LUẬN VĂN: Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn Thanh Hoá từ nay tới 2010
lượt xem 24
download
Thanh Hoá là một tỉnh rộng lớn, có điều kiện tự nhiên dồi dào, phong phú. Tuy nhiên Thanh Hoá vẫn là một tỉnh nghèo, với hơn 80% dân số sống bằng nông nghiệp. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ đổi mới đã đưa nền kinh tế của tỉnh ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước đi lên. Tuy nhiên cho đến nay nền kinh tế Thanh Hoá vẫn còn nhỏ bé, trình độ công nghệ vẫn còn thấp, kết cấu hạ tầng lạc hậu. ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn Thanh Hoá từ nay tới 2010
- LUẬN VĂN: Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn Thanh Hoá từ nay tới 2010
- Lời nói đầu Thanh Hoá là một tỉnh rộng lớn, có đ iều kiện tự nhiên dồi dào, phong phú. Tuy nhiên Thanh Hoá vẫn là một tỉnh nghèo, với hơn 80% dân số sống bằng nông nghiệp. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ đổi mới đã đưa nền kinh tế của tỉnh ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, từng bước đi lên. Tuy nhiên cho đến nay nền kinh tế Thanh Hoá vẫn còn nhỏ bé, trình độ công nghệ vẫn còn thấp, kết cấu hạ tầng lạc hậu. Quy mô xuất khẩu hàng công nghiệp còn nhỏ bé so với tiềm năng của mình. Trong quá trình thực tập tại Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Thanh Hoá, Em đã chọn đề tài “Phương hướng và giải pháp phát triển công nghiệp trên địa bàn Thanh Hoá từ nay tới 2010” nhằm đánh giá và đưa ra những giải pháp để phát triển công nghiệp của tỉnh, góp phần công nghiệp hoá, hiện đại hoá quê hương. Đề tài này bao gồm 3 phần: Phần I: Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Phần II: Thực trạng phát triển công nghiệp Thanh Hoá từ 1991 đến nay. Phần III: Ph ương hư ớng và giải pháp phát triển công nghiệp tỉnh Thanh Hoá từ nay tới 2010.
- Phần I Sự cần thiết khách quan phái phát triển công nghiệp I. sản xuất công nghiệp và đặc điểm của sản xuất công nghiệp. 1. Nội dung của sản xuất công nghiệp. Nền kinh tế quốc dân bao gồm tổng thể các ngành sản xuất vật chất và sản xuất phi vật chất. Trong các ngành sản xuất thì công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân của mọi quốc gia. Hoạt động sản xuất công nghiệp có đặc đ iểm khác hẳn với hoạt động sản xuất khác trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp bao gồm ba hoạt động chủ yếu: - Khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thủy. - Sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội. - Sản xuất và phân phối điện, nước và khí. Để thực hiện ba hoạt động cơ bản đó, dưới sự tác động và phân công lao động xã hội trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công nghệ, trong nền kinh tế quốc dân đã hình thành hệ thống các ngành công nghiệp. - Công nghiệp khai thác. - Các ngành sản xuất và chế biến sản phẩm. - Công nghiệp sản xuất và phân phối điện, nước và khí. Hoạt động khai thác là hoạt động mở đầu của toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp. Tính chất của hoạt động này là đưa các đối tượng lao động ra khỏi môi trường tự nhiên, tạo ra cơ sở nguyên liệu nguyên thuỷ cho công nghiệp nhằm phục vụ cho sản xuất và đời sống con người gồm:
- - Khai thác nguồn năng lượng như dầu mỏ, khí đ ốt, than. - Khai thác các quặng kim loại. - Khai thác các quặng phi kim loại (chủ yếu là vật liệu xây dựng). - Khai thác các quặng đặc biệt. Hoạt động chế biến là hoạt động làm thay đổi hoàn toàn về chất của các nguyên liệu nguyên thuỷ, để tạo ra các sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến thành các sản phẩm cuối cùng đưa vào tiêu dùng trong sản xuất và trong đ ời sống. Quá trình chế biến từ một loại nguyên liệu có thể tạo ra được một loại sản phẩm tương ứng, và cũng có thể một loại sản phẩm nào đó được tạo ra từ những nguyên liệu khác nhau. Sản phẩm trung gian là các sản phẩm được coi là nguyên liệu cho quá trình sản xuất công nghiệp tiếp theo. Sản phẩm cuối cùng là sản phẩm đã ra khỏi quá trình sản xuất công nghiệp để đưa vào sử dụng trong sản xuất hay tiêu dùng trong đời sống. Theo nguyên tắc phân ngành kinh tế quốc dân, ngành công nghiệp chế biến gồm ba ngành công nghiệp chủ yếu: - Công nghiệp chế tạo công cụ sản xuất bao gồm ngành cơ khí, chế tạo máy, các ngành kỹ thuật điện và điện tử. Đây là ngành cung cấp toàn bộ tư liệu sản xuất cho nền kinh tế. - Công nghiệp chế biến trên đối tượng lao động như công nghiệp hóa chất, hóa dầu công nghiệp luyện kim và công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng. - Công nghiệp chế biến thực phẩm, vật phẩm tiêu dùng nh ư công nghiệp sản xuất gỗ, giấy, công nghiệp thủy tinh, sành, sứ, da và may mặc, công nghiệp chế biến thực phẩm phục vụ cho đời sống con người. Hoạt động sản xuất và phân phối điện nước là hoạt động tạo ra sản phẩm điện, nước nhằm phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. Như vậy, có thể hiểu công nghiệp là ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, bao gồm một hệ thống các ngành sản xuất chuyên môn hóa hẹp đó lại bao gồm nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều loại hình khác nhau. 2. Các phương pháp phân lo ại: Trong hoạt động quản lý công nghiệp thường thực hiện một số biện pháp sau đây đ ể
- phân lo ại công nghiệp. 2.1. Phân loại công nghiệp theo công dụng kinh tế của sản phẩm: Căn cứ của phương pháp này là dựa vào công dụng kinh tế của sản phẩm người ta chia công nghiệp ra thành các ngành sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng. Các sản phẩm có chức năng là tư liệu sản xuất thuộc nhóm A, các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng thuộc nhóm B. Vận dụng phương pháp phân loại này để sắp xếp các cơ sở sản xuất công nghiệp vào hai nhóm ngành tương ứng là công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Ngành công nghiệp nặng là tổng hợp các đ ơn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng, chủ yếu là trong sinh hoạt. Căn c ứ của sự phân loại này dựa vào phương hướng sản xuất kinh doanh là chủ yếu và tỷ trọng sản phẩm được sản xuất là tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng. 2.2. Phân loại công nghiệp thành các ngành chuyên môn hẹp: Phương pháp phân loại này dựa vào đặc trưng kỹ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau để sắp xếp các đ ơn vị sản xuất kinh doanh thành các ngành công nghiệp chuyên môn hóa. Ngành công nghiệp chuyên môn hóa là tổng hợp các xí nghiệp sản xuất công nghiệp mà hoạt động của chúng có những đặc đ iểm kỹ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau: - Cùng thực hiện một ph ương pháp công nghệ hoặc công nghệ tương tự. - Sản phẩm được sản xuất từ một loại nguyên liệu hay nguyên liệu đồng loại. - Sản phẩm có công dụng cụ thể giống nhau hoặc tương tự nhau. 2.3. Phân loại công nghiệp dựa vào hình thức khác nhau về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức sản xuất xã hội và trình độ kỹ thuật của sản xuất công nghiệp. Theo phương pháp này hình thành các loại hình công nghiệp như: công nghiệp quốc doanh với công nghiệp ngoài quốc doanh; công nghiệp lớn với công nghiệp vừa và nhỏ. Các phương pháp này có ý nghĩa lớn trong việc hoạch định các giải pháp xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong việc tổ chức sản xuất và đầu tư vào việc ứng dụng vào
- khoa học và công nghệ trong ngành công nghiệp. Riêng ba phương pháp phân loại đầu là những cách phân loại theo ngành để hình thành các lĩnh vực và các ngành công nghiệp chuyên môn hóa, chúng được sử dụng phổ biến ở nhiều nước. ở nước ta, trong nghị định của Hội đồng Bộ trưởng về phân ngành kinh tế quốc dân, phân ngành kinh tế thành 16 thành cấp I. Ngành công nghiệp là một trong 16 ngành cấp I lại được phân thành 19 ngành cấp II và trong 19 ngành cấp II lại được phân thành các ngành chuyên môn hóa hẹp hơn. Phương pháp phân ngành này đến nay không còn phù hợp và được thay thế bằng hệ thống mới, theo đó th ì ngành công nghiệp được phân thành ba ngành c ấp I. Căn cứ vào đặc đ iểm kỹ thuật của sản xuất, mỗi loại hoạt động sản xuất công nghiệp phân các ngành chế biến thành các ngành công nghiệp cấp II, III và IV. 3. Đặc điểm của hoạt động sản xuất công nghiệp. Nếu xét trên góc độ tổng hợp của mối quan hệ con người trong hoạt động sản xuất thì quá trình sản xuất là sự tổng hợp của hai mặt: mặt kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế - xã hội của sản xuất. Trong lĩnh vực sản xuất của xã hội, do sự phân công lao động xã hội, nền kinh tế chia thành nhiều ngành kinh tế: nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng, dịch vụ... Nhưng xét trên phương diện tính chất tương tự của công nghệ sản xuất có thể coi là tổng thể của hai ngành: công nghiệp và nông nghiệp, còn các ngành khác có thể là dạng đặc thù của hai ngành này. Việc phân tích đặc điểm của sản xuất công nghiệp chính là xem xét sản xuất công nghiệp khác sản xuất nông nghiệp trên hai phương diện: Mặt kỹ thuật của sản xuất và mặt kinh tế - xã hội của sản xuất như thế nào. 3.1. Đặc điểm về mặt kỹ thuật của sản xuất công nghiệ p: Đặc điểm về mặt công nghệ sản xuất: trong công nghiệp chủ yếu là quá trình tác động trực tiếp bằng ph ương pháp cơ - lý - hóa của con người làm thay đổi các đối tượng lao động thành các sản phẩm thích ứng với nhu cầu con người, trong khi đó sản xuất nông nghiệp lại bằng phương pháp sinh học là chủ yếu. Trong công nghiệp ngày nay, phương pháp công nghệ sinh học cũng được ứng dụng ngày càng rộng rãi, đặc biệt là công nghệ thực phẩm.
- Đặc điểm về sự biến đổi của các đối tượng lao đ ộng sau mỗi chu kỳ sản xuất, được thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể này đã chuyển sang sản phẩm có công dụng kinh tế hoàn toàn khác. Hoặc một loại nguyên liệu sau quá trình sản xuất có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có công dụng khác nhau. Trong khi đó đối tượng lao động của sản xuất nông nghiệp bao gồm các động vật và thực vật sau quá trình sản xuất chỉ có sự thay đổi về mặt lượng là chủ yếu. Về công dụng kinh tế của sản phẩm: sản phẩm công nghiệp có khả năng đáp ứng nhiều loại nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Sản xuất công nghiệp là hoạt động sản xuất duy nhất tạo ra các sản phẩm thực hiện chức năng là các tư liệu lao động trong các ngành kinh tế quốc dân. Đặc điểm này cho thấy vị trí chủ đạo của ngành công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan, xuất phát từ bản chất của quá trình sản xuất đó. 3.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của sản xuất công nghiệp: Do các đặc điểm về mặt kỹ thuật của sản xuất nêu trên. Trong quá trình phát triển, công nghiệp luôn là ngành có điều kiện phát triển về mặt kỹ thuật, tổ chức sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển nhanh ở trình độ cao, nhờ đó mà quan hệ sản xuất có tính tiên tiến hơn sản xuất nông nghiệp. Do đặc điểm kỹ thuật của sản xuất, trong quá trình sản xuất công nghiệp đã tạo ra được một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỷ luật cao, có tác phong "công nghiệp". Đội ngũ lao động trong giai cấp công nhân luôn luôn là bộ phận tiên tiến trongcộng đồng dân cư của mỗi quốc gia, mỗi đất nước. Cũng do đặc điểm về công nghệ và sự biến đổi của đối tượng lao động, trong công nghiệp có điều kiện và cần thiết phải phân công lao động ngày càng sâu, tạo điều kiện, tiền đề để phát triển nền sản xuất hàng hóa ở trình độ và tính chất cao hơn nông nghiệp. Nghiên c ứu các đ ặc điểm về mặt kỹ thuật và kinh tế - xã hội của sản xuất công nghiệp cho ta thấy được vị trí vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan xuất phát từ bản chất quá trình sản xuất công nghiệp. Đồng thời nó có ý nghĩa trong việc tổ chức sản xuất, trong việc phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp đối
- với quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. II. Vai trò c ủa công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. 1. Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất to lớn và độc lập. Đó chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Vai trò lịch sử của công nghiệp trong việc phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được nghiên cứu bởi học thuyết Mác-Lênin, V.I.Lênin phân tích những luận điểm của Mác-Ănghen và chứng minh ph ương hướng phát triển của công nghiệp như là ngành chủ đạo của nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó xuất phát từ bản chất, những đặc điểm vốn có của công nghiệp. Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp luôn luôn giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được hiểu là: công nghiệp là ngành có sự ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển lực lượng sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân, đồng thời công nghiệp có khả năng tạo ra những động lực và định hướng phát triển của các ngành khác. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được thể hiện ở các mặt chủ yếu sau: - Công nghiệp là một trong ba bộ phận quyết đ ịnh sự hình thành cơ cấu kinh tế của một n ước. Tổng sản phẩm xã hội của một quốc gia bao gồm các giá trị sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Do vậy, công nghiệp là một bộ phận cấu thành cơ cấu: công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ của mỗi quốc gia. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay là tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. - Công nghiệp không chỉ là ngành tác động trực tiếp đến sự phát triển mà còn tác động gián tiếp đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống hàng ngày của con người thông qua việc thúc đẩy các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân phát triển, mà các ngành này có tác động trực tiếp đến đời sống của con người như: nông nghiệp, dịch vụ, v.v... Mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu
- ngày càng cao của con người. Trong quá trình đó, công nghiệp là ngành không chỉ khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên liệu nguyên thủy được khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên thủy được khai thác và sản xuất từ các loại tài nguyên khoáng sản, thành các sản phẩm trung gian để sản xuất ra những sản phẩm cuối cùng nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Trong khi đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chỉ có thể tạo ra những sản phẩm trung gian để sản xuất ra những sản phẩm cuối cùng nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Trong khi đặc đ iểm của sản xuất nông nghiệp chỉ có thể tạo ra những sản phẩm từ các nguồn tài nguyên động thực vật đáp ứng nhu cầu cơ bản về lương thực, thực phẩm của con người. Nhưng muốn thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người đối với lương thực, thực phẩm, chỗ ở, ăn mặc, đi lại học hành, sức khỏe... thì cần phải có sản phẩm của công nghiệp. - Công nghiệp tác động vào quá trình phát triển của các ngành với tư cách là h ình mẫu về sử dụng tư liệu sản xuất tiên tiến, hiện đại, về ph ương pháp quản lý mới, về ý thức tổ chức, kỷ luật lao động... Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, công nghiệp có những đ iều kiện tăng nhanh tốc độ phát triển khoa học - công nghệ, ứng dụng vào các thành tựu khoa học công nghệ đó vào sản xuất, có khả năng và tạo đ iều kiện sản xuất hoàn thiện hơn. Nhờ đó, lực lượng sản xuất trong công nghiệp phát triển nhanh hơn các ngành kinh tế khác. Do qui luật "Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất", trong công nghiệp có được hình thức quan hệ sản xuất tiên tiến. Tính tiên tiến về các hình thức quan hệ sản xuất, sự hoàn thiện nhanh về các mô hình tổ chức sản xuất làm cho công nghiệp có khả năng định hướng các ngành kinh tế khác tổ chức sản xuất theo mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp. - Công nghiệp là ngành duy nhất có sản phẩm làm chức n ăng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế khác và là cơ s ở tái mở rộng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thông qua công nghiệp tạo ra và trang bị c ơ s ở vật chất kỹ thuật cho tất cả các ngành. Mặt khác, công nghiệp là cơ s ở củng cố quốc phòng của đất nước, sản xuất ra các loại
- phương tiện kỹ thuật quân sự hiện đại. Cũng do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, đặc biệt là đặc đ iểm về công nghệ sản xuất, đặc đ iểm về công dụng sản phẩm công nghiệp. Nên công nghiệp có vai trò quyết đ ịnh trong việc cung cấp yếu tố đầu vào cho các ngành kinh tế khác, để xây dựng cơ sở vật chất, quốc phòng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Công nghiệp có vai trò quan trọng góp phần vào việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế xã hội. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình đ ộ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ hoàn thiện về tổ chức sản xuất, hình thành một đội ngũ lao động có tính tổ chức. Tính kỷ luật và trình độ trí tuệ cao, cộng với tính đa dạng của hoạt động sản xuất, công nghiệp là một trong những ngành đóng góp phần quan trọng tạo ra thu nhập quốc dân, tích lũy để phát triển kinh tế, tăng xuất nhập khẩu, thúc đẩy hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới và là c ơ sở cho sự phân công lao động quốc tế... Từ đó, công nghiệp có vai trò quan trọng góp phần vào giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế - xã hội: nh ư phân công hợp lý hơn lực lượng sản xuất, phát triển các vùng kinh tế của đất nước, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn tài nguyên, lao động và truyền thống nghề nghiệp của các địa phương, vùng lãnh thổ, xóa bỏ dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi... Đặc biệt, trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay Đảng có chủ trương "Coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, giải quyết cơ bản những vấn đề lương thực, thực phẩm, cung cấp nguồn nguyên liệu động thực vật để phát triển công nghiệp và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa nhằm tạo ra những điều kiện tiên tiến để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa". Để thực hiện những nhiệm vụ cơ bản đó, vai trò của công nghiệp còn thể hiện ở những mặt sau: Có sự liên doanh liên kết giữa các xí nghiệp công nghiệp đảm bảo việc xây dựng kết cấu hạ tầng, c ơ s ở vật chất kỹ thuật, nghiên cứu phổ biến tiến bộ khoa học kỹ thuật, chế biến sản phẩm... cho các đ ơn vị sản xuất nông nghiệp. Hình thức liên doanh liên kết giữa các ngành công nghiệp với đ ịa phương về hợp đồng trực tiếp phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
- Hình thức kết hợp gián tiếp phổ biến nhất là thông qua trao đổi hàng hóa, dịch vụ phục vụ nông nghiệp và thu mua chế biến nông sản thực phẩm để thúc đẩy phát triển nông sản hàng hóa và xây dựng nông thôn mới ở n ước ta do các ngành lưu thông phân phối thực hiện. Với đặc điểm nước ta hiện nay có 80% dân số sống ở nông thôn và tham gia sản xuất nông nghiệp, việc phát triển công nghiệp đặc biệt là công nghiệp sản xuất ra tư liệu lao động phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển nông nghiệp và nông thôn, biểu hiện ở việc công nghiệp góp phần tăng năng suất cây trồng - vật nuôi đồng thời tăng giá trị của sản phẩm nông nghiệp. Qua sự trình bầy ở những phần trên, ta thấy ngành công nghiệp chế biến có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển ngành công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nên hiện nay, cơ cấu ngành công nghiệp có xu hướng chuyển dịch là tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến. Thực tiễn phát triển kinh tế xã hội ở nước ta chỉ rõ vai trò chủ đạo của công nghiệp bắt nguồn từ bản chất và đặc điểm ưu việt của nó. Tuy nhiên đối với ngành kinh tế khác phải tổ c hức lại sản xuất, nâng cao khả năng tiếp thu vai trò chủ đạo của công nghiệp. Về phía Nhà nước, phải đ iều hòa phối hợp hoạt động của các ngành, các lĩnh vực kinh tế xã hội theo hướng hỗ trợ sản xuất cho công nghiệp phát huy vai trò chủ đạo. 2. Công nghiệp với tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Công nghiệp được coi là chìa khoá để phát triển kinh tế -xã hội. Vì trình độ phát triển công nghiệp là một tiêu chuẩn đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia, một vùng, và thu nhập bình quân đầu người do phát triển công nghiệp là tiêu chuẩn chủ đạo đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia, một địa phương. Mặt khác năng xuất lao động cao trong công nghiệp là chìa khoá dẫn đến sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng sức mua, mở rộng thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ. Đặc biệt là sự phát triển của công nghiệp chế biến. Vì vậy đây là ngành tạo ra khả năng thay thế nhập khẩu có hiệu quả và cũng là ngành có khả năng tăng xuất khẩu, giải quyết đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, làm tăng giá trị nông sản phẩm.
- Công nghiệp càng đóng góp nhiều trong tổng sản phẩm quốc dân là điều kiện để thu nhập theo đầu ngươì tăng cao. 3. Công nghiệp với giải quyết viêc làm. Công nghiệp là ngành duy nhất tạo ra công cụ lao động, phương tiện sản xuất trang bị kỹ thuật cho các ngành, là cơ s ở vật chất cho các ngành tạo ra việc làm. Mặt khác sự phát triển công nghiệp đòi hỏi phải mở rộng qui mô và số lượng các doanh nghiệp, là tiền đề thu hút thêm lao động vào phục vụ sản xuất công nghiệp. 4. Công nghiệp với thúc đẩy đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu. Quá trình phát triển công nghiệp đáp ứng nhu cầu thị trường cái gì thị trường cần thì sẽ sản xuất ra. Do vậy công nghiệp hoá sẽ thúc đẩy thay đổi c ơ cấu sản xuất, thúc đẩy quá trình đa dạng hoá mặt hàng, sản xuất ra nhiều mặt hàng mới có chất lượng cao, nâng cao khả năng bảo quản lâu dài các sản phẩm nông nghiệp giúp cho việc tiến hành xuất khẩu thuận tiện. Đối với Việt Nam và Thanh Hoá, công nghiệp không chỉ tăng thu nh ập, tăng khối lượng sản phẩm mà còn là ph ương thức để hiện đại hoá cơ cấu sản xuất, thay đổi tập quán kinh tế xã hội, tập quán tiêu dùng. Trước năm 1975 Thanh Hoá mới chỉ sản xuất được 20 mặt hàng tiêu dùng, 2 mặt hàng c ơ khí và vài mặt hàng trung gian. Nhưng từ năm 1990 đến nay, sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, số lượng các mặt hàng công nghiệp của Thanh Hoá đã tăng lên nhanh chóng, không chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng đa dạng trong nước mà còn xuất khẩu, sản xuất được nhiều mặt hàng đòi hỏi công nghệ cao. Từ thực tế đã chứng minh được phát triển công nghiệp có vai trò lớn trong việc tạo ra sự đa dạng sản phẩm và thúc đẩy xuất khẩu. 5. Công nghiệp với việc làm tăng giá trị mặt hàng của mọi lĩnh vực sản xuất. Sự phát triển công nghiệp làm tăng giá trị mặt hàng của mọi lĩnh vực sản xuất. Khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường được quyết đ ịnh bởi trình độ công nghệ. Trình độ công nghệ càng cao, chất lượng hàng càng tốt và giá hạ. Chất lượng và giá cả là hai yếu tố cơ bản để thắng trong cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
- Như đối với Việt Nam nông , lâm, thuỷ sản là những ngành có thế mạnh, nhưng nh ững năm trước đây sản phẩm này không qua chế biến, xuất khẩu nguyên liệu thô nên khó tiêu thụ, giá trị sản phẩm xuất khẩu thấp. Nhờ có công nghiệp phát triển mà ngày nay nông sản phẩm của Việt Nam ngày càng có giá hơn. Tuy vậy nông sản phẩm nước ta xuất khẩu vẫn hạ hơn so với sản phẩm cùng loại của một số n ước mà chủ yếu là do công nghệ, trình độ chế biến chưa bằng họ, chưa có công nghiệp chế biến thích hợp với thị trường thế giới. Từ đây thấy đ ược vai trò phát triển công nghiệp quan trọng nh ư thế nào đối với việc làm tăng chất lượng hàng hoá, quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh. 6. Công nghiệp với nâng cao chất lượng cuộc sống. Phát triển công nghiệp dẫn đến sự thay đổi căn bản chất lượng cuộc sống do phát triển công nghiệp dẫn đến thu nhập theo đầu nguời tăng lên, tỷ lệ học sinh, tỷ lệ thầy thuốc trên 1000 người tăng... làm cho chất lượng cuộc sống tăng lên, nhưng hư ớng này còn tuỳ thuộc vào sự đứng đắn của cuộc sống và sự khôn khéo của chính phủ mỗi nức. Theo qui luật Kuznet ở giai đoạn đầu của quá trình phát triển công nghiệp làm phân hoá giàu nghèo tăng lên. Nhưng khi kinh tế phát triển cao thì sự phân hoá giàu nghèo giảm dần. Vậy phát triển công nghiệp có vai trò làm cho chất lượng của mọi người trong nền kinh tế đều tăng tạo sự phát triển ổn định. 8. Phát triển công nghiệp là điều kiện cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có nhiều định nghĩa về công nghiệp hóa, hiện đại hóa do cách tiếp cận khác nhau. Nếu xét về mục tiêu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dung kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã nêu: "Công nghiệp hóa - h iện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động, công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến,
- hiện đạ i dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao". Như vậy ở n ước ta công nghiệp hóa là quá trình chuyển từ một nước sản xuất nhỏ, kỹ thuật lạc hậu và năng suất lao động thấp thành một nước có cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, năng suất lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình mang tính tất yếu lịch sử. Tất cả các quốc gia công nghiệp phát triển hiện nay đ ều trải qua quá trình công nghiệp hóa ở những thời điểm khác nhau với những điều kiện lịch sử kinh tế xã hội khác nhau. Với hầu hết các nước đang phát triển hiện nay, công nghiệp hóa là một chính sách chủ yếu và thách thức lớn. Đối với Việt Nam thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực, thoát khỏi cảnh một nước kém phát triển nghèo và đói, đồng thời giữ vững và ổn định chính trị, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Các Mác cho rằng, những thời đại kinh tế khác nhau không phải chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ giúp chúng ta có lực mới đẩy nhanh tốc độ phát triển, đưa Việt Nam lên ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới. Để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trước hết phải có nền công nghiệp hiện đại và việc phát triển công nghiệp phải nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất xã hội và cho xây dựng cơ cấu kinh tế mới. Do đó, Hội nghị trung ương giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã ch ỉ ra "Công nghiệp hóa không chỉ đơn giản là tăng tốc đo và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân mà là chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Điều này được thể hiện, sản xuất công nghiệp phát triển không ngừng thúc đẩy việc hiện đại hóa bản thân nó mà còn góp phần tăng thêm yếu tố vật chất kỹ thuật để thúc đẩy việc cải tạo và phát triển các ngành kinh tế khác theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Theo sự trình bày ở những phần trên cho thấy: phát triển các ngành công nghiệp là nền tảng, là nội dung, là điều kiện c ơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cho nên các biện pháp công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành công nghiệp phải quán triệt các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phải thực hiện theo yêu cầu của cơ chế thị trường, có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phải đảm bảo tính đồng bộ nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đề ra. Phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải nhằm vào hai mục tiêu: - Đổi mới công nghệ của phần lớn doanh nghiệp, phát triển nhanh một số ngành có lợi thế, hình thành một số ngành mũi nhọn trong các lĩnh vực chế biến lương thực, thực phẩm, khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện tử và công nghệ thông tin, c ơ khí chế tạo sản xuất vật liệu. III. Đánh giá tác động các yếu tố nguồn lực đến phát triển công nghiệp tỉnh Thanh Hóa. 1. Điều kiện tự nhiên. Tỉnh Thanh Hóa có diện tích tự nhiên 11.106,09 km2, là tỉnh có miền núi, vùng cao biên giới, vùng đồng bằng và biển, xếp thứ 6 về diện tích trong cả n ước. Dân số toàn tỉnh 3,52 triệu người, xếp thứ 2 về dân số, có các dân tộc Kinh, Mường, Thái, Tày, Dao, H'Mông... Mật độ dân số vào loại trung bình: 317 người/km2. Về tổ chức hành chính gồm 24 huyện, 1 thành phố cấp 3, 2 th ị xã, với tổng số 582 xã, 30 thị trấn, trong đó 220 xã thuộc miền núi. Dân số độ thị chiếm 9,2% dân số toàn tỉnh (1999). 1.1. Vị trí địa lý kinh tế: Tỉnh Thanh Hóa phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình, phía Nam giáp Nghệ An, phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước CHDCND Lào), phía Đông là vịnh Bắc bộ với chiều dài bờ biển 102 km. 19018 - 2 0000 độ Bắc Tọa độ đ ịa lý: 104022 - 106004 kinh độ đông.
- Chiều rộng từ Tây sang Đông chỗ rộng nhất: 110 km, từ Bắc xuống Nam: 100 km, cách thủ đô Hà Nội 150 km, Đà Nẵng 610 km và thành phố Hồ Chí Minh 1.560 km. Thanh Hóa nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc bộ với Trung bộ và Nam bộ có một vị trí rất thuận lợi. - Đường sắt và đường quốc lộ 1A, quốc lộ 10 chạy qua vùng đồng bằng và ven biển của tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu với các tỉnh và thành phố khác trong cả nước. - Đường chiến lược 15A, đường Hồ Chí Minh xuyên suốt vùng trung du và miền núi của tỉnh và các miền trong cả nước. - Đường 217 nối liền Thanh Hóa với tỉnh Húa Phăn của nước bạn Lào. - Hệ thống sông ngòi có 4 hệ thống sông với 5 cửa lạch chính thông ra biển. - Cảng biển Nghi Sơn cho tàu 10 ngàn tấn ra vào dễ dàng, là cửa ngõ của Thanh Hóa và khu vực thông tin với n ước ngoài. - Sân bay Sao Vàng có khả năng mở rộng kết hợp với dịch vụ dân dụng. - Do vị trí địa lý, Thanh Hóa là tỉnh nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ các khu vực trọng điểm kinh tế phía Bắc, Trung bộ, Nam bộ nên có khả năng tiếp nhận, cung ứng trao đổi hàng hóa và dịch vụ với địa phương khác. Đồng thời có đủ điều kiện để phát triển một nền kinh tế tương đối hoàn chỉnh. - Đặc biệt, phía Đông tỉnh có dải bờ biển dài 102 km với khu vực Nghị Sơn chứa đựng tiềm năng to lớn về giao lưu quốc tế mà hiện nay tỉnh chưa có điều kiện khai thác nên tác động của phát triển kinh tế thế giới ít có điều kiện trực tiếp đến với Thanh Hóa. Trong thời kỳ tới, khi giao lưu quốc tế được mở ra trực tiếp trên địa bàn Thanh Hóa, đây sẽ là nhân tố mới đột phá làm thay đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của tình và của vùng Nam Thanh Bắc Nghệ, trong đó có dịch vụ cảng biển với qui mô lớn. Đồng bằng sông Mã đứng thứ ba cả nước sau đ ồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Nghi Sơn Tĩnh Gia đang hình thành những nhân tố tạo thành lối ra đối với khu vực vừa là một trong những cửa ngõ phía Bắc, Bắc Trung bộ vừa có liên quan đến sự phát triển của hành lang Đông Tây. Đoàn chuyên gia Nhật Bản giúp Việt Nam lập qui hoạch tổng thể phát triển công nghiệp đã nghiên cứu và có đề xuất với Chính phủ Việt Nam nên mở rộng tam giác phía Bắc, lấy Nghi Sơn là một tỉnh phát triển. Khu công nghiệp
- động lực Nghi Sơn đã đ ược qui hoạch gắn với Quỳnh Lưu (Nghệ An) thành vùng kinh tế động lực Nam Thanh Bắc Nghệ với tính chất khu vực. 1.2. Địa hình: Thanh Hóa nằm ở độ cao trung bình so với mặt nước biển là 750,5m, nơi cao nhất là đỉnh Phu Pha Phong (Quan Hóa - Bá Thước) dọc dãy Trường Sơn cao 1,587m, nơi thấp nhất là Hà Trung - 1 m. Địa hình tương đối phức tạp, thấp dần từ Tây sang Đông và chia làm ba vùng rõ rệt. Địa hình bị phân cách bởi hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Lèn và sông Yên chảy từ Tây sang Đông có độ dốc khá lớn. 1.3. Khí hậu: Là tỉnh chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Có hai mùa rõ rệt trong năm. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10. Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 20 0-240C. Lượng mưa phân bố không đều trên lãnh thổ, trung bình hàng năm khoảng 1.500-1.900mm. Gió với tần suất khác nhau xuất hiện theo các hướng phổ biến là gió Đông - Nam, Bắc, Tây Bắc và Tây với tốc độ trung bình 1,8m/s. Tốc độ cực đại có thể đạt 40m/s. Đặc biệt gió Tây khô nóng thường gây bất lợi cho sản xuất và đời sống. Mùa mưa bão thường diễn ra từ tháng 9 đến tháng 10 hàng năm tới tần suất 2-3 cơ bão một năm. Nhìn chung, khí hậu Thanh Hóa: mưa lớn, nhiệt độ cao, ánh sáng dồi dào là điều kiện thuận lợi phát triển nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp. Tuy nhiên cần chú ý hiện tượng bão lụt vào mùa mưa và gió nóng vào mùa khô, chủ động điều chỉnh lịch gieo trồng cho thích hợp. 1.4. Tài nguyên đất: Thanh Hóa có diện tích tự nhiên là 11.160,2 km2 đứng thứ 7 trên 61 tỉnh, thành trong cả nước và chiếm 3,37 tổng diện tích tự nhiên cả nước. Tài nguyên đất có 7 nhóm đất chính và 28 loại đất khác nhau, đủ để phát triển sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp và xây dựng cơ bản tương đối toàn diện và phân bổ tương đối đồng đều trên phạm vi toàn tỉnh. Hiện tại
- mới sử dụng vào sản xuất nông nghiệp được trên 236,740 ha chiếm 21% diện tích tự nhiên. Khả năng mở rộng diện tích đất nông nghiệp còn rất lớn, trong đó đất hoang đồi núi là 65,354 ha, đất hoang đồng bằng 17,657 ha. Diện tích đồi núi trọc cần phủ xanh là 341,610 ha. Mặt nước ngọt và lợ chua được khai thác triệt để là 16,6 ngàn ha. 1.5. Tài nguyên rừng: Rừng Thanh Hóa chủ yếu là rừng là ruộng, có hệ thực vật phong phú, đa dạng về họ, loài... Gỗ quí hiếm có lạt, pơmu, trầm h ương... gỗ nhóm I, II có samu, lim xanh, táu sến... nhóm III, IV có vàng tâm, d ổi, de, chò chỉ... Các loại thuộc họ tre, nứa gồm có luồng, nứa, vầu, lùng, giang, bương, tre... Ngoài ra còn có mây, song... d ược liệu có quẽ cánh kiến đ ỏ... Nhìn chung vùng rừng giàu và trung bình còn phân bổ trên các dãy cao ở biên giới Việt - Lào và một số vùng ở Bù Man, Bù Dinh, Bù Kha... nằm ở xa đường giao thông và dân cư, còn lại là các rừng nghèo vì bị khai thác quá mức, cần đ ược cải tạo. Đáng chú ý là vùng tre, nứa phân bổ ở Như Xuân, Thường Xuân, Lang Chánh, Quan Hóa, là nguồn nguyên liệu giấy, bao bì các tông... cần được khai thác, sử dụng hợp lý. Đây là tài nguyên quí giá của rừng Thanh Hóa mà không nơi nào có đư ợc để phát triển công nghiệp giấy trong tương lai. 1.6. Tài nguyên nước: Thanh hóa có hệ thống sông suối đa dạng, chia ra 4 hệ thống sông chính là sông Mã, sông Bang, sông Yên, sông Hoạt và các hệ thống sông Mã là sông Chu và sông B ưởi có tổng chiều dài 881 km, tổng diện tích lưu vực là 39,756 km2, tổng lượng nước trung bình hàng năm 19,520 tỷ m3. Với trữ lượng nước trên mặt có thể thỏa mãn nhu cầu tưới tiêu cho nông nghiệp và phát triển các vùng công nghiệp, cho sản xuất, cho sản xuất công nghiệp và sinh hoạt của nhân dân. Hệ thống sông suối Thanh Hóa chảy qua nhiều vùng địa hình phức tạp, chênh lệch về độ cao tạo ra khả năng phát triển thủy điện khá lớn. Riêng sông Mã, trữ năng điện lý thuyết đạt tới 12 tỷ kwh. Nguồn nước mặt với diện tích mặt sông (gần 4 triệu ha), ao, hồ, dầm lầy (5545 ha)
- khá lớn có thể khoanh vùng nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt. Tuy nhiên, việc khai thác nguồn nước mặt đang có nhiều khó khăn do nguồn nước phân bố không đều giữa các vùng và mùa trong năm, mu ốn chế ngự cần đầu tư lớn. Vì vậy việc khai thác đến nay còn hạn chế, đôi khi chính nó lại gây ra nhiều tác hại như lũ lụt, úng... 1.7. Tài nguyên biển: Thanh Hóa có 102 km bờ biển hình cánh cung, chạy dài từ Cửa Đáy (Ninh Bình) đến Đông Hồi (Tĩnh Gia) và vùng lãnh hải rộng lớn diện tích 1,7 vạn km2 chịu ảnh hưởng chi phối bởi các dòng chảy lưu nóng và lạnh tạo thành các bãi cá, tôm trữ lượng lớn so với các tỉnh phía Bắc. Vùng biển nằm trong vùng bể trầm tích chứa dầu khí, đã phát triển và th ăm dò một số túi khí ngoài khơi có triển vọng khai thác công nghiệp. Bên cạnh đó, cảng nước sâu Nghi Sơn có vị trí và đặc đ iểm rất thuận lợi cho phát triển thành một cảng lớn của nước, vì vậy sẽ mở ra triển vọng to lớn về vận tải biển và khai thác tiềm n ăng biển Thanh Hóa tương lai. 1.8. Khả năng nuôi tr ồng thủy sản mặt lợ : Diện tích bãi triều 8.000 ha là một tiềm năng lớn về nuôi trồng thủy sản nước lợ như tôm sú, tôm he, cua và rong câu, trồng cói, trồng cây chắn sóng và sản xuất muối. Diện tích nước mặt khoảng 10.000 ha phân bổ chủ yếu ở vùng đảo Mê, Biện Sơn có thể nuôi cá song, cá cam, trai ngọc, tôm hùm, hình thức nuôi lồng bè. Triển vọng nuôi nước mặn là rất lớn. 1.9. Tài nguyên khoáng sản: Khoáng sản Thanh Hóa rất đa dạng, có tới 42 loại và hơn 162 điểm mỏ đã được phát hiện và đánh giá. Trong đó nhiều loại khoáng sản có trữ lượng lớn so với cả nước như khoáng sản để sản xuất vật liệu xây dựng như: đá vôi, đất sét, phụ gia xi măng các loại, nguyên liệu sản xuất vật liệu gạch, vật liệu chịu lửa và gạch Ceramic, đá, cát, sỏi... Năng lực sản xuất xi măng đến 2000 của tỉnh đã đạt 3,2 triệu tấn/ năm đứng đầu cả nước. Ngoài ra còn
- một số loại khoáng sản khác như: đáng kể nhất là Cromit, quặng sắt làm phụ gia xi măng... Tuy nhiên, chi có một số loại có thể khai thác, chế biến có hiệu quả, số còn lại do phân bổ không tập trung, trữ lượng hạn chế, chất lượng thấp khó trở thành hàng hóa hấp dẫn. 2. Điều kiện kinh tế - x ã hội. 2.1. Tình hình phát triển kinh tế: Năm 1995 GDP của tình Thanh Hóa đạt 5406,5 tỷ đồng, năm 2000 7681,5 tỷ đồng và đến năm 2001 tăng lên 8307,5 tỷ đồng (giá cố định 1994). Bình quân thời kỳ 1991-1995 đạt 6,7%/ năm và 1996-2000 đạt 7,3%/năm cao hơn so với mức bình quân chung cả nước (6,94%). Riêng năm 2001 đạt mức tăng trưởng 8,15% (tốc độ của cả nước khoảng 7%), trong đó các ngành đều tăng khá và vượt kế hoạch: nông nghiệp tăng 4,1% (KH: 3,3%), lâm nghiệp tăng 8,6% (KH: 5,7%) thủy sản tăng 9,2% (KH: 3,0%), dịch vụ tăng 7,3% (KH: 7,0%) và công nghiệp tăng 17,3%. Cơ cấu tổng sản phẩm trong tỉnh đã có sự chuyển biến tích cực. Năm 2001 ngành nông - lâm - thủy sản chiếm 38,5% giảm 1,1%; công nghiệp - xây dựng chiếm 27,9% tăng 1,3% và d ịch vụ chiếm 33,6% giảm 0,2% so với năm 2000. Nền kinh tế tăng nhanh và ổn đ ịnh đã làm tăng nguồn thu ngân sách và tích luỹ nội bộ nền kinh tế tỉnh làm cho việc huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển được chú trọng và tăng đáng kể. 2.2. Tình hình thu chi ngân sách: Thu ngân sách trên địa bàn Thanh Hóa tăng đều so với các năm: năm 1990 tổng thu được 113 tỷ đồng, năm 1995 đạt 512,8 tỷ đồng, đến năm 2000 tăng lên 570,0 tỷ đồng và đến năm 2001 đạt 590,9 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ từ 7,5% GDP (năm 1990) đến 8% GDP (1995), 5,9% GDP (2000) và 7,1% GDP (năm 2001). Nguồn thu chủ yếu là từ kinh tế quốc doanh và doanh nghiệp có vốn nước ngoài, chiếm tới 65%-75% trong đó doanh nghiệp nhà nước trung ương thu gấp 3 đến 4 lần doanh nghiệp nhà nước địa phương. Nguồn thu từ thuế công thương nghiệp từ 10%-12% còn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
LUẬN VĂN: Công tác vận động tín đồ tôn giáo trong thời kỳ đổi mới: thực trạng, phương hướng và giải pháp
81 p | 927 | 216
-
Đồ án tốt nghiệp Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thuỷ sản của Ngành thuỷ sản Việt nam vào thị trường Mỹ
62 p | 425 | 164
-
Luận văn Phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè tại Tổng Công Ty chè Việt Nam
79 p | 213 | 84
-
Luận văn: Phương hướng và giải pháp nâng cao công tác quản lý lực lượng bán hàng của công ty TNHH TM Việt Phú
66 p | 230 | 74
-
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM CỦA KIỂM TOÁN VIÊN ĐỘC LẬP ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HIỆN GIAN LẬN VÀ SAI SÓT TRONG CUỘC KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
118 p | 178 | 64
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của kiểm toán viên độc lập đối với việc phát hiện gian lận và sai sót trong cuộc kiểm toán báo cáo tài chính
118 p | 176 | 41
-
LUẬN VĂN: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo vùng kinh tế ở Việt Nam
61 p | 140 | 41
-
Báo cáo thực tập tốt nghiệp: Một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển thị trường của công ty xăng dầu Hà Sơn Bình
112 p | 164 | 38
-
Luận văn - Phương hướng và biện pháp chuyển đổi mô hình tổ chức quản lý chợ trên địa bàn quận Cầu Giấy trong giai đoạn hiện nay
69 p | 176 | 29
-
Luận văn "Phương hướng và các giải pháp nhằm tăng cường thu hút vốn đầu tư vào phát triển các vùng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian vừa qua"
60 p | 100 | 20
-
Luận văn tốt nghiệp đại học: Một số phương hướng và giải pháp nhằm phát triển dịch vụ việc làm ở Việt Nam hiện nay
77 p | 81 | 16
-
Phương hướng và giải pháp ứng dụng phần mềm tin học trong hoạt động kiểm toán cùa kiểm toán nhà nước
117 p | 135 | 12
-
Đề tài: "Một số phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế tỉnh Bắc Kạn từ nay đến năm 2010".
81 p | 94 | 12
-
Luận văn: Phương hướng và giải pháp nhằm mở rộng thị trường nhập khẩu của công ty cổ phẩn điện tử và truyền hình cáp Việt Nam CEC
59 p | 130 | 11
-
LUẬN VĂN: Phương hướng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng thuỷ sản của Ngành thuỷ sản Việt nam vào thị trường Mỹ
0 p | 96 | 10
-
Đề tài: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực đẩy đầu trực tiếp nước ngoài theo vùng kinh tế ở Việt Nam
43 p | 73 | 9
-
Phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu chè tại Tổng Công Ty chè Việt Nam
120 p | 108 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện kế toán công cụ tài chính cho các doanh nghiệp Việt Nam
105 p | 13 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn