intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN:Chính sách tiền tệ - Tự do hóa lãi suất ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: Nguyen Uyen | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:21

117
lượt xem
14
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tham khảo luận văn - đề án 'luận văn:chính sách tiền tệ - tự do hóa lãi suất ở việt nam hiện nay', luận văn - báo cáo, kinh tế - thương mại phục vụ nhu cầu học tập, nghiên cứu và làm việc hiệu quả

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN:Chính sách tiền tệ - Tự do hóa lãi suất ở Việt Nam hiện nay

  1. LUẬN VĂN: Chính sách tiền tệ - Tự do hóa lãi suất ở Việt Nam hiện nay
  2. Mở đầu Gắn liền với công cuộc đổi mới và mở cửa ở nước ta, có nhiều yêu cầu phải mở giải quyết cùng một lúc: Vừa ổn định, vừa phát triển kinh tế trong nước, vừa mở rộng giao lưu quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài ...Nhu cầu mở rộng lượng tiền cung ứng (Cầu về tiền) ngày càng lớn, dẫn đến sự xác lập quan hệ cung - cầu mới về tiền trong khi đó vẫn phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ, tạo lập nền tảng cho sự phát triển chung. Ngày nay không ai còn có thể phủ nhận bằng việc điều chỉnh tiền tệ và lãi suất cho phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế là một trong những vấn đề thiết yếu mà tổ chức của các hệ thống tiền tệ - tự do hóa lãi suất phải tuân thủ và chính sách tiền tệ - tự do hóa luôn phải theo đuổi. Trong cơ chế thị trường, chính sách lãi suất - tự do hóa lãi suất - chính sách tiền tệ là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sự dao động của lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của cá nhân, doanh nghiệp cũng như hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế. Chính sách lãi suất là một trong những công cụ quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, nhằm thúc đẩy tăng trưởng và kiềm chế lạm phát. Một mặt, lãi suất được sử dụng đúng đắn uyển chuyển, linh hoạt cần phù hợp với những điều kiện, tình hình kinh tế trong từng thời kỳ nhất định sẽ có tác động tích cực tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Ngược lại, nếu sử dụng công cụ lãi suất - công cụ tài chính một cách cố định thì rất có thể chỉ có tác dụng tích cực ở thời kỳ này nhưng chuyển sang thời kỳ khác với những điều kiện kinh tế xã hội thay đổi lại trở thành vật cản cho sự phát triển của nền kinh tế. Việt Nam qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế toàn diện, chính sách lãi suất đã có những bước chuyển biến cơ bản - được cải cách đáng kể theo định hướng thị trường. Cơ chế điêù hành lãi suất được thay đổi theo từng thời kỳ phát triển kinh tế, ngày càng trở nên linh hoạt, góp phần ổn định thị trường tiền tệ bình ổn giá cả, đẩy lùi và kiềm chế lạm phát. Những chính sách lãi suất ngân hàng nhà n ước (NHNN) sử dụng đã có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế nói chung, đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh
  3. doanh của các ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp nói riêng. Để có chính sách lãi suất phù hợp với nguyên tắc thị trường, đảm bảo nguồn lực tài chính được sử dụng và phân bổ một cách hiệu quả hơn, thì VN luôn phải linh động với các chính sách lãi suất, để có được chính sách lãi suất phù hợp với từng giai đoạn ngắn của nền kinh tế. Qua quá trình học tập môn học Lý thuyết tiền tệ em xin làm đề tài: “Chính sách tiền tệ - Tự do hóa lãi suất ở Việt Nam hiện nay”. Tiểu luận gồm: Phần I : Một số vấn đề về chính sách tiền tệ. Phần II: Tự do hóa lãi suất ở nước ta hiện nay
  4. Phần I Một số vấn đề về chính sách tiền tệ 1. Chính sách tiền tệ và vai trò của nó. Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà nước, nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống nhân dân với các nội dung sau: Một là, Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động Ngân hàng. Hai là, có biện pháp để động viên các nguồn lực trong nước là chính tranh thủ tối đa nguồn lực ngoài nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế. Ba là, bảo đảm vai trò chủ đạo và chủ lực của các tín dụng Nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàn. Bốn là, giữ vững định hướng XHCN, chủ quyền quốc gia, mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động Ngân hàng. Năm là, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước. Đây là chính sách lớn, mang tính định hướng cho hoạt động của hệ thống Ngân hàng nói chung và trong lĩnh vực tiền tệ nói riêng. Chính sách tiền tệ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó là đòn bảy kinh tế lớn nhất trong hệ thống đòn bảy kinh tế được sử dụng thường xuyên và linh hoạt nhất đối với mọi thành phần kinh tế. Không sử dụng và không thực hiện đúng chính sách, chắc chắn sẽ làm cho quá trình phát triển kinh tế gặp nhiều khó khăn hay vấp phải nguy cơ không lường trước được. Do đó điều tiết vĩ mô cho đến nền kinh tế mỗi quốc gia. Để chuẩn bị bước vào thế kỷ 21, thế kỷ hội nhập quốc tế và bùng nổ của khoa học công nghệ, việc xây dựng chiến lựợc phát triển đã trở thành một vấn đề quan trọng đối với mỗi quôc gia. Cho đến nay đã hoàn thành việc xây dựng cho mình một chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chặng đường đầu tiên của thế kỷ mới. Với Việt Nam hiện
  5. nay, vấn đề này đang được Đảng và Nhà nước coi là một nhiệm vụ to lớn củ cả các ngành, các cấp, trong đó xây dựng chiến lược tài chính thực hiện chính sách tiền tệ được đặc biệt coi trọng bởi tài chính luôn là một lĩnh vực bao trùm, chi phối mọi mặt, mọi phương diện của đời sống xã hội trong bối cảnh kinh tế thế giới đầy thách thức và trở ngại với công cuộc CNH - HĐH đất nước thì vai trò chính sách tiền tệ càng trở nên quan trọng bức thiết hơn bao giờ hết. Cụ thể hơn, chính sách tiền tệ có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết khối lượng tiền lưu thông trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ NHTW có thể kiểm soát được hệ thống tiền tệ để từ đó kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác chính sách tiền tệ còn là công cụ để kiểm soát toàn bộ hệ thống các NHTM và các tổ chức tín dụng. 2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ 2.1. Về cơ bản Sáu mục tiêu cơ bản được những người của Dự trữ liên bang nêu lên thường xuyên khi họ bàn luận đến đối tuợng chính sách tiền tệ là : 1. Công ăn việc làm cao 2.Tăng trưởng kinh tế. 3. ổn định giá cả 4. ổn định lãi suất 5. ổn định thị trường tài chính 6. ổn định thị trường ngoại hối 2.2. Về việc tạo công ăn việc làm Việc làm cao là một mục tiêu có giá trị từ hai lý do chính : - Trường hợp ngược lại, thất nghiệp cao, gây nên nhiều sự đau khổ cho con người, các gia đình bị khốn cùng về tài chính. - Khi thất nghiêph lên cao, thì nền kinh tế không những có những người lao động ngồi không mà còn những nguồn tài nguyên để không(Xí nghiệp đóng cửa, thiết bị
  6. không hoạt động, sản xuất ngưng trệ) đưa đến kết quả hoạt động giảm đi (GDP thấp xuống). Mục tiêu của việc làm cao do đó sẽ không phải là một mức số không thất nghiệp, mà là một mức trên số không phù hợp với việc làm đầy đủ, mà tại mức này cầu của lao động ngang bằng cung của lao động. Các nhà Kinh tế gọi mức thất nghiệp đó là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm chủ yếu phụ thuộc vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Tình hình đó đặt ra cho NHTW trách nhiệm là phải vận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cưòng mở rộng đầu tư sản xuất kinh doanh đồng thời phải tham gia tích cực vào sự taưng trưởng liên tục và ổn định khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá mức tăng thất nghiệp tự nhiên. 2.3. Về việc tăng trưởng kinh tế : Mục tiêu tăng trưởng kinh tế quan hệ chặt chẽ với mục tiêu việc làm cao. Các Chính sách có thể đặc biệt nhằm vào việc khuyến khích tăng trưởng kinh tế bằng cách khuyến khích trực tiếp các hãng đầu tư hoặc quần chúng nhân dân tiết kiệm để có thêm nhiều vốn cho các hãng đưa vào đầu tư. Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu và quan trong nhất của chính sách tiền tệ. Với tư cách là trung tâm tiền tệ tín ụng và thanh toán trong nền kinh tế quốc dân. NHTW có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này. Ngân hàng nhà nước Việt Nam cần Bằng mọi phương thức để có thể huy động được hầu hết các nguồn vốn nhàn rổi trong nước và nước ngoài để phuc vụ cho mục tiêu này. Mục tiêu từ năm 2000 trở đi tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm phải đạt từ 9- 10% đó là múc tăng trưởng cao, nó đòi hỏi phải gia tăng đầu tư hàng năm hàng chục tỷ USD. 2.4. Về ổn định giá cả Hơn hai thập kỷ qua công chúng và các nhà kinh tế chuyên nghiệp Mỹ càng hiểu rõ hơn cái giá phải trả về khinh tế và xã hội của lạm phát gay nên. Họ đã quan tâm nhiều hơn đến một mức giá ổn định. ặn định giá cả là điều ai cũng mong muốn bởi vì mức giá cả tăng lên (lạm phát) gây nên tình trạng bấp bênh trong nền kinh tế. Vì vậy, NHTW phải góp phần duỳ trì tăng trưởng liên tục nhưng ổn định triệt tiêu nghững nhân tố gây
  7. nên sự tăng nhu cầu giả tạo để tăng chi phí lên cao. Trong cuộc đấu tranh này, lãi suất và cung ứng tiền tệ là hai thứ vũ khí lợi hại, luôn nắm bắt và theo dõi được thực tế diễn biến của quá tình thực hiện mục tiêu để từ đó có những giải pháp, điều chỉnh phù hợp. 2.5.Về ổn định xã hội. Mong muốn có một sự ổn định lãi suất vì những biết động của lãi suất làm cho nền kinh tế bấp bênh và khó lập kế hoạch cho tương lai. Vì vậy, ổn định lãi suất chính là thực hiện lãi suất tín dụng cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân thông qua nghiệp vụ tín dụng ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các nguồn tiền gửi của xã hội và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo phải linh hoạt, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường. 2.6. Về ổn định thị trường tài chính. Một lý do rõ ràng của việc thành lập hệ thống dự trữ liên bang là hệ thống đó có thể thúc đẩy một hệ thống tài chính ổn định. Việc ổn định thị trường tài chính cũng được thúc đẩy bởi sự ổn định lãi suất bởi vì biến động trong lãi suất gay nên sự lưỡng lự lớn cho các tổ chức tài chính. Trong những năm gần đây những biến động mạnh của lãi suất là một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với các hiệp hội tiết kiệm và cho vay đã gặp khó khăn về tài chính như chúng ta đã biết. 2.7. Về ổn định thị trường ngoại hối Nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền nội địa NHTW thưc hiên các nhiệm vụ giao dịch về tài chính và tiền tệ đối ngoại qua các phương diện:Quản lý ngoại hối, lập và theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, thưch hiện các nghiệp vụ hối đoái tổ chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước. Xây dựng và thống nhất quản lý dự trữ ngoại hối, tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường quốc tế. Cần lập mối quan hệ với NHTW khác với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm nguồn tài trợ (vay nợ) nước ngoài và có điều kiện ưu đãi khuyến khích đầu tưu nuớc ngoài và thu hút kiều hối. * Các mục tiêu trung gian Trong cơ chế thị trường, NHTW phải xác định các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ, nhằm đạt đến mục tiêu cuối cùng của chính sách này. Bởi lẽ NHTW sử
  8. dụng các mục tiêu trung gian đẻ có thể xét đoán nhanh chóng tình hình thưch hiện các hoạt động của mình phục vụ cho các mục tiêu cuối cùng hơn là chờ cho đến khi nhìn thấy được kết quả cuối cùng của các mục tiêu đó. Các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ mà NHTW sử dụng là các khối tiền tệ M1,M2,M3 và lãi suất. Đây là những mục tiêu mang tính định luợng, chúng có thể đo lường, kiểm soát được và có thể dự đoán tác động của chúng đối với việc thực hiện cac mục tiêu cuối cùng của chính sach tiền tệ. Bằng việc tăng, giảm các khối tiền tệ, NHTW góp phần tác động đến tăng, giảm tổng cung và tổng cầu của tiền tệ. Đồng thời, NHTW cũng có thể sử dụng công cụ lãi suất để tác động đến sự tăng giảm khối lưọng tiền tệ từ đó mà tác động đến tổng cung và tổng cầu xã hội. Tuy nhiên thực tiễn thi hành chính sách tiền tệ ở nhiều nuớc cho phép người ta thiên về hướng lụa chọn các khối lượng tiền tệ làm mục tiêu trung gian hơn là lựa chọn lãi suất. Trong các khối tiền tệ, tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước, NHTW có thể lựa chọn M1, M2 hoặc M3 làm mục tiêu trung gian ưu tiên 3. Nội dung chính sách tiền tệ Trong cơ chế kinh tế thị trường, chính sách tiền tệ bào gồm ba thành phần cơ bản gắn liền với ba kênh dẫn nhập tiền vào lưu thông là: + Chính sách tín dụng + Chính sách ngoại hối + Chính sách đối với ngân sách nhà nước 3.1. Chính sách tín dụng Thực chất chính sách tín dụng là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, thông qua các nghiệp vụ tín dụng ngan hàng, dựa trên các quỹ cho vay đựoc tạo lập từ các nguồn tiền gửi của xã hội và một hệ thống lãi suất mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường. 3.2. Chính sách ngoại hối.
  9. Nhằm đảm bảo việc sử dụng hiệu quả ccá tài sản có giá trị thanh toán đối ngoại phục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đảy tăng trưởng kinh tế bền vững và gia tăng việc làm trong xã hội, bảo đảm chủ quyền tiền tệ của đất nứoc. 3.3. Chính sách đối với ngân sách nhà nước Nhằm đảm bảo phương tiện thanh toán cho chính phủ trong trường hơph nmhân sách nhà nước bị thiếu hụt. Phương thức cung ứng tối ưu là NHTW cho ngân sách nhà nước vay theo kỳ hạn nhất định. Đần và tiến tới loại bỏ hoàn toàn phát hành tiền tệ để bù đắp thiếu hụt ngân sách. 3.3.1. Trường hợp ngân sách thâm hụt Chênh lệch giữa thu và chi ngân sách sẽ có tác động khác nhau ddeens nền kinh tế tuỳ cách tài trợ số chênh lêch ấy có bốn cách đẻ tài trợ thâm hụt ngân sách Một là vay dân cư Hai là vay hệ thống tín dụng và thị trường tài chính trong nước Ba là vay NHTW Bốn là vay nước ngoài Vay của NHTW và vay của nước ngoài (bằng ngoại tệ) sẽ làm tăng mạnh khối tiền tệ, gây áp lực tiềm tàng về sau. Vay của dân cư và của cac NHTM trong nước nguy cơ làm tăng khối lượng tiền tệ nhẹ hơn. áp lực lạm phát tại các nước đang phát triển mạnh hơn các nước có thu nhạp cao là do các nước này chủ yếu sử dụng biện pháp vay NHTW bằng cách phát hành tiền trực tiếp và vay nợ nước ngoài . 3.3.2. Trường hợp ngân sách cân bằng Khi chính phủ thu thuế tức là đã lấy ra khỉ lưu thông một lưọng tiền và chi trở lại số tiền ấy vào bộ máy kinh tế. khối tiền tệ không thay đổi vì nó được tăng giảm một ngạch số như nhau. Tuy nhiên, nó có thể thay đổi kết cấu giữa tiêu dùng và tiết kiệm, chẳng hạn nếu tầng lớp chịu thuế không giảm tiêu thụ mà giảm tiết kiệm. Trong khi đó, chính phủ phải dùng số thuế thu được một phần trợ cấp cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ chung lại gia tăng, số đầu tư giảm và kết quả là có thể làm tăng vật
  10. giá. Nếu nhà nước dùng số chi ngân sách để đầu tư thì đầu tư nhà nước tăng lên, đầu tư chung không đổi. Lưu ý hai trường hợp : Thứ nhất : Nếu chính sách tiền tệ chống lạm phát, ngân sách thăng bằng vẫn có thể tác dụng ngược với chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái. Thứ hai: Trường hợp chính sách tiền tệ nằm chống suy thoái ngân sách thăng bằng vẫn có thể chuyển dịch thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng mức tiêu thụ. 3.3.3. Trường hợp ngân sách thặng dư: Đây là trường hợp rất quý và nó là ước mơ chung của mọi quốc gia vì nó rút bới tiền tệ dư thừa, tác đọng có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. 4. Các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ Xét cho cùng, NHTW có thể thục thinhai loại chính sách tiền tệ phù hợp với tình hình thực hiện cuỉa nền kinh tế đó là: - Chính sách nới lỏng tiền tệ - Chính sách thắt chặt tiền tệ Chính sách nới lỏng tiền tệ là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế nhằm khuyến khích đầu tư phát triiển kinh tế tạo công ăn việc làm. Chính sách thắt chặt tiền tệ là việc giảm cung ứng tiền tệ cho nền kinh tế, nhằm hạn chế đầu tư, nganư chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế kiềm chế lạm phát. Để thực hiện hai chính sách tiền tệ này, NHTW có thể sử dụng hàng loạt các công cụ tiền tệ nằm trong tay của mình, đố là các công cụ trực tiếp, các công cụ gián tiếp. 4.1.Các công cụ trực tiếp Gọi là các công cụ trực tiếp vì thông qua chúng, NHTW có thể tác đọng trực tiếp đến cung cầu tiền tệ, mà không cần phải thông qua công cụ khác. 4.1.1. ấn định khung lãi suất tiền gửi và chon vay
  11. NHTW có thể quy định khung lãi suất tiền gửi và buộc các ngân hành kinh doanh phải thi hành. Nếu lãi suất quy định cao sẽ thu hút đựơc tiền gửi làm tăng nguồn vốn cho vay. Nếu lãi suất thấp, sẽ làm giảm tiền gửi, giảm khả năng mở rông kinh doanh tín dụng. Song biện pháp này sẽ làm cho NHTM mất tính chủ động, linh hoạt trong kinh doanh. Mặt khác nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ở ngân hàng, nhưng lại thiếu vốn đầu tư, hoặc khuyến khích dân cư vào dự trữ vàng, ngoại tệ, bất động sản, trong khi ngân hàng bị hụt hẫng về tiền mặt, cũng như nguồn vốn cho vay. NHTW có thể quy định khung lãi suất cho vay buộc ngân hàng khinh doanh chấp hành. Khi muốn tăng khối lượng cho vay, NHTW giảm mức lãi suất để kích thích các nhà đầu tư vay vốn. Khi vần hạn chế đầu tư. NHTW ấn định với lãi suất cao. Biện pháp này có ưu điểm là giúp ngân hàng lựa chọn dự án kinh tế tối ưu để cho vay, loại những dự án kém hiệu quả. Việc ấn định các cung lãi suất tiền gửi và cho vay nhìn chung ngày càng được áp dụng ởi các nước theo cơ chế thị trường, lãi xuất rất nhậy cảm với đầu tư, nó phải vận động theo quy luật cung cầu vốn trên thị trường. 4.1.2. ấn định mức tín dụng Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể. Thực chất biện pháp này cho phép NHTW ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm con đường để đưa nó vào nền kinh tế. Song trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng biến động không ngừng, biện pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống yêu cầu. 4.1.3. Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư Trong điều kiện ngân sách bị thiếu hụt, NHTW phải phát hành tiền để bù đắp sự thiếu hụt đó. Rõ ràng biện pháp này làm gia tăng luợng tiền trong lưu thông, trong khi lượng hàng hoá không tăng hoặc tăng không kịp. Hởu quả là gia tăng lạm phát. Nó được nhanh chóng loại trừ trong điều kiện kinh tế thị trường bình thường.
  12. Phát hành trực tiếp cho đầu tư có thể qua ngân sách nhà nước hoặc qua con đường tín dụng ngân hàng (biện pháp này gọi là biện pháp cho sản xuất hay gọi ;à biện phát lạm phát lành mạnh) biện phápnày cần thiết trong điều kện nền kinh tế suy thoái, dư thừa tiềm năng kinh tế. Nó sẽ mang lại hiệu quả tích cực, khơi dậy các tiềm năng về tài nguyên và con người. 4.1.4. Phát hành trái phiếu Nhà nước để giảm lượng tiền trong lưu thông Trong điều kiện không thể áp dụng các biện pháp khác chính phủ có thể phát hành một loạt trái phiếu nhất định để thu hút khối lượng tiền trong lưu thông. Việc phân bổ trái phiếu mang tính bắt buộc 4.2. Các công cụ gián tiếp Là những công cụ mà tác dụng của nó được coi là kinh tế thị trường 4.2.1. Dự trữ bắt buộc Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các NHTM đưc và dự trữ theo luật định. Phần dự trữ này được gửi vào tài khoản chuyên dùng của NHTM và đẻ lại quỹ của mình với mục đích góp phần bảo đảm khả năng thanh toán của NHTM và làm phương tiện kiểm soát khối lưọng tín dụng của ngân hàng này. Khi tăng tỷ lệ dự trữ sẽ góp phần giảm khả năg cho vay và đầu tư của NHTM, từ đó giảm lượng tiền trong lưu thông, góp phần làm giảm cầu iền để cân bằng với sự giảm cung xã hội. trong trường hợp giảm tỷ lệ giự trữ bắt buộc, khả năng mở rông cho vay của NHTM sẽ tăng lên, dẫn đến sự gia tăng lượng tiền trong lưu thông, góp phần tăng cung xã hội để cân đối tăng cầu về tiền. 4.2.2. Lãi suất tái chiết khấu, tái cấp vốn Tái cấp vốn là cách để NHTM đua tiền ra lưu thông đồng thời khống chế và số lượng và khối lượng tín dụng của ngan hàng trung gian. Qua việc cấp tín dụng, NHTW đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đảy toàn bộ hệ thống các ngân hàng trung gian tạo ra tiền, cũng như khai thông được thanh toán cho họ.
  13. Khi một ngân hàng trung gian, bằng nguồn vốn đi vay hoặc huy động được, cấp ra một khoản tín dụng và lập tức biến thành tiền gửi tại nhân hàng đó hoặc tại ngân hàng liên đới. Họ nhanh chóng có nhu cầu tiền trung ương để : Đáp ứng nhu cầu rút tiền gửi của khách hàng Thanh toán bằng tiền mặt hay chuyểnm khoản cho các ngân hàng khác. Mua ngoại tệ trên thị trường hối đoái hoặc của NHTƯ Các ngân hàng trung gian tìm đến NHTW xin cấp vốn bằng cách xin tái chiết khấu trước đó. Tái cấp vốn là đầu mối phát sinh tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ nên NHTW giải quyết rất thận trọng trên cơ sở : Chỉ tiêu tín dụng trong nền kinh tế nằm trong khối lượng tiền tệ cung ứng thêm hàng kỳ kế hoạch. Hạn mức tín dụng đã phân phố cho từng NHTM theo mức dư nợ tín dụng thực tế hoặc theo vốn tự có cuả NHTM đó nhưng chưa dùng tới. Tỷ lệ tiền mặt và tiền ghi sổ đã hình thành trong nền kinh tế. Tuy nhiên trong số tiền trung ương được tái cấp vốn. NHTM sử dụng bao nhiêu tiền mặt cũng được. Điều kiện để NHTW tái cấp vốn là : Còn hạn mức tín dụng (tái cấp vốn) dành cho NHTM đó : Các khoản tín dụng đem tái chiết khấu có lành mạnh và đảm bảo hối nợ hay không. Tuỳ theo yêu cầu khuyến khích hay mở rộng tín dụng tái cấp vốn bình th ường hay mang ý nghĩa phạt mà lãi xuất tái chiết khấu có thể bằng, thấp hơn hoặc cao hơn mức lãi suất khoản tín dụng mà mà NHTM đã cho khách hàng mình vay. Qua công cụ tái cấp vốn, NHTM là ngưòi cho vay sau cùng, kiểm tra chất lượng hoạt động tín dụng của NHTM, tiền ra lưu thông đã được khống chế để kiềm chế lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. tái cấp vốn được coi là hình thức phát hành tiền lành mạnh vì nó dựa trên thương phiếu tượng trưng cho những món nợ về thương mại và đằng sau nó có vật tư hàng hoá.
  14. Nghiệp vụ và biện pháp tác động qua cho vay tái chiết khấu của NHTW rất phong phú. Bằng cách kiểm soát tín dụng chọn lọc. NHTM tác động vào cơ cấu tín dụng của các ngân hàng trung gian (Hạn chế tín dụng vào các ngành Nhà n ước không muốn phát triển, ưu đãi những nghành và những vùng cần ưu tiên). Tỷ lệ giá trị chiết khấu hoặc tái chiết khấu trên thương phiếu có thể thấp hay cao tuỳ theo ý muốn mở rộng hay thu hẹp khối tiền tệ (50- 100%) làm như vậy NHTW gián tiếp thúc đảy các doanh nghiệp giải phóng tồn kho, không giữ lại chỗ giá lên. Kiểm soát tín dụng tiêu thụ. Trong nghiệp vụ bán hàng tiêu dùng đắt tiền hay mua nhà trả góp. NHTW thường can thiệp bằng cách quy định mức trả tiền ngày cao hay thấp, nớ rộng hay rút ngắn thời hạn thiếu chịu, nhằm khuyến khích hay hạn chế nghiệp vụ này. 4.2.3. Nghiệm vụ thị trường mở Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn do ngân hàng nhà nước thực hiện trên thị trường tiền tệ nhằm thuẹc hiện chính sách tiền tệ quốc gia. ở nhiều nước kinh tế phát triển, nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò quan trọng làm thay đổi cơ số tiền tệ, chi phối những thay đổi trong cung ứng tiền tệ. Khi NHTW quyết định mau một loại giấy tờ có giá trên thị trường tiền tệ sẽ làm tăng cung ứng tiền tệ. Ngược lại,khi NHTW bán một lưọng chứng khoán trên thị trường tiền tệ sẽ làm giảm bớt cung ứng tiền tệ. bằng việc mua bán các loại giấy tờ có giá, nhờ chủ động quy định mức gia phù hợp, NHTW đã tác động đến nguồn vốn các NHTM và do đó tác động đến khả năng tín dụng của NHTM đối với nền kinh tế. Công cụ thị trưòng mở có ưu đỉểm là nó trực tiếp tác động ngay đến dự trữ của các ngân hàng kinh doanh và buộc các ngân hàng này phải gia tăng tín dụng hoặc giảm bớt tín dụng đối với nền kinh tế. NHTW các nước thường tiến hành phần lớn các nghiệp vụ thị trường mở theo yêu cầu điều chỉnh cung cầu tiền tệ, đặc biệt khi không thể thực hiện được với công cụ tái chiết khấu. Muốn sử dụng tốt công cụ trên phải có sự phát triển cao của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt. Ttrong diều kiện đó tiền trong lưu thông hầu hết là một tài khoản
  15. ngân hàng. Vì vậy, công cụ này rất bphù hợp đối với nước có nền kinh tế phát triển, có thị trường tài chính hoàn chỉnh. Còn ở Việt Nam hiện nay, thị trường mở chưa thực sự trở thành công cụ đóng vai trò quan trọng để NHNN điều tiết mức cung ứng tiền tệ. Phần II: Tự do hóa lãi suất ở nước ta hiện nay I. Một số khái niệm về lãi suất Lãi suất là một trong những vấn đề hết sức phức tạp. Nó là một công cụ rất nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ của mọi NHTW đặc biệt ở những nước đang phát triển. Vì vậy, có rất nhiều cách hiểu về lãi suất, trong đó chúng ta có thể đưa ra một số khái niệm cơ bản về lãi suất như sau: - Lãi suất là giá cả sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời gắn liền với hoạt động kinh tế liên quan đến hoạt động gửi tiền và vay tiền. Đồng thời, lãi suất còn là công cụ điều hành chính sách tiền tệ của NHTW mỗi nước. - Lãi suất danh nghĩa là lãi suất được ấn định trên thị trường, không được điều chỉnh theo sự thay đổi của mức giá. - Lãi suất thực là lãi suất được điều chỉnh cho đúng theo những thay đổi dự tính về mức giá, do đó nó phản ánh chính xác hơn chi phí thật của việc vay tiền. Theo Fisher, lãi suất danh nghĩa (i) bằng lãi suất thực (r) cộng với mức lạm phát dự tính: i= r+ lạm phát. - Lãi suất hoàn vốn: là một lãi suất làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được theo một công cụ nợ với giá trị hôm nay của công cụ đó. Đây là phép đo được các nhà kinh tế coi là phép đo lãi suất chính xác nhất. - Lãi suất tái chiết khấu: là hình thức tái cấp vốn được áp dụng khi ngân hàng nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác cho các tổ chức tín dụng. - Lãi suất tái cấp vốn: là lãi suất do ngân hàng Nhà nước áp dụng khi tái chiết khấu.
  16. - Lãi suất liên ngân hàng: là mức lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, nơi các ngân hàng thực hiện việc cho vay và cho vay lẫn nhau, nó chỉ chính xác hơn về chi phí vốn vay của ngân hàng và cung cấp vốn trên thị trường. II. Tự do hoá lãi suất ở nước ta Ngày 30/5/2002. thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành quyết định số 546/2002/QĐNHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Rõ ràng, đây là một bước chuyển đổi quan trọng, mạnh mẽ và cần thiết trong chính sách tín dụng, phù hợp với nguyên tắc thị trường nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính được sử dụng và phân bổ một cách có hiệu quả hơn. Tuy nhiên trong điều kiện Việt Nam hiện nay thì việc áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận đã thực sự thích hợp hay chưa? cũng là một câu hỏi cần đặt ra. Để làm rõ vấn đề này, trước hết chúng ta sẽ nghiên cứu quá trình điều hành lãi suất của NHNN nhằm hướng tới tự do hoá lãi suất trong thời gian qua. III. Cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam trong những giai đoạn trước. 1.1 Trước năm 1989: nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp dẫn đến khủng hoảng về mọi mặt, tài chính, tiền tệ,... Thời kỳ này là thời kỳ mà lãi suất được điều hành theo cơ chế lãi suất âm, chính sách lãi suất cứng nhắc bị áp đặt theo kiểu hành chính, khiến cho các ngân hàng (NH) làm ăn thua lỗ, nền kinh tế thì trì trệ kém phát triển, thâm hụt ngân sách nặng nề,... 1.2. Từ năm 1989 đến năm 1992 là quá trình chuyển dần từ chế độ lãi suất âm sang chế độ lãi suất dương, từng bước xoá bỏ bao cấp qua lãi suất. Năm 1991, hệ thống NH chuyển sang mô hình hai cấp: NHNN thực hiện chức n ăng NHTW và quản lý nhà nước, hệ thống NHTM thực hiện chức năng của NHTM là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ NH theo cơ chế thị trường. Trong giai đoạn này, NHNN quy định các mức lãi suất tiền gửi, cho vay với mục tiêu là chống khủng hoảng, chống lạm phát. 1.3. Từ 1992 đến 1995: là giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất thực dương. NHNN vừa quy định sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi cho vay ngắn và trung hạn, không phân biệt lãi suất cho vay đối với các thành phần kinh tế, cho phép các tổ chức tín dụng tự ấn định mức lãi suất huy động băng nhiều hình thức, chấm dứt bao cấp tín dụng thông qua lãi
  17. suất, lãi suất huy động bằng lãi suất thực cộng với chỉ số trượt giá bình quân trên thị trường. Lãi suất cho vay bằng lãi suất huy động bình quân cộng thêm tỷ lệ chi phí hợp lý của NH, lãi suất phải bảo toàn được vốn cho cả người vay, người gửi và có lãi thực. Đối với lãi suất ngoại tệ, NHNN quy định trần lãi suất cho vy, còn lãi suất huy động do các NHTM tự quyết định trêncơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung câù vốn ngoại tệ trên thị trường tiền tệ trong nước. 1.4. Thời kỳ từ năm 1996 đến tháng 7/2000: Đến cuối năm 1995, chính sách lãi suất đã bộc lộ nhiều tồn tại không phù hợp với yêu cầu phát triển của thị trường tiền tệ. Vì vậy NHNN đã ban hành chính sách lãi suất mới theo hướng nới lỏng hơn so với trước đây. Cụ thể là NHNN bỏ quy định sàn lãi suất tiền gửi chỉ quy định trần lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất xho vay ngắn hạn, trần cho vay ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn. Trần lãi suất cho vay bằng ngoại tệ được điều chíh phù hợp với biến động lãi suất trên, thị trường quốc tế và cung cầu vốn ngoại tệ thị trường tiền tệ trong nước. 1.5. Thời kỳ từ tháng 7/2000 đến tháng 5/2002: Xuất phát yêu cầu đổi mới hoạt động NH phù hợp với nhịp độ và mục tiêu phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường, thực hiện theo luật NHNN, chính sách lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn trên thị trường nhưng vẫn có sự khống chế của NHNN bằng việc quy định biên độ nhất định để các NHTM xác địng lãi suất cho vay. Lãi suất cơ bản được NHNN thông báo hàng tháng dựa trên các nhân tố chủ yếu sau: Tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường áp dụng đối với khách hàng có uy tín của NHTM lớn, diễn biến về lãi suất và tiền tệ, diễn biến kinh tế vĩ mô; quan hệ tỷ giá với chính sách tiền tệ. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ , bỏ quy định trần lãi suất cho vay, mà áp dụng lãi suất linh hoạt theo tiền tệ quốc tế. Thời gian đầu còn bị khống chế với giới hạn không vượt quá lãi suất Sibor cộng thêm tỷ lệ nhất định. Tuy nhiên sau một thời gian thực hiện, NHNN đã tự do hoá lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ.
  18. IV. Tính tất yếu của viêc chuyển sang một cơ chế lãi suất theo hướng thị trường : Trong khoảng thời gian từ tháng 7/2000 đến tháng 5/2002, lãi suất cơ bản được điều chỉnh tương đối phù hợp với việc thực thi chính sách lãi suất tiền tệ nới lỏng một cách thận trọng, với biên độ khá rộng, tạo điều kiện cho các TCTD ấn định lãi suất cho vay phù hợp với quan hệ cung cầu vốn ở thị trường thành thị và nông thôn. Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản tự nó đã bộc lộ nhiều nhược điểm làm hạn chế quá trình phát triển của hoạt động kinh doanh NH và không thích hợp với nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Cụ thể, mục đích đưa ra trần lãi suất để hạn chế các NHTM cho vay với lãi suất cao tránh ảnh hưởng hơn, vì bản thân các NHTM đã hoạt động trong môi trường cạnh tranh tương đối quyết liệt mà bản thân lãi suất là công cụ quan trọng để tìm kiếm khách hàng và nâng cao thị trường tín dụng trong nền kinh tế. Mặt khác nhu cầu của nền kinh tế trong những năm tới sẽ còn tiếp tục tăng cao đã đặt ra một yêu cầu bức xúc đối với các NHTM phải huy động thêm nhiều nguồn vốn, mà muốn vậy thì lãi suất cũng phải sử dụng như một công cụ đòn bẩy quan trọng. Qua một năm thực hiện cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ cũng đã cho thấy tỷ gía và thị trường ngoại hối vẫn ổn định và hoạt động bình thường, không có tác động xấu đối với nền kinh tế. Đồng thời tạo điều kiện cho các NHTM ấn định lãi suất huy động cho vay phù hợp với khả năng của NH, với nhu cầu vốn của nền kinh tế. Trên thế giới, các nước đang trong quá trình phát triển theo kinhtế thị trường đều phấn đấu để tiến tới tự do hoá lãi suất, bởi vì tự do hoá lãi suất có tác động mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân, có khả năng quyết định nhịp độ của tăng trưởng kinh tế. ở Việt Nam, việc chuyển đổi lãi suất theo hướng thị trường có nhiều tác động tích cực đối với kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính, cụ thể như sau: Một là, việc nới lỏng cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị trường đã tạo khả năng cho thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu. Hai là, sự thay đổi chính sách lãi suất là phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, nhưng cũng chính yêu cầu phát triển kinh tế, tiền tệ hoá các mối quan hệ kinh tế và sự hình thành các nhân tố thị trường đã buộc chính sách lãi suất phải có sự nới lỏng để
  19. chuyển dần sang cơ chế lãi suất thoả thuận nhằm tạo điều kiện cho việc huy động tối đa nguồn lực trong nước phục vụ cho đầu tư phát triển và đồng bộ với tổng thể chính sách kinh tế - tài chính - đối ngoại. Ba là, việc nới lỏng cơ chế lãi suất, làm cho lãi suất tự điều chỉnh linh hoạt và phù hợp hơn với quan hệ cung cầu vốn thị trường, các nguồn vốn được lưu chuyển đến nơi có lợi nhuận cao cới mức rủi ro thấp, nâng cao hiệu quả đầu tư thúc đẩy các NHTM phát triển nhanh chóng mạng lưới chi nhánh ở thành thị, nông thôn, đưa ra các mức lãi suất, sản phẩm dịch vụ thích hợp với khách hàng. Nếu không, việc kiểm soát lãi suất bằng biện pháp hành chính sẽ rất hạn chế, như thực tế năm 1991 - 1995, NHNN khống chế chặt chẽ mức trần lãi suất cho vay ở mức thấp đã khuyến khích sự vay mượn lòng vòng, trốn tránh sự kiểm soát, lãi suất tiền gửi tăng, nhưng lãi suất cho vay lại không tăng được và chênh lệch lãi suất chỉ đủ bù đắp chi phí kinh doanh, lợi nhuận rất thấp, khả năng tài chính của NHTM bị yếu đi, dễ gây xáo trộn tổn thương cho thị trường tài chính. Xuất phát từ những nhận định nêu trên và đối chiếu với các điều kiện để các nước có thể tự do hoá lãi suất, chúng ta có thể thấy đây cũng là thời điểm thích hợp để thực hiện tự do hoá lãi suất. Về kinh tế vĩ mô: trong những năm qua, chúng ta đã duy trì được một nhịp độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, thâm hụt ngân sách luôn ở dưới mức 5% so với GDP, bội thu cán cân thanh toán: đây là điều kiện tiền đề và có ý nghĩa quan trọng để chọn thời điểm tự do hoá lãi suất. Hệ thống các TCTD đã và đang được củng cố, sắp xếp lành mạnh hoá và khả năng ngày càng được nâng cao. Các công cụ của chính sách tiền tệ ngày càng được hoàn thiện và vận hành linh hoạt theo cơ chế thị trường.
  20. Kết luận Chính sách lãi suất là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc gia, vì thế trước hết nó phải hướng tới những mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia: ổn định tiền tệ, đảm bảo mức lạm phát hợp lý (4-5%), kích thích tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, chính sách tiền tệ quốc gia nước ta hiện nay phải nhằm tiến tới hình thành một thị trường tiền tệ tạo ra sự cạnh tranh công bằng và lành mạnh giữa những tổ chức tín dụng tạo điều kiện để giảm chi phí tín dụng. Ngoài ra chính sách tiền tệ còn phải đảm bảo có sự chênh lệch lãi suất kinh doanh . Thứ ba, chính sách lãi suất phải tạo động lực cho các Doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn hiệu quả tăng sản phẩm xã hội.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
13=>1