Luận văn: ĐTTTNN ở Việt Nam giai đoạn 19962001, thực trạng và giải pháp
lượt xem 3
download
Ngày nay, Thế giới đang đến Việt Nam và Việt Nam cũng đang bắt đầuđi ra Thế giới.Đây là xu hướng hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển, là điều kiện tiên quyết để Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế khu vực và Thế giới. Trong nhiều thâp kỷ qua, Thế giới đâng diến ra sự bùng nổ mạnh mẽ quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) cả về quy mô lẫn chất lượng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) cùng thương mại quốc tế là hai xu hướng nổi...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn: ĐTTTNN ở Việt Nam giai đoạn 19962001, thực trạng và giải pháp
- Luận văn ĐTTTNN ở Việt Nam giai đoạn 1996- 2001, thực trạng và giải pháp 1
- PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU Ngày nay, Thế giới đang đến Việt Nam và Việt Nam cũng đang bắt đầuđi ra Thế giới.Đây là xu hướng hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển, là điều kiện tiên quyết để Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế khu vực và Thế giới. Trong nhiều thâp kỷ qua, Thế giới đâng diến ra sự bùng nổ mạnh mẽ quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) cả về quy mô lẫn chất lượng. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) cùng thương mại quốc tế là hai xu hướng nổi bật của nền kinh tế Thế giới hiện nay, đưa nền knh tế vào vòng xoáy hội nhập và toàn cầu hoá. Trong vòng xoáy đó, hoạt động ĐTTTNN đã xuất hiện ở Việt Nam trong khoảng 15 năm trở lại đây như một tất yếu của sự phát triển. ĐTTTNN đã đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế cảu Việt Nam , góp phần nâng cao tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế từ 7% đến 10% hàng năm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tạo thêm nhiều công ăn việc làm, nâng cao trình độ cán bộ quản lý cũng như chất lượng của đội ngũ lao động, xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật, v.v… Tuy nhiên, bắt đầu từ nưm 1996 trở lại đây, tình hình ĐTTTNN ở Việt Nam có nhiều biến động phức tạp, đã tác động không tốt đến nền kinh tế nước nhà. Xuất từ đó, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “ĐTTTNN ở Việt Nam giai đoạn 1996-2001, thực trạng và giải pháp” để tìm hiểu nguyên nhân c ủa vấn đề trên, và đưa ra một số giải pháp tăng cường việc htu hút ĐTTTNN trong thời gian tới. Nội dung của đề án bao gồm ba chương: -Chương I: Lý luận chung về ĐTTTNN -Chương II: Thực trạng về hoạt động ĐTTTNN tại Việt Nam trong giai đoạn 1996-2001 -Chương III: Một số giải pháp tăng cường nguồn vốn ĐTTTNN vào Việt Nam 2
- PHẦN II : NỘI DUNG CHÍNH CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ SỰ TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (ĐTTTNN): 1.Khái niệm đầu tư quốc tế và đầu tư trực tiếp nước ngoài : Trong một vài thập niên trở lại đây , người ta đã được chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ của hoạt động đầu tư quốc tế (ĐTQT) trên phạm vi toàn cầu . Nó cùng với thương mại quốc tế là hai xu hướng nổi bật nhất trong nền kinh tế Thế giới . Mặc dù ra đời sau hoạt động thương mại quốc tế , nhưng hoạt động ĐTQT đã chứng tỏ dược vai trò to lớn đối với sự tăng trưởng khinh tế của các quốc gia , và nền kinh tế Thế giới. Tuy có vai trò và sức ảnh hưởng to lớn như vậy , nhưng khái niệm về ĐTQT không phải là một khái niệm xa lạ và khó tiếp cận . ĐTQT thực chất là một quá trình kinh doanh trong đó vốn đầu tư được di chuyển từ quốc gia này sang quốc gia khác với mục đích sinh lời . Yếu tố quốc tế trong ĐTQT thể hiện ở chỗ các bên hợp tác đầu tư có quốc tịch khác nhau, vì vậy mới có sự di chuyển vốn giữa các quốc gia mà các bên mang quốc tịch. ĐTQT là một quá trình diễn ra trong một thời gian dài, có thể từ 5 đến 20 năm và có thể lên tới 50 năm hoặc lâu hơn . Vốn ĐTQT có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức, có thể là tiền mặt, giấy tờ có giá trị, máy móc thiết bị , nguyên vật liệu, quyền sử dụng đất, bằng phát minh, sáng chế, bí quyết kỹ thuật hay nhãn hiệu hàng hoá, kinh nghiệm quản lý hay danh tiếng của công ty, v.v… Lợi ích mà hoạt động ĐTQT đem lại cũng rất đa dạng, không chỉ là lợi ích kinh tế mà còn có cả lợi ích chính trị văn hoá - xã hội , lợi ích về môi trường. ĐTQT được chia ra thành hai loại hình đầu tư cơ bản: Đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Với phạm vi đề án này , tôi chỉ đề cập đến loại hình đầu tư trực tiếp trong ĐTQT , hay còn gọi là đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN). 3
- ĐTTTNN( Foreign Direct Investment – FDI) là một hình thức di chuyển vốn quốc tế , trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn . Thực chất, ĐTTTNN là việc các công ty nước ngoài đầu tư vốn vào nước sở tại , nhằm xây dựng các cơ sở sản xuất và làm chủ toàn bộ hoặc từng phần cơ sở đó . Nói khác đi, đây chính là hình thức mà c hủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, và điều đó cho phép hộ trực tiếp tham gia điều hành dự án đầu tư có toàn bộ hoặc một phần số vốn của họ . Trong hoạt động ĐTTTNN, nước đi đầu tư được gọi là nước chủ nhà, còn nước tiếp nhận vốn đầu tư được gọi là nước sở tại . Hoạt động ĐTQT nói chung và hoạt động ĐTTTNN nói riêng hình thành không chỉ đơn thuần là do mong muốn của các nhà đầu tư hay c ủa các quốc gia đi đầu tư, mà đó chính là một xu hướng khách quan. 2. Tính tất yếu khách quan của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài : Xu hướng ĐTTTNN hình thành là do sự cần thiết và khả năng khách quan, thể hiện ở một số điểm sau : - Do sự gặp gỡ lợi ích giữa các bên trong hoạt động ĐTTTNN: + Đối với bên trong vốn đầu tư: do có nhiều vốn và cạnh tranh khốc liệt nên tỷ suất lợi nhuận của vốn giảm, ĐTTTNN sẽ giúp họ tìm được, nơi đầu tư có lợi nhuận cao xâm chiếm thị trường và tránh được hàng vào thuế quan và phi thuế quan (trong xu hướng bảo hộ mậu dịch). Từ đó hình thành nên những tập đoàn lớn, đa quốc gia và xuyên quốc gia. + Đối với bên tiếp nhận vốn? Do thiếu vốn tích luỹ, do nhu cầu tăng trưởng, nhu cầu đổi mới kỹ thuật, công nghệ và tiếp nhận kinh nghiệm quản lý tiên tiến... để khai thác tài nguyên tạo việc làm cho dân cư, và đặc biệt đối với các nước đang phát triển thu hút vốn ĐTTTNN còn bảo đảm cho nhu cầu tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. - Do nhu cầu giải quyết những nhiệm vụ đặc biệt như xây dựng công trình có quy mô và cần hoạt động vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia đòi hỏi phải 4
- có sự phối hợp của nhiều nước, chẳng hạn như việc xây dựng các đường ống dẫn dầu và khí đốt, xây dựng hệ thống lưới điện xuyên Châu Âu, xây dựng tuyến cáp quang nối liền nhiều nước C hâu Á. Những nguyên nhân cơ bản trên đây khiến cho hoạt động đầu tư quốc tế hình thành và phát triển với quy mô ngày càng lớn. Tuy nhiên, khác với loại hình đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp trong ĐTQT có xu hướng phát triển mạnh mẽ hơn rất nhiều. Đó là do những đặc điểm riêng c ủa loại hình đầu tư này. 3. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài: Dựa trên cơ sở phân biệt giữa đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp trong ĐTQT, căn c ứ vào thực tiễn hoạt động ĐTTTNN trên thế giới, có thể rút ra một ssó đặc đIểm nổi bật sau đây về ĐTTTNN: * Các nhà đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo quy định của luật đầu tư của mỗi nước. Vốn pháp định trong dự án ĐTTTNN là vốn tự có của chủ đầu tư được quy định theo luật đầu tư. Sau khi góp vốn hợp lệ, nhà đầu tư nước ngoài có quyền tham gia vào việc quản lý và điều hành dự án đầu tư. Ở V iệt Nam, Luật đầu tư nước ngoài quy định tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoàI tối thiểu không dưói 30% vốn pháp và không quy định giới hạn vốn tối đa. Ở Mỹ tỷ lệ này được quy định là 10%, một số nước khác là 20%. * Quyền quản lý dự án đầu tư phụ thuộc vào mức độ góp vốn của mỗi bên, và sự hoạt động dưới bất cứ hình thức nào của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải tuân thủ pháp luật ở nước sở tại. Chẳng hạn, nếu vốn góp của nhà đầu tư là 100% thì nhà đầu tư nước ngoài có toàn quyền quản lý doanh nghiệp, và quyền này sẽ bị giảm đi nếu tỷ lệ vốn góp giảm xuống. * Lợi nhuận mà chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất k inh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định. Phần lợi nhuận này thường được các nhà đầu tư chuyển về nước sau khi đã nộp một khoản thuế hoặc cũng có thể được sử dụng để tái đầu tư ở nước sở tại. * Hoạt động ĐTTTNN được thực hiện thông q ua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua 5
- cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các doanh nghiệp vốn với nhau. Hoạt động ĐTTTNN thực hiện ở nước sở tại, nên toàn bộ quá trình từ đăng ký, triển khai, đến vận hành và kết thúc dự án ĐTTTNN phải chịu sự điều chỉnh của Bộ luật tương ứng, thường là luật đầu tư nước ngoài. Ví dụ ở Việt Nam, hoạt động ĐTTTNN chịu sự đIều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoàI tại Việt Nam ban hành năm 1987, ngoàI ra còn có trên 90 văn bản dưới luật do Chính phủ và các Bộ ban hành nhằm quy đ ịnh chi tiết việc thi hành đầu tư tại Việt Nam, chẳng hạn như Thông tư số 12/BKH của Bộ Kế hoạch - Đầu tư và Nghị định 24/CP của Chính phủ Việt Nam ban hành năm 2000. Với những đặc điểm trên Đ TTTNN đã có những tác động rất lớn đối với cả quốc gia đi đầu tư lẫn quốc gia tiếp nhận đầu tư. II. TÁC ĐỘNG CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI: ĐTTTNN là một hoạt động có phạm vi ảnh hưởng rất rộng lớn và mang tính hai mặt. Nó không chỉ tác động lên nước đầu tư mà còn ảnh hưởng đối với nước tiếp nhận đầu tư. 1. Tác động đối với nước chủ nhà: Đối với nước chủ nhà, ĐTTTNN đem lại cho họ những lợi ích sau: - Thứ nhất, bằng hoạt động ĐTTTNN các chủ đầu tư có khả năng trực tiếp kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp, do đó có thể khai thác hiệu quả số vốn của họ. Đây là ưu đIểm vượt trội so với loại hình đầu tư gián tiếp, trong đó chủ đầu tư không trực tiếp đIũi hành hoạt động của dongh nghiệp mà họ bỏ vốn ra mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc cho vay để kiếm lời qua lãi cho vay hay lợi tức cổ phần. - Thứ hai, Thông qua hình thức ĐTTTNN, các chủ đầu tư có thể chiếm lĩnh thị trường nước ngoài và tiếp cận đ ược nguồn nguyên liệu của nước sở tại mà không phải chịu chi phí nhập khẩu và chi phí vận chuyển. Thay vì viẹc xuaqát khẩu vào một htị trường nào đó, nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp sản xuất và cho tiêu thụ sản phẩm ngay trên thị trường này thông qua ĐTTTNN. Bên cạnh đó, nhà đầu tư nước ngoàI còn tận dụng đượcnguồn nguyên liệu ở nước sở tại mà không phảI nhập khẩu từ một nước thư ba. 6
- - Thứ ba, các chủ đầu tư nước ngoài có thể tận dụng được nguồn nhân công giá rẻ, giúp họ giảm chi phí và nâng cao năng suất lao động. Bởi vì, ở những nước tiếp nhận vốn (thường là nước chậm và đang phát triể n) thì mức sống cũng như mức lương là rất thấp, nguồn lao động lại dồi dào, do đó làm giảm đáng kể chi phí đầu vào cho các doanh nghiệp ĐTTTNN. - Thứ tư, do xây dựng được các doanh nghiệp trong lòng nước sở tại mà các chủ ĐTTTNN tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước đó, đồng thời có thể nắm bắt được thông tin về thị trường, như quan hệ cung cầu, thị hiếu của khách hàng và kịp thời cải thiện mẫu mã chất lượng sản phẩm. Đây là lợi thế hơn hẳn so với việc xuất khẩu sản phẩm sang thị trường nước sở tại. - Th ứ năm, ĐTTTNN giúp các nhà đầu tư chuyển giao công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, chuyển giao những máy móc, thiết bị lão hoá sang các nước đang và kém phát triển. Ví dụ như những nước chuẩn bị chuyển sang sử dụng công nghệ nguồn như Nhật Bản, ĐàI Loan, Hàn Quốc… thì những nước chậm và đang phát triển trở thành thị trường nhập khẩu những công nghệ thế hệ cũ của các nước này. - Thứ sáu, ĐTTTNN còn giúp nước chủ nhà bành trướng sức mạnh về kinh tế, nâng cao uy tín chính trị trên trường quốc tế... Thường những nước có tiềm lực kinh tế lớn và có ảnh hưởng lớn trong nền kinh tế thế giới như M ỹ, Đức, Pháp, Nhật Bản… là những nước đầu tư đầu tư ra nước ngoài lớn nhất thế giới. Lợi ích của nước đi đầu tư thì có thể nhìn thấy một cách rõ ràng như vậy, tuy nhiên, đ ứng ở góc độ nước tiếp nhận thì việc đánh giá tác động của việc ĐTTTNN phải được xem xét trên nhiều khía cạnh, nhiều mặt. 2. Tác động đối với nước sở tại: 2.1. Nước sở tại là nước phát triển: Hiện nay dòng chảy của tư bản quốc tế đang đổ dồn vào các nước công nghiệp phát triển như M ỹ và Tây Âu. Những nước này trở thành những trung tâm thu hút vốn lớn nhất thế giới (xem phụ lục I, II). Đối với những quốc gia này, 7
- ĐTTTNN đã giúp tái cơ cấu nền kinh tế, hiện đại hoá những ngành công nghiệp quan trọng, phát triển các ngành mũi nhọn... Và một số những lợi ích cơ bản sau: * G iúp giải quyết khó khăn về vấn đề kinh tế - xã hội như thất nghiệp và lạm phát. Đây là 2 vấn đề mà nhiều nước phát triển đang phảI đương đầu, khi dòng vốn ĐTTTNN chảy vào, các công ty, các doanh nghiệp mọc lên và thu hút nhiều lao động trực tiếp, đồng thời tạo ra một đội ngũ lao động gián tiếp hoạt động trong các ngành d ịch vụ, bổ trợ. Bên cạnh đó các công ty, các doanh nghiệp này sẽ tạo ra một khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ phong phú và đa dạng trên thị trường, góp phần làm giảm nguy cơ tăng giá và kìm chế lạm phát. * Cứu nguy cho một số Xí nghiệp trên bờ vực phá sản thông qua việc mua lại của các chủ ĐTTTNN. Khi đó, các công ty sẽ thoát khỏi cảnh nợ nần và có cơ hội phát triển trở lại, giữ vững chỗ đứng và danh tiếng trên thị trường. Đối với các công ty lớn thì việc bị phá sản sẽ dẫn đến phản ứng dây truyền trên thị trường và tác động xấu đến thị trường chứng khoán, chẳnh hạn như vụ sụp đổ của tập đoàn năng lượng Enron và công ty kiểm toán Arthur Anderson của Mỹ năm 2001. * Tăng thu ngân sách thông qua việc thu các loại thuế. Chẳng hạn như thuế thu nhập, thuế chuyển lợi nhuận về nước, thuế xuất nhập khẩu, thuế VAT… * Tạo ra môi trường cạnh tranh để thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thương mại. Ở các nước phát triển, cơ chế thị trường rất phát triển và có tính cạnh tranh cao, khi các nhà ĐTTTNN thâm nhập vào sẽ mở rộng thêm sân chơi này, làm tăng động lực phát triển kinh tế. * Giúp trao đổi kinh nghiệm quản lý và chiến lược cạnh tranh trong kinh doanh.v.v... 2.2. Nước sở tại là nước chậm và đang phát triển(NCVĐPT): Bên cạnh dòng vốn đổ xô vào các nước tư bản phát triển, còn có một lưu lượng vốn lớn chảy vào các nước chậm và đang phát triển. Đối với những nước này, tác động của hoạt đ ộng ĐTTTNN được đánh giá trên hai mặt cơ bản: mặt tích cực và mặt tiêu cực. 8
- 2.2.1. Những tác động tích cực: Hoạt động ĐTTTNN ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng đặc biệt của nó đối với những nước chậm và đang phát triển, thể hiện ở những điểm sau: - Thứ nhất, ĐTTTNN giúp giải quyết vấn đề thiếu vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vốn là một yếu tố quan trọng của tăng trưởng, đặc biệt trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế. Nhiều nhà kinh tế đã giải thích sự nghèo khó c ủa các nước chậm và đang phát triển thông qua cái "vòng luẩn quẩn" mà các nước này đang phải đối mặt. Đó là: Do sản lượng và thu nhập thấp, nên tích luỹ và đầu tư phát triển thấp, do đầu tư phát triển thấp nên trình độ khoa học công nghệ thấp, dẫn đến năng suất lao động thấp, kết quả là sản lượng và thu nhập thấp... Cái "vòng luẩn quẩn" này c ứ tiếp diễn và quốc gia đó sẽ không phát triển nếu như không có một "cú huých" từ bên ngoài. Đó chính vốn ĐTTTNN. Thiếu vốn tích luỹ đã hạn chế quy mô và hạn chế đôi mới kinh tế, gây ra tình trạng mất cân đối trong xuất nhập khẩu, cán cân thanh toán thường xuyên b ị thâm hụt, thiếu dự trữ ngoại tệ... Vì vậy, ĐTTTNN sẽ thúc đẩy xuất khẩu, nhập khẩu và làm tăng thu ngoại tệ, cải thiện tình trạng của cán cân thanh toán thâm hụt. Thực tế cho thấy, trong 3 thập kỷ qua các nước công nghiệp mới (NICs) Châu Á đã nhận được trên 50 tỷ USD vốn ĐTTTNN, đây là nhân tố quan trọng giúp các nước này trở thành những con rồng châu Á. Ở những nước chậm và đang phát triển, một bộ phận vốn lớn đang nằm trong tay dân cư. Hoạt động ĐTTTNN là động lực huy động được nguồn vốn này đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, các nước này tiếp thu được cách quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn của mình. - Th ứ hai, hoạt động ĐTTTNN giúp giải quyết một phần tình trạng thất nghiệp ở các nước chậm và đang phát triển. Thông qua việc tạo ra cho sự kiện mới, hoặc mở rộng quy mô của các đơn vị kinh tế, ĐTTTNN đã tạo ra phần lớn công ăn việc làm cho người lao động, qua đó làm tăng thu nhập của người dân. Chẳng hạn, ở X ingapo, Braxin, Mêxcô, tỷ lệ lao động trong các doanh nghiệp có 9
- vốn ĐTTTNN trong tổng số lao động lần lượt là: 54%, 23%, 21% (Nguồn: Giáo trình sau đại học môn: Kinh tế quốc tế), đây là những tỷ lệ tương đối cao và có ý nghĩa lớn trong việc giảm thất nghiệp ở các nước này. - Thứ ba, ĐTTTNN giúp cho các nước chậm và đang phát triển tiếp thu được nguồn công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại của các nhà đầu tư nước ngoài. Phần lớn công nghệ hiện có ở các nước này là công nghệ lạc hậu, năng suất thấp, bên cạnh đó, khả năng quản lý kém hiệu quả. Hơn nữa, việc nhập khẩu công nghệ hiện đại của nước ngoài đòi hỏi một khoảng ngoại tệ rất lớn. Trong khi đó, ĐTTTNN có sự quản lý trực tiếp của nhà quản lý đầu tư, do đó họ sẽ lựa chọn được công nghệ thích hợp và đưa ra phương pháp quản lý hiệu quả. Như vậy, ĐTTTNN là một kênh chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý quan trọng đối với các nước chậm và đang phát triển. - Thứ tư, ĐTTTNN góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở các nước chậm và đang phát triển theo hướng công nghệp hoá, và đưa nền kinh tế các nước này tham gia vào phân công lao động quốc tế một cách mạnh mẽ. Hoạt động ĐTTTNN tập trung chủ yếu vào các ngành quan trọng của nền kinh tế, chẳng hạn như các lĩnh vực: công nghệp chế tạo, công nghiệp lắp ráp có trình độ công nghệ tương đối cao. Khi tỷ trọng ngành công nghiệp ổn định trong nền kinh tế đã tăng lên thì các nước này có thể tham gia vào việc phân công lao động quốc tế thông qua việc chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng có lợi thế so sánh đối với phần còn lại của thế giới. - Thứ năm, hoạt động ĐTTTNN giúp khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên đã có từ lâu, nhưng do thiếu vốn và công nghệ hoặc là chưa được khai thác, hoặc là đã được khai thác với quy mô nhỏ và không có hiệu quả. - Thứ sáu, ĐTTTNN giúp cho các nước chậm và đang phát triển đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường thế giới, và tăng độ mở của nền kinh tế trong xu hướng khu vực hoá và toàn cầu hoá. Các nước này đã sử dụng nguồ vốn ĐTTTNN như là một lá bài chính trong chiến lược "công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu". Một số nước có tỷ lệ đóng góp của tư bản nước ngoài vào việc xuất khẩu khá lớn, chẳng hạn 10
- như Xingapo là 72,1%, Braxin 32,2%, Mêxicô 32,1%, Đài Loan 25,6%, Hàn Quốc 24,6%, Áchentina 24,9%, Thái Lan 23,7%... (Nguồn: Giáo trình sau đại học môn: Kinh tế quốc tế), khi tỷ trọng xuất khẩu trong GDP tăng lên c ũng có nghĩa là độ mở của nền kinh tế tăng lên. Điều đó giúp cho các nước chậm và đang phát triển tham gia tích cực hơn vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá. Ngoài ra, ĐTTTNN còn đóng góp vai trò to lớn đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế, xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng vật chất - kỹ thuật, hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, cơ chế hành chính và tạo ra xu hướng đầu tư ra nước ngoài... của các nước chậm và đang phát triển. Mặc dầu ĐTTTNN đem lại những lợi ích lớn cho các nước chậm và đang phát triển nhưng những lợi ích đó luôn đi kèm với những tác động tiêu cực. 2.2.2. Những tác động tiêu cực: Mặt trái của hoạt động ĐTTTNN thể hiện ở những khía cạnh sau: - Một là, ĐTTTNN dẫn đến tình trạng đầu tư tràn lan, huỷ hoại tài nguyên môi trường nếu như nước sở tại thiếu một kế hoạch cụ thể. Chính phủ của các nước chậm và đang phát triển có vai trò quyết định trong việc điều tiết cơ cấu đầ u tư theo ngành, vùng ... có lợi cho việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, việc làm trên đôi khi lại đi trái với lợi ích của các chủ đầu tư ngoại quốc, vì các dự án ĐTTTNN thường chỉ quan tâm đến lợi nhuận hơn là những lợi ích cho xã hội. Do vậy, các nước chậm và đang phát triển phải luôn thận trọng trong quá trình quy hoạch đầu tư, thẩm định và quản trị các dự án ĐTTTNN. - Hai là, do không chủ động nên nước sở tại có điều chỉnh được cơ cấu đầu tư theo ngành, vùng... theo ý muốn. Đây là nguy cơ c ủa sự phát triển không đều giữa các ngành các vùng kinh tế. - Ba là, công nghệ chuyển giao trong ĐTTTNN thường là công nghệ lạc hậu, cũ kỹ, giá cao, gây ô nhiễm môi trường và được chuyển giao một cách nhỏ giọt, khiến cho các nước sở tại luôn phải chạy theo công nghệ của nước ngoài, gây tốn kém thời gian và tiền của. 11
- - Bốn là, trong các dự án ĐTTTNN, do phía nước tiếp nhận thiếu kinh nghiệm quản lý nên thường bị thua thiệt. Chẳng hạn việc quản lý tài chính không rõ ràng dẫn đến tình trạng trốn thuế, làm giải nguồn thu ngân sách. - Năm là , môi trường đầu tư ở các nước chậm và đang phát triển thường kém hấp dẫn. Đây là nguyên nhân mà phần lớn dòng vốn đầu tư đổ dồn vào các nước công nghiệp phát triển trên thế giới.v.v. Nói tóm lại, những tác động trên đây của ĐTTTNN mới chỉ được nhìn nhận một cách trung nhất. Đối với mỗi quốc gia thì hoạt động ĐTTTNN lại có những ảnh hưởng riêng biệt do đặc thù của quốc gia đó. Đôi khi, những tác động trên lại phụ thuộc vào hình thức ĐTTTNN mà nhà đầu tư lựa chọn ở nước sở tại. III. CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI: Trong thực tiễn, hoạt động ĐTTTNN có nhiều hình thức tổ chức khác nhau, trong đó có 3 hình thức phổ biến là: - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng. - Doanh nghiệp liên doanh. - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Mỗi hình thức có những đặc trưng riêng, cụ thể từng hình thức như sau: 1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng: Hình thức hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hay còn gọi là hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức mà các bên đối tác (bên nước ngoài và bên nước sở tại) sẽ hợp tác kinh doanh với nhau theo một hợp đồng kinh doanh. Hình thức này không hình thành nên một pháp nhân ở nước sở tại, mà nhà đầu tư nước ngoài được phép thành lập văn phòng đại diện của mình. Các hoạt động sản xuất kinh doanh c ủa các bên được tiến hành theo nội dung và các điều lệ của hợp đồng. Theo Luật đầu tư nước ngoàI ở Việt Nam, Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư trong đó bên Việt Nam và bên nước ngoài cùng nhau thực hiện hoẹp đồng được ký kết giữa hai bê n vè việc cùng phối hợp với nhau trong sản xuất hoặc tiêu thụ một loại sản phẩm hay dịch vụ nào đó với sự quy định rõ trách 12
- nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thông thường, hình thức này chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong tổng số vốn ĐTTTNN. Do hình thức này khó thực hiện trên thực tế và hiệu quả đem lại thường không cao. 2. Doanh nghiệp liên doanh: Doanh nghiệp liên doanh (DNLD) là một tổ chức kinh doanh quốc tế của các bên tham gia có quốc tịch khác nhau trên cơ ở cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng quản lý, và cùng phân phối kết quả kinh doanh nhằm thực hiện các cam kết trong hợp đồng liên doanh và điều lệ DNLD phù hợp với khôn khổ hợp pháp nước sở tại. Khác với hình thức Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, hình thức DNLD có một số đặc trưng cơ bản sau: - Đặc trưng về pháp lý: + Trước hết, DNLD là một pháp nhân của nước sở tại. Do đó, doanh nghiệp này phải hoạt động theo luật pháp của nước sở tại. Hình thức pháp lý của liên doanh là do các Bên thoả thuận phù hợp với các quy định của Pháp luật nước sở tại. Ví dụ, ở Việt Nam hiện nay mới chỉ cho phép các DNLD hoạt động với hình thức công ty TNHH. Ở nhiều nước, DNLD còn được phép hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm vô hạn, các hiệp hội góp vốn... + Bên cạnh đó, quyền quản lý doanh nghiệp còn phụ thuộc vào tỷ lệ vốn góp, có nghĩa là bên nào có tỷ lệ góp vốn cao thì sẽ nắm vững vị trí chủ chốt và quan trọng trong bộ máy quản lý. +Sau nữa, quyền lợi và nghĩa vụ của các Bên được ghi trong hợp đồng liên doanh và điều lệ của DNLD. - Đặc trưng về kinh tế - tổ chức: + Về tổ chức, Hội đồng quản trị của DNLD là môi hình tổ chức chung cho mọi DNLD không phụ thuộc vào quy mô, lĩnh v ực hai ngành nghề hoạt động. Đây là cơ quan lãnh đạo cao nhất của DNLD. 13
- + Về kinh tế,luôn có sự gặp gỡ và phân chia lợi ích giữa các Bên trong liên doanh. Lợi nhuận trong DNLD được phân chia theo tỷ lệ vốn góp. - Đặc trưng về kinh doanh: Trong liên doanh, các Bên đôi tác về cùng góp vốn, cùng sở hữu nên thường xuyên phải c ùng nhau bàn bạc để giải quyết mọi vấn đề cần thiết và nảy sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh . Các quyết định kinh doanh có thể được đưa ra theo nguyên tắc nhất trí hoặc quá bán. - Đặc trưng về văn hoá - xã hội: Trong DNLD cũng luôn có sự cọ xát, gặp gỡ giữa các nền văn hoá khác nhau, được thể hiện ở sự khác biệt về ngôn ngữ, triết lý kinh doanh, lối sống, tập quán, ý thức pháp luật... Điều này dễ dẫn đến những mâu thuẫn giữa các bên đối tác, và có thể trở thành nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ DNLD. Tóm lại, những đặc trưng trên đây c ủa hình thức DNLD thích hợp với quá trình Đ TTTNN ở thời kỳ đầu. Nó giúp cho nước sở tạ tránh được những sự kiểm soát của nước ngoài, đồng thời giúp bên đối tác nước ngoài hạn chế được rủi ro của môi trường kinh doanh. Những đặc điểm này hoàn toàn khác biệt với hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. 3. doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài : Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (DN 100% VNN) là một thực thể kinh doanh quốc tế, có tư cách pháp nhân trong đó các nhà đầu tư nước ngoài góp 100% vốn pháp định, tự quản lý doanh nghiệp và tự chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết kinh doanh của doanh nghiệp. So với DNLD, DN 100% VNN có một số đặc trưng khác biệt sau: - Đặc trưng về pháp lý: + DN 100% VNN cũng là pháp nhân c ủa nước sở tại, nhưng toàn bộ doanh nghiệp lại thuộc sở hữu của người nước ngoài. + Hình thức pháp của DN 100% VNN là do nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn trong khuôn khổ luật pháp nước sở tại. Ví dụ, ở Việt Nam, hình thức hợp pháp c ủa DN 100% VNN là công ty TNHH. 14
- + Quyền quản lý doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài hoàn toàn chịu trách nhiệm. - Đặc trưng về kinh tế - tổ chức: + Mô hình tổ chức của DN 100% VNN là do nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn trong khuôn khổ pháp luật nước sở tại + Về kinh tế, nhà đầu tư nước ngoài chịu trách nhiệm về mọi kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và được hưởng toàn bộ kết quả kinh doanh sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với nước sở tại. - Đặc trưng về kinh doanh: Khác với DNLD, nhà đầu tư nước ngoài có toàn quyền quyết định mọi vấn đề trong DN 100% VNN. Môi trường kinh doanh ở nước sở tại thường xuyên tác động, chi phối rất lớn đến kết quả và quy mô của họat động kinh doanh của DN 100% VNN. - Đặc trưng về văn hoá - xã hội: Trong DN 100% VNN cũng có sự gặp gỡ, cọ xát giữa các nền văn hoá khác nhau, nhưng s ự khác biệt chỉ phát sinh trong quan hệ giữa nhà đầu tư nước ngoài với người lao động là dân bản sứ bên mức độ và tính chất cọ xát ít hơn so với DNLD. Với những đặc trưng trên, DN 100% VNN thường xuất hiện trong giai đoạn sau của quá trình ĐTTTNN, khi mà nhà đầu tư đã tích tụ được một số kinh nghiệm làm ăn ở nước sở tại, đồng thời nước sở tại hoàn toàn có khả năng kiểm soát đối với hoạt động đầu tư nước ngoài. Dù hoạt động dưới bất cứ hình thức nào, quá trình Đ TTTNN c ũng phải chịu những tác động, ảnh hưởng to lớn từ môi trường đầu tư ở nước sở tại và ở các môi trường khác. IV. NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGO ÀI: 15
- Những yếu tố tác động đến hoạt động ĐTTTNN có thể là những yếu tố nằm ngay bên trong nước sở tại (yếu tố c hủ quan), cũng có thể là những yếu tố từ bên ngoài (yếu tố khách quan) 1. Yếu tố chủ quan: Thực chất những yếu tố chủ quan chính là những yếu tố thuộc về môi trường đầu tư ở nước sở tại, dưới cách này hay cách khác, chúng tác động một cách mạnh mẽ lên dòng vốn ĐTTTNN. Nó thể hiện ở những điểm sau: -Thứ nhất là những yếu tố thuộc môi trường kinh tế. Trong đó bao gồm: chiến lựợc phát triển kinh tế của nước sở tại; cơ cấu kinh tế; thể chế kinh tế của nền kinh tế (thể chế kinh tế thị trường, cơ chế tập trung hay nền kinh tế hỗn hợp); trình độ phát triển kinh tế; quy mô của nền kinh tế (thu nhập bình quân, GDP…)v.v. Những yếu tố trên có thể tạo thuận lợi, hoặc gây rủi ro cho nhà đầu tư nước ngoài. Những trường hợp xảy ra rủi ro là do suy thoái kinh tế, lạm phát, cán cân thanh toán thâm hụt. Vì vậy một môi trường kinh tế phát triển và ổn định là động lực lớn thu hút vốn ĐTTTNN. -Thứ hai là những yếu tố thuộc về môi trường chính trị, như thể chế chính trị (thể chế quân chủ, cộng hoà, hay xã hội chủ nghĩa); những chính sách phát triển kinh tế (chính sách tài chính – tiền tệ, chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoái, chính sáh dự trữ ngoại tệ chính sách tài khoá…). Hoạt động ĐTTTNN phải đối mặt với 3 loại rủi ro vè chính trị, đó là: việc tịch thu hành chính, các quy định không mong đợi, những quy định ngoài ý muốn. Người ta cũng đã đưa ra được 8 tiêu thức đánh giá rủi ro chính trị, đó là: sự ổn định của hệ thống chính trị; sự xung đột nội bộ sắp xảy ra; sự đe doạ từ bên ngoài; mức độ kiểm soát hệ thống kinh tế; sự tin cậy của quốc gia như một đối tác kinh doanh; sự bảo đảm hiến pháp; hiệu quả của quản lý hành chính; những mối quan hệ về lao động. -Thứ ba là những yếu tố thuộc môi trường luật pháp. Những yếu tố này ảnh hưởng đến phương thức thâm nhập thị trường của nhà đầu tư (xuất khẩu hay ĐTTTNN); ảnh hưởng đến việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư; ảnh hưởng đến sự hoạt động an toàn c ủa nhà đầu tư ở nước sở tại… Nguồn luật quan trọng nhất tác động 16
- lên hoạt động ĐTTTNN là luật đầu tư nước ngoài, vì vậy, các quốc gia không ngừng hoàn thiện hệ thống luật pháp, đặc biệt là luật đầu tư nước ngoài theo hướng có lợi cho nhà đầu tư đê tắng sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. -Thứ tư là những yếu tố thuộc môi trường văn hoá. Những yếu tố này bao gồm các phong tục tập quán, thuần phong mỹ tục, thị hiếu, thẩm mỹ, nghệ thuật, tôn giáo, ngôn ngữ, lối sống…Chúng tác động gián tiếp lên hoạt động ĐTTTNN thông qua thị hiếu, nhu cầu tiêu dùng, phong cách làm việc của con người. - Thứ năm là các thủ tục hành chính nhà đầu tư sẽ phải trải qua khi thực hiện hoạt động ĐTTTNN ở nước sở tại. Đó là những thủ tục về cấp giấy phép đầu tư, thủ tục thẩm định dự án đầu tư, thủ tục cho thuê đất, nhượng quyền sử dụng đất, thủ tục đăng ký tư cách pháp nhân, chế độ kế toán, đăng ký dịch vụ Bưu chính viễn thông, đăng ký tài khoản ở ngân hàng, thủ tục đăng ký sử dụng lao động nước ngoài...Nói chung mong muốn của nhà đầu tư nước ngoài là các thủ tục hành chính phải hết sức đơn giản, để có thể nhanh chóng đưa một dự án ĐTTTNN đi vào triển khai, vận hành. Vì vậ y, nếu thủ tục hành chính quá rườm rà, phức tạp, nhiều cửa sẽ là một yếu tố cản trở dòng vốn ĐTTTNN. - Thứ sáu là cơ sở hạ tầng vật chất - k ỹ thuật ở nước sở tại. Yếu tố này tạo ra khả năng thực hiện các giao dịch và đưa sản phẩm, dịch vụ tới thị trường, giúp cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hoá được thực hiện một cách nhanh chóng. Nó bao gồm hệ thống giao thông (đường xá, cầu cống, sân bay, bến cảng), hệ thống điện, hệ thống cấp thoát nước, mạng lưới Bưu chính viễn thông, thông tin liê n lạc, dịch vụ bảo hiểm, kế toán, kiểm toán, dịch vụ ngân hàng tài chính và các nhân tố cơ bản khác. Nếu hệ thống cơ sở hạ tầng tốt sẽ là một yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này cũng giải thích tại sao dòng vốn ĐTTTNN lại đổ dồn vào các nước công nghiệp phát triển, như M ỹ và Tây Âu, nơi có điều kiện về cơ sở hạ tầng rất phát triển. - Thứ bảy là yếu tốt con người. Đây là nhân tố tham gia trực tiếp và gián tiếp vào hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Một bộ phận nằm trong đội ngũ cán bộ quản lý, một bộ phận nằm trong đội ngũ lao động. Nếu nh ư 17
- nguồn nhân lực ở nước sở tại có chất lượng thấp thì sẽ gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc đào tạo cán bộ quản lý cũng như công nhân. V ì vậy, một quốc gia có được đội ngũ lao động chất lượng và trình độ cao sẽ trở thành nơi hấp dẫn đối với các hoạt động ĐTTTNN. - Thứ tám là yếu tố thuộc về thị trường. Quy mô và khả năng tăng trưởng về thị trường có ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của nhà ĐTTTNN. Thông thường, một thị trường lớn với sức mua cao, tăng trưởng nhanh sẽ đóng vai trò then chốt trong việc tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, do đó nó sẽ tạo ra sức hút lớn đối với vốn ĐTTTNN. Một số nước lớn như nước Mỹ, Trung Quốc đã chứng tỏ được lợi thế về thị trường, và do đó trở thành những trung tâm hút vốn lớn trên thế giới. - Thứ chín là độ mở của nền kinh tế so với khu vực và thế giới. Nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước sở tại không chỉ với mục đích chiếm lĩnh thị trường này, mà còn dựa vào nước sở tại như là một điểm tựa để xâm nhập các thị trường. Vì vậy các nhà đầu tư nước ngoài luôn tìm kiếm những nước có cơ chế thông thoáng, tự do hoá về mậu dịch và đầu tư. Do đó, các quốc gia hiện nay luôn hướng đến chính sách tự do hoá một cách toàn diện, hội nhập vào nền kinh tế thế giới một cách sâu, rộng như là một chiến lược tăng sức hút với vốn ĐTTTNN. - Th ứ mười là sức mạnh và sự ổn định của đồng nội tệ. Nếu nhà đầu tư đi đầu tư bằng Đô la Mỹ sau đó định giá bằng đồng nội tệ bị mất giá trị thì sẽ dẫn đến giảm giá trị vốn đầu tư cũng như lợi nhuận khi chuyển về nước. V ì vậy, nếu đồng tiền của nước sở tại bất ổn định và dao động nhiều thì sẽ gây rủi ro lớn cho nhà đầu tư và hạn chế dòng vốn ĐTTTNN. Ví dụ như cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á năm 1997 đã làm cho đồng tiền của các nước Châu Á bị mất giá so với đồng Đô la Mỹ, và lập tức các nhà đầu tư liên tiếp rút vốn khỏi các thị trường này, khiến cho vốn ĐTTTNN ở Châu á giảm liên tục trong những năm 1996,1997, 1998. - Cuối cùng là các chính sách quản lý vĩ mô của nàh nước. Yếu tố này thường ảnh hưởng gián tiếp đến hoạt động ĐTTTNN. Ví dụ như sự can thiệp quá 18
- sâu c ủa Nhà nước luôn tạo ra cảm giác không an toàn cho nhà đầu tư và làm giảm mức độ cạnh tranh trên thị trường. Chủ đầu tư nước ngoàI luôn muốn duy trì s ự đIều tiết tối thiểu của Chính phủ nước sở tại đối với các công ty tư nhân. Đồng thời, niềm tin của họ sẽ tăng lên khi chính sách quản ý vĩ mô của Nhà nước ổn định và có thể dự báo được, vì “luật chơI không thay đổi giữa cuộc chơI”. Bên cạnh đó, một Chính phủ trung thực và có hiệu quả, có khả năng duy trì trật tự luật pháp của nước sở tại cũng là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho nhà đầu tư. Vì vậy, các chính sách quản lý vĩ mô khi đưa ra cần phảI hợp lývà tạo thuận lợi cho nhà đàu tư, bảo vệ môI trường cạnh tranh và giảm thiểu tiêu cực trong thi hành luật pháp. Bên cạnh những yếu tố chủ quan trên là những yếu tố thuộc môi trường bên ngoài nước sở tại hay là những yếu tố khách quan. 2. Yếu tố khách quan: Những yếu tố khách quan tác động lên hoạt động ĐTTTNN đ ược xem xét dưới góc độ của nước sở tại, và bao gồm những điểm sau: - Một là khả năng của nhà đầu tư. Trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế thế giới, dòng vốn ĐTTTNN đều giảm sút, do hầu hết các nước chủ nhà thay nhau rút vốn đầu tư về nước vì lý do yếu kém về mặt tài chính. Ngược lại, khi có nền tài chính vững mạnh thì các chủ đầu tư lại chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư thu lợi nhuận. - Hai là sự biến động của tình hình kinh tế khu vực và thế giới. Chẳng hạn như những cuộc khủng hoảng kinh tế tầm khu vực và thế giới luôn có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động ĐTTTNN. Điều này là rất rõ ràng, vì khi xảy ra khủng hoảng thì tiềm lực của các chủ đầu tư c ũng như nước sở tại đều suy yếu. Sức mua của thị trường giảm sút, do đó tỷ suất lợi nhuận cũng suy giảm. Khi đó, hiệu quả tất yếu này là sự giảm sút của hoạt động ĐTTTNN trên phạm vi khu vực và Thế giới. - Ba là sự cạnh tranh từ các quốc gia khác trong việc thu hút vốn ĐTTTNN. Xác định được vai trò của ĐTTTNN đối với nền kinh tế nên hầu hết các quốc gia đều chú tâm đến việc thu hút nguồn vốn này. Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia thu hút vốn.Sự cạnh tranh này sẽ dẫn đến sự giảm sút trong 19
- ĐTTTNN ở những nước có môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Hiện nay, Trung Quốc đang nổi lên một hiện tượng hút vốn ĐTTTNN mạnh trên thế giới, và điều đó có ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Bên cạnh việc bị chi phối bởi những nhân tố trên, sự vận động của dòng vốn ĐTTTNN còn chịu sự chi phối của những xu hướng nhất định. V. CÁC XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA DÒNG VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGO ÀI TRÊN TH Ế GIỚI. Hoạt động ĐTTTNN ngày càng gia tăng và liên tục biến động, đặc biệt là trong những năm gần đây. Vì vậy, việc định hình xu hướng biến động và dự báo sự thay đổi của hoạt động này trong tương lai có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoạch định chính sách về thu hút vốn ĐTTTNN của mỗi quốc gia. Sau đây là một số xu hướng nổi bật. 1. Xu hướng tự do hoá trong đầu tư trực tiếp nước ngoài: Tự do hoá đầu tư là một xu hướng, trong đó hoạt động ĐTTTNN được tạo những điều kiện ngày càng thuật lợi cả về mặt pháp lý cũng như mặt hành chính và về các điều kiện cần thiết khác cho quá trình đầu tư trực tiếp được triển khai. Nội dung của xu hướng tự do hoá đầu tư là việc Chính phủ áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm hoàn thiện các môi trường pháp lý, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, cải cách các thủ tục hành chính cũng như áp dụng các đòn bẩy kinh tế... để khuyến khích hoạt động ĐTTTNN vào một quốc gia nhất định. Xu hướng tự do hoá ĐTTTNN được thể hiện ở 3 bình diện: quốc gia, khu vực và quốc tế. Trên bình diện quốc gia là việc giảm dần những hạn chế về hình thức đầu tư, lĩnh vực đầu tư , về những quy định trong việc góp vốn, về quyền thuê mướn nhân công, quy định về chuyển giao công nghệ, tỷ hàng hoá xuất khẩu, tỷ lệ nội địa hoá... Bên cạnh đó, các quốc gia cũng đưa ra các khuyến khích khác như tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, các ưu đãi tài chính và thuế... để kích thích các nhà đầu tư nước ngoài. Trên bình diện khu vực và bình diện quốc tế, tự do hoá đầu tư là việc hình thành lên những khu vực đầu tư tự do, ký kết các hiệp định thương 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn