Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Báo chí với quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
lượt xem 6
download
Mục đích nghiên cứu của đề tài “Báo chí với quá trình TCC DNNN” là nhận diện, phân tích, đánh giá bước đầu thực trạng thông tin, tuyên truyền về hoạt động tái cấu trúc DNNN trên 4 tờ báo được khảo sát, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của báo chí nói chung và các tờ báo được khảo sát nói riêng, góp phần thực hiện thành công tái cấu trúc DNNN theo tinh thần Nghị Quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI về Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 2011 -2020.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Báo chí với quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- HÀ KHẮC MINH BÁO CHÍ VỚI QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC (Khảo sát Báo Đầu tƣ, Báo Tuổi trẻ TPHCM, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, từ tháng 8/2012 – tháng 8/2013) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Báo chí học Hà Nội – 2015
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------- HÀ KHẮC MINH BÁO CHÍ VỚI QUÁ TRÌNH TÁI CƠ CẤU DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC (Khảo sát Báo Đầu tƣ, Báo Tuổi trẻ TPHCM, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, từ tháng 8/2012 – tháng 8/2013) Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học Mã số: 60.32.01.01 Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Anh Tuấn Hà Nội – 2015
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu. Các số liệu trong luận văn rõ ràng và trung thực, các kết luận của luận văn này chưa từng được công bố trong các công trình khác. Hà Nội, ngày 14 tháng 4 năm 2015 TÁC GIẢ Hà Khắc Minh
- LỜI CẢM ƠN Xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Anh Tuấn đã tư vấn, hướng dẫn tôi lựa chọn và thực hiện nghiên cứu đề tài này. Đây là một đề tài khó, còn nhiều quan điểm khác nhau nhưng mang tính ứng dụng thực tiễn cao đối với công việc của bản thân. Mặc dù chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học, song được sự hướng dẫn tận tình của TS. Nguyễn Anh Tuấn, tôi đã có phương pháp tiếp cận, nghiên cứu và thực hiện đề tài một cách hiệu quả. Xin gửi lời tri ân đến các thầy, cô giáo tại Khoa Báo chí - Truyền thông, Phòng Đào tạo Sau Đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã cung cấp cho tôi những kiến thức cơ bản, để bổ sung, hoàn thiện hơn cơ sở lý luận báo chí của mình đang khuyết thiếu, giúp tôi vững vàng hơn về nghiệp vụ, quan trọng hơn là bước đầu hình thành tư duy và kỹ năng nghiên cứu khoa học. Xin được gửi lời cảm ơn đến các nhà hoạch định chính sách, quản lý nhà nước, lãnh đạo báo, các đồng nghiệp đã dành thời gian trao đổi, cung cấp nhiều thông tin quý báu giúp tôi trong quá trình viết luận văn. Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, người thân và bạn bè đã luôn ủng hộ, động viên, là động lực giúp tôi hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn!
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về báo chí và vai trò báo chí với tái cơ cấu DNNN ...................................................................................................... 12 1.1. Báo chí, thông tin báo chí và giám sát phản biện của báo chí trong sự phát triển kinh tế - xã hội ................................................................. 12 1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về tái cơ cấu DNNN......................... ... 20 1.3. Vai trò của báo chí với tái cơ cấu DNNN………….. .............................. 30 Tiểu kết Chương 1 .......................................................................................... 36 Chƣơng 2: Thực trạng thông tin báo chí về tái cơ cấu DNNN ................. 37 2.1. Thực trạng thông tin về tái cơ cấu DNNN trên 4 tờ báo ......................... 37 2.2. Thực trạng nội dung thông tin ................................................................. 40 2.3. Thực trạng hình thức thông tin................................................................. 52 Tiểu kết chương 2....................................................................................... ... 71 Chƣơng 3: Kiến nghị một số giải pháp nâng chất lƣợng thông tin về tái cơ cấu DNNN ................................................................................................ 72 3.1. Đánh giá ưu, nhược điểm công tác thông tin tái cơ cấu DNNN .............. 72 3.2. Nguyên nhân của những hạn chế………………………………...…... ... 85 3.3. Đề xuất một số giải pháp .......................................................................... 91 Tiểu kết chương 3......................................................................................... 109 KẾT LUẬN.................................................................................................... 110 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 112 PHỤ LỤC
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Báo Đầu tư : BĐT Báo Tuổi trẻ : BTT Cổ phần hóa : CPH Doanh nghiệp : DN Doanh nghiệp nhà nước : DNNN Đại học Quốc gia Hà Nội : ĐHQGHN Hỗ trợ phát triển chính thức : ODA Phản biện xã hội : PBXH Tạp chí Tài chính doanh nghiệp : TCTCDN Tập đoàn kinh tế : TĐKT Tổng công ty : TCT Thời báo Kinh tế Sài Gòn : TBKTSG Tổng sản phẩm quốc nội : GDP
- MỞ ĐẦU 1 - Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài Nghị quyết Đại hội Đảng IX đã khẳng định chủ trương nhất quán của Đảng ta là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân và một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ “tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo của nền kinh tế”. Việc đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước không thể không bao gồm đổi mới các DNNN – nòng cốt của kinh tế nhà nước TĐKT, TCT. Nhìn tổng thể, vai trò của DNNN nói chung, các TĐKT, TCT nhà nước nói riêng trong thời gian qua là hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các DNNN đã bảo đảm sản xuất, cung ứng các sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ thiết yếu cho nền kinh tế. Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, các DNNN vẫn duy trì được hoạt động và có đóng góp quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước trong nhiều lĩnh vực nhằm ổn định kinh tế và đảm bảo an sinh xã hội. Tuy vậy, DNNN còn nhiều yếu kém và bất cập. Một là, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của DNNN còn thấp mặc dù có nhiều lợi thế về nguồn lực. DNNN chiếm khoảng 40% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà nước, 70% nguồn vốn ODA và được hưởng nhiều đặc quyền khác. Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực này còn thấp, chưa tương xứng với những gì được đầu tư. Năm 2011, đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế nhà nước chỉ đạt 33,03% trong khi khu vực kinh tế ngoài nhà nước đóng góp tới 48%. Bên cạnh đó, việc giám sát nguồn vốn nhà nước, quản trị DN bị buông lỏng đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng, làm lãng phí, thất thoát vốn của Nhà nước. Bên cạnh đó, theo số liệu của Bộ Tài chính tính đến cuối năm 2011, tổng số lỗ lũy kế của riêng các tập đoàn lớn đã lên tới hơn 26.000 tỷ đồng, cao gấp 12 lần so với các DN ngoài quốc doanh và DN có vốn đầu tư nước ngoài, trong số đó có tới gần 1
- 1/3 Tập đoàn, Tổng Công ty có tỷ lệ nợ phải trả cao gấp 3 lần vốn chủ sở hữu. Cũng theo số liệu của Bộ Tài chính, tổng dư nợ cho vay DNNN lên trên 415 nghìn tỷ đồng, trong đó tổng nợ của 12 tập đoàn kinh tế lớn đã chiếm đến 52,66%. Trong 10 năm qua, tỷ suất lợi nhuận trên tổng nguồn vốn của khu vực DNNN chưa năm nào vượt quá 6%, trong khi các DN FDI luôn duy trì ở mức trên dưới 10%. Hai là, thực trạng tài chính tại một số DNNN rất yếu kém, thua lỗ kéo dài, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro mất cân đối tài chính. Việc thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với kinh tế của các DNNN còn hạn chế. Nhiều DNNN chưa bắt kịp với xu hướng phát triển của nền kinh tế thị trường; năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản trị DN còn yếu kém, bất cập. Các công ty nông nghiệp, lâm nghiệp (nông, lâm trường quốc doanh) còn chậm được sắp xếp, đổi mới; và hoạt động của một bộ phận DNNN đã góp phần dẫn đến bất ổn kinh tế vĩ mô. Những con số trên do bắt nguồn từ mô hình phát triển kinh tế chung, DNNN nhất là các TĐKT, TCT nhà nước đã quá thiên về mở rộng quy mô đầu tư, chưa chú trọng phát triển theo chiều sâu nên hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh thấp. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, sản phẩm và của từng TĐKT, TCT, DNNN còn bất cập và yếu kém. Việc thực hiện sắp xếp, CPH DNNN còn chậm so với phương án được duyệt. Một nguyên nhân nữa là tình trạng nhiều TĐKT, TCT nhà nước đầu tư vào những ngành, lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro, phụ thuộc nhiều vào vốn vay hoặc chiếm dụng; tình trạng độc quyền hoặc thống lĩnh thị trường trong một số lĩnh vực làm hạn chế động lực cạnh tranh và phát triển. Ngoài ra, cơ chế, chính sách về quản lý DNNN chưa theo kịp với thực tiễn hoạt động của các TĐKT, TCT; sự hạn chế trong phối hợp giữa các Bộ, Ngành trong quản lý, giám sát DNNN nhất là TĐKT, TCT nhà nước; sự bất cập về mô hình, thể chế quản trị, đội ngũ cán bộ quản lý DN và quản lý nhà nước cũng là những nguyên nhân chủ quan gây ra sự yếu kém của khu vực DNNN. Hậu quả là đã có sự đổ vỡ mà tiêu biểu là Tập đoàn công nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin), Tổng công ty Hàng Hải Việt Nam (Vinalines). 2
- Từ những điểm nêu trên, có thể thấy rõ, việc TCC DNNN là yêu cầu cấp thiết, được xác định là một trong ba nội dung quan trọng của TCC toàn bộ nền kinh tế (cùng với TCC đầu tư công, TCC ngân hàng và các tổ chức tín dụng). Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) tiếp tục khẳng định DNNN là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước, lực lượng vật chất quan trọng, công cụ hỗ trợ để điều tiết nền kinh tế, hạn chế những mặt trái của kinh tế thị trường. Vì thế, nhìn rõ những yếu kém, sai lầm, đề ra các phương thức nâng cao tính hiệu quả của DNNN là yêu cầu tất yếu, có tính mấu chốt trong quá trình TCC kinh tế hiện nay. Do TCC DNNN có vai trò to lớn như vậy, nên việc tuyên truyền về TCC DNNN làm sao cho hiệu quả là vô cùng quan trọng. Trong đề án TCC DNNN, Chính phủ nêu rõ: Bộ Thông Tin Truyền thông phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, các TĐKT, TCT nhà nước tổ chức thực hiện việc thông tin, tuyên truyền về TCC DNNN theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Việc tuyên truyền đúng góp phần đả thông tư tưởng người quản lý, tạo sự ủng hộ của cán bộ nhân viên trong DN, sự ủng hộ của toàn dân, những người được xem là cổ đông của DNNN (vốn toàn dân, sở hữu toàn dân)... Báo chí cách mạng với vai trò sứ mệnh của mình đã nhập cuộc tuyên truyền, thông tin về TCC DNNN khá đậm nét với tần suất khá cao, hình thức phong phú, đa dạng. Từ việc phản ánh những bất cập của cơ chế chính sách đến sai phạm trong quản lý, yếu kém trong điều hành... báo chí còn phản ánh tâm tư nguyện vọng của người dân, chuyên gia, và sức ép của các nhà tài trợ quốc tế. Bức tranh về TCC DNNN trên báo chí đã trở nên đa sắc màu và sát với chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, điều hành về lĩnh vực DNNN vốn là lĩnh vực khó, nhạy cảm, nên có những vấn đề còn nhiều ý kiến trái chiều, nhiều quan điểm khác nhau cần được cân nhắc kỹ lưỡng để hài hòa lợi ích kinh tế và yếu tố an ninh quốc phòng và an sinh xã hội. Có những thông tin cũng đã thấp thoáng việc đòi hỏi thái quá về TCC không đúng chủ trương là “TCC để gọn, nhưng vẫn mạnh, DNNN vẫn phải là nòng cốt của nền kinh tế”. Theo đó, có ý kiến đòi tư nhân hóa tất tần tật... 3
- Với những lý do đó, bản thân chọn nghiên cứu đề tài “Báo chí với quá trình TCC DNNN” với mong muốn có cái nhìn khái quát, tổng thể thông qua sự khảo sát, so sánh đối chiếu giữa các tờ báo, giữa các cách thể hiện, giữa thực tế và chủ trương... Việc nghiên cứu bao gồm cả việc nhận xét đánh giá và đưa ra khuyến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả tuyên truyền chủ trương lớn này. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Do chính sách TCC DNNN còn khá mới mẻ, được ban hành từ tháng 7/2012 nên đến nay, qua tìm hiểu của bản thân ở Khoa báo chí – Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn (ĐHQG Hà Nội), Học viện Báo chí Tuyên truyền có một số công trình nghiên cứu, các bài viết chuyên sâu các vấn đề liên quan đến vấn đề báo chí với DNNN ở cấp khóa luận như: - “Báo chí với công tác sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước” của tác giả Đậu Huy Sáu - năm 2004. - “Báo chí với việc phát huy vài trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước”, Nguyễn Thị Nguyệt Hà - năm 1998; - “Báo chí với tiến trình đổi mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước” của Lê Thị Hải Lý - năm1998; - “Những thuận lợi và khó khăn của việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trên báo chí”, Đặng Anh Tuấn – năm 2001; - “Tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước qua sự phản ánh của báo chí” của Phạm Thu Hà – năm 2002; - “Báo chí với việc tuyên truyền chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước”, Lê Thị Ngọc Hà thực hiện - năm 2000; - “Báo Nhân dân với việc tuyên truyền phát huy vài trò doanh nghiệp nhà nước” của Nguyễn Thiện Kế - năm 2001. - “Báo chí và doanh nghiệp: Gắn bó, hợp tác và chia sẻ”, bài báo khoa học của TS Phạm Tất Thắng đăng ngày 21/10/2014 trên Tạp chí Cộng sản. Các nghiên cứu này khá thành công trong việc khẳng định những đóng góp của báo chí đối với nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền về chính sách của Đảng, pháp 4
- luật của Nhà nước về đổi mới phát triển DNNN ở thời điểm nghiên cứu. Tuy nhiên, các nghiên cứu chỉ mới ở cấp khóa luận, nên chưa thực sự chuyên sâu. Việc đánh giá nhận xét và đề xuất giải pháp chủ yếu dừng lại đối với báo in lúc bấy giờ, chưa đặt trong môi trường truyền thông hội tụ và có sự cạnh tranh khốc liệt giữa các loại hình báo chí khác nhau, cũng như sự vào cuộc của mạng xã hội. Do hoàn cảnh khác nhau nên việc đánh giá và kiến nghị giải pháp với các luận văn không còn phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. Mặt khác, những khóa luận trên chủ yếu được thực hiện từ những năm 2003 về trước (khi Luật DNNN chưa ra đời, nay luật này đã hết hiệu lực tháng 7/2010). Như vậy, việc nâng cao hiệu quả hoạt động DNNN ở các nghiên cứu trên là trong giai đoạn thường xuyên, chưa phải đợt cao điểm, cấp bách, toàn diện như hiện nay nhất là khi hàng loạt sai phạm, đổ vỡ của các DNNN thời gian qua…; Chủ trương TCC DNNN còn nóng hổi, trở thành mối quan tâm của toàn dân và các nhà tài trợ nước ngoài… Chủ trương này cần được theo dõi, giám sát, phản biện từng ngày, từng giai đoạn và đang trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, xuất hiện một số quan điểm trái chiều: đòi bán toàn bộ DNNN, không xem kinh tế nhà nước là chủ đạo, vấn đề độc quyền nhà nước hay độc quyền DN… Ở cấp luận văn, gần đây có 02 nghiên cứu: - “Báo chí ngành tài chính với vấn đề TCC DNNN” – Đậu Huy Sáu (2013); Đây là luận văn có đề tài gần nhất với đề tài của bản thân nhất. Nhưng do nghiên cứu này được bảo vệ sau thời điểm bản thân được hội đồng thông qua quyết định công nhận đề tài nghiên cứu nên thời điểm đó, bản thân không biết đã có nghiên cứu về vấn đề này. Trong quá trình nghiên cứu, bản thân đã tìm được những điểm khác biệt như sau: Thứ nhất, về đối tượng khảo sát: Chỉ bị trùng 01 tờ TC TCDN. 03 tờ báo còn lại có 01 tờ chính trị - xã hội đại chúng hơn là tờ Tuổi trẻ TP HCM, nhằm tìm kiếm những thông tin được “đại chúng hóa” một vấn đề vốn rất khô khan, vĩ mô, chuyên sâu.. mặt khác kỳ vọng vào tính chiến đấu của tờ báo này ở dạng phóng sự điều tra. TBKTSG cũng chuyên sâu hơn về kinh tế và BĐT vốn có lợi thế hơn khi cơ quan 5
- chủ quản – Bộ Kế hoạch Đầu tư được giao nhiệm vụ nghiên cứu Đề án TCC tổng thể nền kinh tế (trong đó có TCC DNNN) và xây dựng nhiều cơ chế chính sách về DNNN. Thứ hai, về lý luận: Bản thân đã cắt nghĩa cụ thể hơn, đầy đủ hơn về các khái niệm về TCC DNNN và bổ sung thêm phần giám sát, PBXH trên báo để làm cơ sở nghiên cứu, đánh giá thông tin về lĩnh vực được xem là có nhiều lỗ hổng, dễ thất thoát, sai phạm này. Thứ ba, về kết quả nghiên cứu của đề tài, khi nghiên cứu đánh giá thông tin, bản thân đi vào một số vấn đề nóng bỏng, vướng mắc nhất làm ảnh hưởng đến chất lượng thông tin trên báo chí về TCC DNNN đó là: Thiếu thông tin (vốn được xem là vấn đề cơ bản cốt lõi ảnh hưởng đến hoạt động của DNNN và khó khăn cho hoạt động báo chí); Phản ánh mặt trái nhiều, mặt ưu điểm ít; Thông tin thể hiện sự nóng vội thái quá, chệnh trọng tâm; thiếu thông tin hấp dẫn... Đây là những điều khác biệt với luận văn của Đậu Huy Sáu. - “Vấn đề TCC nền kinh tế trên báo chí kinh tế Việt Nam” - Lê Phương Vân (năm 2014); Luận văn này được bảo vệ khi công trình nghiên cứu của bản thân đã gần hoàn thiện. Điểm khác biệt là: Vấn đề TCC nền kinh tế rộng hơn gồm: TCC Đầu tư công; TCC ngân hàng và các tổ chức tín dụng; TCC DNNN. Do vậy, nghiên cứu này có bề rộng hơn song thiếu chiều sơn so với luận văn tác giả. 03 vấn đề trong Đề án TCC tổng thể nền kinh tế cũng có nhiều điểm khác nhau, do vậy nghiên cứu đánh giá thông tin giữa hai luận văn cũng khác nhau. Kết quả nghiên cứu của Luận văn này cũng chưa đề cập đến các vấn mà bản thân đã nêu ra ở trên là thiếu thông tin, nóng vội chệch chuẩn; thiếu thông tin hấp dẫn và nêu ưu điểm quá ít so với nhược điểm. Như vậy, nghiên cứu của bản thân không bị trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào ở Việt Nam đến thời điểm hiện tại. Ngoài báo chí học, cũng có khá nhiều nghiên cứu dưới các góc độ kinh tế học: 6
- - Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2012, Từ bất ổn vĩ mô đến con đường TCC, Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Nxb Tri thức, 2012; - Cuốn Kinh tế Việt Nam năm 2012: Khởi động mạnh mẽ quá trình TCC nền kinh tế, Ủy ban Kinh tế Quốc hội, Viện KHXHVN, VCCI, UNDP, tháng 5/2012; - Kỷ yếu Hội thảo quốc gia “Tập đoàn kinh tế - Lý luận và thực tiễn” do Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật tổ chức ngày 25/5/2009)” - Kỷ yếu Diễn đàn kinh tế mùa Xuân, mùa Thu 2013, 2014, Ủy ban Kinh tế Quốc hội… Nghiên cứu của bản thân lần này cập nhật và đánh giá lại tất cả các vấn đề nóng hổi mà báo chí nêu về TCC nền kinh tế nói chung và DNNN nói riêng; đặc biệt trong thời gian gần đây có nhiều sự kiện chấn động toàn quốc đó là: Sau sự đổ vỡ của Vinashin, Vinalines, báo chí đã đề cập đến hàng loạt vấn đề: Ai là ông chủ thực sự của DNNN? Xảy ra sai phạm ai chịu trách nhiệm? Mô hình nào của DNNN sắp tới là hiệu quả? DNNN có nên được tiếp tục xem là trọng điểm của nền kinh tế của nền kinh tế quốc dân không? 3. Mục đích, nội dung nghiên cứu Mục đích nghiên cứu: Mục đích nghiên cứu của đề tài “Báo chí với quá trình TCC DNNN” là nhận diện, phân tích, đánh giá bước đầu thực trạng thông tin, tuyên truyền về hoạt động tái cấu trúc DNNN trên 4 tờ báo được khảo sát, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của báo chí nói chung và các tờ báo được khảo sát nói riêng, góp phần thực hiện thành công tái cấu trúc DNNN theo tinh thần Nghị Quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI về Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 2011 -2020. Nhiệm vụ nghiên cứu: Tác giả làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về TCC DNNN và vai trò, sứ mệnh của báo chí đối với chủ trương và thực tiễn của hoạt động này. Dựa trên khung lý thuyết tại nhiệm vụ nghiên cứu trên và tham vấn ý kiến các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, các phóng viên, biên tập viên theo dõi mảng kinh tế nói chung và TCC DNNN nói riêng, tác giả phân tích, đánh giá thực 7
- trạng về cách thức tổ chức thông tin, nội dung và hình thức thông tin vấn đề TCC DNNN trên 4 tờ báo khảo sát. Qua việc, phân tích, đánh giá trên, tác giả cũng đề xuất một số khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền về triển khai thực hiện TCC DNNN trên báo chí nói chung, các tờ báo được khảo sát nói riêng. 4 – Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là: Vấn đề TTC DNNN trên 04 tờ báo: BĐT, BTT, TBKTSG, TCTCDN. - Phạm vi nghiên cứu là nội dung thông tin; cách thức tổ chức thông tin đăng tải trên 4 tờ báo, tạp chí sau: BĐT (Bộ Kế hoạch Đầu tư), BTT TP Hồ Chí Minh (Thành đoàn TP Hồ Chí Minh), TBKTSG (Sở Công Thương TP Hồ Chí Minh), TCTCDN (Cục Tài chính DN, Bộ Tài chính); Chỉ khảo sát báo in, ấn phẩm chính. Việc lựa chọn 04 tờ báo này bởi: BĐT là tờ báo chuyên về kinh tế, thuộc bộ kinh tế tổng hợp – Bộ Kế hoạch Đầu tư được Chính phủ ủy quyền xây dựng Đề án tổng thể TCC toàn bộ nền kinh tế (Đề án TCC DNNN là một trong ba thành phần của đề án này). Riêng với TCC DNNN, Bộ Kế hoạch Đầu tư cũng tham gia xây dựng một số cơ chế chính sách, Quyết định, Nghị định cho Chính phủ. TCTCDN thuộc Cục Tài chính DN (Bộ Tài chính) là nơi tác giả đang công tác, do vậy có điều kiện hiểu sâu hơn về Tạp chí thuận lợi trong quá trình nghiên cứu. Ngoài ra, Tạp chí thuộc Cục Tài chính DN – Đơn vị được Bộ Tài chính giao chủ trì soạn thảo chính Đề án TCC DNNN này và các cơ chế chính sách về lĩnh vực DNNN. Do vậy, Tạp chí có thuận lợi trong việc tiếp cận nguồn tin. BTT là tờ báo chính trị xã hội có uy tín và tia ra hàng đầu tại Việt Nam hiện nay. Nhật báo này có thông tin thời sự nóng hổi và được đánh giá dám nói những điều khó nói, đăng những bài phóng sự điều tra về những sai phạm, thất thoát vốn… mà TCC DNNN và một trong những vấn đề như thế. TBKTSG cũng là một tờ báo kinh tế ở phía nam được đánh giá có uy tín cao trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh. Tờ báo kinh tế theo hướng thị trường này gần đây có nhiều bài chuyên gia phân tích sâu sắc về lĩnh vực TCC DNNN. Thời gian khảo sát: Từ tháng 8/2012 đến tháng 8/2013 8
- - Lý do lựa chọn: Ngày 17/7/2012, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 929/QĐ-TTg, phê duyệt Đề án “TCC DNNN, trọng tâm là TĐKT, TCT nhà nước giai đoạn 2011 -2015”. Từ đó đến nay việc nội dung thông tin báo chí tập trung vào phán ánh, giám sát quá trình thực hiện và đề xuất giải pháp cụ thể. 5 –Phƣơng pháp nghiên cứu: Phương pháp luận: Đề tài luận văn này được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống lý luận báo chí truyền thông; Chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về TCC DNNN; hệ thống văn bản pháp luật, điều hành của Chính phủ, các bộ ngành trong việc triển khai thực hiện TCC DNNN; định hướng và nội dung thông tin liên quan đến TCC DNNN trên BĐT, BTT, TBKTSG, TCTCDN từ tháng 8/2012 đến hết tháng 8/2013. Phương pháp cụ thể: + Nghiên cứu, khảo cứu tài liệu: Để tìm hiểu các khái niệm về vấn đề nghiên cứu trong luận văn và + Thống kê, phân tích tài liệu: Thống kê số lượng tin bài, hình họa, biểu đồ... về TCC DNNN trên 04 báo được khảo sát. Việc thống kê được căn cứ trên cơ sở lý thuyết về thể loại báo chí để phân chia hợp lý, tạo điều kiện cho việc khái quát hóa. + So sánh, đối chiếu: Từ thống kê ở trên, tác giả đã tiến hành so sánh, đối chiếu số lượng, chất lượng thông tin TCC DNNN giữa báo này với báo khác, giữa thể loại này với thế loại khác... + Phân tích, tổng hợp; nhận xét, đánh giá và khái quát vấn đề: Việc phân tích được dựa vào những con số cụ thể từ đó đánh giá chất lượng thông tin, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu và khái quát hóa để luận văn mang tính tổng thể của vấn đề. + Phỏng vấn sâu: Phỏng vấn chuyên gia, các nhà quản lý trong lĩnh vực kinh tế - tài chính; các lãnh đạo báo, phóng viên, biên tập viên phụ trách lĩnh vực này. Cụ thể, tác giả đã phỏng vấn: Ths Nguyễn Duy Long – Trưởng phòng Sắp xếp đổi mới và Phát triển doanh nghiệp (Cục Tài chính doanh nghiệp- Bộ Tài chính), thành viên ban soạn thảo Đề án TCC DNNN; Ths Đặng Quyết Tiến – Phó Cục trưởng Cục Tài 9
- chính doanh nghiệp (Bộ Tài chính), Kiêm tổng Biên tập Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, thành viên ban soạn thảo Đề án TCC DNNN; ông Hoàng Tư Giang – Phóng viên Thời báo Kinh tế Sài gòn; ông Bùi Đức Hải – Phó tổng Biên tập Báo Đầu tư; Ths Tạ Thị Thu Hằng – Phóng viên Tạp chí Tài chính doanh nghiệp; Bà Lê Thanh – Phóng viên báo Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh. Tùy theo điều kiện khách quan, đề tài thực hiện phỏng vấn trực tiếp, gián tiếp (quan email, điện thoại). 6 – Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Ý nghĩa lý luận: + Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến vai trò của báo chí đối với việc triển khai thực hiện TCC DNNN hiện nay. + Khái quát lý luận về thông tin tuyên truyền TCC DNNN trên báo chí. + Cung cấp cơ sở lý luận, khoa học cho những người viết báo chuyên về lĩnh vực kinh tế, tài chính, DN và những người làm quản lý các báo, chuyên mục kinh tế- tài chính, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả công tác định hướng dư luận, góp sức vào thực hiện hiệu quả công tác TCC DNNN và đáp ứng nhu cầu của công chúng. + Luận văn cũng góp phần làm giàu, phong phú và hoàn thiện thêm lý luận báo chí truyền thông hiện đại (vai trò, chức năng, kinh tế báo chí truyền thông…). - Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn đi sâu tìm hiểu thực trạng hoạt động truyền thông về TCC DNNN trên các tờ báo được khảo sát. Do vậy luận văn có thể làm cẩm nang nghề nghiệp cho sinh viên chuyên ngành báo chí học; tài liệu tham khảo cho các phóng viên, biên tập viên, cơ quan báo chí khảo cứu cho việc hoạch định tổ chức thông tin báo chí về công tác TCC DNNN. Đồng thời, thông qua việc nghiên cứu, khảo sát và phân tích, tác giải đã đưa ra những khuyến nghị, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả thông tin tuyên truyền về TCC DNNN trên các cơ quan báo chí khác. 7 – Kết cấu luận văn 10
- Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn có 3 chương như sau: Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về báo chí và vai trò báo chí với TCC DNNN Nội dung chương này giải quyết các vấn đề lý luận về TCC DNNN nói chung, một số quan điểm định hướng của Đảng, Nhà nước về vấn đề TCC DNNN và vai trò của báo chí cách mạng Việt Nam, trong đó nhấn mạnh vai trò của báo chí với vấn đề TCC DNNN. Chƣơng 2: Thực trạng thông tin báo chí về TCC DNNN Chương này trình bày toàn bộ số liệu khảo sát cũng như thuyết minh kết quả khảo sát về nội dung và hình thức chuyển tải thông tin về TCC DNNN trên 04 tờ báo được khảo sát. Đây là những dữ liệu quan trọng để đánh giá ưu nhược điểm và tìm ra giải pháp cho vấn đề. Chƣơng 3: Kiến nghị một số giải pháp nâng cao vai trò của báo chí về TCC DNNN Trên cơ sở dữ liệu ở chương 2, chương 3 đã tiến hành đánh giá điểm mạnh và những điểm còn hạn chế của công tác thông tin tuyên truyền về TCC DNNN trên 04 báo. Từ đó, tác giả đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin về TCC DNNN thời gian tới. CHƢƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÁO CHÍ VÀ VAI TRÒ BÁO CHÍ VỚI TCC DNNN 11
- 1.1. Báo chí, thông tin báo chí và sự giám sát phản biện của báo chí trong phát triển kinh tế - xã hội 1.1.1. Khái niệm báo chí và thông tin báo chí Theo giáo trình Cơ sở lý luận báo chí truyền thông của các tác giả: Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (2004), báo chí là một bộ phận của truyền thông đại chúng, nhưng là bộ phận chiếm vị trí trung tâm, vai trò nền tảng vào có khả năng quyết định, tính chất, khuynh hướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác động của truyền thông đại chúng. Báo chí là một hiện tượng đặc biệt phổ biến tác động từng ngày, từng giờ vào xã hội. Quy mô phạm vi, hình thức hoạt động của báo chí ngày càng mở rộng, thu hút sự quan tâm chú ý của đại bộ phận xã hội, trở thành một phương tiện có sức mạnh được sử dụng vào các mục đích rất khác nhau như: nhân đạo, kinh doanh, kinh tế, chính trị và quân sự, không có một đảng chính trị, một tổ chức lực lượng kinh tế xã hội nào không sử dụng báo chí như một phương tiện thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của mình. Trong xã hội hiện đại, báo chí ngày càng thể hiện vai trò, vị thế đặc biệt quan trọng. Báo chí đã và đang đóng góp hết sức to lớn vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và môi trường truyền thông số hiện nay, báo chí và truyền thông nói chung có vai trò đặc biệt quan trọng. Báo chí là loại hình hoạt động thông tin mang tính chính trị - xã hội. Khái niệm “thông tin” được bắt nguồn từ tiếng Latinh informetio, gốc của từ tiếng Anh information. Hai ông Philippe Breton và Serge Proulx trong cuốn sách “bùng nổ truyền thông” giải thích rằng: Khái niệm này có liên quan đến nét đặt trưng Roma, biểu hiện sự mong muốn giảng dạy, truyền đạt. Nó có hai hướng nghĩa: Thứ nhất là nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình dạng “forme”, thứ hai là, nói về sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay biểu tượng. Hai hướng nghĩa này cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự 12
- truyền đạt kiến thức và truyền đạt, đây là tiêu biểu cho sự phát minh của tiếng Latinh. Nó thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vực kỹ thuật và kiến thức. Hiện nay, khi khoa học và công nghệ phát triển đến trình độ cao, trong các lĩnh vực khoa học, thuật ngữ “thông tin” cũng có những cách hiểu khác nhau khi sử dụng đến nó. Trong báo chí được dùng để nói về chất liệu ngôn ngữ sống, sự miêu tả, câu chuyện kể, bằng chứng, chỉ cần nó thể hiện một nhân tố của thực tại. Trong lý luận báo chí, khái niệm “thông tin” cũng đang tồn tại hai cách hiểu: Một là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực cuộc sống. Hai là sự loan báo cho mọi người biết. Theo cách hiểu thứ nhất, thông tin thể hiện tính chất khởi đầu, khởi điểm (tương tự với khái niệm hình tượng trong nghệ thuật, hàng hóa trong kinh tế - chính trị…). Đây chính là đặc trưng cơ bản của báo chí nói chung. Còn theo cách hiểu thứ hai là sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện có để truyền đạt kết quả sáng tạo của nhà báo ra thế giới xung quanh. Như vậy, thì thông tin cũng chính là chức năng của báo chí (theo nghĩa là sử dụng phương tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo). Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực hiện mục đích của mình. Thông tin trở thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Nó là “dụng cụ làm việc” của nhà báo, với sự giúp đỡ của dụng cụ đó, những công việc đa dạng và quan trọng được thực hiện. Có thể coi những công việc của báo chí như một hệ thống xã hội đặc biệt. Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều cách sử dụng khác nhau. Có trường hợp, các nhà báo sử dụng nó để biểu thị tính chất của các thông báo ngắn, không kèm theo lời phân tích, bình luận về một sự kiện mới (như tin văn hay tin ngắn). Trong trường hợp khác, nó được dùng để chỉ tất cả các thể loại được dùng để ghi chép những sự kiện, hiện tượng mới như: tin tức, tường thuật, phỏng vấn… Nhiều khi một tin ngắn cũng được gọi là “thông tin”. Nhưng bất cứ tác phẩm báo chí nào (tin vắn, phim tài liệu, tin của đài phát thanh…) cũng đều chứa đựng thông tin. Tóm lại, “thông tin” là cách gọi truyền 13
- thống trong nghề báo, theo nghĩa chính xác nhất của từ này thì đó là “thông tin sự kiện”. Ngoài ta, trên báo, trong chương trình phát thanh hay trên vô tuyến truyền hình còn có “thông tin lý luận”, “thông tin giải thích”, “thông tin nghệ thuật” v.v… [45] Thuật ngữ “thông tin” còn có cách hiểu rộng hơn. Để hiểu thuật ngữ này một cách đầy đủ, đòi hỏi phải xem xét từ sự ứng dụng riêng biệt. Chúng ta có thể gọi “toàn bộ các tác phẩm”, hay “hệ thống những tin tức”… là thông tin. Như vậy, thuật ngữ “thông tin” nhiều khi còn được hiểu như một danh từ tập hợp. Khi xem xét khái niệm thông tin trong hệ thống khái niệm của lí luận báo chí thì cách hiểu như vậy không phù hợp, vì ý nghĩa riêng của thuật ngữ “thông tin” thường được sử dụng theo thói quen hay theo kinh nghiệm. Ví dụ, khi nghe đài hay đọc báo mà người đọc không thu nhận được điều gì mới mẻ, họ sẽ nói: “tác phẩm nghèo thông tin” thậm chí là “không có thông tin”. Điều này dường như vô lý. Nhiệm vụ của báo chí là mang thông tin đến cho công chúng nhưng tại sao họ lại không tìm thấy chúng trong tác phẩm? Thế nhưng đây là điều có thật khi thông tin không phản ánh được thực tế cuộc sống, không thỏa mãn nhu cầu của công chúng. Ở dạng hoàn chỉnh, khái niệm thông tin chứa đựng nội dung rất phong phú; nó có quan hệ trực tiếp đến chức năng và hiệu quả của công tác báo chí, đến “nguyên tắc” cung cấp thông tin, đến những yêu cầu nghiệp vụ báo chí và những nguyên tắc tác động lẫn nhau của các mặt nói trên. Khái niệm “thông tin” là nền tảng của công tác báo chí, cho nên khi nghiên cứu lí luận báo chí cần chú ý đến ý nghĩa của thuật ngữ này. Nhận thức về thông tin phát triển song song với nhận thức về chức năng và đối tượng phản ánh của báo chí. Muốn có sự nhận thức đúng đắn về thông tin, cần xác định được mục đích hoạt động của báo chí, đồng thời phải nêu lên định hướng có tính nguyên tắc cho những hoạt động thực tiễn của một nền báo chí. Sự định hướng rõ ràng sẽ trang bị cho nhà báo phương pháp thông tin và biết cách vận dụng thông tin có hiệu quả để thực hiện chức năng của báo chí. Một hướng quan trọng trong 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Vấn đề bất bình đẳng giới trong giá đình trên báo Phụ nữ thủ đô, báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh năm 2015-2016
148 p | 115 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Mô hình tổ chức và hoạt động của tòa soạn báo chí trong bối cảnh truyền thông hội tụ: Nghiên cứu trường hợp trung tâm truyền thông tỉnh Quảng Nam
158 p | 102 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Vấn đề vi phạm đạo đức báo chí của nhà báo trên báo mạng điện tử hiện nay
127 p | 106 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Vấn đề văn hóa lễ hội trên báo điện tử Việt Nam (Khảo sát Vnexpress, Vietnamnet và Tuổi trẻ online từ tháng 1/2016-12/2017)
141 p | 53 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Báo chí với việc bảo tồn và phát huy văn hóa vật thể của Hà Nội
236 p | 58 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Tuyên truyền nghị quyết của Đảng trên sóng truyền hình Lạng Sơn
90 p | 48 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Chỉnh sửa và gỡ bài đã đăng trên báo điện tử Việt Nam dưới góc độ đạo đức báo chí
131 p | 47 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí: Báo chí Công an nhân dân với công tác tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc giai đoạn hiện nay
137 p | 45 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Kỹ năng tác nghiệp của nhà báo Việt Nam về vấn đề nợ xấu
121 p | 54 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Báo chí Quảng Nam với vấn đề bảo tồn và quảng bá di sản văn hóa phi vật thể ở địa phương
157 p | 44 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Truyền thông biển, đảo trên Báo chí Cà Mau (Khảo sát Báo Cà Mau, Báo ảnh Đất Mũi, Đài PT-TH Cà Mau năm 2013)
120 p | 51 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Vấn đề phát triển làng nghề truyền thống ở Đồng bằng Sông Hồng trên báo điện tử địa phương (Khảo sát baobacninh.com.vn, hanoimoi.com.vn, baovinhphuc.com.vn từ tháng 1/2017 đến tháng 5/2018)
148 p | 46 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Năng lực cạnh tranh của quảng cáo truyền hình Việt Nam trong kỷ nguyên số
121 p | 45 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Sự vận động và phát triển của thể loại tiểu phẩm trong báo chí Việt Nam hiện đại
112 p | 45 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Hình ảnh ca sĩ Việt Nam trên báo điện tử (Khảo sát trên báo VietNamnet và Thanh niên Online năm 2017)
149 p | 46 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Hình ảnh người nổi tiếng trên báo chí và việc hình thành hệ giá trị cho giới trẻ Việt Nam
17 p | 38 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Báo chí với vấn đề
135 p | 35 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Báo chí: Quản lý báo mạng điện tử ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp
84 p | 36 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn