intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Thông tin về vấn đề chủ quyền biển, đảo trên tuổi trẻ online và Vietnamnet (khảo sát từ năm 2012 đến 2013)

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:134

48
lượt xem
11
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu: Thông qua việc khảo sát và đánh giá việc thông tin về vấn đề chủ quyền biển, đảo trên Vietnamnet và Tuổi trẻ online, luận văn đánh giá thành công, hạn chế của 2 tờ báo điện tử đối với việc thông tin tuyên truyền về chủ quyền biển đảo, từ đó nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về chủ đề này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Thông tin về vấn đề chủ quyền biển, đảo trên tuổi trẻ online và Vietnamnet (khảo sát từ năm 2012 đến 2013)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ……………………………………………. PHẠM HÀ THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TRÊN TUỔI TRẺ ONLINE VÀ VIETNAMNET (KHẢO SÁT TỪ NĂM 2012 ĐẾN 2013) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Báo chí học Hà Nội-2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ……………………………………………………. PHẠM HÀ THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TRÊN TUỔI TRẺ ONLINE VÀ VIETNAMNET (KHẢO SÁT TỪ NĂM 2012 ĐẾN 2013) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học Mã số: 60320101 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Phạm Tất Thắng Hà Nội-2015 1
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và tài liệu đƣợc sử dụng trong luận văn có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của Luận văn chƣa đƣợc công bố ở bất cứ công trình nghiên cứu khoa học nào. Tác giả luận văn 2
  4. LỜI CẢM ƠN Luận văn “Thông tin về vấn đề chủ quyền biển đảo trên Tuổitrẻonline và Vietnamnet (khảo sát từ năm 2012 đến 2013) là kết quả quá trình học tập nghiên cứu của tôi tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội từ năm 2011 đến 2013. Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô trong Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tôi trong suốt thời gian học tập tại lớp cao học báo chí K15. Tôi xin đặc biệt bày tỏ lòng cám ơn đến thầy Phạm Tất Thắng, Phó Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản, đã nhiệt tình và tận tâm giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực cố gắng, nhƣng chắc chắn bản luận văn này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận đƣợc sự thông cảm của các thầy cô giáo và anh chị làm nghề. Xin chân thành cám ơn! Tác giả luận văn 3
  5. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 6 1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 6 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................... 8 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................... 10 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu: .................................................................... 11 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .................................................... 11 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ......................................................... 112 7. Cấu trúc của luận văn ................................................................................... 113 CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIẾN CỦA HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TRÊN BÁO CHÍ......... 13 1.1. Những khái niệm cơ bản ............................................................................. 13 1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về vấn đề chủ quyền biển, đảo và nhiệm vụ của báo chí................................................................................... 21 1.3. Thế mạnh và hạn chế của báo điện tử trong tuyên truyền chủ quyền biển, đảo...........................................................................................................28 1.4. Giới thiệu về 2 tờ báo điện tử Tuổi trẻ online và Vietnamnet………….31 CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TRÊN 2 TỜ BÁO ĐIỆN TỬ VIETNAMNET VÀ TUỔI TRẺ ONLINE TỪ 2012- 2013………………………………………………………………………...36 2.1. Khảo sát tần số, quy mô, các bài viết về chủ quyền biển, đảo trên 2 tờ báo điện tử Tuổi trẻ online và Vietnamnet............................................... ... 36 2.2. Nội dung thông tin về vấn đề chủ quyền biển, đảo của Vietnamnet. và Tuổi trẻ online các năm2012-2013.......................................................... 39 2.3. Hình thức thông tin về chủ quyền biển, đảo trên báo Vietnamnet và Tuổi trẻonline các năm 2012-2013.....................................................................76 2.4. Sự tƣơng tác của các báo điện tử Vietnamnet và Tuổi trẻ online trong việc 4
  6. thông tin về chủ quyền biển, đảo........................................................................81 CHƢƠNG 3: ĐÁNH GIÁ ƢU, NHƢỢC ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN CỦA BÁO VIETNAMNET VÀ TUỔI TRẺ ONLINE VỀ VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN BIỂN,ĐẢO ....................................................................................................92 3.1. Đánh giá ƣu, nhƣợc điểm của 2 tờ báo Vietnamnet và Tuổi trẻ online...92 3.2.Các giải pháp nâng cao chất lƣợng thông tin về chủ quyền biển, đảo ......................................................................................................................107 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 120 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................124 PHỤ LỤC................................................................................................130 5
  7. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Biển Đông là vùng biển có một trong số 10 tuyến đƣờng hàng hải lớn nhất trên thế giới đi qua. Giao thông nhộn nhịp đứng thứ 2 thế giới (sau Địa Trung Hải). Hàng ngày có khoảng 200 - 300 tàu từ 5.000 tấn trở lên qua lại (không kể tàu dƣới 5.000 tấn) chiếm 1/4 lƣu lƣợng tàu hoạt động trên biển của thế giới. Khu vực Biển Đông có những eo biển quan trọng đối với nhiều nƣớc, trong đó eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển Hormuz). Biển Đôngrất quan trọng đối với nhiều nƣớc trong khu vực xét về vị trí địa - chiến lƣợc, an ninh, giao thƣơng hàng hải và kinh tế. Theo đánh giá của Bộ Năng lƣợng Mỹ, lƣợng dầu dự trữ đƣợc kiểm chứng ở Biển Đônglà 7 tỷ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Việt Nam là quốc gia ven Biển Đông, có bờ biển dài khoảng 3260 km, hàng nghìn đảo lớn nhỏ, trong đó có hai quần đảo xa bờ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng lớn. Biển Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng với trữ lƣợng, quy mô thuộc loại khá, cho phép chúng ta phát triển nhiều lĩnh vực kinh tế biển quan trọng nhƣ đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy hải sản; cảng biển, vận tải biển, sửa chữa và đóng tàu; khai thác tài nguyên khoáng sản; du lịch; thông tin liên lạc. Theo ƣớc tính hiện nay, tỷ trọng các ngành kinh tế biển và liên quan đến biển chiếm 48% GDP cả nƣớc. Biển Đông đƣợc ví nhƣ mặt tiền, sân trƣớc, cửa ngõ quốc gia của Việt Nam; biển, đảo, thềm lục địa và đất liền hình thành phên dậu, chiến lũy nhiều lớp, nhiều tầng, bố trí thành tuyến phòng thủ liên hoàn bảo vệ Tổ quốc. Do đặc điểm lãnh thổ đất liền nƣớc ta có hình chữ S, trải dài ven biển từ Bắc vào Nam, chiều ngang hẹp (nơi rộng nhất khoảng 600 km, nơi hẹp nhất khoảng 50 km), nên chiều sâu đất nƣớc bị hạn chế. Hầu hết các trung tâm chính trị, kinh tế xã hội của ta đều nằm trong phạm vi cách bờ biển không lớn, nên rất dễ bị địch tấn công từ hƣớng biển. 6
  8. Với những lợi thế sẵn có của mình, Biển Đông đang trở thành mục tiêu trong chiến lƣợc “hƣớng ra biển” của nhiều quốc gia. Trên Biển Đông, vùng biển nƣớc ta tiếp giáp với vùng biển 7 nƣớc trong khu vực là: Trung Quốc (phía Bắc), Campuchia và Thái Lan (Tây Nam), Philippin, Malaixia, Inđônêxia, Brunây (phía Đông, Đông Nam và Nam). Từ nhiều năm nay, nhất là trong thời gian gần đây, trên Biển Đông đang tồn tại những tranh chấp biển, đảo rất quyết liệt và phức tạp giữa các nƣớc, đặc biệt là những căng thẳng giữa Việt Nam và Trung Quốc, tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định, tác động đến quốc phòng và an ninh nƣớc ta,. Chủ quyền biển, đảo đang là vấn đề thời sự nóng bỏng của đất nƣớc ta. Bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam là trách nhiệm thiêng liêng không chỉ đối với lịch sử dân tộc, mà còn là nhân tố quan trọng bảo đảm cho dân tộc và đất nƣớc ta phát triển bền vững. Đó là ý chí quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển nổi của dân tộc Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Quan điểm tƣ tƣởng cơ bản về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới đƣợc thể hiện rõ trong các Nghị quyết của Đảng, tập trung chủ yếu ở Nghị quyết về Chiến lƣợc bảo vệ Tổ quốc và Chiến lƣợc biển Việt Nam đến năm 2020. Báo chí là một trong những phƣơng tiện quan trọng của Đảng thực hiện chức năng tuyên truyền vận động, giáo dục chính trị-tƣ tƣởng cho quần chúng. Thời gian qua, báo chí nƣớc ta đã tham gia tích cực vào việc tuyên truyền bảo vệ chủ quyền biển đảo. Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc, việc tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo trên báo chí Việt Nam thời gian qua cũng bộc lộ một số hạn chế nhất định. Có những tờ báo đƣa tin chƣa qua kiểm chứng, làm nóng vấn đề một cách không cần thiết (nhƣ trong trƣờng hợp tàu Bình Minh bị cắt cáp ngày 30-11-2012). Công tác truyền thông về biển, đảo nhìn chung vẫn chƣa chủ động, thiếu tính hệ thống, đồng bộ, nhất quán và chƣa thật sự đáp ứng với yêu cầu đông đảo của ngƣời dân. Nhiều đối tƣợng 7
  9. dân cƣ ven biển, hải đảo vẫn chƣa tiếp cận đƣợc thƣờng xuyên với các nguồn thông tin chính thống. Các thông tin về địa phƣơng, thế mạnh của biển, đảo của những vùng biển xa nhƣng giàu tiềm năng vẫn chƣa đƣợc khai thác, ít đƣợc đề cập tới. Khá nhiều tài liệu sử, tài liệu từ các kho tƣ liệu nƣớc ngoài, các cá nhân và tổ chức về tiềm năng, giá trị lịch sử, văn hóa của biển, đảo Việt Nam còn chƣa đƣợc thu thập, tổng hợp một cách có hệ thống; chƣa giới thiệu rộng rãi đến đông đảo công chúng trong nƣớc và nƣớc ngoài. Do tầm quan trọng của việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo và vai trò mũi nhọn của báo chí trong cuộc đấu tranh này, thực tế đòi hỏi phải có một công trình nghiên cứu, tổng kết lý luận về vấn đề trên, nhằm góp phần định hƣớng cho hoạt động tuyên truyền biển, đảo trên báo chí. Trong bối cảnh đó, tôi quyết định chọn đề tài “Thông tin về vấn đề chủ quyền biển đảo trên Tuổi trẻ online và Vietnamnet” (khảo sát từ năm 2012 đến 2013). Tôi chọn 2 tờ báo điện tử Tuổi trẻ online và Vietnamnet vì báo điện tử có lợi thế đƣa tin rất nhanh nhạy các diễn biến liên quan đến chủ quyền biển đảo, do đó đƣợc nhiều độc giả ƣa chuộng. 2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài Vấn đề chủ quyền biển đảo và thông tin trên báo chí về chủ quyền biển, đảo là một đề tài quan trọng và hấp dẫn. Hiện đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này nhƣ: - Sách “Dấu ấn Việt Nam trên biển Đông” của Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trƣởng Ban biên giới Chính phủ, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông, 2012.Cuốn sách nói về quá trình xác lập và thực thi chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trƣờng Sa; Thực trạng và giải pháp cho tranh chấp Biển Đông: - Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa của tác giả: Lƣu Văn Lợi, Nhà xuất bản: Công an Nhân dân, năm 1995. Cuốn 8
  10. sách này phân tích lập trƣờng của cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc để đánh giá khả năng, phƣơng hƣớng giải quyết vấn đề Hoàng Sa và Trƣờng Sa. - Sách “Về chủ quyền lịch sử, pháp lý của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa” của tác giả Nguyễn Bá Diến, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội 2012, trong đó tác giả chứng minh trên cơ sở lịch sử và luật pháp quốc tế chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa. - Luận văn “Vấn đề chủ quyền biển, đảo Việt Nam qua một số báo điện tử” của tác giả Nguyễn Thị Quỳnh, khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013. Luận văn phản ánh hoạt động truyền thông đối ngoại bằng tiếng Anh của báo chí về chủ quyền biển, những ƣu điểm và hạn chế, một số giải pháp nâng cao chất lƣợng. - Khóa luận tốt nghiệp “Thông tin về vấn đề biển đảo trên báo in (Khảo sát trên báo Tuổi Trẻ và Tiền phong từ tháng 1/2012-12/2012)”, Phạm Thị Thùy An, khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013. - Khóa luận tốt nghiệp “Vai trò của báo chí trong thông tin tuyên truyền về chủ quyền biển đảo”, Nguyễn Thị Châm, khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012. - Khóa luận tốt nghiệp, “Báo chí với vấn đề biển đảo và duyên hải Việt Nam, (khảo sát trên báo Tuổi Trẻ và Thanh Niên từ tháng 6-tháng 9/2012)”, Nguyễn Thị Dung, khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012. - Khóa luận tốt nghiệp “ Thông tin bảo vệ chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa trên báo chí (khảo sát trên báo Quân đội nhân dân và Tuổi Trẻ thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 3-2009 đến tháng 3-2010”, Tạ Thị Thanh Nhàn, 2011, khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011. 9
  11. - Luận văn thạc sĩ, “Nâng cao chất lƣợng chƣơng trình về biển đảo trên sóng phát thanh của Đài tiếng nói Việt Nam” ( Qua thực tế các chƣơng trình trên hệ thời sự chính trị tổng hợp VOV1), Nguyễn Thị Hoà, khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011 - Khóa luận tốt nghiệp “Báo chí nƣớc ngoài viết về Biển Đông(khảo sát trên BBC, Reuters, Xinhuanet từ 1/2012 đến 1/2013)”, Đoàn Biên Thùy, khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013. - Khóa luận tốt nghiệp “Báo chí nƣớc ngoài viết về biển đảo Việt Nam”, Lê Thị Thanh Thủy, khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013. - Luận văn thạc sĩ, “Thông tin về chủ quyền biển đảo trên kênh VTV Đà Nẵng” (khảo sát từ 01/2013 đến 06/2013), Văn Công Nghĩa, khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014. Luận văn của học viên kế thừa các kết quả nghiên cứu của những công trình trên về vấn đề thông tin trên báo chí vấn đề chủ quyền biển đảo của Việt Nam, đồng thời đi sâu nghiên cứu các thông tin tuyên truyền chủ quyền biển, đảo tiếng Việt trên các báo điện tử Tuổi trẻ online và Vietnamnetvào các năm 2012-2013. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. Mục đích nghiên cứu: Thông qua việc khảo sát và đánh giá việc thông tin về vấn đề chủ quyền biển, đảo trên Vietnamnet và Tuổi trẻ online, luận văn đánh giá thành công, hạn chế của 2 tờ báo điện tử đối với việc thông tin tuyên truyền về chủ quyền biển đảo, từ đó nghiên cứu đề xuất các giải pháp nâng cao chất lƣợng thông tin về chủ đề này. 10
  12. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn xác định các nhiệm vụ chủ yếu sau: - Làm rõ cơ sở lý thuyết của việc thông tin trên báo chí về vấn đề chủ quyền biển đảo. - Phân tích, đánh giá thực trạng thông tin trên Vietnamnet và Tuổi trẻ online về vấn đề chủ quyền biển, đảo ở Việt Nam. - Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lƣợng thông tin vấn đề chủ quyền biển, đảo trên Vietnamnet. và Tuổi trẻ onlinevà báo chí Việt Nam nói chung trong thời gian tới 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu Thông tin về vấn đề chủ quyền biển, đảo trên Vietnamnet và Tuổi trẻ online. Phạm vi nghiên cứu Về mặt không gian: Các phƣơng tiện báo chí Việt Nam rất đa dạng. Do điều kiện thời gian và khả năng có hạn, luận văn tập trung khảo sát các báo Tuổi trẻ online, báo Vietnamnet là các kênh truyền thông có đông đảo độc giả, đƣa tin khá rộng rãi về vấn đề chủ quyền biển, đảo. Về mặt thời gian: Luận văn tập trung vào giai đoạn 2012-2013. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của đề tài dựa trên cơ sở nhận thức luận những vấn đề lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về báo chí, những quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về công tác tƣ tƣởng, lý luận và báo chí, vấn đề chủ quyền biển đảo. Để thực hiện đề tài này, học viên áp dụng các phƣơng pháp cơ bản sau: - Phƣơng pháp lịch sử: Hệ thống hóa để tìm hiểu vấn đề chủ quyền biển, đảoViệt Nam từ góc độ lịch sử. - Phƣơng pháp thống kê: Thống kê các tin bài về chủ đề biển, đảo dƣới 11
  13. các khía cạnh khác nhau trên báo chí, nhƣ số lƣợng tin bài về các diễn biến trên Biển Đông, về luật pháp quốc tế giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo, về dƣ luận quốc tế đối với tranh chấp trên Biển Đông... - Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: So sánh, đối chiếu tin bài về vấn đề biển, đảocủa các tờ báo. - Phƣơng pháp điều tra: Học viên phát 300 phiếu điều tra tại Học viện Khoa học Quân sự và Viện Quan hệ quốc tế về quốc phòng để tham khảo ý kiến của một bộ phận công chúng về thông tin chủ quyền biển đảo trên các báo Vietnamnet và Tuổi trẻ online. - Phƣơng pháp tổng hợp, phân tích: Tổng hợp các dữ liệu thu thập đƣợc, phân tích rút ra kết luận. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Ý nghĩa lý luận Luận văn xây dựng khung lý luận của việc thông tin về vấn đề chủ quyền biển, đảotrên báo chí, đƣa ra những đánh giá về cách đƣa tin về vấn đề chủ quyền biển, đảotrên báo chí Việt Nam (về mặt nội dung và hình thức), qua đó đóng góp về mặt lý luận cho việc tham gia của báo chí trong việc đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia, khẳng định rõ báo chí là loại hình thông tin chính trị-xã hội có chức năng giáo dục chính trị tƣ tƣởng, cũng nhƣ tính dân tộc, nhân dân của báo chí. Ý nghĩa thực tiễn Luận văn chỉ rõ những vấn đề đang đặt ra trong công tác thông tin về vấn đề chủ quyền biển, đảo của một số cơ quan báo chí, từ đó kiến nghị các giải pháp nâng cao chất lƣợng, phát huy hơn nữa đóng góp của báo chí trong công cuộc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đây cũng là nguồn tài liệu tham khảo có giá trị đối với những ngƣời quan tâm đến vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. 12
  14. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chƣơng. Chương I: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động thông tin về chủ quyền biển, đảo trên báo chí. Chương II: Khảo sát vấn đề chủ quyền biển đảo trên 2 tờ báo điện tử Tuổi trẻ online và Vietnamnet từ 2012-2013. Chương III: Đánh giá ưu, nhược điểm và một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng thông tin của báo điện tử Vietnamnet và Tuổi trẻ online về vấn đề chủ quyền biển, đảo. 13
  15. CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA HOẠT ĐỘNG THÔNG TIN VỀ VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO TRÊN BÁO CHÍ 1.1. Những khái niệm cơ bản Chủ quyền quốc gia gồm 2 nội dung: quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế1. Theo Công ƣớc LHQ vê luật biển năm 1982, chủ quyền là quyền làm chủ tuyệt đối của quốc gia độc lập đối với lãnh thổ của mình. Chủ quyền của quốc gia ven biển là quyền tối cao của quốc gia đƣợc thực hiện trong phạm vi nội thủyvà lãnh hải của quốc gia đó. - Quyền chủ quyền là các quyền của quốc gia ven biển đƣợc hƣởng trên cơ sở chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình, cũng nhƣđối với những hoạt động nhằm thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia đó vì mục đích kinh tế, bao gồm cả việc sản xuất năng lƣợng từ nƣớc, hải lƣu, gió... - Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển trong việc đƣa ra các quyết định, quy phạm và giám sát việc thực hiện chúng, nhƣ: cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết bị và công trình nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ 1 Hồng Chuyên, 2014 : “TS Trần Công Trục giải đáp về Luật Biển, thế nào là chủ quyền và chủ quyền quốc gia trên biển”,infonet.vn/the-nao-la-chu-quyen-va-chu-quyen-quoc-gia- tren-bien-post,ngày1-3-2014 14
  16. và gìn giữ môi trƣờng biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó. Quyền chủ quyền có nguồn gốc từ chủ quyền lãnh thổ trong khi quyền tài phán là hệ quả của quyền chủ quyền, có tác dụng hỗ trợ, tạo ra môi trƣờng để thực hiện quyền chủ quyền đƣợc tốt hơn. Bên cạnh đó, trong khi chủ quyền và quyền chủ quyền chỉ đƣợc thực hiện trên vùng lãnh thổ mà quốc gia có quyền thì quyền tài phán có không gian mở rộng hơn, tới những nơi mà quốc gia đókhông có chủ quyền (ví dụ quyền tài phán áp dụng trên tàu thuyền có treo cờ của một quốc gia nhất định đang hoạt động trong vùng biển thuộc chủ quyền của một quốc gia khác Theo Luật biển Việt Nam 2012, đảo là vùng đất tự nhiên có nƣớc bao bọc, khi thủy triều lên vùng đất này vẫn ở trên mặt nƣớc. Quần đảo là một tập hợp các đảo, bao gồm cả bộ phận của các đảo, vùng nƣớc tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên quan chặt chẽ với nhau. Báo chí: là bao gồm tất cả các tổ chức thông tin thuộc những loại hình khác nhau (xuất bản, radio, vô tuyến, truyền hình...) và ở các cấp độ khác nhau từ trung ƣơng đến địa phƣơng với ý nghĩa là tất cả các phƣơng tiện thông tin đại chúng. Thông tin: Theo Philipppe Breton và Serge Proulx trong cuốn sách “Bùng nổ truyền thông”, khái niệm thông tin có hai hƣớng nghĩa: Thứ nhất là, nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình thái (frome), thứ hai là, nói về sự truyền đạt một ý tƣởng, một khái niệm hay biểu tƣợng. Hai hƣớng nghĩa này cùng tồn tại, một nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến thức và truyền đạt. Nó thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vực kỹ thuật và kiến thức. Theo quan điểm của triết học, thông tin là một hiện tƣợng vốn có của vật chất, là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất. Nội dung của thông tin chính là những thuộc tính, tính chất vốn có của sự vật với các sự vật hiện 15
  17. tƣợng đƣợc bộc lộ ra, thể hiện thông qua tác động qua lại của sự vật ấy với sự vật khác. Thông tin luôn gắn với quá trình phản ánh. Những dấu ấn để lại chính là những thông tin của hệ thống vật chất này đối với hệ thống vật chất khác. Phản ánh của vật chất là phản ánh thông tin, không có thông tin chung chung mà thông tin là thông tin về sự vật này đối với sự vật khác. Theo Từ điển tiếng Việt thì thông tin với nghĩa là động từ là truyền tin cho nhau để biết; và với nghĩa danh từ là điều được truyền đi cho biết, tin truyền đi (ví dụ bài báo có lƣợng thông tin cao). Nhƣ vậy, đánh giá một cách tổng quát, thông tin đƣợc hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó chính là nội dung thông tin; Thứ hai, đó là phương tiện thông báo, báo tin. Cách hiểu này phù hợp với khái niệm thông tin nêu trong phần mở đầu “Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010” ban hành kèm theo Quyết định số 219/2005/QĐ – TTg ngày 9/9/2005 của Thủ tƣớng Chính phủ: “Thông tin được coi là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội, là công cụ để điều hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc gia, là phương tiện hữu hiệu để mở rộng giao lưu hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc, là nguồn cung cấp tri thức mọi mặt cho công chúng và là nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội”. Thông tin báo chí: Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí là một hiện tƣợng xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức của con ngƣời. Thông tin là một hiện tƣợng vốn có của thế giới vật chất. Theo các nhà nghiên cứu, lần đầu tiên thông tin đƣợc con ngƣời chú ý về mặt ý nghĩa xã hội của nó và đƣợc đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những năm 20 – 30 của thế kỷ XX. Và từ đây, “Thông tin chính là những cái mới khác với những điều đã biết”. Thông tin là chức năng sơ khởi của báo chí, theo nghĩa sử dụng phƣơng tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo. Thực hiện chức năng thông tin, báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả các vấn đề, sự 16
  18. kiện của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã hội. Trong một thế giới hiện thực chứa đầy lƣợng thông tin, báo chí có cách riêng của mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng lớp xã hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó đã khiến cho báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và năng động nhất mà không một hình thái ý thức xã hội nào có đƣợc. Nhƣ vậy, thông tin báo chí cũng đƣợc hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó là tri thức, tƣ tƣởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tƣợng trong tự nhiên và xã hội đƣợc báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con ngƣời. Thứ hai, đó là phƣơng tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới công chúng. Trong hoạt động báo chí, thông tin là mục đích chủ yếu. Thông tin trở thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Căn cứ việc phân loại theo phƣơng thức thể hiện, ngƣời ta chia thông tin báo chí thành các loại hình: Thông tin bằng chủ yếu chữ viết (báo in); thông tin chủ yếu bằng tiếng nói (phát thanh); thông tin chủ yếu bằng hình ảnh (truyền hình, báo ảnh); thông tin trên mạng internet (đa phƣơng tiện). Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thông tin” có nhiều dạng khác nhau: có khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn; có khi là một chƣơng trình phát thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí của tác phẩm trên các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ trên các tờ báo… đều chứa đựng thông tin. Đảng và Nhà nƣớc ta hết sức coi trọng và đánh giá cao vai trò của thông tin. Đây không chỉ là phƣơng tiện cung cấp thông tin, cung cấp tri thức, 17
  19. là một trong những công cụ giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành đất nƣớc mà còn là nơi để phản hồi những thông tin từ nhân dân đối với đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, góp phần quan trọng thực hiện dân chủ hoá trong đời sống xã hội. Thông tin thực sự là công cụ cung cấp tri thức, dự báo sự phát triển đồng thời cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển. Đời sống nhân dân đƣợc cải thiện, trình độ dân trí ngày càng đƣợc nâng cao nên nhu cầu thông tin của nhân dân đòi hỏi ngày càng cao hơn. Tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin báo chí Chất lƣợng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con ngƣời, một sự vật. Chất lƣợng theo quan điểm của Triết học Mác – Lênin, là hai mặt có mối quan hệ biện chứng của mỗi sự vật, hiện tƣợng. Chất là tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tƣợng, là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với các sự vật và hiện tƣợng khác. Lƣợng là tính quy định của sự vật và hiện tƣợng về mặt quy mô, trình độ phát triển của nó, biểu thị con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Quá trình thay đổi về lƣợng tạo điều kiện cho chất đổi và ngƣợc lại, khi chất mới ra đời, nó lại tạo ra một lƣợng mới phù hợp với nó. Quy luật những thay đổi về lƣợng dẫn đến những thay đổi về chất và ngƣợc lại là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này nói lên cách thức của sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tƣợng. Chất lƣợng thông tin báo chí bao gồm 2 mặt: chất lƣợng nội dung thông tin và chất lƣợng hình thức, phƣơng thức thông tin. Bên cạnh đó, trong hoạt động báo chí, nhận thức về chất lƣợng thông tin song song với nhận thức về chức năng và đối tƣợng phản ánh của báo chí. Muốn có nhận thức đúng đắn về thông tin, cần xác định đƣợc mục đích hoạt động của báo chí, đồng thời phải nêu lên định hƣớng có tính nguyên tắc cho những hoạt động thực tiễn của một nền báo chí. Sự định hƣớng rõ ràng sẽ trang bị cho nhà báo phƣơng pháp thông tin và biết cách vận dụng thông tin có hiệu quả để thực hiện chức 18
  20. năng của báo chí. Một hƣớng quan trọng trong cách tiếp cận thông tin báo chí là mỗi chƣơng trình, mỗi tác phẩm phải đƣợc xem xét kỹ lƣỡng trong hệ thống những mối quan hệ giữa báo chí và công chúng. Tác phẩm báo chí là điểm trung gian trong mối quan hệ: Nhà báo – Tác phẩm – Công chúng. Tác phẩm báo chí khi đƣợc đăng tải, phát sóng, mới chỉ dừng lại ở thông tin tiềm năng, vì thông tin đó chƣa chắc đã đƣợc công chúng tiếp nhận. Ngƣời làm báo phải tìm mọi cách biến thông tin tiềm năng thành thông tin hiện thực. Tính chất thực tiễn của thông tin là tiêu chuẩn để đánh giá giá trị của thông tin cao hay thấp, tức là có mang đến cho công chúng những thông tin phù hợp với nhu cầu của họ không và có khả năng chuyển thông tin tiềm năng thành thông tin hiện thực không. Lý luận báo chí truyền thông đã chỉ ra các tiêu chí đánh giá chất lƣợng thông tin, đó là tính độc đáo, tính đại chúng và tính hợp thời (đúng lúc). - Tính độc đáo của thông tin, là cái mới mà công chúng chƣa biết. Nhƣng cái mới không phải là cái duy nhất thể hiện tính độc đáo. Cùng với sự đòi hỏi tất yếu của cái mới, có thể tái hiện thông tin cũ đã bị lãng quên, giúp cho công chúng có thêm tƣ liệu để nhận thức tốt hơn sự kiện mới. Tuy nhiên, những thông tin đƣợc nhắc lại sẽ vô bổ, thậm chí có hại khi cái mới, cái độc đáo bị chìm đi trong một loạt cái cũ; khi cái cũ không đóng vai trò bổ sung mà lại cản trở việc nhận thức cái mới. - Tính đại chúng (dễ hiểu) giúp cho công chúng nhận thức nội dung tác phẩm tƣơng ứng với ý đồ tác giả, đòi hỏi ngôn ngữ của báo chí (chữ viết, lời nói, hình ảnh…) và cách viết, cách thể hiện… phải đƣợc công chúng nhận thức đầy đủ. Nếu không thực hiện đƣợc nguyên tắc này sẽ dẫn đến tình trạng là công chúng không hiểu đƣợc tác phẩm. - Tính hợp thời (đúng lúc) đòi hỏi tác phẩm báo chí xuất hiện đúng lúc, đáp ứng đƣợc nhu cầu của công chúng và sự quan tâm của họ trong thời điểm đó thì tác phẩm sẽ có giá trị hơn, tạo sự hứng thú, hấp dẫn công chúng. Lƣợng 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2