Luận văn thạc sĩ kinh tế: Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo hiệp định chung về thuế quan và thương mại và tác động của nó đối với doanh nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO
lượt xem 37
download
Đề tài Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo hiệp định chung về thuế quan và thương mại và tác động của nó đối với doanh nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO giới thiệu tổng quan về Hiệp định chung về thuế quan và Thương mại, làm rõ yêu cầu của GATT đối với các nước về việc cắt giảm thuế quan; Phân tích đặc điểm của hàng công nghiệp và các cam kết của Việt Nam trong WTO về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp, thực trạng điều chỉnh chính sách đối với hàng công nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn thạc sĩ kinh tế: Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo hiệp định chung về thuế quan và thương mại và tác động của nó đối với doanh nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG NGÔ ĐỨC CHIẾN ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP THEO HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƯƠNG MẠI VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VIỆT NAM SAU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP WTO Chuyên ngành : KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ QUAN HỆ KINH TẾ QUỐC TẾ LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGYỄN THỊ MƠ HÀ NỘI 2007
- 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn hai mươi năm đổi mới, Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc về kinh tế và đang được đánh giá là một môi trường kinh doanh lý tưởng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam không ngừng nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, là thành viên chính thức của nhiều tổ chức và diễn đàn kinh tế lớn, thể hiện mong muốn tham gia ngày càng đầy đủ hơn vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế . Ngày 11 tháng 7 năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại Thế giới WTO. Trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đã chứng minh với thế giới rằng nền kinh tế Việt Nam đã hội nhập với nền kinh tế thế giới và sẵn sàng tham gia vào “sân chơi chung” trong tiến trình tự do hoá thương mại. Là thành viên của WTO, Việt Nam đồng thời phải thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan nói chung và đối với hàng công nghiệp nói riêng để mở cửa cho hàng hoá của nước ngoài dễ dàng thâm nhập vào Việt nam. Việc điều chỉnh cắt giảm thuế quan không chỉ ảnh hưởng tới ngân sách Nhà nước mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp khi phải đối mặt với cuộc cạnh tranh bình đẳng, khốc liệt với các tập đoàn, doanh nghiệp, công ty nước ngoài, vì thực tế các doanh nghiệp trong đó có các doanh nghiệp công nghiệp nước ta còn non yếu và thiếu năng lực cạnh tranh. Cam kết cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp để gia nhập WTO đòi hỏi Việt Nam phải điều chỉnh chính sách thương mại hàng công nghiệp của mình. Điều này sẽ có những tác động nhất định đối với các doanh nghiệp công nghiệp của Việt Nam. Tác động sẽ là tích cực hay không tích cực? Làm thế nào để phát huy tác động tích cực và giảm thiểu ảnh hưởng
- 2 của tác động phi tích cực ? Điều này đòi hỏi phải có sự nghiên cứu cụ thể, đầy đủ hơn về các cam kết của Việt nam trong WTO về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp, về tác động của việc điều chỉnh chính sách thương mại hàng công nghiệp để từ đó có các giải pháp phát huy các tác động tích cực và hạn chế các tác động phi tích cực . Đó là lý do để người viết chọn vấn đề “Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại và tác động của nó đối với các doanh nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO” làm đề tài cho Luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu 2.1. Ở nước ngoài Hiện đã có một số tài liệu như Fernandez de Cordobe, Santiago, SamLaird and Jose Maria Serena 2004 „ Trade Liberalization and Adjustment Costs „ Trade Analysis Branch, UNs Conference on Trade and Development nghiên cứu về lĩnh vực điều chỉnh chính sách thương mại. 2.2. Ở Việt nam Ngoài các bài báo, tạp chí và tập san có bài viết nghiên cứu về chính sách thương mại, hiện đã có công trình nghiên cứu khoa học, luận văn tiến sĩ, của tác giả Bùi Thị Lý „ Điều chỉnh chính sách thương mại của Việt nam khi gia nhập WTO „ 2002. Cho đến nay chưa có tài liệu nào nghiên cứu về „ Điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp theo Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại và tác động của nó đối với các doanh nghiệp Việt nam sau khi Việt nam gia nhập WTO „, đây là tài liệu đầu tiên nghiên cứu về lĩnh vực này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu
- 3 Trên cơ sở phân tích thực tế điều chỉnh sách thuế quan đối với hàng công nghiệp của Việt Nam trong thời gian qua, sau khi làm rõ các cam kết của Việt Nam trong WTO về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp, đề tài đề xuất giải pháp phát huy những tác động tích cực của việc điều chỉnh chính sách thương mại đối với hàng công nghiệp trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau đây : - Giới thiệu tổng quan về Hiệp định chung về Thuế quan và Thương (GATT) - Làm rõ yêu cầu của GATT đối với các nước về việc cắt giảm thuế quan - Phân tích đặc điểm của hàng công nghiệp và các cam kết của Việt nam trong WTO về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp - Thực trạng điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp ở Việt nam trong thời gian qua - Đề xuất giải pháp phát huy tác động tích cực và hạn chế tác động phi tích cực trong việc điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp đối với Việt nam. 4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy định trong Hiệp định GATT về cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp và các cam kết của Việt Nam trong WTO về lĩnh vực này. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của Luận văn giới hạn chỉ ở điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp, không mở rộng sang các sản phẩm
- 4 khác. Khi lựa chọn sản phẩm công nghiệp để phân tích, luận văn chọn 3 sản phẩm là hàng dệt may, hàng da giầy và ô tô. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đổi mới kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp như phương pháp phân tích, diễn giải và quy nạp ; phương pháp thống kê, so sánh để khái quát, hệ thống và khẳng định kết quả nghiên cứu. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài phần lời mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại và sự cần thiết phải điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp trong thương mại quốc tế. Chương 2: Thực trạng điều chỉnh chính sách thuế quan đối với hàng công nghiệp của Việt Nam trong thời gian qua. Chương 3: Tác động của điều chỉnh chính sách thuế quan hàng công nghiệp đối với doanh nghiệp Việt Nam và một số giải pháp.
- 5 CHƢƠNG 1 HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƢƠNG MẠI VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP TRONG THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ 1.1. TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH CHUNG VỀ THUẾ QUAN VÀ THƢƠNG MẠI Trong những năm ngay sau Đại chiến thế giới thứ hai, các nước đã có những cố gắng quan trọng ban đầu để thông qua các quy tắc điều chỉnh các quan hệ thương mại quốc tế. Những cố gắng này đã dẫn đến việc thông qua Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (mà sau này thường được gọi tắt là GATT - được viết tắt từ tên tiếng Anh của Hiệp định : General Agreement on Trade and Tariff ) vào năm 1947 và Hiệp định có hiệu lực vào ngày 1.1.1948. Các quy định của GATT được áp dụng cho thương mại quốc tế về hàng hoá mà mục tiêu của nó là tự do hoá thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan đối với hàng hoá trao đổi giữa các nước thành viên của GATT. Qua các năm sau, văn bản của GATT đã được sửa đổi bổ sung thêm nhiều quy định mới, đặc biệt để xử lý các vấn đề vướng mắc liên quan đến cắt giảm thuế quan trong thương mại của các nước đang phát triển. Ngoài ra nhiều Hiệp định kèm theo chi tiết hoá một số điều khoản chính của GATT cũng đã được thông qua. Các thành viên của GATT đã cùng nhau ký Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển sự nghiệp của GATT, theo đó WTO chính thức thành lập độc lập với hệ thống Liên Hiệp Quốc và đi vào hoạt động từ 1.1.1995. 1.1.1. Sự ra đời của GATT Sau chiến tranh Thế giới II, nhằm khôi phục sự phát triển kinh tế và thương mại, hơn 50 nước trên thế giới đã cùng nhau nỗ lực kiến tạo một tổ
- 6 chức mới điều chỉnh hoạt động hợp tác kinh tế, đồng thời với sự ra đời của các định chế tài chính quốc tế lớn như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và gắn bó chặt chẽ với các định chế này. Ban đầu, các nước dự kiến thành lập Tổ chức Thương mại Quốc tế (ITO) với tư cách là một tổ chức chuyên môn thuộc Liên hiệp quốc. Tháng 2/1946, Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên hiệp quốc triệu tập một ". Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và Việc làm" với mục tiêu dự thảo Hiến chương cho Tổ chức Thương mại Quốc tế. Dự thảo Hiến chương thành lập ITO không những chỉ điều chỉnh các quy tắc thương mại thế giới mà còn mở rộng ra cả các quy định về công ăn việc làm, các hành vi hạn chế thương mại, đầu tư quốc tế và dịch vụ. Công việc chuẩn bị cho hiến chương này đã được các quốc gia tiến hành trong năm 1946 và 1947. Từ tháng 4 đến tháng 10/1947, các nước đã tiến hành một hội nghị chuẩn bị toàn diện. Tại hội nghị này, bên cạnh việc tiếp tục triển khai các công việc liên quan đến hiến chương thành lập ITO, các nước còn tiến hành đàm phán để giảm và ràng buộc thuế quan đa phương. Trong vòng đàm phán đầu tiên, các nước đã đưa ra được 45.000 nhân nhượng thuế quan có ảnh hưởng đến khối lượng thương mại giá trị khoảng 10 tỷ USD, tức là khoảng 1/5 tổng giá trị thương mại thế giới [ 5 ]. Các nước cũng nhất trí áp dụng ngay lập tức và "tạm thời" một số quy tắc thương mại trong dự thảo Hiến chương ITO nhằm bảo vệ giá trị của các nhân nhượng nói trên. Kết quả gồm các quy định thương mại và các nhân nhượng thuế quan được đưa ra trong Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Theo dự kiến, Hiệp định GATT sẽ là một hiệp định phụ trợ nằm trong Hiến chương ITO và nếu ITO được thành lập thì GATT sẽ hết hiệu lực và hoà nhập vào quy định của ITO. Cho đến thời điểm cuối 1947, Hiến chương ITO vẫn chưa được thông qua. Chiến tranh Thế giới II vừa kết thúc,
- 7 các nước đều muốn sớm thúc đẩy tự do hóa thương mại, và bắt đầu khắc phục những hậu quả của các biện pháp bảo hộ còn sót lại từ đầu những năm 1930. Do vậy, ngày 23/10/1947, 23 nước đã ký "Nghị định thư về việc áp dụng tạm thời " (PPA), có hiệu lực từ 1/1/1984, thông qua nghị định thư này, Hiệp định GATT đã được chấp nhận và thực thi. Trong thời gian đó, Hiến chương ITO vẫn tiếp tục được thảo luận. Cuối cùng, tháng 3/1948, Hiến chương ITO đã được thông qua tại Hội nghị về thương mại và Việc làm của Liên hiệp quốc tại Havana. Tuy nhiên, quốc hội của một số nước đã không phê chuẩn Hiến chương này. Đặc biệt là Quốc hội Mỹ rất phản đối hiến chương Havana, mặc dù Chính phủ Mỹ đã đóng góp vai trò rất tích cực trong việc nỗ lực thiết lập ITO. Tháng 12/1950, Chính phủ Mỹ chính thức thông báo sẽ không vận động Quốc hội thông qua Hiến chương Havana nữa, do vậy trên thực tế, Hiến chương này không còn tác dụng và do đó ITO đã không thể ra đời. Két quả là, mặc dù chỉ tạm thời, GATT trở thành công cụ đa phương duy nhất điều chỉnh thương mại quốc tế từ năm 1948 cho đến tận năm 1995, khi tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ra đời. Trong 48 năm tồn tại, GATT đã tổ chức 8 vòng đàm phán ( xem bảng 1.1 ). Bảng 1.1 : GATT đã trải qua 8 Vòng đàm phán Năm Địa điểm/Tên Chủ đề đàm phán Số nước 1947 Geneva Cắt giảm Thuế quan 23 1949 Annecy Cắt giảm Thuế quan 13 1951 Torquay Cắt giảm Thuế quan 38 1956 Geneva Cắt giảm Thuế quan 26 1960-1961 Geneva (Vòng Dillon) Cắt giảm Thuế quan 26 1964-1967 Geneva Cắt giảm Thuế quan và các biện pháp 62 (Vòng Kenedy) chống bán phá giá 1973-1979 Geneva Cắt giảm Thuế quan, các biện pháp phi 102 (Vòng Tokyo) quan thuế, các hiệp định "khung"
- 8 1986-1994 Geneva Cắt giảm Thuế quan, các biện pháp phi 123 (Vòng Uruguay) quan thuế, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp, hàng dệt, nông nghiệp, thành lập WTO, v.v… Nguồn : [ 5 ] Nhìn từ bảng 1.1, có thể thấy rõ là cả 8 Vòng đàm phán của GATT đều tập trung vào việc cắt giảm thuế quan, đây chính là mục đích mà các nước có nền công nghiệp phát triển mong muốn và hướng tới nhằm tăng lợi ích của mình. Có thể nói, trong 48 năm tồn tại của mình, GATT đã có những đóng góp to lớn vào việc thúc đẩy và đảm bảo thuận lợi hóa và tự do hóa thương mại thế giới. Số lượng các bên tham gia cũng tăng nhanh. Cho tới trước khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập vào ngày 1/1/1995, GATT đã có 124 bên ký kết và đang tiếp nhận 25 đơn xin gia nhập. Nội dung của GATT ngày một bao trùm và quy mô ngày một lớn: bắt đầu từ việc giảm thuế quan cho tới các biện pháp phi thuế, dịch vụ, sở hữu trí tuệ, đầu tư, và tìm kiếm một cơ chế quốc tế giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các quốc gia. Từ mức thuế trung bình 40% của năm 1948, đến năm 1995, mức thuế trung bình của các nước phát triển chỉ còn khoảng 4% và thuế quan trung bình của các nước đang phát triển còn khoảng 15%. Trong đó, đối tượng cắt giảm thuế của GATT từ khi thành lập cho đến nay vẫn là hàng công nghiệp. 1.1.2. Chức năng và nguyên tắc hoạt động Chức năng của GATT GATT có ba chức năng cơ bản: - Một là điều tiết mọi hoạt động thương mại của các nước tham gia ký kết; - Hai là diễn đàn thương lượng đa phương lớn nhất để thảo luận việc từng bước tự do hóa thương mại quốc tế về hàng hóa thông qua cắt giảm thuế quan;
- 9 - Ba là tạo ra cơ chế để các nước thông qua GATT có thể giải quyết các tranh chấp phát sinh trong thương mại quốc tế . Nguyên tắc hoạt động: GATT hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc sau: - Nguyên tắc không phân biệt đối xử : Đây là nguyên tắc quan trọng nhất, quy định các nước thành viên dành cho nhau những ưu đãi trên cơ sở tối huệ quốc về thuế xuất nhập khẩu (MFN) và đối xử quốc gia (NT) trong thương mại. Nguyên tắc này có hai ngoại lệ là : + Các nước tham gia các khối mậu dịch tự do hay liên minh thuế quan khu vực như EU, NAFTA, AFTA... có quyền áp dụng với nhau một biểu thuế, một hàng rào phi quan thuế riêng. + Các nước đang phát triển được ưu đãi riêng, được các nước phát triển dành cho Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP) với thuế suất thấp hơn thuế suất tối huệ quốc. - Nguyên tắc có đi có lại : Một nước quyết định mở cửa thị trường của mình (hạ thuế nhập khẩu, bỏ bớt các quy định đối với hàng nhập) có quyền đỏi hỏi các thành viên khác có những nhượng bộ tương tự. - Nguyên tắc công khai và cạnh tranh lành mạnh : Yêu cầu các nước thành viên không được tăng và từng bước giảm hàng rào phi thuế quan, thừa nhận quyền đánh thuế chống phá giá và chống trợ cấp xuất khẩu. - Nguyên tắc khước từ một số nghĩa vụ của GATT : Cho phép mỗi thành viên có quyền áp dụng biện pháp cấp thiết (như hạn chế nhập khẩu hoặc đình chỉ những nhượng bộ về quan thuế) để bảo vệ ngành công nghiệp trong nước đang bị thương tổn, hoặc do khó khăn về cán cân thanh toán. - Nguyên tắc ưu tiên cho hàng hóa của các nước đang phát triển : Ngoài hệ thống GSP, còn có các ưu đãi về tiếp cận thị trườn, hoặc ít bị ràng buộc bởi nguyên tắc có đi có lại.
- 10 1.1.3. Những nội dung cơ bản của GATT Mục tiêu cơ bản của GATT là tạo cơ sở để tiến hành cắt giảm thuế quan không ngừng và ràng buộc sao cho các nước tham gia ký kết không tăng thuế quan trở lại. Đến khi kết thúc vòng đàm phán Uruguay, các nước tham gia GATT đã đưa ra các cam kết ràng buộc cắt giảm thuế đối với hầu hết các mặt hàng công nghiệp nhập khẩu. Để thực hiện cam kết của mình, các nước ký kết GATT phải nỗ lực điều chỉnh chính sách thuế quan cho phù hợp với quy định của GATT. Sau Vòng đàm phán Uruguay, các nước phát triển cam kết tiến hành cắt giảm thuế quan hàng công nghiệp từ 6,3% xuống còn trung bình là 3,8% trong vòng 5 năm, tính từ 1/1/1995. Giá trị hàng hóa nhập khẩu vào các nước này được miễn thuế hoàn toàn lên tới 44% (từ 20%). Số lượng các sản phẩm phải chịu thuế suất hải quan cao giảm xuống, số dòng thuế nhập khẩu từ tất cả các nước phải chịu thuế suất trên 15% giảm từ 7% xuống còn 5% (riêng đối với các nước đang phát triển thì mức giảm này là từ 9% xuống 5%). Số lượng các dòng thuế được ràng buộc cũng tăng nhanh. Các nước phát triển cam kết ràng buộc 99% dòng thuế của họ (từ mức 77%), các nước đang phát triển ràng buộc 73% (từ 21%), các nền kinh tế chuyển đổi 98% từ (73%) [ 32 ] Như vậy, nội dung chủ yếu của GATT là giảm và ràng buộc thuế quan không tăng trở lại đối với hàng công nghiệp. Thật vậy với 8 vòng đàm phán, các thành viên của GATT đã nhất trí với nội dung chủ yếu là không ngừng cắt giảm thuế quan hàng hoá nới chung và hàng công nghiệp nói riêng. Trên thực tế lợi ích của việc cắt giảm thuế quan đối với hàng công nghiệp chủ yếu rơi vào tay các nước có nền công nghiệp phát triển, các nước thành viên mới của GATT thường là các nước đang hoặc kém phát triển khi gia nhập phải tuân thủ những điều kiện này. Vì vậy , họ phải điều chỉnh chính sách thuế quan trong nước của họ, đây là thách thức rất lớn đối với các nước đang phát triển.
- 11 1.1.4. Các quy tắc cơ bản của GATT Như đã trình bày ở trên, mục tiêu chính của GATT là tự do hoá thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, đặc biệt là đối với hàng công nghiệp. Vì vậy, để đạt được mục tiêu này, GATT đã đưa ra 4 quy tắc pháp lý để ràng buộc các nước tham gia. Bốn quy tắc đó là : 1.1.4.1. Quy tắc thứ nhất Quy định về việc giảm và xóa bỏ thuế quan và các rào cản thương mại khác thông qua đàm phán đa phương. Mức giảm thuế quan được liệt kê trên cơ sở dòng thuế quan trong Danh mục nhượng bộ của mỗi nước. Mức thuế trong Danh mục nhượng bộ này còn được gọi là mức thuế ràng buộc. Các nước không được phép nâng thuế suất vượt qua mức thuế ràng buộc đã ghi trong Danh mục nhượng bộ. - Cần cắt giảm dần thuế quan và bị ràng buộc không tăng thêm. Giảm thuế quan Quy tắc quan trọng thứ nhất của GATT là phải giảm thuế quan và các biện pháp khác mà các quốc gia duy trì để bảo hộ nền sản xuất nội địa và nếu có thể, loại bỏ thông qua đàm phán giữa các quốc gia thành viên, và mức thuế đã giảm phải được cam kết ràng buộc là sẽ không tăng thêm. Cam kết không tăng thêm Cần giải thích thêm khái niệm "cam kết ràng buộc". Mức thuế quan thỏa thuận tại các cuộc đàm phán cũng như các cam kết khác của các nước ghi lại trong Danh mục nhượng bộ. Mỗi quốc gia thành viên của WTO có một danh mục riêng và có nghĩa vụ không được áp đặt thuế quan hay các khoản thuế, lệ phí khác "cao hơn mức đã đưa ra" tại danh mục của mình. Các quốc gia không được phép áp dụng các biện pháp như áp đặt hạn chế định lượng làm giảm giá trị của các nhượng bộ thuế quan. Mức thuế quan ghi trong danh mục còn được gọi là thuế suất ràng buộc.
- 12 Ràng buộc thuế quan. Các nước không được tự động tăng thuế vượt quá mức ràng buộc ghi trong Danh mục nhượng bộ. Ngoài nhiều vấn đề khác, Danh mục này liệt kê từng sản phẩm với thuế suất trước khi đàm phán và thuế suất mà một nước đã thỏa thuận "trong quá trình đàm phán để ràng buộc thuế suất". Trong đàm phán thương mại, một nước có thể thỏa thuận: Ràng buộc thuế suất dương (chẳng hạn 10%) hay thuế suất bằng không hiện hành; hoặc Giảm thuế suất, chẳng hạn từ 10% xuống còn 5%, và ràng buộc thuế suất đã giảm. Một quốc gia cũng có thể ràng buộc thuế suất ở mức trần cao hơn thuế đã thỏa thuận giảm trong đàm phán. Như vậy, một quốc gia đã chấp nhận giảm thuế suất từ 10% xuống 5% cũng có thể nêu ra rằng, trong khi sẽ áp dụng mức giảm thuế đối với hàng nhập khẩu như đã thỏa thuận thì thuế suất ràng buộc vẫn là 8%. Trong trường hợp này, quốc gia đó có thể tự do tăng thuế suất lên tới 8% bất kỳ lúc nào mà không vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào của mình theo GATT. Vòng đàm phán Uruguay đã mang lại những tiến bộ to lớn trong việc ràng buộc thuế quan của mọi quốc gia. Tất cả quốc gia - phát triển, đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi - đều ràng buộc thuế quan trong lĩnh vực công nghiệp: hơn 98% hàng nhập khẩu vào các nước phát triển và chuyển đổi sẽ được nhập khẩu theo mức thuế quan ràng buộc. Đối với hàng nhập khẩu vào các nước đang phát triển, tỷ trọng hàng nhập khẩu nhập vào theo thuế suất ràng buộc là khoảng 73%. Tuy nhiên, một số nước đang phát triển lại ràng buộc mức trần trong một số trường hợp. Những ràng buộc mức thuế trần như vậy có dạng cam kết không tăng thuế: Vượt quá mức thuế trần đã nêu cho từng sản phẩm; Vượt quá mức thuế trần áp dụng cho một ngành nhất định;
- 13 Vượt quá mức thuế áp dụng cho toàn bộ sản phẩm. Một nước sau khi đã ràng buộc thuế quan cũng vẫn có thể từ bỏ và nâng mức thuế lên trên thuế suất ràng buộc. Để thực hiện điều này, họ sẽ tái đàm phán với các nước mà lúc đó họ đã đàm phán nhượng bộ cũng như với các nước cung cấp sản phẩm đó nhiều nhất và do vậy được lợi từ việc nhượng bộ. Trong những cuộc đàm phán này, nước yêu cầu xóa bỏ cam kết sẽ phải có nhượng bộ thuế quan đền bù cho các sản phẩm mà các nước đối tác đàm phán có lợi ích thương mại. 1.1.4.2. Quy tắc thứ hai Trong khi thừa nhận rằng các nước cần thay đổi chính sách thương mại mở và tự do nhưng đồng thời cũng cho phép các nước bảo hộ nền sản xuất trong nước tránh sự cạnh tranh của nước ngoài, miễn là sự bảo hộ này chỉ được thực hiện thông qua thuế quan và chỉ ở mức thấp. Để đạt được điều đó, quy tắc nghiêm cấm các nước sử dụng các hạn chế định lượng, trừ những trường hợp đặc biệt. Quy tắc chống hạn chế định lượng đã được củng cố thêm tại Vòng đàm phán Urugoay. Trong khi GATT ủng hộ tự do thương mại, hiệp định này cũng thừa nhận là các quốc gia có thể muốn bảo hộ nền sản xuất trong nước khỏi cạnh tranh của nước ngoài. Hiệp định này thúc đẩy các nước tiến hành bảo hộ ở mức thấp hợp lý thông qua thuế quan. Nguyên tắc bảo hộ bằng thuế quan được hỗ trợ bởi điều khoản cấm các quốc gia thành viên sử dụng các hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, nguyên tắc này có những ngoại lệ đặc biệt. Một ngoại lệ quan trọng là cho phép các quốc gia khi gặp khó khăn trong cán cân thanh toán quốc tế (BOP) được phép hạn chế nhập khẩu nhằm đảm bảo tình hình tài chính đối ngoại của mình. Trường hợp ngoại tệ này tạo sự linh hoạt cho các nước đang phát triển hơn là những nước phát triển trong
- 14 việc sử dụng các hạn chế định lượng đối với hàng nhập khẩu nếu việc hạn chế này là cần thiết để ngăn chặn sự suy giảm nghiêm trọng dự trữ ngoại tệ. Trong lĩnh vực công nghiệp, hầu hết các nước phát triển không áp dụng quy tắc chống sử dụng các hạn chế định lượng đối với hàng dệt, một lĩnh vực mà các nước đang phát triển đặc biệt quan tâm. Có sự khác biệt cơ bản giữa các hạn chế áp dụng cho lĩnh vực nông nghiệp và hạn chế áp dụng cho ngành dệt. Trừ những trường hợp đặc biệt, còn lại các hạn chế trong lĩnh vực nông nghiệp nằm ngoài sự điều chỉnh của các quy tắc của GATT. Còn trong trường hợp hàng dệt, các hạn chế này được sự cho phép bởi các điều khoản của hiệp định đa sợi (MFA), được sự đàm phán dưới sự bảo hộ của GATT. MFA cho phép các nước giảm nghĩa vụ cơ bản của mình và thực hiện hạn chế hàng dệt may nhập khẩu, miễn là đáp ứng được các điều kiện đưa ra. Củng cố nguyên tắc chống sử dụng hạn chế định lượng, cụ thể trong lĩnh vực hàng công nghiệp. Trong lĩnh vực hàng dệt may, Hiệp định dệt may (ATC) yêu cầu các nước thành viên hiện đang duy trì các hạn chế phải loại bỏ dần theo bốn giai đoạn, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn vào ngày 1/1/2005. 1.1.4.3. Quy tắc thứ ba Yêu cầu các nước tiến hành buôn bán mà không được phân biệt đối xử giữa các nước xuất khẩu hoặc giữa các nước nhập khẩu hàng hóa đó. Quy tắc được thể hiện trong nguyên tắc tối huệ quốc (MFN). Trường hợp ngoại lệ đặc biệt của quy tắc này là thỏa thuận ưu đãi khu vực. Quy tắc cơ bản thứ ba của GATT quy định không được phép phân biệt đối xử trong thương mại và được thể hiện trong quy chế tối huệ quốc. Theo cách nói đơn giản, điều này có nghĩa là nếu một quốc gia thành viên cho phép một nước hưởng ưu đãi thuế quan hay các ưu đãi đối với bất kỳ sản phẩm nào thì ngay lập tức và vô điều kiện, quốc gia này cũng phải cho phép
- 15 các nước khác hưởng ưu đãi như thế đối với sản phẩm tương tự. Vì vậy, nếu nước A, khi đàm phán thương mại với nước B, thỏa thuận giảm thuế nhập khẩu chè từ 10% xuống 5% thì mức thuế giảm này cũng phải áp dụng cho tất cả các thành viên còn lạ của WTO. Nghĩa vụ đối xử theo quy chế tối huệ quốc không chỉ áp dụng đối với nhập khẩu mà còn đối với cả xuất khẩu. Vì vậy, nếu một nước đánh thuế đối với hàng xuất khẩu sang một nước, thì cũng phải đánh thuế suất như vậy đối với hàng xuất khẩu sang tất cả các nước. Hơn thế nữa, nghĩa vụ đối xử theo quy chế tối huệ quốc không chỉ hạn chế ở thuế quan mà còn áp dụng đối với: Bất kỳ khoản phí nào liên quan tới nhập khẩu và xuất khẩu; Phương pháp đánh thuế và các khoản phí nói trên; Những quy tắc và thủ tục liên quan đến xuất khẩu và nhập khẩu; Thuế và phí nội địa đối với hàng nhập khẩu và các luật lệ, quy định, điều kiện ảnh hưởng đến việc bán hàng; Việc quản lý các hạn chế định lượng (chẳng hạn như phân phối quota giữa các quốc gia cung cấp hàng trên cơ sở không phân biệt) trong những trường hợp ngoại lệ được phép áp dụng hạn chế định lượng. Vì vậy, nguyên tắc này nhấn mạnh rằng, khi thỏa thuận áp dụng quy chế tối huệ quốc, các nước thành viên cam kết không phân biệt đối xử giữa các nước và không được đối xử đối với một nước ưu đãi hơn một nước khác trong mọi vấn đề liên quan tới thương mại hàng hóa. Ngoại lệ của quy chế tối huệ quốc. Tuy nhiên, các quy định của GATT cũng cho phép được giảm thuế quan và các rào cản thương mại khác trên cơ sở ưu đãi giữa các nước tham gia hiệp định thương mại khu vực. Thuế suất thấp hoặc miễn thuế đối với hoạt động thương mại giữa các thành viên của thỏa thuận thương mại khu vực không phải áp dụng đối với các nước khác. Chính vì vậy, hiệp định ưu
- 16 đãi khu vực tạo thành môi trường hợp ngoại lệ quan trọng của quy chế tối huệ quốc. Để đảm bảo lợi ích của các nước không phải là thành viên của hiệp định thương mại khu vực, GATT cũng đưa ra những điều kiện nghiêm ngặt khi thành lập các hiệp định này. Các điều kiện này cùng với các điều kiện khách quy định rằng: Các nước thành viên của hiệp định khu vực phải xóa bỏ thuế quan và các rào cản thương mại khác có ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước đó, và Các hiệp định này không được dẫn đến việc đặt ra những rào cản thương mại đối với các nước khác. Các hiệp định này có thể hình thành dưới dạng liên minh thuế quan hoặc khu vực thương mại tự do. Trong cả hai trường hợp, thương mại giữa các nước thành viên được miễn thuế trong khi buôn bán với các nước khác vẫn phải tuân thủ theo mức thuế quan của quy chế tối huệ quốc. Đối với liên minh thuế quan, thuế suất của các nước thành viên đã được hài hòa và được áp dụng thống nhất như nhau đối với hàng nhập khẩu từ các nước bên ngoài. Trong khu vực thương mại tự do, thuế suất không được hài hòa mà thay vào đó, các nước thành viên tiếp tục sử dụng mức thuế quan ghi trong danh mục của từng nước. Hiện có hơn 100 hiệp định ưu đãi khu vực đang có hiệu lực, trọng tâm là thúc đẩy thương mại dựa trên cơ sở khu vực thông qua củng cố và giảm mạnh thuế quan cũng như tăng cường các nhượng bộ khác trao đổi tại các hiệp định ưu đãi khu vực và gia tăng trong những năm gần đây. Kết quả là thương mại khu vực tăng vững chắc và tỷ trọng thương mại khu vực ngày càng lớn trong thương mại thế giới. Các hiệp định ưu đãi này đã tạo ra lợi thế cho các ngành công nghiệp tiếp thị sản phẩm của mình ở các nước khác trong khu vực. Đồng thời, nó
- 17 cũng có thể đặt các ngành công nghiệp của các nước nằm ngoài khu vực, là những nơi phải đóng thuế theo quy chế tối huệ quốc, vào một vị thế cạnh tranh bất lợi. Một trong những thách thức lớn mà các nước thành viên WTO sẽ gặp phải trong năm tới là làm sao đảm bảo được sự bổ sung giữa nỗ lực phát triển thương mại khu vực với ý đồ tiếp tục tự do hóa thương mại ở cấp độ đa phương. Bên cạnh những hiệp định này, các nước phát triển cũng đã áp dụng các hiệp định tự do thương mại một chiều, theo đó hàng nhập khẩu từ tất cả hay một số các nước đang phát triển có thể thâm nhập vào thị trường nước phát triển mà không phải đóng thuế nhập khẩu. Đây là các hiệp định không có đi có lại bởi vì các nước đang phát triển được lợi từ việc thâm nhập ưu đãi mà không phải đối xử tương tự đối với hàng nhập khẩu từ các nước phát triển. Ví dụ của các hiệp định thương mại ưu đãi một chiều này là: - Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP), theo đó các nước phát triển cho phép nhập khẩu trên cơ sở ưu đãi và miền thuế nhập khẩu tất cả các sản phẩm công nghiệp, và một số nông phẩm chọn lọc của tất cả các nước đang phát triển. - Công ước Lomé ( Lomé IV - hết hạn 2.2002 ), theo đó các quốc gia thành viên của Liên minh Châu Âu cho phép hàng nhập khẩu trên cơ sở miễn thuế nhập khẩu của một số nước đang phát triển và chậm phát triển ở châu Phi, vùng Caribê, châu Á và Thái Bình Dương (tức là các nước ACP) đưa vào thị trường này. - Sáng kiến Lòng chảo Caribê, theo đó Mỹ cho phép nhập khẩu hàng hóa tên cơ sở miễn thuế nhập khẩu từ các nước vùng Caribê. Cơ sở pháp lý của việc các nước phát triển dành đối xử ưu đãi cho hàng nhập khẩu từ tất cả các nước đang phát triển theo GSP chính là Quyết định về đối xử khác biệt và ưu đãi hơn, tương hỗ và tham gia đầy đủ hơn của
- 18 các nước đang phát triển. Quyết định này được áp dụng trong GATT từ 1979 và thường được biết đến dưới tên gọi Điều khoản cho phép chung. Trong các điều khoản của GATT 1994 không có một có sở pháp lý rõ ràng cho các hiệp định ưu đãi như Công ước Lomé và Sáng kiến Lòng chảo Caribê, trong đó các nước phát triển thâm nhập có ưu đãi hoặc miễn thuế đối với một số ít các nước đang phát triển mà các nước phát triển đó có những ràng buộc lịch sử hay vì các yếu tố khác. Hiện nay, các hiệp định này được cho phép theo điều khoản "miễn trừ" dành cho các nước phát triển đưa ra ưu đãi, tức là khỏi phải thực hiện nghĩa vụ dành đối xử tối huệ quốc. Đứng về mặt pháp lý, các hiệp định ưu đãi hạn chế này sẽ dẫn tới sự phân biệt đối xử đối với hàng nhập khẩu của các nước nước đang phát triển không được hưởng ưu đãi này. Vì vậy hiện có rất nhiều sức ép đòi hỏi các nước phát triển dành những ưu đãi này phải điều chỉnh cho phù hợp với các quy tắc của GATT. 1.1.4.4. Quy tắc thứ tư Gọi là quy tắc đối xử quốc gia. Quy tắc này yêu cầu các nước không được đánh thuế nội địa như thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng vào các sản phẩm nhập khẩu sau khi hàng hóa đó đã vào thị trường nội địa và nộp thuế nhập khẩu tại biên giới, theo mức thuế cao hơn mức thuế đánh vào sản phẩm nội địa tương tự. Quy chế tối huệ quốc yêu cầu các thành viên không phân biệt đối xử giữa các nước. Nguyên tắc đối xử quốc gia bổ sung cho quy chế tối huệ quốc, quy định rằng, một mặt hàng nhập khẩu sau khi đã đi qua biên giới và đã trả các khoản thuế quan cũng như các khoản phí khác sẽ không bị đối xử kém ưu đãi hơn so với các sản phẩm nội địa tương tự. Nói cách khác, nguyên tắc này yêu cầu các nước thành viên đối xử với các hàng nhập khẩu trên cùng cơ sở như hàng sản xuất trong nước. Vì vậy các nước không được đánh
- 19 các khoản thuế nội địa (như thuế doanh thu) với thuế suất cao hơn mức áp dụng cho các sản phẩm nội địa tương ứng đối với hàng nhập khẩu sau khi nó đã thanh toán các khoản thuế quan tại biên giới. Tương tự như vậy, các quy định tác động đến việc mua bán sản phẩm tại thị trường trong nước cũng không thể áp dụng nghiêm ngặt hơn đối với hàng nhập khẩu. 1.2. YÊU CẦU CỦA GATT ĐỐI VỚI CÁC NƢỚC THÀNH VIÊN TRONG ĐIỀU CHỈNH CHÍNH SÁCH THUẾ QUAN ĐỐI VỚI HÀNG CÔNG NGHIỆP. Một trong những mục đích quan trọng của GATT là hỗ trợ các nước thúc đẩy phát triển kinh tế thông qua thương mại gia tăng bằng cách xóa bỏ thuế quan đối với thương mại hàng công nghiệp tại các cuộc đàm phán. 1.2.1. Đặc điểm, vai trò, vị trí hàng công nghiệp trong thƣơng mại quốc tế Thương mại quốc tế những thập niên gần đây đã có bước tăng trưởng đột biến cả về chất và lượng. Song với sự tăng trưởng mạnh mẽ này, các khu vực và quốc gia trên thế giới cũng đã và đang tích cực mở cửa thị trường nội địa của mình với tư tưởng rằng tự do hóa thương mại là một xu thế khách quan, là nền tảng của sự phát triển, tự do hóa thương mại đưa các quốc gia xích lại gần nhau, thân thiện hơn trong quan hệ sản xuất, kinh doanh và chia sẻ thịnh vượng chung. Theo thời gian, thương mại quốc tế ngày càng phát triển, biểu hiện ở chỗ hàng hoá ngày một nhiều, sự thông thương hàng hoá giữa các quốc gia dễ dàng hơn bao giờ hết. Hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn trong thương mại hàng hoá quốc tế. Thông thường, hàng công nghiệp được chuyển từ các nước phát triển, các nước có nền công nghiệp phát triển, một số nước đang phát triển có nền sản xuất công nghiệp sang các nước đang phát triển và kém phát triển. Đối với các quốc gia công nghiệp, kim ngạch thương mại hàng công nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn trong thương mại hàng hoá, do vậy hàng công
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế
123 p | 833 | 193
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển kinh tế hộ và những tác động đến môi trường khu vực nông thôn huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên
148 p | 620 | 164
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Highlands Coffee Việt Nam
106 p | 36 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh tại Công ty Cổ phần Viễn thông FPT
87 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing cho sản phẩm Sữa Mộc Châu của Công ty Cổ phần Giống bò sữa Mộc Châu
119 p | 19 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện hoạt động marketing điện tử với sản phẩm của Công ty cổ phần mỹ phẩm thiên nhiên Cỏ mềm
121 p | 20 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển xúc tiến thương mại đối với sản phẩm nhãn của các hộ sản xuất ở tỉnh Hưng Yên
155 p | 7 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing mix cho sản phẩm đồ uống của Tổng công ty Cổ phần Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội
101 p | 19 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nâng cao giá trị cảm nhận khách hàng với thương hiệu Mai Linh của Công ty Taxi Mai Linh trên thị trường Hà Nội
121 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện chiến lược marketing của Công ty Cổ phần bánh mứt kẹo Bảo Minh
108 p | 6 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu hành vi của khách hàng cá nhân về việc sử dụng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong mua xăng dầu tại các cửa hàng bán lẻ của Công ty xăng dầu Khu vực I tại miền Bắc
125 p | 7 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao giá trị thương hiệu cho Công ty cổ phần dược liệu và thực phẩm Việt Nam
95 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển truyền thông thương hiệu công ty của Công ty Cổ phần Đầu tư Sản xuất và Thương mại Tiến Trường
96 p | 8 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Phát triển thương hiệu “Bưởi Đoan Hùng” của tỉnh Phú Thọ
107 p | 11 | 3
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến truyền thông marketing điện tử của Trường Cao đẳng FPT Polytechnic
117 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Giải pháp Marketing nhằm nâng cao mức độ hài lòng của khách hàng với dịch vụ du lịch biển của Công ty Cổ phần Du lịch và Tiếp thị Giao thông vận tải Việt Nam - Vietravel
120 p | 6 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Hoàn thiện quản trị quan hệ khách hàng trong kinh doanh sợi của Tổng công ty Dệt may Hà Nội
103 p | 8 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Kiểm toán khoản mục chi phí hoạt động trong kiểm toán báo cáo tài chính do Công ty TNHH Hãng Kiểm toán và Định giá ATC thực hiện - Thực trạng và giải pháp
124 p | 11 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn