intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Vấn đề văn hóa học đường từ góc nhìn phản biện của báo chí

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:107

56
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Với đề tài này, tác giả mong muốn mang đến một cái nhìn rõ nét hơn về hoạt động phản biện xã hội của báo chí về vấn đề văn hóa học đường cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn, qua đó rút ra được những kinh nghiệm, bài học thiết thực trong hoạt động nghiệp vụ báo chí. Đồng thời nêu lên những giải pháp cụ thể để hoạt động phản biện xã hội củ. Mời cac bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Báo chí học: Vấn đề văn hóa học đường từ góc nhìn phản biện của báo chí

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------- NGUYỄN THỊ TÂM VẤN ĐỀ VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG TỪ GÓC NHÌN PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Báo chí học HÀ NỘI – 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------- NGUYỄN THỊ TÂM VẤN ĐỀ VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG TỪ GÓC NHÌN PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Báo chí học Mã số: 60 32 01 01 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hoàng Anh HÀ NỘI – 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là kết quả nghiên cứu của tôi trên cơ sở tiếp cận vấn đề có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn, có kế thừa thành tựu của những nhà lý luận báo chí đi trước và tham khảo tri thức của các nhà khoa học xã hội liền kề. Hà Nội, tháng 11/2015 Học viên Nguyễn Thị Tâm
  4. LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến PGS,TS.Hoàng Anh – Vụ trưởng Vụ Đào tạo, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh – một người thầy đáng kính, người hướng dẫn khoa học đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn. Xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, phòng Sau đại học và các Thầy Cô Khoa Báo chí và truyền thông – Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Xin cảm ơn Lãnh đạo cơ quan báo chí đã tạo điều kiện cho tôi trong quá trình nghiên cứu, khảo sát tư liệu để hoàn thành luận văn. Cảm ơn gia đình, bạn bè, người thân, những người luôn bên tôi trong suốt quá trình học Sau đại học và nghiên cứu luận văn. Trân trọng! Hà Nội, tháng 11 năm 2015 Tác giả Nguyễn Thị Tâm
  5. DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT VHHH Văn hóa học đường PGS,TS Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nxb Nhà xuất bản
  6. MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 2 CHƢƠNG 1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI ....................................................................................................... 12 1.1. Khái niệm về văn hóa học đường và phản biện xã hội ......................... 12 1.2. Mối quan hệ truyền thông giữa báo chí và văn hóa học đường............ 22 1.3. Vai trò của báo chí trong hoạt động phản biện xã hội về vấn đề văn hóa học đường..................................................................................................... 24 1.4. Khái quát về các báo điện tử Vnexpress, báo Tuổi trẻ, báo điện tử Giáo dục Việt Nam ............................................................................................... 32 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHẢN BIỆN VỀ VẤN ĐỀ VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG TRÊN BÁO CHÍ .................................................................................. 37 2.1. Chủ thể của hoạt động phản biện xã hội trên báo chí ........................... 37 2.2. Số lượng tin, bài phản biện xã hội ........................................................ 44 2.3. Nội dung và hình thức phản biện xã hội trên báo chí ........................... 45 2.4. Ngôn ngữ báo chí được sử dụng trong hoạt động phản biện……. …..63 2.5. Một số thành công và hạn chế từ phản biện xã hội............................... 63 CHƢƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO TÍNH PHẢN BIỆN XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ .......................................................................... 68 3.1. Nhóm giải pháp về nhận thức ............................................................... 68 3.2. Nhóm giải pháp về cơ chế chính sách nhằm nâng cao tính phản biện trên báo chí ................................................................................................... 73 3.3. Nhóm giải pháp về điều kiện cơ sở vật chất ......................................... 81 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 83 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 86 1
  7. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Nhiều quốc gia trên thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn trong quá trình phát triển nhờ sớm coi trọng vai trò của giáo dục và đào tạo như Nhật Bản với quan điểm coi “Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu; cần kết hợp hài hoà giữa bản sắc văn hóa lâu đời phương Đông với những tri thức Phương Tây hiện đại”; hay Singapore với phương châm “Thắng trong cuộc đua về giáo dục sẽ thắng trong cuộc đua về phát triển kinh tế”; cường quốc Mỹ cũng luôn chú trọng đến việc “Tập trung cho đầu tư giáo dục - đào tạo và thu hút nhân tài”; Liên xô trước đây cũng đã khẳng định “Chính sách về con người là điểm bắt đầu và là điểm kết thúc của mọi chính sách kinh tế - xã hội”. Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn thế hệ trẻ “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [26, tr.33]. Trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng và Nhà nước ta đã luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là những chính sách trọng tâm, có vai trò chính yếu của Nhà nước, được ưu tiên trước nhất, thậm chí đi trước một bước so với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội khác. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã có nhiều quan điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục. Ngày 3/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày với các Bộ trưởng 6 nhiệm vụ cấp bách của đất nước lúc bấy giờ, trong đó có nhiệm vụ về giáo dục: Diệt giặc dốt. Các Nghị quyết Trung ương luôn nêu cao quan điểm coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu và đã được cụ thể hoá thành các chính sách 2
  8. như: Chính sách đầu tư cho giáo dục. Việt Nam là một trong những quốc gia có sự đầu tư ngân sách cho giáo dục lớn. Văn hóa học đường là văn hóa trong môi trường giáo dục và đào tạo. Đó chính là hành vi, thái độ, ứng xử của giữa các thành viên trong nhà trường với nhau, giữa nhà trường và ngoài xã hội. Mọi vấn đề liên quan đến đào tạo, cả trước, trong và sau quá trình đào tạo đều liên quan đến vấn đề văn hóa học đường Ngay từ xưa ông cha ta đã dạy: Những phẩm chất quan trọng nhất của một con người đó chính là nhân, lễ, nghĩa, tín. Lễ ở đây chính là văn hóa, đạo đức một cốt lõi của văn hóa học đường. Khẩu hiệu: “ Tiên học lễ, hậu học văn” có ý nghĩa như vậy. Khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” được nêu và chú trọng ở hầu khắp các trường học, nhất là cấp bậc phổ thông Bác Hồ cũng đã từng nói: “Có tài mà không có đức thì vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”, “hiền dữ đâu phải là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên”. Hiện nay, trong thời kỳ hội nhập nhiều học sinh, sinh viên có ý chí vươn lên trong học tập, có hoài bão khát vọng lớn. Tuy nhiên, cũng dưới tác động của nền kinh tế thị trường, cơ chế mở cửa và do nhiều nguyên nhân khác, hành vi lệch chuẩn trong học đường có xu hướng ngày càng tăng. Văn hóa học đường là môi trường rất quan trọng để rèn luyện nhân cách và giáo dục thế hệ trẻ trở thành những con người sống có hoài bão, có lý tưởng tốt đẹp. Vấn đề xây dựng văn hóa học đường phải được coi là có tính sống còn đối với từng nhà trường, vì nếu học đường mà thiếu văn hóa thì không thể hoàn thành chức năng chuyển tải những giá trị kiến thức và nhân văn cho thế hệ trẻ. Do đó, văn hóa học đường có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Chính vì thế, thông tin về văn hóa học đường luôn luôn được xã hội quan tâm. Báo chí, với tư cách là loại hình truyền thông đại chúng không thể đứng ngoài cuộc. Báo chí là một loại hình thông tin mang tính chính trị – xã 3
  9. hội với vai trò, chức năng của mình đặc biệt là chức năng phản biện xã hội mà trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI ( tháng 01 năm 2011). Đó là “ Chú trọng nâng cao tư tưởng, phát huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục tổ chức và phản biện xã hội của các phương tiện thông tin đại chúng vì lợi ích của nhân dân và đất nước; khắc phục xu hướng thương mại hóa, xa rời tôn chỉ, mục đích trong hoạt động báo chí, xuất bản”, luôn theo sát thông tin về văn hóa học đường góp phần làm nâng cao văn hóa cho các cấp ngành, các thành viên trong nhà trường cũng như góp phần làm cho nền giáo dục nước ta ngày càng phát triển một cách toàn diện. Trong thời gian qua, những thông tin về văn hóa học đường luôn được các tòa soạn báo quan tâm. Trong số các thông tin về văn hóa học đường thì những thông tin mang tính phản biện xã hội giữ vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội góp phần to lớn trong việc phát triển hình thành lối sống văn hóa và có tác động thay đổi nhận thức, thái độ của các thành viên trong ngành giáo dục. Tuy nhiên, những thông tin mang tính phản biện xã hội cũng còn bộc lộ một số hạn chế và bất cập. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu, khảo sát thông tin về văn hóa học đường từ góc nhìn phản biện của báo chí là một vấn đề hết sức cần thiết. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi chưa có công trình nào đi sâu vào nghiên cứu vấn đề này. Chính vì vậy, người viết đã lựa chọn đề tài “ Vấn đề văn hóa học đường từ góc nhìn phản biện của báo chí ” làm đề tài luận văn của mình, với mong muốn nghiên cứu thực trạng phản biện xã hội của báo chí về vấn đề văn hoá học đường trên cơ sở khảo sát 3 báo: báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, báo điện tử Vnexpress, báo điện tử Giáo dục Việt Nam từ tháng 9/1013 đến tháng 6/2015 . Qua đó, chỉ ra những thành công và hạn chế của hoạt động này, đóng góp những ý kiến, giải pháp bước đầu của mình đối với hoạt động phản biện của báo chí về vấn đề văn hóa học đường. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này. 4
  10. 2. Lịch sử nghiên cứu Theo nghiên cứu của người viết, nghiên cứu về phản biện xã hội nói chung, và phản biện xã hội trên báo chí nói riêng trong những năm gần đây nhận được quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước, cho đến các nhà khoa học, và giới tri thức. Chẳng hạn: Tiến sĩ Trần Đăng Tuấn có cuốn sách “ Phản biện xã hội – những câu hỏi đặt ra từ cuộc sống” (Nxb Đà Nẵng, 2006). Cuốn sách đã tập hợp nhưng tác phẩm báo chí bám sát “ hơi thở” cuộc sống, đi sâu vào phân tích và phản ánh sinh động các vấn đề sự kiện trong cuộc sống xã hội một cách sắc sảo, ấn tượng, nhân văn, đề cập một cách hệ thống những vấn đề lý luận liên quan đến phản biện, phản biện xã hội, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của báo chí… trong việc thực hiện giám sát, phản biện xã hội. Cuốn sách đã khu biệt và làm rõ đối tượng, phạm vi nghiên cứu, đặc điểm tính chất, vị tri của phản biện xã hội cũng như điều kiện hình thành và phát huy tích cực phản biện xã hôi trong đời sống. Đồng thời, thể hiện ưu thế của báo chí trong việc thực hiện chức năng giám sát, quản lý và phản biện xã hội mà trong đó chính là nội hàm của phản biện xã hội, của báo chí nói chung.bàn đến nhiều vấn đề đặt ra cho xã hội hiện đại và hầu hết các bài viết đều mang tính phản biện sâu sắc. Sau Đại hôi Đảng toàn quốc lần thứ X, cuốn sách “tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng” ( Nxb Chính trị quốc gia, 2006) đã được ấn hành. Cuốn sách đã bước đầu giải thích các khái niệm phản biện, phản biện xã hội, vai trò của phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cuốn sách “ Phản biện xã hội về bảo vệ thiên nhiên và môi trường” của tác giả Nguyễn Hữu Hòe ( Nxb Khoa học và kỹ thuật, 2009) trình bày nhiều vấn đề khá sâu về phản biện xã hội và vị trí của nó trong xã hội. Tuy nhiên, nội dung của cuốn sách chủ yếu bàn về vấn đề phản biện xã hội về bảo vệ thiên nhiên và môi trường. 5
  11. Một số bài báo đề cập đến phản biện xã hội như: Phản biện xã hội ( Tạp chí cộng sản) của tác giả Trần Đăng Tuấn; “Vai trò của phản biện xã hội ở Việt Nam hiện nay” (Tạp chí lý luận chính trị) của tác giả Đỗ Văn Quân; “Báo chí và phản biện xã hội” (Tạp chí Người làm báo) của tác giả Nguyễn Quang A; “Phản biện xã hội” (Tạp chí Tia sáng) của GS Tương Lai hay “Phản biện xã hội và sứ mệnh của nhà báo chân chính” của GS Tương Lai đăng trên Tuần Việt Nam ngày 21/06/2014. Trong bài báo “Phản biện xã hội và sứ mệnh của nhà báo chân chính” tác giả Tương Lai đã khẳng định: Không có phản biện sẽ không có phát triển, về vai trò, trách nhiệm của các nhà báo chân chính, không chỉ chuyển tải ý chí lãnh đạo từ trên xuống mà còn phản ánh tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Trong một “thế giới phẳng” như hiện nay, việc nhân dân tham gia bàn luận về những chủ trương, quyết sách lớn của Đảng, Nhà nước không còn là xa lạ nữa. Đợt lấy ý kiến nhân dân tham gia Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 và Luật Đất đai năm 2003 (sửa đổi) vừa qua là minh chứng rõ nét nhất..và rất nhiều bài báo khác đã đề cập đến phản biện xã hội. Đặc biệt, bài viết “Phản biện xã hội vì lợi ích quốc gia” (Thời báo Ngân hàng) của tác giả Trần Bá Dung – Hội Nhà báo Việt Nam đã nêu bật được tầm quan trọng của báo chí trong việc thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội cũng như tầm quan trọng đối với quốc gia và dân tộc. Thời gian gần đây bài viết “ Về vai trò giám sát xã hội và phản biện xã hội của báo chí Việt Nam” của tác giả Đặng Thị Thu Hương ( Tạp chí cộng sản), bài viết đã thể hiện quan điểm của tác giả khi nêu bật được chức năng giám sát, phản biện xã hội của báo chí, cơ chế và nguyên tắc giám sát, phản biện xã hội của báo chí. Đặc biệt, bài viết đã nêu bật được giải pháp để báo chí thực hiện tốt chức năng phản biện, giám sát xã hội. 6
  12. Cùng với đó là một số khóa luận, luận văn, luận án liên quan đến đề tài như: Khóa luận “Phản biện xã hội của tác phẩm báo chí qua loạt bài “đêm trước đổi mới” trên báo Tuổi trẻ năm 2006”, khóa luận tốt nghiệp Đại học hệ chính quy chuyên ngành báo chí học, của Phan Văn Kiền K49, Khoa Báo chí và truyền thông, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Trong khóa luận tác giả đã nói về tính phản biện xã hội thông qua loại hình báo in. Tác giả tiếp tục nghiên cứu vấn đề đó trong luận văn thạc sỹ với chủ đề “Tính phản biện xã hội của tác phẩm báo chí Việt Nam” (khảo sát qua 2 báo Tuổi trẻ và Thanh niên từ năm 2006- 2008). Trong đó, tác giả đề cập đến hai vấn đề lũ lụt tại Thủ đô Hà Nội mùa mưa năm 2008 và việc xây dựng đường sắt cao tốc Bắc Nam. Luận văn Thạc sỹ Báo chí năm 2011 của Huỳnh Thị Xuân Hạnh với đề tài “Phản biện xã hội trên báo chí thành phố Hồ Chí Minh thập kỷ đầu thế kỷ XXI” nghiên cứu những vấn đề chung về phản biện, phản biện xã hội, phản biện xã hội của báo chí trong đó có báo chí thành phố Hồ Chí Minh; khảo sát hoạt động phản biện xã hội của 4 tờ báo: Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi Trẻ, Pháp Luật, Người Lao Động; nghiên cứu xu hướng tổ chức, phản biện xã hội trên báo chí thành phố Hồ Chí Minh và các giải pháp, kiến nghị để nâng cao chất lượng phản biện xã hội của báo chí thành phố Hồ Chí Minh. Một số luận văn liên quan đến phản biện xã hôi như: Tính phản biện xã hội của tác phẩm báo chí Việt Nam của tác giả Hoàng Thủy Chung (Đại học Khoa hoc xã hội và Nhân văn, 2010). Phản biện xã hội của báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay của Trần Quý Thân (Học viện Báo chí và Tuyên truyền). Luận văn “Báo chí với vai trò phản biện xã hội” của Bùi Thanh Tùng ( Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2012) và luận văn “ Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội trên báo An ninh thủ đô” của tác giả Phạm Thu Hương (Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 2013). Các luận văn đã đóng góp một phần cơ sở lý luận và thực tiễn mà chúng tôi quan tâm. 7
  13. Có thể thấy rằng, trong những năm gần đây vấn đề phản biện xã hội đã được đề cập ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi chưa có công trình nào đề cập trực tiếp đến vấn đề văn hóa học đường từ góc nhìn phản biện của báo chí. Chính vì vậy, trên cơ sở tiếp thu những công trình của các nhà nghiên cứu trước đây, người viết đã lựa chọn đề tài “Vấn đề văn hóa học đường từ góc nhìn phản biện xã hội của báo chí” làm đề tài nghiên cứu của mình. Đây là một vấn đề mới với mong muốn bổ sung, đóng góp những ý kiến, giải pháp bước đầu của mình cho các trường với việc xây dựng, giáo dục văn hóa học đường cho các cấp bậc trong nhà trường. Từ đó, chia sẻ những kỹ năng mà trên cơ sở đó các nhà báo nâng cao hiệu quả thông tin của mình. 3. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Với đề tài này, tác giả mong muốn mang đến một cái nhìn rõ nét hơn về hoạt động phản biện xã hội của báo chí về vấn đề văn hóa học đường cả về nhận thức và hoạt động thực tiễn, qua đó rút ra được những kinh nghiệm, bài học thiết thực trong hoạt động nghiệp vụ báo chí. Đồng thời nêu lên những giải pháp cụ thể để hoạt động phản biện xã hội của báo chí đáp ứng yêu cầu trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đề ra. 3.2. Nội dung nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, luận văn phải thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu những nội dung sau: - Làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề văn hóa học đường từ góc nhìn phản biện của báo chí - Làm rõ thực trạng thông tin mang tính phản biện của báo chí về vấn đề văn hóa học đường (Khảo sát báo Tuổi trẻ, báo điện tử Vnexpress, báo điện tử Giáo dục Việt Nam) 8
  14. - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả phản biện xã hội của báo chí về văn hóa học đường. 4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề về văn hóa học đường từ góc nhìn phản biện xã hội của báo chí. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn thực hiện khảo sát các bài báo phản biện xã hội viết về văn hóa học đường trên báo điện tử Vnexpress (Vnexpress.net), báo điện tử Giáo dục Việt Nam (Giaoduc.net.vn), báo Tuổi Trẻ. Thời gian khảo sát được giới hạn từ tháng 9/2013 đến tháng 6/2015 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Các phương pháp chính được sử dụng trong luận văn gồm có: - Phương pháp thống kê- phân loại: Dùng để thống kê con số, tài liệu (số lượt tin, bài đóng góp ý kiến, phản biện đối với các vấn đề về văn hóa học đường).. có được trong quá trình khảo sát. - Phương pháp phân tích - tổng hợp tài liệu: Dùng để phân tích, đánh giá và tổng hợp những kết quả khảo sát về hoạt động phản biện xã hội của báo chí đối với những vấn đề nóng về văn hóa học đường. Từ đó, đưa ra những luận cứ, luận điểm khái quát cho luận văn. - Phương pháp nghiên cứu tài liệu: được dùng để hệ thống hóa các vấn đề lý thuyết, lý luận về phản biện xã hội của báo chí và về văn hóa học đường. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: tìm hiểu thực trạng hoạt động PBXH về vấn đề văn hóa học đường trên báo chí để tìm ra ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân của tồn tại, hạn chế và kiến nghị các giải pháp… 9
  15. - Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi- anket: Dùng để lấy ý kiến của gần 300 công chúng báo chí . Mục đích của cuộc phỏng vấn là thu thập ý kiến cá nhân của công chúng báo chí về việc tổ chức “phản biện xã hội về vấn đề văn hóa học đường” hiện nay. Tại các địa bàn khảo sát công chúng, mẫu phiếu được gửi cho các nhóm đối tượng khác nhau gồm công nhân; cán bộ công chức; học sinh, sinh viên… Thu thập các ý kiến từ phiếu điều tra sẽ được tổng hợp, xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. Từ những kết quả khảo sát đó, luận văn đưa ra những luận cứ và luận điểm phù hợp 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài Về mặt lý luận: luận văn đã hệ thống hóa, góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận thông tin về văn hóa học đường, phản biện xã hội của báo chí được nhiều nhà nghiên cứu về văn hóa học đường quan tâm, bước đầu tạo dựng cơ sở có ý nghĩa phương pháp đối với việc khảo sát một dạng thông tin trên báo chí. Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn là căn cứ đáng tin cậy để các tòa soạn báo, đội ngũ phóng viên, biên tập viên nói chung và các phóng viên biên tập viên viết cho giáo dục nói chung và cho văn hóa học đường tham khảo. Trên cơ sở đó, giúp họ có ý thức sâu sắc hơn về việc thông tin về, từ đó có những điều chỉnh phù hợp phát huy những thế mạnh và khắc phục những hạn chế nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của truyền thông. Ngoài ra, luận văn còn có giá trị tham khảo nhất định đối với các nhà lãnh đạo các trường học nói chung và đối với các giảng viên, học viên, sinh viên chuyên ngành báo chí tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, các trung tâm đào tạo về báo chí. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đẩu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các công trình của các tác giả có liên quan đến đề tài và Phụ lục, các nội dung chủ yếu của luận văn được thể hiện trong 3 chương: 10
  16. Chương 1: Cơ sở lý luận về văn hóa học đường và phản biện xã hội Chương 2: Thực trạng phản biện xã hội về về vấn đề văn hóa học đường trên báo chí. Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao tính phản biện xã hội của báo chí. 11
  17. CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA HỌC ĐƢỜNG VÀ PHẢN BIỆN XÃ HỘI 1.1. Khái niệm về văn hóa học đƣờng và phản biện xã hội 1.1.1. Khái niệm văn hóa học đường “ Văn hóa” là một từ có nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt, văn hóa thường được dùng theo nghĩa thông dụng để chỉ học thức ( trình độ văn hóa), lối sống (nếp sống văn hóa), theo nghĩa chuyên biệt để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn (văn hóa Đông Sơn). Trong khi theo nghĩa rộng thì văn hóa bao gồm tất cả, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại cho đến tín ngưỡng, phong tục, lối sống, lao động. Tuy nhiên, theo cách hiểu rộng này trên thế giới cũng có hàng trăm định nghĩa khác nhau. Để định nghĩa một khái niệm trước hết cần xác định được những đặc trưng cơ bản của nó. Theo tác giả Trần Ngọc Thêm “ Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”.[36, tr11]. Tuy được dùng theo nhiều nghĩa khác nhau, nhưng suy cho cùng, khái niệm văn hoá bao giờ cũng có thể qui về hai cách hiểu chính: theo nghĩa hẹp và theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp, văn hoá được giới hạn theo chiều sâu hoặc theo chiều rộng, theo không gian hoặc theo thời gian… Giới hạn theo chiều sâu, văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa của nó (nếp sống văn hoá, văn hoá nghệ thuật…). Giới hạn theo chiều rộng, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực (văn hoá giao tiếp, văn hoá kinh doanh…). Giới hạn theo 12
  18. không gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị đặc thù của từng vùng (văn hoá Tây Nguyên, văn hoá Nam Bộ…). Giới hạn theo thời gian, văn hoá được dùng để chỉ những giá trị trong từng giai đoạn (văn hoá Hoà Bình, văn hoá Đông Sơn…)… Theo nghĩa rộng, văn hoá thường được xem là bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo ra. Năm 1940, Hồ Chí Minh đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [26, tr431]. Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: “Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise” [UNESCO 1989: 5]. Và UNESCO đã định nghĩa về văn hóa. “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách có tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và các cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình” Việc hệ thống hóa các định nghĩa nói trên cho thấy tính chất mở ngỏ của khái niệm “văn hóa”. Sở dĩ có tình trạng này là vì văn hóa là hiện tượng bao 13
  19. trùm lên tất cả các mặt của đời sống con người, khiến cho bất kỳ định nghĩa nào đưa ra cũng khó có thể bao quát hết được nội dung của nó. Mỗi định nghĩa chỉ thâu tóm một phương diện nào đó của văn hóa. Do vậy, cần coi các định nghĩa như những trừu tượng và cần sử dụng những trừu tượng ấy theo cách bổ sung lẫn nhau để có thể tái hiện văn hóa như một chỉnh thể. Theo những ý nghĩa đó, văn hóa là một hiện tượng xã hội đặc thù mà nét trội cơ bản của hiện tượng này là ở chỗ chúng là một hệ thống những giá trị chung nhất cả về vật chất và tinh thần cho một cộng đồng, một dân tộc, một thời đại hay một giai đoạn lịch sử nào đó, là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của con người trong môi trường tự nhiên và trong các mối quan hệ xã hội Văn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng hòa của tất cả các khía cạnh của đời sống trong xã hội. Sự có mặt của những thành tố và mối quan hệ giữa chúng tạo nên bộ mặt chung nhất của hệ thống văn hóa, còn những biểu hiện cụ thể của văn hóa nói chung và của mỗi thành tố nói riêng được phản ánh thông qua các loại hình văn hóa. Từ khái niệm gốc là “văn hóa” có thể suy rộng ra “văn hóa học đường” là gì? Văn hóa học đường - một thuật ngữ còn khá mới mẻ với chúng ta. Thời gian gần đây mới xuất hiện nhiều hơn trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, là một phạm trù khoa học nhưng trong sách về quản lý giáo dục, văn hóa học đường ở ta chưa được đề cập đến. Nhưng với tư cách là một vấn đề thực tiễn, văn hóa học đường đang là một vấn đề thời sự nổi cộm. Có thể nói, ở mọi nơi, mọi người, nhất là các cán bộ tâm lý – giáo dục chúng ta, đều quan tâm phản ánh cuộc sống trong trường học của chúng ta hiện nay vốn phức tạp hơn trước kia rất nhiều. 14
  20. Thuật ngữ “Văn hóa học đường” xuất hiện trong các nức nói tiếng Anh vào khoảng đầu những năm 1990 [ Deal, T& Peterson,1993] ở một số nước như Mỹ, Oxtraylia, ở các nước nói trên đã có trung tâm nghiên cứu về vấn đề này, đã tổ chức khảo sát thực tiễn, đã xây dựng tiêu chí đánh giá và tiến hành đánh giá. Tuy chưa có nhiều tài liệu về chủ đề này, nhưng tất cả đều nhất trí rằng mỗi trường cần có văn hóa học đường của mình, thực tiễn đã chứng minh tác động tích cực của văn hóa học đường, chống lại phản văn hóa, tiêu cực trong phi văn hóa. Mục tiêu chung nhất của văn hóa học đường là xây dựng trường học lành mạnh – cơ sở quan trọng để đảm bảo chất lượng thật. Có nhiều cách tiếp cận nội hàm văn hóa học đường (VHHĐ), do đó xuất hiện nhiều định nghĩa khác nhau, tùy theo mỗi người nhấn mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác. Tuy nhiên, tư tưởng xuyên suốt trong mọi định nghĩa VHHĐ chính là văn hoá một tổ chức. Văn hóa tổ chức là toàn bộ các giá trị, niềm tin, truyền thống và thói quen có khả năng quy định hành vi của mỗi thành viên trong tổ chức, mang lại cho tổ chức một bản sắc riêng, ngày càng phong phú thêm và có thể thay đổi theo thời gian [Michel, A, Drancis B., Joseph J. 44]. Hệ thống giá trị không phải là cái tự nhiên mà có, nó được hình thành một cách lâu dài, từ từ, ổn định và được các thành viên thừa nhận, chấp nhận. Do đặc thù mà hệ thống giá trị văn hóa của nhà trường này khác với hệ thống giá trị văn hóa của nhà trường khác. Hệ thống giá trị của VHHĐ bao gồm cả những giá trị vật chất và giá trị tinh thần, nó tồn tại dưới dạng thức khác nhau như: những tồn tại vật lý bao gồm cấu trúc, những nét hoa văn trang trí của các phòng học, khung cảnh nhà trường, đồng phục của nhà trường, những biểu tượng, khẩu hiệu, các lễ nghi, các hoạt động VH và học tập của nhà trường, trong đó nó mang các giá trị tinh thần, những tồn tại tinh thần - phi vật thể như truyền thống, ý thức, tình cảm, niềm tin của các thành viên đối với nhà trường, bầu không khí tâm lý. 15
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2