo đức, tôn giáo, văn hóa
trong đó có các GTVHTT…Vai trò của pháp luật đối với các yếu tố thuộc kiến trúc
thượng tầng là khác nhau. Đối với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT, vai trò của
pháp luật được xác định như một nội dung, phương diện chủ yếu trong vai trò của
pháp luật và đặt nó trong mối liên hệ với các giá trị xã hội cơ bản của pháp luật.
Thực chất đó là mối quan hệ giữa cái chung, cái tổng thể (vai trò của pháp luật) với
cái riêng, cái bộ phận (vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống). Vai trò đó được bắt nguồn từ những mối liên hệ mật thiết, hữu cơ
giữa pháp luật với văn hóa và được bảo đảm thông qua những hình thức, phạm vi,
nội dung, chức năng của pháp luật cũng như các thuộc tính của nó.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau và có cách tiếp cận khác nhau về vai trò
của pháp luật nói chung nhưng tự trung lại, với tư cách là bộ phận thuộc kiến trúc
thượng tầng xã hội, xuất hiện và tồn tại cùng với nhà nước trong trạng thái xã hội có
giai cấp, pháp luật có vai trò hết sức quan trọng đối với việc thực hiện các mục tiêu
kinh tế, văn hóa, xã hội trong đó có mục tiêu về giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Cụ
thể, pháp luật đóng vai trò là phương tiện để thể chế hóa đường lối chính sách của
Đảng cầm quyền về giữ gìn, phát huy các GTVHTT, bảo đảm cho đường lối, chính
sách đó được thực hiện có hiệu quả trên quy mô toàn xã hội. Pháp luật là phương tiện
40
để nhà nước quản lý giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Đồng thời, pháp luật tạo lập cơ
sở pháp lý, quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật
về giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Trong chế độ dân chủ pháp quyền, pháp luật còn là
phương tiện để nhân dân phát huy dân chủ, thực hiện và bảo vệ những quyền và lợi ích
hợp pháp của mình và giáo dục nâng cao ý thức của các tầng lớp nhân dân đối với việc
giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Ngoài ra, pháp luật còn là nhân tố đảm bảo cho các
quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội được vận hành thông suốt và ổn định.
Từ những lập luận trên đây, có thể hiểu: Vai trò của pháp luật trong giữ gìn,
phát huy GTVHTT là quá trình tác động, điều chỉnh, ảnh hưởng tích cực của pháp
luật đến hoạt động giữ gìn, phát huy GTVHTT thông qua việc ghi nhận và pháp lý
hóa các giá trị văn hóa bền vững của dân tộc nhằm tạo lập cơ sở pháp lý vững
chắc, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước và chuyển tải nội dung
trong các cam kết quốc tế về giá trị văn hóa truyền thống thành hệ thống các quy
tắc xử sự của các chủ thể, qua đó góp phần giáo dục nâng cao ý thức con người đối
với GTVHTT.
Cần khẳng định lại rằng GTVHTT là những yếu tố tinh thần, có giá trị bền
vững, tốt đẹp tiêu biểu cho nền văn hóa của dân tộc. Chúng có tác dụng tích cực thúc
đẩy sự phát triển của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử cũng như hiện tại có vai trò
góp phần thúc đẩy đạt được các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội trong tương lai. Việc
giữ gìn, phát huy GTVHTT được thực hiện bởi nhiều thiết chế khác nhau trong hệ
thống kiến trúc thượng tầng nhưng pháp luật là công cụ hiệu quả nhất để thực hiện
nhiệm vụ đó. Bởi vì so với các công cụ khác, pháp luật có ưu điểm nổi bật hơn. Cụ thể
pháp luật thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành các mục tiêu chung trong
đời sống xã hội. Pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp
luật về giữ gìn và phát huy GTVHTT và là công cụ bảo đảm hiệu quả, qua đó thúc đẩy
giáo dục nâng cao ý thức con người đối với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT. Nội hàm
của khái niệm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT được làm sáng
tỏ hơn thông qua việc tìm hiểu các đặc trưng vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát
huy GTVHTT.
2.1.3.2. Đặc trưng vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn
hóa truyền thống
Đặc trưng vai trò của pháp luật là thể hiện những khác biệt cơ bản trong sự tác
động, điều chỉnh của pháp luật đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tùy thuộc vào
41
tính chất, đặc điểm đối tượng chịu sự tác động mà pháp luật thể hiện vai trò qua những
nội dung và phương thức khác nhau. Trong thực tiễn khoa học pháp lý, khi nghiên cứu
những vấn đề về đặc trưng vai trò của pháp luật, người ta thường so sánh nó với vai trò
của các quy phạm xã hội khác hoặc xem xét trực tiếp đặc trưng vai trò của nó so với
vai trò của pháp luật nói chung. Tuy nhiên, trong phạm vi luận án này khi nghiên cứu
về vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT với sự tác động rộng lớn của
pháp luật lên mọi mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, khi xem xét đặc trưng vai trò của
pháp luật đối với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT cần phải xem xét ở phạm vi điều
chỉnh của pháp luật, ở nội dung, hình thức thể hiện và mục đích tác động của chúng.
Với nhận thức đó, đặc trưng vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống có thể khái quát như sau:
Thứ nhất, vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT khẳng định
các mục tiêu cụ thể của pháp luật khi điều chỉnh các quan hệ xã hội về giữ gìn, phát huy
các GTVHTT. Các GTVHTT được hun đúc qua quá trình lao động, sáng tạo của con
người nên các GTVHTT đó thẩm thấu trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, có vai trò
là kim chỉ nam định hướng sự phát triển của con người cả về trí tuệ, nhân cách và đạo
đức. Do đó, vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị ấy được thể hiện ở mọi
quan hệ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội nhưng rõ nét nhất là những quan hệ trong
lĩnh vực văn hóa và những quan hệ trực tiếp liên quan, ảnh hưởng đến GTVHTT. Sự tác
động của pháp luật đối với toàn bộ quá trình vận động và phát triển của các mối quan hệ
xã hội, qua đó thúc đẩy hướng đến hoàn thành các mục tiêu về kinh tế, văn hóa, xã hội ở
từng thời điểm nhất định. Trong thời đại toàn cầu hóa và cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, cùng với sự giao lưu hội nhập mạnh mẽ
trong lĩnh vực văn hóa thì sự đồng hóa về văn hóa đang đặt ra những yêu cầu về xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm hiệu quả vai trò của nó trong
việc giữ gìn, phát huy những giá trị của văn hóa truyền thống đó.
Thứ hai, vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT được biểu
hiện thông qua các nội dung cụ thể. Nội dung pháp luật về giữ gìn, phát huy GTVHTT
gắn kết chặt chẽ các giá trị quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm các giá trị văn hóa
được giữ gìn và phát triển. Bên cạnh đó, các mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa
cũng gắn với sự phát triển và tiến bộ con người, xem con người là trung tâm trong
xây dựng và phát triển văn hóa, bảo đảm các chính sách, pháp luật về văn hóa phải
giữ vững các giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc và quyền thụ hưởng các giá trị đó của
42
con người. Thực tiễn quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, các hoạt động quốc tế hóa
về văn hóa ngày càng được rộng mở, do đó cần phải giữ gìn, phát huy các giá trị văn
hóa thuộc bản sắc dân tộc trong quá trình giao lưu giữa văn hóa nước ta với cộng đồng
văn hóa thế giới. Một mặt, các giá trị văn hóa của nhân loại cần được chuyển tải, sàng
lọc, tiếp thu để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ các giá trị tinh thần của nhân dân, nhưng
chiều ngược lại các giá trị của văn hóa truyền thống cũng được giới thiệu rộng khắp ra
bên ngoài.
Như vậy, trong nội dung của pháp luật về giữ gìn, phát huy GTVHTT phải thế
chế hóa được các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng chính trị cầm quyền về xây dựng và phát triển nền văn hóa. Đồng thời pháp luật cũng phải pháp điển hóa nội
dung các điều ước quốc tế về giá trị văn hóa mà quốc gia tham gia. Trong xã hội pháp
quyền, pháp luật phải bảo đảm các quyền cơ bản của con người trong hưởng thụ giá trị
văn hóa, trong thực hiện các nghĩa vụ về giữ gìn, phát huy GTVHTT. Pháp luật ghi nhận và đề xuất các giải pháp bảo đảm hiệu lực pháp lý nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đối với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT. Chẳng hạn bên cạnh việc xác định thẩm quyền của các chủ thể quản lý nhà nước đối với việc ghi nhận, sưu tầm, xếp hạng, xếp loại các giá trị văn hóa dân tộc, pháp luật cũng ghi nhận và bảo đảm quyền của người dân đối với việc hưởng thụ, thưởng lãm và kể cả khai thác thu lợi nhuận đối với các giá trị đó.
Thứ ba, vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT thể hiện thông qua những hình thức pháp lý khác nhau. Những hình thức pháp lý và hoạt động thực tiễn của các chủ thể pháp luật là đặc trưng cơ bản vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT, do đó vai trò của pháp luật trong trường hợp này phụ thuộc rất lớn vào hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật của nhà nước. Nhằm quy phạm
hóa các chính sách về xây dựng và phát triển nền văn hóa, thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, nhà nước sẽ hình thành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật chứa
đựng các nội dung liên quan đến việc giữ gìn, phát huy GTVHTT. Vì vậy, vai trò của pháp luật đề cập ở đây là nói đến tác động, ảnh hưởng của hệ thống pháp luật thực
định, tức là hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành, đó là tổng thể các quy tắc xử sự chung nhằm điều chỉnh những quan
hệ xã hội trong các lĩnh vực cơ bản của đời sống pháp luật. Sự tồn tại của pháp luật
thực định thông qua hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý từ cao
đến thấp (Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư…) là điều kiện tiên quyết
để pháp luật thể hiện vai trò của mình trong giữ gìn, phát huy GTVHTT.
43
Thứ tư, vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT được thể hiện
và xác lập thông qua sự vận hành của cơ chế cụ thể dựa trên những điều kiện cũng như
có các yếu tố bảo đảm nhất định. Khi bàn đến vai trò của pháp luật nói chung và vai trò
của pháp luật đối với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT mà chỉ đề cập đến hệ thống các
quy tắc, quy phạm pháp luật thì chưa đầy đủ và toàn diện. Bởi vì, “pháp luật thực định
cũng sẽ là chỉ là những “quy phạm chết”, những “mớ giấy lộn” nếu nó không có đời
sống của mình” [189, tr.42]. Điều đó cũng có nghĩa là, pháp luật chỉ thực sự tồn tại,
thực sự phát huy vai trò trong giữ gìn, phát huy GTVHTT thông qua nhận thức và hoạt
động của các chủ thể pháp luật trong đời sống xã hội, trước hết là nhà nước với vai trò
là chủ thể tạo ra pháp luật (ban hành văn bản pháp luật), tổ chức thực hiện và bảo đảm
thực hiện pháp luật; thông qua tác động của nó đối với đời sống pháp luật và nhận thức
của con người thông qua một cơ chế cụ thể.
2.2. NỘI DUNG VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT
HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
2.2.1. Pháp luật thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về giữ gìn, phát
huy giá trị văn hóa truyền thống thành các mục tiêu chung của đời sống xã hội
Pháp luật chuyển tải ý chí của giai cấp cầm quyền thành ý chí chung của toàn xã
hội hay nói cách khác đó là quá trình chuyển chủ trương, đường lối của giai cấp cầm
quyền trở thành quy tắc hành vi ứng xử của mọi người, mọi tổ chức trong xã hội. Vì vậy,
pháp luật luôn phản ánh đường lối, chủ trương của Đảng, là sự thể chế hóa đường lối, chủ
trương ấy thành các quy định chung thống nhất trên quy mô toàn xã hội. Do đó, việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như trong công tác tổ chức và thực hiện pháp
luật phải thấm nhuần các quan điểm thể hiện trong các đường lối, chính sách của Đảng.
Trên cơ sở quan điểm, đường lối đúng đắn về giữ gìn, phát GTVHTT, công tác
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phải bảo đảm có sự kế thừa các giá trị
truyền thống của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, làm tăng sức đề
kháng, chống văn hóa độc hại, nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động của đời sống
xã hội. Vai trò của pháp luật trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT chỉ có được khi
thông qua hoạt động xây dựng pháp luật, những quan điểm, đường lối về giữ gìn, xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam của Đảng phải được thể chế hóa thành các
chính sách, pháp luật của nhà nước với các quy phạm pháp luật cụ thể. Chẳng hạn, để
thế chế các quan điểm của Đảng về “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương năm khóa VIII,
44
biến các mục tiêu, quan điểm của Nghị quyết trên trở thành mục tiêu chung trong đời
sống xã hội, Nhà nước đã ban hành các Luật Di sản văn hóa (2001, sửa đổi, bổ sung
năm 2009), Luật Quảng cáo, Pháp lệnh Thư viện, Luật Xuất bản, Luật báo chí…
Thông qua việc ban hành các văn bản trên, nhà nước ấn định những khuôn mẫu hành
vi, những mô hình xử sự với các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong xã hội đối
với việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT của dân tộc. Chỉ trong trường hợp đó, các giá
trị văn hóa vốn có những quan niệm không giống nhau giữa mọi người, mọi tầng lớp
trong xã hội, trở thành đại lượng chung và phổ biến cho mọi điều kiện, đối tượng
không giống nhau. Như vậy, pháp luật không chỉ là quy phạm hóa chính sách của nhà
nước về văn hóa truyền thống mà còn đề cao và làm giàu thêm giá trị của văn hóa dân
tộc. Từ chỗ chỉ là quan điểm, đường lối của một giai cấp, một chính Đảng, các
GTVHTT khi được luật hóa đã trở thành quan niệm, tiêu chí và yêu cầu chung của toàn
xã hội. Chẳng hạn, để quy phạm hóa giá trị di sản văn hóa theo quan điểm của Đảng về
GTVHTT, Luật Di sản văn hóa khẳng định: “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản quý
giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân
loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta” [Lời nói
đầu, Luật Di sản Văn hóa], hoặc “Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại” [Điều 60- Hiến pháp 2013]. Bởi thế, vi phạm pháp luật về văn hóa không chỉ đơn
thuần là xâm phạm chính sách văn hóa của nhà nước mà còn đi ngược lại những tiêu
chí và yêu cầu chung của toàn xã hội.
Các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống dân tộc rất đa dạng, phong phú. Tuy
nhiên, các giá trị mặt dù đã được lịch sử thẩm định, nhưng nếu một khi chúng không
được pháp luật quy phạm hóa thì nó chưa mang tính bắt buộc chung trong đời sống xã
hội hiện đại. Bởi vì trong thực tế đời sống xã hội, “có những hành vi vi phạm chuẩn
mực đạo đức song không vi phạm pháp luật và ngược lại, có những hành vi vi phạm
pháp luật nhưng chưa hẳn là vi phạm đạo đức” [100, tr.47]. Vì vậy, vấn đề đặt ra ở đây
là pháp luật ngày càng phải hoàn thiện nhằm phát huy tốt vai trò trong việc điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội; đồng thời, phải đảm bảo hài giữa tinh thần của pháp luật với
các GTVHTT, sao cho không làm mờ nhạt vai trò của pháp luật nhưng vẫn phát huy
tối đa các GTVHTT trong quá trình thực hiện các mục tiêu về văn hóa, kinh tế, xã hội.
Tổng thể các GTVHTT được thể hiện thông qua một loạt các yếu tố về hình
thức và nội dung của pháp luật, nhưng trong đó nổi bật là qua hệ thống quyền và nghĩa
45
vụ cụ thể trong những quan hệ pháp luật cụ thể và hệ thống chế tài tương ứng với các
loại trách nhiệm pháp lý. Do vậy, tính khách quan là điều kiện căn bản để pháp luật
gánh vác vai trò giữ gìn, phát huy GTVHTT, nếu không phù hợp với các điều kiện kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội của quốc gia trong những hoàn cảnh nhất định, pháp luật
sẽ trở thành công cụ quản lý kém hiệu quả, dẫn đến phá vở hệ giá trị văn hóa tồn tại lâu
dài của dân tộc. Điều đó đòi hỏi “pháp luật phải phản ánh chân thực khách quan các
quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh nhưng không phải là một “dương bản” của cuộc sống,
mà trái lại là sự phản ánh tích cực và có giá trị phổ biến” [189, tr.45].
Để có thể tổ chức, quản lý được tốt hơn các vấn đề về văn hóa, kinh tế, xã hội,
đảm bảo các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, hiện đại, đậm tính dân tộc trở thành mục tiêu, động lực chung trong đời sống xã
hội, nhà nước phải tiến hành xây dựng pháp luật nhằm kịp thời thể chế hóa các chủ
trương trên. Mục đích của nhà nước khi thể chế hóa các chủ trương của Đảng về xây
dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại, giàu bản sắc dân tộc là nhằm xây dựng một nền
văn hóa mới hướng đến phát triển con người hoàn thiện về chân, thiện, mỹ. Mặt khác,
cùng với việc giao lưu với văn hóa thế giới nhằm bắt kịp với yêu cầu kiến tạo và phát
triển thì việc giữ gìn, phát huy GTVHTT của dân tộc để đáp ứng các nhu cầu hưởng
thụ các giá trị tinh thần ngày càng cao của nhân dân, cũng là một đòi hỏi cấp thiết đang
đặt ra cho nhà nước những vấn đề cần giải quyết, nhằm bảo đảm phát triển bền vững
mà ở đó văn hóa là trụ cột quan trọng theo quan điểm, chủ trương của Đảng hiện nay.
Điều đó chỉ có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật về văn hóa do nhà nước ban
hành được mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội thực hiện đầy đủ và chính xác. Cũng
cần nhấn mạnh rằng, pháp luật ngoài việc phụ thuộc các điều kiện nói trên, còn bị quy
định bởi tính lợi ích, những quan điểm của nhà làm luật về các giá trị văn hóa và các
giá trị văn hóa tác động đến đời sống xã hội. Chẳng hạn, khi triển khai các dự án pháp
luật có khả năng tác động đến giá trị văn hóa, pháp luật yêu cầu cơ quan chủ trì soạn
thảo phải lấy ý kiến cơ quan quản lý về văn hóa và ý kiến chuyên gia văn hóa nhằm
bảo đảm các GTVHTT không bị đánh mất hoặc bị mờ nhạt trong quá trình xây dựng
pháp luật.
2.2.2. Pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý cho các chủ thể trong giữ gìn, phát
huy giá trị văn hóa truyền thống
Văn hóa được xem là nền tảng tinh thần của xã hội và đặt ngang hàng với kinh
tế, chính trị, xã hội. Xuất phát từ đặc điểm cũng như tầm quan trọng của văn hóa, các
46
chính sách của nhà nước đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa cần được
chú trọng để bảo đảm các GTVHTT được giữ gìn, phát huy. Chính sách, pháp luật về
văn hóa có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh hội nhập sâu rộng với thế giới cả về kinh
tế, văn hóa hiện nay. Nó điều chỉnh bất bình đẳng trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa
do toàn cầu hóa tạo ra, khích lệ và hỗ trợ những xu hướng văn hóa có nhiều triển vọng,
tiêu biểu cho sức mạnh dân tộc, cho sự định hướng nhu cầu văn hóa lành mạnh của xã
hội. Để đạt được các mục tiêu trên, đòi hỏi pháp luật phải điều chỉnh kịp thời các mục
tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân
tộc mà Đảng đề ra, trong đó các giá trị văn hóa dân tộc là mục tiêu quan trọng mà pháp
luật cần phải tác động điều chỉnh, nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cho mọi chủ thể trong việc
giữ gìn, phát huy GTVHTT. Chẳng hạn để để bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn
hóa phi vật thể, Luật Di sản Văn hóa xác định các biện pháp cụ thể [Điều 17- Luật Di
sản Văn hóa] hoặc nhằm giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiến
tới xây dựng lối sống mới, bài trừ các hủ tục mê tín, dị đoan, ngăn chặn văn hóa độc
hại, Luật quy định “Nhà nước và xã hội bảo vệ, phát huy những thuần phong mỹ tục
trong lối sống, nếp sống của dân tộc; bài trừ những hủ tục có hại đến đời sống văn hóa
của nhân dân” [Điều 22- Luật Di sản Văn hóa].
Là phương thức điều chỉnh hành vi trong các quan hệ xã hội, pháp luật xác
định những quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể trong các quan hệ pháp luật cụ thể.
Chẳng hạn, trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Luật Di sản Văn
hóa quy định cho các tổ chức, cá nhân có quyền tham quan, nghiên cứu di sản văn
hóa; có nghĩa vụ tôn trọng, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa [Điều 14- Luật
Di sản Văn hóa]. Như vậy, thông qua các quy phạm do nhà nước ban hành, pháp
luật điều tiết hành vi của con người bằng các giải pháp, phương pháp với những
hình thức khác nhau nhằm bảo đảm cho các quy định được hiện thực hóa thành các
quyền, nghĩa vụ pháp lý cụ thể trong các quan hệ xã hội. Với chức năng điều chỉnh,
pháp luật xác lập các hành lang pháp lý cần thiết cho sự vận động và biến đổi các
quan hệ xã hội, trong đó có các quan hệ về giữ gìn, phát huy GTVHTT và qua đó ổn
định hóa, chính xác hóa, trật tự hóa các quan hệ trên theo các mục tiêu về văn hóa,
kinh tế, xã hội đã được xác định. Cụ thể như trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam
hiện nay xác định giá trị thuần phong mỹ tục là tiêu chuẩn giá trị xây dựng nếp
sống, lối sống, con người Việt Nam. Do đó, các quy định pháp luật hiện hành đều
47
khẳng định mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, báo chí, xuất bản, nghệ thuât biểu
diễn, trình diễn… không được trái pháp luật, đạo đức xã hội và thuần phong mỹ tục
của dân tộc, những hành vi đi ngược lại đều bị xem là trái pháp luật.
Pháp luật còn là phương tiện thông báo quan điểm chính thức của nhà nước về
khuôn mẫu của hành vi, về mô hình giải quyết các vấn đề và phương thức điều chỉnh
các quan hệ xã hội. Thông qua pháp luật, các chủ thể có thể biết được những phương
thức, biện pháp và phương tiện dùng để đạt được mục đích của hành vi. Chẳng hạn,
thông qua các quy định tại Luật Di sản Văn hóa các chủ thể biết được những quyền và
nghĩa vụ cụ thể gì cũng như phương thức, biện pháp để bảo vệ và phát huy các giá trị
Di sản văn hóa [Chương 3- Luật Di sản Văn hóa]. Có thể khẳng định rằng bằng các
quy định cụ thể thông qua hệ thống văn bản pháp luật, các chủ thể được xử sự theo
cách mà pháp luật cho phép, có nghĩa là các chủ thể được chọn lựa để thực hiện những
cách thức xử sự phù hợp theo quy định của pháp luật như những việc được làm, cần
phải làm, làm gì, làm như thế nào và không được làm những gì nhằm giữ gìn, phát huy
GTVHTT. Ngoài ra, trong việc tạo khuôn khổ pháp lý cho các chủ thể thực hiện việc
giữ gìn, phát huy GTVHTT, với việc xác lập các nguyên tắc pháp lý mang tính linh
hoạt, pháp luật cho các chủ thể có những cơ chế đặc thù nhất định để thực hiện quyền
và nghĩa vụ cũng như trách nhiệm pháp lý nhằm bảo đảm hiệu quả việc thực hiện các
mục tiêu về xây dựng và phát triển nền văn hóa.
Bên cạnh đó, với vai trò là phương tiện chính thức hóa các GTVHTT, pháp luật
đã trở thành phương tiện phản ánh quá trình thu thập, nhận thức, sàng lọc các
GTVHTT và biến các giá trị đó thành hiện thực trong đời sống được mọi người thừa
nhận, trở thành chuẩn mực pháp lý được thể hiện trong các văn bản pháp luật do nhà
nước ban hành.
2.2.3. Pháp luật là công cụ bảo đảm hiệu quả đối với việc giữ gìn, phát huy
giá trị văn hóa truyền thống
Pháp luật là công cụ bảo đảm hiệu quả đối với việc giữ gìn, phát huy các
GTVHTT. Bởi lẽ, so với các hiện tượng khác như chính trị, đạo đức, phong tục, tập
quán và các hiện tượng khác của đời sống xã hội pháp luật có những ưu điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật là công cụ của Nhà nước ghi nhận các mục tiêu và nội
dung trong việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Trên cơ sở khách quan, xuất phát từ
thực tiễn, nhằm đảm bảo những giá trị đó tồn tại và phát huy trong cuộc sống, góp phần
48
vào việc thực hiện thành công các mục tiêu xây dựng nền văn hóa, Nhà nước phát hiện
hay thừa nhận những giá trị văn hóa dân tộc, thể hiện nó trong hệ thống các văn bản
pháp luật, trở thành ý chí và mục tiêu hành động của toàn xã hội. Thông qua ban hành
các văn bản pháp luật quy định các nội dung về giữ gìn, phát huy GTVHTT, Nhà nước
muốn phát huy tác dụng của các giá trị ấy trong thực hiện các mục xây dựng và phát
triển văn hóa, trong việc hình thành nhân cách con người, nâng cao chất lượng đời sống
tinh thần của con người, qua đó nhằm “chế ước những ảnh hưởng tiêu cực, loại bỏ
những hủ tục” [186, tr.438].
Thứ hai, pháp luật là công cụ của Nhà nước quy định về nghiệm vụ, quyền hạn
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các chủ thể khác cũng như phương pháp trong
việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Để thực hiện các mục tiêu văn hóa có hiệu quả,
pháp luật phải tạo ra các thể chế văn hóa làm cơ sở công cụ quản lý và thông qua các
quy định của pháp luật, các chính sách về văn hóa trở thành những nội dung, nhiệm vụ
quản lý cụ thể mà các chủ thể quản lý phải thực hiện. Chẳng hạn, để thực hiện các
nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với Di sản văn hóa, Luật Di sản văn hóa quy định các
nhiệm vụ cụ thể mà chủ thể quản lý phải thực hiện [Điều 54- Luật Di sản Văn hóa].
Đồng thời, để bảo đảm nội dung quản lý thuộc thẩm quyền, pháp luật cũng xác định
các phương pháp tác động như là công cụ nhằm bảo đảm hiệu quả các mục tiêu quản lý
nhà nước về văn hóa mà các chủ thể quản lý phải sử dụng. Tất nhiên, các phương pháp
được xác định phải được sử dụng phù hợp từng nội dung quản lý cụ thể. Vì vậy, trong
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước cũng phải bảo đảm sự đúng đắn, phù hợp
của pháp luật với văn hóa, do đó nội dung và phương thức quản lý phải bảo đảm mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Thứ ba, pháp luật là chuẩn mực bắt buộc, đặt ra yêu cầu đối với các chủ thể và
các phương tiện, công cụ khác trong việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Theo lẽ
thường, trong đời sống xã hội mỗi thành viên phải lựa chọn cách ứng xử sao cho có lợi
cho mình và không xâm hại đến lợi ích của các thành viên khác. Vì vậy, những cách
ứng xử được cộng đồng xã hội thừa nhận sẽ trở thành khuôn mẫu chuẫn mực xã hội và
trong trường hợp này pháp luật có vai trò quan trọng trong việc tác động lên cách xự sự
của các thành viên trong xã hội. Trong xã hội có nhà nước, cách xử sự theo khuôn mẫu
được coi là chuẩn mực mang tính bắt buộc chung nhằm qua đó đánh giá tính hợp pháp
hay không hợp pháp, đúng đắn hay không đúng đắn của con người. Nói như vậy
49
“không có nghĩa là pháp luật làm triệt tiêu mọi khuôn mẫu chuẫn mực xã hội khác”
[186, tr.439] mà trái lại “pháp luật sẽ làm chấn hưng những phong tục, tập quán phù
hợp, những nét đẹp đạo đức truyền thống và triệt tiêu phong tục, tập quán, những
khuôn mẫu không phù hợp pháp luật” [186, tr.439].
Trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa, pháp luật là công cụ của nhà
nước nhằm bảo đảm hiệu quả việc thực hiện các mục tiêu về xây dựng và phát triển
nền văn hóa. Do đó, để văn hóa truyền thống được giữ gìn, phát huy giá trị vốn có,
trước hết đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, một chính sách văn hóa
với những mục tiêu hợp lý và bộ máy quản lý vận hành có khả năng đảm bảo thực hiện
các mục tiêu đó. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật chứ không chỉ bằng đạo lý,
truyền thống của văn hóa dân tộc, nhưng khi những đạo lý, những giá trị tốt đẹp của
dân tộc được hòa vào đời sống pháp luật, được luật hóa, trở thành ý chí của nhà nước-
mà đó là ý chí của nhân dân, ý chí của toàn xã hội thì sẽ đem lại hiệu lực, hiệu quả rất
lớn trong quản lý nhà nước, qua đó bảo đảm hiệu quả các mục tiêu đối với việc giữ gìn,
phát huy GTVHTT.
Thứ tư, vai trò của pháp luật với tư cách là công cụ tổ chức và điều chỉnh các
quan hệ liên quan đến việc giữ gìn, phát huy GTVHTT còn được xác định bởi các chức
năng bảo vệ của pháp luật. Với việc điều chỉnh các quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội,
pháp luật thể hiện khả năng bảo vệ của mình đối với các trật tự, các chuẩn mực văn hóa
đã được xác lập. Thông qua công tác ban hành pháp luật, Nhà nước quy phạm hóa các
chính sách văn hóa thành pháp luật nhằm điều chỉnh, hướng dẫn hành vi xử sự của các
chủ thể trong quá trình giữ gìn, phát huy GTVHTT. Ngoài ra, pháp luật còn chứa đựng
những quy phạm đặt ra những hạn chế, cấm đoán mọi hành vi xâm phạm các
GTVHTT, các hoạt động văn hóa xâm phạm thuần phong, mỹ tục, những giá trị truyền
thống tốt đẹp của nhân dân như cấm xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác [Bộ
Luật Hình sự] hoặc cấm ngược đãi ông bà, cha mẹ [Luật Hôn nhân và gia đình]. Đồng
thời, pháp luật cũng dự liệu hệ thống chế tài và khả năng trách nhiệm pháp lý trong
trường hợp các quan hệ xã hội, các chuẩn mực văn hóa được pháp luật điều chỉnh bị vi
phạm để qua đó loại bỏ các quan hệ không phù hợp, các giá trị lỗi thời, bảo vệ các quan
hệ, các giá trị lành mạnh.
Thứ năm, pháp luật cũng chỉ rõ những hậu quả pháp lý có thể xảy ra mà chủ
thể vi phạm phải gánh chịu, qua đó nhằm răn đe, giáo dục giúp chủ thể điều chỉnh lại
50
hành vi cho phù hợp. Đây là nội dung quan trọng thể hiện vai trò của pháp luật đối với
các lĩnh vực của xã hội, chẳng hạn Luật Di sản văn hóa quy định “người nào lợi dụng
chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định của pháp luật về di sản văn hóa thì tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu
gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” [Điều 72- Luật Di sản
văn hóa]. Ngoài ra, pháp luật cũng trao cho chủ thể quản lý đầy đủ thẩm quyền nhằm
bảo đảm xử lý, đấu tranh ngăn ngừa các hành vi xâm hại đến chế độ kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội của đất nước. Cùng với đó là các biện pháp, hình thức khen thưởng, cổ
động cũng được pháp luật dự liệu trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
nhằm kịp thời động viên, khuyến khích và ghi nhận công lao của các chủ thể có những
đóng góp, thành tích trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT.
2.2.4. Pháp luật giáo dục nâng cao ý thức con người trong việc giữ gìn, phát
huy giá trị văn hóa truyền thống
Pháp luật là phương tiện quan trọng để giáo dục mọi người từ những cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân. Những
quy phạm pháp luật được đặt ra luôn xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, là
khuôn mẫu cho hành vi xử sự của mọi chủ thể khi ở trong tình huống đã được dự kiến,
qua đó tạo cho mọi chủ thể khả năng sử dụng những quyền đã được quy định để phục
vụ lợi ích của mình, nhưng đồng thời phải thực hiện những nghĩa vụ tương ứng để tôn
trọng quyền và lợi ích của các chủ thể khác trong xã hội.
Ý thức pháp luật đóng vai trò quan trọng trong sự hình thành và tồn tại của pháp
luật, do đó ý thức pháp luật là tiền đề quan trọng để xây dựng pháp luật nhằm tạo cơ sở
pháp lý cho nhà nước thực hiện hoạt động quản lý trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội nói chung và trong lĩnh vực văn hóa nói riêng. Mặt khác, pháp luật cũng tác động
đến sự vận động, phát triển ý thức con người. Vì vậy, xét từ góc độ chung, sự tồn tại
của hệ thống pháp luật và một nền tảng văn hóa tốt đẹp sẽ tác động lên nhận thức của
chủ thể trong việc xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam và đó sẽ là nhân tố quan
trọng thúc đẩy ý thức con người trong giữ gìn, phát huy GTVHTT. Như vậy, một hệ
thống pháp luật đồng bộ, khách quan sẽ là điều kiện thiết yếu cho nâng cao ý thức của
con người trong giữ gìn, phát huy GTVHTT.
Pháp luật giáo dục con người tính tự giác, tinh thần trách nhiệm với cộng đồng
xã hội, trong đó có ý thức và trách nhiệm đối với giá trị văn hóa dân tộc. Do đó, để
51
nâng cao ý thức pháp luật cho mọi người trong giữ gìn, phát huy GTVHTT thì việc
nâng cao vai trò của pháp luật trong đời sống cộng đồng và ý thức tự giác của mọi
người là việc làm cần thiết. Có thể khẳng định rằng ý thức pháp luật của các chủ thể
một mặt là sản phẩm của sự tác động pháp luật vào nhận thức của con người, mặt khác
là nhân tố hình thành tri thức, tình cảm, hành vi pháp luật của họ đối với những giá trị
tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc. Vì thế, “ý thức pháp luật liên quan và tác động trực
tiếp tới cơ chế điều chỉnh pháp luật” [189, tr.50] và là cơ sở để pháp luật thực hiện vai
trò của mình trong giữ gìn, phát huy GTVHTT thông qua nhận thức và hành vi tích cực
của các chủ thể trong đời sống xã hội. Chính những cảm nhận, hiểu biết và thấy rõ vai
trò to lớn của GTVHTT đối với sự phát triển của đất nước thông qua hệ thống các quy
định của pháp luật sẽ giúp cho con người có niềm tin và ứng xử phù hợp hơn trong
hành vi của mình đối với các GTVHTT. Chẳng hạn, các quy định về nguyên tắc trong
giao dịch dân sự, theo đó các giao dịch không được trái pháp luật và đạo đức xã hội,
mọi giao dịch trái nguyên tắc trên đều bị xem vô hiệu [Bộ Luật Dân sự], hoặc nguyên
tắc ưu tiên khám bệnh đối với người già và trẻ em [Luật khám chữa bệnh] là những
quy định tạo nên niềm tin trong nhân dân về các giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc
được pháp luật bảo vệ. Qua đó củng cố niềm tin của con người và góp phần nâng cao ý
thức của người dân trong tuân thủ các quy định pháp luật đối việc giữ gìn, phát huy
GTVHTT.
Về phạm vi tác động, “ý thức pháp luật tác động lên tất cả các quá trình xây
dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật” [189, tr.50]. Nó không chỉ góp phần quyết định
chất lượng của hoạt động sáng tạo pháp luật mà còn chi phối rất lớn đến hiệu quả của
việc đưa pháp luật vào cuộc sống. Cho nên, nếu có nhận thức đúng đắn của con người
đối với hệ thống pháp luật về các GTVHTT thì sẽ hình thành những hành vi tích cực
phù hợp với pháp luật, đáp ứng các yêu cầu, tiêu chuẩn, quy tắc về xây dựng và phát
triển nền văn hóa, qua đó tác động tích cực đến việc giữ gìn, phát huy GTVHTT tốt
đẹp của dân tộc. Có thể khẳng định ý thức pháp luật, một mặt được hình thành và được
bồi đắp bởi nhiều kênh khác nhau, với những cấp độ và phạm vi khác nhau (qua các
phương tiện thông tin truyền thông, qua giáo đục pháp luật, qua các dự án pháp luật,
qua xử lý vi phạm…) nhưng nó luôn là nhân tố chi phối đến hiệu quả vai trò của pháp
luật trong việc bảo vệ và giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc; đồng thời
phụ thuộc rất nhiều vào tính tích cực hay không tích cực trong ý thức của mỗi chủ thể.
52
Nhưng mặt khác, ý thức pháp luật cũng phụ thuộc rất lớn vào công tác xây dựng, hoàn
thiện hệ thống pháp luật, vào việc áp dụng pháp luật, vào hiệu quả của việc tổ chức các
quá trình xã hội và mức độ dân chủ hóa đời sống xã hội. Bởi thế, vai trò của pháp luật
trong giữ gìn, phát huy GTVHTT không thể tách rời đòi hỏi nâng cao hiệu quả, chất
lượng các hoạt động xây dựng pháp luật, hiệu quả quản lý nhà nước, giáo dục pháp luật
và các giá trị đạo đức, văn hóa truyền thống dân tộc cho cán bộ, công chức, viên chức
và các tầng lớp nhân dân theo những định hướng tích cực và phù hợp với thực tiễn đời
sống xã hội.
Trong quá trình thực hiện chức năng điều chỉnh và bảo vệ các quan hệ xã hội,
trong đó có các quan hệ trong đời sống văn hóa, pháp luật luôn bị chi phối, ràng buộc
bởi các yếu tố đạo đức, văn hóa của dân tộc. Từ đó, tác động mạnh mẽ lên ý thức của
các chủ thể quan hệ pháp luật, hình thành một ý thức pháp luật tương ứng và một lối
sống phù hợp không trái pháp luật và đạo đức xã hội thông qua việc các chủ thể chủ
động lựa chọn cách thức ứng xử trong thực tiễn đời sống phù hợp với các chuẩn mực
trên. Có thể khẳng định rằng việc thực hiện đúng các yêu cầu của pháp luật trong đời
sống xã hội là hành động có văn hóa của con người, trong trường hợp này giá trị đạo
đức, văn hóa của dân tộc được phát huy.
Tóm lại, pháp luật cung cấp cho con người một lượng thông tin về những khả
năng khác nhau của hành vi. Thông qua ý thức của con người nó điều khiển toàn bộ
quá trình định hướng, xác định mục đích, động cơ, điều chỉnh và điều khiển hành vi
của con người trong các quan hệ nhằm giữ gìn những giá trị truyền thống của dân tộc.
2.2.5. Pháp luật chuyển tải nội dung, bảo đảm thực hiện các cam kết quốc
tế liên quan đến giá trị văn hóa truyền thống
Để bảo đảm vai trò của pháp luật trong việc chuyển tải nội dung, bảo đảm thực
hiện các cam kết quốc tế về văn hóa và GTVHTT mà Việt Nam tham gia, Nhà nước
thông qua hệ thống cơ quan có thẩm quyền thực hiện quy trình xây dựng pháp luật.
Trong đó nội dung cơ bản là phải bảo đảm pháp điển hoá các quy định điều ước quốc
tế vào nội dung của quy phạm pháp luật trong nước nhằm có nội dung pháp lý đúng
với nội dung của các quy định của điều ước đã được ký kết hoặc gia nhập. Chẳng hạn,
trên cơ sở phê chuẩn Công ước 2003 của UNESCO về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật
thể, Nhà nước Việt Nam khi ban hành và sau này sửa đổi Luật Di sản văn hóa đã dành
một chương (chương III) quy định việc bảo vệ và phát huy giá trị Di sản văn hóa phi
53
vật thể tại Luật nhằm bảo đảm sự đồng bộ giữa pháp luật Việt Nam với Công ước về
Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể.
Mục đích của việc pháp điển hóa này không phải là để khẳng định hiệu lực pháp
lý của điều ước bởi vì dưới góc độ pháp lý quốc tế, hiệu lực của một điều ước quốc tế
nhất định không bị chi phối bởi việc nó đã được pháp điển hóa vào luật pháp quốc gia
hay chưa. Cụ thể, để có hiệu lực, một điều ước quốc tế cần đáp ứng các điều kiện nhất
định: thứ nhất, phải được ký kết trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng; thứ hai, nội dung của
điều ước không trái với các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế. Về thời điểm bắt đầu có
hiệu lực của điều ước do các bên ký kết điều ước thoả thuận và thường ghi nhận rõ ràng,
chính xác ở phần cuối cùng trong cơ cấu của điều ước đó. Nếu hiểu pháp điển hoá là điều
kiện để điều ước quốc tế có hiệu lực với quốc gia thành viên là hoàn toàn không chính
xác, bởi vì khi điều ước quốc tế đã có hiệu lực thì quốc gia đương nhiên có nghĩa vụ thi
hành bất kể có (hoặc đã) pháp điển hóa vào hệ thống pháp luật quốc gia hay không.
Việc pháp điển hóa các điều ước quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia làm
cho pháp luật trong nước ngày đồng bộ hơn, phù hợp hơn các hệ thống pháp luật tiến
bộ trên thế giới trong quá trình hội nhập, làm cho pháp luật trong nước không lạc hậu
so với pháp luật các nước trên thế giới. Qua đó, giúp cho việc tiếp thu các giá trị tiên
tiến trong kỹ thuật lập pháp cũng như nội dung pháp lý về việc bảo vệ và phát huy các
GTVHTT của các quốc gia, các nền văn hóa lớn trên thế giới. Có thể khẳng định việc
pháp điển hóa các điều ước quốc tế là cách hiệu quả nhất nhằm bảo đảm sự tương
thích, đồng bộ của pháp luật nước ta với luật pháp quốc tế, là con đường hiệu quả nhất
nhằm chuyển tải nội dung, bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế về văn hóa và
GTVHTT mà Việt Nam tham gia.
Việc pháp điển hóa các các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia cũng góp
phần quảng bá hình ảnh, đất nước, con người và văn hóa Việt Nam, đặc biệt là các giá
trị đặc sắc của văn hóa truyền thống ra thế giới thông qua hoạt động mang tính pháp lý
cao. Do vậy, tính bắt buộc và hiệu lực pháp lý rất khác so với các hoạt động quảng bá
khác, từ đó giúp cho tiến trình hội nhập của Việt Nam ngày càng mạnh mẽ hơn, toàn
diện hơn. Bên cạnh đó, thông qua việc pháp điển hóa các điều ước quốc tế giúp cho
chúng ta tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới về công tác bảo tồn và giữ gìn,
phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc. Vì vậy, pháp luật trong trường hợp này
không những không làm mất đi các GTVHTT mà còn làm cho các giá trị đó “giá trị”
54
hơn, phát triển hơn và vươn xa hơn. Qua đó, chính pháp luật sẽ góp phần sàn lọc các
yếu tố văn hóa truyền thống có giá trị, phù hợp với tiến trình phát triển và loại dần các
yếu tố không phù hợp, gây cản trở.
Việt Nam đang đứng trước sự tác động của mặt trái của quá trình toàn cầu hóa,
những mặt trái của cơ chế thị trường; sự gia tăng của quá trình công nghiệp hóa và đô
thị hóa, do đó các GTVHTT của dân tộc cũng có nguy cơ mất chỗ đứng trong trong đời
sống tinh thần của nhân dân. Vì vậy, việc giữ gìn, phát huy tốt các giá trị văn hóa tốt
đẹp của dân tộc sẽ góp phần quan trọng quyết định sự hình thành và phát triển toàn
diện về nhân cách và trí tuệ con người Việt Nam; về sự hưng thịnh và tồn vong của đất
nước. Trong quá trình hội nhập quốc tế buộc chúng ta không chỉ quan tâm tới việc bảo
vệ độc lập, chủ quyền quốc gia về mặt lãnh thổ và chính trị mà còn phải tìm mọi
phương cách để bảo vệ và giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, chống nguy
cơ bị biến dạng và đồng hóa về văn hóa. Lẽ tất nhiên, pháp luật là công cụ bảo đảm
chuyển tải nội dung và thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế về văn hóa, qua đó
pháp luật sẽ phát huy hiệu quả trong việc giữ gìn các GTVHTT, góp phần vào việc xây
dựng thành công các mục tiêu quốc gia về văn hóa.
2.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ
GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Pháp luật ra đời là quá trình tác động có mục đích lên các quan hệ xã hội. Do đó
sự ra đời của hệ thống pháp luật trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT ở nước ta là kết
quả của sự thể chế hóa những quan điểm, đường lối, chủ trương mà Đảng đã đề ra. Tuy
nhiên, để thực hiện tốt cơ chế điều chỉnh cũng như bảo đảm cho pháp luật phát huy tốt
vai trò trong việc điều chỉnh các quan hệ trên, bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp,
giáo dục và tổ chức thực hiện pháp luật hiệu quả; dân chủ hóa đời sống xã hội và tổ
chức tốt các quá trình xã hội thì vai trò của pháp luật còn bị chi phối bởi những yếu tố
nhất định. Sau đây là các yếu tố cơ bản ảnh hưởng vai trò của pháp luật trong giữ gìn,
phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay.
2.3.1. Yếu tố kinh tế
Là yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, pháp luật được sinh ra trên cơ sở
của hạ tầng và bị quy định bởi cơ sở hạ tầng. Kinh tế không chỉ là tiền đề quyết định sự
ra đời của pháp luật cũng như việc phát huy vai trò của nó đối với đời sống xã hội, mà
còn quyết định cả nội dung, tính chất và cơ chế điều chỉnh của pháp luật. Vấn đề này C.
55
Mác đã từng viết: “Trong thời đại nào cũng thế, chính là vua chúa phải phục tùng
những điều kiện kinh tế, chứ không phải bao giờ vua chúa ra lệnh cho những điều kiện
kinh tế được. Chẳng qua, chế độ pháp luật về chính trị cũng như về dân sự chỉ là làm
cái việc nói lên, ghi chép lại quyền lực của những quan hệ kinh tế” [22, tr.13]. Từ đó có
thể khẳng định “dù là pháp luật ở giai đoạn nào, thời đại nào, thì pháp luật cũng không
được cao hơn chế độ kinh tế và văn hóa do nó tạo ra” [196, tr.139]. Đó là quy luật
khách quan, bởi nó luôn được ra đời trên cơ sở kinh tế và được quyết định bởi chế độ
kinh tế của xã hội ở giai đoạn đó. Nếu pháp luật được ra đời không trên cơ sở kinh tế
của xã hội thì pháp luật đó sẽ không phát huy được vai trò trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội mà nó hướng tới. Vì vậy, kinh tế là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến hiệu quả vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT.
Mỗi loại cơ cấu và hệ thống kinh tế đều tạo cho mình những loại quan hệ xã
hội, văn hóa và quan hệ kinh tế đặc thù- những loại quan hệ xã hội có nhu cầu được
điều chỉnh bằng pháp luật. Do đó, trong bất kỳ cơ chế kinh tế nào và dù bản thân khái
niệm về cơ chế kinh tế còn phải tranh luận thì pháp luật bao giờ cũng được coi như
một bộ phận cấu thành của cơ chế kinh tế. Bởi vì “pháp luật, suy cho cùng là sự biểu
hiện về mặt hình thức pháp lý những nội dung kinh tế mà thôi” [196, tr.139]. Pháp
luật tồn tại trong khuôn khổ và điều kiện kinh tế của xã hội ở một giai đoạn nhất định
và có nhiệm vụ điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh từ cơ chế kinh tế. Do đó,
những điều kiện về kinh tế tốt đẹp sẽ tác động rất lớn đến cơ chế điều chỉnh của pháp
luật và vai trò của chúng đối với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT cũng bị chi phối
bởi các điều kiện này.
Vai trò quyết định của kinh tế đối với pháp luật trong việc thực hiện các mục
tiêu của nền văn hóa được thể hiện ở chỗ kinh tế sẽ hình thành nên hệ thống pháp luật
tương ứng với nó. Theo học thuyết Mác- Lênin trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào
thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh thần
của xã hội. Các mâu thuẫn trong kinh tế xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong
lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Do đó cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị, tư tưởng là biểu
hiện những đối kháng trong đời sống kinh tế. Yếu tố quyết định của kinh tế đến vai trò
của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT còn thể hiện ở chỗ khi nền kinh tế thay
đổi thì sớm hay muộn hệ thống pháp luật về văn hóa cũng thay đổi theo. Về vấn đề này
56
C.Mác khẳng định: “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ
cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng” [23, tr.15].
Tất nhiên, ở đây tính ổn định của pháp luật là yêu cầu tiên quyết bảo đảm vai
trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, nhưng với việc thay đổi
về kinh tế thì ít nhiều cũng tác động đến quan điểm của nhà làm luật, đến việc đề ra
các chính sách văn hóa và hướng đến mục tiêu của các chính sách. Từ đó, sự biến
động trong hệ thống pháp luật thực định đối với lĩnh vực văn hóa cũng như các yêu
cầu, nhiệm vụ về giữ gìn, phát huy GTVHTT là điều khó tránh khỏi. Kinh tế được
xem là yếu tố không thể thiếu trong việc bảo đảm vai trò của pháp luật trong đời
sống xã hội, cho nên việc xây dựng pháp luật đáp ứng các yêu cầu về giữ gìn, phát
huy GTVHTT phải trên cơ sở đời sống kinh tế- xã hội hiện tại nhưng phải có dự
tính đến tương lai phát triển của kinh tế nhằm đảm bảo tính ổn định lâu dài của pháp
luật. Vì trong trường hợp này, pháp luật điều chỉnh lĩnh vực thuộc đời sống tinh
thần của xã hội, từ đó sự biến động trong kinh tế sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến các yếu
văn hóa, đạo đức, nhân cách con người và tác động rất lớn đến việc đề ra và thực
hiện mục tiêu về văn hóa, con người Việt Nam. Do đó, sự ổn định trong phát triển
kinh tế sẽ góp phần quan trọng vào việc bảo đảm cơ chế điều chỉnh của pháp luật
cũng như bảo đảm vai trò của nó trong việc thực hiện các mục tiêu xây dựng và
phát triển nền văn hóa.
Pháp luật ra đời, tồn tại và phát triển dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định.
Nó phản ánh trình độ phát triển của kinh tế, nên không thể cao hơn hoặc thấp hơn so
với điều kiện kinh tế. Vì vậy, một nền kinh tế phát triển và ổn định là điều kiện
quan trọng bậc nhất bảo đảm cho vai trò của pháp luật, ngược lại nếu kinh tế chậm
phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến
mục đích của pháp luật đề ra khi điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đối với nước ta,
nền kinh tế đã và đang phát triển tương đối toàn diện và ổn định, với nhịp độ tăng
trưởng kinh tế ngày càng tốt hơn, đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần
của nhân dân, đây là điều kiện thuận lợi tác động tích cực đến vai trò của pháp luật
trong giữ gìn, phát huy GTVHTT hiện nay.
Một nền kinh tế phát triển mạnh, bền vững sẽ tạo nên tác động kép, kéo theo
một loạt các vấn đề về văn hóa, chính trị, xã hội mà nhà quản lý phải tìm hướng giải
quyết. Do vậy, một trong những yêu cầu bảo đảm sự thành công của việc thực hiện các
57
mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam là sự phát triển mạnh mẽ và bền
vững của nền kinh tế. Đạt được mục tiêu đó của nền kinh tế sẽ quyết định sự ra đời và
điều chỉnh các quan hệ xã hội của pháp luật. Nhưng mặc khác, pháp luật lại luôn là yếu
tố tác động rất tích cực đối với kinh tế, là hình thức quan trọng cho sự phát triển kinh
tế. Vì vậy, giữa chúng có mối quan hệ tương hỗ nhau, cùng nhau phát triển, một mặt
kinh tế quyết định vai trò của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội, ngược lại
pháp luật có vai trò thúc đẩy, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển kinh tế. Tuy
nhiên, pháp luật suy cho cùng là sự biểu hiện về mặt hình thức pháp lý những nội dung
kinh tế. Do đó pháp luật tồn tại trong khuôn khổ của cơ chế kinh tế và có nhiệm vụ
điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ cơ chế kinh tế và bảo đảm sự tồn tại vững bền của
cơ chế đó.
2.3.2. Yếu tố chính trị - xã hội
Chính trị và pháp luật đều là hai hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc, đều có
chung nguồn gốc và cơ sở tồn tại là chế độ kinh tế. C. Mác viết: “trên cơ sở hạ tầng là
thượng tầng chính trị pháp lý” [196, tr.139]. Pháp luật, một mặt ra đời từ cơ sở kinh tế,
mặt khác nó là sản phẩm thể hiện ý chí, quan điểm chính trị của giai cấp cầm quyền.
Pháp luật là phương tiện chủ yếu để chuyển hóa những quan điểm, chủ trương, đường
lối của đảng cầm quyền thành ý chí chung của xã hội, của nhà nước. Tuy nhiên, khi thể
hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, pháp luật còn chịu ảnh hưởng nhất định bởi đường
lối chính trị của các giai cấp và các tầng lớp khác trong xã hội. Mặc dầu vậy, đường lối
chính trị của Đảng cầm quyền sẽ quyết định đến phương hướng xây dựng pháp luật,
chỉ đạo nội dung pháp luật, chỉ đạo việc tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật.
Hệ thống pháp luật về xây dựng và phát triển nền văn hóa với các yêu cầu, mục
tiêu về giữ gìn, phát huy GTVHTT được ra đời và đi vào thực tiễn đời sống xã hội trên
tinh thần đó. Để tạo cơ chế pháp lý về giữ gìn, phát huy những giá trị tốt đẹp của văn
hóa truyền thống, nhà nước phải thể chế hóa những quan điểm, đường lối chỉ đạo của
Đảng về những vấn đề trên thành pháp luật. Từ đây, một loạt các hoạt động của cơ
quan quản lý nhà nước như tổ chức giáo dục pháp luật, thực hiện pháp luật, xây dựng
phát triển các thiết chế văn hóa và các quá trình xã hội về vấn đề trên cũng được tiến
hành. Do đó, để bảo đảm phát huy hiệu quả vai trò đó của pháp luật đòi hỏi phải có sự
quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị với những bước đi cần thiết với nhiều hình thức
thích hợp nhằm tạo ra sự ủng hộ trong rộng rãi trong quần chúng nhân dân.
58
Pháp luật thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội và là
công cụ thực hiện sự thống trị giai cấp, nên để phát huy vai trò trong việc điều chỉnh
các mối quan hệ xã hội pháp luật phụ thuộc rất lớn vào các điều kiện chính trị-xã hội
của đất nước. Vì vậy, nếu tình hình chính trị- xã hội trong nước không ổn định, các tổ
chức chính trị- xã hội không phát huy hiệu quả hoạt động thì sẽ gây ra những tác động
tiêu cực, làm giảm hiệu quả của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, do
đó các mục tiêu về xây dựng và phát triển văn hóa cũng khó đạt được. Các điều kiện
chính trị- xã hội như sự bình đẳng của mọi người với nhau về các nhu cầu đi lại, ăn
mặc, tự do hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần cùng với hệ thống chính trị ngày
càng được củng cố và phát triển luôn là nhân tố bảo đảm tốt nhất vai trò của pháp luật
trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do đó, sự ổn định xã hội là yếu tố quan trọng
trong công tác quản lý nhà nước, cũng như ảnh hưởng rất lớn đối với quá trình đặt ra và
thực hiện các mục tiêu về xây dựng và phát triển nền văn hóa. Vì vậy, những biến đổi
của tình hình thế giới, sự thay đổi của các luật lệ quốc tế, trong quá trình toàn cầu hóa;
sự phát triển của khoa học -công nghệ; chủ nghĩa khủng bố; sự chia rẽ của các định chế
chính trị- tài chính lớn trên thế giới cũng ảnh hưởng rất lớn đến vai trò của pháp luật
trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT ở Việt Nam hiện nay.
Đời sống xã hội hiện nay đã biểu hiện rất rõ tính năng động của con người về
mặt tư duy và tư tưởng. Đây là sự khởi động tích cực ý thức xã hội khỏi những sự trì
trệ, bảo thủ và giáo điều trước đây nhờ có đổi mới tư duy, tự do tư tưởng và giải phóng
tinh thần. Thông tin nhiều chiều và các phương tiện chuyển tải thông tin đa dạng đã
đem lại cho các tầng lớp nhân dân những hiểu biết mới, góp phần rất quan trọng để
nâng cao trình độ, nhận thức giúp cho người dân tiếp cận nhanh hơn với tình hình và
các sự kiện diễn ra của đời sống xã hội ở trong nước cũng như trên thế giới. Qua đó,
thúc đẩy mạnh mẽ sự quan tâm của dân chúng đối đời sống xã hội trên mọi lĩnh vực,
đặc biệt các GTVHTT được quan tâm hơn và được bảo vệ và giữ gìn, phát huy tốt hơn.
Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu dân chủ, nhu cầu sáng tạo của mỗi người
ngày càng cao hơn. Kinh tế thị trường và dân chủ hóa tác động tới sự biến đổi ý thức,
tâm lý đó; đồng thời cũng diễn ra những biến đổi trong lối sống, trong sự lựa chọn giá
trị và định hướng giá trị. Trong xã hội hiện nay đang có sự đan xen rất phức tạp giữa
cái tích cực, lành mạnh; hợp lý với cái tiêu cực, không lành mạnh, thậm chí xuất hiện
cả những biểu hiện trái với luân lý; đan xen cả tự giác lẫn tự phát, cả cái mới tiến bộ lẫn
59
cái cũ lạc hậu lỗi thời; giữa văn hóa và phản văn hóa. Thực trạng đó do tác động của
mặt trái cơ chế thị trường cùng với những lệch lạc, biến dạng dân chủ như tập trung
quan liêu, phân tán, cục bộ, tự do vô chính phủ cùng với những yếu kém trong quản lý
đã dẫn đến những sự đan xen phức tạp nêu trên. Chính các hiện tượng xã hội này cũng
sẽ tác động và ảnh hưởng rất lớn vai trò của pháp luật trong việc thực hiện các mục tiêu
quốc gia về xây dựng và phát triển nền văn hóa.
2.3.3. Yếu tố pháp luật
Một yếu tố quan trọng không thể thiếu nhằm bảo đảm vai trò của pháp luật
trong giữ gìn, phát huy GTVHTT, đó là pháp luật. Bởi vì chỉ khi thông qua hệ thống
pháp luật đồng bộ, hoàn thiện sẽ tạo lập cơ chế pháp lý để thực hiện và áp dụng pháp
luật có hiệu quả đối với các quy định pháp luật cụ thể về giữ gìn, phát huy GTVHTT.
Sự hoàn thiện của hệ thống pháp luật thực định thể hiện ở những tiêu chuẩn như tính
toàn diện, tính đồng bộ, tính phù hợp, tính ổn định và trình độ kỹ thuật pháp lý cao
được sử dụng để hình thành hệ thống văn bản pháp luật.
Với những thuộc tính của mình, pháp luật đã trở thành một công cụ quản lý
xã hội không thể thay thế được trong xã hội hiện đại và cũng không có một công cụ
quản lý nào có thể so sánh với pháp luật về tính hiệu quả trong quản lý. Do đó, việc
nâng cao hiệu quả của pháp luật, phát huy tới mức cao nhất vai trò của nó trong đời
sống xã hội sẽ có ảnh hưởng và tác động rất lớn đến vai trò của pháp luật trong việc
thực hiện các mục tiêu văn hóa. Chỉ có thông qua hệ thống các văn bản pháp luật
hoàn chỉnh, đồng bộ mới phát huy hiệu quả vai trò của pháp luật trong thực tế đời
sống xã hội. Các văn bản pháp luật tồn tại với nhiều hình thức khác nhau và điều
chỉnh các quan hệ xã hội tương ứng với những tính chất khác nhau. Với tính cách là
hình thức cơ bản của pháp luật, hệ thống các văn bản pháp luật phản ánh tất cả các
quy luật khách quan của sự vận động xã hội mà nó hướng tới, chỉ thông qua đó cơ
chế điều chỉnh của pháp luật mới được đảm bảo.
Như vậy, vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT không những
phụ thuộc ở bản chất, đặc điểm các quan hệ xã hội do pháp luật điều chỉnh, ở phương
pháp điều chỉnh phù hợp, mà còn phụ thuộc việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố, quy
trình của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Để pháp luật phát huy hiệu quả vai trò trong việc
điều chỉnh các quan hệ xã hội thì pháp luật phải có chất lượng tốt, phải có một hệ thống
pháp luật thực định ổn định cao, các nguyên tắc của pháp luật được bảo đảm, trật tự
60
pháp luật được thiết lập ổn định trên phạm vi toàn xã hội. Qua đó, cho thấy vai trò của
pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT phụ thuộc rất lớn vào công tác xây dựng,
hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật.
2.3.4. Yếu tố tư tưởng, văn hóa, đạo đức
Những nội dung về tư tưởng, nhất là hệ tư tưởng thống trị có ý nghĩa chi phối ý
thức xã hội, trong đó có ý thức pháp luật. “Nếu hệ tư tưởng thống trị trong xã hội là hệ
tư tưởng tiên tiến sẽ là cơ sở pháp luật “bám sâu” vào đời sống xã hội, phát huy vai trò
của mình. Ngược lại, nếu đó là hệ tư tưởng lạc hậu, hay bị chi phối bởi những hủ tục
lạc hậu thì pháp luật có thể bị triệt tiêu vai trò” [115, tr.59]. Ở Việt Nam, chủ nghĩa
Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là những bảo đảm quan
trọng đối với vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT. Những yếu tố về
văn hóa, nhất là văn hóa truyền thống có ý nghĩa to lớn đối với việc thực hiện pháp
luật. Do đó, pháp luật chỉ phát huy mạnh mẽ vai trò của nó khi có một nền tảng xã hội
bền vững, các giá trị văn hóa, đạo đức xã hội được đề cao. Vì vậy, một mặt phải bảo
đảm tính thượng tôn trong ứng xử của các chủ thể trong đời sống xã hội, mặt khác phải
hình thành chuẩn mực ứng xử trong các quan hệ xã hội cụ thể, đồng thời phải có nhiệm
vụ duy trì, bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức xã hội. Một nền tảng đạo
đức xã hội tốt sẽ hình thành nên văn hóa tốt đẹp trong mọi hoạt động của con người,
trong đó có việc thực hiện mục tiêu về xây dựng và phát triển nền văn hóa.
2.3.5. Yếu tố môi trường dân chủ - pháp quyền
Trình độ phát triển nền dân chủ ở mức độ nhất định xuất hiện yêu cầu cầu bảo
vệ, giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Lúc đó, xã hội cần tạo ra môi trường an toàn,
thuận lợi để các cá nhân, tổ chức được thụ hưởng những GTVHTT. Trong số các
phương tiện giữ gìn, phát huy các GTVHTT như chính sách, pháp luật, văn hóa, đạo
đức, ý thức xã hội thì pháp luật giữ vai trò quan trọng. Trong xã hội dân chủ, các thiết
chế như gia đình, cộng đồng, tổ chức xã hội...là những địa chỉ để lưu giữ, bảo vệ
những GTVHTT. Trong điều kiện đó, pháp luật cần tạo ra cơ chế, ghi nhận rõ quyền,
nghĩa vụ cũng như trách nhiệm của các chủ thể trong việc bảo vệ các GTVHTT.
Muốn hoạt động giữ gìn, phát huy các GTVHTT hiệu quả cần phải tạo ra môi trường
xã hội dân chủ, thuận lợi. Điều đó có nghĩa cần có sự đồng thuận cả xã hội, cộng
đồng, các giai cấp, tầng lớp trong xã hội trong việc giữ gìn các GTVHTT. Do vậy,
những giá trị truyền thống, ý thức chấp hành pháp luật của chủ thể pháp luật, trách
61
nhiệm của cá nhân với cộng đồng, với xã hội… là những bảo đảm xã hội rất cần thiết,
góp phần tạo ra môi trường, điều kiện để phát huy vai trò của pháp luật trong việc giữ
gìn, phát huy các GTHVTT.
Tính pháp quyền thể hiện yêu cầu khách quan phải thừa nhận trong các yếu
tố bảo đảm, giữ gìn, phát huy GTVHTT thì pháp luật phải ở vị trí tối thượng, được
tôn trọng. Trong môi trường đó, ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ,
công chức, của các tầng lớp nhân dân có tác động tích cực đến hoạt động giữ gìn,
phát huy các GTVHTT. Các chủ thể thực hiện pháp luật (cá nhân, cơ quan, tổ chức)
trong pham vi, trách nhiệm của mình tự giác chuyển tải những yêu cầu của quy phạm
pháp luật thành những hành vi trên thực tế. Cùng với đó, các cá nhân, người có thẩm
quyền, các cơ quan áp dụng pháp luật áp với ý thức pháp luật cao áp dụng pháp luật
chính xác, xử lý nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật sẽ tạo ra một trật
tự pháp luật và pháp chế trong việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT tốt đẹp của dân tộc.
Ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý của cán bộ, công chức, của các tầng lớp nhân
dân có tác động tích cực đến việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Do vậy cần có
những biện pháp để phổ biến, tuyên truyền nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ,
đảng viên và các tầng lớp nhân dân về mục đích, yêu cầu của việc việc giữ gìn,
phát huy các GTVHTT.
2.3.6. Yếu tố về tổ chức bộ máy
Để thực hiện hiệu quả vai trò trong việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT thì
những nội dung, yêu cầu, mục tiêu cũng như hình thức, biện pháp về giữ gìn, phát huy
các GTVHTT được ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật (hệ thống pháp
luật thực định) cần được hiện thực hóa trong cuộc sống. Do vậy, hệ thống các thiết chế
tổ chức bộ máy bảo đảm vai trò của pháp luật trong việc giữ gìn, phát huy các
GTVHTT là yếu tố then chốt, quyết định. Các thiết chế đó trước hết là hệ thống các cơ
quan nhà nước với những thẩm quyền cụ thể, được pháp luật quy định thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật để giữ gìn, phát huy các GTVHTT.
Yếu tố tổ chức bộ máy bảo đảm, phát huy vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy
các GTVHTT còn thể hiện ở sự tham gia của các thiết chế xã hội như tổ chức xã hội, tổ
chức phi chính phủ, các thiết chế cộng đồng dân cư ở cơ sở... Nhà nước cần có chủ
trương, chính sách để huy động tối đa các nguồn lực của toàn xã hội để tạo ra sức mạnh
tổng hợp, giảm sức ép cho ngân sách nhà nước, nâng cao ý thức của các giai tầng xã
hội trong quá trình giữ gìn, phát huy các GTVHTT.
62
2.4. NGHIÊN CỨU KINH NGHIỆM VỀ VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA
PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN
THỐNG MỘT SỐ NƯỚC VÀ GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM
2.4.1. Kinh nghiệm của các quốc gia
2.4.1.1. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Quá trình công nghiệp hóa ở Hàn Quốc diễn ra nhanh chóng từ những năm
1960. Thời gian này, dân cư bắt đầu chuyển từ những làng quê lên thành thị và văn hóa
phương Tây ảnh hưởng rất lớn tại đây. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa
diễn ra nhanh chóng thì đồng thời lối sống cũ cũng biến mất một cách nhanh chóng.
Tiếp sau đó là các nghi lễ, nghệ thuật và những biểu đạt văn hóa phi vật thể cổ hơn đã
từng chi phối lối sống ở đây cũng có nguy cơ biến mất.
Trong số các loại hình nghệ thuật được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể ở
Hàn Quốc thì văn hóa dân gian độc đáo của họ chiếm đa số. Nhưng phần lớn mọi
người coi văn hóa dân gian thấp hơn nghệ thuật cao quý của tầng lớp người trong xã
hội được xem là tinh túy. Coi văn hóa dân gian là cái gì đó chưa chín chắn, không xứng
đáng được bảo vệ. Bởi được xem là sự cản trở của quá trình phát triển, nên nhiều người
ủng hộ hủy diệt văn hóa dân gian hơn là bảo vệ nó. Vì người ta cho rằng văn hóa dân
gian có quan hệ với đời sống của quá khứ, hơn nữa họ nghĩ nó sẽ bị biến mất bởi quá
trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Trong hoàn cảnh đó, vấn đề đặt ra
đối với chính phủ Hàn Quốc là văn hóa dân gian sẽ bị biến mất nếu không có một hệ
thống bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể đàng hoàng và các chính sách hỗ trợ kịp thời
không được kích hoạt thực hiện để bảo vệ chúng.
Để thực hiện chương trình bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, cơ sở pháp lý quan
trọng vẫn là đạo Luật Bảo vệ di sản văn hóa do Chính phủ Hàn Quốc thông qua năm
1962. Theo đó, các cơ quan quản lý của nhà nước về văn hóa như Ủy ban quản lý di
sản văn hóa đóng vai trò quan trọng trong thực hiện các chương trình này. Với chương
trình này, Chính phủ Hàn quốc khuyến khích xã hội hóa các hoạt động truyền dạy, sưu
tầm, thống kê các giá trị văn hóa phi vật thể; đề cao vai trò của các chuyên gia; hướng
sự chú ý của giới trẻ vào di sản văn hóa.
Sau năm 2003 (thời điểm công ước quốc tế về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể
ra đời), việc bảo vệ các di sản văn hóa phi vật thể đã cho những kết quả tích cực,
chuyển từ dạng bảo quản sang bảo vệ. Theo đó, một khi bất kỳ hình thức di sản văn
63
hóa phi vật thể nào được công nhận là di sản phi vật thể quốc gia, thì di sản nhân văn
sống (nghệ nhân) phải truyền tải di sản phi vật thể đó cho thế hệ tương lai. Việc truyền
tải đó bao gồm cả hình thức và khuôn mẫu của nó phải được giữ gìn mà không có bất
kỳ sự thay đổi nào và người học không phải trả bất cứ khoản tiền nào cho việc đào tạo
này. Chính phủ Hàn Quốc chi trả cho những di sản nhân văn sống đó một khoảng phụ
cấp hàng tháng tương đối tốt, họ được chữa bệnh miễn phí và các hỗ trợ đặc biệt khác.
Như vậy, cùng với các quy định của Luật bảo vệ di sản văn hóa, các chính sách cụ thể
của Chính phủ đã phát huy tác dụng trong bảo vệ các di sản văn hóa ở Hàn Quốc; hệ
thống các di sản văn hóa phi vật thể được công nhận và bảo vệ hiện nay đã mang lại
cho các nghệ nhân (di sản nhân văn sống) không chỉ những đền bù về kinh tế mà còn là
uy tín và sự tôn trọng bản thân.
2.4.1.2. Kinh nghiệm của Myanmar
Myanmar là một trong những quốc gia có nền văn hóa giàu có nhất ở Châu Á
và đất nước này đã cố gắng giữ gìn những GTVHTT của mình trong quá trình phát
triển đất nước. Chính sách nhất quán của Chính phủ Myanmar luôn khẳng định văn
hóa có giá trị to lớn trong việc giữ gìn truyền thống và tinh thần dân tộc, do đó người
dân Myanmar luôn được định hướng tới việc bảo tồn và quảng bá văn hóa Myanmar.
Chính sách văn hóa của Myanmar luôn theo đuổi các mục tiêu xã hội của nhà
nước, đó là: (1) Nâng cao tinh thần và đạo đức dân tộc; (2) Nâng cao uy tín và tính toàn
vẹn quốc gia và giữ gìn, bảo vệ di sản văn hóa và bản sắc dân tộc; (3) Nâng cao động
lực của tinh thần yêu nước; (4) Nâng cao những tiêu chuẩn về thể chất, tiêu chuẩn khỏe
mạnh và tiêu chuẩn của toàn dân tộc.
Trong nỗ lực phát triển quốc gia ở Myanmar luôn dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản
đó là: (i) không làm rạn nứt liên bang; (ii) không làm rạn nứt tính đoàn kết dân tộc; (iii)
sự bền vững và tự chủ của quốc gia.
Người ta tin tưởng rằng tinh thần liên bang có trong mỗi người dân Myanmar
dù họ sống bất cứ nơi đâu, đó chính là lòng yêu nước và mỗi tiểu bang đều nhất tâm
giữ vững và bảo vệ nó. Các chính sách giữ gìn và phổ biến giá trị truyền thống được
quan tâm và kêu gọi sự tham gia của người dân, đặc biệt là thế hệ trẻ để họ quan tâm
đến nền văn hóa của riêng mình. Bộ văn hóa có vai trò quan trọng trong việc xác định
các mục tiêu xã hội của quốc gia, Bộ đề ra Tầm nhìn và Sứ mệnh như sau:
64
Tầm nhìn: “Thực hiện mục tiêu xã hội của Myanmar bằng cách nâng cao tinh
thần và đạo đức dân tộc, uy tín mỗi quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, giữ gìn và bảo tồn
di sản văn hóa và bản sắc dân tộc, và thúc đẩy tinh thần yêu nước”.
Sứ mệnh: “Yêu thương đất nước và con người bằng cách tự hào về truyền
thống tốt đẹp của chính mình cũng như thông qua việc bảo tồn, thể hiện và quảng bá di
sản văn hóa Myanmar”
Vai trò then chốt của Bộ Văn hóa trong việc bảo tồn và quảng bá văn hóa dân
tộc được tổ chức và thực hiện một cách có hệ thống. Các Sở Văn hóa mỗi tiểu bang và
Cục/Vụ Văn hóa đại diện cho dân tộc Myanmar cũng do Chính phủ chịu trách nhiệm.
Để bảo vệ các giá trị di sản văn hóa phi vật thể Chính phủ ban hành các quy tắc và quy
định phù hợp với Công ước 2003 của UNESCO về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể.
Chính phủ cũng lập ra các Bảo tàng văn hóa và các bảo tàng này ngoài việc bảo tồn di
sản văn hóa vật thể cũng đóng vai trò quan trọng trong giữ gìn phong tục, tập quán và
truyền thống của các dân tộc thiểu số Myanmar bằng cách ghi chép lại các thông tin và
dữ liệu từ các chuyến đi điền dã và lưu trữ tài liệu. Bộ Văn hóa Myanmar có vai trò
quan trọng trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống như tổ chức các
cuộc triển lãm trang phục truyền thống và các triển lãm khác; đồng thời có những hoạt
động nhằm nuôi dưỡng và giới thiệu những gương mặt trẻ nổi bật trong nền hội họa
tiên tiến. Người ta tin rằng phong cách biểu diễn và phong cách ăn mặc bị mất đi thì
nền văn hóa sẽ bị phai nhạt. Nếu thời gian, nhịp điệu và gam của âm nhạc truyền thống
bị xáo trộn và sai lệch thì tiếp đó âm nhạc truyền thống cũng sẽ bị làm hỏng. Tương tự,
nếu việc phát âm, chữ viết và ngữ pháp bị hỏng thì tiếng nói và ngôn ngữ học sẽ bị ảnh
hưởng nặng nề. Đối với quốc gia Myanmar thì nghệ thuật trình diễn của một quốc gia
thể hiện bản sắc dân tộc và tiêu chuẩn văn hóa dân tộc của dân tộc đó. Do đó, trong
hàng nghìn năm lịch sử, người dân Myanmar đã bảo tồn nghệ thuật trình diễn, truyền
lại kỹ năng nghệ thuật, sự sáng tạo tinh tế và sự sáng tác từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Hàng năm, Chính phủ Myanmar liên tục tổ chức các cuộc thi nghệ thuật trình
diễn truyền thống quy mô lớn ở cấp quốc gia. Nhà nước đã và đang không chỉ khuyến
khích phát triển và phát huy văn hóa truyền thống, mà còn khuyến khích bảo tồn và
phát huy văn hóa đó trong quần chúng. Đặc biệt, đối với thế hệ trẻ luôn được chú trọng
bằng cách tổ chức cuộc thi nghệ thuật trình diễn truyền thống hàng năm với sự tham
gia của các nghệ sĩ thuộc mọi lứa tuổi.
65
Chính phủ luôn chú trọng đến công tác giảng dạy và nghiên cứu các giá trị văn
hóa phi vật thể, hoạt động hợp tác quốc tế trong và ngoài khối Asean nhằm bảo đảm thực
hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế theo Công ước 2003 về Bảo vệ Di sản văn hóa phi
vật thể được quan tâm và thúc đẩy mở rộng mạng lưới và trao đổi chuyên môn. Vai trò
của các tổ chức đoàn thể cũng được chú trọng như Hiệp hội nghệ sĩ và Nghệ nhân
Myanmar, Hội sân khấu Myanmar đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực văn hóa.
2.4.1.3. Kinh nghiệm của Mexico
Mexico là một trong những quốc gia giàu nhất về đa dạng văn hóa, với 68 nhóm
ngôn ngữ chính và hơn 300 biến thể. Tuy nhiên, di sản văn hóa của quốc gia này cũng có
một số thách thức về mặt phương pháp luận trong việc bảo vệ, bảo tồn, giữ gìn và phát
huy di sản văn hóa quốc gia. Ở Mexico việc sử dụng thuật ngữ “Di sản văn hóa phi vật
thể” là để chỉ các truyền thống, các phong tục, tập quán những cái tạo nên bản sắc cho
một cộng đồng, nhóm hoặc cá nhân, luôn là một sự tranh luận tạo ra nhiều tranh cải.
Cũng giống như nhiều nước khác, Mexico có một Ủy ban hợp tác với UNESCO,
là cơ quan điều phối giữa chính phủ, các tổ chức cá nhân và là cơ quan có tầm cạnh tranh
trực tiếp với các tổ chức của UNESCO. Ủy ban này thuộc trách nhiệm của Bộ Giáo dục
công. Chức năng chính của nó cũng giống như một văn phòng tư vấn và liên kết các hoạt
động mà Chính phủ thực hiện với UNESCO bằng cách liên kết tất cả các nhà hoạt động
và các tổ chức có đóng góp để thực hiện các cam kết thông qua các Công ước quốc tế,
đồng thời thúc đẩy các mục tiêu và chương trình của UNESCO ở Mexico.
Khung pháp lý của Mexico về di sản văn hóa là Hiến pháp chính trị của các
bang Mexico thống nhất được công bố vào năm 1917. Theo Điều 2 Hiến pháp này thì
Mexico có một thành phần đa văn hóa với nguồn gốc dựa trên các dân tộc bản địa, các
dân tộc này có quyền tự quyết và công nhận như đã được nêu trong các Hiến pháp và
luật của mỗi bang sẽ được xem xét, bên cạnh các nguyên tắc chung đã được xây dựng,
các tiêu chí về ngôn ngữ tộc người và vị trí tự nhiên. Các cộng đồng có quyền tự trị để
bảo vệ và phát huy môi trường sống và toàn vẹn đất đai của mình. Họ cũng có một số
luật đặc thù về các lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể như Luật chung về phát triển xã
hội, Luật về ngôn ngữ của các dân tộc bản địa.
Sau khi Mexico phê chuẩn Công ước Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể của
UNESCO, các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện công ước này bắt đầu được quan
tâm rộng rãi hơn cả trong các lĩnh vực học thuật và thể chế trong môi trương văn hóa.
66
Hiến pháp chính trị 1917 xác định nguyên tắc rằng mặc dù việc bảo tồn di sản văn hóa
phi vật thể không được công nhận một cách rõ ràng trong các văn bản hiến pháp chính
trị nhưng các Công ước hay các Điều ước quốc tế phù hợp với các điều khoản và mục
tiêu của Hiến pháp do Tổng thống và Thượng viện phê chuẩn, thì có tính chất của Luật
tối cao và từ đó nó được xem là nghĩa vụ cho các thẩm phán của từng thực thể dùng
những biện pháp cần thiết liên quan đến những luật và điều ước quốc tế này, bất chấp
những khuynh hướng đối lập có thể có đối với Hiến pháp và luật của Nhà nước. Từ
nguyên tắc Hiến pháp này cho thấy đó là một nghĩa vụ đối với chính phủ Mexico để
thực hiện các hành động cho phép thực hiện đầy đủ mọi quy tắc và nghĩa vụ được quy
định trong Công ước Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể mà bấy lâu nó vẫn được công
nhận như Luật tối cao tại Mexico.
Công tác kiểm kê đóng vai trò quan trọng trong việc phát hiện, bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa. Do đó, Chính phủ Mexico cũng quyết định thành lập tổ công
tác về phát huy và bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của quốc gia nhằm tiến hành kiểm
kê di sản văn hóa phi vật thể hiện có trên lãnh thổ nước mình. Mục tiêu chính của tổ
công tác này là hoàn thành các cam kết với UNESCO, đồng thời cũng phát huy việc
bảo tồn và giữ gìn những biểu đạt văn hóa- thứ đã tạo nên bản sắc của Mexico. Tổ
công tác tập hợp một nhóm người có trình độ, thành thạo, có kinh nghiệm và kiến thức
ở các lĩnh vực khác nhau như phong tục, tập quán, lịch sử và truyền thống cũng như
kiến thức về văn hóa các dân tộc để họ có thể đóng góp tốt nhất cho sứ mệnh này.
Công việc của Tổ công tác bao gồm việc thu thập tất cả những biểu đạt và biểu hiện
mang tính đại diện của nhóm văn hóa trên đất nước Mexico. Kiểm kê đã trở thành công
cụ cho việc đưa ra các chỉ số văn hóa giúp cho sự xây dựng các chính sách công liên
quan trực tiếp đến bảo tồn phù hợp với bản chất của những biểu đạt di sản văn hóa phi
vật thể trong tương lai. Hiện nay, thông qua các trụ sở bang của Vụ Văn hóa đại chúng,
các hội thảo, tập huấn được tổ chức để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của di
sản văn hóa phi vật thể. Để xây dựng năng lực bằng cách thành lập các cơ quan văn
hóa cộng đồng, để họ có thể làm như người hướng dẫn cho cộng đồng và họ có thể
soạn thảo các mẫu đăng ký để kiểm kê.
2.4.1.4. Kinh nghiệm của Nigieria
Nigeria là một trong 9 quốc gia trên thế giới có tỷ lệ dân số cao nhất trên thế
giới, với dân số trên 160 triệu người, hơn 250 dân tộc và trên 500 ngôn ngữ, rõ ràng
67
đây là một quốc gia đa dạng về văn hóa, dân tộc. Với sự đa dạng này, Nigeria có một
kho tàng di sản văn hóa phi vật thể vô cùng phong phú trên tất cả các lĩnh vực khác
nhau như truyền thống truyền miệng và các loại hình biểu hiện văn hóa, bao gồm ngôn
ngữ như là một phương tiện của di sản văn hóa phi vật thể; nghệ thuật biểu diễn, diễn
xướng xã hội, nghi lễ và các sự kiện xã hội; tri thức và các thành tựu liên quan đến tự
nhiên và vũ trụ, nghề thủ công truyền thống.
Quốc gia này từ lâu đã thừa nhận tầm quan trọng của di sản văn hóa phi vật thể
đối với sự thịnh vượng của nhân dân, cố kết xã hội và sự phát triển. Điều đo được thể
hiện thông qua sự tham gia tích cực của mình trong việc thực thi Công ước Bảo tồn Di
sản văn hóa phi vật thể. Chính phủ Nigeria xác định tầm quan trọng của mối quan hệ
giữa văn hóa và phát triển, cụ thể di sản văn hóa phi vật thể như là sự bảo đảm cho sự
phát triển bền vững, không chỉ theo đuổi an ninh về sinh kế cho các cộng đồng, mà bản
thân nó còn là một yếu tố đối với sự phát triển trong tương lai.
Cơ quan có vai trò quan trọng trong việc hình thành các chính sách, pháp luật về
di sản văn hóa phi vật thể là Bộ Du lịch, Văn hóa và Định hướng quốc gia, là cơ quan
thực hiện các chương trình và dự án văn hóa của đất nước. Cơ quan này đã nhận thức
và cam kết thể chế hóa và triển khai thực hiện các cam kết trong Công ước 2003 một
cách chặt chẽ ở các bộ phận trong Bộ và với các bên liên quan trong lĩnh vực văn hóa.
Nigeria cũng đã lập Ủy ban quốc gia về di sản văn hóa phi vật thể và truyền
miệng và Ủy ban này đã đề xuất công tác kiểm kê tạm thời di sản văn hóa phi vật thể.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực và chuyên môn hiện chưa đủ để thực hiện đề xuất trên và
triển khai trên diện rộng. Chính phủ xác định Nhà nước cần có nghĩa vụ định hướng
công tác kiểm kê này đi lên, đồng thời tìm kiếm sự hỗ trợ hiệu quả về mặt tài chính từ
UNESCO nhằm tư liệu hóa một cách toàn diện kho tàng di sản văn hóa phi vật thể đồ
sộ của Nigeria trên cơ sở dữ liệu phần mềm và dưới dạng xuất bản in ấn. Nigeria cũng
đã thiết lập một hệ thống kho báu nhân văn sống và đến nay mười hình tượng văn hóa
đã được công nhận, trao thưởng và được trao cơ hội lưu truyền tri thức của họ cho các
thế hệ sau. Bộ Du lịch, Văn hóa và Định hướng Quốc gia cũng đã phát triển một dự án
quốc gia để tiến hành nghiên cứu và tư liệu hóa các ngôn ngữ đang bị đe dọa. Ngoài ra,
các hoạt động hợp tác quốc tế trong việc kiểm kê, đầu tư nguồn lực cho bảo tồn và phát
huy giá văn hóa phi vật thể cũng được Chính phủ Nigeria quan tâm và ưu tiên xem xét.
68
2.4.2. Giá trị tham khảo cho Việt Nam
Qua nghiên cứu kinh nghiệm một số quốc gia đối với việc bảo tồn và phát
huy giá trị văn hóa truyền thống nêu trên cho thấy các quốc gia trên có nét tương
đồng với Việt Nam từ xuất phát điểm trong quá trình phát triển. Các quốc gia trên
cũng có nền văn hóa đa dạng, đồ sộ và tương đồng với Việt Nam. Đây là những
quốc gia tiêu biểu ở các khu vực và châu lục trên thế giới trong việc xác định văn
hóa là mục tiêu của sự phát triển. Đặc biệt các quốc gia này cũng rất thành công
trong việc giữ gìn và phát triển sự đa dạng của văn hóa truyền thống dân tộc. Do đó
có thể rút ra một số giá trị tham khảo cho Việt Nam:
Một là, cần phải có nhận thức đúng đắn về vai trò của pháp luật đối với việc
giữ gìn, phát huy GTVHTT trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam của
các ngành, các cấp, các tổ chức, cá nhân trong toàn xã hội nhằm bảo đảm cho sự
phát triển bền vững của quốc gia.
Hai là, phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất, các văn bản
phải đồng bộ và luật đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra khuôn khổ pháp lý
cho các hoạt động giữ gìn, phát huy GTVHTT. Hệ thống pháp luật đó phải được xây
dựng dựa trên nguyên tắc đó là: pháp luật phải tác động tích cực đến ý thức bảo vệ thuần
phong, mỹ tục, xây dựng đạo đức của mọi người đối với bản thân, gia đình, tập thể và
đối với toàn xã hội, tiếp thu tinh hoa của nhân loại đi đôi với việc giữ gìn, phát huy
những GTVHTT của dân tộc.
Ba là, luật hóa giá trị văn hóa truyền thống vào văn bản pháp luật có giá trị pháp
lý cao. Điều đó sẽ cho phép các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống được giữ gìn và
phát triển, hơn nữa nó còn làm cho các đạo luật dễ đi vào ý thức của nhân dân, chính từ
tình cảm của người dân đối với các giá trị truyền thống của dân tộc mà các giá trị pháp
lý sẽ đi vào ý thức của họ, từ đó mọi người sẽ có thói quen sống và làm việc theo pháp
luật, đồng thời các GTVHTT cũng tự nó có điều kiện phát huy trong đời sống xã hội.
Bốn là, phát triển ngành công nghiệp văn hóa và có chính sách hợp lý nhằm
khai thác hiệu quả các loại hình văn hóa phi vật thể được vinh danh; hình thành khung
pháp lý bảo đảm các chủ thể tham gia phát triển ngành công nghiệp này.
Năm là, có chính sách đãi ngộ đối với tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các nghệ
nhân có công lưu giữ, trao truyền, đào tạo các loại hình văn hóa truyền thống.
69
Sáu là, đào tạo miễn phí đồng thời đầu tư phát triển mạnh mẽ các loại hình văn
hóa nghệ thuật truyền thống trong nhân dân, nhất là đối với lực lượng thanh thiếu niên;
xây dựng cộng đồng dân cư am hiểu về nền văn hóa nghệ thuật truyền thống.
Bảy là, ban hành các chính sách nhằm bảo đảm người dân được hưởng thụ các
giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống; có chính sách hợp lý nhằm huy động sự tham
gia của người dân trong việc lưu giữ, phổ biến, trao truyền và phát triển các loại hình
văn hóa truyền thống;
Tám là, giáo dục chủ nghĩa yêu nước và tinh thần tự tôn dân tộc kết hợp giáo
dục nâng cao ý thức hiểu biết, tôn trọng, thực thi pháp luật trong nhân dân, giúp hình
thành thói quen ứng xử theo pháp luật của các chủ thể khác nhau trong đời sống xã hội,
qua đó giúp con người nâng cao tính kỷ luật, ý thức trách nhiệm với cộng đồng,
Chín là, các quy định pháp luật về kiểm kê, sưu tầm các loại hình văn hóa
phi vật thể phải được chú trọng và xác định kiểm kê là nhiệm vụ trọng tâm trong
giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống; các chính sách ưu đãi đối với cá
nhân, tổ chức có công sưu tầm, phát hiện di sản văn hóa phi vật thể cần được quan
tâm mạnh mẽ và có kế hoạch kích hoạt sớm nhất.
Mười là, tăng cường hợp tác quốc tế và tranh thủ sự ủng hộ, đầu tư tài chính từ
các tổ chức quốc tế cho các hoạt động lưu giữ, trao truyền, quảng bá các loại hình văn
hóa nghệ thuật truyền thống.
Tiểu kết chương 2
Trong xã hội đương đại, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, là công cụ
quản lý và tổ chức đời sống xã hội, đối với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT, vai trò
của pháp luật thể hiện ở các khâu, các giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật
và được xác định như một nội dung, phương diện chủ yếu trong vai trò của pháp
luật và đặt nó trong mối liên hệ với các giá trị xã hội cơ bản của pháp luật. Vai trò
đó được bắt nguồn từ những mối liên hệ mật thiết, hữu cơ giữa pháp luật với
GTVHTT và được bảo đảm thông qua những hình thức, phạm vi, nội dung của pháp
luật cũng như các thuộc tính của nó. Từ cách tiếp cận đó cho kết luận rằng: Vai trò
của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT là quá trình tác động, điều chỉnh,
ảnh hưởng tích cực của pháp luật đến hoạt động giữ gìn, phát huy GTVHTT thông
70
qua việc ghi nhận và pháp lý hóa các giá trị văn hóa bền vững của dân tộc nhằm
tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước
và chuyển tải nội dung trong các cam kết quốc tế về giá trị văn hóa truyền thống
thành hệ thống các quy tắc xử sự của các chủ thể, qua đó góp phần giáo dục nâng
cao ý thức con người đối với GTVHTT.
Thông qua nội dung điều chỉnh và các mối liên hệ của pháp luật, những biểu
hiện cơ bản về vai trò của pháp luật thể hiện qua việc hiện thực hóa các quan điểm, chủ
trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa; là tạo lập cơ sở pháp lý cho
các chủ thể thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT;
là công cụ bảo đảm hiệu hiệu quả đối với việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa dân
tộc; là việc giáo dục nâng cao ý thức con người đối với việc giữ gìn, phát huy
GTVHTT và chuyển tải các nội dung điều ước quốc tế vào pháp luật quốc gia.
Vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT chịu sự tác động của
nhiều yếu tố ảnh hướng đến việc thực hiện các mục tiêu văn hóa. Các yếu tố ảnh hưởng
chủ yếu là các yếu tố kinh tế; chính trị- xã hội; pháp luật; tư tưởng, văn hóa, đạo đức;
môi trường dân chủ- pháp quyền; tổ chức bộ máy. Ngoài ra, kinh nghiệm về việc bảo
vệ các giá trị Di sản ở các quốc gia Hàn Quốc, Myanmar, Mexico, Nigeria có giá trị
tham khảo quan trọng cho Việt Nam nhằm bảo đảm hiệu quả vai trò của pháp luật
trong giữ gìn, phát huy GTVHTT hiện nay.
71
Chương 3
THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN,
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
Về mặt lý luận, vai trò đó được thể hiện thông qua những phạm vi, nội dung,
phương thức và với những hình thức rất đa dạng, phong phú, theo đó nội dung vai trò
của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT được thể hiện trên 5 phương diện cụ thể.
Về mặt thực tiễn, vai trò của pháp luật được thể hiện thông qua hệ thống pháp luật thực
định và hiệu quả thực thi của các chủ thể pháp luật trong một số trường hợp cụ thể. Do đó, cơ sở lý luận để đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật phải căn cứ vào luận giải ở
chương 2 và phải xuất phát từ pháp luật thực định cũng như thực tiễn hoạt động của các
chủ thể pháp luật để đánh giá vai trò của pháp luật theo 5 phương diện đó là:
- Vai trò của pháp luật trong việc thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng
về giữ gìn, phát huy GTVHTT.
- Vai trò của pháp luật trong việc tạo lập cơ sở pháp lý cho các chủ thể trong giữ
gìn, phát huy GTVHTT.
- Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm hiệu quả đối với việc giữ gìn, phát
huy GTVHTT.
- Vai trò của pháp luật trong việc giáo dục nâng cao ý thức con người trong giữ
gìn, phát huy GTVHTT.
- Vai trò của pháp luật trong việc chuyển tải nội dung, bảo đảm thực hiện các
cam kết quốc tế liên quan đến GTVHTT mà Việt Nam đã tham gia.
Đây là những phương diện cơ bản, phổ biến của đời sống pháp luật, phản ánh rõ nét
và tập trung nhất vai trò của pháp luật trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam.
3.1. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG THỂ CHẾ HÓA CHỦ TRƯƠNG,
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG VỀ GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG
3.1.1. Những kết quả đạt được
Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam là một chủ trương nhất quán của
Đảng ta khi giành được độc lập sau cách mạng tháng Tám năm 1945. Trong các thời
kỳ, chủ trương, đường lối của Đảng đều chú trọng công tác văn hóa, coi đó là nhiệm vụ
không thể thiếu trong tiến trình cách mạng. Việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT trong
nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa Việt Nam càng trở nên cấp bách hơn trong quá trình
72
đổi mới toàn diện đất nước mà Đảng đã đề ra.Với chủ trương đó, ngay trong văn kiện
Đại hội Đảng lần thứ VI đã khẳng định: “Trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới,
đặc biệt chú ý xây dựng quan hệ xã hội và lối sống lành mạnh, khắc phục các hiện
tượng tiêu cực; giữ gìn và phát huy tinh thần dân chủ, nhân đạo, chủ nghĩa anh hùng và
những giá trị văn hóa khác của truyền thống dân tộc và cách mạng” [45, tr.45]. Đại hội
đã đề ra nhiệm vụ: “Tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa,
văn học, nghệ thuật; xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ xã hội chủ nghĩa đậm đà bản
sắc dân tộc” [45, tr.222]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành trung ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII “về chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã đề ra 7 chính sách văn hóa mà pháp
luật phải thể hiện khi xây dựng các khung pháp lý cho các chủ thể trong hoạt động văn
hóa nhằm đảm bảo vai trò của pháp luật trong chiến lược xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam, trong đó có chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, nghĩa là các giá trị văn hóa không bị biến dạng trong
hội nhập văn hóa nhân loại.
Như vậy, từ khi chủ trương đổi mới đất nước, chủ động hội nhập quốc tế, Đảng
đã đặc biệt quan tâm đến các GTVHTT của dân tộc, coi đó là nguồn nội sinh quan
trọng trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam. Thể chế hóa quan điểm trên,
Hiến pháp 1992 và sau này Hiến pháp 2013 khẳng định sự nhất quán trong xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam, đó là xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại [Điều 60-
Hiến pháp 2013].
Xác định gia đình là tế bào của xã hội, là cội nguồn của văn hóa, các giá trị văn
hóa Việt Nam được hình thành, tồn tại và phát triển bao đời cũng bắt đầu từ gia đình
đến làng xã, quốc gia, dân tộc. Do đó, muốn có nền tảng xã hội vững chắc thì các quan
hệ gia đình phải được phát triển hài hòa, tốt đẹp nhằm phát huy các giá trị truyền thống
cha ông đã bao đời hun đúc. Thể chế hóa quan điểm trên, Hiến pháp khẳng định trách
nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm công dân xây dựng gia đình có văn hóa, hạnh
phúc, giữ gìn thuần phong mỹ tục, Hiến pháp quy định: Nhà nước, xã hội tạo môi
trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; xây dựng con người
Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm
chủ, trách nhiệm công dân [Điều 60- Hiến pháp 2013].
73
Luật Hôn nhân và gia đình đã kế thừa các giá trị văn hóa tốt đẹp trong việc
hoàn thiện các quy định nhằm điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực này. Qua đó
đánh dấu bước phát triển quan trọng trong việc thể hiện vai trò của pháp luật trong
thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng liên quan đến giữ gìn, phát huy
GTVHTT trở thành những mục tiêu chung của xã hội. Theo đó, nhằm tiếp tục xây
dựng và củng cố gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ gìn và phát huy những phong tục, tập
quán tốt đẹp của dân tộc, xoá bỏ những tục lệ lạc hậu, những tàn tích của chế độ hôn
nhân và gia đình phong kiến, chống ảnh hưởng của chế độ hôn nhân và gia đình tư
sản, bên cạnh việc tiếp thu các hệ thống pháp luật hiện đại để xây dựng quan hệ hôn
nhân, gia đình như nam nữ được tự do kết hôn, quan hệ hôn nhân và gia đình là quan
hệ bình đẳng... thì những giá trị truyền thống cũng được kế thừa như bảo vệ quyền lợi
người phụ nữ, trẻ em, các giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc cũng được đề cao
như mọi người trong gia đình đều có nghĩa vụ phải quí trọng, thương yêu nhau. Luật
xác định nguyên tắc của chế độ hôn nhân gia đình, đó là “xây dựng gia đình ấm no,
tiến bộ, hạnh phúc; các thành viên gia đình có nghĩa vụ tôn trọng, quan tâm, chăm
sóc, giúp đỡ nhau; không phân biệt đối xử giữa các con” [Khoản 3 Điều 2- Luật Hôn
nhân gia đình 2014].
Xác định báo chí có vai trò rất quan trọng trong tiến trình phát triển đất nước
cũng như trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu
bản sắc dân tộc. Thông qua báo chí các GTVHTT của dân tộc có thể được phát hiện và
giữ gìn, vun đắp, tạo động lực cho sự phát triển, góp phần thúc đẩy sự hòa nhập của
Việt Nam vào thế giới bằng con đường văn hóa và chính báo chí sẽ làm cho thế giới
hiểu hơn về giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, con người Việt Nam. Luật báo chí
năm 1989 và năm 2016 đều thể chế hóa chủ trương của Đảng về giữ gìn và phát huy
các giá trị truyền thống của dân tộc, đó là:
Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất
nước và thế giới theo tôn chỉ, Mục đích của cơ quan báo chí; góp phần ổn
định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu
văn hóa lành mạnh của Nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa [Điều 4- Luật Báo chí 2016].
74
“Đoàn kết, bình đẳng, giúp đở lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng xây dựng cuộc
sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc
là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta” [47, tr.77], đây là quan điểm được
thể hiện tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII Ban Chấp hành trung ương Đảng
Cộng sản Việt nam. Nhất quán quan điểm trên, Đại hội khẳng định: “Tiếp tục xây dựng
và phát triển sự nghiệp văn hóa Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa tốt
đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” [47, tr.83]. Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nêu rõ: “Xây dựng nền văn
hóa mới, tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung
nhân đạo, dân chủ và tiến bộ. Phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trong việc nuôi
dưỡng, nâng cao tâm hồn Việt Nam, khẳng định và biểu dương những giá trị chân
chính, bồi dưỡng cái chân, cái thiện, cái mỹ theo quan điểm tiến bộ, phê phán những
cái lỗi thời, thấp kém” [53, tr.73]. Trong Chiến lược về phát triển kinh tế- xã hội đến
năm 2000, Đảng cũng đã đề ra chủ trương: “Chọn lọc, giữ gìn và nâng cao tinh hoa văn
hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và của từng dân tộc; bảo tồn và phát triển
ngôn ngữ và chữ viết của các dân tộc; tiếp thu những giá trị văn hóa, khoa học của
nhân loại;… Hình thành nếp sống và tâm lý xã hội có sức đề kháng chống những lề
thói, tư tưởng lạc hậu, lối sống thấp hèn, suy đồi đạo đức” [53, tr.82-83]. Hội nghị
Trung ương lần thứ năm khóa VIII Đảng ta đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng và
phát triển các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, coi đó là cơ sở để sáng tạo những
giá trị mới và giao lưu văn hóa, đồng thời đặt ra nhiệm vụ là “hết sức coi trọng, bảo
tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống”, và “nghiên cứu và giáo dục
sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại” [53, tr.82-83].
Thể chế hóa các quan điểm trên, Luật Xuất bản các năm 1993, 2004 và 2012
đều khẳng định rõ mục đích của hoạt động xuất bản là nhằm:
Phổ biến, giới thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị
văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống
tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt
đẹp của người Việt Nam, mở rộng giao lưu văn hóa với các nước, phát triển
kinh tế - xã hội, đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi ích
quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa [Điều 3- Luật Xuất bản 2012].
75
Xác định việc điều chỉnh các quan hệ nhằm thỏa mản nhu cầu vật chất và tinh
thần hằng ngày của con người- những quan hệ mà ở đó các GTVHTT dân tộc đã xuất
hiện, được bồi đắp, bảo vệ, giữ gìn và phát triển, do đó pháp luật phải thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ và giữ gìn, phát huy các giá trị đó. Thể hiện vai trò quan trọng đó của pháp
luật trong đời sống xã hội, Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991 quy định “hợp đồng
dân sự được giao kết theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, không trái với pháp luật và
đạo đức xã hội” [Điều 2]. Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005 và sau này được thay đổi
bằng Bộ luật 2015; bộ luật Lao động năm 2012 cũng thể chế hóa các quan điểm của
Đảng về giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống và được thể hiện ở chương “những
nguyên tắc cơ bản”, trong đó có nguyên tắc “tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp”.
Đặc biệt, nhấn mạnh nguyên tắc cơ bản khi các bên xác lập giao dịch với nhau không
được trái pháp luật và đạo đức xã hội, cụ thể khi xác định các nguyên tắc cơ bản trong
giao dịch dân sự, Bộ luật Dân sự khẳng định:
Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ
gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống
tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng
đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh
sống trên đất nước Việt Nam [Khoản 1 Điều 7- Bộ luật dân sự 2015].
Luật khám chữa bệnh xác định nguyên tắc thể hiện tính nhân văn, nhân đạo,
trọng nghĩa tình của dân ta khi quy định: Ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh đối với trường
hợp cấp cứu, trẻ em dưới 6 tuổi, người khuyết tật nặng, người từ đủ 80 tuổi trở lên,
người có công với cách mạng, phụ nữ có thai [Điều 3- Luật khám, chữa bệnh].
Ngoài ra, Pháp lệnh Thư viện, Pháp lệnh Quảng cáo và Luật Quảng cáo sau này,
đều thể chế chế hóa các quan điểm về chiến lược “xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” mà Đảng đã đề ra tại Hội nghị lần thứ năm
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII. Đặc biệt, Luật di sản văn hóa được Quốc
hội khóa X thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2009 là thành
quả rất quan trọng của quá trình hiện thực hóa các quan điểm, chủ trương, đường lối
của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam, Luật nêu rõ mục đích là: “Để bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân
dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc và đóng góp vào kho tàng văn hóa thế giới” [Lời nói đầu- Luật di sản văn hóa].
76
Đạo luật ra đời cũng nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao
trách nhiệm của nhân dân trong việc bảo vệ và giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa
của dân tộc, đáp ứng và thể chế hóa kịp thời các yêu cầu về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. Sự ra đời của đạo luật cũng đánh dấu
sự phát triển của pháp luật nước ta trong vai trò thể chế hóa các chủ trương, đường lối
của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam vừa hiện đại, vừa mang
đậm bản sắc truyền thống dân tộc. Theo đó, đạo Luật không nằm ngoài mục đích xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại nhưng giữ vững tính nhân đạo, nhân
văn nhằm đưa các giá trị văn hóa Việt Nam vào giáo dục và phát triển con người Việt
Nam toàn diện về thể chất, tâm hồn và nhân cách. Tại điều 12 Luật di sản văn hóa thể
hiện nội dung trên: (1) Phát huy giá trị di sản văn hóa vì lợi ích của toàn xã hội; (2)
Phát huy truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; (3) Góp phần
sáng tạo thêm những giá trị mới, làm giàu kho tàng di sản văn hóa Việt Nam và mở
rộng giao lưu văn hóa quốc tế. Những quy định của Luật Di sản văn hóa đã được xây
dựng theo hướng cởi mở và sát với thực tiển, nhằm tạo hành lang pháp lý thông
thoáng và môi trường thuận lợi cho đầu tư phát triển kinh tế đất nước, đồng thời đạo
luật cũng góp phần mở rộng giao lưu văn hóa, hội nhập quốc tế. Qua đó, phát huy tối
đa và làm đặc sắc thêm các GTVHTT của dân tộc.
Bộ luật hình sự nước ta các năm 1985, 1999, 2009 và năm 2015 cũng được
xây dựng trên cơ sở phát huy tối đa các giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống dân
tộc. Trong nguyên tắc khi xử lý các hành vi vi phạm pháp luật hình sự cũng đã kịp
thời thể chế hóa quan điểm trên, cụ thể như Bộ luật đề ra các nguyên tắc khi xử lý,
đó là khoan hồng đối với người tự thú, thành khẩn khai báo, tố giác người đồng
phạm, lập công chuộc tội, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt
hại gây ra; đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, đã hối cải, thì có thể áp
dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình
giám sát, giáo dục; đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt
trong trại giam, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ
có nhiều tiến bộ thì xét để giảm việc chấp hành hình phạt. Đồng thời, Bộ luật cũng
xác định một hệ thống các tội danh cùng hệ thống chế tài xử lý những hành vi xâm
hại đến các giá trị văn hóa dân tộc. Ngoài ra, Bộ luật cũng khẳng định người đã
chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hoà
nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích. Các
77
nguyên tắc xác định trên là thể hiện tính nhân văn trong truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta, đánh kẻ chạy đi chứ không đánh người quay lại, đó là thể hiện tính nhân
đạo, thương người trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, đó cũng là
quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, văn minh, hiện đại nhưng
vẫn thắm đẫm tính dân tộc của văn hóa Việt Nam.
Có thể khẳng định rằng trong công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật đến nay bước đầu đã thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương, đường lối
của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Qua đó, hệ các giá trị
văn hóa cũng được giữ gìn và phát triển, đặc biệt đã phát huy được các giá trị tốt
đẹp trong quá trình thực hiện các mục tiêu về kinh tế, văn hóa, xã hội. Cụ thể, qua
các nhiệm kỳ Quốc hội từ năm 1986 đến nay Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản
bảo đảm điều chỉnh toàn diện các quan hệ trong lĩnh vực văn hóa. Riêng đối với
việc bảo vệ và giữ gìn, phát huy giá trị trị văn hóa truyền thống đến nay ngoài các
quy định tại Hiến pháp, đã có 15 luật, bộ luật, 02 pháp lệnh và một lượng lớn các
Nghị định, Thông tư được ban hành có quy định những nội dung liên quan đến giữ
gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống (Xem phụ lục 01).
Từ các phân tích trên có thể kết luận rằng pháp luật về văn hóa từng bước thể
chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc, bước đầu phát huy vai trò là nền
tảng của sự phát triển, đã tác động sâu rộng đến đời sống của nhân dân. Qua từng
giai đoạn, lý luận về việc xây dựng và phát triển nền văn hóa có thay đổi cho phù
hợp với bối cảnh lịch sử trong nước cũng như đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, các GTVHTT vốn là giá trị theo suốt chiều dài lịch sử, là dòng chảy tạo
ra hệ giá trị Việt Nam, là cốt lõi của nền văn hóa tạo bản sắc rất riêng của văn hóa
Việt Nam, do đó các GTVHTT luôn tạo ra cảm hứng bất tận cho sự sáng tạo và phát
triển văn hóa Việt Nam hiện đại, các giá trị đó không thay đổi mà theo thời gian ngày
càng hoàn thiện hơn, “giá trị” hơn. Vì vậy, qua từng giai đoạn, pháp luật đã từng bước
thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành hệ thống các quy tắc xử sự của
con người trong lĩnh vực văn hóa thông qua sự ra đời của hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật trong các lĩnh vực cụ thể. Theo đó, nhiều GTVHTT ngày càng được
nhận diện sâu sắc hơn và phát huy hơn; pháp luật ngày càng thể hiện tốt vai trò hơn đối
với việc điều chỉnh hành vi con người về giữ gìn, phát huy GTVHTT trong các quan hệ
78
xã hội; các quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, hiện đại,
giàu bản sắc dân tộc ngày càng được pháp lý hóa hơn. Các hoạt động về giữ gìn, phát
huy GTVHTT không còn là khẩu hiệu, là quan điểm, đường lối nữa mà ngày càng
được quan tâm hơn về chính sách, pháp luật, nguồn lực cụ thể và từng bước có gắn kết
với nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội như các chính sách, chương trình mục tiêu quốc
gia về văn hóa ra đời và phát huy hiệu quả; các cơ sở đào tạo, truyền dạy, phát triển giá
trị văn hóa dân tộc được tổ chức rộng khắp (xem phụ lục 02). Từ đó, người dân có
nhiều cơ hội tiếp cận thông tin và hưởng thụ các giá trị văn hóa hơn; sự đoàn kết, tinh
thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tính tích cực xã hội của nhân dân và các chủ thể
văn hóa được phát huy; nhiều GTVHTT được giữ gìn, phát huy, kết hợp tốt hơn với
văn hóa đương đại. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được xây
dựng, bổ sung nhằm thể chế hóa kịp thời quan điểm của Đảng nhằm bảo đảm điều
chỉnh toàn diện các quan hệ trong lĩnh vực văn hóa. Ngoài ra “cùng với các văn bản
dưới luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành được ban hành kịp thời đã tác động
tích cực đến quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, phù hợp với yêu cầu bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” [7]. Qua đó góp phần bảo đảm
cuộc sống cộng đồng ổn định, lành mạnh, giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết,
tương thân, tương ái, bảo vệ thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hóa dân tộc; thiết lập
trật tự, kỷ cương, ngăn chặn sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại từ bên
ngoài trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa.
3.1.2. Những hạn chế
Đánh giá một cách tổng quan pháp luật chưa kịp thời, tích cực thể chế hóa
các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa và hệ giá trị văn hóa
truyền thống thành các cơ chế, chính sách phù hợp để khơi dậy mọi tiềm năng,
nguồn lực phát triển văn hóa. Do vậy, pháp luật cũng chưa tạo ra sự động viên tối
đa các chủ thể văn hóa tham gia vào việc giữ gìn, phát huy GTVHTT để qua đó góp
phần truyền bá các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc và ngăn chặn, đẩy lùi sản
phẩm văn hóa độc hại, tiêu cực. Pháp luật cũng chưa điều chỉnh kịp thời các hiện
tượng tiêu cực trong thực hành văn hóa dân gian như những hiện tượng đồng bóng,
dị đoan mê tín, tranh giành, cướp đoạt trong các lễ hội.
79
Bên cạnh đó, pháp luật vẫn chưa thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ
trương về việc chấn chỉnh, hạn chế hiện tượng thương mại hoá trong lễ hội, các hiện
tượng nêu trên vẫn thường xuyên diễn ra gây nên phản ảnh tiêu cực trong xã hội.
Việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp luật chấn chỉnh về vấn đề này vẫn còn
hạn chế. Chưa hình thành hệ thống các quy phạm pháp luật nhằm thể chế hóa các
quan điểm, chủ trương của Đảng trong việc khắc phục tình trạng suy thoái về đạo
đức xã hội có chiều hướng lan rộng với tính chất nghiêm trọng, ảnh hưởng tiêu cực
đến đời sống tinh thần của xã hội. Do đó, nhiều giá trị truyền thống, đạo đức nghề
nghiệp không còn được coi trọng như trước đây, có mặt bị mai một, đảo lộn. Việc
bảo tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở một số nơi chưa tốt. Một số
hủ tục, mê tín dị đoan có nguy cơ phát triển; nhiều sinh hoạt văn hóa dân tộc bị biến
dạng trước tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường và văn hóa ngoại lai. Một số
loại hình văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán tốt đẹp của một số dân tộc thiểu số
bị mai một; sự trong sáng, thuần khiết của Tiếng Việt đang bị xâm hại nhưng pháp
luật chưa đầy đủ để kịp thời bảo vệ và giữ gìn, phát huy, phát triển trong tiến trình
xây dựng và thực hiện các mục tiêu văn hóa. Sự hạn chế trên được phản chiếu theo
số liệu thống kê giai đoạn 2006-2010, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban
hành 111 Luật, Pháp lệnh, trong đó lĩnh vực lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học
công nghệ, môi trường có 51 Luật thì lĩnh vực văn hóa chỉ có 01 luật được ban hành
mới (Luật phòng, chống bạo lực gia đình), 02 Luật được sửa đổi, bổ sung (Luật
Điện ảnh và Luật di sản văn hóa); giai đoạn 2011- 2016 có 114 văn bản được ban
hành, lĩnh vực văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ, môi trường có 48 văn bản thì
lĩnh vực văn hóa chỉ có 01 Luật được ban hành (Luật Quảng cáo) [20, tr.45] Theo
đánh giá của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thì số lượng văn bản quy phạm pháp
luật được ban hành như trên là quá ít so với lĩnh vực quản lý nhà nước về văn hóa,
gia đình tương đối rộng của Bộ này (Xem bảng so sánh văn bản quy phạm pháp luật
ban hành trong các lĩnh vực).
Theo sự phân chia mang tính chất tương đối thì hệ thống pháp luật nói chung
được phân thành 4 nhóm gồm: nhóm 1, pháp luật về kinh tế; nhóm 2, pháp luật về văn
hóa, xã hội, giáo dục, khoa học công nghệ và môi trường; nhóm 3, pháp luật về quốc
phòng, đối ngoại, an ninh trật tự, an toàn xã hội; nhóm 4, pháp luật về tổ chức bộ máy,
hành chính, hình sự, dân sự, tư pháp.
Thống kê số lượng Luật, pháp lệnh được ban hành trong 02 giai đoạn của từng
nhóm được thể hiện ở bảng sau đây:
80
Số lượng Nhóm 1
Số lượng Nhóm 2
Số lượng Nhóm 3
Số lượng Nhóm 4
Giai đoạn (nhiệm kỳ Quốc hội)
2006-2010
19
51
9
32
2011-2016
33
48
11
22
Tổng số
52
99
20
54
Bảng so sánh các văn bản luật ban hành trong các lĩnh vực
Nguồn: [20]
Luật, pháp lệnh về văn hóa thuộc nhóm thứ 2. Trong nhóm này, số lượng
Luật, pháp lệnh được ban hành trong 10 năm qua là nhiều nhất (99 văn bản). Tuy
nhiên, số lượng Luật, Pháp lệnh về văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống chỉ
chiếm số lượng rất nhỏ 05 luật, chiếm 5% (trong đó có 03 luật là sửa đổi, bổ sung).
Thực trạng đó đã phản ánh pháp luật còn những hạn chế nhất định trong việc
chuyển tải những quan điểm, chủ trương đúng đắn của Đảng vào thực tiễn xây đời
sống xã hội, chưa phát huy hết vai trò biến các mục tiêu, quan điểm của Đảng về
giữ gìn, phát huy GTVHTT thành mục tiêu chung của xã hội
3.2. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC TẠO LẬP CƠ SỞ PHÁP LÝ
CHO CÁC CHỦ THỂ GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
3.2.1. Những kết quả đạt được
Việc giữ gìn, phát huy GTVHTT đòi hỏi phải sử dụng những công cụ,
phương tiện khác nhau thuộc hệ thống kiến trúc thượng tầng, trong đó pháp luật là
một công cụ quan trọng trong việc tạo lập khung pháp lý nhằm xác lập và chỉ rõ chủ
thể. Đồng thời, pháp luật quy định những quyền, nghĩa vụ nhất định cho các chủ thể
đó trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT và được thể hiện thông qua hệ thống các
văn bản pháp luật hiện hành. Sự phát triển của hoạt động xây dựng và ban hành
pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý cho mọi tổ chức, cá nhân trong các quan hệ xã hội
được đánh dấu bằng bản Hiến pháp 1992. Đối với lĩnh vực văn hóa, Hiến pháp là cơ
sở pháp lý quan trọng trong việc xác lập và quy định những quyền, nghĩa vụ cho các
chủ thể trong giữ gìn, phát huy GTVHTT. Tại Điều 30 Hiến pháp 1992 quy định:
Nhà nước và xã hội bảo tồn, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc; kế thừa và phát huy những giá trị của nền văn hiến các dân tộc Việt
Nam, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại; phát huy mọi tài năng sáng tạo trong nhân dân.
81
Chính sự ra đời của bản Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), sau đó
là Hiến pháp 2013 cũng như các đạo luật cơ bản được ban hành trong thời kỳ này đã
tạo được sự quan tâm thực hiện của mọi người. Các bản Hiến pháp đã thể hiện rõ
quan điểm về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân; về giữ gìn,
phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của truyền thống dân tộc, góp phần quan trọng
vào sự phát triển ổn định, bền vững của nền kinh tế cũng như phát huy được hết các
tiềm năng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; giữ vững an ninh chính trị và trật
tự, an toàn xã hội, từng bước đưa đất nước hội nhập sâu rộng và toàn diện hơn với
đời sống quốc tế.
Với chủ trương đẩy mạnh phát triển văn hóa, nhằm xây dựng một nền văn
hóa tiên tiến, hiện đại, tiếp thu những tinh hoa văn hóa của nhân loại, song phải
luôn coi trọng những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc, đồng thời nhằm bảo
đảm cho quá trình thực hiện các mục tiêu về kinh tế, văn hóa, xã hội thành công,
Hiến pháp cùng với các văn bản pháp luật khác được xây dựng trên nguyên tắc tập
trung, dân chủ, bảo đảm lợi ích của mọi người dân; các nguyên tắc đạo đức cơ bản
của con người, cũng như những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc như sự
công bằng, dân chủ, nhân đạo, tôn trọng phẩm giá con người và những định hướng
cơ bản trong xây dựng và phát triển đất nước. Qua đó, tạo cơ sở pháp lý bảo đảm
cho việc giữ gìn, phát huy GTVHTT trong tiến trình xây dựng nền văn hóa Việt
Nam. Tại Điều 34 Hiến pháp 2013 quy định:
1. Nhà nước, xã hội chăm lo xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
2. Nhà nước, xã hội phát triển văn học, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu tinh
thần đa dạng và lành mạnh của Nhân dân; phát triển các phương tiện thông
tin đại chúng nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin của Nhân dân, phục vụ sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Nhà nước, xã hội tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến
bộ, hạnh phúc; xây dựng con người Việt Nam có sức khỏe, văn hóa, giàu
lòng yêu nước, có tinh thần đoàn kết, ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân.
Đây là khung pháp lý quan trọng nhằm bảo đảm cho các cơ quan quản lý cụ thể
hóa các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT,
đồng thời cũng tạo dựng cơ sở pháp lý để mọi chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp
luật thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Thông qua việc thể chế hóa các chủ trương
82
của Đảng về xây dựng, phát triển nền văn hóa dân tộc, pháp luật đã xác định các loại
chủ thể có trách nhiệm cũng như có các quyền và nghĩa vụ trong việc giữ gìn, phát huy
các GTVHTT của dân tộc trong quá trình phát triển. Cụ thể, nhằm bảo đảm mỗi gia
đình là tế bào xã hội, là cái nôi của văn hóa truyền thống, nơi nuôi dưỡng và thúc đẩy
sự phát triển của văn hóa truyền thống, Luật Hôn nhân và gia đình xác định trách
nhiệm của nhà nước trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình, duy trì,
bảo vệ các giá trị văn hóa dân tộc trong gia đình truyền thống Việt Nam. Theo đó, quy
định Nhà nước có trách nhiệm vận động nhân dân xóa bỏ phong tục, tập quán lạc hậu
về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục, tập quán tốt đẹp thể hiện
bản sắc của mỗi dân tộc [Điều 4- Luật Hôn nhân và gia đình]. Thực hiện quy định trên
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg Ngày 4/5/2001 về
ngày Gia đình Việt Nam, lấy ngày 28/6 hàng năm là ngày Gia đình Việt Nam nhằm giữ
vững giá trị truyền thống quý báu như lòng yêu nước, yêu quê hương, yêu thương đùm
bọc lẫn nhau, thủy chung, hiếu nghĩa, hiếu học, cần cù sáng tạo trong lao động, bất
khuất, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, thử thách đã được gia đình Việt Nam giữ
gìn, vun đắp và phát huy trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước; Chỉ thị số
11/CT-TTg ngày 29-3-2017 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh giáo dục đạo đức,
lối sống trong gia đình, đồng thời Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch phối hợp với các bộ, ngành chức năng xây dựng, triển khai bộ tiêu chí ứng xử
trong gia đình. Thực hiện hiệu quả Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn 2030 và các chương trình, đề án thuộc lĩnh vực gia đình; Bộ Văn hóa
Thể thao và Du lịch đã ban hành đề án hoàn thiện pháp luật về văn hóa, gia đình đến
năm 2021, định hướng 2026 không nằm ngoài mục đích bảo vệ và phát huy các giá trị
tốt đẹp trong gia đình truyền thống Việt Nam.
Trong quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, pháp luật cũng quy định vợ,
chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau
[Điều 21- Luật HNGĐ], các con phải có bổn phận yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu
thảo, phụng dưỡng cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình [Điều
70- Luật HNGĐ]. Các quy định trên đã phát huy vai trò bảo vệ các giá trị đạo đức
truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam trở thành chuẫn mực đạo đức tối thiểu của
con người trong các mối quan hệ gia đình.
Xác định giáo dục có vai trò quan trọng trong hình thành nhân cách con người,
qua đó góp phần thực hiện thành công mục tiêu giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa
83
của dân tộc. Từ nhận thức đó Luật Giáo dục xác định yêu cầu về nội dung và phương
pháp trong công tác giáo dục, theo đó các cấp giáo dục ngoài các yêu cầu phải bảo đảm
tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng
và ý thức công dân thì nội dung giáo dục còn phải “kế thừa và phát huy truyền thống
tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với sự
phát triển về tâm sinh lý lứa tuổi của người học” [Điều 5- Luật Giáo dục]. Luật Di sản
văn hóa quy định những chính sách nhà nước cần phải thực hiện nhằm tạo lập hành
lang pháp lý cho các chủ thể trong việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT như có chính
sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nhằm nâng cao đời sống tinh thần của
nhân dân, góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nước; khuyến khích tổ chức, cá
nhân trong nước và nước ngoài đóng góp, tài trợ cho việc bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa; Nhà nước đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nghiên
cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn
hóa [Điều 9 - Luật Di sản văn hóa].
Quy định trên tạo khuôn khổ pháp lý để các cơ quan quản lý nhà nước tiến
hành các chính sách bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa. Cụ thể, hiện nay cả
nước thành lập một hệ thống các cơ quan có thẩm quyền bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hóa phi vật thể từ trung ương đến địa phương như: Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, Cục Di sản văn hóa, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoặc Sở Văn hóa và Thể
thao; hệ thống bảo tàng quốc gia, bảo tàng tỉnh, thành phố tại 63 tỉnh, thành phố trong
cả nước; hệ thống các viện nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học xã hội triển khai nhiều
nghiên cứu, sưu tầm, đề án, dự án về di sản văn hóa phi vật thể. Bên cạnh đó, công tác
đào tạo về quản lý di sản văn hóa phi vật thể cũng được chú trọng, triển khai ở các cấp
đại học, cao học, nghiên cứu sinh tại các viện nghiên cứu, học viện, trường đại học
(xem phụ lục 02).
Ngoài ra, nhằm phát huy tinh thần và ý thức trách nhiệm của những người
làm công tác giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, động viên
các tầng lớp xã hội tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc, ngày 22 tháng 11 năm 2004
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 1243/2004/QĐ-TTg “Về việc
thành lập tổ chức và hoạt động của Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia”, ngày 24
tháng 02 năm 2005 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 36/2005/QĐ-
TTg “Về ngày Di sản văn hóa Việt Nam” và chọn ngày 23 tháng 11 hằng năm làm
84
ngày di sản Việt Nam. Qua việc thực hiện ngày di sản Việt Nam đã phát huy các
GTVHTT của dân tộc và khơi dậy tinh thần, ý thức trách nhiệm của những người
làm công tác bảo vệ và phát huy di sản, đồng thời động viên các tầng lớp nhân dân
tích cực giữ gìn, phát huy các GTVHTT.
Giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là hệ thống giá trị thuộc yếu tố tinh thần
và cũng thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Di sản văn hóa. Đó là các giá trị văn hóa phi
vật thể được quy định tại Khoản 1 Điều 4 Luật Di sản văn hóa, bao gồm các sản phẩm
tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được
lưu truyền bằng miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác,
bao gồm tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền
miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền
thống, tri thức về y, dược học cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống
dân tộc và những tri thức dân gian khác. Các giá trị này, pháp luật xác định nghệ nhân
dân gian là chủ thể có vai trò quan trọng trong việc lưu giữ, trao truyền và phát huy các
giá trị đó, cụ thể đối với những nghệ nhân, nghệ sỹ có tài năng xuất sắc, có những đóng
góp, cống hiến trong việc bảo vệ và giữ gìn, phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật
thể. Theo đó, pháp luật quy định Nhà nước có trách nhiệm trong việc tôn vinh và có
chính sách đãi ngộ như: (i) Tặng, truy tặng Huân chương, danh hiệu vinh dự nhà nước và
thực hiện các hình thức tôn vinh khác; (ii) Tạo điều kiện và hỗ trợ kinh phí cho hoạt động
sáng tạo, trình diễn, trưng bày, giới thiệu sản phẩm của nghệ nhân; (iii) Trợ cấp sinh hoạt
hằng tháng và ưu đãi khác đối với nghệ nhân đã được phong tặng danh hiệu vinh dự nhà
nước có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn [Điều 26 - Luật Di sản văn hóa].
Thực hiện các quy định trên, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 62/2014/NĐ-
CP ngày 25/6/2014 quy định về xét tặng danh hiệu "Nghệ nhân nhân dân", "Nghệ nhân
ưu tú" trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể trong đó xác định rõ quyền và nghĩa vụ
của các nghệ nhân khi được công nhận là nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú. Cụ thể
như được nhận Huy hiệu, Giấy chứng nhận của Chủ tịch nước và tiền thưởng kèm theo
danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân” hoặc “Nghệ nhân ưu tú” theo quy định của pháp luật
về thi đua, khen thưởng; có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp
luật về thi đua, khen thưởng và pháp luật về di sản văn hóa; Không ngừng hoàn thiện
tri thức và kỹ năng; Tích cực truyền dạy, phổ biến tri thức và kỹ năng. Đối với nghệ
nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn được hưởng trợ
cấp sinh hoạt hằng tháng theo quy định. Chính phủ cũng ban hành Nghị định số
85
109/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015 về việc hỗ trợ đối với nghệ nhân nhân dân, nghệ
nhân ưu tú có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn, trong đó quy định cụ thể các tiêu
chuẩn xét tặng danh hiệu cũng như quy trình, thủ tục đề nghị xét tặng hai danh hiệu cao
quý này và quy định cụ thể chính sách đãi ngộ đối với người có công gìn giữ, bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Những quy định đó đã thực sự tạo điều kiện
thuận lợi cho việc động viên, khen thưởng kịp thời đối với các cá nhân có đóng góp đặc
biệt trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể. Cụ thể, đến nay
Chủ tịch nước đã ký Quyết định phong tặng danh hiệu Nghệ nhân ưu tú cho 600 cá
nhân và truy tặng 17 cá nhân, góp phần quan trọng vào việc bảo tồn bền vững các di
sản văn hóa phi vật thể của đất nước. Việc các di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào
Danh mục quốc gia, quốc tế; các nghệ nhân, chủ thể di sản văn hóa được phong tặng
danh hiệu vinh dự nhà nước “Nghệ nhân ưu tú” đã khơi dậy niềm tự hào và khuyến
khích mạnh mẽ các cộng đồng có di sản, các cấp chính quyền địa phương, toàn xã hội
quan tâm, tự nguyện và chủ động tham gia bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, đẩy mạnh
giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể của địa phương mình, tạo thêm động lực trong quá
trình xã hội hoá các hoạt động bảo tồn di sản văn hoá.
Đối với lĩnh vực quản lý nhà nước về văn hóa, pháp luật cũng quy định cho các chủ thể có những nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ nhất định nhằm tạo các khung pháp lý cho các cơ quan chức năng hoặc các tổ chức, cá nhân trực tiếp quản lý hoặc thực hiện các công việc có liên quan đến giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Việc điều tra, phát
hiện, thống kê, phân loại và tư liệu hoá các di sản văn hóa là những công việc hết sức quan trọng đối với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT. Do đó, hệ thống văn bản pháp luật hiện hành quy định những nhiệm vụ cụ thể mà các chủ thể quản lý nhà nước phải thực hiện như bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể thông qua các biện pháp như tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, phân loại di sản văn hóa phi vật thể; tổ chức truyền dạy, phổ biến, xuất bản, trình diễn và phục dựng các loại hình di sản văn hóa phi
vật thể; khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân nghiên cứu, sưu tầm, lưu
giữ, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể; hướng dẫn nghiệp vụ bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể theo đề nghị của tổ chức, cá nhân nắm giữ di
sản văn hóa phi vật thể; đầu tư kinh phí cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể, ngăn ngừa nguy cơ làm mai một, thất truyền di sản văn hóa phi vật
thể [Điều 17- Luật Di sản văn hóa].
Thực hiện quy định trên Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã ban hành Thông
tư 04/2010/TT-BVHTTDL quy định về kiểm kê và lập hồ sơ khoa học di sản văn
86
hóa phi vật thể để đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Các tỉnh,
thành phố trong cả nước trên cơ sở đó triển khai kiểm kê di sản phi vật thể, mỗi
tỉnh, thành phố có danh mục kiểm kê riêng do Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch
hoặc Sở Văn hóa và Thể thao tỉnh, thành phố đó quản lý. Tùy theo yêu cầu quản lý
của từng địa phương mà tỉnh, thành phố đặt tên cho danh mục kiểm kê của mình,
tạo điều kiện cho việc tiếp cận thông tin. Danh mục kiểm kê đề cập đến tình trạng di
sản để từ đó đưa ra các biện pháp cụ thể để bảo vệ, phục hồi di sản có nguy cơ mai
một. Các tỉnh, thành phố thực hiện công tác kiểm kê thường xuyên để cập nhật tình
trạng di sản. Trong quá trình kiểm kê, các địa phương đã thu hút cộng đồng, tổ chức
phi chính phủ chủ động, tự nguyện tham gia, cùng nhận diện và xác định di sản văn
hóa phi vật thể. Từ kết quả kiểm kê, các địa phương lựa chọn di sản để lập hồ sơ
khoa học đề nghị Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn
hóa phi vật thể quốc gia theo các tiêu chí tại Thông tư nói trên.
Song song với hoạt động kiểm kê, các hoạt động trao truyền và phát huy giá trị di
sản cũng được coi trọng, đến nay “các lớp truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể cũng
được tổ chức tại nhiều địa phương, thu hút các nghệ nhân xuất sắc đến truyền dạy và các
học viên thuộc nhiều thành phần xã hội, nhiều lứa tuổi theo học” [21]; các biện pháp bảo
vệ di sản được triển khai như từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp; phân bổ kinh phí
cho hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm bảo vệ di sản; tạo điều kiện tiếp cận thông tin;
thực hiện các biện pháp bảo vệ mang tính đồng bộ: từ giáo dục, nâng cao nhận thức cho
công chúng, đối tượng trẻ, trao truyền trong cộng đồng, đào tạo trong trường học đến
việc quảng bá, giới thiệu di sản trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Ngoài ra, các cơ quan chức năng đã tư liệu hóa các di sản nhằm hiện thực hóa
các quy định về việc cộng đồng, cá nhân, nhóm người có quyền được tiếp cận các
thông tin, tài liệu về di sản văn hóa theo Luật Di sản văn hóa do các cơ quan, viện
nghiên cứu, các trường lưu trữ. Các cơ quan tư liệu hóa còn xây dựng các website,
phần mềm, ngân hàng dữ liệu để lưu trữ và phục vụ công tác nghiên cứu, bảo vệ và
phát huy giá trị di sản, phục hồi di sản mai một, phục vụ cộng đồng, nhiều dự án lớn về
sưu tầm, tư liệu hoá di sản văn hoá cũng được thực hiện
Qua việc thực hiện các quy định về kiểm kê, truyền dạy, tư liệu hóa di sản và
các biện pháp bảo vệ di sản văn hóa cho thấy pháp luật có vai trò quan trọng trong việc
góp phần nhận diện giá trị của kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú, đa dạng
của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, nhờ nhận diện được hiện trạng, sức
87
sống của di sản để triển khai kịp thời các đề án/dự án bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể đã ngăn chặn nguy cơ mai một, thất truyền, góp phần tích cực trong
việc bảo vệ bản sắc văn hóa tộc người. Ngoài ra, với các quy định trên được triển khai
các di sản văn hóa phi vật thể được sưu tầm nghiên cứu, phục dựng, trao truyền và tổ
chức trình diễn đã trực tiếp nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở và phát triển kinh tế-xã
hội cộng đồng cư dân tại địa phương. Qua đó giúp cho công tác giữ gìn, bảo tồn và phát
huy tinh hoa văn hoá dân tộc có bước phát triển mới về quy mô cũng như chiều sâu.
Đối với những người trực tiếp làm công tác liên quan đến giá trị di sản văn hóa-
là những Di sản viên, pháp luật quy định những nhiệm vụ cụ thể cần phải thực hiện
như tham gia xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án của
đơn vị về hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; tham gia kiểm kê, tư liệu
hoá di sản văn hoá phi vật thể; tham gia tổng kết đánh giá, đúc kết kinh nghiệm và đề
xuất sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện quy trình, quy phạm về các mặt hoạt động
nghiệp vụ, kỹ thuật bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; xây dựng đề cương trưng
bày giới thiệu di sản văn hoá, phương án bảo tồn di tích, tổ chức triển khai và thực hiện
trưng bày các chủ đề trọng tâm của bảo tàng đảm bảo quy trình, nội dung khoa học và
chủ đề tư tưởng sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt; lập kế hoạch và tổ chức
thực hiện hoạt động tuyên truyền, giáo dục tại bảo tàng, di tích; trực tiếp thực hiện công
tác tuyên truyền đối với các đối tượng nghiên cứu, tham quan có yêu cầu nghiệp vụ
chuyên sâu; xây dựng nội dung chương trình và tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ cho
ngạch viên chức hạng dưới; chủ trì hoặc tham gia đề tài nghiên cứu khoa học về nghiệp
vụ bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; phân tích, xác định sơ bộ giá trị của hiện
vật, di tích, di sản văn hóa phi vật thể phù hợp với các kết luận khoa học đã được chính
thức công nhận để chuẩn bị cho việc xét quyết định nhập hiện vật vào kho bảo quản
hoặc đăng ký hiện vật vào sổ kiểm kê bước đầu; lập danh mục và tư liệu hóa di sản văn
hóa phi vật thể [Thông tư 09/2015/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 11/12/2015 của Bộ
Văn hóa Thê thao và Du lịch và Bộ Nội vụ quy định về mã số và tiêu chuẩn chức danh
nghề nghiệp viên chức chuyên ngành di sản văn hóa].
Tiếng nói, chữ viết tiếng Việt và của cộng đồng các dân tộc Việt Nam là tài sản
vô giá của dân tộc, đó là thứ bản sắc đã làm nên những giá trị văn hóa truyền thống
Việt Nam, do đó pháp luật cần phải có biện pháp giữ gìn, phát huy các giá trị quý báu
đó. Vấn đề này Hiến pháp quy định: "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết,
giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp
88
của mình" [Điều 5- Hiến pháp 2013]. Trong các Luật Di sản văn hóa, Luật Giáo dục,
Luật Quảng cáo, Luật Báo chí, Luật Xuất bản và Pháp lệnh Thư viện đều có những quy
định buộc các tổ chức, cá nhân khi thực hiện các hoạt động liên quan phải có trách
nhiệm bảo vệ và giữ gìn, phát huy các giá trị tiếng nói, chữ viết thuộc di sản văn hóa
dân tộc. Theo quy định, trong thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, các thương
nhân muốn quảng cáo cho hàng hóa, dịch vụ của mình không được tự do sử dụng tiếng
nói, chữ viết trong sản phẩm quảng cáo mà phải tuân thủ các quy định về “sản phẩm
quảng cáo phải có nội dung thể hiện bằng tiếng Việt, trừ trường hợp: (i) Nhãn hiệu,
khẩu hiệu, thương hiệu, các tên riêng bằng tiếng nước ngoài hoặc các từ ngữ đã được
quốc tế hóa và không thể thay thế bằng tiếng Việt; (ii) Sách, báo, ấn phẩm, trang thông
tin điện tử được phép xuất bản bằng tiếng dân tộc thiểu số của Việt Nam, tiếng nước
ngoài; các chương trình phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam
hoặc tiếng nước ngoài”, hoặc có thể “được sử dụng cả tiếng Việt lẫn tiếng nước ngoài
nhưng khổ chữ nước ngoài không được quá ba phần tư khổ chữ tiếng Việt; khi phát
trên đài truyền hình, đài phát thanh, các phương tiện nghe nhìn phải đọc Tiếng Việt
trước” [Điều 18 Luật Quảng cáo năm 2012]. Ngoài ra, Luật Báo chí cũng xác định
nhiệm vụ của Báo chí là góp phần giữ gìn sự trong sáng và phát triển tiếng Việt, tiếng
của các dân tộc thiểu số Việt Nam [Điều 4- Luật Báo chí].
Các quy định hiện hành xác định các biện pháp bảo vệ và phát triển tiếng nói, chữ
viết của cộng đồng các dân tộc thiểu số như nghiên cứu, sưu tầm, lưu giữ tiếng nói, chữ
viết của cộng đồng các dân tộc; ban hành quy tắc phiên âm tiếng nói của những dân tộc
chưa có chữ viết; có biện pháp bảo vệ đặc biệt đối với tiếng nói, chữ viết có nguy cơ mai
một; dạy tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số cho cán bộ, công chức, viên chức và cán
bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang nhân dân công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo
yêu cầu công việc; dạy tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số cho học sinh người dân
tộc thiểu số theo quy định của Luật giáo dục; xuất bản sách, báo, thực hiện các chương
trình phát thanh, truyền hình, sân khấu bằng tiếng dân tộc thiểu số; ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, tổ chức hoạt động thông tin tuyên truyền để bảo vệ sự trong sáng của
tiếng Việt và phát triển tiếng Việt [Điều 21- Luật Di sản văn hóa]. Về vấn đề này, pháp
luật cũng có những quy định về dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu, theo đó
“Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân
tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giúp cho học sinh người dân
tộc thiểu số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục
89
khác [Điều 7 - Luật Giáo dục]. Đây là quy định thể hiện sự tôn trọng ngôn ngữ, tiếng nói
của dân tộc và là những cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan nhà nước, các tổ chức,
cá nhân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong các hoạt động nhằm chung sức
giữ gìn, phát huy các GTVHTT của dân tộc.
Các quy định trên đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho các hoạt động bảo vệ
tiếng nói, chữ viết trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thực tiễn cho thấy thời gian
qua việc bảo vệ tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số được quan tâm nhiều hơn như
một số ngôn ngữ đã được tổ chức giảng dạy tại các cấp học và tại các cơ sở giáo dục
khác; các chính sách hỗ trợ cấp học bỗng cho học sinh được duy trì; một số ngôn ngữ
được sử dụng trên đài Tiếng nói Việt Nam, đài Truyền hình Việt Nam và đài truyền
hình địa phương; được sử sụng để in trong các tác phẩm văn nghệ truyền thống, các
sáng tác mới; dùng để biên soạn các từ điển đối chiếu song ngữ, các sách miêu tả ngữ
pháp, các sách giáo khoa. Ngoài ra, cán bộ, công chức vùng có đồng bào dân tộc thiểu
số được khuyến khích học tiếng dân tộc thiểu số như một sinh ngữ căn bản; các phong
tục truyền thống mang đậm văn hóa dân tộc cũng được đề cao cùng với sự phục hồi các
sinh hoạt lễ hội, tín ngưỡng, văn hóa đã góp phần bảo đảm hiệu quả các chính sách,
pháp luật về bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết cồng đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong dòng chảy xuyên suốt của nền văn hóa dân tộc, các lễ hội truyền thống là
yếu tố không thể thiếu để tạo nên những giá trị đặc sắc của văn hóa dân tộc và và các
giá trị này được nhà nước bảo vệ và tạo điệu kiện phát huy thông qua các chính sách,
pháp luật cụ thể. Xác định trách nhiệm của nhà nước đối với các lễ hội truyền thống,
Luật Di sản văn hóa quy định: Nhà nước tạo điều kiện nhằm duy trì và phát huy giá trị
các lễ hội truyền thống thông qua các biện pháp như: (i) Tạo điều kiện thuận lợi cho
việc tổ chức lễ hội; (ii) Khuyến khích việc tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ dân
gian truyền thống gắn với lễ hội; (iii) Phục dựng có chọn lọc nghi thức lễ hội truyền
thống; (iiii) khuyến khích việc hướng dẫn, phổ biến rộng rãi ở trong nước và nước
ngoài về nguồn gốc, nội dung giá trị truyền thống tiêu biểu, độc đáo của lễ hội [Điều
25- Luật Di sản văn hóa]. Đối với người tham gia lễ hội phải ăn mặc đảm bảo thuần
phong mỹ tục dân tộc; không thực hiện các hoạt động mê tín dị đoan; không tổ chức
hoặc tham gia đánh bạc dưới mọi hình thức [Thông tư 04/2009/TT-BVHTTDL, ngày
16/12/2009 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quy định chi tiết thi hành một số quy
định tại quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng ban hành
kèm theo Nghị định số 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11 /2009 của Chính phủ].
90
Thực hiện các quy định trên các chủ thể quản lý nhà nước đã tiến hành các giải
pháp nhằm phát huy các yếu tố tích cực của lễ hội, do đó đến nay công tác quản lý và
tổ chức lễ hội trên địa bàn cả nước đã có sự chuyển biến tích cực, dần đi vào nền nếp.
Các hoạt động lễ hội diễn ra trang trọng, an toàn, tiết kiệm, cùng nhiều hoạt động văn
hóa, thể thao và các trò chơi dân gian sôi nổi thu hút đông đảo nhân dân và du khách
tham gia. Các lễ hội có tập tục mang yếu tố bạo lực, không phù hợp với xu thế thời đại
đã chuyển đổi hình thức thực hành nghi lễ [21, tr.12].
Riêng đối với lễ hội của các dân tộc thiểu số đã được phục đựng có chọn lọc
thông qua thực hiện các chương trình, mục tiêu về văn hóa, đến việc xây dựng diễn
trình lễ hội với sự tham gia ý kiến và đồng tình của nhân dân để lễ hội vừa đảm bảo
tính trung thực của lễ hội truyền thống, đồng thời loại bỏ một số hủ tục lạc hậu (đánh
bạc, ăn uống dài ngày, nghi thức cúng tế huyền bí...). Việc tổ chức lễ hội tại các địa
phương được đảm bảo diễn ra một cách tự nhiên, do đồng bào tổ chức và thụ hưởng
những giá trị văn hóa lành mạnh, tiêu biểu của dân tộc mình; hầu hết các lễ hội của
đồng bào các dân tộc ít người vẫn giữ được những nét truyền thống đặc sắc. Điều đó
tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn đối với người tham dự, nhất là đối với du khách nước
ngoài. Thông qua lễ hội, các GTVHTT tiêu biểu các dân tộc được khơi dậy, giúp đồng
bào lựa chọn những yếu tố tiến bộ, phù hợp để bảo tồn, phát huy, nâng cao mức hưởng
thụ về văn hóa; góp phần thực hiện phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở.
Pháp luật cũng quy định những biện pháp cần thiết để bảo vệ và phát huy các
GTVHTT của dân tộc, theo Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính
phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa, đối với ngành nghề
thủ công truyền thống nhà nước cần thực hiện các biện pháp như: Điều tra, phân loại
các nghề thủ công truyền thống trong phạm vi cả nước; hỗ trợ việc duy trì và phục hồi
các nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu hoặc có nguy cơ bị mai một, thất
truyền; tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác và sử dụng vật liệu truyền thống; có
chính sách khuyến khích và hỗ trợ việc sử dụng các phương pháp, kỹ thuật thủ công
truyền thống; đẩy mạnh việc quảng bá sản phẩm thủ công truyền thống ở thị trường
trong nước và nước ngoài bằng nhiều hình thức; đề cao và tạo điều kiện thuận lợi cho
việc phổ biến và truyền dạy kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp các nghề thủ công truyền
thống có giá trị tiêu biểu; có chính sách ưu đãi về thuế đối với các hoạt động duy trì,
phục hồi và phát triển nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu theo quy định của
pháp luật về thuế.
91
Các quy định trên đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng đối với việc bảo tồn và
phát triển ngành nghề thủ công truyền thống, đến nay nhiều nghề thủ công truyền thống
có giá trị đã và đang được được phục hồi và phát triển, các chính sách thuế ưu đãi đã
được áp dụng, công tác xã hội hóa được tăng cường, thu hút được sự tham gia đông
đảo của nhiều tổ chức và cá nhân; một số làng nghề thủ công truyền thống cũng tự tìm
được hướng đi; các cơ sở thực hiện xã hội hóa đóng góp đáng kể vào hoạt động bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là về duy trì thực hành, truyền
dạy và trình diễn tại cộng đồng. Ngoài ra, luật Di sản văn hóa và các văn bản hướng
dẫn cũng quy định nhà nước thông qua hệ thống các cấp chính quyền tổ chức thực hiện
các dự án nghiên cứu, sưu tầm, thống kê, phân loại các di sản văn hoá phi vật thể trong
phạm vi toàn quốc; tiến hành sưu tầm, thống kê, phân loại thường xuyên và định kỳ về
di sản văn hoá phi vật thể; tăng cường việc truyền dạy, phổ biến, xuất bản, trình diễn và
phục dựng các loại hình di sản văn hoá phi vật thể; đầu tư và hỗ trợ kinh phí cho các
hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể; ngăn chặn nguy cơ làm
mai một, thất truyền di sản văn hoá phi vật thể; mở rộng các hình thức xã hội hoá trong
lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá phi vật thể; thực hiện việc thẩm định
miễn phí, hướng dẫn nghiệp vụ và hỗ trợ lưu giữ, bảo quản di sản văn hoá phi vật thể
theo đề nghị của tổ chức, cá nhân là chủ sở hữu di sản văn hoá phi vật thể đó.
Về chính sách của Nhà nước đối với tài liệu, bộ sưu tập tài liệu có giá trị đặc
biệt về lịch sử, văn hoá, khoa học của cá nhân, gia đình, dòng họ, pháp luật quy định:
Nhà nước trợ giúp về kỹ thuật bảo quản tài liệu, bộ sưu tập tài liệu có giá trị đặc biệt về
lịch sử, văn hoá, khoa học của cá nhân, gia đình, dòng họ nhằm mục đích duy trì và bảo
tồn di sản thư tịch của dân tộc [Điều 17 Nghị định 72/2002/NĐ-CP ngày 06/8/2002 của
Chính phủ quy đinh chi tiết thi hành Pháp lệnh Thư viện].
Một trong các nội dung quan trọng của việc giữ gìn, phát huy GTVHTT là lựa
chọn di sản văn hoá tiêu biểu của Việt Nam để đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và
Văn hoá của Liên hợp quốc công nhận là di sản văn hoá thế giới. Các quy định hiện
hành cũng đã quy định cụ thể, theo đó các giá trị văn hóa được lựa chọn phải: a) Là di
sản văn hóa phi vật thể đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia;
b) Có giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học; c) Thể hiện bản sắc văn hóa truyền
thống độc đáo và là cơ sở cho sự sáng tạo những giá trị văn hóa mới; d) Có phạm vi và
mức độ ảnh hưởng mang tính quốc gia và quốc tế về lịch sử, văn hóa, khoa học; đ) Đáp
ứng tiêu chí lựa chọn của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc
92
(UNESCO) [Điều 6 Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa]. Thủ tướng
Chính phủ xem xét quyết định việc đề nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa
của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của Việt
Nam là Di sản văn hóa thế giới, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch [Điều 19- Luật Di sản văn hóa].
Các quy định trên phát huy hiệu quả trong việc bảo vệ và phát huy các
GTVHTT trong quá trình hội nhập cũng như thực hiện các mục tiêu văn hóa, cụ thể
đến nay đã có 12 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh là di sản của
nhân loại và hàng loạt di sản văn hóa phi vật thể quốc gia được công nhận tại các địa
phương (Xem phụ lục 03). Việc kiểm kê, lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể
đã góp phần nhận diện giá trị của kho tàng di sản văn hóa phi vật thể phong phú, đa
dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh đó, nhờ nhận diện được hiện
trạng, sức sống của di sản để triển khai kịp thời các đề án, dự án bảo vệ và phát huy giá
trị di sản văn hóa phi vật thể “đã ngăn chặn nguy cơ mai một, thất truyền, góp phần tích
cực trong việc bảo vệ bản sắc văn hóa tộc người. Ngoài ra, các di sản văn hóa phi vật
thể được sưu tầm nghiên cứu, phục dựng, trao truyền và tổ chức trình diễn đã trực tiếp
nâng cao đời sống văn hóa ở cơ sở và phát triển kinh tế-xã hội cộng đồng cư dân tại địa
phương” [21, tr.10]. Như vậy, pháp luật đã phân định thẩm quyền nhằm tạo cơ sở pháp
lý và đã phát huy vai trò để các chủ thể quản lý có trách nhiệm thực hiện chức trách của
mình trong việc phổ biến, đưa các giá trị văn hóa ra bên ngoài để được thế giới công
nhận và bảo đảm thực hiện.
Đánh giá một cách tổng quan, thực hiện xây dựng nền văn hóa Viêt Nam tiên
tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc, pháp luật từng bước đã thể hiện được vai trò trong
việc tạo lập khung pháp lý cho các chủ thể trong các hoạt động văn hóa. Những quy
định kịp thời về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm đã tạo ra các cơ sở pháp lý cho các tổ
chức, cá nhân thực hiện việc giữ gìn, phát huy GTVHTT trong các hoạt động của
mình. Các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực di sản văn hóa đã từng bước hoàn
thiện và chặt chẽ hơn nhằm thiết lập khuôn khổ pháp lý thích hợp; xác định rõ trách
nhiệm của cơ quan Nhà nước từ Trung ương tới địa phương, quyền và nghĩa vụ của các
cá nhân, tổ chức xã hội, đồng thời tạo động lực định hướng cho các hoạt động giữ gìn,
phát huy GTVHTT. Có thể khẳng định rằng hệ thống các quy phạm pháp luật về văn
hóa truyền thống sớm được hình thành trong quá trình xây dựng pháp luật và ngày
93
càng phù hợp hơn trong việc bảo đảm yêu cầu điều chỉnh các quan hệ xã hội cũng như
tạo lập cơ sở pháp lý trong xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam.
3.2.2. Những hạn chế
Tuy nhiên, vai trò tạo lập các khung pháp lý cho các chủ thể trong giữ gìn, phát
huy GTVHTT hiện nay của hệ thống văn bản pháp luật còn tồn tại những hạn chế nhất
định như các quy định về quyền và nghĩa vụ chưa thật rõ ràng, cụ thể; các đạo luật có
liên quan chỉ dừng lại ở những quy định mang tính nguyên tắc, Luật Di sản văn hóa chỉ
quy định chung về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong vấn đề giữ gìn,
bảo vệ di sản văn hóa và tương đối cụ thể trong vấn đề bảo vệ các giá trị văn hóa vật
thể. Ngoài quy định quyền hạn, trách nhiệm của chủ thể quản lý là các cơ quan nhà
nước, còn quyền, nghĩa vụ của các chủ thể khác chỉ dừng lại ở mức độ khuyến khích;
trong khi đó, các di sản văn hóa phi vật thể là những giá trị cơ bản tạo nên cốt cách và
bản sắc riêng của văn hóa truyền thống thì Luật đề cập rất ít. Văn bản hướng dẫn thi
hành cũng chỉ đề cập đến quyền và nghĩa vụ của nhà nước, không đề cập đến nghĩa vụ
của cá nhân và tổ chức khác.
Số lượng văn bản trong lĩnh vực văn hóa lớn, cồng kềnh, hiệu lực pháp lý thấp,
thiếu những quy tắc xử sự cụ thể; nhiều quy phạm pháp luật chưa có tính khả thi cao.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ liên đến văn hóa còn thể hiện
sự thiếu đồng bộ như có lĩnh vực Luật điều chỉnh, có lĩnh vực là Nghị định, thậm chí
nhiều nội dung quản lý nhà nước chỉ được điều chỉnh bởi một Thông tư [20, tr.45]. Văn
bản pháp luật về di sản văn hóa chủ yếu điều chỉnh hoạt động bảo vệ di sản là chủ yếu,
nội dung phát huy giá trị di sản còn chưa tương xứng với yêu cầu thực tế. Nhiều hoạt
động phát huy giá trị di sản văn hóa đã và đang triển khai trong thực tiễn nhưng chưa
có căn cứ pháp lý cụ thể để thực thi có hiệu quả trong từng lĩnh vực như: giáo dục đào
tạo, y tế, kinh tế; chưa có quy định về chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế cho các đơn
vị, doanh nghiệp có đóng góp trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị của di sản văn
hóa [20, tr.14]. Việc giữ gìn và phát huy giá trị di sản ở một số nơi chưa tốt, một số hủ
tục mê tín dị đoan có nguy cơ phát triển, nhiều sinh hoạt văn hóa dân tộc bị biến dạng
trước tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường và văn hóa ngoại lai; một số loại hình
văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, tập quán tốt đẹp của một số dân tộc thiểu số bị mai một;
sự trong sáng thuần khiết của Tiếng Việt đang bị xâm hại.
Đặc biệt, còn rất nhiều lĩnh vực chuyên môn về văn hóa chưa có Luật hoặc Pháp
lệnh điều chỉnh (nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh, xây dựng môi trường văn
94
hóa, thiết chế văn hóa, tuyên truyền cổ động chính trị, quyền và nghĩa vụ của văn nghệ
sỹ...) thậm chí chưa có văn bản điều chỉnh (lĩnh vực văn học, quản lý hoạt động trò
chơi...). Điều này ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý nhà nước về từng lĩnh vực, vì
mỗi lĩnh vực cần hệ thống chính sách để phát triển. Những chính sách này theo Hiến
pháp 2013 chỉ có thể được xác định một cách đầy đủ, rõ ràng, áp dụng bắt buộc khi
được thể chế trong văn bản Luật. Ngoài ra, mỗi lĩnh vực có mối liên hệ chặt chẽ với
một số ngành, lĩnh vực khác như đầu tư kinh doanh, di sản, bản quyền, lao động, giáo
dục đào tạo... các ngành, lĩnh vực này đều đã có Luật điều chỉnh nên khi xử lý những
vấn đề liên ngành thì lĩnh vực chưa có Luật khó bảo vệ được nhiệm vụ đặc thù để đáp
ứng yêu cầu quản lý chuyên môn của các lĩnh vực đó.
Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật cũng chưa thể chế hóa đầy đủ, toàn diện chủ
trương của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện
đại, giàu bản sắc dân tộc. Do đó, chưa tạo ra hành lang pháp lý căn bản để xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh, chất lượng, chưa thực sự là công cụ bảo đảm hiệu
quả hoạt động giữ gìn, phát huy GTVHTT. Vì vậy, chưa thúc đẩy có hiệu quả việc
thực hiện các mục tiêu về giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam. Từ đó làm giảm
đáng kể hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa đồng thời làm phát sinh
nhiều bất cập trong thực tiễn như: i) Nạn mê tín dị đoan, lợi dụng tín ngưỡng, tâm
linh, ngoại cảm để trục lợi, các hủ tục cũ, mới tràn lan, nhất là trong việc cưới, việc
tang, lễ hội… có chiều hướng gia tăng. Vẫn còn xuất hiện những biểu hiện tiêu cực
như việc cưới vẫn còn hiện tượng ăn uống linh đình, việc tang kéo dài, việc phúng
viếng bằng vòng hoa, đối trướng đắt tiền, việc xây mồ mả, lăng bia tốn kém tiền của
đất đai vẫn diễn ra ở nhóm cán bộ, công chức và một bộ phận người giàu có; ii)
Việc phục hồi và phát huy văn hoá truyền thống, nhất là việc tổ chức lễ hội, còn
mang tính tự phát, mang tính phong trào, thiếu chọn lọc; chưa khai thác, phát huy
được đầy đủ nét độc đáo, bản sắc riêng và giá trị tốt đẹp của văn hoá truyền thống;
đồng thời cũng chưa chú ý phát huy tính chủ động của quần chúng, vai trò chủ thể
văn hoá của cộng đồng chưa thật sự được coi trọng, ảnh hưởng tới chất lượng việc
bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá của các dân tộc; iii) Trong sáng tác, biểu diễn,
truyền bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật còn không ít tác phẩm và hoạt động
chưa thể hiện được tính chất tiên tiến và bản sắc dân tộc. Số lượng tác phẩm văn
học, nghệ thuật xuất hiện ngày một nhiều, song còn ít tác phẩm đạt đỉnh cao, tương
xứng với sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc và thành tựu của công cuộc đổi
95
mới. Trong một số tác phẩm, lý tưởng xã hội, thẩm mỹ không rõ nét. Một số tác
phẩm có nội dung tư tưởng lệch lạc, thiên về khai thác những mặt tiêu cực, thậm chí
phủ nhận quá khứ hào hùng của dân tộc, xuyên tạc sự thật lịch sử. Không ít tác
phẩm còn thể hiện sự dễ dãi, chiều theo thị hiếu tầm thường của một bộ phận công
chúng [20].
Ngoài ra, một số điều khoản trong văn bản quy phạm pháp luật còn chung
chung, chưa cụ thể, khó áp dụng trong thực tiễn, chẳng hạn Nghị định 98/2010/NĐ-
CP của Chính phủ quy định thi hành Luật Di sản văn hóa có nêu những hành vi gây
nguy cơ hủy hoại và làm giảm giá trị di sản văn hóa phi vật thể, trong đó có hành vi
tùy tiện đưa những yếu tố không phù hợp làm giảm giá trị di sản [Điều 4], nhưng
không quy định cơ quan nào có trách nhiệm đánh giá các hành vi làm giảm giá trị
của di sản. Những bất cập trên đã phần nào hạn chế vai trò của pháp luật trong tạo
lập khuôn khổ pháp lý cho các chủ thể giữ gìn, phát huy GTVHTT ở nước ta thời
gian qua. Cần phải hoàn thiện khung pháp luật hiện hành có liên quan để tạo ra cơ
sở pháp lý vững chắc cho các chủ thể trong giữ gìn, phát huy GTVHTT, đáp ứng
các mục tiêu về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại
nhưng thắm đậm tính dân tộc, nhân văn.
3.3. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG BẢO ĐẢM HIỆU QUẢ ĐỐI VỚI
VIỆC GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
3.3.1. Những kết quả đạt được
Cùng với việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể thực hiện quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong giữ gìn, phát huy GTVHTT, pháp luật đã lập
một hệ thống các biện pháp tác động của chủ thể quản lý nhà nước về văn hóa, đồng
thời cũng quy định các hình thức khen thưởng, những chế độ chính sách ưu đãi đối với
các cá nhân, tổ chức có thành tích trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT. Bên cạnh đó,
pháp luật cũng đã xác định các hành vị bị cấm đoán cũng như các biện pháp chế tài khi
có hành vi xâm hại đến GTVHTT.
Luật di sản văn hóa quy định: “Tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa được khen thưởng theo quy định của pháp luật”
[Điều 69]. Cụ thể quy định trên, pháp luật đã có quy định đối với những nghệ nhân,
nghệ sĩ được tặng thưởng, truy tặng Huân chương, Huy chương, danh hiệu vinh dự nhà
nước và các hình thức tôn vinh khác khi đang nắm giữ, truyền dạy và phát huy giá trị di
96
sản văn hóa phi vật thể thuộc các loại hình: Tiếng nói, chữ viết; Ngữ văn dân gian;
Nghệ thuật trình diễn dân gian; Tập quán xã hội và tín ngưỡng; Lễ hội truyền thống;
Tri thức dân gian theo quy định của pháp luật [Nghị định 62/2014/NĐ-CP ngày
25/6/2014 của Chính quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ
nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể].
Các quy định pháp luật hiện hành xác định nhà nước sẽ tạo điều kiện và hỗ trợ
một phần chi phí cho các hoạt động sáng tạo, biểu diễn, trưng bày, giới thiệu và tiêu thụ
sản phẩm đối với nghệ nhân, nghệ sĩ có công trong việc bảo tồn, phổ biến, phát huy
GTVHTT. Đồng thời, pháp luật cũng quy định những chính sách ưu đãi đối với những
nghệ nhân, nghệ sĩ được phong tặng danh hiệu vinh dự nhà nước khi họ có hoàn cảnh
khó khăn như: a) Được hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi về không gian, mặt
bằng để tổ chức các hoạt động truyền dạy, sáng tạo, trình diễn, trưng bày, giới thiệu sản
phẩm; b) Được giảm hoặc miễn thuế đối với hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa phi vật thể theo quy định của pháp luật về thuế; c) Được hưởng trợ cấp sinh
hoạt hằng tháng và ưu đãi khác nếu có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn [Điều 10
Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa].
Bên cạnh các hình thức khen thưởng thì pháp luật cũng xác định những hành vi
bị ngăn cấm và đặt ra các biện pháp chế tài nhằm xử lý các cá nhân, tổ chức có hành vi
vi phạm việc giữ gìn, phát huy GTVHTT trong các hoạt động của mình. Luật Di sản
văn hóa khẳng định: “Người nào vi phạm các quy định của pháp luật về di sản văn hóa
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách
nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật” [Điều
71], “người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định của pháp luật về di
sản văn hóa thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu
trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”
[Điều 72]. Luật Xuất bản cũng quy định các biện pháp xử lý trong hoạt động xuất bản
như tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định của Luật Xuất bản và quy định khác
của pháp luật có liên quan thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi
phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật; Xuất bản phẩm có vi phạm thì bị đình chỉ phát
hành có thời hạn và tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà phải sửa chữa mới được
phát hành hoặc bị thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, tiêu hủy; Xuất bản phẩm điện tử có
97
vi phạm thì bị đưa ra khỏi phương tiện điện tử và tùy theo tính chất, mức độ vi phạm
mà bị xử lý theo quy định; Tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
trong hoạt động xuất bản thì bị xử lý theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ
[Điều 11- Luật Xuất bản]. Về vấn đề này, pháp luật hiện hành có một hệ thống chế tài
trong các lĩnh vực hình sự, hành chính- dân sự và kỷ luật nhà nước, cụ thể như sau:
3.3.1.1. Trong lĩnh vực hình sự
Các hành vi xâm hại đến giá trị văn hóa dân tộc được quy định tại các chương
của Bộ luật hình sự: Chương XIII- các tội xâm phạm an ninh quốc gia; chương XIV-
các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; chương
XVII- các tội phạm xâm phạm về chế độ hôn nhân và gia đình; chương XIX- các tội
xâm phạm về môi trường; chương XXI- các tội phạm an toàn công cộng và trật tự công
cộng; chương XXVI- Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến
tranh và được áp dụng các chế tài nghiêm khắc.
Theo đó, những hành vi đi ngược lại truyền thống yêu nước của nhân dân như
câu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho lợi ích quốc gia, dân tộc, xâm hại đến
an ninh quốc gia, phá hoại giá trị yêu nước được hình thành và gìn giữ trong nhân dân
ta bị xem là tội phạm, có thể bị áp dụng hình phạt đến tử hình [Điều 108- Tội phản bội
Tổ quốc, Điều 110- Tội gián điệp, Điều 116- Tội phá hoại chính sách đoàn kết].
Tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người là các giá trị quý giá
được pháp luật bảo vệ, đây cũng là các giá trị cần phải giữ gìn và phát triển trong xây
dựng nền văn hóa Việt Nam. Do đó các hành vi giết người, đe dọa giết người; đối xử
tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm nhục người lệ thuộc mình làm người
đó tự sát; không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng; hành
hạ người khác; hiếp dâm, cưỡng dâm, chứa mại dâm, môi giới mại dâm; lây truyền
bệnh hiểm nghèo cho người khác; mua bán người; lừa đảo chiếm đoạt tài sản người
khác; vu khống, xúc phạm danh dự nhân phẩm người khác nhằm làm nhục người khác
là tội phạm được quy định tại Bộ Luật hình sự và có thể bị áp dụng chế tài nghiêm khắc
cao nhất là chung thân hoặc tử hình. Các quy định trên đã phát huy hiệu quả trong thực
tiễn đời sống xã hội, thông qua việc áp dụng chế tài của cơ quan tư pháp đã bảo đảm
tính nghiêm minh của pháp luật, bảo đảm danh dự, nhân phẩm con người, qua đó có
tác dụng răn đe, ngăn chặn các hành vi phạm tội tiếp theo, tao dựng được niềm tin của
con người vào công lý.
98
Pháp luật đã quy định những quyền và nghĩa vụ các chủ thể nhằm tạo cơ sở pháp
lý trong việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT, bảo đảm hiệu quả thực hiện các mục tiêu
xây dựng và phát triển nền văn hóa. Tuy nhiên, các hành vi vi phạm các quyền và nghĩa
vụ trên gây hậu quả nghiêm trọng được pháp luật xem là tội phạm và bị xử lý theo pháp
luật hình sự. Các hành vi xâm phạm đạo đức lối sống, vi phạm văn hóa, thuần phong mỹ
tục truyền thống, vi phạm sự phát triển bình thường trong việc hình thành nhân cách của
người Việt Nam cũng được pháp luật xử lý rất nghiêm khắc. Cụ thể, nhằm bảo vệ các giá
trị thuần phong mỹ tục trong quan hệ gia đình, Bộ luật hình sự quy định các biện pháp
trừng trị các hành vi loạn luân, hành vi ngược đãi ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu
hoặc người có công nuôi dưỡng mình. Theo đó “người nào giao cấu với người mà biết rõ
người đó cùng dòng máu về trực hệ, là anh chị em cùng cha mẹ, anh chị em cùng cha
khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha” hoặc “người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực
xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng
mình” thì có thể bị phạt đến 5 năm tù [Điều 184, 185 Bộ luật Hình sự]. Bên cạnh đó,
những hành vi xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt; hành nghề mê tín, dị đoan; phát tán,
tuyên truyền, cổ động các sản phẩm văn hóa độc hại, xâm phạm đến các giá trị truyền
thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc, làm suy đồi về mặt đạo đức ảnh hưởng đến sự
lành mạnh của nền văn hóa Việt Nam được xem là những hành vi phạm tội và phải bị xử
lý theo quy định của Bộ luật Hình sự. Người vi phạm có thể bị phạt đến 15 năm tù tùy
theo tính chất, mức độ vi phạm cũng như hậu quả xảy ra.
Dân tộc việt vốn hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình, ghét chiến tranh, đây là đặc
trưng trong văn hóa truyền thống Việt Nam được hun đúc trong suốt chiều dài lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Do đó, những hành vi như tuyên truyền,
kích động chiến tranh xâm lược hoặc chuẩn bị, tiến hành, tham gia chiến tranh xâm
lược nhằm chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của một quốc gia hoặc
một vùng lãnh thổ độc lập, có chủ quyền khác; hoặc trong thời bình hay trong chiến
tranh mà thực hiện hành vi tiêu diệt hàng loạt dân cư của một khu vực, phá hủy nguồn
sống, phá hoại cuộc sống văn hóa, tinh thần của một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ
độc lập, có chủ quyền, làm đảo lộn nền tảng của một xã hội nhằm phá hoại xã hội đó
hoặc thực hiện hành vi diệt chủng khác hoặc thực hiện hành vi diệt sinh, diệt môi
trường tự nhiên; hay trong thời kỳ chiến tranh mà ra lệnh hoặc trực tiếp tiến hành việc
giết hại dân thường, người bị thương, tù binh, cướp phá tài sản, tàn phá các nơi dân cư,
sử dụng các phương tiện hoặc phương pháp chiến tranh bị cấm hoặc thực hiện hành vi
99
khác vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế hoặc các điều ước quốc tế mà Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia thì bị xem là tội phạm và có thể áp
dụng hình phạt cao nhất là tử hình [Điều 321, 322, 323 Bộ Luật hình sự 2015]. Bên
cạnh đó, pháp luật hình sự Việt Nam cũng thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân đạo trong
đấu tranh phòng, chống tội phạm; thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng,
Nhà nước, thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng về phòng, chống tội phạm theo
phương châm lấy phòng ngừa là chính, kết hợp với răn đe, giáo dục chung, góp phần
bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; đề cao tính hướng thiện trong
xử lý vi phạm. Việc thực thi pháp luật hình sự trong những năm qua đã phát huy tác
dụng giáo dục- phòng ngừa, góp phần nâng cao ý thức tôn trọng và chấp hành pháp
luật của nhân dân.
3.3.1.2. Trong lĩnh vực hành chính - dân sự
Nhằm bảo đảm thực hiện các mục tiêu văn hóa, các quy định pháp luật xác định
những hành vi bị ngăn cấm và các hình thức xử lý hành chính khi vi phạm nghĩa vụ về
giữ gìn, phát huy GTVHTT. Để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, pháp luật quy
định cấm các hành vi “kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng
dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi
với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu,
mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”
[Điều 5- Luật HN&GĐ]. Vi phạm các quy định trên người vi phạm có thể bị phạt đến 3
triệu đồng [Nghị định 462 ngày 22/02/2016 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân gia đình, thi
hành án, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã]. Trong hoạt động báo chí, các hành vi xâm
hại đến các giá trị văn hóa truyền thống như: a) xuyên tạc, phỉ báng, phủ nhận chính
quyền nhân dân, bịa đặt, gây hoang mang trong Nhân dân; b) đăng, phát thông tin có
nội dung gây hằn thù, kỳ thị, chia rẽ, ly khai dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng trong
cộng đồng các dân tộc Việt Nam; c) đăng, phát thông tin có nội dung kích động chiến
tranh nhằm chống lại độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam; d) xuyên tạc lịch sử; phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm
dân tộc, anh hùng dân tộc; e) thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan; thông tin về
những chuyện thần bí gây hoang mang trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn
xã hội và sức khỏe của cộng đồng; f) kích động bạo lực; tuyên truyền lối sống đồi trụy;
miêu tả tỉ mỉ những hành động dâm ô, hành vi tội ác; thông tin không phù hợp với
100
thuần phong mỹ tục Việt Nam; g) thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm
uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; h) đe dọa, uy hiếp tính
mạng, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà báo, phóng viên là những hành vi bị cấm
[Điều 9- Luật Báo chí]. Các quy định hiện hành cũng xác định các chế tài xử lý hành
chính hành vi vi phạm các điều cấm trên, cụ thể những hành vi: Miêu tả tỷ mỉ hành
động dâm ô, chém, giết, tai nạn rùng rợn trong các tin, bài, ảnh; đăng, phát tin, bài, ảnh
kích dâm, khỏa thân, hở thân thiếu thẩm mỹ, không phù hợp với thuần phong mỹ tục
Việt Nam; đăng, phát thông tin truyền bá hủ tục, mê tín, dị đoan; đăng, phát thông tin
về những chuyện thần bí, các vấn đề khoa học mới chưa được kết luận trên ấn phẩm
không phải tạp chí nghiên cứu chuyên ngành có thể bị xử phạt vi phạm hành chính đến
10 triệu đồng. Ngoài ra, các hành vi: đăng, phát thông tin xuyên tạc, vu khống nhằm
xúc phạm danh dự, uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân; đăng, phát
thông tin kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nhà
báo, phóng viên khi đang hoạt động nghề nghiệp có thể bị xử phạt từ 5 triệu đến 30
triệu đồng tùy theo hành vi vi phạm [Nghị định 159/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 về
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xuất bản, báo chí].
Trong hoạt động xuất bản, những hành vi “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tuyên truyền
kích động chiến tranh xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước;
kích động bạo lực; truyền bá tư tưởng phản động, lối sống dâm ô, đồi trụy, hành vi tội
ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong mỹ tục; tiết lộ bí mật nhà nước,
bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác do pháp luật quy định; xuyên tạc sự thật lịch
sử, phủ nhận thành tựu cách mạng; xúc phạm dân tộc, danh nhân, anh hùng dân tộc;
không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia; vu khống, xúc phạm uy
tín của cơ quan, tổ chức và danh dự, nhân phẩm của cá nhân” [Điều 10- Luật Xuất bản]
là những hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản. Pháp luật đã có những chế tài xử lý
vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm những quy định cấm trên trong hoạt động
xuất bản, mức phạt có thể lên đến 100 triệu đồng [Điều 20, 24 Nghị định 159].
Đối với các hoạt động trực tiếp liên quan đến lĩnh vực văn hóa, pháp luật có
những quy định nhằm ngăn chặn và xử lý những hành vi xâm hại các GTVHTT đối với
tổ chức, cá nhân thực hiện các hành vi vi phạm tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải
bị xử lý theo định của pháp luật. Các quy định hiện hành cũng xác định các biện pháp
xử lý cụ thể, theo đó những hành vi sản xuất phim có nội dung vu khống, xúc phạm uy
101
tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân; trích ghép, thêm âm thanh, hình
ảnh có tính chất khiêu dâm, kích động bạo lực, đồi trụy vào phim đã được phép phổ
biến; khiêu dâm, kích động bạo lực, truyền bá tệ nạn xã hội, hủy hoại môi trường sinh
thái, không phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa Việt Nam có thể bị
xử phạt vi phạm hành chính từ 10 triệu đến 40 triệu đồng tùy theo hành vi [Điều 4-
Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo]. Các hành vi
phát hành, phổ biến phim có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực, đồi trụy có thể bị
phạt đến từ 10 đến 30 triệu đồng tùy theo hành vi [Điều 5, Điều 6- NĐ 158/2013/NĐ-
CP]. Các hành vi sản xuất bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu có nội dung
khiêu dâm, kích động bạo lực, truyền bá tệ nạn xã hội, không phù hợp với thuần phong
mỹ tục, truyền thống văn hóa Việt Nam có thể bị xử phạt từ 30 đến 40 triệu đồng [Điều
10]. Hành vi bán, cho thuê hoặc lưu hành bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu
có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực, đồi trụy có thể bị phạt đến 15 triệu đồng
[Điều 11]; phổ biến bản ghi âm, ghi hình ca múa nhạc, sân khấu có nội dung khiêu
dâm, kích động bạo lực tại nơi công cộng có thể bị phạt đến 10 triệu đồng [Điều 12].
Đối với các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang, pháp luật cũng có
những chế tài nghiêm đối với những hành vi vi phạm đến GTVHTT khi tiến hành các
hoạt động biểu diễn, trình diễn. Cụ thể, những hành vi sử dụng trang phục hoặc hóa
trang không phù hợp với mục đích, nội dung biểu diễn, trình diễn và thuần phong mỹ
tục, truyền thống văn hóa Việt Nam có thể bị phạt đến 10 triệu đồng; thực hiện hành vi
không phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa Việt Nam hoặc hành vi
làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ đối ngoại trong quá trình tổ chức biểu diễn có thể bị
phạt đến 15 triệu đồng; hành vi tổ chức biểu diễn tác phẩm có nội dung truyền bá tệ
nạn xã hội, không phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa Việt Nam;
xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân có thể bị phạt đến 30
triệu đồng, người biểu diễn bị đình chỉ hoạt động biểu diễn từ 3 tháng đến 6 tháng
[Điều 13]. Về xây dựng nếp sống văn hóa, pháp luật quy định hành vi đốt vàng mã
không đúng nơi quy định tại nơi tổ chức lễ hội, di tích lịch sử - văn hóa; lợi dụng hoạt
động lên đồng, xem bói, gọi hồn, xin xăm, xóc thẻ, yểm bùa, phù chú, truyền bá sấm
trạng và các hình thức tương tự khác để trục lợi; phục hồi phong tục, tập quán gây ảnh
hưởng đến sức khoẻ, nhân cách con người và truyền thống văn hóa Việt Nam có thể bị
xử phạt từ cảnh cáo đến phạt tiền 10 triệu đồng tùy theo hành vi vi phạm [Điều 15].
102
Pháp luật nghiêm cấm các hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa có
nội dung (i) Kích động nhân dân chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; phá hoại khối đoàn kết toàn dân; (ii) Kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh
xâm lược, gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước; truyền bá tư tưởng, văn
hóa phản động, lối sống dâm ô đồi trụy, các hành vi tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị
đoan, trái với thuần phong mỹ tục, gây hại cho sức khoẻ và hủy hoại môi trường sinh
thái;(iii) Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm vĩ nhân, xúc
phạm dân tộc, vu khống, xúc phạm danh dự, uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm
của cá nhân [Nghị định 103/2009/NĐ-CP ngày 06/11/2009 của Chính phủ Ban hành
Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng]. Đồng thời,
pháp luật xác định các chế tài xử lý các vi phạm nêu trên. Cụ thể, những hành vi treo,
trưng bày tranh, ảnh, lịch hay đồ vật khác có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực,
đồi trụy tại vũ trường, nơi khiêu vũ công cộng, nhà hàng karaoke, cơ sở lưu trú du lịch,
nhà hàng ăn uống, giải khát hoặc tại nơi hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn
hóa công cộng khác có thể bị phạt đến 5 triệu đồng. Các hành vi bao che cho các hoạt
động có tính chất khiêu dâm, kích động bạo lực, đồi trụy, nhảy múa thoát y tại vũ
trường, nơi khiêu vũ công cộng, nhà hàng karaoke, nơi tổ chức hoạt động văn hóa và
kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng khác; tổ chức cho khách nhảy múa thoát y hoặc
tổ chức hoạt động khác mang tính chất đồi trụy tại vũ trường, nơi tổ chức hoạt động
văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng khác, nhà hàng ăn uống, giải khát,
nhà hàng karaoke có thể bị phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng [Điều 19].
Ngoài ra, các hành vi sản xuất băng, đĩa trò chơi điện tử có nội dung đồi trụy;
xây dựng công trình mỹ thuật có nội dung khiêu dâm, kích động bạo lực, đồi trụy hoặc
không đúng mẫu đã được phê duyệt; tuyên truyền, phổ biến, trình diễn sai lệch nội
dung và giá trị di sản văn hóa phi vật thể đã được đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi
vật thể quốc gia hoặc được công nhận là Di sản văn hóa thế giới; sưu tầm, nghiên cứu
di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam mà không thực hiện đúng nội dung đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cho phép là những hành vi đi ngược lại
yêu cầu bảo vệ giá trị văn hóa phi vật thể. Theo quy định tại Nghị định 158/2013/NĐ-
CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo thì chủ thể vi phạm có thể bị xử phạt từ
3 đến 35 triệu đồng tùy theo hành vi vi phạm.
Các hoạt động thể dục, thể thao và du lịch là hình thức nhanh nhất giới thiệu về
đất nước, con người và văn hóa Việt Nam. Nhằm nâng cao sức khỏe, rèn luyện thể
103
chất, tinh thần giúp hình thành nhân cách tốt đẹp con người, thông qua thi đấu thể thao
và hoạt động du lịch có thể giúp cho bên ngoài thấy được hình ảnh về văn hóa, con
người Việt Nam, qua đó góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và giữ gìn, phát huy giá
trị quý báu của dân tộc. Do đó, các hành vi chửi bới, lăng mạ, xúc phạm nhân phẩm,
danh dự, đe dọa sức khỏe, tính mạng và phản ứng khác không phù hợp với đạo đức,
thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa Việt Nam đối với trọng tài trong thi đấu thể
thao là các hành vi bị cấm, nếu vi phạm có thể bị phạt đến 20 triều đồng [Điều 40]. Đối
với hướng dẫn viên du lịch nếu giới thiệu sai lệch giá trị văn hóa, lịch sử, đất nước, con
người Việt Nam, gây ảnh hưởng xấu tới hình ảnh, thuần phong mỹ tục, truyền thống
văn hóa của Việt Nam có thể bị phạt đến 15 triệu đồng và bị tước quyền sử dụng Thẻ
hướng dẫn viên du lịch từ 3 tháng đến 6 tháng [Điều 44, 158/2013/NĐ-CP nêu trên].
Pháp luật đã tạo lập cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh trong đó doanh
nghiệp được quyền quảng cáo để qua đó nhằm quảng bá, giới thiệu sản phẩm đến với
người tiêu dung. Tuy nhiên, pháp luật cũng nghiêm cấm các hành vi quảng cáo làm
xâm hại, ảnh hưởng tiêu cực đến việc bảo vệ và giữ gìn, phát huy các GTVHTT. Theo
Luật Quảng cáo, các hành vi: Quảng cáo thiếu thẩm mỹ, trái với truyền thống lịch sử,
văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam; quảng cáo gây ảnh hưởng xấu đến sự
tôn nghiêm đối với Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Đảng kỳ, anh hùng dân tộc, danh
nhân văn hóa, lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước; quảng cáo xúc phạm uy tín, danh dự,
nhân phẩm của tổ chức, cá nhân; quảng cáo tạo cho trẻ em có suy nghĩ, lời nói, hành
động trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục; gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, an toàn
hoặc sự phát triển bình thường của trẻ em” [Điều 8- Luật Quảng cáo] là hành vi bị cấm
trong hoạt động quảng cáo. Tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định trên tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm có thể bị phạt tiền đến 100 triệu đồng, cụ thể: Quảng cáo các loại
sản phẩm, hàng hóa có tính chất kích dục, bạo lực; quảng cáo có tính chất kỳ thị dân
tộc, phân biệt chủng tộc; xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo; định kiến về giới; định
kiến về người khuyết tật; quảng cáo có nội dung tạo cho trẻ em có suy nghĩ, lời nói,
hành động trái với đạo đức, thuần phong mỹ tục; gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, an
toàn hoặc sự phát triển bình thường của trẻ em; quảng cáo có nội dung trái với truyền
thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam; quảng cáo lừa dối, gây
nhầm lẫn cho công chúng, người tiêu dùng, khách hàng về tổ chức, cá nhân, sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ được quảng cáo với tổ chức, cá nhân, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ
khác hoặc lừa dối, gây nhầm lẫn về tính năng, tác dụng của sản phẩm, hàng hóa, dịch
104
vụ được quảng cáo gây ảnh hưởng xấu đến sự tôn nghiêm đối với anh hùng dân tộc,
danh nhân văn hóa, lãnh tụ, lãnh đạo Đảng, Nhà nước [Điều 50, 51]. Pháp luật cũng
quy định việc bảo vệ tiếng nói, chữ viết tiếng Việt trong hoạt động quảng cáo, những
quảng cáo vi phạm quy định về tiếng nói, chữ viết tiếng Việt có thể bị phạt đến 10 triệu
đồng [Điều 52].
Pháp luật hiện hành có những quy định nhằm bảo vệ các mối quan hệ dân sự
trong đời sống hằng ngày của cộng đồng dân cư. Để giải quyết các tranh chấp, mẫu
thuẫn nhỏ trong cộng đồng dân cư pháp luật khuyến khích việc tự hòa giải giữa những
người tranh chấp, mâu thuẫn với nhau trên cơ sở tôn trọng sự tự nguyện của các bên;
không bắt buộc, áp đặt các bên trong hòa giải ở cơ sở; việc hòa giải phải bảo đảm phù
hợp với chính sách, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội, phong tục, tập quán tốt
đẹp của nhân dân; phát huy tinh thần đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các
thành viên trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư; quan tâm đến quyền, lợi ích
hợp pháp của trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật và người cao tuổi [Điều 4- Luật Hòa giải
cơ sở]. Trong Bộ luật dân sự các năm 1995, 2005 và 2015 cũng đều xác định nguyên
tắc về giao dịch dân sự không được trái pháp luật và đạo đức xã hội, nếu các giao dịch
dân sự trái với nguyên tắc trên thì giao dịch dân sự đó bị xem là vô hiệu. Đối với cán
bộ, công chức, viên chức lợi dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định của pháp
luật về di sản văn hóa nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật
[Điều 72- Luật Di sản văn hóa].
3.3.1.3. Trong lĩnh vực kỷ luật nhà nước
Cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản phải chịu trách nhiệm về
quyết định của mình; trường hợp quyết định sai, gây thiệt hại thì phải bồi thường theo
quy định của pháp luật. Trong hoạt động công vụ nếu cán bộ, công chức, viên chức lợi
dụng chức vụ, quyền hạn vi phạm các quy định của pháp luật về di sản văn hóa thì tùy
theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật [Điều 72- Luật Di sản văn hóa];
người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính mà sách nhiễu, đòi, nhận tiền, tài sản
khác của người vi phạm, dung túng, bao che, không xử lý hoặc xử lý không kịp thời,
không đúng tính chất, mức độ vi phạm thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị
xử lý kỷ luật [Điều 16- Luật Xử lý vi phạm hành chính].
Đối với hành vi lợi dụng hoạt động nghề nghiệp để tuyên truyền chống lại
chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước hoặc gây
phương hại đối với thuần phong, mỹ tục, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân
105
và xã hội; Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác trong khi thực hiện
hoạt động nghề nghiệp là các hành vi bị cấm trong hoạt động của viên chức [Điều
19- Luật Viên chức], nếu vi phạm có thể bị kỷ luật đến mức cảnh cáo [Điều 11-
Nghị định 27/2012/NĐ-CP ngày 06 tháng 04 năm 2012 của Chính phủ quy định về
xử lý kỷ luật viên chức và trách nhiệm bồi thường, hoàn trả của viên chức. Đối với
người đứng đầu cơ quan chủ quản báo chí, tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám
đốc, phó giám đốc, tổng biên tập, phó tổng biên tập cơ quan báo chí, nhà báo, tác
giả tác phẩm báo chí và cá nhân khác có hành vi vi phạm quy định của Luật Báo chí
liên quan đến GTVHTT thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật,
thu hồi thẻ nhà báo [Điều 59- Luật Báo chí].
Nhìn chung pháp luật đã phát huy được vai trò là công cụ bảo đảm hiệu quả đối
với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT, bảo đảm cho các giá trị đó được giữ gìn và phát
triển, góp phần thúc đẩy các nguồn lực xã hội tham gia tích cực hơn vào xây dựng nền
văn hóa, đảm bảo để văn hóa phát triển phong phú, đa dạng hơn theo đúng các nguyên tắc, chuẩn mực pháp luật quy định. Cùng với các quy định về khen thưởng, là các quy định nghiêm cấm và hệ thống chế tài xử lý những hành vi vi phạm. Bằng những chế tài cụ thể trong các lĩnh vực pháp luật hình sự, hành chính- dân sự, kỷ luật nhà nước, pháp luật đã góp phần vào việc thực hiện thành công các mục tiêu quốc gia về văn hóa, bảo vệ được các giá trị thuộc văn hóa truyền thống trước sự xâm nhập của các loại hình văn hóa bên ngoài du nhập vào nước ta ngày càng nhiều trong thời gian qua. Các quy phạm, các chế định pháp luật ngày càng hoàn thiện trong việc xác lập các nguyên tắc mang tính bảo vệ đối với các giá trị văn hóa truyền thống thông qua hệ thống các quy định ngăn cấm và xác định các chế tài cũng ngày càng đa dạng trên các lĩnh vực pháp luật hành chính, hình sự, dân sự, kỷ luật. Từ đó giúp cho công tác quản lý nhà nước về văn hóa ngày càng hiệu quả hơn, các hoạt động liên quan đến GTVHTT ngày mang lại
kết quả tốt đẹp hơn như các lễ hội truyền thống được tổ chức ngày càng đa dạng hơn,
quy cũ hơn, các di sản văn hóa ngày càng được phát hiện, vun đắp, bảo vệ và phát triển
tốt hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, pháp luật cũng bộc lộ những hạn chế nhất định về vai trò bảo đảm hiệu quả đối với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT.
3.3.2. Những hạn chế Các quy định về khen thưởng, xử lý vi phạm hiện nay không còn phù hợp, nhất
là trong lĩnh vực hành chính. Các chế tài chưa bảo đảm nghiêm minh, đủ sức răn đe,
giáo dục. Việc khen thưởng những cá nhân, tổ chức có thành tích trong việc bảo vệ, giữ
gìn và phát huy GTVHTT được quy định trong Luật di sản văn hóa và Nghị định số
106
98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật di sản văn hóa chỉ dừng lại ở những quy định khá chung chung, chỉ quy định
cụ thể việc khen thưởng đối với cá nhân, tổ chức có công trong việc bảo vệ, giữ gìn các
giá trị văn hóa là vật thể; Nghị định 62/2014/NĐ-CP ngày 25/6/2014 của Chính quy
định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể chỉ dừng lại ở khen thưởng đối với nghệ nhân. Một số quy định
còn chưa rõ, nên việc thực thi kém hiệu quả, như quy định về việc tôn vinh và chính sách
đãi ngộ đối với các nghệ nhân tại Điều 26 Luật di sản văn hóa. Một số quy định chưa
tương thích với các văn bản pháp luật khác như quy định về việc Nhà nước tôn vinh và
có chính sách đãi ngộ đối với các "nghệ nhân, nghệ sĩ" tại Điều 26 Luật Di sản văn hóa,
nhưng ở Luật thi đua, khen thưởng [Điều 65] quy định danh hiệu "Nghệ nhân nhân dân"
và "Nghệ nhân ưu tú" chỉ phong tặng cho các "cá nhân có nhiều năm trong nghề, kế tục,
giữ gìn, sáng tạo và phát triển ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống", không điều chỉnh tới các cá nhân có công đối với việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ở các lĩnh vực khác. Ngoài ra, các hành vi xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm vĩ nhân, anh hùng dân tộc quy định xử lý chưa nghiêm, chưa bảo đảm tính răn đe, giáo dục, chỉ dừng lại ở mức xử phạt vi phạm hành chính, còn trong lĩnh vực hình sự chưa hình thành tội danh độc lập đối với hành vi này. Các vi phạm xảy ra chỉ xử tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân theo Điều 331 Bộ luật Hình sự.
Một bất cập nữa đã hạn chế vai trò của pháp luật trong bảo đảm hiệu quả đối với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT, đó là Luật Di sản quy định về việc tôn vinh và có chế độ đãi ngộ nghệ nhân nhưng thực tế chưa có sự trân trọng và đãi ngộ tương xứng đối với nghệ nhân. Cụ thể như thủ tục công nhận nghệ nhân quá phức tạp, không sát với thực tiễn; thủ tục hưởng chế độ trợ cấp mang nặng tính xin cho, quy định nhiều loại giấy tờ gây khó khăn cho nghệ nhân. Việc thực hiện một số điều khoản của luật Di sản văn hóa nhằm tôn vinh nghệ nhân còn chậm, có nơi chưa
triển khai. Trên thực tế, vấn đề tôn vinh nghệ nhân mới được một số tỉnh (Phú Thọ
về nghệ nhân hát Xoan, Bắc Ninh về nghệ nhân Quan họ) và Hội Văn nghệ dân
gian thực hiện, nhưng số lượng còn hạn chế và chỉ trong giới hạn một số hình thức
biểu đạt văn hóa truyền thống [79, tr.102].
Tình hình vi phạm pháp luật và qua thực tiễn xét xử nhóm tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm thời gian qua cho thấy nhóm tội phạm này
diễn biến ngày càng phức tạp về số lượng, phương thức, thủ đoạn cũng như tính
107
chất dã man, tàn bạo của hành vi phạm tội. Nổi bật là các tội giết người, cố ý gây
thương tích và hiếp dâm. Đối với tội giết người, động cơ phạm tội rất đa dạng.
Người phạm tội có thể giết người để nhằm chiếm đoạt tài sản, để hiếp dâm (thường
là để bịt đầu mối), để xiết nợ hoặc vì động cơ ghen tuông. Điều đáng nói ở đây là
xuất hiện tình trạng trẻ hóa tội phạm, hoạt động tội phạm theo các băng nhóm tội
phạm có tổ chức, hoạt động theo kiểu xã hội đen mặc dù chỉ là nhóm nhỏ nhưng
hoạt động hết sức manh động và liều lĩnh; các hành vi giết người mang tính chất dã
man ngày càng nhiều. Các hành vi xâm hại phụ nữ và trẻ em cũng có chiều hướng
gia tăng, chủ yếu tập trung vào nhóm tội xâm hại tình dục như: hiếp dâm, hiếp dâm
trẻ em, cưỡng dâm, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em hoặc dâm ô với trẻ em.
Ngoài ra, tình hình tội phạm cố ý gây thương tích cho phụ nữ là trẻ em (là nạn nhân
của những hành vi bạo lực gia đình) cũng đáng báo động. Loại tội phạm mua bán,
bắt trộm, đánh tráo phụ nữ và trẻ em cũng diễn biến hết sức phức tạp gây ảnh hưởng
nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự, tâm lý của nạn nhân. Người phạm tội
thường lợi dụng sự nhẹ dạ của nạn nhân, hứa sẽ tìm việc làm, hứa sẽ trả thu nhập
cao để lừa bán nạn nhân ra nước ngoài. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp về tổng kết
thực tiễn kết quả thi hành Bộ Luật hình sự năm 1999 cho thấy tình hình xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người có chiều hướng gia tăng và
ngày càng phức tạp. Thực tiễn trên cho thấy pháp luật chưa phát huy tốt vai trò bảo
vệ các giá trị con người, chưa bảo đảm tính nghiêm minh, răn đe, nhằm giáo dục
tính hướng thiện con người.
3.4. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIÁO DỤC NÂNG CAO Ý THỨC
CHO CÁC CHỦ THỂ GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
3.4.1. Những kết quả đạt được
Trong những năm qua, cùng với những thành tựu kinh tế đạt được, việc phát
huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật
của nhân dân cũng đã có bước phát triển đáng kể, đời sống vật chất ngày càng ổn
định đã làm cho người dân quan tâm nhiều hơn tới các GTVHTT. Hiến pháp cùng
với các bộ luật Hình sự, Dân sự, luật Hôn nhân gia đình và một số luật khác ra đời
và thực thi trên thực tế có tác dụng răn đe, giáo dục con người về lòng thương
người, nhân ái, khoan dung, hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Đặc biệt, Luật Di
sản văn hóa ra đời đã đáp ứng kịp thời những yêu cầu về giáo dục con người ý thức
108
bảo vệ và giữ gìn, phát huy các GTVHTT trong tiến trình xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam mà Đảng đã đề ra.
Với mục tiêu vừa phát triển kinh tế, vừa bảo tồn các giá trị văn hóa của các
dân tộc trong cộng đồng văn hóa Việt Nam để xây dựng một nền văn hóa tiên tiến
nhưng mang đậm bản sắc dân tộc nhằm giáo dục con người ý thức giữ gìn, phát
GTVHTT, ngày 21 tháng 8 năm 1997 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 667/TTg về phê duyệt Quy hoạch tổng thể Làng Văn Hoá - Du lịch các dân
tộc Việt Nam. Theo đó: Xây dựng Làng Văn hoá - Du lịch các dân tộc Việt Nam
thành một trung tâm hoạt động văn hoá mang tính quốc gia, tập trung tái hiện, gìn
giữ, phát huy và khai thác các di sản văn hoá truyền thống của 54 dân tộc anh em,
giới thiệu với nhân dân trong nước và khách quốc tế; đáp ứng các nhu cầu vui chơi
giải trí lành mạnh, hoạt động thể thao, dưỡng sinh, văn nghệ; Thông qua các hoạt
động văn hoá, nghệ thuật có nội dung, hình thức phong phú, năng động, đa dạng,
hấp dẫn và đậm đà bản sắc dân tộc, tiến hành việc giáo dục tình yêu thiên nhiên, đất
nước, con người, nâng cao dân trí và hoàn thiện con người hướng đến chân, thiện,
mỹ; phát huy giá trị văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần trong việc giáo dục truyền
thống đấu tranh giữ nước và giữ gìn bản sắc cao quý của dân tộc; gắn việc phục hội,
bảo tồn, tôn tạo di tích với xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân,
cảnh quan môi trường và các hoạt động văn hoá du lịch. Qua đó góp phần tuyền
truyền, giáo dục ý thức của nhân dân trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT.
Luật Di sản văn hóa ra đời cũng góp phần nâng cao nhận thức cho đông đảo các
tầng lớp nhân dân về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của di sản văn hóa nói chung và giá
trị văn hóa truyền thống nói riêng trong đời sống xã hội. Từ đó gắn di sản văn hóa,
GTVHTT với con người, với cộng đồng cư dân địa phương với tư cách là chủ thể sáng
tạo và sở hữu các di sản, các GTVHTT. Nhờ đó, việc giữ gìn, phát huy GTVHTT nhận
được sự ủng hộ to lớn về mặt trí tuệ và các nguồn lực từ các tầng lớp nhân dân như “có
những người tâm huyết, bỏ sức người, sức của, thời gian để sưu tầm những giá trị truyền
thống, trao truyền cho thế hệ trẻ, đặc biệt là những bậc cao niên, những người nắm vững
các kỹ năng, tri thức của di sản” [79, tr.161]. Có thể khẳng định rằng Luật Di sản văn hóa
bước đầu đã nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư đối với giá trị văn hóa phi vật thể,
vốn đã gắn bó với cộng đồng trong suốt chiều dài lịch sử và phát huy được vai trò của
người dân nơi có di sản trong việc bảo vệ và giữ gìn, phát huy di sản đó trong đời sống
cộng đồng.
109
Qua thực tiễn triển khai thực hiện Luật di sản văn hóa và hệ thống pháp luật quy
định định về giữ gìn, phát huy GTVHTT cho thấy các hoạt động bảo tồn và giữ gìn, phát
huy giá trị di sản văn hóa đã có nhiều chuyển biến tích cực như ý thức tuân thủ pháp luật
của các tổ chức, cá nhân được nâng cao, tinh thần tương thân tương ái, hỗ trợ lúc khó
khăn, ý thức trách nhiệm trước cộng đồng dân cư được đề cao. Qua đó góp phần từng
bước giữ gìn được các giá trị thuộc bản sắc dân tộc, ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ mai
một, thất truyền đối với nhiều di sản văn hóa phi vật thể có giá trị.
Từ đó, có thể khẳng định hệ thống pháp luật liên quan đến bảo vệ, giữ gìn, phát
huy GTVHTT đã góp phần giáo dục nâng cao hiểu biết, ý thức trách nhiệm và tôn
trọng, chấp hành pháp luật trong nhân dân, qua đó góp phần nâng cao nhận thức của
người dân trong việc bảo vệ và giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Chính vì
vậy, hành vi tích cực theo pháp luật của mọi người đã xuất hiện nhiều hơn với nhiều
tấm gương tiêu biểu trong xã hội, khích lệ mọi người noi theo. Nhìn chung, pháp luật
đã từng bước phát huy vai trò trong việc giáo dục, nâng cao ý thức trong các tầng lớp
dân cư, mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội và đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng
cao hiệu quả vai trò giữ gìn, phát huy GTVHTT của pháp luật ở Việt Nam.
3.4.2. Những hạn chế
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách tổng thể thì vai trò của pháp luật trong việc giáo
dục ý thức về giữ gìn, phát huy GTVHTT của nhân dân vẫn đang ở mức độ thấp so với
đòi hỏi của việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu
bản sắc dân tộc và còn nhiều hạn chế nhất định trong việc giáo dục nâng cao ý thức con
người về việc giữ gìn, phát huy GTVHTT. Điều dễ nhận thấy nhất là mặc dù có sự
tham gia tích cực của người dân trong các hoạt động bảo tồn và giữ gìn, phát huy giá trị
di sản văn hóa phi vật thể nhưng hiện nay chưa có cơ chế pháp luật rõ ràng trong việc
xã hội hóa trong lĩnh vực này nhằm động viên tối đa mọi chủ thể tham gia các hoạt
động bảo vệ và phát huy di sản văn hóa, nên chưa thu hút được được nhiều các cá
nhân, các nhà doanh nghiệp tham gia đóng góp; sự tham gia của các doanh nghiệp
cũng còn hạn chế. Hiện nay việc bảo tồn và phát huy GTVHTT vẫn chủ yếu trông chờ
vào nguồn lực nhà nước, hoạt động xã hội hóa trong lĩnh vực này còn nhiều hạn chế,
“việc thu hút các nguồn lực từ bên ngoài nhà nước cho các hoạt động bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa phi vật thể quy mô nhỏ lẽ, hiệu quả chưa cao” [79, tr.166].
Pháp luật chưa thực hiện tốt chức năng giáo dục nâng cao ý thức cộng đồng
đối với giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Do đó, người dân hiểu chưa đầy đủ về di
110
sản văn hóa và có những nhận thức sai lệch về danh hiệu di sản như những hiện
tượng thay đổi hiện trạng kiến trúc hoặc không gian gắn liền với di sản được vinh
danh cho “hoành tráng”, cho “xứng tầm” với di sản được vinh danh và tùy theo cấp
độ vinh danh như quốc gia hay quốc tế mà mà mức độ “hoành tráng” hay “xứng
tầm” cũng thay đổi cho tương xứng.
Pháp luật chưa tạo ra niềm tin thật sự và trở thành chỗ dựa vững chắc và cuối
cùng trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Một bộ phận
dân cư có thái độ thờ ơ, lãnh đạm với sự hiện diện của pháp luật và không thấy
được vai trò của nó trong đời sống xã hội, thái độ đó bắt nguồn từ chỗ con người
chưa ý thức được những lợi ích thiết thực mà pháp luật có thể đem tới cho họ. Điều
đáng lo ngại hiện nay là một bộ phận công dân có thái độ xem thường pháp luật,
biểu hiện dễ nhận thấy của thái độ này là rất đa dạng được thể hiện trong đời sống
hằng ngày như tâm lý nhàm chán, phủ định pháp luật, không cảm giác lo sợ khi vi
phạm pháp luật, trong một số trường hợp còn công khai chống đối khi bị xử lý;
ngày càng nhiều những hành vi trái với luân lý nhưng pháp luật chưa phát huy vai
trò giáo dục, ngăn chặn nhằm xây dựng nhân cách tốt đẹp của con người. Bên cạnh
đó, pháp luật cũng chưa thực hiện tốt chức năng giáo dục ý thức tự tôn dân tộc
nhằm qua đó khắc phục thái độ xem thường các giá trị quý báu của dân tộc; sùng
ngoại, phủ nhận lịch sử, phủ nhận thành quả của cách mạng ngày càng xuất hiện
nhiều trong xã hội hiện nay, nhất là ở các đô thị lớn. Điều đáng lo ngại là hiện
tượng này lại xuất hiện ở một bộ phận không nhỏ trí thức trong xã hội.
Vẫn còn hiện tượng phô trương, hình thức, lãng phí trong việc tổ chức việc
cưới, việc tang, lễ hội. Sự gương mẫu của cán bộ, công chức, viên chức trong việc thực
hiện các quy định của pháp luật về việc cưới, việc tang, lễ hội có nơi, có lúc chưa đạt
được ở mức cao. Công tác vận động nhân dân thực hiện đúng các quy định của pháp
luật trong các hoạt động này chưa được duy trì liên tục và sâu rộng.
Các quy định hiện hành nhằm giáo dục nâng cao ý thức thực hiện hành vi phù
hợp với các chuẩn mực chưa đồng bộ. Cụ thể, chỉ dừng lại ở việc xác định nguyên tắc
và mang tính khuyến khích nên khó mang lại hiệu quả giáo dục con người hoàn thiện
về nhân cách, tâm hồn và trí tuệ.
Các giá trị truyền thống, đạo đức nghề nghiệp chưa được luật hóa hoặc luật hóa
chỉ ở quy định chung nên không còn được coi trọng như trước đây, có mặt bị mai một,
đảo lộn. Việc chưa luật hóa những giá trị mới làm ảnh hưởng tiêu cực đối với giáo dục
111
nhân cách con người, hình thành ý thức, hành vi giữ gìn, phát huy giá trị tốt đẹp của
văn hóa dân tộc trong hoạt động nghề nghiệp của con người. Từ đó, chủ nghĩa cá nhân,
lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền có xu hướng gia tăng, chi phối đời sống xã hội,
gây ảnh hưởng xấu đối với việc thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
hiện đại, giàu bản sắc dân tộc.
3.5. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG VIỆC CHUYỂN TẢI NỘI DUNG,
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ LIÊN QUAN ĐẾN GIÁ TRỊ
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG MÀ VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN
3.5.1. Những kết quả đạt được Với tư cách là quốc gia thành viên UNESCO - Tổ chức hợp tác trí tuệ quốc
tế lớn nhất hành tinh - Việt Nam đã và đang phối hợp chặt chẽ với UNESCO trong
công cuộc bảo tồn các di sản văn hóa và thu được những kết quả rất đáng khích lệ.
Do đó, cần thừa nhận một thực tế là, nhờ những quan điểm và nhận thức mới của UNESCO về bảo vệ di sản văn hóa trước những tác động và nguy cơ có tính toàn cầu, đặc biệt là Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể năm 2003 mà sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị các di sản Việt Nam đã và đang có những đổi mới cơ bản về cả nhận thức lẫn hành động. Qua đó, các GTVHTT cũng được giữ gìn,
phát huy ngày càng tốt hơn trên cơ sở các khung pháp lý Việt Nam đã chuyển tải từ các quan điểm khuyến nghị của tổ chức này.
Có thể nói Công ước 2003 như một khung pháp lý để hình thành mạng lưới chung của một mô hình quản lý mang tính quốc tế mà ở đó ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ của các quốc gia thành viên. Qua đó, “nhằm huy động các nguồn lực của các chính phủ đặc biệt là các cộng đồng cư dân địa phương nới có di sản văn hóa phi vật thể nhằm bảo tồn, chuyển giao và liên tục tái sáng tạo các giá trị văn hóa truyền thống phục vụ cho yêu cầu phát triển bền vững trên phạm vị toàn thế giới” [6]. Do đó, với tư cách là quốc gia thành viên Công ước, Việt Nam đã tiếp thu rất
mạnh những những yêu cầu, khuyến nghị của Công ước, từng bước pháp điển hóa
để qua đó chuyển tải nội dung Công ước thành các quy định liên quan đến việc giữ
gìn, phát huy GTVHTT trong Luật Di sản văn hóa.
Đường lối văn hóa của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã xác định tầm quan
trọng của văn hóa trong phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, đặt văn hóa ngang hàng
với kinh tế, chính trị, xã hội. Đồng thời xem “văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội” [59, tr.303] và lẽ tất
nhiên, giá trị văn hóa truyền thống là yếu tố cơ bản tạo nên nền tảng tinh thần ấy. Vị trí
112
quan trọng của các giá trị văn hóa trong nền văn hóa Việt Nam được xác định là tài sản
vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo mới
và giao lưu văn hóa, đồng thời khẳng định: “Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát
huy những giá trị văn hóa truyền thống” [59, tr.309].
Công ước 2003 có những điểm mới ràng buộc các quốc gia thành viên phải thực hiện trong đó tại mục III, Điều 11 xác định vai trò của các quốc gia thành viên trong
việc bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể đó là: “Sử dụng các biện pháp cần thiết nhằm
đảm bảo công tác bảo vệ di sản phi vật thể hiện có trên lãnh thổ mình”, “cần nhận diện
và xác định rõ các loại hình khác nhau của di sản văn hóa phi vật thể hiện có trên lãnh
thổ của mình, có sự tham gia của cộng đồng, nhóm người và các tổ chức phi chính phủ
có liên quan”. Tại Điều 12 mục III cũng quy định: “Để đảm bảo cho việc nhận diện
nhằm mục đích bảo vệ, mỗi Quốc gia thành viên, dựa trên những điều kiện thực tế
riêng, phải lập ra một hoặc nhiều danh mục thống kê về di sản văn hóa phi vật thể hiện có trên lãnh thổ mình. Những danh mục thống kê này sẽ được thường xuyên cập nhật”. Tại Điều 13 xác định các biện pháp khác nhằm bảo vệ, phát triển và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể hiện có trên lãnh thổ mình, các quốc gia thành viên phải nỗ lực nhằm: (a) thông qua một chính sách chung nhằm mục đích phát huy vai trò của di sản văn hóa phi vật thể trong xã hội, và sát nhập việc bảo vệ loại hình di sản này vào các chương trình quy hoạch; (b) chỉ định hoặc thành lập một hoặc nhiều cơ quan đủ năng lực bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể hiện có trên lãnh thổ mình; (c) tăng cường nghiên cứu khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật cũng như phương pháp luận về nghiên cứu nhằm bảo vệ có hiệu quả di sản văn hóa phi vật thể, đặc biệt là những di sản đang có nguy cơ thất truyền; (d) thông qua các biện pháp phù hợp về pháp lý, kỹ thuật, hành chính và tài chính nhằm: (i) tăng cường việc thành lập hoặc củng cố các cơ quan đào tạo về quản lý di sản văn hóa phi vật thể và theo đó là công tác truyền dạy những di sản này thông qua các diễn đàn và không gian dành cho việc trình diễn hay thể hiện chúng; (ii) đảm bảo sự tiếp cận với di sản văn hóa phi
vật thể trên cơ sở tôn trọng các tập tục, quản lý việc tiếp cận với các phương diện cụ
thể của loại hình di sản này; (iii) thành lập các cơ quan lưu trữ tư liệu về di sản văn
hóa phi vật thể và tạo điều kiện cho mọi người tiếp cận chúng.
Trên cơ sở tham khảo, vận dụng những nội dung cơ bản của Công ước về
bảo tồn các di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới của UNESCO năm 1972 và
những quan điểm mới của Công ước 2003 nêu trên, Luật Di sản văn hóa đã dành
trọn vẹn chương III bao gồm từ Điều 17 đến Điều 27 nhằm quy định về trách nhiệm
113
của Nhà nước, các cơ quan nhà nước đến việc xác định các nguyên tắc bảo vệ và
giữ gìn, phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể, bao gồm các quy định về
việc kiểm kê sưu tầm vốn văn hoá truyền thống (văn hoá bác học và văn hoá dân
gian) của người Việt và các dân tộc thiểu số; bảo tồn các làng nghề truyền thống,
các tri thức về y, dược cổ truyền, văn hoá ẩm thực...; tôn vinh và trọng đãi những nghệ nhân, nghệ sỹ bậc thầy trong các ngành, nghề truyền thống.
Những trách nhiệm cụ thể của các cơ quan Nhà nước được xác định cụ thể
tại chương III. Cụ thể như xác định trách nhiệm của nhà nước bảo vệ và phát huy
GTVHTT bằng các biện pháp cụ thể [Điều 17]; cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ngăn chặn
nguy cơ làm sai lệch, bị mai một hoặc thất truyền [Điều 20]; Nhà nước tôn vinh và
có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ
thuật truyền thống, bí quyết nghề nghiệp có giá trị đặc biệt [Điều 26]. Sau khi Luật
Di sản văn hoá được Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông
qua vào tháng 6/2001 và sữa đổi, bổ sung năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định
số 92/2002/NĐ-CP và sau này được thay thế bởi Nghị định 98/2010/NĐ-CP quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hoá. Nghị định đã cụ thể hóa
việc bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể tại Chương II “Bảo vệ
và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể” đó là: Xác định tiêu chí lựa chọn và
trình tự thủ tục lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu của Việt Nam để đề
nghị Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc công nhận là di
sản văn hóa đại diện của nhân loại và danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo
vệ khẩn cấp [Điều 6]; khuyến khích duy trì, phục hồi và phát triển nghề thủ công
truyền thống [Điều 7]; Thẩm quyền và thủ tục cấp giấy phép cho người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài tiến hành nghiên cứu, sưu tầm di
sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam [Điều 8]; Việc tôn vinh và chính sách đãi ngộ
đối với nghệ nhân, nghệ sĩ [Điều 9, 10].
Như vậy, thực thi trách nhiệm của một quốc gia thành viên tham gia Công
ước UNESCO 2003, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra các quy định pháp luật hàm
chứa và phản ánh đúng các mục tiêu lớn của Công ước này, đồng thời còn khẳng
định, Nhà nước chịu trách nhiệm đầu tư kinh phí cho việc bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hóa. Đó là những tiền đề quan trọng đảm bảo những điều kiện cần và đủ
cho việc phát triển các hoạt động giữ gìn, phát huy GTVHTT trên phạm vi cả nước.
114
Các quy định trên là kết quả quá trình chuyển tải nội dung các điều ước quốc
tế về văn hóa mà Việt Nam tham gia. Qua đó khẳng định vai trò quan trọng của
pháp luật trong việc chuyển tải, bảo đảm thực hiện điều ước quốc tế liên quan đến
việc bảo vệ và phát huy GTVHTT mà Việt Nam là thành viên, làm cho pháp luật về
văn hóa nước ta ngày càng tương thích hơn với quốc tế, góp phần giữ vững và phát
huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập hiện nay.
Có thể khẳng định rằng, hệ thống pháp luật về văn hóa đã chuyển tải kịp thời
các nguyên tắc, chuẩn mực về các GTVHTT của điều ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia thông qua công tác pháp điển hóa vào pháp luật nước ta. Từ đó làm cho hệ
thống các quy phạm pháp luật về văn hóa nước ta ngày càng đồng bộ, tương thích
hơn với pháp luật quốc tế góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện pháp luật phục
vụ cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu
bản sắc dân tộc trong quá trình hội nhập, giao lưu văn hóa.
3.5.2. Những hạn chế
Luật Di sản văn hóa được sửa đổi bổ sung năm 2009 đã cập nhật một số nội
dung của công ước 2003 về Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể nhưng vẫn còn một số
vấn đề về nội dung công tác quản lý, bảo vệ di sản phi vật thể chưa được được cập
nhật. Luật Di sản văn hóa cũng chưa quy định về việc khuyến khích sự tham gia, tổ
chức, cá nhân, trong đó có tổ chức phi chính phủ tham gia quản lý, bảo vệ giá trị di sản
văn hóa phi vật thể. Các vấn đề về giáo dục di sản, về quyền sở hữu trí tuệ di sản chưa
được cập nhật vào Luật Di sản văn hóa.
Trong thực thi Luật Di sản văn hóa, sự can thiệp quá sâu của các cơ quan chức
năng vào việc thực hành di sản dẫn đến chưa thực hiện tốt chức năng của nhà nước
trong việc xác lập mối quan hệ với cộng đồng trong thực hành di sản văn hóa phi vật
thể dẫn đến vi phạm nguyên tắc bảo vệ di sản văn hóa, đồng thời vi phạm công ước
2003 (điều 11 và điều 15 Công ước). Những hạn chế trên dẫn đến việc thực thi Công
ước đạt hiệu quả thấp, đây là điều đi ngược cam kết mà Việt Nam đã ký kết.
Chưa có chính sách pháp luật hiệu quả để tiến hành các hoạt động giao lưu,
hợp tác quốc tế với nước ngoài, do đó trong hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế còn
hạn chế cả về đầu tư nguồn lực lẫn tầm nhìn và tính hiệu quả. Từ đó dẫn đến hình
ảnh Việt Nam, văn hóa Việt Nam còn hạn chế ở khu vực và thế giới, trong khi đó
việc đón nhận sản phẩm văn hóa từ bên ngoài còn dễ dãi, thiếu chọn lọc, tác động
tiêu cực đến văn hóa dân tộc.
115
3.6. NGUYÊN NHÂN NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG HẠN
CHẾ VỀ VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
3.6.1. Nguyên nhân những kết quả đạt được
3.6.1.1. Nguyên nhân khách quan
Quá trình hội nhập, giao lưu hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực đời sống xã
hội của đất nước đã tạo ra sự tin tưởng và ủng hộ của bạn bè quốc tế đối với Việt
Nam trong việc tạo ra các thể chế pháp lý cơ bản điều chỉnh các quan hệ trong các
lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Sự hội nhập về văn hóa đã hình thành nên quan
điểm mới về giữ gìn và phát triển nền văn hóa. Do đó, các chính sách pháp luật, về
văn hóa ngày càng toàn diện và đồng bộ hơn, qua đó khắc phục được những hạn
chế, bất cập trong trong xây dựng các chính sách, pháp luật trước đây.
Sự phát triển của khoa học - công nghệ, của kinh tế tri thức và quá trình toàn
cầu hóa đã mang lại những thời cơ, thuận lợi cho phép chúng ta tiếp thu những
thành tựu của nhân loại trong đó có việc tiếp cận các giá trị pháp lý hiện đại, văn
minh, tiến bộ. Việc tiếp cận được những giá trị tiên tiến, hiện đại trong kỹ thuật lập
pháp làm cho việc hình thành các khung pháp lý thuận lợi hơn, phù hợp hơn với yêu
cầu phát triển đất nước nhưng đồng thời cũng phù hợp hơn với thông lệ đời sống
pháp luật quốc tế cũng nhu xu hướng phát triển của thế giới đương đại.
Với những chính sách phát triển hợp lý, đất nước đã vượt qua giai đoạn khó
khăn, nền kinh tế ngày càng phát triển đã tạo nên nền tảng bảo đảm thúc đẩy phát
triển hệ thống kiến trúc thượng tầng. Do đó, ý thức pháp luật, tư duy pháp lý tiên tiến,
hiện đại vì thế ngày càng được nâng cao trong hoạt động xây dựng pháp luật. Sự phát
triển của nền kinh tế cũng kéo theo đó là đời sống vật chất của con người ngày một
nâng cao, cùng với sự phát triển về công nghệ thông tin đã nâng cao nhu cầu hưỡng
thụ, thưỡng lãm các giá trị tinh thần của con người. Vì vậy, cần phải hình thành một
hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, kịp thời đáp ứng các yêu cầu đó.
Sự hội nhập về văn hóa cũng kéo theo sự đổ vở của hệ giá trị truyền thống,
hình thành hệ giá trị mới; các mâu thuẫn giữa cái mới với cái cũ, giữa truyền thống
với hiện đại đan xen nhau; các quan hệ trong mọi lĩnh vực đời xã hội ngày càng đa
dạng, phong phú pha lẫn phức tạp. Vì vậy, pháp luật là công cụ bảo đảm giải quyết
hiệu quả các vấn đề trên.
116
Trình độ dân trí ngày càng được nâng cao đã làm cho những thay đổi trong
tư tưởng, nhận thức của người dân có sự thay đổi. Do đó, ý thức về sự tuân thủ,
chấp hành pháp luật, về bảo vệ và phát triển giá trị truyền thống cũng được nâng
lên. Mặt khác, yêu cầu dân chủ hóa đời sống xã hội ngày càng cao là động lực để
Nhà nước đề ra và thực thi các chính sách về văn hóa ngày càng hợp lý hơn.
3.6.1.2. Nguyên nhân chủ quan
Sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng khi kịp thời đề ra đường lối đổi mới đúng đắn,
trong đó khẳng định vai trò quan trọng của pháp luật khi các văn kiện Đại hội Đảng
qua các khóa từ Đại hội VI đến nay đều khẳng định “Nhà nước quản lý xã hội bằng
pháp luật”. Từ đó đã tạo nên những chuyển biến tích cực trong tuy duy quản lý Nhà
nước và xã hội. Theo đó, vai trò của pháp luật ngày càng được chú trọng hơn trong
việc điều chỉnh các quan hệ xã hội và pháp luật khẳng định được vai trò của mình
trong việc đề ra và thực hiện các mục tiêu về kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật được đề ra kịp thời
đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến giàu bản sắc
dân tộc. Cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp đã quán triệt nghiêm túc các chương
trình, kế hoạch xây dựng pháp luật. Trong hoạt động xây dựng pháp luật, Nhà nước
luôn bám sát vào chiến lược xây dựng và hoàn thiện hê thống pháp luật do Đảng đề
ra. Các chủ thể xây dựng pháp luật luôn cập nhật, tiếp thu những kỹ thuật hiện đại
trong hoạt động lập pháp của thế giới cũng như các giá trị văn hóa hiện đại vào
pháp luật Việt Nam. Từ đó, giúp công tác xây dựng pháp luật ngày càng chuyên
nghiệp hơn, qua đó tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các chủ thể trong giữ gìn, phát
huy GTVHTT.
Cả hệ thống chính trị thực hiện nghiêm tinh thần các nghị quyết của Đảng về
xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân
tộc. Từ đó, nhận thức về văn hóa và GTVHTT được nâng lên, vai trò của văn hóa
nói chung ngày càng được nâng cao trong đời sống xã hội. Do đó, các chính sách,
pháp luật và nguồn lực đầu tư ngày càng được quan tâm hơn.
Với việc thực hiện đường lối đối ngoại hợp lý, Nhà nước thông qua hệ thống
các cơ quan quản lý đã có sự chủ động nắm bắt cơ hội của toàn cầu hóa và hội nhập
trong quản lý nhà nước cũng như trong việc hình thành các chính sách, pháp luật về
văn hóa phù hợp với mục tiêu giữ gìn, phát huy GTVHTT. Bên cạnh đó, việc tận
117
dụng triệt để thành tựu khoa học công nghệ đã đẩy nhanh quá trình hình thành chính
sách, tạo khuôn khổ pháp lý đáp ứng yêu cầu kịp thời điều chỉnh các quan hệ nảy
sinh trong lĩnh vực văn hóa ngày càng đa dạng hơn.
Công tác tuyền truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật được quan tâm và chỉ
đạo kịp thời. Bộ máy giáo dục pháp luật được tổ chức và kiện toàn thành hệ thống
trong phạm vi cả nước. Nội dung, chương trình giáo dục có nâng lên về chất trong
đó chú ý kết hợp giữa giáo dục truyền thống với hiện đại. Trình độ, năng lực của
đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng và phổ biến tuyên truyền pháp luật, làm công
tác văn hóa được nâng lên. Từ đó, đã tạo ra những chuyến biến tích cực trong việc
xây dựng nội dung, chương trình giáo dục pháp luật phù hợp với việc thực hiện các
mục tiêu giữ gìn, phát huy GTVHTT.
Xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa được quan tâm. Do đó, đã huy động được
các nguồn lực xã hội vào việc giữ gìn, phát huy GTVHTT cũng như việc xây dựng
và hình thành các chính sách, pháp luật về văn hóa. Nguồn lực đầu tư cho xây dựng
pháp luật và phát triển nền văn hóa được chú trọng.
Bộ máy quản lý nhà nước về văn hóa được cũng cố, kiện toàn từ trung ương
đến cơ sở. Qua đó, bảo đảm thực hiện thành công các mục tiêu về xây dựng và phát
triển nền văn hóa. Vì vậy, các chính sách, pháp luật về văn hóa nói chung và giữ
gìn, phát huy GTVHTT nói riêng có cơ sở được cũng cố và phát triển.
3.6.2. Nguyên nhân những hạn chế
3.6.2.1. Nguyên nhân khách quan
Mặc dù đã trải qua trên 30 năm đổi mới nhưng vẫn còn ảnh hưởng nặng nề
tư duy của cơ chế tập trung, bao cấp trong xây dựng pháp luật. Do đó hệ thống pháp
luật nói chung được xây dựng trong điều kiện vừa đảm bảo tính dự báo, chuyển đổi,
vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, khả thi giữa
hệ thống pháp luật về văn hóa với hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội. Trong khi đó, xây dựng pháp luật phải vừa đáp ứng yêu cầu giữ gìn
được các giá trị đặc sắc của văn hóa truyền thống, nhưng phải bảo đảm tính hiện
đại, tiến bộ của pháp luật, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế phục vụ các mục tiêu
quốc gia về văn hóa trong tiến trình hội nhập. Do đó, việc pháp luật còn tồn tại
những hạn chế, thiếu sót và chưa thể hiện tốt nhất vai trò của mình trong giữ gìn,
phát huy GTVHTT là điều không tránh khỏi.
118
Do đặc thù của GTVHTT nên hệ thống các quy định về việc bảo vệ và giữ
gìn, phát huy chúng nằm rãi rác trong các văn bản khác nhau và bị phụ thuộc bởi
mục tiêu điều chỉnh quan hệ xã hội của các văn bản đó nên khó tránh khỏi những
bất cập trong việc xác định các quy tắc ứng xử cũng như những hạn chế trong triển
khai thực thi. Nhiều cơ chế, chính sách mới được vận hành chưa có tiền lệ, kiểm
định thực tiễn nên khó có thể dự báo được đầy đủ tác động. Từ đó dẫn đến một số
quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật còn chung chung hoặc khi ban hành
chưa phát huy hết vai trò trong thực tiễn.
Văn hóa là lĩnh vực rộng, phức tạp và nhạy cảm, vừa là những vấn đề hết sức
trừu tượng nhưng đồng thời cũng là những nội dung cụ thể, hằng ngày của đời sống
xã hội. Do đó, định hình các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực văn hóa truyền
thống để điều chỉnh bằng pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc trong tình hình mới không phải là
vấn đề đơn giản. Mặt khác, các chuẩn mực chung trong lĩnh vực văn hóa, văn hóa
truyền thống rất khó định lượng. Do vậy việc nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật để điều chỉnh lĩnh vực này cũng hết sức khó khăn, dễ thay đổi, dễ lỗi
thời, lạc hậu, khó bảo đảm được tính khái quát cao của quy phạm pháp luật.
Thực tiễn công tác quản lý nhà nước về văn hóa hiện nay đặt ra nhiều yêu
cầu, thách thức trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang tiếp tục công cuộc đổi
mới và hội nhập quốc tế. Với mục tiêu xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh,
xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế, nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt
động văn hóa, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng và hoàn thiện thị
trường văn hóa là những nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng và phát triển văn hóa
hiện nay, mà hệ thống pháp luật về văn hóa và GTVHTT không thể nào thể chế hóa
đầy đủ và toàn diện trong một khoảng thời gian ngắn.
Kinh tế đất nước còn khó khăn, kéo theo đó là sự đầu tư cho các thiết chế xây
dựng và phát triển nền văn hóa cũng như bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc
chưa tương xứng với những yêu cầu cấp bách về giữ gìn, phát huy GTVHTT đặt ra.
Cùng với đó là các điều kiện về trình độ dân trí, văn hóa, đời sống kinh tế, nhu cầu
hưởng thụ giá trị tinh thần của con người không đồng đều giữa các vùng, miền, nhất là
những khó khăn ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số đã tác động tiêu cực đến
quá trình thực thi pháp luật về vấn đề này.
119
Bên cạnh đó, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ
đã tạo ra đời sống quốc tế hóa công nghệ thông tin, truyền thông cùng với sự giao thoa
văn hóa trong quá trình hợp tác quốc tế về văn hóa đã tạo ra ra nhiều thách thức lớn
trong việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm yêu cầu tương thích với luật pháp quốc tế
nhưng vẫn giữ vững được các giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc. Mặc khác, sự tác động
của cơ chế thị trường, của toàn cầu hóa đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống văn hóa, tư
tưởng, đến đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân
dân, nhất là lớp trẻ, qua đó tác động tiêu cực đến các thiết chế giữ gìn, phát huy các
GTVHTT của dân tộc.
Trên lĩnh vực tư tưởng, các thế lực thù địch luôn ra sức thực hiện chiến lược
diễn biến hòa bình trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, chống phá ngày càng quyết liệt
nhằm triệt tiêu tính tự tôn dân tộc, tình yêu nước thương dân, tình đoàn kết dân tộc,
trọng nhân nghĩa của người Việt với mục tiêu làm suy yếu và hạ thấp nền văn hóa
Việt Nam. Vì vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến việc đề ra và thực thi các mục tiêu văn
hóa trong từng giai đoạn.
3.6.2.2. Nguyên nhân chủ quan
Những quan điểm, mục tiêu về xây dựng và phát triển nền văn hóa qua từng
thời kỳ có thay đổi nên ảnh hưởng đến tư tưởng, nhận thức về chương trình, kế hoạch
xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Trong tư tưởng, nhận thức của
các cấp ủy và chính quyền ngay cả các cấp chiến lược đề ra chính sách pháp luật
nhằm thực hiện các mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
hiện đại, giàu bản sắc dân tộc chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm
quan trọng của văn hóa và giá trị văn hóa truyền thống đối với sự nghiệp xây dựng và
phát triển đất nước nên có những biểu hiện lơi lỏng trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện
các Nghị quyết của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa. Do đó việc xây
dựng chính sách, pháp luật và thực thi trên thực tế còn kém hiệu quả.
Chưa chú trọng đúng mức về tầm quan trọng của văn hóa truyền thống trong
việc hình thành hệ giá trị đạo đức, nhân cách con người Việt Nam trong việc xây
dựng văn hóa, con người Việt Nam hiện nay, nên các mục tiêu, chương trình quản
lý thường chú trọng đến thành tích của ngành, của địa phương. Nhiều hoạt động văn
hóa chạy theo thành tích, phô trương, thiếu chiều sâu nhân văn, thiếu tính bền vững
dẫn đến việc đề ra và thực thi các chính sách, pháp luật có nhiều hạn chế.
120
Chậm đổi mới về công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành các cấp về văn hóa;
chưa thoát khỏi lối mòn mệnh lệnh, bao cấp, đơn giản; chưa lường hết tính phức tạp
và những tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế.
Nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của quản lý nhà nước bằng pháp luật
nói chung và quản lý nhà nước về văn hóa bằng pháp luật nói riêng của một số cơ
quan quản lý nhà nước còn hạn chế. Thói quen sử dụng văn bản hành chính thông
thường trong điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực văn hóa vẫn
còn phổ biến. Do đó chưa quan tâm công tác nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện văn
bản quy phạm pháp luật
Phân định giữa chức năng quản lý nhà nước và việc triển khai các hoạt động sự
nghiệp ở một số cơ quan, đơn vị có chức năng tham mưu quản lý nhà nước về văn hóa
còn chưa rõ ràng, rành mạch dẫn đến việc đầu tư thời gian, nguồn lực để tổ chức triển
khai các công việc tác nghiệp, sự vụ còn lớn mà xem nhẹ công tác quản lý nhà nước,
công tác nghiên cứu, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
Những sai phạm, yếu kém, bức xúc trong lĩnh vực văn hóa không được xử lý
nghiêm minh, chưa quyết liệt, thiếu dứt điểm hoặc phương pháp xử lý không phù
hợp, kém hiệu quả, áp đặt, cứng nhắc, thiếu tính vận động, thuyết phục, cảm hóa,
giáo dục; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp, các đơn vị dẫn đến yếu
kém trong thực thi và làm giảm sút vai trò của pháp luật đối với việc thực hiện các
mục tiêu quốc gia về văn hóa cũng như đối với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và hoạt đông chuyên môn trên lĩnh vực văn
hóa còn yếu về trình độ, năng lực, kinh nghiệm nên chưa làm tốt vai trò tham mưu hình
thành chính sách pháp luật và thực thi hiệu quả. Cán bộ lãnh đạo, quản lý nhà nước thể
hiện không đúng chức năng trong vai trò chỉ đạo, điều hành như can thiệp trực tiếp vào
các hoạt động tín ngưỡng như tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, cán bộ nhà nước lại
đóng vai trò làm chủ tế, điều này đã dẫn đến làm thay đổi ý nghĩa của lễ hội, làm giảm
vai trò của pháp luật trong thực thi các quy định về lễ hội mà ở đó nhà nước đóng vai
trò định hướng, chỉ đạo, tạo điều kiện, khuyến khích còn cộng đồng dân cư mới là
người trực tiếp thực hiện.
Cơ quan quản lý nhà nước liên quan đến văn hóa chưa thực hiện tốt nhiệm vụ
hỗ trợ cộng đồng trong tổ chức lễ hội như phối hợp hỗ trợ cộng đồng trong thực hành
121
di sản, bảo đảm an ninh trật tự, giám sát dẫn đến các quy đinh về lễ hội chưa được thực
thi tốt như các hiện tượng lộn xộn, chen lấn, tranh cướp lộc thường diễn ra.
Thiếu vắng sự tham gia của cộng đồng trong các nội dung quản lý nhà nước về
di sản văn hóa phi vật thể như việc “hoạch định chính sách, ban hành văn bản pháp
luật, triển khai các dự án bảo vệ văn hóa phi vật thể… đều thiếu vắng tiếng nói của
cộng đồng” [79, tr.174]. Từ đó dẫn đến việc thực thi các quy định về bảo vệ và phát
huy giá trị văn hóa phi vật thể kém hiệu quả.
Sự biến đổi nhanh chóng, nhiều yếu tố mới, phức tạp của đời sống xã hội đã
tác động nhiều chiều, dẫn đến sự lung túng, thụ động trong công tác quản lý cũng
như đề ra các chương trình, kế hoạch xây dựng hoàn hiện pháp luật nhằm thực hiện
các mục tiêu văn hóa. Các chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật liên quan đến
thực hiện các mục tiêu về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam chưa mang
tính chiến lược lâu dài và được thực hiện ở cấp cao nhất.
Các chương trình xây dựng pháp luật trước đây bị chi phối bởi các mục tiêu
kinh tế, xã hội do một thời gian dài văn hóa chưa được đặt ngang hàng với kinh tế,
chính trị, xã hội. Vì vậy, các chính sách, pháp luật liên quan đến văn hóa, giá trị văn
hóa truyền thống chưa được đặt vào mục tiêu trọng tâm phấn đấu hoàn thành trong xây
dựng và hoàn thiện pháp luật.
Giá trị văn hóa truyền thống gắn liền với tư tưởng, tình cảm, thái độ, nhận thức,
lối sống, nhân cách con người, do đó liên quan đến mọi hoạt động của con người trong
đời sống xã hội. Vì vậy, những thay đổi về mặt luật pháp trong lĩnh vực này ảnh hưởng
lớn đến đời sống tinh thần của xã hội, do đó ảnh hưởng lớn đến tâm lý của nhà hoạch
định chính sách, pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực này.
Cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật còn hạn chế và nhiều bất cập, thường
trưng dụng các cán bộ làm công tác chuyên môn có liên quan tham gia vào công tác
xây dựng chính sách pháp luât. Công tác đào tạo cán bộ làm công tác xây dựng pháp
luật nói chung trong lĩnh vực văn hóa nói riêng chưa thực sự khoa học, chưa gắn với
thực tiễn nhu cầu xã hội và chất lượng đào tạo chưa cao.
Trong công tác xây dựng pháp luật chưa coi trọng công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn về văn hóa và giá trị văn hóa nên tính dự báo và định hướng bị hạn
chế. Chưa làm rõ nhiều vấn đề, nội dung có liên quan đến văn hóa trong điều kiện
nền kinh tế hội nhập bị tác động của toàn cầu hóa và phát triển của khoa học công
nghệ. Chưa xác định rõ mối quan hệ giữa GTVHTT với các giá trị mới cần xây dựng,
122
phát triển, còn nhiều lung túng trong xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống với
đương đại, giữa dân tộc và thông lệ quốc tế, giữa bảo tồn và phát triển. Từ đó dẫn đến
hiệu quả thực thi thấp và hạn chế vai trò của pháp luật trong tạo lập cơ sở pháp lý
cũng như bảo đảm hiệu quả hiệu quả hoạt động giữ gìn, phát huy GTVHTT.
Sự đầu tư của từng cá nhân và gia đình của từng thanh, thiếu niên trong một hoàn cảnh nào đó đã tạo ra sự chênh lệch giữa mảng kiến thức pháp luật với các
mảng kiến thức khác. Thực tế việc đầu tư nguồn lực cho việc giảng dạy pháp luật
trong hệ thống giáo dục quốc dân nước ta cũng có nhiều hạn chế. Điều đó tác động
rất lớn đến nhận thức và hiệu quả thực thi pháp luật trong việc giữ gìn, phát huy
GTVHTT trong nhân dân.
Nguồn lực tài chính đầu tư cho các thiết chế xây dựng và phát triển văn hóa chưa
đúng tầm. Đầu tư cho công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật chưa bảo đảm
một cách đầy đủ, còn nhiều bất hợp lý như trong các chương trình xây dựng pháp luật chưa chú trọng đúng mức đối với yêu cầu xây dựng nền văn hóa, thường lồng ghép văn hóa vào các lĩnh vực khác như y tế, giáo dục. Chưa huy động được nhiều các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho việc xây dựng các chính sách pháp luật về văn hóa; chưa tận dụng tối đa sự hỗ trợ của các chuyên gia, quốc tế trong xây dựng pháp luật.
Chưa có cơ chế hiệu quả trong xây dựng và thực thi pháp luật nhằm khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn lực phát triển văn hóa cũng như động viên tối đa các cá nhân và chủ thể văn hóa tham gia vào sáng tạo và truyền bá văn hóa lành mạnh, ngăn chặn, đẩy lùi sản phẩm văn hóa độc hại, tiêu cực.
Hệ thống văn bản pháp luật về văn hóa và các quy định liên quan đến việc giữ gìn, phát huy GTVHTT có số lượng rất lớn gồm nhiều loại khác nhau từ Hiến pháp, Bộ Luật, Luật, Pháp lệnh đến Nghị định, Thông tư (chưa tính văn bản quy phạm pháp luật do Chính quyền địa phương ban hành). Với số lượng văn bản lớn như vậy thì việc tồn tại sự mâu thuẫn, chồng chéo là khó tránh khỏi; cùng với đó là sự thiếu tính minh bạch khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó áp dụng.
Tiểu kết chương 3
Đánh giá vai trò của pháp luật đối với việc giữ gìn, phát huy GTVHTT phải
được xem xét toàn diện các mặt từ thể chế, xây dựng, giáo dục và hiệu quả thực thi
pháp luật. Vai trò đó trên thực tế đã có những tiến bộ trong việc thể chế hóa, hình
thành cơ chế tạo lập cơ sở pháp lý cũng như là công cụ bảo đảm hiệu quả đối với
việc giữ gìn, phát huy GTVHTT và giáo dục nâng cao ý thức con người đối với
123
GTVHTT. Trong thực hiện mục tiêu về hội nhập quốc tế về văn hóa, pháp luật đã
chuyển tải kịp thời các quy định điều ước quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia
làm cho làm cho hệ thống pháp luật phù hợp hơn với thông lệ và luật pháp quốc tế.
Hệ thống pháp luật thực định ngày càng đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh
các quan hệ xã hội, qua đó hướng hành vi con người đến việc giữ gìn, phát huy các
giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách
quan và chủ quan khác nhau dẫn đến vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy
GTVHTT vẫn còn những hạn chế nhất định.
Tóm lại, không thể giữ gìn, phát huy hệ GTVHTT bằng pháp luật trên nền
tảng một đời sống kinh tế thấp kém, các quan hệ xã hội trì trệ, xơ cứng. Vì thế, việc
giữ gìn, phát huy GTVHTT bằng pháp luật phải được đặt trong tổng thể những
chính sách, giải pháp đổi mới toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội, đặc biệt phải
gắn với các mục tiêu phát triển nền văn hóa và mục tiêu gắn tăng trưởng kinh tế với
văn hóa. Từ đánh giá thực trạng vai trò của pháp luật nêu trên, cần phải có những
quan điểm cũng như đề ra những giải pháp hiệu quả nhằm bảo đảm vai trò giữ gìn,
phát huy GTVHTT của pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
124
Chương 4
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ
CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Trong bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ hội nhập sâu rộng và toàn diện với
quốc tế, nhiều vấn đề bức xúc trên lĩnh vực văn hóa đang đặt ra, việc giữ gìn, phát
huy các GTVHTT chỉ có được hiệu quả trên cơ sở triển khai đồng bộ các hoạt động:
xây dựng pháp luật, xác lập các cơ chế chính sách, tổ chức thực hiện và sự tham gia
rộng rãi của quần chúng nhân dân. Bảo đảm vai trò của pháp luật đối với việc giữ
gìn, phát huy các GTVHTT thực chất là không ngừng củng cố và nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của quá trình này thông qua việc tập trung hoàn thiện các cơ chế, chính
sách, pháp luật đảm bảo cho chúng được triển khai thực hiện, được bảo vệ và phát
huy tốt trong đời sống xã hội. Do đó, bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn,
phát huy GTVHTT hiện nay cần phải có quan điểm và giải pháp phù hợp.
4.1. CÁC QUAN ĐIỂM BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG
GIỮ GÌN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM
4.1.1. Pháp luật phải thể chế hóa kịp thời, đầy đủ những quan điểm, chủ
trương về giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc là nội
dung cốt lỗi của tiến trình phát triển đất nước, tại Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh
tiếp tục “phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, giữ gìn bản sắc tốt đẹp của dân
tộc” [60, tr.303], đây là nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách hiện nay. Cương lĩnh xây
dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng thông qua được xác định
nền văn hóa đó là một trong tám đặc trưng của chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của
Đảng ta, nó góp phần trực tiếp tạo nên phẩm chất và giá trị của xã hội. Điều đó cũng
có nghĩa là, sẽ không có chủ nghĩa xã hội nếu chúng ta không phát triển văn hóa,
không giữ gìn và phát huy được những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống.
Từ chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm của nền văn hóa được xác định, pháp luật
phải thể hiện những xứ mệnh, trách nhiệm quan trọng đối với việc thực hiện các mục
tiêu quốc gia về xây dựng và phát triển nền văn hóa. Theo đó, pháp luật phải làm cho
mọi hoạt động văn hóa nhằm hướng đến xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
125
diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài
hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Những phẩm chất trên vừa là sự tiếp nối các giá trị truyền thống tốt đẹp và bền
vững của dân tộc, vừa là những đòi hỏi mới đối với con người Việt Nam trong tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà pháp luật cần phải thể hiện thành các quy định
cụ thể trong hệ thống văn bản pháp luật. Bên cạnh đó, pháp luật phải đảm bảo nâng cao
chất lượng, hiệu quả các thiết chế văn hóa, nhằm đáp ứng nhu cầu hưởng thụ giá trị văn
hóa lành mạnh và phát huy tiềm năng sáng tạo văn hóa của nhân dân.
Phải nhìn nhận rằng, các GTVHTT không phải là cẩm nang, không phải chìa
khóa vạn năng để làm được nhiệm vụ lớn lao về phát triển đất nước trong thời đại mới.
Do đó, phải có sự tham gia của tất cả các loại hình thuộc lĩnh vực sản xuất tinh thần;
của các loại hình văn hóa, đặc biệt là những thành tựu của văn hóa hiện đại, nếu biết
khai thác và phát huy tốt các GTVHTT hoàn toàn có khả năng tham gia nuôi dưỡng và
phát triển những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam đã được hun đúc qua lịch
sử ngàn năm. Những giá trị, chuẩn mực của văn hóa truyền thống đó phải trở thành
phẩm chất của con người Việt Nam trong thời kỳ mới, tất cả các loại hình văn hóa
truyền thống, thông qua sự chọn lọc, phát huy và biết cách truyền bá sinh động, đa
dạng sẽ tham gia có hiệu quả vào các nhiệm vụ trên
4.1.2. Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống phải được thể hiện đồng bộ giữa các khâu xây dựng, giáo dục, thực
hiện và bảo vệ pháp luật
Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ và hiệu quả, có kế thừa và phát
triển các giá trị pháp lý của dân tộc là tiền đề vật chất thuận lợi cho việc thực hiện
các mục tiêu về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Do đó, hoạt động
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa phải chú ý các GTVHTT, lấy
đó làm mục tiêu và thước đo chất lượng. Mặt khác, phải kết hợp hài hòa giữa
GTVHTT với tính hiện đại trong việc xây dựng các khung pháp lý. Làm được điều
đó tức là pháp luật đã đạt được tính khách quan, tính tôn trọng và tự giác thực hiện,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc
dân tộc.
Để có một hệ thống pháp luật như vậy cần phải giải quyết một loạt các vấn
đề có liên quan, một trong những yêu cầu quan trọng đối với hoạt động xây dựng
126
pháp luật là đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ, đó cũng là yêu cầu, đòi hỏi trọng đại
của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Một hệ thống pháp luật
như vậy mới có khả năng điều chỉnh có hiệu quả hệ thống các quan hệ xã hội rất đa
dạng, phong phú trên nhiều phương diện, đảm bảo sự phát triển ổn định về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong xây dựng hệ thống pháp luật cần phải bảo đảm cho
các giá trị văn hóa được giữ gìn và phát triển trong xã hội hiện đại, kết hợp giữa
truyền thống với hiện đại; bảo đảm chỗ đứng của các GTVHTT trong đời sống tinh
thần của xã hội, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân; không ảnh
hưởng đến tiến trình phát triển tiến bộ của con người, hướng con người đến sự hoàn
thiện về trí tuệ, văn minh nhưng đầy tính nhân văn, nhân bản. Chỉ có thể làm được
việc đó nếu xác lập một cơ chế làm luật bảo đảm khả năng sự kết hợp hài hòa các
giá trị, các lợi ích, nhu cầu khác nhau trong xã hội, khiến cho nó “không bị những
tham vọng cá nhân xuyên tạc đi,…cân nhắc cho những món lợi trước mắt với
những mối nguy hại tiềm tàng về sau” [103, tr.70].
Do vậy, vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm giữ gìn, phát huy
GTVHTT phải trên cơ sở quan điểm phát triển toàn diện, hướng mọi hoạt động giữ gìn,
phát huy GTVHTT với việc xây dựng con người Việt Nam phát triển về thể chất, tâm
hồn và trí tuệ. Qua đó, tạo lập đồng bộ cơ sở pháp lý, bảo đảm tự do, dân chủ cho hoạt
động sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá, huy động sự tham gia nhiều hơn, hiệu
quả hơn của xã hội vào việc bảo vệ, phát huy giá trị văn hoá dân tộc; ngăn chặn việc
lưu hành các sản phẩm văn hoá độc hại.
Như vậy, vấn đề không phải là làm được bao nhiêu luật mà điều quan trọng hơn
là chất lượng, tính hiệu quả, phù hợp với các chủ trương, chính sách và yêu cầu của xã
hội đối với các văn bản pháp luật. Vì vậy, những hạn chế, bất cập của pháp luật nếu
không phát hiện, sửa đổi và bổ sung kịp thời sẽ cản trở việc phổ biến, tuyên truyền các
GTVHTT trong nhân dân, phát huy các giá trị đó trong việc hướng tới các giá trị xã hội
bền vững và ổn định. Mặt khác, nếu pháp luật không đảm bảo tính ổn định với những
thay đổi, xáo trộn liên tục, tùy tiện thì cũng không có một hệ thống pháp luật hoàn thiện
để bảo đảm giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Do đó, các mục
tiêu về việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam cũng không đạt được.
4.1.3. Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống phải gắn với thực hiện các mục tiêu quốc gia về văn hóa
Trong thời đại ngày nay, văn hóa trở thành vấn đề mang tính toàn cầu và liên
quan tới các quyền của con người hơn bao giờ hết. Không thể có một GTVHTT được
127
bảo tồn và phát triển khi mà các quyền con người, các giá trị nhân bản của xã hội bị chà
đạp, hạn chế; khi mà con người đói nghèo hoặc không có nhiều cơ hội để phát triển.
Như vậy, giữ gìn, phát huy các GTVHTT phải đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền
con người và chính sách xã hội trong một nền kinh tế thị trường, chỉ trong điều kiện
như thế GTVHTT mới phát huy các giá trị của mình một cách hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, cũng giống như các giá trị văn hóa cần phải giữ gìn
và phát triển, các quyền của con người cũng phải được bảo vệ bởi một chế độ pháp
quyền mà ở đó mọi hoạt động của cá nhân được bảo hộ bởi pháp luật, nhằm làm cho
con người được thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần. Đó là lý do gắn việc giữ
gìn, phát huy GTVHTT với việc bảo đảm các quyền con người như những mục tiêu
của hoàn thiện và nâng cao vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội.
Chăm lo văn hóa nói chung và giữ gìn, phát huy các GTVHTT nói riêng là
chăm lo nền tảng tinh thần của xã hội. Nếu nói văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội
thì GTVHTT là cái cốt lõi tạo nên nền tảng đó, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cho quá trình
xây dựng và phát triển nền tảng đó. Nếu thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh,
không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội, giữ vững các giá trị văn hóa dân tộc thì không thể có sự phát triển bền
vững. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của phát triển kinh tế, do đó
các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi
phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương và làm cho văn hóa thành
nguồn nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển.
Việc hoàn thiện pháp luật theo hướng bảo đảm các quyền con người và chính
sách xã hội hướng con người đến sự phát triển toàn diện đang đặt ra những vấn đề cần
quan tâm hiện nay:
Thứ nhất, việc thể chế hóa các quyền con người phụ thuộc rất nhiều vào ý chí,
lợi ích của giai cấp cầm quyền, vào các điều kiện kinh tế- xã hội và truyền thống văn
hóa của mỗi quốc gia. Nhưng việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của con người là việc
làm phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Điều đó còn xuất phát từ những ràng
buộc của các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Vì vậy, việc rà soát lại các quy định hiện hành nhằm điều chỉnh và bổ sung những nội
dung, yêu cầu cập nhật về quyền con người trong điều kiện mới là một đòi hỏi tất yếu
của hoạt động hoàn thiện pháp luật ở nước ta hiện nay.
128
Thứ hai, không phải cứ mở rộng quyền con người, xây dựng các chính sách xã
hội thì mặc nhiên chúng ta đã giữ gìn, phát huy được các GTVHTT, vấn đề là ở chỗ tạo
ra những cơ sở thực tế và được bảo đảm bằng pháp luật để cho các quyền đó được thực
hiện. Vì vậy, tính khả thi của các quyền con người phụ thuộc rất nhiều vào sự phù hợp
với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước trong một giai đoạn lịch sử nhất
định, đó là sự thách đố không đơn giản đối với nhà lập pháp với ý nghĩa là không chỉ
phản ánh sự phù hợp trên mà còn dự đoán và thúc đẩy nó bằng phương tiện pháp luật.
Mặc khác, đảm bảo tính hiện thực của các quyền và tự do của con người không thể
tách rời việc xác lập sự tương xứng giữa quyền và nghĩa vụ của họ trong pháp luật.
Theo đó, không ai có quyền mà không phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định nhưng
trái lại, nghĩa vụ không thể lấn át quyền. Những đạo luật làm ra trái với nguyên tắc đó
chắc chắn sẽ không có chỗ đứng lâu dài trong đời sống xã hội.
Thứ ba, việc đảm bảo vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT
còn đòi hỏi phải sử dụng pháp luật như một phương tiện có hiệu quả để thực hiện các
mục tiêu quốc gia về văn hóa.
Thực tiễn sự điều chỉnh của pháp luật đối với các chính sách văn hóa còn nhiều
hạn chế, bất cập, điều đó không những bộc lộ trong hệ thống pháp luật thực định mà cả
hoạt động thực hiện pháp luật và ý thức pháp luật của các chủ thể. Vì thế, trong thời
gian tới, chính sách về phát triển văn hóa sẽ là một trong những chính sách trọng tâm
đặt ra những thách thức trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực văn hóa. Về vấn đề này, văn kiện Đại hội XII
của Đảng đã nhấn mạnh: “Tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, ý thức tôn trọng
pháp luật, mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa
dân tộc. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng, nhân rộng các
giá trị cao đẹp, nhân văn” [60, tr.127], đồng thời xác định:
Xây dựng môi trường văn hóa, đời sống văn hóa lành mạnh trong hệ thống
chính trị, trong mỗi địa phương, trong từng cộng đồng làng, bản, khu phố, cơ
quan, đơn vị doanh nghiệp, khu công nghiệp và mỗi gia đình, góp phần giáo
dục, rèn luyện con người về nhân cách, đạo đức, lối sống. Thực hiện chiến
lược phát triển gia đình Việt Nam, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt
đẹp, xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh [60, tr.127-128].
Bên cạnh đó, phải tạo lập đồng bộ cơ sở pháp lý, đảm bảo tự do, dân chủ cho
hoạt động sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa, văn học nghệ thuật. Sự sáng tạo và
hưởng thụ các giá trị văn hóa, văn học nghệ thuật chỉ có thể được bảo đảm thực hiện
129
trong môi trường kinh tế, chính trị ổn định, được bảo đảm cho các quyền tự do và dân
chủ trong mọi hoạt động của mình. Pháp luật với những thuộc tính của mình, là
phương tiện có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập ra môi trường pháp lý đó. Bởi
chính nhờ những đặc thù của mình, pháp luật có khả năng thiết lập một trật tự mà ở đó
mọi chủ thể khi tham gia vào các quan hệ phải tôn trọng những quy định và chịu trách
nhiệm về những hậu quả có thể xảy ra. Pháp luật của chúng ta được ra đời trên cơ sở ý
chí của nhân dân, thể hiện quyền lực nhân dân, là pháp luật dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phản ánh những lợi ích cơ bản lâu dài của dân tộc, của quốc gia, của tập thể và cá nhân,
luôn luôn là cơ sở vững chắc cho việc củng cố và mở rộng các mối quan hệ hợp tác và
phát triển. Trong tiến trình hội nhập, Đảng ta xác định xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc là một trong các mục tiêu quan
trọng hàng đầu, góp phần ổn định, bảo đảm cho sự thành công của các mục tiêu quốc
gia về kinh tế, xã hội. Để thực hiện mục tiêu đó thì pháp luật cần phải làm tốt hơn nữa
vai trò trong việc tạo lập đồng bộ cơ sở pháp lý đảm bảo tự do, dân chủ cho hoạt động
sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa, văn học nghệ thuật trong nhân dân. Phải đảm
bảo thực hiện thắng lợi chiến lược xây dựng và phát triển văn hóa cũng như chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật mà Đảng ta đã đề ra.
4.1.4. Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống phải phù hợp với đường lối chính trị, điều kiện kinh tế- xã hội, với
truyền thống dân tộc và phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, đồng thời tiếp thu
có chọn lọc về kinh nghiệm của quốc tế
Trong mối quan hệ với chính trị thì “một đạo luật là một biện pháp chính trị,
là chính trị” [194, tr.129], cụ thể hơn pháp luật trong trường hợp này là sự cụ thể
hóa đường lối của đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
hiện đại, giàu bản sắc dân tộc. Ở một phương diện khác, pháp luật lại là công cụ tổ
chức và thực hiện đường lối chính trị có hiệu quả nhất. Chính sự phù hợp giữa pháp
luật với đường lối của Đảng sẽ đặt ra những đòi hỏi chính đáng cho cả hai phía, đó
là: một mặt, pháp luật phải trở thành phương tiện đắc lực cho việc thể chế hóa và
thực thi kịp thời, chính xác chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa, nhưng mặc
khác, để có pháp luật đúng đắn, đáp ứng các yêu cầu về giữ gìn, phát huy các
GTVHTT của dân tộc thì trước hết, đường lối chính trị của Đảng về văn hóa phải
xuất phát từ những luận cứ khoa học, phù hợp với cuộc sống, với các giá trị văn hóa
của dân tộc, hợp lòng dân và có khả năng hội nhập vào xu thế của thời đại.
130
Học thuyết Mác- Lênin về pháp luật chỉ ra rằng pháp luật là ghi chép lại một cách
tích cực sự tồn tại và vận động của các quan hệ kinh tế. Do đó các giá trị văn hóa nếu
được giữ gìn, phát huy trong điều kiện hệ thống pháp luật cao hơn hoặc thấp hơn trình độ
và chính sách phát triển của một nền kinh tế, tất yếu sẽ mang lại những hậu quả tiêu cực:
hoặc nó sẽ trở nên duy ý chí hoặc nó sẽ không được phát huy trong đời sống xã hội. Vì
vậy, để bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT trước tiên cần
phải có hệ thống pháp luật phù hợp với những điều kiện về kinh tế - xã hội trong những
giai đoạn nhất định. Tuy nhiên, pháp luật không phải là bản sao các quan hệ kinh tế, mà
pháp luật phải có khả năng tiên liệu xu hướng vận động các quan hệ kinh tế, về những
tiền đề khách quan và chủ quan để từ đó tham gia vào việc hoạch định chính sách kinh tế
đúng đắn. Bên cạnh đó, pháp luật còn phải có vai trò đảm bảo sự kết hợp giữa các giá trị
văn hóa với tăng trưởng kinh tế bền vững. Đảng đã chỉ rõ: “Những thành tựu của cách
mạng khoa học- công nghệ thế giới cùng với việc mở rộng giao lưu quốc tế là cơ hội để
chúng ta tiếp thụ những thành quả trí tuệ của loài người, đồng thời cũng đặt ra những
thách thức mới trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc” [53, tr.151].
Giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là mảnh đất màu mỡ để nuôi dưỡng tinh
thần nhân văn, nhân đạo trong hoạt động xây dựng pháp luật cũng như các hoạt động
quản lý của nhà nước và là đặc điểm để nhận diện đối với một hệ thống pháp luật. Do đó,
đánh mất đi giá trị văn hóa của dân tộc, dù ở hình thức và mức độ nào, pháp luật sẽ
không đảm bảo tốt vai trò trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội mà nó hướng tới.
Tính độc đáo của mỗi nền pháp luật tuyệt nhiên không phải là lý do để chúng
tồn tại biệt lập với nhau. Giao thoa, hội nhập với các hệ thống pháp luật khác là phương
cách để một nền pháp luật tự nhận ra mình, để tích lũy và phát triển theo một định
hướng. Trong xu thế quốc tế hóa, giao lưu, tiếp biến là qui luật cơ bản của sự phát triển
văn hóa, không một nền văn hóa nào trên thế giới lại tuyệt đối cổ xưa, thuần khiết và
không bị ảnh hưởng bởi bất cứ nền văn hóa nào khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng
khẳng định văn hóa Việt Nam là do ảnh hưởng của văn hóa phương Đông và phương
Tây chung đúc lại.
Thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập trên tất cả các lĩnh vực, do đó Việt Nam
cần thiết tiếp thu và chấp nhận tiếp biến giá trị tốt đẹp của văn hóa các quốc gia, dân
tộc khác để phát triển nền văn hóa dân tộc. Vì vậy, không thể đứng ngoài xu thế chung
của nhân loại, muốn phát triển đất nước thì phải hội nhập, phải tiếp nhận những giá trị
văn hóa, văn minh của nhân loại, những tiền đề vật chất và tinh thần mà thời đại tạo ra.
131
Để tiếp nhận các giá trị văn hóa nhân loại làm giàu văn hóa dân tộc và bảo đảm sự bền
vững của nền tảng tinh thần xã hội, cần phải xác định đúng đắn để xử lý các vấn đề nảy
sinh do giao lưu văn hóa hiện nay đang đặt ra:
Thứ nhất, cần phải có ý thức “biết vay” và “biết trả”, tức là cần tiếp thu một
cách chủ động các giá trị của nhân loại kết hợp với các giá trị của dân tộc để tạo nên
giá trị mới phục vụ cho sự phát triển đất nước và đóng góp vào sự phong phú của
văn hóa nhân loại.
Thứ hai, cần có thái độ khoan dung văn hóa, tôn trọng sự đa dạng văn hóa, tức
là phải biết tôn trọng giá trị của người khác, để người khác tôn trọng các giá trị của
chúng ta, tiếp thu lẫn nhau để cùng phát triển. Cần chú ý tôn trọng sự khác biệt giữa các
giá trị, giao tiếp bình đẳng giữa các giá trị của các dân tộc, ủng hộ xu thế phát triển đa
dạng của các quốc gia dân tộc trên cơ sở các giá trị tinh thần của mỗi dân tộc.
Thứ ba, cần phê phán thói kêu ngạo và hư vô chủ nghĩa trong giao lưu văn hóa, tức là thái độ coi thường giá trị văn hóa của người khác hoặc sự áp đặt giá trị của mình cho người khác, thái độ phủ nhận những giá trị của quá khứ, của các thời đại trước sáng tạo ra hoặc phủ nhận những tác động tích cực của các giá trị bên ngoài vào văn hóa Việt Nam.
Xây dựng một hệ thống các văn bản pháp luật ngày càng hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp trong điều kiện kinh tế, xã hội trong nước còn nhiều khó khăn, tình hình thế giới có nhiều biến động. Vì vậy, trong xây dựng pháp luật về các vấn đề liên quan đến văn hóa của nước ta hiện nay cần
tránh hai khuynh hướng: Một mặt, chủ quan nóng vội muốn có ngay một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để dẫn đến tình trạng pháp luật không còn phù hợp với tình hình kinh tế xã hội, không đáp ứng được yêu cầu xây dựng nền văn hóa tiên tiến nhưng ở đó các giá trị văn hóa truyền thống được bảo đảm giữ gìn và phát triển; mặt
khác không nhận thức đúng vai trò tích cực của pháp luật dẫn đến tình trạng chờ
đợi, chậm chạp hoặc muốn dùng các biện pháp khác để điều chỉnh các quan hệ xã
hội mà không cần đến pháp luật.
4.1.5. Bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống phải gắn với bảo đảm tính thống nhất trong đa dạng của cộng đồng
văn hóa các dân tộc Việt Nam
Việt Nam là một quốc có sự đa dạng về dân tộc, tôn giáo nhưng đoàn kết,
thống nhất trong các quá trình dựng nước và giữ nước đã tạo nên “một bản sắc Việt
132
Nam” trước cộng đồng thế giới, như Đảng đã khẳng định: “Hơn 50 dân tộc sống
trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị và sắc
thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự
thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn
hóa của các dân tộc anh em” [53, tr.163-164].
Vì thế chính sách, pháp luật về văn hóa đối với các dân tộc, tôn giáo là một
bộ phận không thể tách rời của chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, là một nội
dung quan trọng trong xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về văn hóa, nhằm
bảo đảm vai trò giữ gìn, phát huy các GTVHTT của dân tộc. Trong bối cảnh quốc tế
nhiều diễn biến phức tạp như hiện nay, chính sách, pháp luật đó, một mặt phải đảm
bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng; tự do sáng tạo văn hóa, bảo vệ và
phát huy giá trị văn hóa của dân tộc mình; mọi dân tộc, tôn giáo đều bình đẳng
trước pháp luật; chống lợi dụng dân tộc, tôn giáo vì những ý đồ xấu. Nhưng mặt khác, phải tôn trọng và khuyến khích các nhân tố tích cực của các dân tộc, tôn giáo trong đời sống xã hội. Những ý tưởng về công bằng, bác ái, hướng thiện trong mỗi tôn giáo tuy có sắc thái, mức độ khác nhau song cần được khuyến khích vì chúng phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo lý và pháp luật của chúng ta.
Các giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam tuy có nhiều điểm khác
nhau về phong tục, tập quán, lối sống nhưng chung quy thì mọi giá trị văn hóa đó cũng
đều có chung một mục đích là hướng con người đến cái chân, thiện, mỹ; đều thể hiện
tinh thần tương thân, tương ái, ý chí tự lực, tự cường, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng
đồng, gắn kết gia đình- làng xã- quốc gia, dân tộc. Đó là những giá trị xuyên suốt được
thể hiện trong cộng đồng văn hóa các dân tộc Việt Nam, thể hiện một sự gắn kết, thống
nhất không thể tách rời, tạo nên bản sắc của dân tộc. Do đó, cần phải có một hệ thống
pháp luật để giữ gìn, phát huy các giá trị đó trong việc thực hiện các mục tiêu quốc gia
về văn hóa của tiến trình xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Về vấn đề này
Đảng đã nhấn mạnh:
Vừa phát huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo của văn hóa các dân
tộc anh em, làm phong phú nền văn hóa chung của cả nước, vừa kiên trì
củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hóa Việt Nam,
đấu tranh chống các khuynh hướng lợi dụng văn hóa để chia rẽ, phá hoại
khối đại đoàn kết toàn dân tộc [53, tr.283].
Bên cạnh đó, cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm sự giao lưu
văn hóa với các nước trong khu vực và thế giới với nhiều hình thức ngày càng phong
133
phú hơn, dễ dàng hơn nhằm đưa văn hóa, văn nghệ nước nhà hòa nhập với cộng đồng
thế giới. Đồng thời, giới thiệu những di sản văn hóa phong phú của nước ta với thế giới
và giới thiệu với người dân trong nước những món ăn tinh thần từ bên ngoài vốn còn
xa lạ. Thực hiện được điều đó sẽ làm cho quá trình giao lưu văn hóa đó được tốt hơn,
qua đó sẽ giúp giữa các vùng văn hóa ở trong nước cũng như giữa văn hóa nước ta với
văn hóa các nước khác trên thế giới ngày càng xích lại gần nhau hơn. Từ đó sẽ tìm
được sự thống nhất, đồng điệu những giá trị văn hóa mang tính nhân văn sâu sắc và các
quan niệm về văn hóa truyền thống sao cho phù hợp với khát vọng tìm đến cái chân,
thiện, mỹ một cách đúng đắn với xu hướng thời đại.
Tính đa dạng văn hóa đang trở thành một xu thế tất yếu trong bối cảnh toàn cầu
hóa, nhưng tính đa dạng văn hóa phải đi đôi với việc đảm bảo vai trò điều chỉnh của
pháp luật trong việc thực hiện các mục tiêu văn hóa mới đảm bảo phát triển văn hóa
bền vững và đúng hướng. Trái lại, nếu trong quá trình giao lưu, hội nhập giữa các vùng
văn hóa hoặc giữa văn hóa nước ta với văn hóa các nước trên thế giới, lại chỉ chú trọng
trong tính đa dạng mà không có ý thức giữ gìn, phát huy những giá trị độc đáo của văn
hóa dân tộc thì đó sẽ là một nguy cơ phát triển không bền vững. Từ đó, chẳng những
làm mất đi giá trị văn hóa dân tộc mà còn làm cho việc xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam không đạt được mục tiêu mà Đảng đã đề ra, đó cũng là điều mà cả thế
giới quan tâm và chính UNESCO cũng đã cảnh báo.
Để quán triệt quan điểm chỉ đạo và thực hiện tốt các phương hướng trên, đòi hỏi
cần phải có những giải pháp bảo đảm vai trò của pháp luật thích hợp nhằm tạo động lực
thúc đẩy cho sự phát triển, thực hiện thành công công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây
dựng thành công nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc.
4.2. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG GIỮ GÌN,
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.2.1. Nhóm giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo, quản lý
4.2.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đối với việc thực hiện các
mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam
Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội, đường lối
lãnh đạo của Đảng là tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng các văn bản pháp luật, với
phương châm là linh hồn của pháp luật và nó phải hóa thân vào pháp luật. Tăng cường
vai trò lãnh đạo của Đảng không có nghĩa là Đảng bao biện, làm thay nhà nước, làm
phai mờ các chức năng quản lý, điều hành của các cơ quan chức năng nhà nước, mà
134
chính là tăng cường sự lãnh đạo thông qua đường lối chung về mọi mặt của đời sống
xã hội và đường lối về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam nói riêng.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng không phải bằng cách đưa ra nhiều Chỉ thị,
Nghị quyết của Đảng mà cần định hướng chung và các cấp ủy địa phương, cơ sở cần
định hướng các chuyên đề cụ thể phù hợp với tình hình thực tiễn về công tác văn hóa
của từng địa phương, từng vùng, miền khác nhau. Đồng thời, sự lãnh đạo của Đảng
phải bảo đảm không gây cản trở cho các cơ quan chức năng thực hiện tốt vai trò, chức
năng, nhiệm vụ của mình trong việc giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý các vi phạm
pháp luật của các tổ chức, cá nhân đối với GTVHTT. Có như vậy mới đảm bảo được
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, tránh được tình trạng can thiệp của Đảng vào
công tác xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm được phương châm: “Mọi
người sống và làm việc theo pháp luật”. Ngoài ra, cần đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số
32- CT/TW ngày 09 tháng 12 năm 2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
Có thể nói, phương hướng chỉ đạo của Đảng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt bảo
đảm thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Sự chỉ
đạo đó cũng bảo đảm hiệu quả vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy
GTVHTT. Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện ở việc đề ra những quyết sách hợp
lý trong từng thời kỳ nhằm bảo đảm cho các Nghị quyết của Đảng về xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc được thể
chế hóa thành pháp luật và được bảo đảm hiện thực hóa vào đời sống xã hội. Trong
từng thời kỳ Đảng phải đề ra những phương hướng về xây dựng pháp luật, tổ chức
thực hiện pháp luật, giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân; đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ pháp lý để tăng cường cho các cơ quan làm công tác pháp luật; tổ
chức lãnh đạo phong trào quần chúng tham gia tích cực vào việc giữ gìn, phát huy
các GTVHTT, phòng ngừa và chống lại các hiện tượng phản văn hóa, tiêu cực của
xã hội, các hành vi vi phạm pháp luật.
Tăng cường ý thức trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, nhất là người đứng đầu.
Phải chủ động chỉ đạo xây dựng chương trình, kế hoạch và thường xuyên kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng về việc xây dựng và phát
triển nền văn hóa; về việc tuyên truyền, phổ biến các giá trị văn hóa, đạo đức truyền
thống tốt đẹp trong cuộc sống; về sự gương mẫu trong đạo đức lối sống của đảng viên;
đồng thời, xử lý nghiêm minh các sai phạm của các tổ chức cơ sở Đảng và Đảng viên.
135
Giữ gìn, phát huy GTVHTT là sự nghiệp chung của toàn xã hội do Đảng
lãnh đạo. Tuy nhiên, việc bảo đảm vai trò của pháp luật để thực hiện sự nghiệp trên
là công việc mang tính chất nhà nước với những nội dung, công cụ, phương tiện và
hình thức pháp lý khác nhau. Vì vậy, Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với công tác
này là đề ra các phương hướng chỉ đạo, kiểm tra, giám sát hoạt động của nhà nước
đối với việc tổ chức thực hiện các mục tiêu văn hóa trong xây dựng pháp luật nhằm
bảo đảm thể chế kịp thời các quan điểm, chủ trương về xây dựng nền văn hóa, làm
cho các giá trị văn hóa của dân tộc được giữ gìn, phát huy bởi các bảo đảm pháp lý.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát
huy GTVHTT còn được thực hiện thông qua sự gương mẫu của các đảng viên và các tổ
chức cơ sở Đảng trong việc tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh các Nghị quyết của Đảng,
pháp luật của nhà nước về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Không một cán
bộ, đảng viên nào được phép đặt mình trên pháp luật, mọi hoạt động đều trên cơ sở pháp
luật. Về vấn đề này ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VI đã nhấn mạnh: “Trong điều kiện
Đảng cầm quyền, mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải sống và làm việc theo pháp
luật, gương mẫu trong việc tôn trọng pháp luật. Không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền
thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải bị xử lý” [45, tr.121].
4.2.1.2. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa
Để bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT đạt hiệu quả
thiết thực, Nhà nước phải dựa trên những phương hướng, đường lối của Đảng về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam, về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật nhằm đề ra các biện pháp cụ thể, phù hợp với những điều kiện, hoàn cảnh trong
mỗi giai đoạn nhất định. Các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa các cấp đóng vai trò
quan trọng trong xây dựng kế hoạch, đề ra nhiệm vụ thực hiện các mục tiêu văn hóa,
bảo đảm hoàn thành các mục về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Do đó,
hệ thống các cơ quan phải bảo đảm kiện toàn đồng bộ với các đơn vị quản lý và đơn vị
sự nghiệp nhằm thực hiện đồng bộ nghiên cứu, quản lý mọi mặt của đời sống văn hóa
một cách có hiệu quả nhất. Để thực hiện mục tiêu đó đòi hỏi các chủ thể quản lý phải:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, nghiên cứu
GTVHTT của dân tộc nhằm đề xuất luật hóa các giá trị văn hóa truyền thống, phát huy
tối đa các giá trị đó trong đời sống xã hội. Nghiên cứu giải pháp nhằm tạo ra sự hài hòa
giữa văn hóa và pháp luật trong quản lý góp phần vào thực hiện thành công các mục
tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
136
Thứ hai, xây dựng và thực hiện các chương trình, chiến lược phát triển văn hóa
phải chú trọng các GTVHTT, coi đó là cội nguồn tạo ra những giá trị bất tận về văn
hóa, làm nên nền tảng tinh thần của xã hội. Do đó, cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ
bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa theo quy định hiện hành như bảo vệ
di sản văn hóa các dân tộc thiểu số nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền
thống tốt đẹp. Đồng thời, ra sức tuyên truyền, bài trừ các hủ tục lạc hâu, mê tín dị đoan,
kiên quyết xử lý nghiêm những hành vi cố tình vi phạm. Chính quyền cơ sở cần có các
chương trình, kế hoạch cụ thể xóa bỏ các hủ tục và bài trừ, xử lý mê tín dị đoan. Đối
với các lễ hội ở địa phương, các cơ quan chức năng rà soát, đánh giá lại lễ hội của các
địa phương mình theo hướng những truyền thống tốt đẹp thì giữ gìn và phát huy,
những hành vi phi văn hóa, đi ngược lại nếp sống văn minh thì nên loại bỏ. Bên cạnh
đó, ngành văn hóa cần đánh giá lại những lễ hội làm ảnh hưởng đến hình ảnh và uy tín
quốc gia để tham mưu cho Chính phủ cấm hẳn hoặc giữ lại một phần hay tách riêng,
khu biệt những nghi thức hiến sinh, tế lễ trong các lễ hội.
Thứ ba, thực hiện tốt các nhiệm vụ được thể chế trong Luật Di sản văn hóa như
sớm hoàn thành cơ bản việc tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, kiểm kê, phân loại di sản văn
hóa; tổ chức truyền dạy, phổ biến, xuất bản, trình diễn và phục dựng các loại hình di
sản văn hóa phi vật thể; khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân nghiên cứu,
sưu tầm, lưu giữ, truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể.
Thứ tư, xây dựng cơ chế phối hợp trong việc thực hiện các mục tiêu chương
trình, chiến lược về văn hóa trong hoạt động quản lý nhà nước giữa ngành văn hóa với
các ngành, các cấp; giữa cơ quan nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nước nhằm tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế về văn hóa, quảng bá hình ảnh,
đất nước, con người, văn hóa Việt Nam. Qua đó, cũng cố nguồn lực phát triển nền công
nghiệp văn hóa góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội nhằm tạo nguồn
nội lực ổn định thực hiện các mục tiêu về giữ gìn, phát huy GTVHTT.
Thứ năm, thường xuyên theo dõi, kiểm tra, rà soát nhằm phát hiện những hạn
chế, bất cập của các chính sách, pháp luật và chủ động tham mưu đề xuất các cấp có
thẩm quyền điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội. Đồng thời, theo dõi
và có ý kiến khi các dự thảo chính sách, pháp luật điều chỉnh không phù hợp với các
yều cầu, mục tiêu về xây dựng và phát triển nền văn hóa cũng như gây ra những khó
khăn cho các chủ thể trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT.
137
Thứ sáu, các cơ quan quản lý các cấp cần thực hiện tốt chính sách tôn vinh, đãi
ngộ đối với các nghệ sĩ, nghệ nhân tiêu biểu có nhiều đóng góp cho việc bảo tồn và
phát triển các giá trị di sản văn hóa. Xây dựng các chương trình, kế hoạch nhằm huy
động toàn xã hội tham gia vào việc giữ gìn và phát huy các giá trị thuộc di sản văn hóa.
Ban hành các chính sách nhằm khuyến khích sự sáng tạo văn hóa mới, đồng thời tiếp
thu các giá trị văn hóa đặc sắc của nhân loại.
4.2.2. Nhóm giải pháp đẩy mạnh công tác xây dựng hoàn thiện cơ chế,
chính sách bảo đảm cơ sở pháp lý vững chắc cho các chủ thể trong giữ gìn, phát
huy giá trị văn hóa truyền thống
4.2.2.1. Tăng cường công tác thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của
Đảng về giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống và chuyển tải nội dung,
bảo đảm hiệu quả điều ước quốc tế về văn hóa mà Việt Nam tham gia
Pháp luật là cơ sở, nền tảng để tiến hành mọi hoạt động quản lý nhà nước trong một khuôn khổ nhất định và hiệu quả nhất, từ đó làm cho xã hội được ổn định, có trật tự hơn. Muốn bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này. Do đó, cần tăng cường thể chế hóa quan điểm của Đảng thành pháp luật, tạo ra sự ràng buộc và động viên tối đa các chủ thể văn hóa tham gia vào việc giữ gìn, phát huy GTVHTT. Phải thường xuyên rà soát, đánh giá, sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về văn hóa bảo đảm đồng bộ, tránh chồng chéo, trùng lắp và thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa. Phải xây dựng các chương trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật, trong đó chú trọng hoàn hệ thống pháp luật tạo hành lang pháp lý vững chắc về giữ gìn, phát huy GTVHTT. Trên cơ sở Nghị quyết số 48/- NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị “về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020”, Kết luận số 01-KL/TW, ngày 04/4/2016 của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 48-NQ/TW, Nhà nước thông qua hệ thống các cơ quan có thẩm quyền cần
tiến hành lập kế hoạch xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật về xây
dựng nền văn hóa Việt Nam mang tính chiến lược lâu dài. Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện pháp luật về văn hóa Việt Nam sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc củng cố,
bổ sung, đổi mới hệ thống pháp luật về giữ gìn và phát triển các GTVHTT ngày
càng đầy đủ, đồng bộ; thể chế kịp thời, đúng đắn đường lối của Đảng về xây dựng và phát triển văn hóa; tạo tiền đề cơ sở cho việc đảm bảo vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT hiện nay.
138
Văn hóa nói chung và các GTVHTT chỉ có thể được giữ gìn và phat huy trên
cơ sở một hệ thống pháp luật ngày càng phát triển và hoàn thiện, kịp thời thể chế
hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về văn hóa, phản ánh đúng những đặc điểm
kinh tế, văn hóa, xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Để có được hệ thống
pháp luật như vậy phải thường xuyên tiến hành đánh giá toàn diện hệ thống pháp
luật nhằm kịp thời thể chế hóa những chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp
luật. Cần tiếp tục rà soát, đánh giá về kết quả chuyển tải, bảo đảm thực hiện hiệu
quả các điều ước quốc tế về văn hóa vào hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm kịp
thời đề xuất bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với thông lệ và ràng buộc của điều ước
quốc tế. Phải có kế hoạch xây dựng pháp luật với mỗi giai đoạn cụ thể, đẩy mạnh
công tác nghiên cứu khoa học pháp lý, kỹ thuật xây dựng pháp luật để đảm bảo cho
hệ thống các văn bản pháp luật ra đời mang được tính khoa học, đạt trình độ kỹ
thuật cao, đáp ứng được yêu cầu và mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam hiện nay.
4.2.2.2. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật Pháp luật muốn phát huy hiệu quả điều chỉnh các quan hệ xã hội mà nó hướng
đến, trước tiên phải được xây dựng dựa trên quy luật khách quan về sự tồn tại, vận
động, phát triển các mối quan hệ xã hội và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đời sống xã
hội. Đồng thời phải có một quy trình pháp lý trong xây dựng và ban hành một cách
khoa học, hợp lý và dân chủ. Một yêu cầu bắt buộc cần nghiêm túc thực hiện trước
khi ban hành phải lấy ý kiến của đông đảo quần chúng nhân dân. Việc lấy ý kiến
nhân dân trong xây dựng pháp luật về giữ gìn, phát huy GTVHTT cần tập trung đối
tượng phù hợp với từng lĩnh vực, loại hình phù hợp với đặc trưng văn hóa vùng, miền
- vốn là nét đặc sắc trong văn hóa Việt Nam; phải hoàn thiện cơ chế lấy ý kiến, tiếp
thu và giải trình việc tiếp thu ý kiến thực chất hơn, đi vào chiều sâu nhằm khắc phục
tình trạng lấy ý kiến nhân dân mang nặng tính hình thức như hiện nay.
Đối với hệ GTVHTT, những yếu tố văn hóa này thường gắn với làng- xã như
các lễ hội dân gian truyền thống, các sinh hoạt văn hóa cộng đồng của các dân tộc
khác nhau được giữ gìn và phát huy theo phong tục của người dân sở tại. Vì vậy ý
kiến của nhân dân sở tại phải xem như quy trình bắt buộc và phải có cơ chế triển
khai thực chất trên thực tế.
Xây dựng hoàn thiện cơ chế thẩm tra, thẩm định đối hoạt động xây dựng pháp
luật; bảo đảm tính độc lập và phát huy vai trò tích cực của các chủ thể thực hiện nhiệm
vụ này, coi đây là những khâu quan trọng nhất trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
139
Hoàn thiện cơ chế hình thành chương trình xây dựng pháp luật, bảo đảm khi
chương trình ban hành là có tính khả thi cao. Các chủ thể có trách nhiệm xây dựng các
dự thảo pháp luật căn cứ chương trình thực hiện nhằm bảo đảm yêu cầu về chất lượng
và tiến độ, qua đó khắc phục thực trạng dự thảo văn bản chất lượng thấp và điều chỉnh,
sửa đổi chương trình do lỗi chủ quan của cơ quan chủ trì soạn thảo.
4.2.2.3. Luật hóa các quy tắc đạo đức nghề nghiệp
Các quy tắc ứng xử nghề nghiệp hiện nay đều có điểm chung là chú trọng
đến việc tôn trọng giá trị đạo đức xã hội, tôn trọng con người, quyền lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân và không trái pháp luật trong thực hiện các hoạt động
chuyên môn liên quan đến nghề nghiệp. Nhằm khắc phục tình trạng suy thoái về
đạo đức xã hội hiện nay, trong đó có một bộ phận không nhỏ là cán bộ, công chức,
viên chức, ngành Nội vụ cùng với ngành Văn hóa cần chủ động phối hợp với các
ngành khác đề nghị xây dựng dự Luật về Đạo đức nghề nghiệp và Đạo đức công vụ.
Nội dung dự luật phải chú trọng yếu tố cốt lõi là giữ gìn thuần phong mỹ tục, giá trị
văn hóa đạo đức phổ quát được xã hội thừa nhận trong hoạt động công vụ và hoạt
động nghề nghiệp; ràng buộc nghĩa vụ các chủ thể khi thực hiện công vụ hoặc thực
hiện nghề nghiệp luôn suy nghĩ và hành động bảo vệ cái tốt, cái đẹp, bảo vệ các giá
trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc. Việc luật hóa các quy tắc đạo đức nghề nghiệp
sẽ giúp hình thành ở con người thói quen ứng xử theo pháp luật, ràng buộc họ về
quyền và nghĩa vụ pháp lý chứ không phải là đạo lý. Cùng với đó là các chế tài
pháp lý cụ thể khi vi phạm đạo đức nghề nghiệp, làm trái thuần phong mỹ tục, các
giá trị phổ quát tồn tại đã được xã hội thừa nhận. Qua đó, ngoài việc cảm thấy xấu
hỗ, ray rức họ còn biết run sợ và suy nghĩ cẫn trọng hơn khi nghĩ đến việc thực hiện
hành vi trái đạo đức nghề nghiệp, vì theo lẽ thường đối với các vấn đề liên quan đến
trách nhiệm pháp lý người ta luôn đắn đo suy nghĩ trước khi thực hiện.
4.2.2.4. Xây dựng và hoàn thiện các quy định nhằm tạo ra tính đồng bộ,
thống nhất và hiệu lực pháp lý của hệ thống văn bản pháp luật.
Trước mắt cần tiến hành xây dựng các chương trình, kế hoạch nhằm hệ
thống hóa pháp luật liên quan đến lĩnh vực văn hóa, đến việc giữ gìn, phát huy
GTVHTT, nghĩa là trong trường hợp này chủ thể có thẩm quyền xây dựng pháp luật
một mặt phải hệ thống hóa các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa, mặt
khác phải hệ thống hóa các quy phạm có liên quan đến GTVHTT trong các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội. Đây là việc cực khó và tốn kém nhưng rất cần thiết
nhằm bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, bởi có bảo đảm được tính
140
thống nhất của hệ thống pháp luật mới tạo ra sự đồng bộ và bảo đảm hiệu vai trò
của pháp luật trong giữ gìn, phát huy các GTVHTT trên quy mô toàn xã hội, đối với
mọi ngành, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Hệ thống hóa pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoàn thiện pháp
luật nhằm đảm bảo vai trò đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Qua công tác
hệ thống hóa cho phép các cơ quan chức năng, đặc biệt là các cơ quan quản lý nhà
nước về văn hóa có sự nhìn nhận tổng quát đối với những văn bản pháp luật hiện
hành trong quá trình thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam mà Đảng đề ra. Qua đó sẽ phát hiện ra những
điểm không phù hợp, mâu thuẫn và những khoảng trống của hệ thống văn bản pháp
luật hiện hành, từ đó có biện pháp khắc phục, hoàn thiện. Mục đích của hoạt động
này là tạo ra một hệ thống các văn bản pháp luật cân đối, thống nhất, hoàn chỉnh,
trong đó vai trò của các đạo luật ngày càng quan trọng trong việc xây dựng và phát
triển nền văn hóa cũng như trong việc giữ gìn, phát huy các giá trị văn hóa của dân
tộc. Mặt khác, việc hệ thống hóa pháp luật làm cho nội dung của pháp luật phù hợp
với những yêu cầu của đời sống đặt ra, làm cho pháp luật có hình thức rõ ràng, dễ
hiểu, tiện lợi cho việc áp dụng. Nội dung của công tác hệ thống hóa pháp luật là sắp
xếp các văn bản quy phạm pháp luật, các quy phạm pháp luật riêng biệt theo một
trình tự nhất định như theo cơ quan ban hành, thời gian ban hành, cấp độ hiệu lực
pháp lý. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đây thì pháp luật cũng không được hoàn
thiện so với yêu cầu đặt ra của công tác hệ thống hóa pháp luật và cũng không bảo
đảm được vai trò trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT của dân tộc. Vì thế pháp
luật phải được hoàn thiện hơn nhằm bảo đảm vai trò điều chỉnh các quan hệ xã hội
trong việc thực hiện các mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa, đó là yêu cầu
chính đáng và cấp thiết. Do đó, công tác hệ thống hóa pháp luật phải được tiến hành
ở cấp độ cao hơn, ngoài việc sắp xếp lại các văn bản quy phạm pháp luật, các quy
phạm pháp luật theo một trình tự nhất định, công tác hệ thống hóa một mặt phải loại
bỏ những quy phạm lỗi thời, mâu thuẫn. Mặt khác, cần phải chế định thêm những
quy phạm mới để thay thế cho các quy phạm đã bị loại bỏ và khắc phục những chỗ
trống được phát hiện trong quá trình tập hợp văn bản, sửa đổi các quy phạm pháp
luật hiện hành, nâng cao hiệu lực pháp lý của chúng. Kết quả của công tác này là hệ
thống quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm pháp luật mới ra đời hoàn chỉnh hơn.
Để đạt được các mục tiêu trên, công tác hệ thống hóa cần phải thực hiện một
cách khoa học, hợp lý. Do đó, không chỉ đơn thuần dựa trên những kiến thức pháp lý
141
mà phải sử dụng cả những tri thức kinh tế, xã hội học, tâm lý học, đặc biệt, phải dựa
trên nền tảng văn hóa dân tộc và thực trạng của việc bảo tồn và phát triển văn hóa dân
tộc hiện tại. Làm được điều đó sẽ cho ra đời những văn bản quy phạm pháp luật phản
ánh được các nhu cầu xã hội, đồng thời đáp ứng được yêu cầu bảo đảm vai trò của
pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT hiện nay. Đối với hoạt động bảo vệ pháp
luật thì công tác hệ thống hóa pháp luật có ý nghĩa quan trọng. Sự sắp xếp có trình tự
và hệ thống những quy phạm pháp luật cho phép các cơ quan chức năng dễ dàng tìm
kiếm những quy phạm cần thiết, làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của chúng để áp
dụng xử lý các hành vi vi phạm một cách đúng đắn, chính xác.
Nhằm khắc phục những bất cập của pháp luật thực định đối với giữ gìn, phát
huy các GTVHTT, cần tiến hành thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
Một là, tiến hành rà soát, tập hợp các quy định về lễ hội, qua đó đánh giá hiệu
quả pháp lý các quy định, tiến tới xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định
bảo đảm hiệu lực pháp lý của các văn bản được ban hành nhằm khắc phục tình trạng lễ
hội tràn lan; chấn chỉnh, hạn chế hiện tượng thương mại hoá trong lễ hội như hiện nay.
Hai là, nghiên cứu hoàn thiện các khung pháp lý về thực hành tín ngưỡng dân
gian cùng với việc hoàn thiện các chế tài xử lý các hành vi đồng bóng, mê tín dị đoan
thông qua thực hành tín ngưỡng, qua tổ chức, tham gia lễ hội và các hoạt động văn hóa
khác theo hướng tăng nặng các biện pháp xử lý. Thực tế các chế tài hiện nay không đủ
nghiêm để răn đe, giáo dục.
Ba là, xây dựng luật Tiếng Việt và ngôn ngữ các dân tộc nhằm bảo vệ sự trong
sáng, thuần khiết của Tiếng Việt và tiếng nói chữ viết cộng đồng các dân tộc Việt Nam
trước nguy cơ bị thất truyền.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện quyền, nghĩa vụ của các chủ thể khác ngoài nhà
nước nhằm huy động tối đa các nguồn lực tham gia vào trong việc bảo vệ, phát huy giá
trị di sản theo hướng xác định rõ ràng quyền và nghĩa vụ cụ thể của từng loại chủ thể.
Hoàn thiện chính sách miễn giảm thuế đối với đơn vị, doanh nghiệp có đóng góp trong
lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể.
Năm là, hoàn thiện các quy định pháp luật về thi đua khen thưởng nhằm tạo sự
đồng bộ giữa luật thi đua, khen thưởng với pháp luật về di sản văn hóa. Đồng thời các
quy định về tôn vinh, chính sách đãi ngộ cũng phải đồng bộ trong lĩnh vực văn hóa với
các lĩnh vực khác trong hệ thống pháp luật.
Sáu là, hình sự hóa nhằm xử lý nghiêm các hành vi xuyên tạc lịch sử, phủ
nhận thành tựu cách mạng, xúc phạm vĩ nhân, anh hùng dân tộc. Trong bối cảnh
142
hiện nay, khi mà các thế lực thù địch đang ra sức chống phá đất nước, chính quyền
nhân dân, nhất là chúng lợi dụng phương tiện thông tin đại chúng để chống phá,
liên tục bôi nhọ vĩ nhân, anh hùng dân tộc, phủ nhận lịch sử, những thành quả
cách mạng thì việc xem xét sửa đổi Bộ luật hình sự nhằm hình sự hóa để kịp thời
trừng trị các hành vi trên và cũng bảo đảm cho các GTVHTT của dân tộc được
bảo vệ và giữ gìn, phát huy trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, hiện đại, giàu bản sắc dân tộc mà Đảng đã đề ra. Cụ thể, cần xác định tội
danh độc lập các hành vi trên trong Bộ luật Hình sự, không áp dụng chung vào tội
lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyển, lợi ích hợp
pháp của công dân như quy định của Bộ luật Hình sự hiện nay.
Bảy là, rà soát các quy định nhằm sửa đổi, bổ sung theo hướng tăng nặng các
chế tài đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ, trách nhiệm về giữ gìn, phát huy
GTVHTT; các hành vi xâm hại các giá trị văn hóa, đạo đức xã hội, thuần phong mỹ
tục, các giá trị phổ quát đã được xã hội thừa nhận như là quy tắc giá trị điều chỉnh hành
vi con người trong đời sống cộng đồng.
Tám là, hiện nay các hoạt động du lịch sinh thái, hoạt động về nguồn phát
triển rất mạnh, có thể kết hợp với du lịch văn hóa để vừa phát triển kinh tế vừa thực
hiện các nhiệm vụ giữ gìn, phát huy GTVHTT. Do đó, phải nghiên cứu hoàn thiện
các khung pháp lý tạo sự thông thoáng cho phát triển kinh tế với văn hóa. Cần chú
trọng hình thành khung pháp lý trong việc xây dựng và phát triển các làng văn hóa
truyền thống, tạo cơ sở pháp lý tốt nhất cho mô hình trên hoạt động có hiệu quả. Qua
đó kết hợp phát triển kinh tế du lịch với văn hóa, nhằm thúc đẩy các hoạt động kinh tế
du lịch góp phần giữ vững được các giá trị thuộc văn hóa truyền thống của dân tộc.
Việc xây dựng pháp luật trong lĩnh vực này phải dung hòa giữa “phép nước” và “
lệ làng” nhằm đảm bảo kỷ cương nhà nước được giữ vững, nhưng những thói quen đã tạo
nên gái trị tốt đẹp của nhân dân cũng không bị phá vỡ. Khi xây dựng pháp luật về giữ gìn,
phát huy GTVHTT và các giá trị của văn hóa dân tộc phải chú ý xây dựng nó trong mối
tương quan với các ngành luật khác như dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, giáo
dục… đồng nghĩa với việc phải hoàn thiện pháp luật về các lĩnh vực trên nhằm tránh các
quy định chồng chéo, mâu thuẫn. Việc xây dựng pháp luật cần chú trọng yếu tố kỹ thuật
pháp lý, đảm bảo tính cụ thể và mức độ khái quát hợp lý của các quy phạm nhằm làm cho
các quy định về giữ gìn, phát huy GTVHTT dễ hiểu, dễ áp dụng, rõ ràng, minh bạch,
không phải chờ đợi những văn bản có hiệu lực thấp hơn hướng dẫn, giải thích.
143
4.2.2.5. Kế thừa có chọn lọc các giá trị pháp lý truyền thống tốt đẹp trong xây
dựng và hoàn thiện pháp luật về giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
Trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần có sự kế thừa và phát triển các
giá trị pháp lý truyền thống của dân tộc trong việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng
về giữ gìn, phát huy GTVHTT. Các giá trị đó là một bộ phận không thể tách rời di sản
văn hóa dân tộc, đó là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng, là bộ phận cấu thành nên bản
sắc dân tộc, là cơ sở để sáng tạo văn hóa mới và giao lưu văn hóa. Vì vậy, việc kế thừa
có chọn lọc các giá trị văn hóa pháp lý truyền thống là một tiền đề hết sức quan trọng
trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm hiệu quả vai trò của pháp
luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT hiện nay. Trước hết đó là việc kế thừa kinh
nghiệm của cha ông về xây dựng pháp luật thông qua những di sản lập pháp trong lịch
sử, những bộ luật còn giữ nguyên vẹn cho đến nay như “Quốc triều hình luật” (Luật
Hồng Đức-1483), “Hoàng Việt luật lệ” (Luật Gia Long- 1812) cùng với những bộ luật
tục của các dân tộc khác trên đất nước Việt Nam như Luật tục Ê Đê, Luật tục H’mông,
Luật tục Giarai, Luật tục người Thái… đều có giá trị tham khảo, cho chúng ta những bài
học quí giá về việc áp dụng có sáng tạo pháp luật nước ngoài để phù hợp với hoàn cảnh
Việt Nam; về việc xen cài những yếu tố luật tục vào trong pháp luật; về những quy định
đảm bảo tính nhân đạo, nhân văn trong xử lý hành vi vi phạm; về việc áp dụng luật với
các lệ, chiếu chỉ, sắc dụ của người đứng đầu nhà nước. Đó không chỉ là một phương cách
chống lại xu thế hướng ngoại của pháp luật phong kiến trước đây mà còn làm gia tăng
tính nhân đạo và hiệu quả của pháp luật trong các thiết chế làng xã cổ truyền ở Việt Nam.
Mặt khác, những yếu tố văn hóa pháp lý truyền thống còn được thể hiện trong việc kế
thừa, vận dụng những nhân tố hợp lý, tích cực của hương ước, luật tục, tập quán, lối sống
để hỗ trợ cho pháp luật trong việc giữ gìn, phát huy GTVHTT hiện nay.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc và phong phú về văn hóa, người Việt Nam
vốn giàu lòng nhân ái, tương thân, tương trợ nhau trong cuộc sống và tôn trọng những
quy tắc xử sự chung của cộng đồng. Những phẩm chất quí giá đó sẽ là một bộ phận căn
bản hình thành văn hóa pháp lý của họ và được thể hiện đa dạng trong những quy
phạm xã hội như tập quán, hương ước, luật tục của từng dân tộc. Kế thừa và phát triển
các giá trị đó làm cho pháp luật hiện tại phù hợp với những chuẩn mực xã hội, với
phong tục, tập quán của các dân tộc, từ đó tạo điều kiện thuận lợi hơn cho cho việc giữ
gìn, phát huy GTVHTT hiện nay.
Phải thấy rằng văn hóa truyền thống được giữ gìn, phát huy các giá trị vốn có
của mình bằng pháp luật hiện nay không chỉ là sản phẩm của pháp luật trong cơ chế thị
144
trường mà còn là sự kế thừa và phát triển những quan điểm giá trị tốt đẹp, những thành
tựu trong cơ chế pháp luật trước kia. Đó là một dòng chảy liên tục, không bị gián đoạn
của việc giữ gìn và phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc bằng pháp luật qua
nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau theo hướng ngày càng cao hơn, tiến bộ hơn. Như
vậy, kế thừa và phát triển các quan điểm về GTVHTT của pháp luật trong quá khứ là
vấn đề có tính nguyên tắc nhằm tăng tính hiệu quả bảo đảm vai trò của pháp luật trong
giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay.
Vai trò giữ gìn, phát huy GTVHTT của pháp luật trong giai đoạn hiện nay chỉ có
thể đạt được hiệu quả cao khi trong hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật biết kế
thừa và phát triển những giá trị pháp lý của dân tộc trong quá khứ để đáp ứng những yêu
cầu của hiện tại. Theo đó, phải tiến hành kiểm kê lại, đánh giá lại các yếu tố pháp lý điều
chỉnh nền tảng tinh thần của xã hội truyền thống, nhằm loại bỏ các yếu tố không phù hợp
hoặc phản tiến bộ từ bên ngoài xâm nhập vào văn hóa nước ta. Việc kế thừa các giá trị
pháp lý truyền thống cần chú trọng đề cao ý thức tự phản tỉnh để nhận thức được những
sai lầm, ảo tưởng của những cái được coi là “giá trị”, đồng thời có ý thức tự phê phán
những cái xấu, cái bất cập trong nền văn hóa của dân tộc. Chẳng hạn, trước đây việc quá
đề cao giá trị đạo đức, tinh thần chung chung, coi thường các giá trị kinh tế, vật chất,
khoa học, công nghệ hoặc trong nền pháp lý truyền thống còn nhiều yếu tố bảo thủ, lạc
hậu khác như quá đề cao giá trị cộng đồng, không chú ý đến các giá trị cá nhân, tư tưởng
cục bộ, gia trưởng, chủ nghĩa kinh nghiệm, thiếu óc duy lý, thiếu tính thiết thực cần phải
loại bỏ. Ngoài ra, những bài học thất bại về sự lai căng, sao chép từ bên ngoài vào pháp
luật Việt Nam sẽ giúp chúng ta giảm thiểu những sai lầm trong các hoạt động xây dựng
và thực thi các chính sách, pháp luật về giữ gìn, phát huy GTVHTT.
4.2.3. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện và xử lý nghiêm minh vi phạm
pháp luật về văn hóa
4.2.3.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật về văn hóa, kết hợp với việc tuyền truyền, phổ biến các giá trị
văn hóa truyền thống nhằm nâng cao ý thức giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền
thống trong nhân dân
Thực hiện đường lối, chiến lược phát triển bền vững đất nước vì mục tiêu “
Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” Đảng và Nhà nước
ta đã xác định công tác thông tin, tuyên truyền giữ vai trò quan trọng. Theo đó,
thông tin phải đi trước một bước, thông tin phải bám sát các chủ trương, đường lối
của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước, thông tin, tuyên truyền phải sâu
145
rộng, thường xuyên và kịp thời trong đời sống xã hội nhằm nâng cao nhận thức,
trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển. Vì
vậy, phải có sự thống nhất giữa các cơ quan làm công tác thông tin, tuyên truyền,
giáo dục, vận động để đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Thực hiện có hiệu
quả những mục tiêu, những yêu cầu nhiệm vụ chính trị; thực hiện đúng chính sách
và pháp luật của nhà nước; tránh làm những việc sai trái, vi phạm chính sách, pháp
luật, ngăn chặn và loại bỏ những nội dung thông tin ngược chiều có tác động và ảnh
hưởng xấu đến tư tưởng, nhận thức trong đời sống xã hội của nhân dân. Bên cạnh
đó, cùng với việc khắc phục những hạn chế, tồn tại trong công tác thông tin, tuyên
truyền phải đổi mới việc chỉ đạo, quản lý nội dung, hình thức, biện pháp thông tin
tuyên truyền cho phù hợp và thiết thực với các đối tượng tiếp nhận thông tin ở từng
vùng, miền, nhất là vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng biên
giới, trọng điểm. Với mục tiêu từng bước nâng cao dân trí và đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ văn hóa của nhân dân trong tình hình mới, đối với công tác xây dựng và
phát triển nền văn hóa Việt Nam, việc giáo dục, tuyên truyền, phổ biến, thông tin
kịp thời mọi chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của nhà nước
đến mọi tầng lớp nhân dân là một nội dung quan trọng cần phải thực hiện.
Có thể nói mọi hoạt động của xã hội muốn thành công phải bắt đầu từ con
người và vì con người. Muốn giữ gìn, phát huy GTVHTT cần phải nâng cao ý thức
người dân để họ ý thức được trách nhiệm, vai trò quan trọng của chính họ trong sự
nghiệp này. Do đó, cần phải tiến hành công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng
cao nhận thức của nhân dân đối với GTVHTT trong đời sống xã hội, giúp cho
người dân thấy được sự cần thiết và tầm quan trọng của giá trị đó trong đời sống
cộng đồng cũng như trong quá trình phát triển.
Giáo dục pháp luật là nội dung quan trọng trong việc bảo đảm vai trò của
pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, vì “công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo
dục pháp luật là hoạt động có mục đích, tác động đến các chủ thể thông qua việc
cung cấp một lượng tri thức pháp lý cần thiết, nhằm nâng cao ý thức pháp luật, là cơ
sở hình thành hành vi hợp pháp của mỗi công dân” [115, tr.176]. Trước tiên, cần
đặc biệt chú trọng giáo dục về ý thức tôn trọng lẽ phải, cái đúng, cái tốt đẹp, tôn
trọng các giá trị đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục được cộng đồng thừa nhận
trong các trường học, ở các bậc học; cần nêu cao gương tốt trong xã hội như lối ứng
xử nhân hậu, nhân văn, tương trợ giúp đở nhau trong cuộc sống; những ràng buộc
pháp luật phù hợp với những ràng buộc về mặt đạo đức xã hội.
146
Cần phối hợp với cơ quan giáo dục về chương trình giáo dục các giá trị văn
hóa truyền thống ở các cấp học hiện nay, nhất là đối với các bậc học phổ thông; việc
giáo dục về ý thức giữ gìn các GTVHTT phải được cải tiến về nội dung và phương
pháp giảng dạy. Do đó, để đạt được mục tiêu trên, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
cần phải phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc đưa các nội dung giáo dục
GTVHTT vào trường học. Phải coi các GTVHTT của dân tộc như là một nội dung
của giáo dục- đào tạo. Tuy nhiên, bên cạnh việc giáo dục các GTVHTT cần phải
biết “gạn đục, khơi trong” để các thế hệ mai sao thấy được các giá trị đích thực của
văn hóa truyền thống trong việc xây dựng và phát triển đất nước trong lịch sử và
hiện tại. Đồng thời với thực hiện nhiệm vụ trên là kết hợp giáo dục con người về
các giá trị tích cực của cuộc sống hiện đại như tôn trọng pháp luật, kỷ cương, kỷ
luật, lao động cần cù nhưng biết sáng tạo, ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật
trong cuộc sống. Thực hiện được điều này sẽ có ý nghĩa giáo dục con người mới
trong tương lai văn minh, hiện đại, có kỷ luật, kỷ cương nhưng đồng thời cũng biết
yêu quí những giá trị tốt đẹp của dân tộc và có nhân cách tốt, có lối sống nhân văn,
nhân nghĩa. Như vậy sẽ có một lớp người có kỷ luật, kỷ cương, có ý thức cao trong
việc giữ gìn, phát huy các giá trị của văn hóa truyền thống nhưng đồng thời cũng
biết xây dựng, phát triển đất nước trên nền tảng các giá trị văn hóa đó.
Các Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tư pháp cần
phối hợp xây dựng chương trình giáo dục pháp luật ở các cấp học trình Chính phủ
ban hành thực hiện thống nhất trong phạm vi cả nước để đảm bảo các chủ trương,
đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước về giữ gìn, phát huy các
GTVHTT của dân tộc được đưa vào giảng dạy ở các cấp học. Cần ủng hộ các hình
thức sinh hoạt tự nguyện trong nhân dân để người dân hiểu rõ hơn vai trò của
GTVHTT trong tiến trình phát triển đất nước, qua đó giúp họ thấy được trách nhiệm
của mình trong đối với việc giữ gìn, phát huy các GTVHTT của dân tộc hiện nay.
Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật nhằm nâng
cao ý thức về giữ gìn, phát huy GTVHTT trong nhân dân. Việc tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục các chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước ta về
văn hóa cần tập trung vào các nội dung sau:
Thứ nhất, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu các quy định của pháp luật về giữ gìn,
phát huy GTVHTT.
Thứ hai, lồng ghép sinh hoạt giữa câu lạc bộ pháp luật với câu lạc bộ văn hóa
trong cộng đồng dân cư.
147
Thứ ba, xuất bản ấn phẩm pháp luật có liên quan đến văn hóa truyền thống.
Thứ tư, tóm tắt các quy định của pháp luật về việc giữ gìn, phát huy GTVHTT ở
các khu vực công cộng như một hình thức tuyên truyền, cổ động.
Thứ năm, đẩy mạnh thực hiện các chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật qua
từng giai đoạn được xác định, theo đó cần phải tiến hành các công việc quan trọng sau:
Một là, rà soát, phân công, thống nhất giao nhiệm vụ cho cơ quan, đơn vị, cán
bộ làm đầu mối tham mưu triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Hai là, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ người làm công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, bảo đảm có bản lĩnh chính trị vững
vàng, có năng lực chuyên môn sâu, am hiểu pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ tốt. Theo đó
cần: i) Quy hoạch, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ người làm công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật biết tiếng dân tộc thiểu số, ngoại ngữ, ưu tiên từ nguồn tại chỗ, người dân tộc
thiểu số để tạo nguồn bổ sung tại vùng miền núi, dân tộc thiểu số, vùng biên giới; ii) Có
chế độ, chính sách đãi ngộ hợp lý đối với những người tích cực tham gia phổ biến, giáo
dục pháp luật; iii) Chú trọng xây dựng đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên truyền
viên pháp luật đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng theo lĩnh vực, địa bàn, nhóm đối
tượng; iv) Thực hiện quản lý, sử dụng, điều phối hiệu quả đội ngũ này.
Ba là, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục
pháp luật các cấp và Ban Thư ký Hội đồng trong tư vấn, xác định mục tiêu, hoạt động
và điều phối nguồn lực. Tăng cường trách nhiệm của thành viên Hội đồng và cơ quan
thường trực Hội đồng trong tham mưu triển khai nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật
của Thủ trưởng bộ, ngành, đoàn thể, chính quyền địa phương. Phát huy vai trò nòng cốt
của ngành Tư pháp, người làm công tác pháp chế, công chức tư pháp - hộ tịch trong
tham mưu, điều phối, tổ chức các hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật.
Bốn là, định kỳ hàng năm tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ; cung cấp đủ
tài liệu, khai thác triệt để ưu thế của công nghệ thông tin, kỹ thuật số để nâng cao năng
lực, kỹ năng cho đội ngũ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; tăng cường phối
hợp với các tổ chức ở trong và ngoài nước thực hiện bồi dưỡng nguồn nhân lực thực
hiện công tác này.
Bên cạnh đó, cần phải đảm bảo và phát huy vai trò tích cực của các tổ chức xã
hội- nghề nghiệp, các Hội nghề nghiệp như Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, đặc biệt
là Hội Di sản văn hóa Việt Nam trong việc nâng cao nhận thức cho các hội viên và
đông đảo nhân dân về các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
nhà nước, nhất là các chủ trương, chính sách có liên quan các GTVHTT. Qua đó góp
148
phần làm cho xã hội nhận thức đúng, có thái độ ứng xử phù hợp với các giá trị quí báu
trong kho tàng văn hóa truyền thống của dân tộc hiện nay và có ý thức trách nhiệm hơn
đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam.
Cần kết hợp giữa tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật với việc
giáo dục, phổ biến các GTVHTT của dân tộc trong cộng đồng dân cư. Chú trọng các
sản phẩm văn hóa dân gian mang đậm tính truyền thống dân tộc như tinh thần đoàn kết,
tương thân tương ái, tôn trọng kỷ cương, phép nước, quy tắc cộng đồng, đó như là liều
thuốc tinh thần giúp cho người ta hăng hái tìm về các giá trị văn hóa mang đậm tính
nhân văn của dân tộc.
Các hoạt động về nguồn cũng cần phát huy, phải xem đó như một trong các
hoạt động chủ yếu nhằm phổ biến, tuyên truyền các GTVHTT trong cộng đồng dân cư
nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng khó khăn, dân trí thấp. Đặc biệt là đối với lực
lượng thanh niên, thiếu niên và nhi đồng, đây là lực lượng rất quan trọng trong tiến
trình phát triển đất nước. Phải nói rằng việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về kinh tế,
văn hóa, xã hội trong quá trình phát triển đất nước phụ thuộc rất lớn vào lực lượng
thanh niên, do đó thanh thiếu nhi cũng là một bộ phận quan trọng để thực hiện mục xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam mà Đảng đã đề ra.
Việc tổ chức sưu tầm, điều tra, chỉnh lý, chọn lọc, lưu giữ các GTVHTT là công
việc hàng đầu, công đoạn quan trọng hơn nữa là phát huy, sử dụng, truyền bá, phát
triển các giá trị đó đối với cuộc sống đương đại nhằm trả nó về cho công chúng ở các
thôn, làng, bản, ấp, tạo nên những môi trường hoạt động văn hóa, tiếp nhận và tái tạo
văn hóa truyền thống. Đó là công việc to lớn mà chúng ta cần phải đầu tư nhiều hơn
nữa, triển khai kiên trì và đồng bộ, tạo ra được nhiều mô hình mới, đồng thời là khâu
trung chuyển văn hóa truyền thống đến quần chúng. Có làm được như vậy mới có thể
sử dụng có hiệu quả cao với sức mạnh và tính ưu thế của văn hóa truyền thống trong
thời kỳ mới.
Có thể khẳng định trong tương lai, cùng với việc thực hiện các mục tiêu quốc
gia về nông nghiệp, nông thôn, trên đất nước sẽ xuất hiện những vùng nông thôn kiểu
mới, thay đổi sâu sắc, văn minh, hiện đại với sức sống mới. Ngay trong chiều sâu của
sự phát triển đó, những giá trị bền vững, tốt đẹp do văn hóa làng quê- cội rễ của văn
hóa truyền thống được tạo nên từ ngàn đời vẫn sẽ giữ nguyên vị trí của nó, với tư cách
là một thành tố hữu cơ tạo nên bản lĩnh, cốt cách, tâm hồn, phẩm giá của con người
Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
149
4.2.3.2. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện
pháp luật và xử lý nghiêm các vi phạm về trách nhiệm, nghĩa vụ giữ gìn, phát huy
giá trị văn hóa truyền thống
Thực hiện pháp luật là giai đoạn quan trong của cơ chế điều chỉnh pháp luật,
do đó trong từng thời kỳ cần có sự tổng kết rút kinh nghiệm để kịp thời thấy rõ những
thiếu sót, nhược điểm trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật, đồng thời đề ra
những phương hướng và giải pháp tăng cường hiệu lực của công tác tổ chức thực
hiện pháp luật. Tuy nhiên, để pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, bảo đảm mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật, cần phải thường xuyên tiến hành công tác giám
sát, kiểm tra, thanh tra các hoạt động của các cơ quan chức năng. Qua đó, phát hiện
những sai sót, lệch lạc để kịp thời uốn nắn, rút kinh nghiệm và xử lý những hành vi vi
phạm nếu có nhằm bảo đảm các cơ quan chức năng hoạt động nhịp nhàng theo đúng
nguyên tắc và yêu cầu của pháp luật đã đề ra.
Việc giám sát, kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm việc thực hiện pháp luật về
văn hóa là một trong những nội dung của việc bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ
gìn, phát huy GTVHTT mà cơ quan chức năng phải thực hiện nhằm bảo đảm một cách
có hiệu quả vai trò của pháp luật trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Qua công tác
giám sát, kiểm tra, thanh tra nếu phát hiện vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá
nhân, đặc biệt là những vi phạm của cán bộ, công chức, viên chức, các cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị- xã hội, các cơ quan làm công tác bảo vệ pháp luật phải
được xử lý nghiêm minh theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, dù
là công dân hay cán bộ, công chức ở bất cứ cương vị nào cũng phải sống và làm việc
theo pháp luật. Những hành vi xem thường pháp luật, xâm hại các giá trị quí báu của
văn hóa truyền thống đều bị xử lý nghiêm, vì đó là hệ giá trị thiêng liêng vô giá của dân
tộc, bất cứ mọi người đều có trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ.
Đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật đòi hỏi phải có phương pháp hoạt động
thích hợp, có hiệu quả để nhanh chóng phát hiện, làm sáng tỏ các vụ việc tiêu cực, vi
phạm việc bảo vệ các GTVHTT và áp dụng các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa phù
hợp, bảo đảm tính nghiêm minh, chính xác của pháp luật. Các chủ thể có thẩm quyền
xử lý cần tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc khi xử lý vi phạm. Những hành vi cố ý trực
tiếp xâm hại đến hệ giá trị văn hóa, chà đạp giá trị đạo đức xã hội mang tính phổ quát
cần phải trừng trị nghiêm khắc nhằm bảo đảm trật tự pháp luật cũng như bảo vệ hệ giá
trị văn hóa dân tộc, qua đó góp phần cũng cố niềm tin trong nhân dân đối với pháp luật.
150
Yêu cầu đối với pháp luật hiện nay là phải bảo đảm cho các GTVHTT được
giữ gìn, phát huy các giá trị vốn có nhằm góp phần bảo đảm cho sự phát triển ổn
định, bền vững của đất nước. Từ đó, vấn đề đặt ra là phải nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa nhằm đảm bảo cho
công tác tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật về văn hóa được hiệu quả hơn.
Đó là giải quyết tốt vấn đề trình độ, năng lực của con người trong trong bộ máy
quản lý nhà nước nhằm đáp ứng được những biến đổi của thời đại, những yêu cầu
về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam hiện nay. Để giải quyết tốt vấn đề
này, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải thực sự chủ động, tích cực, năng động,
sáng tạo, có khả năng thích ứng linh hoạt bảo đảm hoạt động có hiệu quả nhằm thực
hiện tốt chức trách được giao. Do đó, cần phải thay đổi về cơ chế vận hành và cơ
cấu tổ chức bộ máy nhằm đáp ứng các yêu cầu trên.
Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa
cần được xây dựng một cách khoa học, có đủ năng lực để thực hiện các chức năng và
trách nhiệm tạo dựng khung cảnh văn hóa- xã hội thuận lợi cho sự phát triển, đáp ứng
yêu cầu đưa văn hóa vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ đó, khai thác, huy động
cao nhất nhân tố con người, nhằm tạo chuyển biến vững chắc cho sự phát triển về lối
sống, đạo đức, các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian mang đậm tính dân tộc. Do đó,
cần phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy tính tích cực của văn hóa truyền
thống trong quản lý nhằm bảo đảm xây dựng nền tảng tinh thần lành mạnh cho xã hội.
Các cơ quan chức năng, đặc biệt là các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa
liên quan trực tiếp đến công tác giữ gìn, phát huy các GTVHTT cần nâng cao năng lực
phối hợp chuyên ngành, chủ động cùng các ngành hữu quan như du lịch, thương mại,
hải quan, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ… lập quy hoạch, kế hoạch cụ thể,
yêu cầu hỗ trợ khi cần thiết nhằm thực hiện nhiệm vụ giữ gìn, phát huy GTVHTT một
cách đồng bộ và hiệu quả nhất. Tiếp tục đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước về văn
hóa nhưng vẫn đảm bảo vai trò hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra của cấp trên, bảo đảm
nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý nhà nước về văn hóa. Phải xác định rõ thẩm
quyền của các chủ thể tham gia vào công tác quản lý nhà nước về văn hóa; phải phân
định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức cá nhân, của trung ương và địa phương.
Phải nâng cao vai trò của các đơn vị phổ biến, theo dõi việc thực hiện pháp luật ở cơ
quan văn hóa như Thanh Tra, Pháp Chế là cầu nối giữa công tác giữ gìn, phát huy
GTVHTT với việc bảo đảm vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước về văn hóa
hiện nay. Pháp luật có vai trò quyết định trong việc xác định, sưu tập các giá trị truyền
151
thống cần phải bảo vệ và giữ gìn, phát huy. Do đó, cần phải có cơ chế cụ thể bảo đảm
cho việc thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật về vấn đề này.
Là yếu tố quan trọng trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, đối với các chủ thể quản
lý nhà nước về văn hóa, kết quả của việc tổ chức thực hiện pháp luật là thước đo đánh giá
năng lực thực tiễn của các chủ thể quản lý. Vì vậy, một trong những yêu cầu đặt ra là
muốn bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT phải bảo đảm cho
các cơ quan, tổ chức áp dụng pháp luật hoạt động có hiệu quả. Do đó, phải xây dựng
những giải pháp nhằm tạo ra cơ chế phát hiện và xử lý nhanh chóng, kịp thời, nghiêm
minh và hiệu quả các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hóa - vốn rất đa
dạng và phức tạp được biểu hiện trên nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiệm vụ của các
cơ quan thực hiện chức năng bảo vệ pháp luật là rất khó khó khăn, phức tạp và kết quả
hoạt động của các cơ quan này sẽ có tác động trực tiếp đến việc củng cố và đảm bảo
vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT. Vì vậy, trong áp dụng xứ lý các
vi phạm phạm luật cần phải quán triệt và tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc xử lý để
bảo đảm hiệu quả trong công tác xử lý nhằm góp phần giữ gìn, phát huy được các
GTVHTT của dân tộc.
4.2.4. Nhóm giải pháp về tăng cường nguồn lực trong xây dựng và thực
hiện các mục tiêu văn hóa
4.2.4.1. Đẩy mạnh công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức làm công tác giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
Con người là chủ thể quan trong trong thực hiện các mục tiêu phát triển văn
hóa, quan điểm nhất quán của Đảng về con người trong xây dựng và phát triển nền văn
hóa là “phát huy tối đa nhân tố con người, con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và
là mục tiêu của phát triển, trong đó chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam
về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất” [19, tr.276]. Do vậy, cần phải hình
thành cơ chế phát hiện, sử dụng, đãi ngộ đối đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm
việc trong lĩnh vực văn hóa. Chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí
cán bộ lãnh đạo, quản lý, tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách, cán bộ làm công tác
nghiên cứu, các chuyên gia và cán bộ cơ sở. Trong công tác tuyển chọn cần thực hiện
nguyên tắc công khai, minh bạch, đa dạng hóa hình thức tuyển chọn, đẩy mạnh hình
thức thi tuyển cạnh tranh.
Trong công tác đào tạo nguồn nhân lực chú ý tạo ra chuyển biến mạnh mẽ
trong đào tạo theo hướng hiện đại và hội nhập. Sớm hoàn thiện cơ chế, chính sách
trọng dụng người tài đức, phát hiện, bồi dưỡng, đãi ngộ và tôn vinh những tài năng
152
văn hóa. Chú trọng đào tạo cán bộ pháp lý có trình độ, phẩm chất chính trị và khả
năng công tác để sắp xếp công việc phù hợp. Cần kết hợp giữa đào tạo, bồi dưỡng,
giáo dục pháp luật với việc giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị và lối sống cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên. Chú trọng việc nêu cao tính tiên phong, gương mẫu về việc
chấp hành pháp luật, tôn trọng các giá trị xã hội; về đạo đức, lối sống, nhân cách
trong cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức làm công tác văn hóa những tri thức pháp lý, những giá trị bền
vững của văn hóa dân tộc; nâng cao kỹ năng trong việc tiến hành thực hiện các
nhiệm vụ về bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa. Ngoài ra, phải xây dựng
và phát triển đội ngũ trí thức trong các dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích,
hỗ trợ khi họ trở về công tác tại địa phương. Phải có chính bồi dưỡng và tổ chức lực
lượng sáng tác, quảng bá, sưu tầm, thống kê, nghiên cứu văn hóa các dân tộc thiểu số.
Bên cạnh đó cần phải chú trọng đến việc kiện toàn các cơ quan làm công tác
pháp luật về văn hóa, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ ở các cơ quan này.
Cần xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc hoạt động, cải tiến các phương
pháp chỉ đạo và thực hiện. Đồng thời, phải tạo điều kiện vật chất cần thiết đảm bảo
cho hoạt động của các cơ quan đó, tiến tới hình thành một cơ quan chuyên nghiên
cứu xây dựng pháp luật về GTVHTT làm đầu mối giúp việc, tham mưu cho các cơ
quan chức năng quản lý cũng như ban hành pháp luật hiệu quả hơn.
Trong việc thực hiện các mục tiêu về xây dựng và phát triển văn hóa đang
đứng trước thách thức về sự thiếu hụt năng lực quản lý và năng lực chuyên môn
trong các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực văn hóa nói chung và lĩnh vực bảo
vệ và phát triển các GTVHTT của dân tộc nói riêng, nhất là cấp cơ sở. Do đó, một
mặt phải xúc tiến các hình thức đào tạo thường xuyên nhằm cập nhật và nâng cao
kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và kiến thức pháp luật của những người đang làm
công tác này, mặt khác phải chú trọng đầu tư vào đào tạo cán bộ có năng lực quản
lý và chuyên môn ở ngay các trường đại học chuyên ngành.
Phải chú trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đang làm
nhiệm vụ cũng như cán bộ nghiên cứu về văn hóa. Không ngừng củng cố lý luận
chính trị, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực quản lý cũng như tạo mọi điều kiện tốt
nhất phục vụ công tác nghiên cứu cho đội ngũ này thông qua các hình thức như tập
huấn, bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại, tham quan thực tế (kể cả đi thực tế ở nước
ngoài). Mặt khác, cũng cần phải tiến hành chương trình đào tạo bổ sung cho các đối
tượng thực hiện các hoạt động có liên quan đến các GTVHTT như các nhà hoạt
153
động xã hội, các hướng dẫn viên du lịch…về trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn, phát
huy GTVHTT của dân tộc. Bên cạnh đó phải tăng cường công tác xã hội hóa các
hoạt động văn hóa, trong đó có hoạt động liên quan đến giữ gìn, phát huy các
GTVHTT cần phải được khuyến khích phát triển. Hiện nay, Hội Di sản văn hóa
Việt Nam đã ra đời (ngày 26/6/2004) và đang hoạt động trong phạm vi toàn quốc.
Đây là một tổ chức xã hội- nghề nghiệp tập hợp các cá nhân là người Việt Nam hoạt
động nghề nghiệp có tâm huyết với văn hóa dân tộc, Hội có vai trò rất lớn trong
việc huy động nhân dân tham gia vào việc bảo tồn và giữ gìn, phát huy GTVHTT
của Việt Nam hiện nay.
4.2.4.2. Tăng cường bảo đảm nguồn lực tài chính Cần có nguồn lực về tài chính ổn định nhằm đầu tư cho phát triển văn hóa,
nâng mức chi ngân sách nhà nước về văn hóa ngang bằng với giáo dục, y tế và các
mức chi xã hội khác, qua đó đảm bảo phát triển cơ sở vật chất hiện đại phục vụ cho
các hoạt động lưu trữ, trưng bày, giới thiệu, quảng bá. Bên cạnh đó, cần xây dựng
các kế hoạch tài chính phù hợp để đầu tư xây dựng các chính sách, pháp luật về văn
hóa nhằm khuyến khích, huy động mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước tham
gia vào đầu tư cho bảo tồn và phát huy các GTVHTT. Đầu tư các nguồn lực tài
chính phù hợp để xây dựng và nâng cấp các cơ sở nghiên cứu đào tạo; xây dựng và
nâng cấp các thiết chế văn hóa ở cơ sở bảo đảm nâng cao hiệu quả hoạt động nhằm
thỏa mãn các nhu cầu tinh thần của nhân dân. Đặc biệt, phải chú ý phân bổ nguồn
tài chính phát triển các thiết chế văn hóa ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,
vùng đồng bào bào dân tộc thiểu số, vùng kháng chiến, căn cứ cách mạng.
Cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cần phải kết hợp với các cơ quan như
Thông tin- truyền thông, Tư pháp, Giáo dục và Đào tạo, Quốc phòng, Tài chính và
Kế hoạch, Phát thanh truyền hình, Báo chí….xây dựng kinh phí phù hợp nhằm triển
khai thực hiện lồng ghép các chương trình mục tiêu, đề án, dự án về phát triển văn
hóa dân tộc. Tăng cường đầu tư xây dựng, phát triển các thiết chế văn hóa, thông tin
cơ sở, trạm thu phát sóng, phát thanh truyền hình, điểm bưu điện văn hóa ở các
vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số. Đầu tư hỗ trợ ấn phẩm văn hóa thông tin
như sách báo, tạp chí, băng tiếng, băng hình… có nội dung phù hợp với nhiệm vụ
giữ gìn, phát huy GTVHTT. Ngoài ra, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp
với Bộ Tài chính dự trù kinh phí nhằm bảo đảm các nguồn lực tài chính đầy đủ cho
công tác hệ thống hóa pháp luật về văn hóa.
154
Tiểu kết chương 4
Giữ gìn, phát huy được các GTVHTT không chỉ là nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa mà còn là bảo đảm cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế, góp phần ổn định chính trị, bảo đảm sự mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế. Các quan điểm chỉ đạo nhằm bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT tập trung vào các vấn đề: Pháp luật phải thể chế hóa kịp thời và đầy đủ những quan điểm, chủ trương của Đảng về giữ gìn, phát huy GTVHTT; phải được thể hiện đồng bộ, hiệu quả giữa các khâu xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật; phải gắn việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về văn hóa; phải phù hợp với đường lối chính trị, điều kiện kinh tế, xã hội, với truyền thống dân tộc và phải xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc về kinh nghiệm của quốc tế; phải gắn với việc tạo lập tính thống nhất trong đa dạng của cộng đồng văn hóa các dân tộc Việt Nam.
Giải pháp chủ yếu cho việc bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT trong thời gian tới cần đặt trọng tâm vào các vấn đề như: Nhóm giải pháp về tăng cường sự lãnh đạo, quản lý, trong đó phải thực hiện các giải pháp là: (1) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đối với việc thực hiện các mục tiêu xây dựng nền văn hóa Việt Nam; (2) Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa. Nhóm giải pháp đẩy mạnh công tác xây dựng hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật bảo đảm cơ sở pháp lý vững chắc cho các chủ thể trong giữ gìn, phát huy GTVHTT, theo đó cần thực hiện các giải pháp: (1) Tăng cường công tác thể chế hóa nhằm bảo đảm kịp thời hiện thực hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về giữ gìn, phát huy GTVHTT và chuyển tải nội dung, bảo đảm hiệu quả điều ước quốc tế về văn hóa mà Việt Nam tham gia; (2) Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật; (3) Luật hóa các quy tắc đạo đức nghề nghiệp; (4) Xây dựng và hoàn thiện các quy định nhằm tạo ra tính đồng bộ, thống nhất và hiệu lực pháp lý của hệ thống văn bản pháp luật; (5) Kế thừa có chọn lọc các giá trị pháp lý truyền thống tốt đẹp trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giữ gìn, phát huy GTVHTT. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện và xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật về văn hóa, trong đó phải: (1) Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về văn hóa, kết hợp với việc tuyền truyền, phổ biến các GTVHTT nhằm nâng cao ý thức giữ gìn, phát huy GTVHTT trong nhân dân; (2) Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật và xử lý nghiêm các vi phạm về trách nhiệm, nghĩa vụ giữ gìn, phát huy GTVHTT. Nhóm giải pháp về tăng cường nguồn lực trong xây dựng và thực hiện các mục tiêu văn hóa, trong đó chú ý: (i) Đẩy mạnh công tác xây dựng và và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác giữ gìn, phát huy GTVHTT; (2) Tăng cường bảo đảm nguồn lực tài chính./.
155
KẾT LUẬN
Nghiên cứu, đánh giá vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở
Việt Nam là vấn đề phức tạp ở cả phương diện lý luận và thực tiễn- sự phức tạp thể
hiện ở ngay đối tượng nghiên cứu của luận án, đó là lĩnh vực tinh thần của đời sống xã
hội. Việc nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung của luận án nhằm thực hiện các mục
tiêu nhiệm vụ của đề tài luận án về cơ bản đã đạt được. Kết quả nghiên cứu trên các
phương diện lý luận và thực tiễn đời sống pháp lý ở nước ta đã được thể hiện ở các
chương 2, chương 3 và qua đó đã làm sáng tỏ các vấn đề sau:
Trong thời kỳ đổi mới đến nay nhận thức về văn hóa nói chung và văn hóa
truyền thống nói riêng đã có sự thay đổi rõ rệt, nhất là từ khi Nghị quyết Trung ương
lần thứ năm (khóa VIII) đề ra chiến lược “về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”. Từ đó, vấn đề giữ gìn, phát huy GTVHTT
cũng đã thu hút được sự quan tâm của xã hội. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối
với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay, vì có giữ được các GTVHTT và phát huy
các giá trị đó trong công cuộc kiến tạo xây dựng và phát triển đất nước thì đó sẽ là đóng
góp rất quan trọng cho chiến lược phát triển văn hóa mà Đảng đã đề ra trong thời kỳ
quá độ tiến lên xã hội chủ nghĩa của đất nước. Giữ gìn, phát huy được GTVHTT
không chỉ là nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng nền văn hóa mà còn là bảo đảm cho sự
phát triển bền vững của nền kinh tế, góp phần ổn định chính trị, bảo đảm sự mở rộng
giao lưu và hợp tác quốc tế.
Đây là một vấn đề lớn không thể giải quyết ngay được, mà đòi hỏi phải có
một quá trình với sự hỗ trợ của một hệ thống đồng bộ các phương tiện chính trị,
pháp luật, kinh tế, văn hóa, xã hội. Lẽ tất nhiên pháp luật luôn được coi là phương
tiện quan trọng và không thể thay thế nhờ vào các hình thức, phạm vi, các thuộc
tính của nó. Vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT được thể hiện
trong hoạt động xây dựng pháp luật với việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương
của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại, giàu
bản sắc dân tộc bằng việc xác lập được một hệ thống pháp luật đồng bộ và thống
nhất, bảo đảm hiệu quả thực thi trên phạm vi toàn xã hội. Từ đó GTVHTT được giữ
gìn và phát huy thông qua việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể và
thông qua ý thức pháp luật của nhân dân.
Thực trạng vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT trong thời gian
qua cho thấy bên cạnh những thành tựu còn không ít những bất cập, hạn chế. Điều đó
156
được thể hiện thông qua hệ thống pháp luật thực định khi chưa có những quy định đủ
mạnh và thật cụ thể để điều chỉnh vấn đề này; thông qua những hạn chế trong ý thức
pháp luật của các chủ thể có trách nhiệm giữ gìn, phát huy GTVHTT. Thực trạng đó bắt
nguồn từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Trên cơ sở những vấn
đề lý luận được xác lập và những nguyên nhân được rút ra từ việc đánh giá thực trạng vai
trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy GTVHTT ở Việt Nam hiện nay, luận án đề xuất
quan điểm chỉ đạo và giải pháp bảo đảm vai trò của pháp luật đối với vấn đề nói trên
trong thời gian tới. Các quan điểm chỉ đạo nhằm bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ
gìn, phát huy GTVHTT tập trung vào các vấn đề: Pháp luật phải thể chế hóa kịp thời và
đầy đủ những quan điểm, chủ trương của Đảng về giữ gìn, phát huy GTVHTT; phải
được thể hiện đồng bộ, hiệu quả giữa các khâu xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật;
phải gắn việc thực hiện các mục tiêu quốc gia về văn hóa; phải phù hợp với đường lối
chính trị, điều kiện kinh tế, xã hội, với truyền thống dân tộc và phải xuất phát từ thực tiễn
Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc về kinh nghiệm của quốc tế; phải gắn với việc tạo lập tính
thống nhất trong đa dạng của cộng đồng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở quan
điểm chỉ đạo thì giải pháp chủ yếu cho việc bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn,
phát huy GTVHTT trong thời gian tới cần đặt trọng tâm vào các 4 vấn đề như: tăng
cường sự lãnh đạo, quản lý; đẩy mạnh công tác xây dựng hoàn thiện cơ chế, chính sách,
pháp luật bảo đảm cơ sở pháp lý vững chắc cho các chủ thể trong giữ gìn, phát huy
GTVHTT; về tổ chức thực hiện và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật
về văn hóa; về tăng cường nguồn lực trong xây dựng và thực hiện các mục tiêu văn hóa.
Huy động các yếu tố truyền thống để phát triển xã hội nhưng không đồng
nhất với bảo thủ trì trệ. Do đó, mọi hệ chính sách và chiến lược phát triển văn hóa
phải bù đắp và chọn lọc các yếu tố của truyền thống. Các chính sách về xây dựng và
phát triển các yếu tố văn hóa từ trong lòng sâu của xã hội phải thiết lập được sự đổi
mới. Giữ gìn, phát huy GTVHTT bằng cách kế thừa, tiếp thu có chọn lọc hệ giá trị
truyền thống của dân tộc, của nhân loại và xây dựng một hệ giá trị mới trên nền
tảng truyền thống, đó là mục tiêu của các chính sách và chiến lược văn hóa. Với
những gì làm được, luận án hy vọng đóng góp vào việc giải quyết những đòi hỏi cấp
thiết về lý luận và thực tiễn nhằm bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy
GTVHTT ở Việt Nam hiện nay./.
157
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Hồ Thanh Hớn (2015), "Các yếu tố bảo đảm vai trò của pháp luật trong giữ gìn,
phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở Việt Nam", Tạp chí Giáo dục
lý luận, (236).
2. Hồ Thanh Hớn (2018), "Vai trò của pháp luật trong giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa
truyền thống", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (7) [359].
3. Hồ Thanh Hớn (2018), "Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về giữ
gìn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật
hiện nay", Tạp chí Thông tin Khoa học chính trị, (02) [11].
4. Hồ Thanh Hớn (2018), "Tiếp tục tạo lập cơ sở pháp lý bảo đảm giữ gìn, phát huy giá
trị văn hóa truyền thống trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật hiện nay", Tạp
chí Thông tin Khoa học chính trị, (3) [12].
158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Tài liệu tiếng Việt
1. Đào Duy Anh (2006), Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
2. Hải Anh (2013), "Hàn Quốc: các chính sách văn hóa ưu tiên phục hưng và hạnh
phúc", Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (4).
3. Vũ Hải Anh (2017), Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người theo pháp
luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội,
Hà Nội.
4. Võ Mai Anh (2006), Vai trò của pháp luật trong quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
bảo vệ rừng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
5. Augustus B. Ajibola (2013), "Khi cái vô hình gặp cái hữu hình: 10 năm thực hiện
việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể: kinh nghiệm, bài học của
Nigeria và định hướng toàn cầu trong tương lai", Bài tham luận tại Hội Thảo
quốc tế “10 năm thực hiện Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của
UNESCO- Bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai”, Viện Văn hóa nghệ
thuật quốc gia Việt Nam tổ chức tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
6. Đặng Văn Bài, 10 năm thực hiện công ước UNESCO 2003 ở Việt Nam: Thành tự
và những vấn đề đặt ra từ thực tiễn, tại trang http://quydisan.org.vn [truy cập
ngày 17/4/2017].
7. Ban Chỉ đạo Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 48-NQ/TW (2015), Báo cáo
tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
8. Hoàng Chí Bảo (2006), Văn hóa và con người Việt Nam trong tiên trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
9. Trần Lê Bảo (2016), "Sức mạnh mềm của văn hóa Trung Quốc và văn hóa Việt
Nam", Tạp chí Văn hóa học, (4).
10. Nguyễn Trần Bạt (2011), Văn hóa và con người, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
159
11. Nguyễn Duy Bắc (Chủ biên) (2008), Sự biến đổi các giá trị văn hóa trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Từ điển bách
khoa & Viện Văn hóa, Hà Nội.
12. Đỗ Văn Bích (1996), Đổi mới, hoàn thiện pháp luật trong phòng chống văn hóa độc hại và tệ nạn xã hội ở nước ta hiện nay, Luận án phó tiến sĩ khoa học Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
13. Trần Văn Bính (2004), Văn hóa các dân tộc Tây Nam Bộ thực trạng và những
vấn đề đặt ra, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Trần Văn Bính (Chủ biên) (2006), Đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
15. Trương Quốc Bình (2013), "Vận dụng những quan điểm của UNESCO vào việc hoạch định chính sách và hệ thống pháp lý về bảo tồn di sản văn hóa phi vật
thể ở Việt Nam", Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: 10 năm thực hiện Công ước Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai, Viện văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
16. Bộ Ngoại Giao (2015), Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con
người ở Việt Nam, tại trang http://www.mofahcm.gov.vn [truy cập ngày 29/8/2018].
17. Bộ Văn hóa - Thông tin (2005), Báo cáo tổng kết chương trình mục tiêu quốc gia
về văn hóa giai đoạn 2001- 2005, kế hoạch năm 2006 và định hướng triển
khai xây dựng và thực hiện chương trình giai đoạn 2006-2010, Hà Nội.
18. Bộ Văn hóa - Thông tin (2007), Đề án hỗ trợ phát triển văn hóa 16 dân tộc thiểu
số có số dân dưới 5 ngàn người giai đoạn 2007- 2010, Hà Nội.
19. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính
trị quốc gia Hồ Chí Minh, Báo Nhân dân, Hội đồng Lý luận Trung ương
(2015), Hội thảo khoa học quốc gia- Những giải pháp tổ chức triển khai
Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt
Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Hà Nội.
20. Bộ Văn hóa, Thể thao Và Du lịch (2017), Đề án Hoàn thiện hệ thống pháp luật về
văn hóa, gia đình đến năm 2021, định hướng đến 2026, Hà Nội.
21. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du Lịch (2018), Báo cáo về Bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững, Tại Hội nghị Bảo vệ và
phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững, vào ngày
27/7/2018 tại Hà Nội.
22. C.Mác (1971), Sự khốn cùng của triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội.
160
23. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. C.Mác, Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Sự thật,
Hà Nội.
25. Phan Văn Các (1996), "Hồ Chí Minh với văn hóa truyền thống và tiếp xúc văn
hóa Đông - Tây", Tạp chí Cộng sản, (13).
26. Khang Đức Chiêu (1996), Cải cách thể chế văn hoá, tập 1, 2, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà nội.
27. Lê Đình Chỉnh (2016), "Quyền lực mềm của văn hóa Hàn Quốc ở Việt Nam và
ảnh hưởng của nó", Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (3).
28. Cù Huy Chử (1995), Kế thừa giá trị truyền thống văn hóa dân tộc trong việc xây
dựng nền văn hóa nghệ thuật Việt Nam hiện nay, Luận án phó tiến sĩ khoa
học Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
29. Nguyễn Trọng Chuẩn (1998), "Vấn đề khai thác các giá trị truyền thông vì mục
tiêu phát triển", Tạp chí Triết học, (2).
30. Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ Sĩ Quý (Chủ biên) (2000), Tìm hiểu
giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên (Đồng chủ biên) (2002), Giá trị truyền
thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Viện Triết học thuộc Trung
tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Nguyễn Trọng Chuẩn (2004), "Hội nhập quốc tế: Cơ hội và thách thức đối với giá trị
truyền thông trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay", Tạp chí Triết học, (8).
33. Lý Xuân Chung (2013), "Những chính sách của hàn Quốc làm gia tăng quyền lực
mềm", Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (10).
34. Phạm Hồng Chương, Nguyễn Đình Lê (1999), "Nhân tố truyền thống trong văn
hóa Việt Nam", Tạp chí Thông tin lý luận, (11).
35. Vũ Hoàng Công (1989), "Đạo đức xã hội và vai trò của pháp luật", Tạp chí
Nghiên cứu lý luận, (3).
36. Dawnhee Yim (2013), "Đánh giá về Công ước 2003 ở Hàn Quốc", Hội Thảo quốc
tế “10 năm thực hiện Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của
UNESCO- Bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai”, Viện Văn hóa nghệ
thuật quốc gia Việt Nam tổ chức tại thành phố Hội An, tỉnh Quãng Nam.
161
37. Nguyễn Văn Dân (2006), Văn hóa và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
38. Nguyễn Văn Dân (2009), Con người và văn hoá Việt Nam trong thời kì đôi mới
và hội nhập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Trần Thị Diên (2005), Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với việc bảo vệ, phát
huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh ở Việt Nam hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật-
Trường Đại học luật thành phố Hồ Chí Minh.
40. Trương Minh Dục, Lê Văn Định (Đồng chủ biên) (2010), Văn hóa và lối sông đô
thị Việt Nam - một cách tiếp cận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
41. Đinh Xuân Dũng (2004), Mấy cảm nhận về văn hóa, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
42. Phạm Vũ Dũng (2004), "Hai chiều của hoạt động văn hóa ở cơ sở", Tạp chí Cộng
sản, (22).
43. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hóa đến văn hóa học, Viện Văn hóa và Nhà
xuất bản văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
44. Thành Duy (2006), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam mấy vấn
đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
46. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.
47. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
48. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5- Ban chấp hành
Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
51. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ10- Ban chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
162
52. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận- thực
tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới về văn hóa,
xã hội, khoa học - kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội..
54. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020, Hà Nội.
55. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4- Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Văn kiện Hội nghị toàn quốc lần thứ chín, Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 57 (1998), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
60. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội.
61. Nguyễn Khoa Điềm (2004), "Tiếp tục thực hiện thắng lợi nghị quyết Trung ương
5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc", Tạp chí Cộng sản, (16).
62. Nguyễn Minh Đoan (2009), Vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội, sách
chuyên khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Lê Quý Đức (2001), Tư tưởng nhân văn trong sự nghiệp xây dựng nền văn hóa
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Lê Quý Đức (2005), “Góp phần nhận thức luận điểm Văn hóa là nền tảng tinh
thần của xã hội”, Thông tin Văn hóa và phát triển, (3)
65. Trần Ngọc Đường (1999), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
163
66. Elady Quiroz (2013), "Suy ngẫm về việc thực hiện Công ước bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể ở Mexico: 10 năm trải nghiệm và thử thách", Hội Thảo quốc tế “10
năm thực hiện Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO- Bài
học kinh nghiệm và định hướng tương lai”, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia
Việt Nam tổ chức tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
67. Fons Trompenaars, Charles Hampden - Tumer (2006), Chinh phục các làn sóng
văn hoá, Nxb Tri thức, Hà Nội.
68. Chu Xuân Giao (2017), "Chuyển đổi tư duy đối với di sản văn hóa biển trong
chính sách văn hóa ở Nhật Bản hiện nay", Tạp chí Di sản văn hóa, (4).
69. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Trần Văn Giàu (1993), sách Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh (tái bản).
71. Nguyễn Hồng Hà (2005), “Vấn đề then chốt của văn hóa thời kỳ đổi mới”, Tạp
chí Văn hóa nghệ thuật, (4).
72. Nguyễn Hồng Hà (2005), Môi trường văn hoá với việc xây dựng lối sống và con
người Việt Nam, Viện Văn hoá và Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
73. Nguyễn Thị Thu Hà (2017), "Chính sách bảo tồn và phát huy Di sản văn hóa phi
vật thể của Nhật Bản", Tạp chí Di sản văn hóa, (1).
74. Phạm Thanh Hà (2012), Giữ gìn bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh toàn
cầu hóa hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. Phạm Minh Hạc, Nguyễn Khoa Điềm (Chủ biên), (2003), Về phát triển văn hóa
và xây dựng con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
76. Cao Thu Hằng (2011), Kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống trong xây dựng
nhân cách con người Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện
khoa học xã hội
77. Vũ Thị Phương Hậu (2015), "Chính sách kinh tế trong văn hóa thời kỳ đổi mới",
Tạp chí Lý luận chính trị, (1).
78. Hoàng Ngọc Hiến (2007), Văn hóa và Văn minh - Văn hóa chân lí và văn hóa
dịch lí, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
79. Nguyễn Thị Hiền (2017), Quản lý nhà nước và vai trò của cộng đồng trong bảo
vệ và phát huy giá trị văn hóa phi vật thể, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
164
80. Dương Phú Hiệp (2009), "Vài nét về chính sách ngoại giao văn hóa của Nhật
Bản", Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, (7).
81. Dương Phú Hiệp (2010), "Quan niệm về bảo tồn và phát huy hệ giá trị văn hóa
truyền thống Việt Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại", Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống Việt
Nam trong quá trình hội nhập, Hà Nội.
82. Dương Phú Hiệp (Chủ biên) (2010), Một số khía cạnh lý luận và phương pháp
nghiên cứu văn hóa và con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
83. Dương Phú Hiệp (Chủ biên) (2010), Tác động của toàn cầu hóa đôi với sự phát
triển con người ViệtNam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Dương Phú Hiệp (Chủ biên) (2010), Nghiên cứu văn hóa và con người Việt Nam
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.
85. Đinh Diệp Hoa (1994), "Lệ làng và ảnh hưởng của nó đối với pháp luật hiện đại",
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, (1).
86. Bùi Thi Hòa (2013), Phát triển bền vững với việc giữ gìn giá trị truyền thống các
dân tộc thiểu số bản địa tỉnh Đăk Nông trong giai đoạn hiện nay, Luận án
tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội..
87. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình lý luận văn hóa và
đường lối văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam - hệ cử nhân, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội.
88. Nguyễn Xuân Hồng (2013), “Những giải pháp nâng cao chất lượng xây dựng đời
sống văn hóa ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay” Hội thảo khoa học Thực
trạng và giải pháp xây dựng nền văn hóa Việt Nam trong thời kỳ mới, Bộ
Văn hóa thể thao và du lịch, Hà Nội.
89. Đỗ Huy, Chu Khắc (1993), Nhân cách và văn hóa trong bảng giá trị Việt Nam,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,
90. Đỗ Huy (2007), "Mấy suy nghĩ về phạm vi điều chỉnh chính sách phát triển văn
hóa ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết học, (4).
91. Đỗ Huy (2008), Lối sống dân tộc - hiện đại, mấy vấn đề lí luận và thực tiễn, Viện
Văn hoá và Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
92. Đỗ Huy (2015), Các giá trị văn hóa Việt Nam- Từ truyền thống đến hiện đại, Nxb
Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
165
93. Trịnh Duy Huy (2009), Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
94. Nguyễn Văn Huyên (1995), "Một số chuẩn mực giá trị vượt trội khi nước ta
chuyển sang nền kinh tế thị trường", Tạp chí Triết học, (1).
95. Nguyễn Văn Huyên (1998), “Giá trị truyền thông - nhân lõi và sức sống bên trong
của sự phát triển đất nước, dân tộc”, Tạp chí Triết học, (4).
96. Nguyễn Văn Huyên, (2002), Mấy vấn đề triết học về xã hội và phát triển con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Nguyễn Văn Huyên (2006), Văn hóa mục tiêu và động lực của sự phát triển, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
98. Hoàng Thị Hương (2012), Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc nước ta hiện
nay; Luận án tiến sĩ Triết học.
99. Lê Thi Thanh Hương (Chủ biên) (2010), Nhân cách, văn hóa tri thức Việt Nam
trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
100. Nguyễn Thị Thu Hường (2013), Vai trò của pháp luật trong việc xây dựng đạo
đức cho cán bộ lãnh đạo chính trị ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
101. Dương Thị Hưởng, Đỗ Đình Hằng và Đậu Tuấn Nam (Đồng chủ biên) (2010),
Một số vấn đề về văn hóa - xã hội các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên hiện
nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
102. Nguyễn Văn Hy và các cộng sự (1998), Quản lý hoạt động văn hóa, Nxb Văn hóa
- Thông tin, Hà Nội.
103. Jean- Jeaques Rousseau (2004), Bàn về khế ước xã hội, Hoàng Thanh Đạm dịch,
Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
104. Lương Văn Kế (2010), Văn hóa châu Âu - lịch sử, thành tựu, hệ giá trị, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
105. Nguyễn Văn Khánh (Chủ biên) (2010), Xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt
Nam phục vụ sự nghiệp chấn hưng đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
106. Phan Đình Khánh (2001), Tăng cường đấu tranh phòng, chống tệ nạn xã hội
bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiễn sĩ Luật học, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
166
107. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2011), Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương
trong tố tụng hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
108. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Giới thiệu Công ước quốc tế về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
109. Đặng Xuân Kỳ (Chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa
và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
110. Lã Duy Lan (2007), Bản sắc văn hóa người Việt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
111. Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang (Chủ biên) (1996), Các giá trị truyền thống và con
người Việt Nam hiện nay, Chương trình Khoa học công nghệ cấp Nhà nước
KX.07, đề tài KX.07-02, tập II, Hà Nội.
112. Phan Huy Lê, Truyền thống dân tộc trong công cuộc đổi mới và hiện đại hóa đất
nước Việt Nam, Đề tài cấp Nhà nước, mã số KX 07/02.
113. Lê Văn Liêm (2010), Kế thừa và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc
Gia- Rai ở tỉnh Gia Lai trong môi trường văn hóa đương đại, Luận án tiến sĩ
văn hóa học, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội.
114. Từ Thị Loan (2013), "Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể
đại diện của nhân loại tại Việt Nam", Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: 10
năm thực hiện Công ước Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO -
Bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc
gia Việt Nam, Hà Nội.
115. Võ Hải Long (2010), Vai trò của pháp luật đối với sự phát triển bền vững ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật, Đại học luật Hà Nội, Hà Nội.
116. Nguyễn Đức Lữ (2005), Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội.
117. Nguyễn Văn Luật (2000), "Pháp luật nước ta trước nhu cầu hội nhập và hợp tác
kinh tế quốc tế", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (6).
118. Nguyễn Đình Đặng Lục (2005), Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành
nhân cách, sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
119. Nguyễn Đình Đặng Lục (2013), Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành
nhân cách, sách chuyên khảo, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
120. Trường Lưu (2003), Toàn cầu hóa và vấn đề bảo tồn văn hóa dân tộc, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
167
121. Lê Thị Minh Lý (2013), "Đưa di sản văn hóa phi vật thể vào chương trình giáo
dục trong nhà trường", Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: 10 năm thực hiện
Công ước Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh
nghiệm và định hướng tương lai, Viện văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt
Nam, Hà Nội.
122. Đinh Xuân Mậu, Phạm Hồng Thái (2005), Luật hành chính Việt Nam, Nxb Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
123. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
124. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
125. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
126. Trần Thị Minh (2014), Phát triển văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của
xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
127. Montesquieu (2004), Bàn về tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội.
128. Lê Đinh Mùi (1997), vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm thực hiện quyền
con người, quyền công dân ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
129. Trần Chí Mỹ (2002), Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần ở thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
130. Ngô Thị Thu Ngà (2011), Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng đạo đức
mới cho thế hệ trẻ Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
131. Phạm Quang Nghị (2002), "Để văn hóa thực sự là động lực, mục tiêu của sự phát
triển", Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, (2).
132. Phạm Quang Nghị (2003), "Tiếp tục bồi đắp cho văn hóa Việt Nam thêm giàu
đẹp", Tạp chí Cộng sản, (7).
133. Phan Ngọc (2004), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
134. Phan Ngọc (2006), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NxbVăn học, Hà Nội.
135. Nguyễn Văn Nhật (Chủ biên) (2010), Xây dựng và phát triển đời sống văn hóa
của giai cấp công nhân Việt Nam - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
136. Hạ Thị Lan Phi (2011), "Chính sách phát triển công nghiệp văn hóa của Nhật Bản
trong thập niên đầu thế kỷ XXI", Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (3).
168
137. Nguyễn Văn Phúc (2007), "Về tính qui luật của sự hình thành hệ giá trị và chuẩn
mực đạo đức mới", Tạp chí Triết học, (3).
138. Nguyễn Thị Thu Phương (2014), "Nhận diện giới hạn sức mạnh mềm văn hóa
Trung Quốc thông qua phản ứng dư luận tại một số nước Đông Á trong
những năm gần đây", Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, (11).
139. Lê Thị Hoài Phương (Chủ biên) (2009), Hợp tác quốc tế về văn hoá trong thời kỳ
đổi mới ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
140. Huỳnh Thanh Quang (2010), Phát huy giá trị văn hóa khmer vùng đồng bằng
sông Cửu Long góp phần củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn
hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
141. Hoàng Thị Kim Quế (2004), “Về mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật”, Tạp
chí Luật học, (5).
142. Hoàng Thị Kim Quế (2015), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
143. Hoàng Thị Kim Quế, Ngô Huy Cương (Đồng chủ biên) (2015), Văn hóa pháp
luật - Những vấn đề lý luận cơ bản và ứng dụng chuyên ngành, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
144. Hồ Sĩ Quý (2010), "Văn hóa và văn minh, giá trị và con người - Những khái niệm
công cụ chủ yếu trong nghiên cứu khoa học xã hội", Tạp chí Thông tin khoa
học xã hội.
145. Mai Thị Quý (2006), Toàn cầu hóa và vấn đề kế thừa một số giá trị truyền thống
của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học,
Viện Triết học.
146. Roger L. Janelli (2013), "Sự kết nối những phạm trù vật thể và phi vật thể trong di
sản văn hóa", Bài tham luận tại Hội Thảo quốc tế “10 năm thực hiện Công
ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm
và định hướng tương lai”, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam tổ
chức tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
147. Sanwin (2013), "Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể và vấn đề quản lý ở Miến
Điện", Bài tham luận tại Hội Thảo quốc tế “10 năm thực hiện Công ước bảo
vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO- Bài học kinh nghiệm và định
hướng tương lai”, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam tổ chức tại
thành phố Hội An, tỉnh Quãng Nam.
169
148. Đặng Đình Tân (2006), Thể chế Đảng cầm quyền một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
149. Tập thể tác giả (1983), Giá trị văn hoá tinh thần Việt Nam 2 tập, Nxb Thông tin -
lý luận, Hà Nội.
150. Tập thể tác giả (2004), Bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống của người Thái
vùng núi bắc trung bộ hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
151. Tập thể tác giả (2005), Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng
1986-2005, Tập II, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.
152. Phạm Việt Thái, Đào Ngọc Tuấn (2004), Đại cương về văn hóa Việt Nam, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
153. Phạm Hồng Thái (2012), "Sức mạnh mềm của văn hóa Trung Quốc hiện nay",
Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á, (7).
154. Phạm Hồng Thái (2014), Pháp luật về công vụ và đạo đức công vụ, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
155. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Thu Phương (2015), "Các kênh tác động của sức
mạnh mềm văn hóa Trung Quốc ở một số nước Đông Á", Tạp chí Khoa học
xã hội Việt Nam, (8).
156. Nguyễn Kim Thái (2005), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với
hoạt động bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học,
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
157. Văn Đức Thanh (2004), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
158. Võ Văn Thắng (2006), Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống dân
tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
159. Lê Cao Thắng (2014) Hoạt động giáo dục giá trị văn hóa truyền thống cho sinh viên
hiện nay, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam.
160. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
161. Trần Ngọc Thêm (2010), "Giá trị và sự chuyển đổi giá trị văn hóa truyền thống
Việt Nam", Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá
truyền thống Việt Nam trong quá trình hội nhập, Thành phố Hồ Chí Minh.
170
162. Trần Ngọc Thêm (Chủ biên) (2015), Một số vấn đề về hệ giá trị Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, Nxb Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
163. Trần Ngọc Thêm (2016), Hệ giá trị Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại và con
đường tới tương lai, Nxb Văn hóa - Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh,
Thành phố Hồ Chí Minh..
164. Trần Ngọc Thêm, Khái luận về văn hóa, tại trang http://www.vanhoahoc.vn, [truy
cập ngày 11/4/2017].
165. Lê Quang Thiêm (1998), Văn hóa với sự phát triển của xã hội Việt Nam theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
166. Nguyễn Quang Thiện (1996), Vai trò của pháp luật trong cuộc đấu tranh chống
lợi dụng nhân quyền bảo vệ an ninh quốc gia ở nước ta hiện nay, Luận án
phó tiến sĩ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
167. Đỗ Kim Thịnh (2004), "Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở trong giai đoạn hiện
nay", Tạp chí Cộng sản, (15).
168. Đỗ Ngọc Thịnh (2000), vai trò của pháp luật trong quá trình chuyển đổi nền kinh
tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, Luận án tiến
sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
169. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2010), Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
170. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2010), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
171. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2014), Những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
172. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (2014), Giá trị văn hóa Việt Nam truyền thống và biến
đổi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
173. Nguyễn Đăng Thục (1959), Triết lý văn hóa khái luận, Nxb Văn hữu Á Châu,
Sài Gòn.
174. Nguyễn Hữu Thức (2005), Về văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
175. Đỗ Thị Minh Thúy (2003), 60 đề cương văn hóa với văn hóa và phát triển ở Việt
Nam hiện nay, Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
171
176. Đỗ Thị Minh Thúy (2004), Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc thành tựu và kinh nghiệm, Viện Văn hóa và NxbVăn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
177. Trần Thị Thủy (2013), "Cân bằng giữa vai trò cộng đồng và vai trò Nhà nước
trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể", Kỷ yếu hội thảo
khoa học quốc tế: 10 năm thực hiện Công ước Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật
thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai, Viện văn
hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
178. Lê Thế Tiệm (2001), Tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật về trật tự an
toàn xã hội trong hoạt động của lực lượng cảnh sát nhân dân ở nước ta hiện
nay, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
179. Lưu Trần Tiêu (2013), "Di sản văn hóa phi vật thể- bảo tồn và phát huy, kế thừa
và phát triển", Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế: 10 năm thực hiện Công ước
Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO - Bài học kinh nghiệm và
định hướng tương lai, Viện văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
180. Nguyễn Văn Tình (2009), Chính sách văn hóa trên thế giới và việc hoàn thiện
chính sách văn hóa ở Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
181. Đặng Hữu Toàn (2000), “Gắn phát triển con người Việt Nam hiện đại với giữ gìn
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc”, Tạp chí Triết học, (4).
182. Tokumaru Yosihiko (2013), "Sự không nhất quán giữa giáo dục âm nhạc và di
sản văn hóa phi vật thể", Bài tham luận tại Hội Thảo quốc tế “10 năm thực
hiện Công ước bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO- Bài học kinh
nghiệm và định hướng tương lai”, Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt
Nam tổ chức tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
183. Hồ Minh Trí (2001), Bản sắc văn hóa dân tộc trong phim truyện điện ảnh Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ Khoa học văn hóa.
184. Trung tâm Từ điển học (2010), Từ điển Tiếng Việt, in lần 3, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
185. Trường Đại học luật Hà Nội (2006), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
186. Trường Đại học luật Hà Nội (2006), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
187. Trường Đại học luật Hà Nội (2010), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
172
188. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
189. Vũ Anh Tuấn (2001), Vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
190. Hồ Văn Tường (2013), Di sản văn hóa người Việt ở thành phố Hồ Chí Minh và vấn đề bảo tồn, phát huy trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án tiến sĩ Văn hóa học, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Hà Nội. 191. Nguyễn Đình Tường (2006), “Giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống ở Việt Nam trước tác động của toàn cầu hóa”, Tạp chí Triết học, (5). 192. Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
193. Đào Trí Úc (1994), Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Đề tài Nhà nước
KX 07/KX07-17.
194. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mat-xcơ-va. 195. V.I. Lênin (1976) Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ Matx-cơ- va. 196. Viện Nghiên cứu nhà nước và pháp luật (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về
nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
197. Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt phổ thông, Nxb Phương Đông,
Hà Nội.
198. Viện Văn hóa (1987), Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng cộng sản Việt Nam. 199. Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam (2014), "10 năm thực hiện Công ước Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO: Bài học kinh nghiệm và định hướng tương lai", Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
200. Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
201. Võ Khánh Vinh (2004), “Về tính ổn định của luật trong nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (8).
202. Võ Khánh Vinh (2004), “Xây dựng hệ thống pháp luật có hệ thống, đồng bộ”,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (10).
203. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (2013), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
204. Nguyễn Thị Thùy Yên (2013), "Ngoại giao văn hóa Trung Quốc", Tạp chí Văn
hóa nghệ thuật, (354).
173
* Tài liệu tiếng Anh
205. Arizpe, Lourdes (2013), Anthropological Perspectives on Intangible Cultural
Heritage, Universidad Nacional Autonoma, Cristina Amescua.
206. Blake, Janet (2006), Commentary on the 2003 UNESCO Convention on the
Safeguarding of the Intangible Cultural Heritage, Institute of Art and Law.
207. Blake, Janet (2006), Safeguarding Intangible Cultural Heritage- Challenges and
Approaches, Institute of Art and Law.
208. Boswell, Rosabelle (2008), Challenges to Identifying and Managing Intangible
Cultural Heritage in Mauritius, Zanzibar and Seychelles, African Books
Collective.
209. Hyung II Pai (2014), Heritage Management in Korea and Japan. The Politics of
Antiquity and identily, University of Washington Press Han, Sangwoo, cultural
heritage management in South Korea.
210. Lewinskin, Von Silke (2008), Indigenous Heritage and Intellectual Property:
Genetic Resourcer, Traditional Knowledge and Folklore, Kluwer Law
International.
211. Lewis, J, Designing a Cultural Polity, Journal of Arts Management, Law and
Society, Sping, Vol.24 (1), tr.41-56.
212. Seong-Yong Park (2003), On Intangible Heritage Safeguarding Governance: An
Asia- Pacific Context, Cambridge scholars Publishing.
213. Smith, Laurajane, Natsuko Akagawa (2008), Intangible Heritage, London:
Routledge.
214. Stefano, Michelle L., Peter Davis, Gerard Corsane (2012), Safeguarding Intangible
Cultural Heritage, Boydell Press.
174
PHỤ LỤC
Phụ lục 01 DANH SÁCH CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM
PHÁP LUẬT ĐÃ THẾ HÓA CÁC NỘI DUNG VỀ GIỮ GÌN,
PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
I. CÁC VĂN BẢN DO QUỐC HỘI BAN HÀNH
1. Hiến pháp
2. Luật di sản văn hóa năm 2001.
3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa năm 2009.
4. Bộ Luật Dân sự 5. Bộ luật Hình sự 6. Luật Lao động 7. Luật Giáo dục
8. Luật Hôn Nhân và gia đình 9. Luật Khám chữa bệnh 10. Luật Quảng cáo 11. Luật Xuất bản 12. Luật Báo chí 13. Luật Điện ảnh 14. Luật Du lịch 15. Luật thể dục, Thể thao 16. Luật phòng, chống bạo lực gia đình
II. CÁC VĂN BẢN DO ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI BAN HÀNH
12. Pháp lệnh Thư viện
13. Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng
Nguồn: Theo số liệu thống kê của tác giả luận án trên cơ sở
hệ thống văn bản pháp luật được công bố.
175
Phục lục 02
HỆ THỐNG CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO VỀ QUẢN LÝ DI SẢN VĂN HÓA
TT
Tên cơ sở đào tạo
Thông tin liên hệ
1 Viện Văn hoá Nghệ thuật
Địa chỉ: 32 Hào Nam, Ô chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội
quốc gia Việt Nam
Điện thoại: 84-24-38569160; Fax: 84-24-38516415
2 Học viện Âm nhạc quốc
Địa chỉ: 77 Hào Nam, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội
gia Việt Nam
ĐT: 84-24-38514969/38561842; Fax: 84-24-38513545
Email: hvan@vnam.edu.vn; Website: www.vnam.edu.vn
3 Nhạc viện Thành phố Hồ
Chí Minh
Địa chỉ: 112 Nguyễn Du, phường Bến Thành, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh
ĐT: 84-28-38225841; Fax: 84-28-38220916
4 Học viện Âm nhạc Huế
Địa chỉ: 1 Lê Lợi, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
ĐT: 84-234-3819852; Fax: 84-234-3837466
5 Trường Đại học Văn hóa
Địa chỉ: 418 La Thành, Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội
Hà Nội
ĐT: 84-24-38511971; Fax: 84-24-35141629
6 Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh
Địa chỉ: 51 Quốc Hương, phường Thảo Điền, quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh
ĐT: 84-28-35106502; Fax: 84-28-38980740
7 Học viện Khoa học xã hội Địa chỉ: 477 đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, Hà Nội
ĐT: 84-24-35527736; Fax: 84-24-35527726
Địa chỉ: 336 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội
8 Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại
ĐT: 84-24-38583799
học Quốc gia Hà Nội
Email: contact@ussh.edu.vn; website: http://ussh.vnu.edu.vn
9 Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại
Địa chỉ: 10-12 Đinh Tiên Hoàng, phường Bến Nghé, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh
học Quốc gia Thành phố
ĐT: 84-28-38293828; Fax: 84-28-38221903
Hồ Chí Minh
Email: hanhchinh@hcmussh.edu.vn; website: hcmussh.edu.vn
Nguồn: Tác giả luận án tổng hợp trên cơ sở các thông tin đã công khai.
176
Phục lục 03
DANH SÁCH DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐẠI DIỆN
CỦA NHÂN LOẠI (GHI DANH THEO CÔNG ƯỚC UNESCO 2003
VỀ BẢO VỆ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ)
1. Nhã Nhạc, Âm nhạc Cung đình Việt Nam (Triều Nguyễn) (năm 2008).
2. Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên (năm 2008).
3. Dân ca Quan Họ Bắc Ninh (năm 2009).
4. Hát Ca trù (năm 2009; thuộc Danh sách cần bảo vệ khẩn cấp).
5. Hội Gióng ở Đền Phù Đổng và Đền Sóc (năm 2010).
6. Tín ngưỡng Thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ (năm 2012).
7. Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ (năm 2013).
8. Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh (năm 2014).
9. Nghi lễ và trò chơi kéo co (năm 2015, di sản đa quốc gia, gồm: Việt Nam,
Hàn Quốc, Philippines và Campuchia).
10. Thực hành Tín ngưỡng Thờ Mẫu Tam phủ của người Việt (năm 2016).
11. Hát Xoan Phú Thọ.
12. Nghệ thuật Bài Chòi miền Trung Việt Nam (2017).
Ghi chú: Trung Quốc là quốc gia có số lượng di sản văn hóa phi vật thể
được ghi danh nhiều nhất (39 di sản), tiếp theo là Nhật Bản (21 di sản), Hàn Quốc
(19 di sản), 10 quốc gia mới chỉ có 01 di sản được ghi danh và còn 58/175 quốc gia
chưa có di sản được ghi danh.
Nguồn: Cục Di sản văn hóa - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.