MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hoạt động kinh tế và giáo dục đào tạo là hai trong những lĩnh vực cơ

bản của xã hội. Nếu như kinh tế là sự quan tâm trước tiên thì giáo dục đào tạo,

từ khi xuất hiện đến nay đã đóng vai trò hết sức quan trọng không c hỉ để mở , cho các lĩnh vực mang trí tuệ, tăng thêm sức mạnh cho hoa ̣t đô ̣ng kinh tế

khác mà còn để truyền lại cho các thế hệ sau những nguồn sống, nguồn cảm

xúc của các thế hệ trước. Từ khi nước ta thực hiê ̣n công cuộc đổi mới đến

nay, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội đã có những biến đổi. Hoạt động kinh

tế và giáo dục đào tạo cũng vậy. Vượt qua sự trì trệ của cơ chế cũ, nền kinh tế

thị trườ ng định hướng xã hội chủ nghĩa đã có những thành tựu được ghi nhận . Từ cơ chế tập trung, kế hoạch hóa, bao cấp chúng ta đã chuyển sang cơ chế

thị trườ ng. Chính từ đó, chúng ta đã khắc phục được sự trì trệ, ỉ lại, dựa dẫm hoặc lợi dụng cơ chế để trục lợi làm thiệt hại cho nền kinh tế, cho cuộc sống

của người lao động cũng như của nhân dân nói chung. Đến nay, chúng ta đã

, thể chế thị trườ ng . Bước hình thành tương đối đồng bộ các loại thị trườ ng đầu, nền kinh tế đã bắt đầu có sự cạnh tranh và năng lực cạnh tranh được nâng

lên. Thị trườ ng trong nước và thị trườ ng ngoài nước được xích lại gần nhau hơn, nhưng năng lực cạnh tranh vẫn còn hạn chế, phát triển thiếu bền vững.

Giáo dục đào tạo ở nước ta trong thời gian qua đã có những bước

chuyển đáng khích lệ. Hệ thống giáo dục đào tạo đã được đa dạng hóa. Ngoài

giáo dục công lập là chủ yếu, chúng ta đã mở rộng hệ thống trườ ng dân lập, tư thục, liên kết giữa các trườ ng trong nước và ngoài nước hoặc cho phép các trường nước ngoài hoa ̣t đô ̣ng độc lập trên đất nước ta ; nhiều trườ ng đại học , cao đẳng, trung học chuyên nghiệp được ra đời để góp phần giảm áp lực về

nhu cầu học tập của người Việt Nam. Song song với việc mở rộng hình thức

và quy mô, nội dung, chương trình và thời gian đào tạo cũng được đổi mới

cho phù hợp với kinh tế thị trườ ng định hướng xã hội chủ nghĩa và phù hợp quốc tế. Thế nhưng, nhìn chung giáo dục đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát

triển của đất nước, đặc biệt là mối quan hệ giữa mô hình, quy mô và chất

lượng còn là một khoảng cách khá xa, thậm chí giáo dục đào tạo còn bị

thương mại hóa, xa rời mu ̣c tiêu cao cả của mình . Do hiểu vai trò của giáo dục đào tạo đối với đời sống xã hội còn lệch lạc, một số cơ sở đào tạo đã vừa làm ảnh hưởng đến ngành, vừa làm thiệt hại cho người học Việt Nam gây nên

lãng phí cho nền kinh tế.

Từ thực tiễn trên, chúng tôi chọn đề tài "Mối quan hệ giữa giáo dục

đào tạo và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện

nay" làm đề tài luận văn thạc sĩ nhằm bước đầu giải quyết mối quan hệ giữa

kinh tế thị trườ ng và giáo dục đào tạo mà chủ yếu xác định lĩnh vực hoa ̣t đô ̣ng của giáo dục đào tạo trong nền kinh tế thị trườ ng để phần nào giảm nhẹ rủi ro cho người học, nâng cao vai trò của giáo dục đào tạo trong quá trình phát triển đất nước.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Hoạt động kinh tế và giáo dục đào tạo đã được quan tâm nghiên cứu từ

lâu. Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trườ ng định hướng xã hội chủ nghĩa, những vấn đề mu ̣c tiêu , chức năng và phạm vi hoa ̣t đô ̣ng của chúng

được nghiên cứu và xác định. Tuy đến nay, việc phân định đó chưa được rạch

ròi, song, mỗi lĩnh vực này đều có sự nhất trí nhất định. Chúng tôi có thể khái

quát hướng quan tâm của các tác giả theo từng vấn đề:

có nhiều công trình trong đó có Về thị trườ ng và kinh tế thị trườ ng

một số công trình liên quan đến đề tài của chúng tôi.

- Nguyễn Hữu Dũng (1994): “Đổi mới chính sách tuyển dụng và sử

dụng khoa học học kỹ thuật trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở

Việt Nam”, Tạp chí Thông tin lý luận số, (11).

- Nguyễn Văn Oánh (1994), Định hướng xã hội chủ nghĩa: Nội dung cơ

2

bản và điều kiện chủ yếu thực hiện, luận án Phó tiến sĩ Triết học.

- Trần Đạt (1995), Kinh doanh trong nền kinh tế thế giới, Nxb. Khoa học

và Kĩ thuật, Hà Nội.

- Mã Hồng (chủ biên - 1995), Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- Tô Huy Rứa (1996), “Con đường và điều kiện đảm bảo định hướng xã

hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, (6).

- Nguyễn Đức Bách, Lê Văn Liêm, Nhị Lê (1998), Một số vấn đề định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nxb. Lao động, Hà Nội.

- Chu Thượng Văn - Chu Cẩm Uý (1999), Chủ nghĩa xa hội là gì? Xây

dựng chủ nghiõa xã hội như thế nào? Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- Nguyễn Nguyên (2001), Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa trong

thế giới toàn cầu hoá. Nxb. Trẻ, Hà Nội.

- Lương Xuân Quý (Chủ biên - 2001), Cơ cấu và thành phần kinh tế ở

nước ta hiện nay - Lý luận, thực tiễn và giải pháp. Nxb. Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

- Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (2002),

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam lí luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

- Nguyễn Thị Thơ m (2004), “Những khiếm khuyết của nền kinh tế thị

trườ ng”, Tạp chí Lí luận chính trị, (8).

- Đặng Kim Sơn (2004), Ba cơ chế thị trường, nhà nước và cộng đồng

ứng dụng cho Việt Nam. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

, kinh tế thị Các công trình trên đã cho chúng tôi hiểu về thị trườ ng

trườ ng và những yêu cầu cũng như đặc trưng hoa ̣t đô ̣ng của thị trườ ng định

3

hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các tác giả đều cho rằng, tuy nền kinh tế

thị trườ ng có những khiếm khuyết riêng của nó , song, nhờ kinh tế thị trườ ng mà Việt Nam nói riêng, nhân loại chung đã có những bước tiến vượt bậc

trong việc giải quyết những vấn đề muôn thuở: ăn, ở, đi lại, sinh hoạt, cũng

như những phát minh về văn hóa, khoa học, xã hội để càng ngày càng văn

minh hơn, nhân ái hơn. Mặc dù kinh doanh có những yêu cầu riêng của nó ,

nhưng để có kinh doanh bền vững nhất thiết phải theo những quy luật nhất

định, đặc biệt là pháp luật. Các tác giả cũng cho rằng, kinh nghiệm thành công

của các nền kinh tế thị trườ ng phát triển, Chính phủ các nước ngay từ khi kinh tế còn mới phát triển nhất thiết phải có chính sách phát triển giáo dục đào tạo

thích đáng. Để kinh doanh thuận lợi cũng như để phát triển kinh tế - xã hội

bền vững nhất thiết phải phát triển giáo dục đào tạo, phải gắn với giáo dục

đào tạo.

Về giáo dục và đào tạo có nhiều công trình trong đó có một số công

trình liên quan đến đề tài của chúng tôi:

- Nguyễn Hữu Dũng (1994), “Đổi mới chính sách tuyển dụng và sử

dụng khoa học học kỹ thuật trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở

Việt Nam”, Tạp chí Thông tin lý luận số, (11).

- Phạm Tất Dong (1995), Trí thức Việt Nam, thực tiễn và triển vọng,

Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục phát triển con người

phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

- Phạm Minh Hạc (1997), Giáo dục nhân cách đào tạo nhân lực, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- Hoàng Chí Bảo (1998), “Giáo dục văn hóa lao động để nâng cao tay

nghề cho công nhân”, Tạp chí Dân vận, (6).

- Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ

4

XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người trong thời

kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- Trung tâm Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực (2002), Từ chiến

lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội.

- Nguyễn Trọng Chuẩn (2003), Để có nguồn lực cao nhằm đáp ứng nhu

cầu phát triển đất nước trong thế kỷ thứ XXI, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Hà Nội.

- Tery M. More (2005), Sơ lược về các trườ ng học hoa Kỳ , Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

- Phạm Minh Hạc (2006), “Đổi mới mạnh mẽ giáo dục nghề nghiệp và

phát triển nguồn nhân lực”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (7).

- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt

Nam giai đoạn 2006 - 2020.

- Nguyễn Minh Đường (2006), Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu

cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường, toàn

cầu hoá và hội nhập quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

- Nguyễn Văn Dân (2008), Diện mạo và triển vọng của xã hội tri thức,

Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

- Đàm Hữu Đắc (2008), “Đổi mới đào tạo nghề, nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực cho đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (9).

Các công trình trên đã cho chúng tôi hiểu được quá trình phát triển của

giáo dục đào tạo. Theo các tác giả, giáo dục đào tạo không chỉ nuôi dưỡng,

vun đắp mà còn làm phong phú thêm quốc hồn, quốc tuý của dân tộc. Chính

vì vậy, ở mỗi thời kì, mỗi giai đoạn cần phải có chiến lược nói chung cũng

như chính sách phát triển giáo dục đào tạo nói riêng phù hợp với chiến lược

phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, quốc tế. Các tác giả cũng đề cập đến

5

mô hình phát triển tổng thể về giáo dục đào tạo, mô hình cụ thể của từng bậc

học, của từng cấp học; đồng thời đưa ra một số mô hình để tham khảo, hoặc

học tập. Chúng ta cho rằng đó là những thiện chí của các nhà nghiên cứu

mong muốn đóng góp ý kiến của mình vào sự phát triển ngành giáo dục và

đào tạo của nước nhà. Các công trình của các tác giả, tuy đậm nhạt có khác

nhau nhưng đều đề cập đến mục tiêu , chức năng và lĩnh vực hoa ̣t đô ̣ng của

giáo dục và đào tạo trong nền kinh tế thị trườ ng ; đặc biệt là nền kinh tế thị trườ ng định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua đó, càng làm rõ thêm hoa ̣t đô ̣ng của giáo dục đào tạo trong thị trườ ng khác với thị trườ ng.

tạo tuy có ít Về mối quan hệ giữa kinh tế thị trườ ng và giáo dục đào

công trình hơn song có một số công trình đáng chú ý:

- Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

- Trung tâm Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực (2002), Từ chiến

lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội.

- Nguyễn Khắc Chương (2003), “Công tác giáo dục đại học, cao đẳng

và ngành nghề để phát triển nguồn nhân lực ở nước ta”, Tạp chí Lí luận chính

trị, (7).

- Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và

Nghiên cứu phát triển giáo dục (2005), Giáo dục đại học, Chất lượng và đánh

giá, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

Tuy các công trình giải quyết mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và thị

trườ ng cũng như kinh tế thị trườ ng chưa được quan tâm nhiều , song, qua một số công trình của một số tác giả, chúng tôi thấy rằng giữa giáo dục đào tạo và

kinh tế thị trườ ng Việt Nam cũng như kinh tế thị trườ ng có mối quan hệ khá khăng khít và ảnh hưởng lẫn nhau. Chúng vừa có mu ̣c tiêu chung , song cũng

. có những yêu cầ u khác nhau, đặc biệt là chức năng và lĩnh vực hoa ̣t đô ̣ng

Giáo dục đào tạo đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội tức đáp ứng nhu cầu

6

về nguồn lực trong nền kinh tế thị trườ ng nhưng hoa ̣t đô ̣ng của nó khác thị trườ ng. Những lệch lạc không đáng có của một số cơ sở đào tạo là điều cần khắc phục và cần được nhận thức lại.

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích:

Làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế thị trườ ng và giáo dục đào tạo để xác

hục định bước đầu phạm vi hoa ̣t đô ̣ng của giáo dục đào tạo nhằm khắc p

những lệc lạc không đáng có của ngành trong quá trình phát triển đất nước.

* Nhiệm vụ:

- Khái quát lại vai trò và lĩnh vực hoa ̣t đô ̣ng của kinh tế thị trườ ng định

hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Khái quát vai trò và lĩnh vực, mục tiêu hoạt động của giáo dục đào tạo

trong nền kinh tế thị trườ ng định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Phân tích thực trạng mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và kinh tế thị

trườ ng định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam đặc biệt là những lệc lạc trong thời gian qua trong giáo dục đào tạo để làm cơ sở cho việc đề xuất những giải pháp.

- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của giáo dục

đào tạo trong nền kinh tế thị trườ ng định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu:

Nền kinh tế thị trườ ng định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam và ngành

giáo dục đào tạo Việt Nam.

* Phạm vi nghiên cứu:

Phạm vi giáo dục đại học , cao đẳng, trung học chuyên nghiệp phục vụ

kinh tế thị trườ ng Việt Nam.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận:

7

Luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan

điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của các

nhà nghiên cứu khác.

* Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng phương pháp biện chứng duy vật mà chủ yếu là

phương pháp trừu tượng và cụ thể; phân tích và tổng hợp; logic và lịch sử.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Góp phần làm rõ mối mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và kinh tế thị

trường Việt Nam để giáo dục đào tạo phát huy vai trò tích cực của mình trong quá trình phát triển đất nước.

- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục

đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,

luận văn được kết cấu làm 2 chương, 5 tiết.

Chương 1: Giáo dục đào tạo và kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.

Chương 2: Thực trạng và giải pháp bảo đảm phù hợp mối quan hệ giữa

giáo dục đào tạo và thị trường Việt Nam hiện nay.

8

Chương 1

GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG

XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Một số vấn đề chung về giáo dục đào tạo ở Việt Nam

1.1.1. Quá trình hình thành nền giáo dục đào tạo

Nhân dân Việt Nam có truyền thống hiếu học và một nền giáo dục lâu

đời. Từ khi cộng đồng người Việt xuất hiện đã lưu truyền việc giáo dục kiến

thức để làm ra của cải vật chất, mưu sinh, dạy nhau tổ chức đời sống xã hội và

giáo dục đạo dức nhân sinh tạo nên nhân cách con người Việt Nam.

* Giáo dục Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945

Năm 938, dân tộc Việt Nam khôi phục nền độc lập, thống nhất quốc

gia, xây dựng nhà nước phong kiến. Nền giáo dục hình thành và phát triển do

nhà nước phong kiến chi phối trải qua hơn 10 thế kỷ. Tuy mỗi triều đại có

những yêu cầu và cách thức riêng nhưng cơ bản là giống nhau về cơ cấu, nội

dung, cách tổ chức việc dạy và học, thi hành chế độ khoa cử. Các triều đại

thường chú trọng việc xây dựng một trường đại học ở kinh đô, đặt các giáo

chức ở các phủ, lộ để trông coi việc học hành. Tại các trường lớp tư gia, có

các ông đồ ngồi dạy trẻ. Các ông đồ được người dân tôn kính, quý trọng bởi

họ là những nhà nho, các nhà khoa bảng.

Nội dung dạy học từ lớp tư gia đến các trường lớp ở lộ, phủ, kinh đô

đều lấy tứ thư, ngũ kinh làm sách giáo khoa. Các triều đại Lý, Trần, Lê,

Nguyễn tổ chức các khoa thi (thi hương, thi hội, thi đình hay thi tiến sĩ) về cơ

bản là giống nhau. Từ năm 1075, nhà Lý mở khoa thi Minh Kinh đầu tiên,

đến năm 1919 nhà Nguyễn tổ chức khoa thi cuối cùng. Chế độ khoa cử của

nền giáo dục phong kiến Việt Nam trải qua 844 năm với trên 180 khoá thi và

hơn 2900 người đỗ từ tiến sĩ tới trạng nguyên.

9

Trải qua gần một nghìn năm lịch sử, nền giáo dục phong kiến Việt Nam

đã đào tạo nhiều thế hệ tri thức tinh hoa của dân tộc, đồng thời cung cấp lực

lượng chủ yếu cho hệ thống quan chức quản lý nhà nước và xã hội. Nền giáo

dục ấy đã đào tạo nên nhiều nhà bác học, nhà văn, nhà viết sử, nhà giáo, thầy

thuốc có danh tiếng cùng những thế hệ tri thức giữ vai trò quan trọng trong

việc xây dựng, vun đắp nền văn hiến Việt Nam. Một nền giáo dục phong kiến

coi trọng luân lý, lễ nghĩa góp phần cơ bản xây dựng nền tảng đạo đức xã hội.

Tuy nhiên, ý thức tồn cổ của Nho gia đã cản trở những tư tưởng cải cách, kìm

hãm sự phát triển của xã hội, phương pháp học khuôn sáo, giáo điều, nặng về

tầm chương, trích cú, lý thuyết suông, chạy theo hư danh… là những hạn chế

của nền giáo dục phong kiến Việt Nam.

Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm chiếm nước ta. Nền giáo dục

phong kiến nước ta bị thay đổi toàn bộ, chữ Hán thay bằng chữ quốc ngữ và

chữ Pháp. Từ nội dung chương trình sách giáo khoa đến cách học, cách dạy,

cách tổ chức các kỳ thi thay đổi, hệ thống các trường từ sơ cấp đến tiểu học,

trung học phổ thông đến các trường chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học dần dần

được hình thành.

Thực dân Pháp coi nền giáo dục phong kiến là công cụ quan trọng để

chinh phục thuộc địa. Chúng mở các trường nhằm đào tạo một số công chức

cho bộ máy cai trị, các cơ sở kinh doanh… Số trường học ít và số người đi

học cũng ngày càng ít hơn. Trong khoảng từ năm 1931 đến 1940 cứ 100

người dân thì chưa đến 3 người được đi học và hầu hết chỉ đến bậc tiểu học và

vỡ lòng, trên 3 vạn dân mới có 1 sinh viên (cao đẳng, đại học). Mặc dù đã

thực hiện một số chính sách giáo dục nô dịch với thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt

nhưng thực dân Pháp không đạt được kết quả mong muốn. Phần lớn những

người Việt Nam được Pháp đào tạo vẫn có ý thức dân tộc, một số không nhỏ

có tinh thần yêu nước chống Pháp, trở thành chiến sỹ cách mạng và đảng viên

cộng sản.

10

Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân

chống thực dân Pháp, giáo dục được coi là bộ phận của Cách mạng Việt Nam.

Tư tưởng dân tộc, khoa học, đại chúng là những nguyên tắc chỉ đạo việc xây

dựng nền giáo dục Cách mạng Việt Nam.

* Giáo dục Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay

Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, nền giáo dục được

hình thành trên cơ sở tiếp quản và cải tổ nền giáo dục Pháp thuộc. Nền giáo

dục mới được tiến hành trên 3 nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng với

mục tiêu cao cả là: tôn trọng nhân phẩm, rèn luyện chí khí, phát triển tài năng,

đề cao tinh thần khoa học, học tập và giảng dạy bằng tiếng Việt từ các trường

phổ thông đến đại học.

Từ tháng 9/1945, cả nước cùng khai giảng năm học mới. Nhân ngày

khai trường, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho học sinh, trong đó, Người

chỉ rõ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đệp hay không, dân tộc Việt Nam

có bước tới đài vinh quang để sánh vai với cáccường quốc năm châu hay

không, chính là một phần lớn ở công học tập cuả các châu”.

Khi thực dân Pháp quay lại xâm chiếm nước ta một lần nữa, cuộc

kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Các trường học ở thành phố di chuyển về

nông thôn và các khu an toàn. Phong rào xoá mù chữ vần được duy trì. Đến

năm 1950 cả nước có trên 10 triệu người được xoá mù chữ và đã có 10 tỉnh,

80 huyện, 1424 xã, 7248 thôn đạt tiêu chuẩn xoá nạn mù chữ.

Năm 1950 Trung ương Đảng và Chính phủ quyết định tiến hành cải

cách giáo dục: nền giáo dục của dân, do dân, vì dân được thiết lập trên 3

nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. Phương châm giáo dục là học đi đôi

với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn. Đến năm học 1953-1954 ở vùng giải

phóng đã có 3673 trường cấp I, 397 trường cấp II, 34 trường cấp III, 5 trường

trung học chuyên nghiệp và 4 trường đại học.

Sau năm 1954, nền giáo dục dân chủ nhân dân được xây dựng trong

11

kháng chiến chuyển hướng mạnh mẽ nhằm đáp ứng yêu cầu mới của nhiệm

vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam,

thống nhất đất nước.

Cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai ở miền Bắc là bước đi quan trọng

trong quá trình xây dựng nền giáo dục XHCN. Hệ thống giáo dục mới được

hình thành không chỉ ở giáo dục phổ thông mà ở cả giáo dục đại học và

chuyên nghiệp. Nội dung giáo dục mới mang tính chất toàn diện trên bốn mặt:

đức, trí, thể, mỹ. Phương châm giáo dục là liên hệ lý luận với thực tiễn, gắn

nhà trường với đời sống xã hội.

Do cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, các trường học và các

cơ sở giáo dục vừa tiến hành sơ tán vừa tiếp tục duy trì việc dạy và học ở tất

cả các lớp học, các cấp học, các ngành học. Có thể nói, ngành giáo dục nước

ta trong thời kỳ này đã giữ vững được quy mô, chất lượng giáo dục và đạt

được nhiều kỳ tích lớn.

Năm 1975 đất nước được hoàn toàn giải phóng. Nhiệm vụ cấp bách của

ngành giáo dục là xây dựng một nền giáo dục thống nhất theo định hướng xã

hội chủ nghĩa. Giáo dục miền Nam được sự hỗ trợ sức người, sức của từ miền

Bắc đã nhanh chóng khôi phục và trở lại hoạt động bình thường. Đến năm

1976, việc đào tạo sau đại học được triển khai, đến năm 1980 đã có 42 trường

đại học và viện nghiên cứu khoa học được nhà nước quyết định làm cơ sở đào

tạo sau đại học.

Tháng 1 năm 1979, cuộc cách mạng lần thứ ba về giáo dục được triển

khai. Hệ thống giáo dục 12 năm được thiết kế thống nhất trong toàn quốc. Các

bộ sách giáo khoa mới theo tinh thần và nội dung cải cách được thực hiện mỗi

năm một lớp bắt đầu từ năm học 1981- 1982. Mạng lưới các trường đại học,

cao đẳng, các trường trung cấp chuyên nghiệp ở trung ương và địa phương

được cải cách từ mục tiêu đào tạo đến nội dung chương trình, phương pháp

giảng dạy. Tuy nhiên những khó khăn của nền kinh tế - xã hội nói chung và

12

bản thân ngành giáo dục nói riêng đã tác động trực tiếp đến quá trình phát

triển của ngành, làm cho hệ thống giáo dục ngày càng xuống cấp nghiêm

trọng. Trước tình hình đó, Bộ Giáo dục đã xây dựng và triển khai chương

trình phát triển giáo dục 3 năm (1987- 1990). Sau 3 năm đổi mới, ngành giáo

dục đã dần tháo gỡ khó khăn, khắc phục tình trạng yếu kém và thu được

những kết quả đáng khích lệ.

Năm 1991, Quốc hội khoá VIII kỳ họp thứ 9 đã thông qua luật Giáo

dục tiểu học. Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tư (khoá VII) đã đề ra Nghị

quyết về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo”. Nghị quyết nêu

lên 4 quan điểm chỉ đạo phát triển GD - ĐT trong đó nhấn mạnh GD - ĐT

cùng với khoa học, công nghệ được xem là quốc sách hàng đầu.

Tháng 12 năm 1996, Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương

Đảng khoá VIII tiếp tục ra nghị quyết chuyên đề về GD - ĐT.

Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) đã coi phát triển GD - ĐT là một

trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH là điều kiện

để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng

tưởng kinh tế nhanh và bền vững. Phát triển khoa học công nghệ cùng với

phát triển GD - ĐT là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh

CNH, HĐH đất nước. Đặc biệt, việc “tạo bước chuyển mạnh về phát triển

nguồn nhân lực, trọng tâm là GD - ĐT, khoa học và công nghệ” [25, tr.219]

đã được xác định là một trong ba khâu đột phá then chốt để làm chuyển động

toàn bộ tình hình kinh tế - xã hội. Đại hội IX chủ trương tạo ra sự chuyển biến

cơ bản, toàn diện trong phát triển GD - ĐT, tiếp tục nâng cao chất lượng giáo

dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường,

lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội

hoá”, thực hiện giáo dục cho mọi người, “cả nước trở thành một xã hội học

tập”, coi trọng công tác hướng nghiệp và phân luồng học sinh, tăng ngân sách

nhà nước cho GD - ĐT theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế; tăng nhanh tỷ lệ lao

13

động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội; mở rộng hợp lý quy mô

giáo dục đại học, làm chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả đào tạo;

tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh

viên; thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người

nghèo có cơ hội học tập, thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, phát triển

đa dạng các hình thức đào tạo.

Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) đã khẳng định “nâng cao chất

lượng, hiệu quả GD - ĐT, khoa học và công nghệ, phát triển nguồn nhân lực”

[26, tr.94]. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức,

cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện “chuẩn hoá,

hiện đại hoá, xã hội hoá”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam. Chuyển dần mô

hình gioá dục Việt Nam hiện nay sang mô hình mở - mô hình xã hội học tập

với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, liên thông giữa các bậc học,

ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những

hình thức học tập, thực hành linh hoạt, đáp ứng nhu cầu học tập thường

xuyên, tạo nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công

bằng xã hội trong giáo dục.

Như vậy, hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam nhân dân Việt Nam đã xây dựng một nền giáo dục XHCN, có tính nhân

dân, tính dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng

Hồ Chí Minh làm nền tảng. Đây là cơ sở cho việc “nâng cao dân trí, đào tạo

nhân lực và bồi dưỡng nhân tài”, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

1.1.2. Khái niệm giáo dục đào tạo

* Khái niệm đào tạo

“Đào tạo được hiểu là các hoạt động học tập nhằm giúp cho người lao

động có thể thực hiện hiệu quả hơn chức năng nhiệm vụ của mình” [30,

tr.161].

Đào tạo là những hoạt động học tập được diễn ra trong thời gian ngắn

14

hạn nhằm cung cấp cho người lao động những kiến thức, kỹ năng chuyên sâu

hơn về công việc hiện tại, củng cố và bổ sung những kiến thức và kỹ năng,

trình độ chuyên môn còn thiếu hụt của người lao động. Đó là các hoạt động

học tập nhằm nâng cao kiến thức, trình độ, kỹ năng của người lao động để

thực hiện có hiệu quả hơn công việc hiện tại.

* Khái niệm phát triển giáo dục

Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào

tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, tiến

bộ khoa học, công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh; thực hiện chuẩn hóa,

hiện đại hóa, xã hội hóa; bảo đảm cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành

nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở bảo đảm chất lượng và

hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng.

Phát triển giáo dục là quá trình tuyên truyền, đầu tư nhân tài, vật lực

và tổ chức cho toàn xã hội tham gia giáo dục - đào tạo nhằm tạo nên sự

chuyển biến vượt bậc về số lượng và chất lượng trong các bậc học, đáp ứng

yêu cầu phát triển về lực lượng lao động chất lượng cao của nền kinh tế.

* Khái niệm đầu tư giáo dục

Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển.

Nhà nước ưu tiên đầu tư cho giáo dục; khuyến khích và bảo hộ các

quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam

định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư cho giáo dục Việt

Nam. Ngân sách nhà nước phải giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực đầu

tư cho giáo dục.

Đầu tư giáo dục là hoạt động của toàn xã hội nhằm tập trung tài lực, vật

lực, vốn liếng và quyết tâm nhằm xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân phát

triển đồng bộ, tốc độ nhanh để vừa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế, vừa có

15

những phát minh, sáng chế cho quá trình phát triển trong tương lai.

* Khái niệm giáo dục

Giáo dục là hoạt động có tổ chức nhằm truyền thụ những tri thức phổ

thông, cơ bản cho những người chưa được tiếp thu những kiến thức cần thiết

làm nền tảng cho cuộc sống mà xã hội đương đại đòi hỏi hoặc phổ cập.

Có nhiều hình thức giáo dục như giáo dục công lập, giáo dục bán công,

giáo dục dân lập, giáo dục tư thục (tuỳ theo sự dầu tư kinh phí học tập); có

nhiều bậc học của giáo dục như mầm non, giáo dục mẫu giáo, giáo dục phổ

thông, giáo dục chuyên nghiệp.

1.2.3. Mục tiêu, tính chất và lĩnh vực hoa ̣t động của giáo dục đào tạo

* Mục tiêu của giáo dục đào tạo

Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện,

có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý

tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân

cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến

thức, kỹ năng nghề nghiệp ở các trình độ khác nhau, có đạo đức, lương tâm

nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo

điều kiện cho người lao động có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc

tiếp tục học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu

phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh và có khả năng thích

ứng nhanh với sự biến đổi của nền kinh tế thị trườ ng.

- Trung cấp chuyên nghiệp nhằm đào tạo người lao động có kiến thức,

kỹ năng thực hành cơ bản của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và có

tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc.

- Đào tạo trình độ cao đẳng giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và

16

kỹ năng thực hành cơ bản để giải quyết những vấn đề thông thường thuộc

chuyên ngành được đào tạo.

- Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên

môn và có kỹ năng thực hành thành thạo, có khả năng làm việc độc lập, sáng

tạo và giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.

- Đào tạo trình độ thạc sĩ giúp học viên nắm vững lý thuyết, có trình độ

cao về thực hành, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo và có năng lực phát

hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào tạo.

- Đào tạo trình độ tiến sĩ giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý

thuyết và thực hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, phát hiện và

giải quyết những vấn đề mới về khoa học, công nghệ, hướng dẫn nghiên cứu

khoa học và hoạt động chuyên môn.

* Tính chất của giáo dục đào tạo

Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục XHCN có tính nhân dân, tính

dân tộc, tính khoa học, tính hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ

Chí Minh làm nền tảng.

Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với

hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn,

giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội.

1.2. Một số vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam

1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trườ ng định

hướng XHCN ở Việt Nam

Quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị

trường ở nước ta có thể chia thành một số giai đoạn nhưng giữa các giai đoạn

không có danh giới tuyệt đối nên phải chọn sự kiện điển hình và quan trọng

để làm mốc phân chia các giai đoạn. Quá trình chuyển sang nền KTTT ở nước

17

ta có thể chia thành các giai đoạn: 1979-1985, 1986-1990 và từ 1991 đến nay.

18

* Giai đoạn từ 1979-1985

Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 6 khóa IX tháng 9/1979 có thể được

coi là mốc đánh dấu khởi đầu công cuộc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở

nước ta tại Hội nghị lần đầu tiên Đảng ta đưa ra quan điểm phát triển kinh tế

hàng hóa, kinh tế nhiều thành phần với chủ trương cụ thể như “bỏ ngăn sông

cấm chợ”, thừa nhận nhiều thành phần kinh tế với quy định cụ thể; ở miền

Nam có năm thành phần, miền Bắc có ba thành phần: kinh tế tư bản tư nhân

không được thuê mướn quá 5-10 công nhân.

Hội nghị Trung ương 6 đề ra một số quan điểm, chủ trương đổi mới,

tuy chưa cơ bản và toàn diện như Đại hội VI nhưng đó là bước khởỉ đầu có ý

nghĩa. Từ những quan điểm đó Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách

khuyến khích phát triển sản xuất. Những chính sách tiêu biểu như: Chỉ thị 357

của Chính phủ (3-10-1979) cho phép các hộ nông dân được nuôi và bán trâu

bò, chấp nhận trâu bò là hàng hóa. Chỉ một năm sau ban hành chỉ thị đó, ở

phía Bắc đàn trâu bò đã tăng gấp đôi. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư về khoán

sản phẩm cuối cùng cho xã viên hợp tác xã nông nghiệp đã tạo điều kiện cho

nông dân bổ sung đầu tư tích cực lao động đạt sản lượng vượt khoán của hợp

tác xã. Trong công nghiệp, có Nghị quyết 25/CP cho phép các xí nghiệp làm

kế hoạch ba phần, trong đó phần C xí nghiệp tự xác định thị trường kế hoạch

tự cân đối vật tư tiền vốn, tự đánh giá và tiêu thụ sản phẩm lợi nhuận làm ra

được hưởng quyền sử dụng 80%.

Từ đó trong nền kinh tế nước ta xuất hiện tình huống mới: tồn tại song

song hai cơ chế quản lý. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp tác động trong kế

hoạch phần của xí nghiệp công nghiệp, trong sản phẩm khoán của hợp tác xã

nông nghiệp. Cơ chế thị trường tác động trong kế hoạch của xí nghiệp và

trong sản phẩm vượt khoán của hộ nông dân. Cũng từ đó bắt đầu cuộc chiến

tranh quyết liệt giữa hai cơ chế ở nhiều khâu, nhiều yếu tố. Trong đó yếu tố

mấu chốt để chuyển sang cơ chế thị trường là cơ chế giá cả. Trong cơ chế tập

19

trung, bao cấp; cơ chế định giá bằng mệnh lệnh hành chính của nhà nước,

việc định giá thấp đã đánh vào ngân sách nhà nước và tài chính quốc gia dẫn

đến việc nhà nước phải bù lỗ, bù giá, bù lương… làm cho ngân sách ngày

càng kiệt quệ, sản xuất càng thua lỗ, tiêu cực càng phát triển. Vì vậy Nhà

nước đã tiến hành cải cách giá và lương lần 1 (1981-1982) với những nét nổi

bật là: tăng giá, tăng lương, thực hiện chuyển cơ chế một giá do nhà nước

định đoạt sang cơ chế hai giá đối với giá cả hàng tíêu dùng, hàng vật tư và giá

mua sản phẩm theo hợp đồng, giảm mặt hàng cung cấp theo tem phiếu,

chuyển phần lớn giá cung cấp sang giá kinh doanh thương nghịêp. Nhưng do

thời gian thực hiện hai giá kéo dài (1981-1985) trên diện rộng, trong khi hầu

như không có giải pháp hữu hiệu nào làm giảm phát nên lạm phát trầm trọng

thêm lại đẩy giá thị trường tiếp tục tăng nhanh. Nếu lấy mốc giá năm 1979 là

100 thì năm 1981 là: 313,7%; 1984: 1400%; 1985: 2390%. Trước tình hình

trên, 6/1985 Hội nghị Trung ương lần thứ 8 bàn về giá - lương - tiền đã rút ra

bài học tổng quát là: phải dứt khoát xóa bỏ tập trung, bao cấp, thực hiện đúng

chế độ tập trung dân chủ, hạch toán kinh tế và kinh doanh XHCN.

* Giai đoạn từ 1986-1990

Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã đánh dấu một bước ngoặt

trong sự nghiệp đổi mới tiến lên xây dựng CNXH ở nước ta. Đây thực sự là

một cuộc cách mạng sâu sắc tiến hành đồng thời trên tất cả các lĩnh vực của

nền kinh tế.

Thực sự chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế

thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN.

Chuyển từ nền kinh tế chủ yếu là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể

sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thực hiện tự do kinh doanh theo

pháp luật.

Thực hiện cơ cấu kinh tế mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ

kinh tế đối ngoại, từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới

20

Trên cơ sở đó, vai trò quản lý của Nhà nước cũng chuyển đổi từ quản lý

trực tiếp sang quản lý vĩ mô nền kinh tế bằng pháp luật, các chính sách kinh

tế, các công cụ điều tiết có hiệu lực.

Với những quan điểm đổỉ mới của Nghị quyết Đại hội VII chúng ta đã

có những biện pháp và chủ trương tích cực trên nhiều mặt. Trong công

nghiệp, Nghị định 217/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng ban hành đã “cởi trói”,

phát huy quyền tự chủ kinh doanh của đơn vị kinh tế quốc doanh. Đối với

nông nghiệp, Nghị quyết của Bộ Chính trị đã xác định hợp tác xã là đơn vị

kinh tế tự chủ, tự quản; hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán của hợp tác

xã và dần dần chuyển thành đơn vị kinh tế độc lập tự chủ. Về xử lý giá cả từ

Hội nghị Trung ương lần 6 khóa VI vào tháng 3/1989, Nhà nước quyết định

thực hịên chuyển toàn bộ lương thực sang kinh doanh, bỏ hoàn toàn chế độ

cung cấp lương thực, chuyển 80% vật tư sang kinh doanh còn lại 20% vẫn giữ

giá phân phối. Đây là lần đầu tiên trên thực tế, về cơ bản, chúng ta có hàng

hóa theo đúng nghĩa, thực hiện quan điểm một thị trường, một cơ chế giá kinh

doanh có tác động lớn trong việc xóa bỏ cơ chế tập trung, bao cấp chuyển

sang cơ chế thị trường. Mặt khác chúng ta đã tạo ra được tiền đề cần thiết để

mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại thông qua việc ban hành luật đầu tư, đẩy

mạnh hợp tác đầu tư với nước ngoài.

Tóm lại, thời kì này của công cuộc đổi mới đã đạt được nhiều bước

tíên đáng khích lệ, đã đưa nền kinh tế nước ta vào quỷ đạo phát trỉên vốn có

của nó. Đó là phải đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa, thực hiện nền kinh tế

nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước.

* Giai đoạn 1991 đến nay

Giai đoạn này gắn với bốn sự kiện lịch sử quan trọng đó là Đại hội

Đảng toàn quốc lần thứ VII, lần thứ VIII, lần thứ IX và lần thứ X.

Đại hội Đảng lần thứ VII (tháng 6-1991) đã khẳng định: “Đường lối đổi

mới do Đại hội VI đề ra là đúng đắn, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản

21

là phù hợp. Qua thực tiễn chúng ta có thêm những nhận thức mới và kinh

nghiệm quan trọng về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc

điểm nước ta. Đó là cơ sở rất quan trọng để chúng ta tiếp tục tiến lên” [23, tr.7].

Đại hội Đảng lần thứ VIII (tháng 6/1996) đã chỉ rõ, Đại hội VI đề ra

đường lối đổi mới toàn diện. Đại hội VII thông qua cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Chiến lược ổn định và phát

triển kinh tế - xã hội đến 2000. Xét trên tổng thể, việc thực hiện những chính

sách mới những năm qua về cơ bản là đúng, đúng định hướng XHCN.

Đại hội Đảng lần thứ IX (4/2001) đánh giá lại 10 năm thực hiện chiến

lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991-2000) đã đạt những thành tựu

to lớn và rất quan trọng. Đại hội lần này đã xác định rõ đường lối và chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta: “Đường lối kinh tế của Đảng ta là:

Đẩy mạnh phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc

lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển

lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực

lượng sản xuất theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực, tranh thủ

nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế để phát triển nhanh, có

hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa; thực

hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát

triển kinh tế - xã hội và tăng trưởng quốc phòng an ninh” [26, tr.83].

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010) nhằm: “Đưa

nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và

tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng đểt đến năm 2020 nước ta cơ bản trở

thành một nước công nghiệp theo hưóng hiện đại. Nguồn lực con người, năng

lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng và

an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được

nâng cao” [26, tr.84].

22

Đại hội X của Đảng (4/2006) tiếp tục khẳng định nắm vững định hướng

XHCN trong nền KTTT ở nước ta là: “Thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, giải phóng mạnh mẽ và không

ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói

giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ

người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Phát triển nền kinh tế

nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước

giữ vai trò chủ đạo; cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể ngày càng trở

thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [26, tr.77].

Hiện nay, ở nước ta đang tồn tại nhiều trình độ khác nhau của lực

lượng sản xuất (thủ công, trình độ cơ khí, tự động hoá, tin học hoá… ). Vì vậy

khi thiết lập quan hệ sở hữu thì cũng phải đa dạng, phù hợp trong điều kiện

nước ta hiện nay có thể xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác. Ở

nước ta, tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan.

Vì kinh tế nhiều thành phần thời kỳ quá độ và đặc biệt trong nền KTTT có lợi

cho sự phát triển đất nước. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm thực hiện

cái quy luật: Quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất, trình độ phát triển

của lực lượng sản xuất. Phát triển kinh tế nhiều thành phần nhằm để cho sản

xuất nước ta phát triển liên tục không bị gián đoạn. Phát triển kinh tế nhiều

thành phần nhằm tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế thị trường

hiện nay ở nước ta.

Tóm lại, trong thời kỳ quá độ tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần

không chỉ là một tất yếu khách quan mà còn có một tác dụng tích cực to lớn

đối với sự phát triển của nền kinh tế. Cụ thể là: sự tồn tại nền kinh tế nhiều

thành phần cũng có ý nghĩa là tồn tại nhiều hình thức quan hệ sản xuất, do đó

nó sẽ phù hợp với các trình độ phát triển khác nhau về lực lượng sản xuất từ

đó mà có thể tăng năng suất lao động, tăng tốc độ phát triển kinh tế, tăng hiệu

quả kinh tế trong mỗi thành phần cũng như trong toàn bộ nền kinh tế. Góp

23

phần khôi phục kinh tế cho sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Phát triển

nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chính là đảm bảo quyền tự do kinh

doanh, quyền dân chủ về kinh tế cho mọi công dân. Một công dân đều có

quyền hoạt động trong nền kinh tế thị trường (theo đúng pháp luật) để làm

giàu cho mình và cho xã hội. Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần không

những tạo điều kiện sử dụng sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế

trong nước mà còn tạo ra môi trường thông thoáng, thích hợp cho sự thu hút

vốn, khoa học kĩ thuật tiên tiến của thế giới. Nền kinh tế có cơ cấu nhiều

thành phần không những tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức

kinh tế quá độ, đặc biệt là hình thức kinh tế tư bản nhà nước, là “cầu nối” là

trung gian cần thiết để chuyển nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ nên sản

xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

1.2.2. Đặc diểm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

ở Việt Nam

Nền KTTT định hướng XHCN cũng có những tính chất chung của nền

kinh tế: nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của nền KTTT như

quy luật gía trị, quy luật cung cầu, quy luât cạnh tranh; có chủ thể kinh tế có

tính độc lập, tự chủ để có quyền ra những quyết định phi tập trung hoá; thị

trường có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế; gía

cả do thị trường quyết định; nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô để giảm bớt

những “thất bại của thị trường”.

Qua hơn 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện trong đó đổi

mới kinh tế là trọng tâm, vừa tổng kết thực tiễn, vừa nghiên cứu khái quát lý

luận, nhận thức về nền KTTT định hướng XHCN của Đảng ta ngày càng rõ

ràng và đầy đủ hơn.

Về khái niệm nền KTTT định hướng XHCN, Văn kiện Hội nghị Trung

ương 6 khoá X viết: “Nền KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế trong đó

các thiết chế, công cụ và nguyên tắc vận hành KTTT được tự giác tạo lập và

24

sử dụng để giải phóng triệt để sức sản xuất, từng bước cải thiện dời sống nhân

dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”

[27, tr.139].

Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá X, nền KTTT

định hướng XHCN ở Việt Nam có một số đặc điểm sau:

* Đặc điểm thứ nhất: “Mục tiêu phát triển là vì “dân giàu, nước mạnh,

xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất; đẩy

mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng,

nâng cao đời sống nhân dân” [3, tr.71].

Đặc điểm này nói rõ mục tiêu của nền KTTT định hướng XHCN của

nước ta là vì con người, vì sự giải phóng con người. Trên cơ sở giải phóng và

phát triển mọi tiềm năng sản xuất, đẩy mạnh phát triển kinh tế, để mọi người

đều được hưởng thành quả của sự phát triển, để nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần của mọi người. Do đó vừa đẩy mạnh phát triển sản xuất vừa phải

đẩy mạnh phát triển xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người làm giàu

chính đáng.

Đây là mục tiêu thể hiện tính nhân văn của nền KTTT định hướng

XHCN ở nước ta. Để đạt được mục tiêu này, cần có sự nỗ lực phấn đấu liên tục

của toàn Đảng và toàn dân trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.

* Đặc điểm thứ hai: “Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều

thành phần kinh tế trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà

nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh

tế quốc dân” [27, tr.139].

Đặc điểm này nói rõ cơ cấu của nền KTTT định hướng XHCN ở nước

ta bao gồm nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại.

Các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Đại hội X của Đảng

xác định nền kinh tế ở nước ta hiện nay đang tồn tại ba hình thức sở hữu cơ

bản về tư liệu sản xuất là sở hữu xã hội mà Nhà nước là đại diện, sở hữu tập

25

thể, sở hữu tư nhân. Trên cơ sở ba hình thức sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất

đó, nền kinh tế của ta tồn tại năm thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu

hỗn hợp khác nhau là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư bản nhà

nước, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư của nước ngoài. Các thành phần

kinh tế trên đều được tự do sản xuất kinh doanh theo pháp luật và quan hệ với

nhau thông qua kinh tế thị trường. Việc phát triển nền kinh tế nhiều hình thức

sở hữu, nhiều thành phần kinh tế làm cho quan hệ sản xuất luôn phù hợp với

trinh độ phát triển của lực lượng sản xuất, từ đó giải phóng được mọi tiềm

năng phát triển sức sản xuất của xã hội, phát huy tối đa nội lực, tạo ra sự phát

triển nhanh của nền kinh tế. Đây chính là sự vận dụng sáng tạo quy luật khách

quan của quá trình phát triển sản xuất vào điều kiện cụ thể nước ta. Nhờ vậy

kinh tế nước ta đã có bước chuyển biến rõ rệt, những năm gần đây tốc độ tăng

trưởng luôn đật ở mức cao trên 7%.

Cơ cấu nền KTTT ở nước ta là cơ cấu nhiều thành phần trong đó kinh

tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể

ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà

nước nắm giữ toàn bộ tài nguyên đất đai, khoáng sản, nước, vốn… một nguồn

lực rất lớn của nền kinh tế. Đây là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền

kinh tế, định hướng sự phát triển nền kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Kinh tế nhà nước nhất

thiết phải giữ vững vai trò chủ đạo trong nền kinh tế để đảm bảo tính định

hướng XHCN của nền kinh tế.

* Đặc điểm thứ ba: “Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá

đói giảm nghèo; từng bước làm cho mọi thành viên xã hội đều có cuộc sống

ấm no, hạnh phúc, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng

bước và từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển

văn hoá, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường,… giải quyết tốt các vấn đề xã hội

vì mục tiêu phát triển con người” [27, tr.139].

26

Đặc điểm này thể hiện rõ bản chất của nền kinh tế ở nước ta là vì sự

phát triển con người, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội cho mọi người chứ

không phải vì sự tăng trưởng kinh tế đơn thuần. Bản chất đó được thể hiện

ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Không phải chờ sau khi

phát triển kinh tế rồi mới thực hiện các chính sách xã hội vì sự phát triển con

người. Đối với nước ta không thể hi sinh người này hay thế hệ này dể dành

cho người khác hay thế hệ khác hưởng công bằng xã hội. Công bằng xã hội có

thể và cần phải thực hiện ngay trong từng bước phát triển. Hơn nữa chính việc

giải quyết các chính sách xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong

từng bước phát triển lại là nhân tố hạn chế những tác động tiêu cực của nền

KTTT, hạn chế sự phân hoá giàu nghèo, tránh gây nên những xung đột trong

xã hội, những sự mất cân đối trong phát triển, bảo đảm cho sự phát triển bền

vững. Tăng trưởng kinh tế không thể tách rời các lĩnh vực khác của đời sống

xã hội như văn hoá, y tế, giáo dục… nhưng đồng thời văn hoá, y tế, giáo

dục… lại tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế bảo đảm

cho sự phát triển kinh tế bền vững. Đối với nước ta, không đơn thuần chỉ do

yêu cầu nguồn nhân lực cho sự tăng trưởng kinh tế bền vững, mà chủ yếu còn

vì sự phát triển con người, nên càng phải kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng

kinh tế với phát triển cac vấn đề xã hội. Đây là đặc điểm thể hiện tính nhân

văn hơn hẳn của nền KTTT định hướng XHCN so với nền kinh tế TBCN.

* Đặc điểm thứ tư: “Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả

lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn

lực khác và thông qua phúc lợi xã hội” [26, tr.139].

Chế độ phân phối do chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định,

nhưng chế độ phân phối lại có vai trò to lớn đối với việc củng cố và phát triển

chế độ sở hữu, đồng thời thể hiện rõ lợi ích kinh tế của con người, có ảnh

hưởng lớn đến tính tích cực của con người trong hoạt động sản xuất và kinh

doanh. Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay tồn tại nhiều hình

27

thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhất thiết phải thực hiện chế độ phân

phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. Chế độ phân phối này

gắn chặt giữa lợi ích kinh tế với kết quả và chất lượng lao động, thể hiện sự

công bằng trong lĩnh vực phân phối, kích thích tính tích cực của người lao

động, tạo được động lực của nền kinh tế. Đồng thời chúng ta thấy hiện nay

vốn và các nguồn lực khác cho phát triển kinh tế còn nằm trong nhân dân rất

nhiều. Để khuyến khích sự đóng góp của mọi cá nhân cho sự phát triển chế độ

phân phối cần phải chú ý bảo đảm lợi ích cho những đóng góp đó. Do đó,

phân phối không chỉ “chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế” mà

còn phải theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.

Mặt khác, trong đời sống xã hội luôn tồn tại những tầng lớp xã hội yếu

thế như người tàn tật, già yếu, cô dơn không nơi nương tựa… cần phải có sự

hỗ trợ của xã hội; điều kiện phát triển kinh tế không đều, đời sống của nhân

dân những nơi khó khăn nếu không có sự hỗ trợ của xã hội sẽ không thể nào

vươn lên được. Để thực hiện tính định hướng XHCN của nền kinh tế ở nước

ta đòi hỏi phải phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế,

đồng thời theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác, bên cạnh đó phải

kết hợp thực hiện phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Đảng ta khẳng định:

“Chính sách phân phối và phân phối lại phải bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà

nước, người lao động, doanh nghiệp và bảo đảm lợi ích quốc gia. Chú trọng

phân phối lại qua phúc lợi xã hội đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục, y tế, bảo

đảm đời sống ít nhất là ở mức trung bình của xã hội cho các đối tượng chính

sách” [27, tr.139].

* Đặc điểm thứ năm: “Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân,

bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền

XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng”.

Đặc điểm này nói rõ vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, vai trò quản

lý nền kinh tế của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm cho việc định

28

hướng XHCN của nền kinh tế ở nước ta. Nền KTTT ở nước ta có mục tiêu

thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nhân

dân vừa là mục đích của sự phát triển kinh tế, vừa là chủ thể của quá trình

phát triển kinh tế. Nhân dân là người làm chủ xã hội chủ yếu thông qua nhà

nước. Nhà nước của ta là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì

dân. Nhờ có Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân thực hiện quyền

làm chủ xã hội của mình, trước hế là kiểm soát, định hướng XHCN của nền

kinh tế.

Vai trò quản lý và điều tiết nền kinh tế của Nhà nước XHCN dưới sự

lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt và sự bảo đảm chắc chắn định hướng

XHCN của nền kinh tế, đồng thời đây cũng là sự khác biệt cơ bản giữa nền

kinh tế TBCN và nền kinh tế XHCN. Nhà nước quản lý, điều tiết nền KTTT

chủ yếu bằng pháp luật, bằng quy hoạch, kế hoạch, sử dụng các công cụ kinh

tế, các cơ chế chính sách để tác động một cách gián tiếp đến hoạt động sản

xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế, bảo đảm mục đích của nền kinh tế.

Năm đặc điểm trên vừa nói lên mục đích phát triển của nền kinh tế, vừa

nói lên cơ cấu các thành phần, cơ chế hoạt động, hình thức phân phối và vị

thế, vai trò làm chủ xã hội, quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhân dân thông

qua Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là kết quả

của quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn của Đảng, vừa thể hiện sự vận

dụng đúng đắn các quy luật khách quan của KTTT, thông lệ quốc tế, phù hợp

với điều kiện phát triển của Việt Nam, vừa bảo đảm tính định hướng XHCN

của nền kinh tế.

1.3. Mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và kinh tế thị trường định

hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay

1.3.1. Giáo dục đào tạo và nền kinh tế thị trườ ng định hướng XHCN

cùng mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội

Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta từng bước được hình thành đã

29

và đang tác động sâu sắc và mạnh mẽ đến ý thức và hành vi của mỗi người

cũng như trên các lĩnh vực của đời sống xã hội trong đó có GD - ĐT. Hiện

nay GD - ĐT đang đứng trước yêu cầu phải đổi mới, cải cách để đáp ứng

những đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế.

Chúng ta đã trải qua hơn 20 năm thực hiện chuyển đổi nền kinh tế

XHCN từ kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế vận động theo cơ

chế thị trường định hướng XHCN. Trong điều kiện phát triển KTTT định

hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta dù muốn hay không cũng

phải chấp nhận cơ chế thị trường, vận dụng nó một cách khôn ngoan để tồn

tại và phát triển, kể cả trong lĩnh vực giáo dục.

Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết

định sự phát triển đất nước trong thời kỳ CNH, HĐH, cần tạo sự chuyển biến

cơ bản, toàn diện về GD - ĐT.

Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương, gia đình và tự

tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái, ý thức tôn trọng pháp

luật… Đào tạo lớp lao động có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề

nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, quan tâm tới cái mới. Xây dựng đội ngũ

công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa, doanh

nhân… Chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi năng lực,

phát huy mọi tiềm năng của tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ đất nước.

Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng nhất trong

quá trình CNH, HĐH đất nước. Nguồn nhân lực - chất lượng nguồn nhân lực

là nguồn lực bên trong của đất nước, nó cùng với con người, vốn trong nước,

vật chất kỹ thuật, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, kết hợp với nguồn lực

bên ngoài tạo nên nguồn lực tổng hợp để phát triển xã hội. Vấn đề con người

và nguồn nhân lực rất gắn quyện với nhau, hệ thống giá trị vật chất, tinh thần

do con người tạo ra qua giáo dục trở lại với con người được con người thừa

30

kế và phát triển tạo thành sức mạnh của mỗi con người, thành vốn người,

nguồn lực con người tạo ra giá trị mới đáp ứng nhu cầu của từng cá nhân, của

nhóm người và sự phát triển của đất nước nói chung. Trong nhiều năm gần

đây, Đảng ta ban hành hàng loạt nghị quyết về phương hướng, mục tiêu, điều

kiện và giải pháp thuộc những lĩnh vực có liên quan trực tiếp đến sự nghiệp

chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, phát triển con người Việt

Nam toàn diện. Đảng ta coi nguồn lực con người là nguồn lực quyết định cho

sự thắng lợi của công cuộc CNH, HĐH đất nước. Chính con người vừa là

động lực thúc đẩy, vừa là mục tiêu của CNH, HĐH, chỉ có CNH, HĐH đất

nước mới tạo tiền đề để con người phát triển toàn diện.

Ở nước ta, vai trò quan trọng của người quản lý được đề cao qua câu

nói: "một người lo bằng kho người làm". Về cán bộ quản lý, Chủ tịch Hồ Chí

Minh từng nói, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện

được. Tại Đại hội VII của Đảng, vai trò con người, nguồn lực con người được

khẳng định như một yếu tố cơ bản của sự phát triển. Trong tổng hợp các

nguồn lực: vốn, tài nguyên, vị trí địa lý, nguồn lực nước ngoài và nguồn lực

con người, các nguồn lực khác chỉ là tiềm năng, vai trò, tác động; sức mạnh

của chúng mạnh đến đâu đều thông qua và phụ thuộc vào hoạt động của con

người, bởi chỉ có con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có tri thức và ý

chí, chỉ có con người mới có thể gắn kết các nguồn lực khác tạo thành sức

mạnh tổng hợp cho một mục tiêu nhất định, các nguồn lực khác là khách thể

thực sự cải tạo, khai thác và đều phục vụ cho nhu cầu lợi ích của con người.

Có thể thấy các nguồn lực khác đều bị ảnh hưởng của nhiều điều kiện

khác nhau như khai thác quá nhiều tài nguyên thiên nhiên có thể dẫn tới sự

cạn kiệt và tác hại của sự phá hoại tài nguyên thiên nhiên đó là sự huỷ diệt

môi trường, gián tiếp huỷ diệt con người. Nói tới nguồn nhân lực là muốn nói

tới số lượng và chất lượng của nó. Số lượng nguồn nhân lực là khả năng cung

cấp lực lượng lao động cho sự phát triển kinh tế xã hội. Số lượng nguồn nhân

31

lực con người đóng vai trò quyết định tới quá trình CNH, HĐH. Yếu tố quan

trọng nhất trong nguồn nhân lực là chất lượng nguồn nhân lực. Nói đến chất

lượng nguồn nhân lực là nói đến hàm lượng trí tuệ, trong đó bao gồm trình độ

tay nghề, phẩm chất tốt đẹp của người lao động, thể lực... trong đó trí tuệ là

yếu tố quyết định của nguồn nhân lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói,

một dân tộc dốt là một dân tộc yếu.

Chúng ta thấy rằng ở nước ta hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực còn

nhiều yếu kém, chương trình đào tạo không phù hợp với thực tế của thị

trường lao động. Hơn nữa, việc phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực bất cập,

thiếu đồng bộ đã làm cho mâu thuẫn về cung cầu nguồn nhân lực cả về số

lượng và chất lượng. Những nơi cần thì không đủ, còn những nơi chưa cần thì

lại nhiều gây ra sự lãng phí lớn cho xã hội. Nguồn nhân lực chính là yếu tố

quyết định thành công của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhất là trong thời

đại khoa học công nghệ và kinh tế tri thức hiện nay. Nguồn nhân lực có dồi

dào hay không lại phụ thuộc vào chính sách đào tạo.

Trước xu thế chung của thế giới, chúng ta cần hội nhập vào nền kinh tế

thế giới. Nước ta đã tham gia vào rất nhiều tổ chức kinh tế trong khu vực và

trên thế giới như ASEAN, APEC, WTO… thì tính cạnh tranh của nền kinh tế

cần được nâng cao. Do đó, nắm được khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại

để chủ động trong quá trình sản xuất, kinh tế đối ngoại… là rất quan trọng.

Chúng ta phải xác định rõ ràng những chính sách thích hợp để nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực.

Nhà nước nên quan tâm đến chính sách quốc gia về việc làm, nâng cao

đời sống cho người dân, tránh tình trạng chảy máu chất xám. Hiện nay, tình

trạng chảy máu chất xám ở nước ta rất đáng lo ngại. Nhân tài đang có xu

hướng muốn làm việc ở các nước có nền kinh tế phát triển, ở đó họ được đáp

ứng tốt về điều kiện làm việc cũng như sinh hoạt. Chúng ta cần có những

32

chính sách khuyến khích họ như tạo điều kiện về nhà ở, trả lương cao với

đúng năng lực lao động của họ, cung cấp mọi cơ sở vật chất tốt nhất để họ có

thể phát huy năng lực cống hiến cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

1.3.2. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩaở Việt Nam hiện nay tuân theo những quy luật của nó

Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đang thực hiện là một nền

kinh tế vừa tuân theo những quy luật của KTTT, vừa chịu sự chi phối bởi các

quy luật kinh tế của CNXH và các yếu tố đảm bảo tính định hướng XHCN.

Cơ chế vận hành nền kinh tế đó là cơ chế thị trường định hướng XHCN. Hiện

nay nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ

chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, trong đó các yếu tố thị trường

còn ở mức sơ khai, chưa đầy đủ và đồng bộ, chưa đạt đến trình độ của thị

trường đương đại. Để tạo điều kiện thúc đẩy KTTT phát triển mạnh mẽ,

chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN.

Đến Đại hội IX, Đảng ta mới chính thức đưa ra khái niệm KTTT định

hướng XHCN, khẳng định phát triển KTTT định hướng XHCN là đường lối

chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ

lên CNXH ở Việt Nam. Đây là mô hình KTTT mới trong lịch sử phát triển,

nó vừa có những đặc điểm chung của nền KTTT hiện đại, vừa có những đặc

điểm riêng phù hợp với những điều kiện đặc thù của Việt Nam.

Kế thừa tư duy của Đại hội IX, Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm một

bước nội dung cơ bản của việc tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT định hướng

XHCN trên các phương diện: nắm vững định hướng XHCN trong nền KTTT

ở nước ta, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước, phát triển đồng

bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại hình thị trường cơ bản theo cơ

chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại

hình tổ chức sản xuất kinh doanh.

33

Các nội dung trên có mối liên hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau.

Phát triển KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế đó phải tuân theo các

nguyên tắc và quy luật phổ biến của KTTT như là giá trị phổ biến của toàn

nhân loại, đồng thời thể hiện tính định hướng XHCN, tạo ra chất mới của sự

phát triển. Chính đặc trung này chi phối và quyết định động lực, phương tiện,

công cụ, con đường đạt tới mục tiêu là sử dụng KTTT, nâng cao hiệu quả và

hiệu lực điều tiết của Nhà nước, phát triển mạnh các loại hình thị trường, tích

cực chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, để rút ngắn khoảng cách tụt hậu về

kinh tế so với các nước trong khu vực, tực hiện mục tiêu Việt Nam cơ bản trở

thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Định hướng XHCN trong phát triển nền KTTT ở nước ta thể hiện ở 4

tiêu chí sau:

- Về mục tiêu: mục tiêu của nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là

nhằm: Thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn

minh”. Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triến sức sản xuất, nâng

cao đời sống nhân dân. Đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi

người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng

bước khá giả hơn.

- Về phương hướng: phát triển các thành phần kinh tế và khẳng định

vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.

- Về định hướng xã hội và phân phối: phải thực hiện tiến bộ và công

bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển; tăng

trưởng kinh tế phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá,

giáo dục… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.

- Trong lĩnh vực quản lý: phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân,

bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền

XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.

34

- xã hội 1.3.3. Phát triển giáo dục đào tạo phù hợp mục tiêu kinh tế

theo chức năng của nó

* Phát triển giáo dục toàn diện

Thực hiện giáo dục toàn diện chính là mục tiêu GD - ĐT những người

lao động có lý tưởng XHCN, có đạo đức, có tri thức văn hoá, có sức khoẻ và

có kỷ luật. Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học

sinh, sinh viên. Việc chú trọng cải tiến nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng

day và học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính

sách của Đảng và Nhà nước ta phù hợp với từng bậc học, cấp học là hết sức

quan trọng. Điều này đặc biệt cần thiết vì khi chuyển sang nền KTTT các cơ

sở đào tạo thường chỉ chú ý đến giáo dục tri thức.

* Xây dựng nền giáo dục theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội

hoá”

Chuẩn hoá về chương trình, nội dung giảng dạy, sách giáo khoa, giáo

trình và quy trình kiển tra, đánh giá chất lượng GD - ĐT. Chuẩn hoá tiêu chí

đánh giá sản phẩm cuối cùng của giáo dục là con người. Chuẩn hoá đội ngũ

giáo viên. Chuẩn hoá về cơ sở vật chất, trường lớp, các trang thiết bị dạy và

học cho tất cả các cấp học, bậc học. Nhà nước, chính quyền và ngành giáo

dục các cấp phải chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiên và tổ chức quản

lý tốt việc chuẩn hoá.

Hiện đại hoá giáo dục là hiện đại hoá nội dung và quy trình đào tạo

trong đó đưa vào những nội dung phản ánh những thành tựu mới nhất của văn

hoá, khoa học và đổi mới phương pháp GD - ĐT phù hợp với xu thế hiện đại

và hiện đại hoá các phương tiện dạy, học, tăng cường các thiết bị thông tin,

viễn thông. Giáo dục đi vào hiện đại hoá đòi hỏi phải đào tạo được đội ngũ

người lao động phù hợp với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất

nước tức là phải hiện đại hoá được sản phẩm cuối cùng của giáo dục là con

người.

35

Xã hội hoá giáo dục là huy động lực lượng của toàn xã hội cùng tham

gia vào quá trinh GD - ĐT, đồng thời tạo điều kiện để mọi người dân được

thụ hưởng các thành quả do hoạt động giáo dục mang lại.

* Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục

Công bằng xã hội trong giáo dục là sự bình đẳng trong tiếp cận, tham

gia vào quá trình giáo dục, là sự đối xử như nhau với mọi học sinh khi họ học

tại các cơ sở đào tạo khác nhau. Đây là một trong những nội dung chính của

việc xây dựng nền giáo dục định hướng XHCN, bảo đảm cơ hội được học tập

cho mọi người, tạo điều kiện cho nhân dân lao động, nhất là con em các gia

đình nghèo và diện chính sách được học tập. Đồng thời có chính sách khuyến

khích, tạo điều kiện cho những học sinh giỏi, có năng khiếu hoặc những

người có khả năng học tập và điều kiện tài chính được học tập thuận lợi hơn ở

tất cả các bậc học, nhất là đại học và sau đại học.

* Phát triển GD - ĐT gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội

Đây là yêu cầu kế thừa các nguyên tắc xây dựng nền giáo dục cách

mạng và cũng là đòi hỏi của việc nâng cao hiệu quả giáo dục phục vụ sản

xuất, đời sống. Nhà trường phải vừa chú ý giáo dục ý thức, khả năng lao

động, thực hành cho học sinh trong quá trình dạy học. Nhưng điều quan trọng

hơn là làm cho những kiến thức học trong nhà trường phải gắn với nghề

nghiệp của họ trong tương lai. Chúng ta phải làm cho toàn bộ nền giáo dục

thích ứng với nhu cầu và đòi hỏi của sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước,

giải quyết tốt mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường trong giáo dục.

Ở những nước có nền giáo dục đạt hiệu quả cao thì quy mô phát triển

giáo dục phải do nhu cầu và trình độ phát triển của nền kinh tế quyết định và

chỉ được phép mở rộng quy mô trên cơ sở đủ điều kiện bảo đảm chuẩn chất

lượng. Ở nước ta cần phải làm như vậy. Đối với việc đào tạo nhân lực và phát

triển nhân tài, chất lượng là quan trọng nhất, do đó phải tính toán nhu cầu và

quy hoạch phát triển từng ngành, từng địa phương, khả năng của các cơ sở giáo

36

dục mà bố trí kế hoạch đào tạo, sử dụng. Đối với việc nâng cao dân trí có thể

khuyến khích phát triển quy mô theo nhu cầu học tập của nhân dân nhưng cũng

cần có sự quản lý cần thiết của chính quyền để đảm bảo chất lượng đào tạo.

* Coi trọng hướng nghiệp. dạy nghề, tập trung vào mục tiêu nhân lục,

đào tạo theo nhu cầu của thị trường

Tập trung làm tốt công tác hướng nghiệp và quản lý đào tạo nghề trung

học kỹ thuật nghiệp vụ, cao đẳng, đại học và sau đại học.

Đào tạo nhân lực theo nhu cầu của thị trường:

Gíáo dục được xác định là một dịch vụ nhưng không phải là một hàng

hoá. Dịch vụ vì sản phẩm của giáo dục là kiến thức, kỹ năng. Trước hết cần xác

định nhà trường là người cung ứng dịch vụ giáo dục và sinh viên là người có

nhu cầu về dịch vụ giáo dục. Do đó thị trường giáo dục sẽ tồn tại nếu tồn tại cả

cung và cầu. Sinh viên phải được xem và đối xử như khách hàng. Nếu không

có sinh viên thì không có nhà trường. Việc xác định ngành học theo nhu cầu

của sinh viên thông qua số lượng thí sinh dự thi và trúng tuyển. Nếu ngành nào

có số lượng thí sinh nhiều và điểm trúng tuyển cao thì đó là ngành xã hội có

nhu cầu cao. Do đó để đáp ứng nhanh và kịp thời nhu cầu của thị trường nhà

trường cần có quyền quyết định trong việc lựa chọn ngành đào tạo.

37

Chương 2

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM PHÙ HỢP MỐI QUAN HỆ

GIỮA GIÁO DỤC ĐÀO TẠOVÀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH

HƯỚNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Thực trạng mối quan hệ giữa giáo dục đào tạo và kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

2.1.1. Giáo dục đào tạo và kinh tế thị trường định hướng XHCN đã

bước đầu thúc đẩy các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội

Đảng ta coi phát triển GD - ĐT là một trong những động lực quan trọng

thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người

- yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.

Phát triển khoa học, công nghệ cùng với phát triển GD - ĐT là quốc sách

hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đặc biệt

việc “tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực trọng tâm là GD-

ĐT, khoa học, công nghệ” đã được xác định là ba khâu đột phá then chốt để

làm chuyển động toàn bộ tình hình kinh tế - xã hội.

Tiếp tục quán triệt quan điểm GD - ĐT là quốc sách hàng đầu, đầu tư

cho giáo dục là đầu tư phát triển, Đảng ta chủ trương tạo sự chuyển biến cơ

bản, toàn diện trong phát triển GD - ĐT, tiếp tục nâng cao chất lượng giáo

dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường

lớp và hệ thống quản lý giáo dục, thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội

hoá” thực hiện “giáo dục cho mọi người”. Tăng ngân sách nhà nước cho GD -

ĐT theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế, tăng nhanh tỷ lệ lao động được đào tạo

trong toàn bộ lao động xã hội, mở rộng hợp lý quy mô giáo dục đại học, làm

chuyển biến rõ nét về chất lượng và hiệu quả đào tạo, tăng cường giáo dục

chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên, thực hiện công

bằng xã hội trong giáo dục.

38

Công tác chính trị, tư tưởng, giáo dục đạo đức và lý tưởng, công tác

phát triển Đảng trong các nhà trường được tăng cường. Chất lượng tư tưởng

chính trị của đội ngũ giáo viên được tăng lên. Đây là cơ sở cho việc các thầy

cô giáo đã chú ý hơn tới việc giáo dục nhân cách, giáo dục đạo đức, giáo dục

tư tưởng chính trị cho học sinh, sinh viên, khắc phục một phần tư tưởng

chuyên môn thuần tuý và biểu hiện “nhạt chính trị”, “thương mại hoá” ở một

số thầy cô giáo. Công tác đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập

nhà trường, đặc biệt là đấu tranh với các tệ nạn ma tuý, tuyên truyền phòng

chống nhiễm HIV- AIDS… được đẩy mạnh.

Cùng với phong trào học tập nâng cao trình độ, cập nhật các kiến thức

khác (như tin học, ngoại ngữ, quản trị kinh doanh, luật pháp…) cần thiết cho

lao động, cho công tác của đông đảo người lao động, trình độ dân trí được

nâng lên một bước đáng kể. Chính điều này đã nâng cao chất lượng đào tạo

nhân lực phục vụ CNH, HĐH đất nước, đồng thời cũng đặt ra vấn đề phải

quan tâm điều chỉnh quy mô đào tạo ở bậc trung học để có kế hoạch phân

luồng, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động phục vụ đắc lựccho phát

triển kinh tế - xã hội.

Chất lượng GD - ĐT đã có nhiều chuyển biến bước đầu. Chúng ta đã có

một bước tiến lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách đối

với giáo dục. Ngành GD - ĐT đã tập trung chỉ đạo việc khắc phục những yếu

kém như lập lại trật tự, kỷ cương nhà trường, khắc phục các tiêu cực trong thi

cử, chống việc học thêm, dạy thêm tràn lan ở phổ thông.

Tuy nhiên, ngành giáo dục vẫn con một số tồn tại như chất lượng, hiệu

quả của GD - ĐT tuy đã có những chuyển biến nhưng nhìn chung còn thấp so

với yêu cầu. Hiệu quả hoạt động giáo dục còn thấp. Số lượng lao động qua

đào tạo chưa nhiều, hơn nữa, khả năng tiếp thu kỹ thuật, công nghệ mới con

kém. Chưa có giải pháp hữu hiệu trong việc đào tạo nhân lực để tăng năng lực

cạnh tranh của nền kinh tế, để phát triển nông thôn, thực hiện sự chuyển dịch

39

cơ cấu kinh tế và lao động. Đào tạo đại học và giáo dục nghề nghiệp chưa phù

hợp với nhu cầu về lao động của xã hội, một số đáng kể những người tốt

nghiệp không làm đúng ngành nghề, không đến làm ở những nơi đang cần,

chậm thích nghi với việc làm, thiếu tự giác và trung thực trong lao động, thiếu

trách nhiệm với sản phẩm, không tôn trọng quy trình kỹ thuật, tham ô, lãng

phí nguyên vật liệu, thiếu tinh thần hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Cơ cấu

đào tạo chưa hợp lý, mất cân đối về bậc học, về ngành nghề, về vùng lãnh thổ.

Hầu hết các học sinh phổ thông chỉ chọn một con đường là học lên đại học,

việc học nghề ở các trình độ thấp hơn còn hạn chế. Việc tăng quy mô đào tạo

đại học chưa được định hướng vào nhu cầu của xã hội. Phân bố học sinh, sinh

viên theo ngành nghề, theo vùng, miền chưa phù hợp với nhu cầu kinh tế - xã

hội của cả nước và của địa phương gây nên tình trạng nơi thừa, nơi thiếu.

Khoảng cách về trình độ phát triển GD - ĐT giữa các vùng trong nước chưa

được thu hẹp. Đào tạo nghề chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội. Các hiện tượng tiêu cực trong ngành GD - ĐT còn nhiều, nhưng chậm

được khắc phục, việc giáo dục chính trị, đạo đức trong các trường học chưa

được quan tâm đúng mức.

Như vậy, có thể thấy, kết quả giải quyết các yếu kém trong công tác

GD - ĐT còn nhiều hạn chế, các vấn đề nổi cộm chưa được giải quyết dứt

điểm mà có những biểu hiện ngày càng tinh ti và nghiêm trọng hơn. Đó vẫn

còn là thách thức lớn đối với giáo dục nước ta trong thời gian tới.

Nguyên nhân làm cho giáo dục nước ta chưa thoát khỏi tình trạng yếu

kém, trong khi khả năng và điều kiện khách quan còn hạn chế, chúng ta chưa

đồng thời vừa phát triển nhanh về quy mô, vừa nâng cao chất lượng. Hệ thống

quản lý GD - ĐT chậm đưa ra được những định hướng chiến lược và các

chính sách vĩ mô đúng đắn để xử lý những tương quan lớn trong GD - ĐT

như: số lượng - chất lượng, đào tạo - sử dụng, cung - cầu, chi phí - lợi ích, cơ

cấu kinh tế - xã hội, cơ cấu lao động, cơ cấu đào tạo, tập trung, phân quyền

40

chưa phối hợp tốt và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước và của

xã hội. Một số chủ trương đổi mới đưa ra thực hiện khi chưa có căn cứ đầy

đủ. Các văn bản pháp quy về GD - ĐT chưa được ban hành kịp thời. Năng lực

quản lý của cán bộ lãnh đạo các cấp chưa theo kịp thực tiễn phát triển GD -

ĐT. Hơn nữa quan điểm GD - ĐT là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục

là đầu tư để phát triển vẫn chưa được quán triệt đầy đủ trong hoạt động thực

tiễn. Bên cạnh đó, đất nước khi chuyển sang nền KTTT và thực hiện chính

sách mở cửa đang làm thay đổi thang giá trị xã hội, những giá trị mới chưa

được hình thành vững chắc và ổn định đủ sức định hướng sự phát triển nhân

cách người học.

2.1.2. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa các

loại thị trườ ng phát triển chậm , chưa đồng bộ, thể chế kinh tế thị trườ ng chưa rõ ràng, chưa mạnh

Để phát triển bền vững nền KTTT định hương XHCN ở nước ta cần có

các điều kiện khác nhau trong đó có việc hình thành và phát triển đồng bộ các

loại thị trường. Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Thúc đẩy sự hình thành,

phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng

XHCN, đặc biệt là quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện nay chưa

có hoặc còn sơ khai như: thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị

trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ… ” [25, tr.100].

Các loại thị trường cơ bản trong nền kinh tế có quan hệ tương tác và

thúc đẩy lẫn nhau tạo thành một hệ thống thị trường thống nhất. Nếu như một

loại thị trường nào đó không phát triển, hoặc phát triển ở trình độ thấp thì sẽ

tác động đến sự phát triển và chức năng của các loại thị trường khác, làm méo

mó hệ thống thị trường, dẫn đến hiệu quả tăng trưởng thấp. .

Trong các loại thị trường cơ bản ở nước ta, thị trường hàng hoá và dịch

vụ có vai trò khởi đầu, tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao

động, thị trường bất động sản, thị trường tài chính, thị trường khoa học và

41

công nghệ… Mặt khác, để phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ đến trình

độ cao, cần thiết phải phát triển và hoàn thiện các loại thị trường lao động, thị

trường bất động sản, thị trường tài chính, thị trường khoa học và công nghệ…

Do đó, việc phát triển đồng bộ các loại thị trường cơ bản ở nước ta là một yêu

cầu cấp thiết đặt ra để phát triển nền KTTT định hướng XHCN.

Ở Việt Nam, quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá

tập trung sang cơ chế thị trường định hướng XHCN đã tạo điều kiện, môi

trường cho sự hình thành, phát triển các loại thị trường. Một số loại thị trường

như thị trường hàng hoá và dịch vụ đã phát triển nhanh chóng và đạt đến trình

độ cao, nhưng một số thị trường vẫn kém phát triển hoặc chưa hình thành một

cách đầy đủ, bị biến dạng. Nhìn một cách tổng quát, hệ thống thị trường ở

nước ta còn đang ở trạng thái phát triển chậm, chưa đồng bộ.

Thị trường hàng hoá, dịch vụ ở nước ta đã có tốc độ tăng trưởng nhanh

trong thời gian dài, đạt đến trình độ phát triển khá cao, với một hành lang

pháp lý tương đối lành mạnh và hợp lý. Trên thị trường này, chi phí giao dịch

luôn có xu hướng giảm dần, tự do trao đổi mua bán được thúc đẩy, quyền sở

hữu được xác định rõ ràng, hạ tầng cơ sở được cải thiện, lưu thông hàng hoá tăng trưởng nhanh.

Còn nhiều vướng mắc và bất cập nhất là thị trường bất động sản. Các

giao dịch về bất động sản vẫn chưa được đặt một cách đầy đủ trong quan hệ

thị trường, không công khai, minh bạch, thiếu thống nhất. Thị trường phi

chính phủ về bất động sản vẫn còn tồn tại.

Thị trường vốn chưa tạo thuận lợi và cơ hội cho các thành phần kinh tế

trong việc tiếp cận các nguồn vốn. Trong nhiều trường hợp, tổ chức tín dụng

không được tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc cho vay, còn bị can thiệp

bởi mệnh lệnh hành chính của cơ quan nhà nước.

Thị trường lao động còn sơ khai, chưa tạo điều kiện thúc đẩy sự chuyển

dịch lao động, phân bố lại lao động, bảo đảm cho người lao động có nhiều cơ

42

hội lựa chọn chỗ làm việc và có thu nhập thoả đáng. Sức lao động chưa thực

sự được coi là hàng hoá, người lao động chưa có đủ điều kiện tiếp cận với các

cơ hội làm việc phù hợp với nhu cầu và năng lực. Người sử dụng lao động

cũng chưa được quyền tự do lựa chọn, tuyển dụng và trả công xứng đáng cho

người lao động theo cơ chế thị trường, các hình thức đào tạo, đào tạo lại nghề

cho người lao động chưa được xã hội hóa.

Thị trường khoa học và công nghệ chưa gắn với hoạt động kinh doanh

của doanh nghiệp, nhất là chưa ứng dụng được công nghệ thích hợp, tiên tiến,

nâng cao chất lượng, tạo sản phẩm, hàng hoá có sức cạnh tranh cao, chiếm

lĩnh thị trường. Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp chưa có sức ép phải

ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, kinh doanh, đồng thời các quy

định về quyền tác giả, bảo hộ sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ…

vẫn chưa tạo điều kiện cho việc giao dịch về khoa học, công nghệ hoạt động

theo cơ chế thị trường.

Những yếu kém của các thị trường nói trên không chỉ kìm hãm sự phát

triển sức sản xuất xã hội mà còn làm chậm tốc độ tăng trưởng của thị trường

hàng hoá và dịch vụ. Sự tụt hậu, kém phát triển của các thị trường này so với

thị trường hàng hoá và dịch vụ là biểu hiện rõ nét nhất của sự thiếu đồng bộ

của các loại thị trường trong nền kinh tế nước ta hiện nay.

Vì vậy, để phát triển đồng bộ các loại thị trường, trước hết Đảng và

Nhà nước ta phải có chủ trương, định hướng để thúc đẩy nhanh sự phát triển

động bộ các loại thị trường. Đại hội X Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định

phương hướng phát triển các loại thị trường ở nước ta như sau: “Phát triển

đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo cơ

chế cạnh tranh lành mạnh. Cùng với việc phát triển thị trường hàng hoá, dịch

vụ và thị trường sức lao động, cần phát triển vững chắc thị trường tài chính,

bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu

hoàn chỉnh; phát triển thị trường bất động sản bao gồm thị trường quyền sử

43

dụng đất và bất động sản gắn liền với đất…; phát triển thị trường khoa học và

công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa

học và công nghệ… trở thành hàng hoá” [26, tr.27].

Trên cơ sở thực trạng của các loại thị trường ở Việt Nam và quan điểm,

phương hướng của Đại hội X, để phát triển đồng bộ các loại thị trường cần

thực hiện một số giải pháp sau:

- Đổi mới tư duy, tạo nhận thức mới về sự phát triển các loại thị trường.

Đó là sự nhất quán thực hiện việc kết hợp các yêu cầu và quy luật của KTTT

hiện đại với tính định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế ở nước ta.

- Hoàn thiện môi trường thể chế, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà

nước, tập trung vào các nội dung chủ yếu như tạo môi trường và điều kiện cho

tự do sản xuất, kinh doanh, tự do lưu thông hàng hoá trên các thị trường.

- Đầu tư, tạo tiền đề, cơ sở cho sự hình thành và phát triển các loại thị

trường. Đối với các vùng kinh tế chậm phát triển, kinh tế tự cấp, tự túc còn

phổ biến thì phải đầu tư xây dựng hệ thống giao thông thuận lợi cho giao lưu

hàng hoá giữa các vùng, xây dựng chợ hoặc trung tâm thương mại để có nơi

trao đổi, mua bán hàng hoá. Ở các nơi kinh tế và thị trường phát triển chủ yếu

là đầu tư theo chiều sâu, phải phát triển dịch vụ hỗ trợ, hình thành các trung

tâm thông tin và định hướng thị trường như thị trường bán buôn, trung tâm

giao lưu kinh tế với nước ngoài, sở giao dịch hàng hoá, trung tâm đào tạo và

cung cấp nguồn nhân lực…

- Tiếp tục đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu, phát triển nền kinh

tế với nhiều loại hình sản xuất, kinh doanh, vừa tạo ra sức cung, vừa tạo ra

sức cầu cho các loại thị trường.

2.1.3. Mục tiêu, chức năng và lĩnh vực hoa ̣t động của giáo dục đào

tạo còn có biểu hiện lệch lạc

* Số lượng các trường đại học và cao đẳng và sự mất cân đối về cơ cấu

44

ngành nghề đào tạo.

Để đáp ứng nhu cầu đào tạo ngày càng tăng nên có rất nhiều trường đại

học cao đẳng được thành lập tăng nên với rất nhiều chuyên ngành mở ra.

Theo số liệu điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến tháng 9/2009 cả

nước có 376 trường đại học và cao đẳng. Đồng thời ngày càng có nhiều

trường, các cơ sở đào tạo ngoài công lập khác nhau được thành lập. Đến tháng

9 năm 2009 có 81 trường đại học và cao đẳng ngoài công lập chiếm 21,5%.

Tuy nhiên, do sự tăng lên nhanh chóng về số lượng các trường đại học

và cao đẳng, việc đưa các trường cao đẳng lên đại học và mở nhiều đại học dân

lập trong khi chưa chuẩn bị đủ điều kiện cần thiết, đồng thời chưa đổi mới về

cơ chế quản lý chất lượng các trường này nên đã dẫn đến chất lượng đào tạo

không được tốt, và xảy ra nhiều vấn đề tiêu cực nghiêm trọng diễn ra trong một

thời gian dài. Trong một số trường, kể cả một số trường công lập mới mở chưa

có cơ sở vật chất và đội ngũ cán bộ giảng dạy cơ hữu phù hợp vẫn tuyển sinh

ngay một lúc nhiều ngành đào tạo trong đó có cả các ngành kỹ thuật.

Việc phân bố các trường đại học, cao đẳng chưa đều, tập trung đông ở

một số trung tâm văn hóa, kinh tế lớn còn các vùng cao, miền núi, vùng có

điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn còn ít. Điều này dẫn tới hạn chế số lượng

sinh viên ở các vùng kinh tế khó khăn có khả năng theo học.

Hiện nay, ngày càng có nhiều ngành đào tạo được mở ra đáp ứng được

nhu cầu của thị trường nhưng tồn tại tình trạng mất cơ cấu về ngành nghề đào

tạo. Theo số liệu điều tra “trong 50 năm qua chúng ta đã đào tạo được hơn 1

triệu cán bộ các ngành khoa học, kỹ thuật có trình độ đại học với cơ cấu là: sư

phạm chiếm 33,3%; khoa học kỹ thuật là 25,5%; khoa học xã hội là 17%; y

dược là 9,3%; nông nghiệp là 8,1%; khoa học tự nhiên là 6,8%. Với một nước

nông nghiệp như nước ta hiện nay mà chỉ có 8,1% cán bộ có trình độ đại học

được đào tạo thuộc ngành nông nghiệp thì cơ cấu trên là bất hợp lý” [43].

45

* Nội dung chương trình đào tạo và tình trạng thiếu giáo trình ở nhiều

môn học.

Nội dung chương trình đào tạo có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào

tạo và giáo trình là một công cụ để chuyển các kiến thức đó đến cho sinh viên.

Tuy nhiên, hiện nay, chương trình đào tạo và vấn đề giáo trình ở nước ta còn

nhiều bất cập. Đa số các trường vẫn đang trong tình trạng thiếu giáo trình, có

nhiều môn học sinh viên không có giáo trình để nghiên cứu. Còn có những

môn đã có giáo trình nhưng nội dung chủ yếu được biên soạn từ rất lâu. Qua

thực tế điều tra ở một số trường đại học và cao đẳng ở nước ta cho thấy, giáo

trình ở các trường chủ yếu được biên soạn từ cách đây khoảng 20 đến 30 năm

và các thông tin trong đó đã quá lỗi thời không còn phù hợp với sự phát triển

mạnh mẽ hiện nay của xã hội.

Nội dung chương trình đào tạo của ta hiện nay còn nặng về lý thuyết, ít

gắn với thực tiễn, chương trình học tập quá tải, chiếm hết thời gian phát huy

khả năng tư duy sáng tạo của sinh viên gây ra tâm lý chán học, sợ học. Cụ thể

là chương trình đào tạo đại học bốn năm ở các nước phương Tây gồm 125

đến 130 tín chỉ [67], trong khi đó chương trình đào tạo đại học hệ bốn năm ở

nước ta trung bình khoảng 250 [60], trong khi kiến thức tiếp thu lại ít hơn.

Hiện nay, ở nước ta, việc biên soạn và in ấn giáo trình được khoán

trắng cho các trường đại học tự lo, do đó dẫn đến tình trạng bất cập về nội

dung lẫn kinh phí thực hiện. Điều đó dẫn đến giá sách hiện tại tương đối cao

so túi tiền của sinh viên.

* Phương pháp dạy và học.

Phương pháp dạy học chuyên nghiệp phải nhằm phát huy tính tự học,

tự nghiên cứu của sinh viên nhằm phát huy tư duy sáng tạo, tư duy độc lập

của sinh viên, người thầy chỉ giảng cho sinh viên những phần cơ bản nhất,

khó nhất trong giáo trình. Phần còn lại là sinh viên tự nghiên cứu. Nhưng hiện

46

nay, ở nước ta, phương pháp được sử dụng phổ biến trong các trường chuyên

nghiệp chủ yếu là thầy giảng, học sinh ngồi nghe và ghi chép, với số lượng

giờ lên lớp không dài nên chưa khuyến khích được tính chủ động tích cực của

sinh viên, chính vì vậy làm cho sinh viên trở nên thụ động trong việc tiếp thu

kiến thức. Mặc dù hiện nay, phương pháp dạy học ở nước ta đã có những đổi

mới nhưng còn diễn ra chậm. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải đẩy nhanh

việc đổi mới phương pháp dạy và học ở giáo dục chuyên nghiệp theo hướng

phát huy tính độc lập, tư duy sáng tạo của sinh viên.

* Thiếu sự hợp tác giữa các cơ sở đào tạo với các đơn vị sử dụng.

Qui mô đào tạo của các trường liện tục mở rộng nhưng do các trường

thiếu sự hợp tác với các đơn vị, các doanh nghiệp, tổ chức lao động về nhu

cầu thực tế về lao động của các đơn vị sử dụng nên dẫn tới tình trạng mất cân

đối giữa cung và cầu đào tạo. Có ngành số sinh viên được đào tạo quá nhiều

so với nhu cầu nên nhiều người không tìm được việc làm phù hợp, trong khi

có những ngành nhu cầu tương đối lớn thì lại thiếu nhân lực. Vì vậy, nhiều

người sau khi được đào tạo không tìm được việc làm đã được đào tạo nên

phải chuyển sang làm những công việc khác không đúng chuyên môn hoặc

theo học những nghành đào tạo khác để có thể tìm được việc làm. Qua điều

tra cho thấy, hiện nay, có trên 32% số lao động trong các doanh nghiệp không

được sử dụng đúng chuyên ngành. Theo kết quả khảo sát của đề tài KX. 07.

14 chỉ có 48,8% nhân lực qua đào tạo được sử dụng đúng ngành nghề đã được

đào tạo. Như vậy đã lãng phí 51,2% nhân lực có trình độ. Hiện nay nhiều

doanh nghiệp đã có sự liên hệ với các cơ sở đào tạo như hàng năm đến kỳ thì

tốt nghiệp các doanh nghiệp đều cử người đến các trường xin tuyển người

đồng thời trao đổi về kế hoạch lao động trong tương lai cũng như yêu cầu đối

với sinh viên tốt nghiệp của đơn vị mình để có thể thu hút được ngày càng

nhiều nhân lực có trình độ.

47

2.2. Một số giải pháp bảo đảm phù hợp quan hệ giữa giáo dục đào

tạo và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện

nay

2.2.1. Kiên trì mục tiêu, chức năng và lĩnh vực hoa ̣t động cơ bản của

ngành giáo dục đào tạo nhằm “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi

dưỡng nhân tài”.

Trong bối cảnh nước ta hiện nay và từ thực trạng nguồn nhân lực đã

trình bày ở trên, để phát huy nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng những

đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá

đất nước, chúng ta cần xây dựng một hệ thống các giải pháp, từ giải pháp về

giáo dục đào tạo, về chăm sóc sức khoẻ, nâng cao chất lượng dân số, cải thiện

môi trường sống, về tạo việc làm, tổ chức khai thác lực lượng lao động, đến

giải pháp về phát triển văn hoá, tạo ra các động lực kích thích tính tính cực

cho con người.

Trong lịch sử hình thành và phát triển của xã hội loài người, GD - ĐT

luôn chiếm vị trí trọng yếu. Ngày nay, có lẽ không một quốc gia nào trên thế

giới lại không thấy rõ vị trí nền tảng, vai trò then chốt của GD - ĐT với công

cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng,

một trong những yếu tố tạo nên sự phát triển bền vững, sự tiến bộ vượt bậc cho

mỗi quốc gia là GD - ĐT. Cùng với sự đóng góp lớn lao đó, GD - ĐT đã tham

gia một cách trực tiếp và đóng vai trò quyết định trong chiến lược phát triển

con người. Đó là một lĩnh vực quan trọng không thể thiếu được để nâng cao

trình độ văn hoá, trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật, xử lý công nghệ,

tổ chức quản lý và năng lực hoạt động thực tiễn của người lao động. Trong xã

hội hiện đại, trình độ và năng lực ấy của người lao động đã trở thành nhân tố

quan trọng và là điều kiện thiết yếu cho một xã hội phát triển bền vững.

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước đòi hỏi chúng ta

phải tiếp tục phát triển sự nghiệp GD - ĐT. Bởi lẽ, hiện nay nguồn nhân lực ở

48

nước ta không chỉ có những ưu thế, lợi thế như lực lượng lao động rẻ, dồi

dào, có truyền thống yêu nước, cần cù lao động, thông minh, năng động, sáng

tạo... mà còn có cả những hạn chế như thể lực và trình độ văn hoá chưa cao,

trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng lao động chưa đáp ứng được nhu cầu

ngày càng mới của CNH, HĐH. Do vậy, để nhanh chóng có được một nguồn

nhân lực có chất lượng, có trí tuệ, đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục phát triển sự

nghiệp GD - ĐT, làm cho nó thực sự trở thành "quốc sách hàng đầu", tham

gia ngày càng trực tiếp hơn và đóng vai trò quyết định trong chiến lược phát

triển con người, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.

Giáo dục có vai trò tạo cơ sở, tạo nền móng cần thiết ban đầu, là tiền đề

cần thiết cho đào tạo nguồn nhân lực và là một nhân tố cơ bản của phát triển

nguồn nhân lực. Vì vậy, trong việc đánh giá phát triển nguồn nhân lực của

một quốc gia, trước hết người ta dựa vào trình độ giáo dục phổ thông, phổ cập

giáo dục, số năm giáo dục bắt buộc... coi đó là nhân tố thuận lợi hay trở ngại

cho việc đầu tư và hoạt động kinh doanh. Trong các chính sách giáo dục thì

chính sách phổ cập giáo dục là trọng tâm và trở thành một trong những chính

sách phát triển nguồn nhân lực của nhiều quốc gia trên thế giới, tuy nhiên, tuỳ

vào từng điều kiện cụ thể của từng quốc gia mà đặt ra mục tiêu phổ cập trong

những thời kỳ nhất định.

Thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam được ghi

nhận trong các nghị quyết của đại hội Đảng và các nghị quyết của hội nghị

toàn thể ban chấp hành Trung ương, gần đây nhất là Nghị quyết Đại hội VII,

VIII, IX, X. Nội dung chính sách GD - ĐT của Đảng tập trung vào những vấn

đề cơ bản sau:

- Xác định vị trí của GD - ĐT trong tổng thể những vấn đề kinh tế xã

hội trong sự phát triển của đất nước. GD - ĐT là vấn đề quốc sách hàng đầu

của sự phát triển nước ta.

- Xác định mục tiêu phát triển sự nghiệp GD - ĐT ở nước ta đó là

49

“nâng cao dân trí đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, đào tạo một

lớp người có sức khoẻ, trí tuệ và đạo đức trong sáng.

- Xác định trách nhiệm của nhà nước, của các tổ chức xã hội và toàn

thể xã hội đối với sự nghiệp GD - ĐT. Trong đó nhấn mạnh vai trò của nhà

nước trong quản lý và đầu tư, sự cần thiết xã hội hoá sự nghiệp GD - ĐT.

- Xác định các phương hướng mở rộng các hình thức GD - ĐT theo

hướng đa dạng hoá mọi điều kiện, cơ hội cho người dân tham gia GD - ĐT.

Có thể khẳng định rằng, nếu như nguồn nhân lực là vấn đề số một của

mọi quốc gia trong đó có Việt Nam, thì cái cách, phát triển GD - ĐT phải là

khâu đột phá mang tính tiên phong. Những giải pháp trong lĩnh vực GD - ĐT

là những giải pháp cơ bản, đầu tiên và quan trọng nhất. Vì GD - ĐT là

phương tiện chủ yếu để xây dựng, phát triển nguồn nhân lực. Trong khi đó,

mặc dù vấn đề đổi mới công tác GD - ĐT đã được bàn luận rất nhiều và đã

được thực hiện khá lâu nhưng cho đến nay kết quả vẫn rất hạn chế. Vì vậy,

cần có những giải pháp thiết thực hơn và thực hiện một cách quyết liệt hơn.

Tăng cường nguồn lực cho phát triển GD - ĐT cả về nhân lực, vật lực

lẫn tài lực. Về nhân lực, cần phải bằng mọi biện pháp để có được một đội ngũ

các nhà giáo từ lãnh đạo, quản lý đến giáo viên ở tất cả các cấp học có đủ tài,

đủ đức nghĩa là có đủ năng lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng được yêu cầu

và nhiệm vụ. Về vật lực, cần tăng cường đầu tư một cách thoả đáng cho các

nhà trường vể cơ sở vật chất - kỹ thuật. Về tài lực, cần tăng nguồn tài chính

đầu tư cho GD - ĐT trên cả hai phương diện: đầu tư cho phát triển và chính

sách đãi ngộ cho nhà giáo. Đầu tư cho giáo dục luôn là đầu tư có lợi nhất vì

“đầu tư cho người đàn ông ta được người chồng tốt, đầu tư cho người phụ nữ

ta được một gia đình tốt, đầu tư cho nhà giáo ta được cả một thế hệ tốt”. Phải

xã hội hoá hơn nữa đầu tư cho GD - ĐT, trong đó ngân sách nhà nước giữ vai

trò chủ đạo.

Tiếp tục đổi mới mục tiêu, phương pháp GD - ĐT. Về mục tiêu: Cần

50

thừa nhận rằng trong điều kiện KTTT, mục tiêu GD - ĐT cũng nhất thiết phải

có tính kinh tế, cụ thể là sản phẩm đầu ra của GD - ĐT phải đáp ứng được yêu

cầu của người sử dụng sản phẩm ấy. Nói cách khác, mục tiêu GD - ĐT phải

được điều chỉnh theo hướng đề cao tính hiệu quả thiết thực của GD - ĐT.

Trong đó sản phẩm của GD - ĐT phải đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế

- xã hội của đất nước trong điều kiện KTTT và hội nhập quốc tế hiện nay. Về

nội dung GD - ĐT, phải chú trọng trang bị cho người học những kiến thức

chuyên môn nghề nghiệp, trình độ tay nghề, kỹ năng lao động. năng lực sáng

tạo để người lao động đạt được tính chuyên nghiệp cao và tinh thông nghề

nghiệp. Cùng với đó, trong điều kiện KTTT và hội nhập quốc tế hiện nay,

trong nội dung GD - ĐT không thể xem nhẹ nội dung bồi dưỡng lòng yêu

nước, tinh thần tự tôn dân tộc, lối sống, đạo đức nghề nghiệp, văn hoá lao

động, đặc biệt là bản lĩnh chính trị cũng như là khả năng thích nghi với hướng

hoà đồng, hoà nhập, hoà giải và hợp tác. Đó là vì khả năng đoàn kết, hợp tác,

biết tôn trọng sự đa dạng, khác biệt không chỉ là một yêu cầu không thể thiếu

trong điều kiện lao động tập thể và sản xuất công nghiệp, mà còn là một trong

những phẩm chất đạo đức quan trọng của người lao động hiện nay. Về

phương pháp, cần sử dụng một cách phổ biến và triệt để các phương pháp GD

- ĐT tiên tiến theo hướng kết hợp hiện đại với truyền thống sao cho kích thích

và phát huy được tốt nhất tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.

Phát triển về quy mô phải gắn chặt với nâng cao chất lượng và hiệu quả

của GD - ĐT. Cần thấy rằng trong điều kiện hiện nay, việc phát triển quy mô

GD - ĐT là yêu cầu cấp bách của đất nước ta. Có nhiều lý do để nền GD - ĐT

nước ta phải phát triển mạnh mẽ hơn về quy mô GD - ĐT, đặc biệt là đào tạo

nguồn nhân lực chất lượng cao. Đó là tình hình chung của thế giới đang

chuyển sang nền kinh tế tri thức. Do tác động của cuộc cách mạng khoa học,

công nghệ hiện đại làm cho yếu tố vật chất trong lực lượng sản xuất phát triển

rất nhanh, đòi hỏi người lao động phải nhanh chóng nâng cao tri thức, trình độ

51

tay nghề cho tương xứng. Hiện nay, ở nước ta, các trường đại học, cao đẳng

mới chỉ tiếp nhận được khoảng 1/3 số lượng học sinh tốt nghiệp phổ thông

trung học, trong khi đó nhu cầu học tập còn rất cao và ngày càng tăng. Mặc

dù trong những năm gần đây, quy mô GD - ĐT ở nước ta đã phát triển khá

nhanh nhưng chất lượng và hiệu quả còn nhiều hạn chế, bất cập, gây lãng phí

lớn. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là phải vừa phát triển về quy mô GD - ĐT,

vừa nâng cao chất lượng, hiệu quả GD - ĐT.

Để nâng cao chất lượng, nội dung GD - ĐT phải cập nhật được những

thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, phải đạt tới mức “chuẩn hoá”, “hiện

đại hoá”. Việc tiếp thu những tiến bộ khoa học - công nghệ hiện đại ở đây là

cả nội dung kiến thức lẫn phương pháp GD - ĐT. Để tăng cường áp dụng các

chương trình và phương pháp đào tạo tiên tiến của thế giới trong các lĩnh vực

kinh tế, kinh doanh và công nghệ, kết hợp giữa đào tạo tinh hoa và đào tạo đại

trà, đẩy mạnh liên kết đào tạo trong và ngoài nước.

Để nâng cao hiệu quả GD - ĐT phải gắn kết chặt chẽ GD - ĐT với thị

trường lao động, lấy nhu cầu của thị trường lao động trong điều kiện KTTT

và hội nhập quốc tế làm cơ sở để hoạch định phương hướng phát triển, mục

tiêu, nội dung và phương pháp GD - ĐT thích hợp. Phải lấy thực tiễn khai

thác, sử dụng nguồn nhân lực trên thị trường lao động làm căn cứ để kiểm

định, đánh giá, điều chỉnh chương trình, nội dung và phương pháp GD - ĐT.

Việc khai thác hợp lý, có hiệu quả lực lượng lao động sẽ tạo ra điều kiện

thuận lợi, đem lại phương tiện vật chất và kích thích tinh thần cho sự phát

triển nguồn nhân lực. Ngược lại, phát triển tốt nguồn nhân lực sẽ là điều kiện

tiên quyết để nâng cao chất lượng và hiệu quả khai thác nguồn nhân lực. Vì

vậy, phải đảm bảo sự thống nhất giữa khai thác và phát triển, giữa GD - ĐT

nguồn nhân lực với sử dụng lao động. Do đó, cần đẩy mạnh sự liên kết cung -

cầu giữa cơ sở đào tạo với doanh nghiệp, cung cấp kịp thời và đầy đủ thông

tin về cầu của thị trường lao động cho các cơ sở đào tạo, khuyến khích mô

52

hình đào tạo theo đơn đặt hàng từ doanh nghiệp.

Thực tế những năm qua cho thấy, nhiệm vụ hàng đầu hiện nay không

chỉ là nhận thức mà quan trọng hơn là quyết tâm đưa nhận thức về tầm quan

trọng của GD - ĐT, đưa quan điểm của Đảng coi “GD - ĐT là quốc sách hàng

đầu” vào thực tiễn cuộc sống.

2.2.2. Lấy nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ

phát triển kinh tế - xã hội làm mục tiêu trung tâm

Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Đảng ta lần đầu tiên

sử dụng thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển nguồn nhân lực

chất lượng cao thông qua con đường phát triển GD - ĐT, khoa học, công nghệ

chính là khâu then chốt để nước ta vượt qua tình trạng nước nghèo và kém

phát triển.

Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh

thuật ngữ này khi đưa ra định hướng chính sách tập trung phát triển nhanh

nguồn nhân lực chát lượng cao. Trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu

ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kĩ thuật viên lành nghề và công nhân

kĩ thuật có tay nghề cao. Chính sách thu hút các nhà công nghệ giỏi trong

nước và ngoài nước, trong cộng đồng người Việt định cư ở nước ngoài. Như

vậy, theo quan niệm của Đảng ta, nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm đội

ngũ các nhà khoa học và công nghệ, các công trình sư, kĩ sư, các công nhân kĩ

thuật có tay nghề cao. Trong lĩnh vực xã hội và nhân văn, các nhà nghiên cứu

Việt Nam cũng đã bắt đầu hình thành nên những quan niệm xung quanh vấn

đề nguồn nhân lực chất lượng cao. GS,TS Phạm Minh Hạc cho rẳng, nguồn

nhân lực chất lượng cao là đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, là

lực lượng xung kích tiếp nhận chuyển giao công nghệ tiên tiến thực hiện có

kết quả việc ứng dụng vào điều kiện nước ta, là hạt nhân trong lĩnh vực của

mình vào CNH, HĐH được mở theo kiểu “vết dầu loang” bằng cách dẫn dắt

các bộ phận công nhân có trình độ và năng lực thấp hơn đi lên với tốc độ

53

nhanh.

Nguồn nhân lực chất lượng cao là một khái niệm rộng. Nguồn nhân lực

chất lượng cao (hay thấp) phải được đánh giá qua các yếu tố tạo thành chất

lượng nguồn nhân lực (thể lực, trí lực và tâm lực) trong mối tương quan với

những chuẩn mực nhất định.

Yếu tố thể lực của nguồn nhân lực được hình thành và phát triển đầu

bằng con đường di truyền nuôi dưỡng, luyện tập và rèn luyện thân thể. Đối

với yếu tố này, để xác định đánh giá chất lượng thường phải bằng con đường

khảo nghiệm thực tế và đánh giá theo những tiêu chuẩn nhất định về trạng

thái sức khoẻ. Ngày nay, các quốc gia có thể trạng phát triển nhanh là họ đầu

tư cho việc nghiên cứu tạo ra chất dinh dưỡng để hướng dẫn nhân dân thực

hiện chính sách dinh dưỡng quốc gia. Nhờ vậy, mà Nhật Bản và Hàn Quốc đã

cải thiện được thể trạng và sức bền rõ rệt. Chúng tôi cho rằng, Việt Nam cần

học tập họ, cần nhanh chóng chấm dứt tình trạng dinh dưỡng tự nhiên như

hiện nay.

Yếu tố trí lực và tâm lực của nguồn nhân lực được hình thành và phát

triển thông qua con đường GD - ĐT và thực tế lao động. Theo đó, nguồn nhân

lực chất lượng cao là những người có thời gian học tập và đào tạo dài.

Nguồn nhân lực chất lượng cao có tác động quyết định đến phát triển,

ứng dụng khoa học, công nghệ, làm tăng năng suất lao động và thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế. Nhưng hiện nay, đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta đang đứng

trước bài toán về chất lượng đầu ra không đáp ứng được nhu cầu của thị

trường. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB) thì “chất lượng nguồn

nhân lực Việt Nam xếp thứ 11 trong số 12 nước Châu Á tham gia xếp hạng.

Lao động Việt Nam chỉ đạt 32/100 điểm, trong khi đó những nền kinh tế có

chất lượng lao động dưới 35 điểm đều có nguy cơ mất sức cạnh tranh trên thị

trường toàn cầu” [67]. Hiện nay, nước ta đang đứng trước một nghịch lý là:

các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế đang cần một lực lượng lao động có

54

trình độ kỹ thuật cao, nhưng đào tạo không đáp ứng được. Trong khi đó nhiều

sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng ra trường lại không có việc làm. Theo

số liệu điều tra của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam năm 2006 cho thấy, có

tới 63% sinh viên ra trường không tìm được việc làm, số tìm được việc làm

thì hầu hết phải đào tạo lại và khá nhiều người không làm đúng nghề đã học.

Chúng ta đang thừa lao động phổ thông chưa qua đào tạo, nhưng lại thiếu lao

động kỹ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia và những nhà quản lý, cán bộ khoa

học, công nghệ có trình độ cao. Một trong những nguyên nhân là chương trình

đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề còn nặng về lý thuyết,

nhẹ về thực hành, chưa gắn với doanh nghiệp, thị trường và xã hội. Hiện nay,

trong điều kiện KTTT đã đến lúc ta phải đổi mới phương pháp đào tạo. Đào

tạo phải theo nhu cầu xã hội, phải có sự tham gia và gắn bó, liên kết giữa ba

nhà: nhà nước, nhà trường, nhà doanh nghiệp cùng hỗ trợ lẫn nhau trong quá

trình đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực. Cần đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí

đào tạo, thực hiện cơ chế đấu thầu, đặt hàng trong giáo dục. Việc phân bổ

ngân sách nhà nước cho các trường cần gắn với nhu cầu và đối tượng được

đào tạo. Việc đánh giá hiệu quả đào tạo cần thông qua chỉ số sinh viên có việc

làm. Như vậy, đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải gắn giảng dạy với nghiên cứu khoa học, gắn với thị trường, phải đổi mới cơ bản chương trình đào tạo,

phương pháp dạy và học, tăng cường năng lực đội ngũ giảng viên, đổi mới

phương thức quản lý và đào tạo để nâng cao chất lượng mới đáp ứng được

nhu cầu xã hội và nhu cầu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cũng phải chủ

động đặt hàng với các cơ sở đào tạo, tham gia xây dựng chương trình đào tạo

và hỗ trợ trực tiếp quá trình đào tạo. Cần có cơ chế, chính sách khuyến khích

các chuyên gia có trình độ cao đang làm việc tại các doanh nghiệp tham gia

đào tạo sinh viên.

Chúng ta cần có các chính sách cụ thể để kích thích tài năng phát triển.

Do đó, phải có chính sách phát hiện tài năng, tuyển chọn tài năng, tạo nguồn

55

tài năng, bồi dưỡng tài năng và chính sách sử dụng nhân tài, đãi ngộ và tôn

vinh nhân tài. Đặc biệt, cần có các chính sách cụ thể để thu hút tài năng nhân

tài ở nước ngoài để họ đóng góp sức người, sức của và trí tuệ cho đất nước.

Thay vì đào tạo tiến sĩ khi chưa có thực lực, Việt Nam nên dùng tinh

hoa của thế giới và đầu tư đào tạo số kỹ sư có năng lực thực chất [1].

Những kỹ sư rất cần thiết vì họ là người chuyển từ lý thuyết ra ứng

dụng. Nếu không có họ, những lý thuyết kia trở thành vô dụng. Ở nước ta

hiện nay cần nhiều kỹ sư hơn là tiến sĩ trong giai đoạn xây dựng. Hơn nữa,

đào tạo một kỹ sư lại rẻ, nhanh và thực dụng hơn.

Đào tạo gắn với nhu cầu kinh tế thị trường. Ông Hervé Bolot, Đại sứ

Pháp tại Việt Nam cho rằng, vấn đề chính của đại học đẳng cấp quốc tế là

phải có sự liên kết giữa đào tạo, nghiên cứu với các ngành công nghiệp. Bộ

trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân cũng cho rằng các

chương trình nghiên cứu cần phải có sự liên kết, dựa vào khoa học và xuất

phát từ nhu cầu thị trường. Thế nhưng, nhu cầu thị trường phát sinh ra từ đâu?

Đấy là từ các hãng xưởng công nghiệp địa phương.

Một viện nghiên cứu, trường đại học được lập ra để phụng sự đất nước

phải tuỳ thuộc vào công nghiệp địa phương, thay đổi cho hợp từng vùng.

Vậy những ngành công nghiệp chính của Việt Nam là gì?

Dựa trên trang điện tử của Tổng cục Thống kê, thuộc Chính phủ, Việt

Nam có 3 ngành công nghiệp, đó là khai thác, chế biến và sản xuất/ phân phối

điện nước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến là lớn nhất (chiếm 85%),

gồm phần nhiều là những ngành tiểu công nghệ. Phân loại ra thì ngành sản

xuất thực phẩm và đồ uống dẫn đầu (Biểu đồ 2.1) với ngành khai thác dầu thô

và khí đốt chiếm vị trí thứ nhì.

56

Biểu đồ 2.1.: Sáu nhóm ngành công nghiệp lớn nhất của Việt Nam

Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá thực tế phân theo ngành công

nghiệp.

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Biểu đồ 2.1 cho thấy rằng, ngành dầu mỏ chiếm vị trí thứ hai tính trên

giá trị sản xuất công nghiệp, theo giá thực tế phân ngành đã trên 10 năm qua,

vậy mà ở nước ta, chưa có một cơ sở giáo dục tốt để đào tạo những kỹ sư dầu

khí chuyên ngành. Đấy là chưa nói đến cơ sở nghiên cứu, dùng để nghiên cứu

phương pháp khai thác và sản xuất dầu thô có hiệu quả hơn từ những mỏ dầu

đặc biệt, ít nơi nào sản xuất. Ấy là loại mỏ dầu "đá móng nứt".

Còn một vài công nghệ khác mà Việt Nam chưa quan tâm phát triển

nguồn nhân lực. Theo bảng thống kê ở trên, kỹ nghệ đóng tàu không có tên.

Đây là một điều đáng ngạc nhiên vì nước ta có một bờ biển dài trên 3.500 cây

số, nhiều đảo, dân sống về nghề biển và đi lại bằng thuyền bè.

Vấn đề thứ ba về nhu cầu thị trường cần nghiên cứu là thủy động học.

Đề tài cho ngành công nghệ này gồm có thoát nước đọng, phương án chống

nước mặn xâm lấn đồng bằng sông Cửu Long, tính chất của tầng gậm nước

57

ảnh hưởng đến mỏ dầu, v.v…

Ý tưởng về kết hợp các viện nghiên cứu với các trường đại học là điều

nên làm. Không những thế, những viện này và nhất là những đại học chuyên

ngành nên thiết lập gần vùng công nghiệp liên hệ hội tụ thì sẽ đưa đến những

kết quả tốt đẹp hơn.

Việc nước ta xây dựng một hay nhiều viện, đại học đẳng cấp quốc tế để

phát triển kinh tế, xã hội trong tương lai là cần thiết. Nhưng đồng thời, chúng

ta phải xây dựng một nền tảng giáo dục trung và tiểu học vững chắc.

Việt Nam phải lựa chọn chiều hướng của những ngành công nghiệp

trong tương lai, những ngành mà mình có thể đạt được trong vòng 10 đến 20

năm sau.

Ví dụ, Hàn Quốc ban đầu vào những thập niên 60, 70 đã vạch ra đường

lối để tiến tới công nghiệp nặng như sản xuất ô tô, tàu thuỷ. Họ đã gửi những

sinh viên sang học ngành đóng tàu và kỹ thuật hàng hải, tại các viện, đại học

dẫn đầu về lĩnh vực thích hợp. Vào cuối thế kỷ 20, họ lại thêm những ngành

công nghiệp mới như robot, vi điện tử, chíp bộ nhớ, siêu vi hóa, y sinh vật và

hàng không vũ trụ. Singapore thì gồm có công nghệ dịch vụ tài chính, phân

phối hàng hóa (entrepôt trade), sinh học, điện tử, hóa chất, thiết bị khoan dầu,

tinh chế xăng dầu, chế biến cao su, sửa chữa tàu... Phần đông những công

nghệ ấy rất thích hợp với địa thế của Singapore.

Hiện nay, những ngành công nghiệp chính ở nước ta gồm thực phẩm,

đồ uống, sản xuất dầu khí, sản phẩm dệt may, v.v… Đây không phải là những

công nghiệp mới của thế kỷ XXI. Nếu Việt Nam muốn trở thành một nước

công nghệ hóa, thì cần phải đầu tư và phát triền nguồn nhân lực ở những

ngành khoa học ở thế kỷ mới.

Hiện nay, nền kinh tế tri thức đang mang lại những biến động cực kỳ to

lớn trong phát triển nguồn nhân lực. Hiện tại, ở nước ta, nguồn nhân lực đang

ở nhiều cấp độ, trình độ của các nước đã phát triển cao qua các cuộc cách

58

mạng công nghiệp lần thứ nhất, các cuộc công nghiệp lần thứ hai và trong

thời đại công nghệ thông tin. Chúng ta phải đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân

lực để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế tri thức theo đường

lối hội nhập mở cửa, tức là phải chú ý đến đội ngũ lao động, đại bộ phận là

nông nghiệp, đội ngũ lao động phục vụ cơ khí hoá lẫn tin học hoá có nghĩa là

chúng ta phải tập trung đào tạo một nguồn nhân lực cho cả ba nền kinh tế

công nghiệp, nông nghiệp và tri thức. Thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của trí tuệ và tri

thức, các sáng tạo khoa học công nghệ sẽ tác động mạnh mẽ đến toàn nhân

loại. Trong khi đó Việt Nam vẫn là nước nông nghiệp lạc hậu đất hẹp, người

đông, tài nguyên ít. Con đường để Việt Nam có thể đi lên cạnh tranh và hội

nhập là nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng thời người

lao động phải phát truyền thống và bản lĩnh dân tộc. Khâu đột phá quan trọng

nhất là phải cải tiến hệ thống giáo dục để đào tạo nhân lực phục vụ CNH,

HĐH.

2.2.3. Mở rộng hợp tác quốc tế với các trườ ng đại học , cao đẳng đã có uy tín trong giáo dục đào tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển giáo dục

đào tạo Việt Nam

Đại hội X của Đảng khẳng định “tăng cường hợp tác quốc tế về GD -

ĐT, từng bước xây dựng nền kinh tế hiện đại, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH

đất nước” [26, tr.209-210].

Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại, sự thịnh vượng của quốc gia lại

phụ thuộc mạnh mẽ và trực tiếp như vậy vào quy mô và chất lượng GD - ĐT,

đặc biệt là giáo dục đại học. Tuy nhiên, các nước phát triển đang đứng trước

nguy cơ tụt hậu xa hơn về GD - ĐT so với các nước phát triển. Từ năm 1998

đến năm 2001, nếu tỷ lệ nhập học thô ở đại học của các nước đang phát triển

chỉ tăng từ 10,2% lên 11,3% thì ở các nước phát triển tỷ lệ này tăng từ 45,6%

lên 54,6%. Đó là vì trong cuộc đua giáo dục hiện nay, các nước phát triển có

nhiều ưu thế hơn về điểm xuất phát, duy trì dân số ổn định và bảo đảm tiềm

59

lực kinh tế lớn cho giáo dục. Các nước phát triển cũng có động lực mạnh hơn

trong phát triển giáo dục hướng tới nền kinh tế tri thức.

Nếu quốc tế hóa giáo dục được coi như một lời đáp của cộng đồng đại

học trước các thách thức của toàn cầu hóa thì quốc tế hóa giáo dục phải có

nhiệm vụ góp phần rút ngắn khoảng cách tụt hậu nói trên. UNESCO hiện là

đầu mối gắn kết cộng đồng GD - ĐT thế giới trong việc thực hiện nhiệm vụ

trên với sáng kiến triển khai “Chương trình toàn cầu về hợp tác và phát triển

trong GD - ĐT”.

Cùng với quá trình đổi mới đất nước trong hơn hai mươi năm qua, GD -

ĐT Việt Nam đã có bước tiến quan trọng về quy mô, chất lượng, hiệu quả, góp

phần thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với GD - ĐT trong khu vực. Tiến trình đổi

mới GD - ĐT Việt Nam trong thời gian qua mang hai đặc trưng chủ yếu:

- Chuyển từ giáo dục phục vụ kinh tế kế hoạch hóa, tập trung sang giáo

dục vận hành trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Chuyển từ giáo dục khép kín sang giáo dục mở, chủ động hội nhập

quốc tế. Vì vậy, tổ chức và hoạt động GD - ĐT đã có sự thay đổi căn bản,

hướng tới sự đa dạng hóa, chuẩn hóa, hiện đại hóa và xã hội hóa. GD - ĐT

không còn bó hẹp trong việc thỏa mãn nhu cầu của các cơ quan và doanh

nghiệp nhà nước mà đã bước đầu đáp ứng nhu cầu rộng rãi của các thành

phần kinh tế và nhu cầu học tập của nhân dân. Từ đó, GD - ĐT không chỉ dựa

vào ngân sách nhà nước mà còn dựa vào các nguồn lực khác có thể huy động

được. Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc cung ứng GD - ĐT,

nhưng sự bao cấp hoàn toàn trước đây đã được thay thế bằng cơ chế chia sẻ

chi phí với việc đóng góp bằng học phí của người học. Các nhà cung ứng mới

trong GD - ĐT cũng đã xuất hiện, đó là các tổ chức, cá nhân đứng ra thành

lập các trường cao đẳng, đại học dân lập, tư thục.

Việt Nam cũng đã có những bước đi chủ động trong hội nhập giáo dục,

tiếp nhận giáo dục xuyên biên giới theo cả hai cơ chế: không lợi nhuận và có

60

lợi nhuận. Bên cạnh một số vấn đề nảy sinh liên quan chủ yếu đến công tác

quản lý các cơ sở giáo dục nước ngoài tại Việt Nam và quản lý lưu học sinh,

thành công nổi bật là tạo được sự đóng góp đáng kể của các phương thức

cung ứng đó cho sự phát triển của giáo dục Việt Nam.

Vấn đề đặt ra đối với GD - ĐT Việt Nam hiện nay là, bao giờ, như thế nào

và với điều kiện gì, Việt Nam sẽ có cam kết về tự do hóa thương mại dịch vụ

giáo dục. Để trả lời, Việt Nam có thể lựa chọn một kịch bản trung gian sau đó sẽ

tích cực thực thi những cam kết về tự do hoá thương mại dịch vụ giáo dục.

Giai đoạn chuẩn bị nhằm rà soát, hoàn thiện về luật pháp, chính sách và

con người để nâng cao hiệu lực bộ máy, năng lực quản lý và tiềm lực hệ

thống, đảm bảo thành công khi mở cửa. Đây cũng là giai đoạn làm rõ các đặc

trưng cần thiết của ngành GD - ĐT ở Việt Nam, sự can thiệp của nhà nước để

phát huy mặt tích cực của thị trường, giảm thiểu mặt tiêu cực, bảo đảm yêu

cầu công bằng xã hội trong giáo dục. Một thị trường như vậy không phải là

thị trường tự do như hoạt động kinh tế mà là thị trường gần đúng, một chuẩn

thị trường trong lĩnh vực dịch vụ công, trong đó các nhà cung ứng giáo dục

không theo đuổi lợi nhuận tối đa nhưng vẫn buộc phải cạnh tranh với nhau để

nâng cao chất lượng và hiệu quả, người học sẽ được nhiều cơ hội hơn trong

việc lựa chọn trường học. Chuẩn thị trường GD - ĐT chính là cơ chế tương

thích với thị trường kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.

Với tư cách là nước đi sau trong việc tự do hoá thương mại dịch vụ

giáo dục, Việt Nam phải chịu sức ép lớn hơn về cam kết trong lĩnh vực giáo

dục. Trên thực tế, khi đưa ra bản chào dịch vụ đa phương, mức cam kết của

Việt Nam về dịch vụ giáo dục là khá sâu và rộng đối với GD - ĐT, theo đó ta

mở cửa đối với hầu hết các lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật, nghiên

cứu và quản lý doanh nghiệp, kinh tế, kế toán, ngôn ngữ và luật quốc tế. Việt

Nam sẽ phải tiếp tục tham gia đàm phán ở góc độ kỹ thuật về việc mở cửa

dịch vụ giáo dục trong khuôn khổ vòng đàm phán Đô-ha. Vấn đề cần làm rõ

61

là mở cửa như thế nào và với những điều kiện gì.

Trước hết, về nguyên tắc, cũng giống như nhiều nước khác, Việt Nam

cần chính thức khẳng định giáo dục công lập không thuộc phạm vi điều chỉnh

của GATS (hiệp định chung về thương mại dịch vụ). Việc mở cửa sẽ chỉ thực

hiện trong khu vực giáo dục đại học tư thục. Như vậy GD - ĐT Việt Nam sẽ

tiếp tục tiến trình quốc tế hóa theo cả hai lôgic phi thương mại và thương mại.

Theo lôgic phi thương mại, GD - ĐT Việt Nam sẽ đẩy mạnh và phát huy lợi

thế đã có của hợp tác quốc tế, hội nhập sâu vào GD - ĐT thế giới trong khuôn

khổ của một không gian GD - ĐT và nghiên cứu khoa học thế giới theo định

hướng của UNESCO. Theo lôgic thương mại, khu vực GD - ĐT tư thục sẽ

được mở ra để chào đón các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là điều mà chúng ta

đã làm trước khi có GATS. Sự khác biệt khi tham gia GATS là phải tính đến

những rủi ro có thể nảy sinh khi phải tuân thủ các quy định của GATS trong

đó đáng quan tâm là quy tắc tối huệ quốc và quy tắc đối xử quốc gia.

Cần chú ý rằng, thị trường GD - ĐT Việt Nam được các nhà đầu tư

nước ngoài đánh giá là một thị trường giàu tiềm năng do hệ thống các trường

đại học Việt Nam hiện nay, cũng như trong thời gian trước mắt, hoàn toàn

không có đủ khả năng để đáp ứng yêu cầu đại chúng hóa và nâng cao chất

lượng GD - ĐT. Theo xu thế hiện nay, việc đầu tư xây dựng trường mới sẽ

không có nhiều, nhưng các cơ sở liên kết chắc chắn sẽ phát triển rất sôi động.

Vì vậy, sau khi thực hiện cam kết về GATS như nêu trên, bức tranh GD - ĐT

Việt Nam sẽ có biến động mạnh mẽ ở khu vực tư thục với sự ra đời của khá

nhiều cơ sở giáo dục nước ngoài, chủ yếu là các cơ sở giáo dục liên kết. Cục

diện cạnh tranh sẽ hình thành và phát triển. Thị trường GD - ĐT sẽ chuyển từ

tự phát sang tự giác với sự định hướng mạnh mẽ của nhà nước để bảo đảm đó

là một chuẩn thị trường.

Trong quá trình hội nhập quốc tế, giáo dục Việt Nam được tiếp cận với

những xu thế phát triển hiện đại, những kinh nghiệm tốt của giáo dục thế giới,

62

đẩy mạnh hợp tác trong quá trình phát triển giáo dục. Đồng thời có điều kiện

thu hút các nguồn lực phát triển giáo dục từ nước ngoài, đặc biệt là đầu tư lớn

hơn về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, hiện đại hoá điều kiện học tập và lực

lượng chuyên gia giáo dục, sinh viên Việt Nam có thể “du học tại chỗ”.

Tuy nhiên, hội nhập về GD - ĐT cũng gặp phải những khó khăn, thách

thức không nhỏ. Thách thức lớn nhất là làm sao chúng ta vừa thực hiện những

cam kết về giáo dục trong khuôn khổ của Hiệp định chung về thương mại,

dịch vụ (GATS), đồng thời vẫn bảo đảm giữ vững chủ quyền quốc gia, thực

hiện được các mục tiêu cơ bản về giáo dục. Hiện nay, chất lượng giáo dục

Việt Nam còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực trong bối

cảnh phát triển mạnh mẽ của việc gia nhập WTO; năng lực cạnh tranh của các

cơ sở giáo dục Việt Nam, nhất là các trường đại học và các cơ sở giáo dục

nghề nghiệp rất yếu, chưa đủ sức tham gia vào cuộc cạnh tranh giáo dục quốc

tế, chưa đủ sức thu hút nhiều du học sinh nước ngoài vào Việt Nam.

Xu hướng xuất khẩu giáo dục không lành mạnh từ các nước có nền

giáo dục phát triển xuất hiện trong những năm gần đây, đó là thách thức và rủi

ro rất lớn đối với giáo dục nước ta khi công tác quản lí hoạt động giáo dục

còn nhiều hạn chế, vấn đề liên kết đào tạo với nước ngoài chưa được quan

tâm quản lí chặt chẽ.

Các văn bản pháp luật trong lĩnh vực GD - ĐT chưa được rà soát cho

phù hợp với bối cảnh nước ta đã là thành viên của WTO. Việc tổ chức quản lí

lại phân tán, chồng chéo, đội ngũ cán bộ quản lí từ trung ương đến địa

phương, cơ sở vừa thiếu về số lượng, vừa chưa đủ khả năng quản lý chất

lượng giáo dục trong điều kiện cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Vấn đề

đảm bảo chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục là rất quan trọng,

nhưng đây lại là điểm yếu và còn mới mẻ đối với giáo dục nước ta.

Mục tiêu của hội nhập quốc tế về giáo dục là phải làm cho giáo dục

Việt Nam phát triển nhanh về số lượng, vững chắc hơn về chất lượng, đảm

63

bảo phục vụ yêu cầu phát triển đất nước, phục vụ mục tiêu chính trị cơ bản

của Đảng và nhân dân ta là giữ vững chủ quyền quốc gia, định hướng XHCN

“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; phát triển con

người toàn diện, có năng lực thích ứng với tình hình mới.

Khi hội nhập phải coi giáo dục là quyền và lợi ích cơ bản của nhân dân;

Nhà nước phải đảm bảo để mọi người dân có điều kiện học tập, có cơ hội để

phát triển, quan tâm đến nhân dân lao động, những người nghèo, phát huy

tính tích cực, chủ động, khả năng sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân

trong nước và đồng bào ta ở nước ngoài, tạo ra sự đồng thuận cao trong toàn

xã hội.

Cần phát huy tối đa nội lực, độc lập và chủ động trong quá trình hội

nhập giáo dục. Mở rộng hợp tác đi đôi với quản lí chặt chẽ. Tích cực chuẩn bị

tốt các điều kiện để tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, ngăn ngừa và hạn

chế rủi ro.

Cạnh tranh trong hội nhập quốc tế, xét đến cùng là cạnh tranh về GD -

ĐT, đây là cuộc đấu tranh gay go và phức tạp. Nắm vững các cam kết của

GATS, tham khảo kinh nghiệm của các nước, đồng thời căn cứ vào chủ

trương, chính sách phát triển giáo dục của Đảng và Nhà nước, làm rõ cái gì

phải tích cực khai thác, cái gì phải bảo vệ, cái gì cần ngăn chặn và phải có

chiến lược và các biện pháp rõ ràng, trong đó quan tâm đến các công cụ pháp

lý và công tác quản lý.

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò quản lý

của Nhà nước, quyền làm chủ của nhân dân trong tiến trình hội nhập giáo dục

quốc tế.

Có một số vấn đề lớn, cụ thể và khá cấp bách cần được quan tâm xem

xét. Đó là về “thị trường giáo dục”. Đây là vấn đề nhạy cảm không chỉ đối với

nước ta; nhiều nước khác cũng rất quan tâm, đã và đang có ý kiến khác nhau.

Có hay không có “thị trường giáo dục”, có nên “thị trường hóa giáo dục” hay

64

không, giải quyết vấn đề này ra sao sẽ có ảnh hưởng lớn đến phát triển giáo

dục nước ta hiện nay.

Về vấn đề này, quan điểm của cá nhân tôi cho rằng: cần khẳng định,

giáo dục là một lĩnh vực hoạt động đặc biệt nhằm bảo tồn và phát triển những

giá trị của xã hội, của dân tộc, đồng thời đưa lại những lợi ích cá nhân. Do đó

giáo dục trước hết là lợi ích công, mà mọi xã hội văn minh đều phải có trách

nhiệm đảm bảo; không thể xem giáo dục là dịch vụ thương mại như các lĩnh

vực dịch vụ hàng hoá thông thường, không thể có “thị trường giáo dục”;

không thể "thị trường hóa", "thương mại hóa" giáo dục một cách thuần tuý.

Cần thực hiện công bằng xã hội trong việc cung cấp dịch vụ giáo dục cho mọi

người, chú trọng đến người nghèo, đến vùng sâu, vùng xa và các dân tộc thiểu

số. Nhà nước luôn giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng phát triển giáo

dục, đảm bảo điều kiện hoạt động cho giáo dục, vừa tạo ra những động lực

tiềm tàng cho giáo dục phát triển đồng thời làm cho sự phát triển ấy bảo đảm

mục tiêu vì con người, vì xã hội.

Các hoạt động của những người làm công tác giáo dục là vì lợi ích của

người học và lợi ích của xã hội. Giá trị sử dụng của sản phẩm giáo dục là vì

người học, vì cộng đồng. Tuy nhiên cũng cần phải tính đến các yếu tố “cung

cầu”, “cạnh tranh”, “hiệu quả kinh tế” trong điều kiện kinh tế thị trường định

hướng XHCN, cần phải tổ chức hoạt động giáo dục cho phù hợp với cơ chế

thị trường, chúng ta có thể áp dụng các hình thức dịch vụ giáo dục với tư cách

là dịch vụ có điều kiện, đối với giáo dục phổ thong, đặc biệt là bộ phận giáo

dục cơ bản, tính chủ đạo của Nhà nước càng cần phải được đề cao; ở giáo dục

nghề nghiệp, cao đẳng, đại học, lợi ích cá nhân đan xen với lợi ích xã hội, có

thể mở rộng thực hiện dịch vụ công và các hình thức dịch vụ khác.

Để phát triển GD - ĐT trong quá trình hội nhập quốc tế và nhằm đạt

mục tiêu nước ta có một nền giáo dục tiên tiến, lành mạnh, mang đậm bản sắc

dân tộc, đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Hiện

65

tại nước ta đã có mối quan hệ liên kết đào tạo với khoảng 60 nước, 36 tổ chức

quốc tế; 200 chương trình liên kết đào tạo ở những mức độ khác nhau; việc

liên kết bước đầu có những chuyển biến tích cực, song cũng đã bộc lộ một số

hạn chế, bất cập.

* Các loại hình liên kết đào tạo

- Liên kết đào tạo trong khuôn khổ đàm phán, hợp tác song phương ở

cấp nhà nước.

+ Liên kết đào tạo bằng ngân sách của nhà nước.

Nhằm tăng cường lực lượng nòng cốt trẻ tuổi cho đội ngũ nghiên cứu

khoa học, công nghệ, phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, Đảng, Nhà nước ta đã

đầu tư kinh phí từ ngân sách để gửi ra nước ngoài đào tạo, chủ yếu là đào tạo

trình độ thạc sĩ, tiến sĩ, thực tập sinh (theo Đề án 322). Đối tượng du học theo

hình thức này là những người thuộc nguồn giảng viên, nghiên cứu viên trẻ

tuổi, có tiềm năng trở thành cốt cán, chuyên gia trong tương lai. Từ năm 2000

đến nay, mỗi năm có khoảng 400 người được tuyển đi du học. Ngoài việc

thực hiện Đề án 322, Bộ Giáo dục và Đào tạo còn có Đề án đào tạo 20000

tiến sĩ (từ nay đến 2020), trong đó dự kiến gửi ra nước ngoài khoảng 10000

người, số còn lại sẽ đào tạo trong nước.

+ Liên kết đào tạo bằng kinh phí viện trợ.

Tại các cuộc hội đàm cấp nhà nước giữa Việt Nam và một số nước có

nền giáo dục tiên tiến, Chính phủ ta đã đạt được thoả thuận và ký kết hiệp

định hợp tác trong lĩnh vực GD - ĐT. Kinh phí đào tạo từ nguồn “xử lý nợ với

Liên bang Nga” (khoảng 50 triệu USD, bắt đầu từ năm 2000), hoặc “quĩ phát

triển giáo dục Việt Nam - Hoa Kỳ” (5 triệu USD/năm, bắt đầu từ 2001 đến

2016). Bên cạnh đó còn có nguồn kinh phí do các tổ chức phi chính phủ viện

trợ, với điều kiện tuyển đối tượng đào tạo theo các tiêu chí mà tổ chức viện

trợ yêu cầu.

66

- Liên kết đào tạo trong khuôn khổ tự chủ, kí kết giữa các cơ sở đào tạo

của Việt Nam với các cơ sở đào tạo của nước ngoài.

Cả nước có khoảng gần 200 chương trình liên kết thì hình thức liên kết

này chiếm đa số (các chương trình liên kết trong khuôn khổ thoả thuận hợp

tác ở cấp chính phủ chỉ chiếm 50 chương trình). Theo phân cấp quản lý, các

trường đại học, các cơ sở đào tạo của Việt Nam được phép liên kết đào tạo

với các cơ sở đào tạo của nước ngoài. Hình thức liên kết này khá đa dạng và

phức tạp.

+ Có dạng hoàn toàn theo chương trình và qui trình của cơ sở nước

ngoài, do người nước ngoài giảng dạy, được cơ sở nước ngoài cấp bằng.

+ Có dạng vừa tiếp thu một phần chương trình hiện đại của nước ngoài,

vừa đưa thêm một phần chương trình cơ sở trong nước (chủ yếu liên quan đến

các môn lý luận chính trị), bằng do cả 2 bên liên kết cùng cấp, hoặc do phía

cơ sở của ta cấp.

Các chuyên ngành liên kết đào tạo chủ yếu thuộc lĩnh vực quản lý,

công nghệ, tin học; chương trình, giáo trình của nước ngoài, giảng dạy bằng

tiếng nước ngoài; tuy nhiên gần đây đã có những cơ sở giảng dạy hỗ trợ bằng

tiếng Việt.

- Liên kết do người dân tìm kiếm địa chỉ và chi trả kinh phí đào tạo.

Con đường tự túc du học ở nước ngoài hoặc trong nước đang trở thành

trào lưu với một bộ phận con em các gia đình có thu nhập cao (học phí vào

các trường này hoàn toàn vượt ngoài khả năng của các gia đình có mức thu

nhập trung bình và khá). Phạm vi liên kết của loại hình này chủ yếu tại các

thành phố lớn, đối tượng đi học bao gồm mầm non, tiểu học, trung học cơ sở,

trung học phổ thông, đại học, sau đại học. Hình thức liên kết này mang tính tự

phát, người học trực tiếp trả học phí theo qui định của cơ sở giáo dục và đào

tạo, một số ít được trợ cấp học bổng. Việc quản lý loại hình liên kết này hết

sức lỏng lẻo, hiện không do cơ quan, tổ chức nào trong hệ thống quản lý nhà

67

nước chịu trách nhiệm. Phần lớn những phụ huynh cho con em theo học các

cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam đều muốn trang bị tiếng

Anh làm công cụ để đi du học (nên bắt đầu tăng cường học tiếng Anh từ mầm

non).

Đến nay, việc thống kê số lượng học sinh, sinh viên học tập tại các cơ

sở nước ngoài (du học nước ngoài hoặc trong nước) gặp rất nhiều khó khăn,

chưa có cơ quan quản lý nào được giao theo dõi, nắm tình hình cụ thể.

Việc liên kết đào tạo theo con đường ngoại giao đã tạo ra những tiền

đề tốt trong quan hệ đối ngoại, nhất là hợp tác GD - ĐT giữa nước ta với các

nước có nền giáo dục tiên tiến, theo chủ trương mở rộng sự hợp tác đa

phương của Đảng, Nhà nước ta.

Mở ra cơ hội và góp phần tăng thêm một tỷ lệ đáng kể người Việt Nam

được tiếp cận với qui trình đào tạo tiên tiến của nước ngoài, qua đó góp phần

tạo ra sự chuyển biến về phương thức đào tạo, trước hết là tại những cơ sở có

liên kết của ta.

Giúp cho một bộ phận đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu tại những

cơ sở có liên kết đào tạo thuộc trường đại học, viện nghiên cứu của nước ta

được tiếp cận, bồi dưỡng với qui trình đào tạo tiên tiến; mặt khác còn tạo

nguồn lực lượng trẻ làm nòng cốt trong giảng dạy, nghiên cứu cho một số lĩnh

vực khoa học, công nghệ mà nước ta cần quan tâm phát triển.

Thúc đẩy việc đổi mới quản lý nhà nước đối với việc liên kết đào tạo,

trước hết là xây dựng, hoàn thiện các văn bản mang tính qui phạm, chế tài để

nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với lĩnh vực hợp tác, liên kết giáo dục

và đào tạo với nước ngoài.

Mở rộng hợp tác quốc tế về giáo dục, tranh thủ các dự án của các tổ

chức quốc tế và nước ngoài. Trong thời gian từ năm 2001 đến nay, chúng ta

đã đàm phán ký kết các thoả thuận công nhận tương đương bằng cấp giữa

Việt Nam với 10 nước trên thế giới. Chúng ta đã gia hạn và đàm phán ký mới

68

hiệp định hợp tác về giáo dục với nước ngoài. Trong 2 năm 2008 và 2009,

Việt Nam đã ký 31 Điều ước quốc tế và thoả thuận quốc tế về hợp tác trong

lĩnh vực GD - ĐT với các nước ở cấp chính phủ và cấp bộ (không kể cấp

trường).

Hiện nay, chúng ta đang mở rộng nhiều hình thức liên kết đào tạo với

nước ngoài, kết hợp với du học tại chỗ; đồng thời chúng ta còn chú trọng việc

quản lý các loại hình trường do nước ngoài đầu tư. Trong gần 10 năm, từ năm

2000 đến tháng 9 năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã cử 7.039 lưu học sinh

đi học nuớc ngoài bằng ngân sách nhà nước và Hiệp định (trong đó đi học tiến

sĩ là 2.029 người, thạc sĩ là 1.598 người, thực tập sinh là 626 người và đại học

là 2.786 người), bình quân một năm cử trên 700 lưu học sinh đi học nước

ngoài. Năm học 2008- 2009, cử trên 1.000 người đi học nước ngoài, trong đó

có trên 700 người học Tiến sĩ, thạc sĩ, thực tập sinh bằng nguồn ngân sách nhà

nước, không kể các nguồn khác. Riêng 10 tháng đầu năm 2009, đã gửi được

900 người đi học nước ngoài, trong đó có 585 người học sau đại học (330

người học tiến sĩ, 184 người đi học thạc sĩ và 71 thực tập sinh).

Hiện nay, có trên 30 trường đại học có chương trình hợp tác quốc tế có

hiệu quả, đã đạt được thoả thuận công nhận liên thông chương trình với các

trường đại học nước ngoài, theo đó, các trường đại học nước ngoài đã công

nhận những tín chỉ sinh viên Việt Nam tích luỹ trong quá trình học đại học ở

Việt Nam. Nhiều chương trình đại học 3+1 và 2+2 đã được ký kết. Ngày càng

có nhiều chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ phối hợp với nước ngoài có cả

giáo sư Việt Nam và giáo sư nước ngoài đồng hướng dẫn.

Việt Nam đã phối hợp với các đại học nước ngoài triển khai 23 chương

trình tiên tiến ở 17 trường đại học; với Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát

triển Châu Á để xây dựng các đại học xuất sắc theo chỉ đạo của Thủ tướng

Chính phủ. Từ năm 2008, đại học Việt - Đức đã đi vào hoạt động.

Trong những năm gần đây, sinh viên nước ngoài đến học tại các trường

69

đại học ở Việt Nam ngày một tăng. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, hiện

nay có gần 10.000 sinh viên nước ngoài đang theo học tại các trường đại học,

cao đẳng của Việt Nam. Ban đầu sinh viên nước ngoài đến Việt Nam học các

chương trình chuyên ngành bằng tiếng Anh.

Tuy nhiên, vấn đề hợp tác quốc tế, liên kết trong lĩnh vực GD - ĐT vẫn

còn có những hạn chế. Điều 20, Luật Giáo dục (2005) đã nêu “... Cấm lợi

dụng các hoạt động giáo dục vì mục đích vụ lợi”. Điều 107 của luật này cũng

khẳng định: “Nhà nước mở rộng, phát triển hợp tác quốc tế về giáo dục theo

nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng

có lợi”. Khi đàm phán vào WTO, cam kết của ta về “mở cửa” lĩnh vực giáo

dục là: chỉ cho phép các cơ sở nước ngoài liên kết đào tạo ở bậc đại học, cao

đẳng, giới hạn trong một số ngành tự nhiên, khoa học, công nghệ, ngoại ngữ,

công nghệ thông tin. Tuy nhiên, trong thực tế liên kết đào tạo, chúng ta cũng

đã có những sơ hở, để cho một số đối tác nước ngoài lợi dụng vì mục đích vụ

lợi, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người học.

Việc cấp phép hoạt động liên kết đào tạo hiện tại chưa có sự thống

nhất, ngoài Đề án 322, đề án 20.000 tiến sĩ do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản

lý, còn các loại hình liên kết khác lại do Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động

- Thương binh và Xã hội, thậm chí còn có cả những tổ chức phi chính phủ

tham gia vào việc tạo lập mối liên kết.

Liên kết tự phát giữa các cơ sở đào tạo trong nước với các cơ sở đào

tạo của nước ngoài rất khó quản lý chương trình, qui trình, địa điểm, thiết bị;

có những cơ sở dạy chương trình nước ngoài (do cơ sở nước ngoài cấp bằng,

nhưng lại giảng dạy bằng tiếng Việt); dẫn đến chất lượng đào tạo chưa đủ độ

tin cậy, chưa tương xứng với công sức, tiền bạc do người học chi trả.

Sự non kém trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm định chất lượng đã

không đủ khả năng ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, nên ngày càng gây bức

xúc cho xã hội, dư luận cho rằng “hình như Nhà nước thả nổi” việc liên kết

70

đào tạo (trong liên kết với nước ngoài và ngay cả liên kết trong nước với

nhau), làm gia tăng tình trạng “mua bằng, bán điểm”.

Để việc liên kết đào tạo đạt được những kết quả cao hơn, chúng ta cần

thực hiện một số vấn đề sau:

Tổng kiểm tra việc liên kết đào tạo với nước ngoài, kể cả giữa các cơ

sở trong nước với nhau; kiên quyết xử lý những cơ sở vi phạm Luật Giáo dục,

đi chệch chủ trương của Đảng, Nhà nước; rà soát lại các văn bản hiện hành,

bổ sung, xây dựng văn bản pháp qui mới, nhằm đảm bảo tính thống nhất, chặt

chẽ trong quản lý nhà nước đối với liên kết đào tạo.

Củng cố và nâng cao vai trò trách nhiệm của các đơn vị chức năng

được bộ chủ quản giao quản lý (nhất là Cục Đào tạo với nước ngoài, Cục hợp

tác quốc tế, Vụ Đại học và Sau đại học thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo).

Những đơn vị này cũng cần phải đẩy mạnh đổi mới công tác quản lý theo

hướng đề xuất, tham mưu cho lãnh đạo Bộ, Chính phủ về cơ chế quản lý, tăng

cường kiểm tra, giám sát, đánh giá đối với các cơ sở liên kết đào tạo. Mặt

khác, các đơn vị chức năng thuộc Bộ cũng phải xây dựng dữ liệu, cung cấp

thông tin tư vấn giúp cho phụ huynh, học sinh, sinh viên lựa chọn được cơ sở

đảm bảo uy tín, chất lượng trong liên kết đào tạo.

Các cấp uỷ đảng, chính quyền cấp tỉnh quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo các

ban, ngành thực hiện nghiêm túc việc liên kết giáo dục và đào tạo theo đúng

chức năng, quyền hạn và phân cấp quản lý, tránh những sơ hở trong liên kết,

tránh gây tổn hại đến tiền của và công sức của người học.

Các cơ sở đào tạo trên địa bàn các tỉnh/thành phố chấp hành nghiêm

những qui định của pháp luật, bám sát chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước, thực hiện liên kết đào tạo có hiệu quả, chất lượng, đảm bảo lợi ích cho

người học.

Việt Nam cần cải cách nền giáo dục không những chỉ giáo dục đại học,

cao đẳng mà còn cả trung và tiểu học. Để trong vòng 10 năm tới, tất cả học

71

sinh sau bậc trung học đều có khả năng và cơ hội để tiến thân trên đường học

vấn và học nghề. Lúc đó, văn bằng trung bình để vào thị trường nghề nghiệp

là có ít nhất từ 2 đến 4 năm đào tạo sau trung học.

Riêng về cải cách đại học, Nhà nước nên cải cách và chuyển hướng

những đại học đã có, dựa trên những phương pháp đã được áp dụng thành

công từ các nước trong vùng Đông Á như Hàn Quốc, Singapore, Trung Quốc

và đầu tư chất xám đến từ khắp mọi nơi, đặc biệt ưu tiên cho chuyên viên gốc

Việt. Nhà nước không nên vội vàng đào tạo 2 vạn tiến sĩ trong lúc này vì Việt

Nam chưa có năng lực để đào tạo những tiến sĩ thực sự, mà nên tranh thủ chất

xám của thế giới tham gia giảng dạy, nghiên cứu, hướng dẫn, tư vấn trong

giai đoạn đầu. Nhiệm vụ cấp bách hiện nay là đào tạo số kỹ sư, cán sự có

năng lực thực chất để đem những lý thuyết, phương pháp sẵn có của thế giới

ra ứng dụng vào đời sống.

Những viện, đại học đẳng cấp hay viện nghiên cứu tương lai nên đặt

trọng tâm vào nghiên cứu những ngành công nghệ mới mà nước ta muốn

hướng đến và những công nghệ hiện nay đang gặp khó khăn.

Những viện, đại học nên có những phân khoa liên hệ đến những công

nghệ chính của địa phương để cho tiện việc đi lại, hội họp, thăm quan cơ sở

và sinh viên thực tập.

Thành lập Chương trình Kỹ thuật hợp tác. Các vị lãnh đạo từ các ngành

công nghiệp cũng như từ nhóm giảng dạy ngồi lại cùng nhau để soạn thảo một

sự hợp tác, phác họa chương trình phát triển mới về những khía cạnh quan trọng

trong giáo dục kỹ thuật và nghiên cứu mà các ngành công nghiệp đang cần.

Áp dụng chương trình vừa học vừa làm (hay nghiên cứu), vào chương

trình học của các trường cao đẳng và đại học

Coi trọng vấn đề ngoại ngữ nhất là Anh văn để sinh viên có thể lấy

những môn dạy bằng ngoại ngữ, nghe và thuyết trình, làm thực tập với những

công ty ngoại quốc, v.v..

72

Nhà nước nên tuyển dụng những sinh viên xuất sắc để đưa đi học các

ngành liên hệ đến những công nghệ cần thiết tại các trường dẫn đầu trên thế

giới. Để bảo đảm sự trở về của các sinh viên đã thành đạt, Nhà nước nên ký

một hợp đồng trước khi gửi đi.

Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh

vẫn có nhiều triển vọng nhất, nếu có một sự cải tổ đúng đắn được ứng dụng,

để vào được danh sách tốp 500 của các viện, đại học và cao đẳng thế giới.

Thực chất những đại học Á châu đã được vào danh sách tốp 20 như Đại học

Bắc Kinh, Đại học Tokyo và Đại học Quốc gia Singapore là do truyền thống

xây dựng và trưởng thành từ xa xưa.

Khi đánh giá về 12 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương hai (khoá

VIII), Bộ Chính trị đã chỉ ra một trong 7 nhiệm vụ phải thực hiện đối với giáo

dục nước ta trong giai đoạn hiện nay là: “Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo

dục và đào tạo”. Do vậy, việc thúc đẩy liên kết đào tạo cũng phải được quan

tâm chỉ đạo, quản lý, nhằm mục tiêu đưa giáo dục nước ta tiếp cận nhanh hơn

với nền giáo dục tiên tiến, hiện đại trên thế giới, song không vì thế mà để mất

quyền tự chủ trong giáo dục nước nhà.

73

KẾT LUẬN

Sau hơn hai mươi năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, nước

ta đã thu được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa,

chính trị, xã hội. Nền kinh tế thị trườ ng định hướng XHCN đã được hình thành; theo đó, GD -ĐT cũng đã có những bước chuyển biến khá cơ bản.

Tuy nhiên, trong những năm tới để thực hiện thắng lợi mục tiêu mà Đảng

và nhân dân ta đề ra "thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa" thì không chỉ phát triển nền

, trí tuệ,

kinh tế thị trườ ng định hướng XHCN mà còn còn tập trung sức lực tài chính để phát triển GD -ĐT lên một số tầm cao mới. Đó là nhiệm vụ của

toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là những người hoạt động trong lĩnh vực GD

- DT. Bởi lẽ, họ sẽ là những chiến sĩ hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực này.

Vừa trực tiếp đào tạo và tự đào tạo để trở thành những trí thức có bản lĩnh

chính trị vững vàng, có tình yêu quê hương, đất nước sâu sắc; lại có tri thức

về nhiều lĩnh vực, họ sẽ cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc, cho nhân

dân. Nhiệm vụ rất nặng nề nhưng cũng rất vinh quang mà đất nước giao

cho họ là vừa rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức mới, vừa học tập tiếp

thu trình độ khoa học, công nghệ tiên tiến để làm lực lượng chủ yếu trên

lĩnh vực xây dựng và phát triển kinh tế, như những chiến thắng mà thế hệ

cha ông đã làm nên "Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù

nào".

Những năm qua, sự nghiệp giáo dục đào tạo đã được sự quan tâm chỉ

đạo kịp thời, thường xuyên của Đảng, Nhà nước và các cấp các ngành. Tuy

nhiên, công tác giáo dục - đào tạo ở nước ta nói chung vẫn còn hạn chế,

chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của đất nước, chưa phù hợp với thị

trường trong nước và quốc tế. Điều đó do nhiều ngyên nhân. Một mặt,

nước ta tuy có truyền thống học tập, con người thông minh sáng tạo nhưng

74

chúng ta trải qua nhiều khó khăn, thiếu thốn trong một thời gian dài đã tạo

nên một tính cách trì trệ cả trong quản lí, cả trong thực hiện, cả với người

học. Mặt khác, thị trường nước ta phát triển chậm, chưa đồng bộ, lại hiểu

sai mối quan hệ giữa GD -ĐT với thị trường nên làm cho GD - ĐT bị lợi

dụng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quy mô, hình thức, số lượng và

chất lượng của GD - ĐT. Thêm nữa, một số công ty nước ngoài mà chủ yếu

là cá nhân đội lốt kết hợp với một số cá nhân tham lợi trong nước đã phần

nào lũng đoạn GD - DT của nước ta. Tuy thế, trong những năm qua, những

tác động tích cực của tình hình kinh tế, chính trị trên thế giới và sự tác

động của mặt trái của nền kinh tế thị trường phát triển chưa hoàn thiện ở

nước ta đến công tác giáo dục đào tạo đã được được chúng ta nghiên cứu

và đưa ra giải pháp khắc phục. Do vậy, mà giáo dục - đào tạo đã có những

bước phát triển tích cực, bước đầu đã đào tạo được đội ngũ nhân lực chất

lượng cao, đáp ứng thị trường trong nước và quốc tế.

Từ thực tiễn của mối quan hệ giữa vấn đề giáo dục đào tạo với thị

trường ở nước ta hiện nay luận văn đã đưa ra một số giải pháp cơ bản để xây

dựng mối quan hệ này ngày càng có hiệu quả cao hơn. Đó là, kiên trì mu ̣c

tiêu, chức năng và lĩnh vực hoa ̣t đô ̣ng cơ bản của ngành giáo dục đào tạo

nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; lấy nhiệm vụ

đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội làm

mục tiêu trung tâm; mở rộng hợp tác quốc tế với các trườ ng đại học , cao đẳng đã có uy tín trong giáo dục đào tạo, phù hợp với mục tiêu phát triển giáo dục

đào tạo Việt Nam. Phát triển thị trường một cách đồng bộ nhưng không phải

thị trường hoá lĩnh vực GD - ĐT, cần chấm dứt việc liên kết với các công ty

giáo dục nước ngoài, hoặc gửi đi đào tạo những trường không đáng tin cậy

trong đào tạo của họ, hoặc thành lập các công ty GD - DT trong nước để giảm

thiểu rủi ro cho người học, giảm thiệt hại cho xã hội.

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Dương Nam Anh (Canađa), Giáo dục Việt Nam - Lựa chọn mô hình phù

hợp.

2. Nguyễn Đức Bách, Lê Văn Liêm, Nhị Lê (1998), Một số vấn đề định

hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb. Lao động, Hà Nội.

3. Ban Tuyên giáo Trung ương (2007), Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ sáu khoá X dành cho cán

bộ chủ chốt và báo cáo viên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Hoàng Chí Bảo (1998), “Giáo dục văn hóa lao động để nâng cao tay

nghề cho công nhân”, Tạp chí Dân vận, (6).

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và

Xã hội (25/8/1998), Thông tư số 53/1998/TT-LT/BGD&ĐT-BTC-BLĐ,

TB&XH hướng dẫn thực hiện chế độ học bổng và trợ cấp xã hội đối với

học sinh, sinh viên các trường đào tạo công lập.

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Đề án đổi mới giáo dục đại học Việt

Nam giai đoạn 2006 - 2020.

7. Nguyễn Trọng Chuẩn (1994), “Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa,

hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (2).

8. Nguyễn Trọng Chuẩn; Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (2002),

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam lí luận và thực tiễn, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà nội.

9. Nguyễn Trọng Chuẩn (2003), Để có nguồn lực cao nhằm đáp ứng nhu

cầu phát triển đất nước trong thế kỷ thứ XXI, Kỷ yếu hội thảo quốc tế,

Hà Nội.

10. Nguyễn Khắc Chương (2003), “Công tác giáo dục đại học, cao đẳng và

ngành nghề để phát triển nguồn nhân lực ở nước ta”, Tạp chí Lí luận

chính trị, (7).

11. Trần Quang Chiến (2004), Vai trò của tri thức trong việc phát triển chất

76

lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học.

12. Con đường đến năm 2015 - Hồ sơ của tương lai, Nxb. Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

13. Nguyễn Văn Cường (1998), Phát triển nguồn nhân lực để xóa đói giảm

nghèo, Tư liệu Viện Thông tin khoa học kỹ thuật.

14. Nguyễn Văn D ân (2008), Diện mạo và triển vọng của xã hội tri thức,

Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

15. Phạm Tất Dong (1994), “Suy nghĩ về đội ngũ trí thức nước ta”, Tạp chí

Cộng sản, (4).

16. Phạm Tất Dong (1995), Trí thức Việt Nam, thực tiễn và triển vọng, Hà Nội.

17. Nguyễn Hữu Dũng (1994), “Đổi mới chính sách tuyển dụng và sử dụng

khoa học học kỹ thuật trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở

Việt Nam”, Tạp chí Thông tin lý luận số, (11).

18. Nguyễn Hữu Dũng (2009), “Vấn đề phát triển nguồn nhân lực hiện nay

ở Việt Nam”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (253).

19. Đàm Hữu Đắc (2008), “Đổi mới đào tạo nghề, nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực cho đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (9).

20. Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm Đảm bảo chất lượng đào tạo và

nghiên cứu phát triển giáo dục (2005), Giáo dục đại học, Chất lượng và

đánh giá, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

21. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc

lần thứ V, tập 1, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

22. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh

tế xã hội đến năm 2000, Nxb. Sự Thật, Hà Nội.

23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

25. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

77

lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, khoá

X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Trần Đạt (1995), Kinh doanh trong nền kinh tế thế giới, Nxb. Khoa học và

Kĩ thuật, Hà Nội.

29. Đanien Ben-xai-đơ (1998), Mác - Người vượt trước thời đại, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

30. Đàm Hữu Đắc (2008), “Đổi mới đào tạo nghề, nâng cao chất lượng

nguồn nhân lực cho đất nước”, Tạp chí Cộng sản, (9).

31. Nguyễn Văn Điềm, Nguyễn Ngọc Quân (2004), Giáo trình Quản trị

nhân lực, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

32. Nguyễn Minh Đường (2004), Vấn đề đào tạo và bồi dưỡng lại các loại

hình lao động nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế,

xã hội trong điều kiện mới, Báo cáo tại hội nghị khoa học quốc tế

“Nghiên cứu con người, giáo dục, phát triển và thế kỉ XXI”.

33. Nguyễn Minh Đường (2006), Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu

của công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường,

toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

34. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục phát triển con người phục

vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

35. Phạm Minh Hạc (1997), Giáo dục nhân cách đào tạo nhân lực, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỉ

XXI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Phạm Minh Hạc (2001), Về phát triển toàn diện con người trong thời kì

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Phạm Minh Hạc (2006), “Đổi mới mạnh mẽ giáo dục nghề nghiệp và

78

phát triển nguồn nhân lực”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (7).

39. Phan Thế Hải (2001), Đặng Tiểu Bình nhà cải cách kinh tế hàng đầu thế

giới, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.

40. Mã Hồng (chủ biên - 1995), Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

41. Đặng Hữu (2004), Kinh tế thị trườ ng , thời cơ và thách thức đối với xã

hội Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

42. Đặng Hữu (2004), “Phát triển bền vững dựa trên tri thức”, Tạp chí Cộng

sản, (4).

43. Vũ Thành Hưởng (8/2005), “Một số vấn đề bức xúc trong việc gắn đào

tạo với sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và

Phát triển, (98).

44. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb. Sự thật, Hà Nội.

45. Maridon Juarenơ (1996), Sự đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ

XXI, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội.

46. Tery M. More (2005), Sơ lược về các trườ ng học Hoa Kỳ, Nxb. Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

47. Phạm Xuân Nam (chủ biên - 1997), Đổi mới chính sách xã hội - luận cứ

và giải pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

48. Trần Nhâm (chủ biên - 1997), Có một Việt Nam như thế - đổi mới và

phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

49. Nguyễn Nguyên (2001), Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa trong

thế giới toàn cầu hoá. Nxb. Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

50. Nguyễn Văn Oánh (1994), Định hướng xã hội chủ nghĩa: Nội dung cơ

bản và điều kiện chủ yếu thực hiện, luận án Phó tiến sĩ Triết học.

51. Paul A. Samuelson William A. Nordhaus (1997), Kinh tế học, Nxb.

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Philippe Lasserre - Joseph Putti (1996), Chiến lược quản lí và kinh

doanh (2 tập), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79

53. Vương Lạc Phu và Tưởng Nguyệt Thần (2000), Khoa học lãnh đạo hiện

đại, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

54. Dương Bá Phượng - Nguyễn Minh Khải (9/1998), “Kinh tế thị trường và

định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, (18), tr.27-31.

55. Lương Xuân Quý (chủ biên - 2001), Cơ cấu và thành phần kinh tế ở

nước ta hiện nay - Lý luận, thực tiễn và giải pháp, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

56. Tô Huy Rứa (1996), “Con đường về điều kiện đảm bảo định hướng xã

hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng sản, (6).

57. Đặng Kim Sơn (2004), Ba cơ chế thị trường, nhà nước và cộng đồng

ứng dụng cho Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Lê Hữu Tầng (chủ biên - 1997), Về động lực kinh tế - xã hội, Nxb. Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

59. Nguyễn Thanh (2005), Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Vũ Bá Thể (2005), Phát huy nguồn nhân lực con người, để công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.

61. Nguyễn Thị Thơm (2004), “Những khiếm khuyết của nền kinh tế thị

trườ ng”, Tạp chí Lí luận chính trị, (8).

62. Trung tâm Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực (2002), Từ chiến lược

phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực, Nxb. Giáo

dục, Hà Nội.

63. Trung tâm Thông tin và Tư vấn phát triển (2/2002), Tổng quan quy

hoạch phát triển kinh tế xã hội Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

64. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia - Viện Triết học

(11/2002), Một số vấn đề về triết học - con người - xã hội, Nxb. Khoa

học Xã hội, Hà Nội.

65. Vũ Huy Từ (Chủ biên) - Lê Chi Mai - Võ Kim Sơn (1998), Quản lí khu

80

vực công, Nxb. Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.

66. Chu Thượng Văn - Chu Cẩm Uý (1999), Chủ nghĩa xa hội là gì? Xây

dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào?, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

67. Vnn ngày 25 tháng 3 năm 2008 và một số tin trên Internet.

81