intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Bản sắc văn hoá Dao trong thơ Bàn Tài Đoàn

Chia sẻ: Lộ Lung | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:111

19
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu và chỉ ra những đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật của thơ Bàn Tài Đoàn, qua đó khẳng định bản sắc văn hoá Dao thấm đượm trong từng sáng tác của nhà thơ dân tộc Dao tiêu biểu này; khẳng định những đóng góp quan trọng của nhà thơ Bàn Tài Đoàn đối với thơ ca dân tộc Dao nói riêng, thơ ca dân tộc thiểu số nói chung trong suốt nửa thế kỷ qua... Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn: Bản sắc văn hoá Dao trong thơ Bàn Tài Đoàn

  1. ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM BÀN THỊ QUỲNH GIAO BẢN SẮC VĂN HOÁ DAO TRONG THƠ BÀN TÀI ĐOÀN Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60. 22. 34 LUẬN VĂN THỰC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Việt Trung Th¸i Nguyªn, n¨m 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 1 http://www.lrc-tnu.edu.v
  2. MỤC LỤC Trang Phần 1: MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Mục đích, đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3 3. Lịch sử vấn đề 4 4. Phương pháp nghiên cứu 7 5. Những đóng góp của luận văn 8 6. Cấu trúc của luận văn 8 Phần 2: NỘI DUNG 9 Chƣơng 1: Vài nét về bản sắc văn hoá dân tộc Dao và nhà thơ Bàn 9 Tài Đoàn 1.1. Về khái niệm bản sắc văn hoá và bản sắc văn hoá trong thơ 9 1.2. Vµi nÐt vÒ nhµ th¬ Dao - Bµn Tµi §oµn 24 Chƣơng 2: Thơ Bàn Tài Đoàn - Tiếng nói tâm hồn đích thực của 29 ngƣời Dao 2.1. Hình ảnh thiên nhiên, cuộc sống, con người miền núi trong thơ Bàn 29 Tài Đoàn 2.2. Những phong tục tập quán của người Dao - Niềm tự hào và nỗi lòng 49 đau đáu trong thơ Bàn Tài Đoàn Chƣơng 3: Một nghệ thuật thơ đậm bản sắc Dao 69 3.1. Một ngôn ngữ thơ đậm chất Dao 69 3.2. Vận dụng lối thơ cổ phong một cách phù hợp và sáng tạo 79 3.3. Thế giới hình tượng thơ độc đáo 86 Phần 3: Kết luận 98 Phần 4: Tài liệu tham khảo 101 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 2 http://www.lrc-tnu.edu.v
  3. PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Như chúng ta đã biết, hiện nay vấn đề nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam là một vấn đề mang tính cấp thiết và có tính thời sự. Bởi vì, nếu chúng ta thực hiện tốt được vấn đề này cũng có nghĩa là chúng ta đã từng bước khắc phục được sự bất bình đẳng trong việc nghiên cứu văn học của các dân tộc thiểu số so với văn học đa số (văn học của người Kinh) trong giai đoạn hiện nay. Khi nghiên cứu văn học của các dân tộc thiểu số Việt Nam chúng ta không thể không nghiên cứu những tác giả tiêu biểu đã có nhiều đóng góp lớn cho sự hình thành và phát triển của nền văn học các dân tộc thiểu số nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung. Khi nói đến nền văn học của các dân tộc thiểu số Việt Nam ở phía Bắc, chúng ta không thể bỏ qua những tên tuổi của một số nhà văn, nhà thơ lớn, là niềm tự hào của đồng bào các dân tộc thiểu số như các nhà văn, nhà thơ: Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Bàn Tài Đoàn, Vương Trung, Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn, Mai Liễu, Y Phương . . . Họ đã có những đóng góp đáng kể cho sự vận động, phát triển nền văn học của các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại; họ đã đưa tiếng nói tâm hồn của người dân tộc miền núi đến với đồng bào các dân tộc khác trên khắp mọi miền của đất nước Việt Nam. Bàn Tài Đoàn là một trong những nhà thơ lớn của đồng bào các dân tộc miền núi phía Bắc nói chung và là một nhà thơ tiêu biểu, xuất sắc của dân tộc Dao nói riêng. Ông là người có công lớn trong việc đặt nền móng cho thơ ca dân tộc Dao phát triển, đồng thời ông cũng là một nhà thơ dân tộc thiểu số rất tiêu biểu, có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam trong quá trình vận động và phát triển. Chính vì vậy, mà đã có khá nhiều người quan tâm đọc và nghiên cứu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 3 http://www.lrc-tnu.edu.v
  4. về thơ ca của ông. Ngày 10/12/2004 Hội văn học nghệ thuật tỉnh Cao Bằng đã mở một cuộc hội thảo về Nhà thơ Bàn Tài Đoàn cuộc đời và thơ văn. Hội thảo đã thu hút được rất nhiều những nhà nghiên cứu văn học, cũng đã có rất nhiều bản tham luận đánh giá rất cao về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của Bàn Tài Đoàn. Đã có một số bài viết, nghiên cứu tìm hiểu những thành tựu, đóng góp trong sáng tác của ông. Tuy nhiên cho đến nay, chúng tôi thấy vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, đầy đủ và có tính hệ thống, toàn diện về vấn đề Bản sắc dân tộc Dao trong các sáng tác thơ của ông. Và đây - theo chúng tôi - là một nét đặc trưng nhất trong thơ Bàn Tài Đoàn. Nét đặc trưng đó là nét phân biệt Bàn Tài Đoàn với các nhà thơ dân tộc thiểu số khác, và cũng chính là sự đóng góp đáng trân trọng nhất của nhà thơ Dao này đối với thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng, với nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. Do vậy, việc nghiên cứu và chỉ ra được những nét của bản sắc văn hoá Dao trong sáng tác của ông, cũng như việc khẳng định những đóng góp đáng kể của ông đối với sự phát triển của thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng và nền thơ ca Việt Nam hiện đại - là một việc làm rất cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn. Là một người con của dân tộc Dao, chúng tôi muốn được thể hiện tình cảm, yêu quí, kính trọng của mình đối với nhà thơ Dao tiêu biểu nhất của dân tộc mình. Và đồng thời, chúng tôi cũng muốn góp tiếng nói của mình vào việc khẳng định tài năng, cũng như những đóng góp quan trọng của nhà thơ Dao này trong đời sống thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Và nếu đề tài được triển khai thành công thì đây sẽ là một tài liệu tham khảo phục vụ cho việc giảng dạy văn học địa phương của tỉnh Cao Bằng nói riêng và giảng dạy về văn học miền núi nói chung trong các nhà trường phổ thông trung học và trung học cơ sở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam hiện nay. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 4 http://www.lrc-tnu.edu.v
  5. Chính vì các lý do trên, cộng với lòng kính yêu đối với nhà thơ Bàn Tài Đoàn chúng tôi đã lựa chọn vấn đề Bản sắc văn hoá Dao trong thơ Bàn Tài Đoàn làm đề tài luận văn của mình. 2 . Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 2.1. Mục đích Thực hiện đề tài này chúng tôi nhằm mục đích: - Tìm hiểu và chỉ ra những đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật của thơ Bàn Tài Đoàn, qua đó khẳng định bản sắc văn hoá Dao thấm đượm trong từng sáng tác của nhà thơ dân tộc Dao tiêu biểu này. - Khẳng định những đóng góp quan trọng của nhà thơ Bàn Tài Đoàn đối với thơ ca dân tộc Dao nói riêng, thơ ca dân tộc thiểu số nói chung trong suốt nửa thế kỷ qua. - Đây sẽ là một tài liệu quan trọng để phục vụ cho việc giảng dạy văn học địa phương trong các trường phổ thông ở tỉnh Cao Bằng nói riêng và khu vực miền núi phía Bắc nói chung. 2.2. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 2.2.1. Đối tƣợng nghiên cứu - Là toàn bộ sáng tác thơ ca của Bàn Tài Đoàn (nguyên bản tiếng Dao và bản dịch tiếng Kinh) 2.2.2. Phạm vi nghiên cứu Để phục vụ cho việc thực hiện đề tài chúng tôi sẽ tiến hành đọc và tham khảo các tài liệu sau đây: - Toàn bộ các sáng tác thơ của nhà thơ Bàn Tài Đoàn - Những bài viết, bài nghiên cứu về thơ Bàn Tài Đoàn và các nhà thơ Dao, các nhà thơ dân tộc thiểu số khác để có sự so sánh đối chiếu và chỉ ra những đặc điểm làm nên cái riêng trong thơ ông. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 5 http://www.lrc-tnu.edu.v
  6. - Một số tài liệu về lý luận, lý thuyết để phục vụ cho phần cơ sở lý luận của luận văn. 3. Lịch sử vấn đề Bàn Tài Đoàn là một nhà thơ dân tộc thiểu số lớn, được bạn đọc trên cả nước biết đến. Cả cuộc đời ông gắn bó với sự nghiệp thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Trong quá trình sáng tác ông đã xuất bản được 13 tập thơ, 3 cuốn văn xuôi, trong đó có một số bài thơ nổi tiếng đã được đưa vào sách giáo khoa trung học phổ thông và đại học. Ông là một trong những số ít các nhà thơ Dao đã kiên trì, thuỷ chung với công việc làm thơ phục vụ cho chính đồng bào dân tộc mình. Cho đến khi qua đời ông vẫn là một nhà thơ gắn bó máu thịt với đồng bào Dao, bởi thơ ông vẫn là những lời cho các bài hát mà người Dao yêu thích dùng để hát Páo dung trong các dịp hội hè lễ tết của dân tộc mình. Được như vậy bởi thơ của ông luôn mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Dao, nó là tiếng nói tâm hồn, tình cảm, là cách cảm, cách nghĩ, cách nói, cách diễn đạt của người Dao. Chúng ta có thể thấy chất Dao luôn thấm đượm trong các lời thơ, bài thơ, các tập thơ của ông. Chính vì vây, đã có nhiều người quan tâm đến việc nghiên cứu thơ ông như quan tâm đến một hiện tượng thơ ca dân tộc thiểu số đặc sắc. Đã có một cuộc hội thảo tại chính quê hương Cao Bằng của ông, thảo luận về những sáng tác của ông. Bên cạnh đó cũng có một số bài nghiên cứu về một số vấn đề trong thơ ông, nhưng mới ở dạng những bài báo nhỏ lẻ hoặc những nhận xét, đánh giá ngắn gọn về nội dung hoặc nghệ thuật trong thơ ông, cụ thể như trong một số bài tham luận tại hội thảo. Trong bài Bàn Tài Đoàn - Một kiểu thi sĩ của nền văn học mới tác giả Vũ Văn Sỹ, đã có nhận xét: “ Là nghệ sĩ trong đại gia đình các dân tộc cách nghĩ, cách làm của Bàn Tài Đoàn không chỉ bó hẹp trong gia đình, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 6 http://www.lrc-tnu.edu.v
  7. dòng họ, một vùng hay một nhóm dân tộc . . . Có thể gọi Bàn Tài Đoàn là một ca sĩ ngôn từ trữ tình của dân tộc Dao” [11,tr.871- 872]. Hay trong bài Thơ Bàn Tài Đoàn - Lời người Dao, đời người Dao PGS – TS Vũ Tuấn Anh lại cho rằng: “ Bàn Tài Đoàn đã chiếm được sự thích thú của không ít người, có lẽ trước hết ông đã đem vào trong thơ cách nói mộc mạc, chân thật, đôi khi ngộ nghĩnh mà thú vị của đồng bào dân tộc ông - một cách nghĩ, cách nói còn rất mới mẻ với thơ ca thời ấy. Người ta thích lối kể chuyện đậm đà kỹ lưỡng và chân thực của ông và cả những hình tượng thơ mà ông sử dụng một cách tự nhiên và độc đáo” [11,tr.799]. Tác giả Bàn Minh Đoàn khi viết bài Đọc và biên tập thơ Bó đuốc sáng cũng đã đưa ra nhận xét về thơ của Bàn Tài Đoàn “ Đọc thơ của Bàn Tài Đoàn, càng đọc càng thấy tình cảm nhiệt huyết, trong sáng với Cách mạng, với nhân dân với đồng bào dân tộc nói chung, đồng bào dân tộc Dao nói riêng. Thơ ông dung dị mộc mạc, đằm thắm, cảnh sắc thiên nhiên như ùa tràn, chất chứa” [11,tr.849]. Tiến sĩ Hà Công Tài khi tham gia hội thảo cũng đã đưa ra nhận định khá chính xác và tinh tế về thơ Bàn Tài Đoàn trong bài tham luận Truyền thống và sáng tạo trong thơ Bàn Tài Đoàn ông viết: “ Bàn Tài Đoàn đã học ở dân ca Dao lối ví von, so sánh. Dân ca của dân tộc Dao rất hay ví von và giàu hình ảnh. những hình ảnh thiên nhiên như mặt trời, mặt trăng, sao, mây, cây, cối, sông suối, thuyền bè, chim, hoa, măng…Trong thi ca của các dân tộc, chúng ta hay bắt gặp hình ảnh cây cỏ, hoa lá, chim muông. Nhưng trong thơ Bàn Tài Đoàn, những hình ảnh quen thuộc ấy vẫn có một nét riêng. Những hình ảnh do ông sáng tạo ra như mang theo hơi thở và nét tâm hồn của dân ca Dao” [11,tr.878]. Ngoài ra, chúng tôi còn khảo sát thấy một số bài viết trực tiếp hoặc trong các công trình nghiên cứu về thơ ca dân tộc Miền núi – có đề cập một cách gián tiếp về thơ Bàn Tài Đoàn. Ví dụ như, bài của tác giả Hồng Diệu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 7 http://www.lrc-tnu.edu.v
  8. in trong cuốn Nhà thơ Việt Nam hiện đại cũng đã đưa ra một nhận xét mang tính khái quát về thơ Bàn Tài Đoàn: “thơ Bàn Tài Đoàn thường mộc mạc, chất phác; chữ nghĩa, vần điệu có những khi trúc trắc, khó nhớ, khó thuộc. Thơ Bàn Tài Đoàn còn mang tính bản năng; nó cũng gần gũi với thiên nhiên, chim muông, cây cỏ; nó lại gắn chặt với lối nghĩ và cách nói của đồng bào dân tộc ít người” [23,tr.336]. Hoặc một số bài viết phác thảo chân dung nhà thơ ở dạng khái quát như bài: Tác phẩm lớn “cuộc đời” và sự nghiệp sáng tạo thơ văn của nhà thơ – nhà văn Bàn Tài Đoàn TS Hoàng Văn An đã nhận định “cuộc đời của cụ là một tác phẩm lớn” [11,tr.791]. Nhà giáo Lâm Tiến – nhà nghiên cứu văn học trong bài Cảm hứng lớn trong thơ Bàn Tài Đoàn viết: “Thực thà, thẳng thắn, trung thực, giản dị, mộc mạc, trong sáng, đó là phẩm chất vốn có của Bàn Tài Đoàn” [11,tr,894]. Trong đó, đã có một số bài viết cũng đã bàn về vấn đề bản sắc văn hoá Dao trong thơ của ông như bài: Thơ Bàn Tài Đoàn với tôi của tác giả Hữu Tiến với những lời nhận xét ngắn gọn nhưng chính xác về bản sắc văn hoá Dao trong thơ Bàn Tài Đoàn đó là: “ cái găm vào trí nhớ người đọc, cái lối diễn đạt lạ tai đó chính là: “ Chất Dao, chất thô mộc” trong thơ Bàn Tài Đoàn. Nhờ bám vào lối nói dân tộc Dao mà mà Bàn Tài Đoàn đã thiết lập được một hệ thống ngôn ngữ riêng độc đáo, nó riêng và độc đáo tới mức nếu ai cố tình bắt trước đều trở nên “lố bịch”. Từ những bài thơ đầu tiên và cả sau này chất Dao luôn luôn lấp lánh trong thơ ông” [11,tr.880-881]. Tác giả Ngô Lương Ngôn trong bài viết Đọc thơ Bàn Tài Đoàn, rút ra bài học về làm thơ cũng đã rút ra nhận xét rằng: “ Phải chăng Bàn Tài Đoàn đã vận dụng lối cảm, lối nghĩ của dân tộc mình vào thơ. Chính vì thế Bàn Tài Đoàn có được một lối thơ riêng đậm đà bản sắc dân tộc” [11,tr.866]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 8 http://www.lrc-tnu.edu.v
  9. Qua những ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà văn, nhà nghiên cứu về thơ Bàn Tài Đoàn, chúng tôi thấy có một điểm chung, một sự khẳng định là: Nhà thơ Bàn Tài Đoàn đã có rất nhiều những đóng góp cho nền văn học các dân tộc thiểu số nói riêng và cho nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung; những sáng tác của nhà thơ Bàn Tài Đoàn đã góp phần tạo nên một nét đặc trưng riêng của nhà thơ dân tộc thiểu số mà rất khó có ai có thể bắt chước được. Tuy nhiên, hầu như tất cả những bài viết trên mới chỉ dừng lại ở mức giới thiệu, điểm qua hoặc chỉ ra một vài nét tiểu biểu về nội dung, nghệ thuật trong một số bài thơ, tập thơ của nhà thơ Bàn Tài Đoàn trong đó có một số ý kiến đã nhấn mạnh đến nét bản sắc Dao trong thơ ông. Nhưng có thể nói, cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu mang tính qui mô, hệ thống, vừa có tính khái quát, vừa có tính cụ thể về vấn đề Bản sắc văn hoá Dao trong thơ Bàn Tài Đoàn. Do đó, chúng tôi đã lựa chọn vấn đề này để làm đề tài nghiên cứu của mình, với hy vọng sẽ tiến hành nghiên cứu sâu hơn, toàn diện hơn về Bản sắc văn hoá Dao trong thơ Bàn Tài Đoàn. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này chúng tôi sẽ sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hoá học và văn học) - Phương pháp phân tích, khái quát, tổng hợp - Phương pháp so sánh và một số phương pháp nghiên cứu khác 5. Những đóng góp của luận văn - Nghiên cứu Bản sắc văn hoá Dao trong thơ Bàn Tài Đoàn chúng tôi hy vọng sẽ đem lại một cái nhìn tương đối hệ thống và toàn diện về những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật trong các sáng tác thơ ca của tác giả thơ người dân tộc Dao này. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 9 http://www.lrc-tnu.edu.v
  10. - Phân tích và khẳng định những nét đặc sắc trong thơ của Bàn Tài Đoàn và những đóng góp của ông đối với nền thơ ca dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng, thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm có ba chương: Chương 1: Vài nét về bản sắc văn hoá dân tộc Dao và nhà thơ Dao Bàn Tài Đoàn Chương 2: Bàn Tài Đoàn - Tiếng nói tâm hồn đích thực của người Dao Chương 3: Một nghệ thuật thơ đậm bản sắc Dao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 10 http://www.lrc-tnu.edu.v
  11. PHẦN II: NỘI DUNG CHƢƠNG 1 VÀI NÉT VỀ BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC DAO VÀ NHÀ THƠ BÀN TÀI ĐOÀN 1.1. Về khái niệm bản sắc văn hoá và bản sắc văn hoá trong thơ 1.1.1. Vài nét về khái niệm về bản sắc văn hoá Nghiên cứu về bản sắc văn hoá trong văn học không thể không nói đến khái niệm văn hoá. Hiện nay như chúng ta biết đã có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về văn hoá ( Người ta đã dẫn ra tới hơn 400 định nghĩa về khái niệm này). Chúng tôi chỉ xin đưa ra một số định nghĩa – mà theo chúng tôi là khá đầy đủ và có thể căn cứ vào đó để áp dụng trong quá trình nghiên cứu vào một trường hợp thơ cụ thể này. UNESCO đã định nghĩa về bản sắc văn hoá như sau: “ Văn hoá là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và vật chất, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng” [ 32, tr. 1153]. P.GS, viện sĩ Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam đã khẳng định: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội” [41,tr.10]. Trong cuốn Tìm hiểu đặc trưng văn hoá – dân tộc của ngôn ngữ và tư duy của người Việt (Trong sự so sánh với dân tộc khác) tác giả Nguyễn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 11 http://www.lrc-tnu.edu.v
  12. Đức Tồn cũng cho rằng văn hoá gồm có bốn thành tố cơ bản như: “Văn hoá nhận thức, văn hoá tổ chức cộng đồng, văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên và văn hoá ứng xử với môi trường xã hội” [43,tr.40] Có thể thấy, khái niệm văn hoá mang rất nhiều nghĩa. Trong tiếng Việt thì văn hoá có nghĩa là trình độ văn hoá, nếp sống văn hoá. Nó cũng còn được dùng để chỉ trình độ phát triển của một giai đoạn nào đó trong lịch sử theo nghĩa chuyên biệt, nhưng theo nghĩa rộng thì văn hoá bao gồm tất cả những gì thuộc về tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống . . .những giá trị về tinh thần trong cuộc sống hiện đại . Vậy còn khái niệm bản sắc văn hoá - một khái niệm mang tính công cụ trong công trình nghiên cứu của chúng tôi - sẽ được hiểu như thế nào? Trong cuốn Bách khoa toàn thư (của Liên Xô) khi bàn về bản sắc văn hoá các nhà nghiên cứu đã chỉ rõ “ Mỗi dân tộc có đặc tính của mình, chỉ riêng mình mới có, còn các dân tộc khác thì không có” [36,tr.7-8]. Vì vậy, khi nói đến văn hoá là người ta nghĩ ngay đến tính chất ổn định, bất biến của nó trong đời sống của con người, trong quá trình phát triển của lịch sử, tuy nhiên nó cũng chỉ mang tính tương đối cố định. Mỗi một dân tộc, một quốc gia trên thế giới đều chứa đựng trong nó những yếu tố văn hoá riêng, chính những yếu tố riêng ấy đã tạo ra những nền văn hoá riêng của dân tộc đó, quốc gia đó. Trong quá trình giao lưu văn hoá giữa các dân tộc, các quốc gia trên thế giới chúng ta thấy một điều đó là: giữa các nền văn hoá đó mặc dù có những điểm riêng, song giữa chúng có nhiều điểm tương đồng. Nhà thơ Nông Quốc Chấn khi nghiên cứu về vấn đề bản sắc văn hoá cũng đã có những nhận định khá rõ về vấn đề này: “ Bản sắc văn hoá Việt Nam bao gồm nhiều nét đặc trưng. Có nét chung trong văn hoá người Việt (còn gọi là người Kinh), có những nét riêng trong văn hoá các dân tộc thiểu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 12 http://www.lrc-tnu.edu.v
  13. số. Những nét ấy biểu hiện trong cách lao động, cách sống, cách kiến trúc, nhà cửa, cách ứng xử giữa người với người…những nét riêng ấy không mâu thuẫn với nét chung; nó đang có sự hài hoà” [17,tr.52]. Giáo sư Phan Ngọc cũng đã đưa ra một khái niệm tương đối đầy đủ về văn hoá và bản sắc văn hoá dân tộc: “Nói tới bản sắc văn hoá tức là nói đến cái mặt bất biến của văn hoá trong quá trình phát triển của lịch sử” [26,tr.49]. Có thể thấy văn hoá và bản sắc văn hoá vốn đã được định hình một cách khá bền vững. Tuy nhiên, chúng ta cũng hiểu rằng tính bền vững đó chỉ mang tính chất tương đối mà thôi. Mỗi một quốc gia, mỗi một dân tộc, đều có văn hoá riêng và thể hiện bản sắc văn hoá của dân tộc mình, bởi chúng ta thấy không một quốc gia, một dân tộc nào lại mang trên mình một nền văn hoá chung chung, hoặc nền văn hoá lai căng pha trộn của các dân tộc, quốc gia khác nhau trên thế giới, bởi nền văn hoá ấy phải gắn liền với sự hình thành và phát triển của một dân tộc, một quốc gia. Những nét đặc trưng văn hoá ấy được biểu hiện rất khác nhau, nhưng nó là ngôn ngữ dân tộc, bởi nó là phương tiện để thơ ca phản ánh văn hoá và bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Như vậy, bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam “là cái biểu hiện tập trung diện mạo dân tộc, cái để nhận diện một dân tộc” [32,tr.1159]. Trong cuốn Giáo trình lý luận văn học đã nhận định: “Mường, Mán, Tày, Nùng, Ê đê, Gia rai…Các tộc người này cũng có văn hoá, tiếng nói riêng, giàu bản sắc” [18,tr.73]. Như vậy, có thể thấy bên cạnh cái chung thì bản sắc văn hoá dân tộc thiểu số lại có những đặc điểm riêng, đặc điểm riêng ấy là do môi trường tự nhiên, xã hội đem đến cho các dân tộc thiểu số Việt Nam. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 13 http://www.lrc-tnu.edu.v
  14. Khi nói tới bản sắc văn hoá dân tộc là nói đến “Hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo là tiếng nói dân tộc, là tâm lý, nếp tư duy, là phong tục tập quán, là hình thức nghệ thuật truyền thống” [32,tr.1160]. Có thể nói, bản sắc dân tộc vừa là cái chung (của dân tộc) vừa là cái riêng (sự sáng tạo của người nghệ sĩ) thông qua ý thức dân tộc nên nó mang đậm màu sắc dân tộc và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ. Vì vậy, khi đi nghiên cứu bản sắc văn hoá của các dân tộc Việt Nam là chúng ta phải đi nghiên cứu những cái biểu hiện cụ thể tập trung miêu tả diện mạo của dân tộc để từ đó nhận diện ra được cái tiêu biểu nhất của dân tộc đó. Tuy vậy, bên cạnh những cái chung đó thì mỗi dân tộc thiểu số Việt Nam lại có những đặc điểm riêng tạo nên sự đa dạng hoá về văn hoá cho các dân tộc Việt. Các dân tộc ở Việt Nam, mặc dù mỗi một dân tộc có một nguồn gốc lịch sử khác nhau, tiếng nói, chữ viết, phong tục, tập quán, trình độ phát triển xã hội không đồng đều nhưng trong quá trình chung sống, tiếp xúc lâu dài với nhau họ đã tạo ra được những đặc điểm chung về văn hoá thống nhất, tồn tại bên cạnh những đặc điểm riêng của từng dân tộc. Những nét đặc trưng về văn hoá ấy được biểu hiện rất khác nhau ở mỗi một tộc người, nhưng trước hết là ngôn ngữ dân tộc, là các phong tục tập quán, là môi trường sống và lối sống của mỗi một dân tộc. Vậy qua những tìm hiểu về văn hoá và bản sắc văn hoá đã nêu ở trên, chúng ta thấy rằng bản sắc văn hoá không phải là một vấn đề chung chung trừu tượng mà nó chính là cách để thể hiện tâm hồn, thể hiện tính cách của mỗi một dân tộc qua cách cảm nhận, cách suy nghĩ, cách nói, cách viết của riêng mỗi nhà văn, đồng thời các nhà văn cũng luôn cố gắng thể hiện một cách sáng tạo những truyền thống văn hoá của chính dân tộc mình. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 14 http://www.lrc-tnu.edu.v
  15. 1.1.2. Bản sắc văn hoá trong văn học nói chung, trong thơ ca nói riêng Khi nghiên cứu về bản sắc văn hoá trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng các nhà nghiên cứu văn học đều có chung một nhận định là: Bản sắc dân tộc được biểu hiện ở đề tài, chủ đề và phương thức biểu hiện của tác phẩm. Trước hết bản sắc văn hoá “Được thể hiện ở đề tài, chủ đề của tác phẩm văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng”[16, tr259]. Như chúng ta đã biết “Đề tài là khái niệm chỉ các loại hiện tượng đời sống được miêu tả, phản ánh trực tiếp trong sáng tác văn học. Đề tài là phương diện khách quan của nội dung tác phẩm” [16,tr.259] còn “chủ đề là vấn đề trung tâm mà tác giả nêu lên, đặt ra nội dung cụ thể của tác phẩm văn học”(36,Tr.262). Như vậy, chúng ta thấy chủ đề và đề tài là vấn đề cốt lõi của của một tác phẩm, đồng thời tự bản thân nó phần nào đã thể hiện được cá tính sáng tạo, chiều sâu tư tưởng, khả năng nhận biết và nắm bắt cuộc sống của nhà văn. Bởi vậy, mỗi tác Văn học ra đời đều là tiếng nói riêng của tác giả. Tiếng nói ấy nó được cất lên từ những biểu hiện cụ thể trong đời sống vật chất, đời sống tinh thần. Có bao nhiêu hiện tượng trong đời sống tự nhiên thì có bấy nhiêu đề tài được phản ánh trong văn học. Nhưng ở mỗi một đề tài thì mỗi nhà văn lại có cách nhìn, cách phản ánh khác nhau. Chẳng hạn, cùng về đề tài thân phận người phụ nữ trong xã hội cũ những mỗi một nhà thơ lại có cách thể hiện khác nhau, trong thơ Hồ Xuân Hương đó là tiếng nói đòi quyền được hưởng cuộc sống hạnh phúc riêng tư của người phụ nữ trong xã hội cũ, song trong thơ Nguyễn Du là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến đã chà đạp lên thân phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ. Tuy nhiên bản sắc văn hoá dân tộc không phải chỉ được thể hiện trong đề tài dân tộc, cái quyết định là chủ đề tác phẩm. Có thể khi chủ thể sáng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 15 http://www.lrc-tnu.edu.v
  16. tác chọn đề tài sáng tác về dân tộc khác nhưng vẫn thể hiện được bản sắc của dân tộc mình, bởi anh ta đã thổi vào đó cái hồn, cái cốt cách của dân tộc mình. Vì thế, bản sắc văn hoá chính là kết tinh trong tâm hồn tính cách của tác giả. Khi sáng tác Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dựa vào cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc, nhân vật, sự việc, không gian, thời gian là của đất nước Trung Quốc nhưng người đọc vẫn nhận ra bản sắc dân tộc Việt Nam được thể hiện trong Truyện Kiều đó là truyền thống văn hoá, tâm hồn dân tộc Việt Nam. Khi đọc Truyện Kiều người đọc hiểu thêm về truyền thống, tâm lí, tư duy của dân tộc mình. Vì thế, người đọc nhận thấy bản sắc dân tộc ở đây được kết tinh trong tâm hồn tính cách dân tộc của tác giả. Nói đến bản sắc dân tộc là nói đến con người, nếp sống, nếp sinh hoạt của cộng đồng dân tộc. Bởi tính cách, tâm hồn dân tộc được biểu hiện qua hoàn cảnh lịch sử cụ thể, qua tính cách điển hình của nhân vật mà hoàn cảnh lịch sử, nhân vật điển hình là sự kết tinh của bản sắc dân tộc. Hình tượng người phụ nữ là một hình tượng điển hình trong thơ ca Việt Nam nhưng hình tượng người phụ nữ trong thơ Tố Hữu khác với hình tượng người phụ nữ trong thơ Bàn Tài Đoàn, lại càng khác với hình tượng người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh. Những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của những người phụ nữ trong từng thời kỳ có tính lịch sử cụ thể vì bản sắc dân tộc không phải là một phạm trù bất biến. Bên cạnh, việc thể hiện chủ đề, đề tài của tác phẩm bản sắc văn hoá còn được biểu hiện ở hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Trước hết là việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc để sáng tác, sau nữa là việc vận dụng hệ thống kết cấu và thể loại truyền thống của dân tộc mình. Một số nhà thơ, nhà văn dân tộc thiểu số khi sáng tác văn thơ đã sử dụng, vận dụng thành thạo ngôn ngữ của dân tộc mình. Bởi ngôn ngữ là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 16 http://www.lrc-tnu.edu.v
  17. công cụ biểu hiện trực tiếp nhất, sâu sắc nhất tâm hồn của mỗi một dân tộc. Việc sử dụng thành thạo ngôn ngữ của dân tộc mình giúp cho nhà văn diễn đạt được cái hồn của dân tộc mình vào các sáng tác. Thông qua những sáng tác đó, họ đã truyền đến cho người đọc những tư tưởng, tình cảm, của dân tộc mình; những ao ước, khát vọng của con người. Nhà thơ Bàn Tài Đoàn là một trong số những nhà thơ dân tộc thiểu số sử dụng thành thạo ngôn ngữ của dân tộc mình để sáng tác thơ. Chính vì vậy, thông qua những tác phẩm của mình, ông đã tuyên truyền được đường lối của Đảng, Bác Hồ tới đồng bào Dao. Tuy nhiên, việc thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc không phải chỉ được biểu hiện ở mặt ngôn ngữ. Bên cạnh việc sử dụng tiếng mẹ đẻ để sáng tác, các nhà thơ, nhà văn còn vận dụng, khai thác triệt để hệ thống thể loại truyền thống của dân tộc mình. Với nhà thơ Bàn Tài Đoàn, ông đã vận dụng và khai thác triệt để thể thơ cổ phong (lối thơ 7 chữ) truyền thống trong dân ca Dao, cũng như thể thơ, lối kết cấu trong trường ca Bàn Hộ của dân tộc mình vào việc sáng tác thơ. Kết cấu trong thơ, văn thường được ảnh hưởng sâu sắc khuynh hướng thẩm mỹ truyền thống của dân tộc. Trong những câu truyện dân gian chúng ta bắt gặp lối kết cấu mở, kết cấu có hậu. Lối kết cấu đó vẫn được các nhà văn, nhà thơ kế thừa và phát huy qua các thời kỳ văn học. Chẳng hạn như một số tác phẩm văn học thời kỳ trung đại như: Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu …Trong những tác phẩm đó đã kế thừa lối kết cấu mở trong văn học dân gian, thông qua lối kết cấu đó tác giả đã thể hiện được tinh thần lạc quan, sự tin tưởng vào chân lý của nhân dân “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác” trong những sáng tác của mình. Có thể nói, sự thành công trong sáng tác nghệ thuật được xuất phát từ cơ sở văn hoá truyền thống của dân tộc mình. Văn hoá truyền thống ấy đã Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 17 http://www.lrc-tnu.edu.v
  18. có sự tác động sâu sắc đến nội dung sáng tác, phương thức biểu đạt của nhà văn, nhà thơ. Bản sắc văn hoá ấy đã được các chủ thể sáng tác gìn giữ và phát huy trong từng sáng tác của mình. 1.1.3. Bản sắc văn hoá trong thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam Việt Nam có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc đều có nét riêng về hoàn cảnh sống, phong tục tập quán, chính những nét riêng đó đã tạo ra một vườn hoa rực rỡ đầy màu sắc về bản sắc văn hoá. Trong các sáng tác thơ ca của dân tộc thiểu số chủ thể sáng tác là người dân tộc thiểu số nên thể hiện được tâm hồn, tính cách của dân tộc qua cách cảm nhận, cách suy nghĩ của nhà thơ. Nhà thơ luôn mô tả thế giới qua cái nhìn dân tộc mình, do đó hình thành nên bản sắc dân tộc trong thơ. Bản sắc dân tộc được thể hiện trong thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam qua nhiều phương diện, đầu tiên được thể hiện qua chủ thể sáng tác. Nhà thơ là người dân tộc thiểu số nên trước hết đó phải là người con của dân tộc, anh ta được sinh ra và lớn lên trong lòng dân tộc, có cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn nhận, đánh giá thể hiện được rõ truyền thống văn hoá của dân tộc mình và nói lên tiếng nói, tâm tư, nguyện vọng của chính dân tộc mình. Đa số các nhà văn, nhà thơ đều là những người con, người em của chính dân tộc mình, họ sinh ra và lớn lên trên chính quê hương của mình, nên họ là những người vô cùng am hiểu về cuộc sống, thiên nhiên, con người, về phong tục tập quán của dân tộc mình. Vì vây, khi sáng tác các nhà văn, nhà thơ đã đưa vào sáng tác của mình những nét đặc trưng tiêu biểu nhất về bản sắc văn hoá của chính dân tộc mình. Tiếng nói của họ thể hiện trong các sáng tác của mình chính là tiếng nói của dân tộc. Anh ta mang cái nhìn, cách cảm, cách nghĩ của dân tộc mình vào việc phản ánh thế giới khách quan nên dù viết về dân tộc mình hay viết về một dân tộc khác thì trong những sáng tác của anh ta vẫn mang đậm bản sắc dân tộc. Chẳng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 18 http://www.lrc-tnu.edu.v
  19. hạn, hình tượng Bác Hồ là nguồn cảm hứng dồi dào trong sáng tác của các nhà thơ, song mỗi nhà thơ lại có một cách thể hiện khác nhau. Trong thơ Chế Lan Viên, Bác đã hoá thân thành sức mạnh, thành hướng đi, hướng phấn đấu của những người dân Việt Nam yêu nước. Còn trong thơ Bàn Tài Đoàn Bác Hồ hiện lên giản dị, gần gũi như một già bản những vẫn thể hiện được sự vĩ đại của một vị lãnh tụ kính yêu. Có thể nói, bản sắc văn hoá dân tộc trước hết được thể hiện ở chủ thể sáng tạo. Nhà thơ (chủ thể sáng tạo) phải là người dân tộc có cách nhìn, lối suy nghĩ thấm đẫm tư tưởng, truyền thống văn hoá của dân tộc mình và chủ thể sáng tạo phải là người nói thay, nói hộ tiếng nói của chính dân tộc mình. Bên cạnh đó, bản sắc dân tộc còn được thể hiện qua đối tượng phản ánh. Đó là đề tài, chủ đề được nhà thơ nhận thức, khám phá từ những đặc điểm tự nhiên, truyền thống văn hoá, nếp sống, cách ăn mặc . . . của dân tộc mình và được thể hiện rõ trong sáng tác của nhà thơ. Đối tượng phản ánh là vô cùng phong phú và đa dạng nhưng cho dù đa dạng và phong phú đến đâu thì tất cả đều phải gắn với đời sống, sinh hoạt của dân tộc. Trước hết, đối tượng phản ánh là môi trường tự nhiên và xã hội - nơi nhà thơ sinh ra và lớn lên, cái gốc quê hương đó bao giờ cũng gắn bó và nó có ảnh hưởng vô cùng sâu sắc đến tư duy và sự sáng tạo của nhà thơ. Các nhà thơ miền núi ngay từ khi sinh ra họ đã gắn bó thân thiết với núi rừng, với sông suối, chim muông, cỏ cây hoa lá, những mảnh ruộng bậc thang, những chiếc cối giã gạo nước, hay những chiếc cọn đưa nước vào ruộng . . . Vì vây, những hình ảnh đó chúng ta thường thấy xuất hiện trong các bài thơ của các nhà thơ miền núi, bởi đó chính là sự phản ánh môi trường tự nhiên xã hội vào trong thơ. Đối tượng phản ánh là những sinh hoạt văn hoá của dân tộc. Những nét sinh hoạt văn hoá của dân tộc phải được biểu hiện cụ thể trong tác phẩm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 19 http://www.lrc-tnu.edu.v
  20. thì mới có thể hiểu được đặc điểm cơ bản của văn hoá dân tộc. Nét sinh hoạt của cộng đồng người là cơ sở để tạo nên bản sắc dân tộc. Cộng đồng các dân tộc thiểu số luôn sống hoà mình vào thiên nhiên, hoà mình vào những lễ hội truyền thống của dân tộc mình, những sinh hoạt văn hoá đó đã ăn sâu vào trong tâm thức của nhà thơ, thôi thúc nhà thơ sáng tạo. Những lễ hội truyền thống, những phong tục tập quán luôn kết tinh trong nó truyền thống văn hoá của dân tộc. Vào những ngày đầu năm đồng bào các dân tộc Việt Bắc nói chung và người Dao nói riêng có những trò chơi văn hoá đặc sắc như: tung còn, hát then, hát, Páo dung, nhảy lửa . . . Đây là một nét văn hoá thể hiện sâu sâu sắc cái hồn dân tộc. Nét văn hoá ấy nó đi vào thơ ca dân tộc một cách tự nhiên và đã nói lên được đời sống tinh thần phong phú của họ. Đối tượng phản ánh còn là đời sống tâm hồn và tính cách của con người dân tộc. Đặc điểm nổi bật nhất của người dân tộc miền núi là họ sống với nhau rất mộc mạc chân thành, có cái gì đó nguyên sơ nhưng cũng vô cùng táo bạo và mãnh liệt . Đó là những con người tình nghĩa thuỷ chung, có tấm lòng hiếu khách một cách chân thành. Khách đến nhà không vội hỏi tên Mà chỉ hỏi - Con đường nào đã đưa anh đến Cũng không hỏi đi từ rừng hay biển Mà hỏi rằng - Hãy uống cạn rượư cùng ta … Đừng để nhà tôi mọc cỏ gà (Dƣơng Thuấn) [46,tr.36] Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 20 http://www.lrc-tnu.edu.v
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2