BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH __________________
HỒ THỊ THANH HẰNG
NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA VỐN CON NGƯỜI VÀ KHỞI NGHIỆP
DƯỚI ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA KHÁC
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH __________________
HỒ THỊ THANH HẰNG
NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA VỐN CON NGƯỜI VÀ KHỞI NGHIỆP
DƯỚI ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH
Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA KHÁC
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
(Hướng ứng dụng)
Mã số: 8340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS Trần Ngọc Thơ
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự
hướng dẫn khoa học của GS.TS Trần Ngọc Thơ. Các số liệu sử dụng trong luận văn có
nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Những kết quả nghiên cứu trong luận
văn này là do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với
thực tiễn Việt Nam. Các kết quả này chưa được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào
khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Học viên
Hồ Thị Thanh Hằng
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU ................................................................................. 1
1.1 Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 4
1.3 Phương pháp, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..................................................... 5
1.4 Bố cục bài nghiên cứu ......................................................................................... 5
KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM .............................................................................................................. 7
2.1 Khung lý thuyết .................................................................................................. 7
2.1.1 Lý thuyết về vai trò của khởi nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế .................. 7
2.1.2 Lý thuyết về vốn con người và tinh thần khởi nghiệp ................................. 14
2.2 Bằng chứng thực nghiệm .................................................................................. 27
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU ....................... 36
3.1 Phương pháp ước lượng .................................................................................... 36
3.2 Mô tả biến và dữ liệu ........................................................................................ 39
3.2.1 Mô tả biến .................................................................................................. 39
3.2.1 Dữ liệu ....................................................................................................... 45
KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ...................................................... 51
4.1 Kết quả thực nghiệm và giải thích ..................................................................... 51
4.1.1 Kết quả hồi quy phương trình (1) ............................................................... 51
4.1.2 Kết quả hồi quy phương trình (2) ............................................................... 57
4.2 Các kiểm định cho mô hình hồi quy GMM ....................................................... 58
4.2.1 Kiểm định đa cộng tuyến ............................................................................ 58
4.2.2 Kiểm định hiện tượng tự tương quan .......................................................... 59
4.3 Thảo luận kết quả thực nghiệm ......................................................................... 60
4.4 Các đề xuất từ kết quả nghiên cứu..................................................................... 62
KẾT LUẬN .................................................................................. 64
5.1 Kết luận chung .................................................................................................. 64
5.2 Các hạn chế của bài nghiên cứu và hướng nghiên cứu sắp tới ........................... 65
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DGMM Mô hình hồi quy GMM khác biệt
DPD Dữ liệu bảng động (Dynamic Panel Data)
GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
GEM Dữ liệu giám sát khởi nghiệp toàn cầu (Global Entrepreneurship Monitor)
GFDD Dữ liệu phát triển tài chính toàn cầu (Global Financial Development
Database)
GMM Mô hình hồi quy GMM (Generalized Method of Moments)
KSA Kiến thức, kỹ năng, khả năng (Knowledge, skills, and abilities)
MLS Maximum Likelihood Estimation (Ước lượng hợp lý cực đại)
OLS Phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất
R&D Nghiên cứu và phát triển (Research and development)
SGMM Mô hình hồi quy GMM hệ thống
WDI Chỉ số phát triển thế giới (World Development Indicators)
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Các lý thuyết được áp dụng trong nghiên cứu khởi nghiệp của con người tính
đến tháng 9/2014 ............................................................................................................ 16
Bảng 2.2. Cấu trúc vốn nhân lực chung ........................................................................ 17
Bảng 2.3. Các loại hình vốn nhân lực ........................................................................... 22
Bảng 3.1. Thống kê mô tả biến ..................................................................................... 44
Bảng 3.2. Danh sách các nước sử dụng trong nghiên cứu ............................................. 47
Bảng 3.3. Nguồn dữ liệu của các biến sử dụng trong mô hình ....................................... 49
Bảng 4.1. Kết quả hồi quy GMM phương trình (1) ....................................................... 52
Bảng 4.2. Tác động biên của tuyển sinh đại học đối với tinh thần khởi nghiệp ứng với 3
thước đo phát triển tài chính ở một số quốc gia ............................................................. 54
Bảng 4.3. Tác động biên của tuyển sinh đại học đối với tinh thần khởi nghiệp ứng với 3
thước đo phát triển tài chính ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2015 ................................... 56
Bảng 4.4. Kết quả hồi quy GMM phương trình (2) ....................................................... 57
Bảng 4.5. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến ............................................................ 59
DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Trọng tâm của nghiên cứu trong quá khứ .................................................... 20
Hình 2.2. Mô hình vốn nhân lực và quá trình khởi nghiệp .......................................... 25
Hình 4.1. Mối quan hệ giữa tinh thần khởi nghiệp và phát triển tài chính .................. 53
Hình 4.2. Mối quan hệ giữa tinh thần khởi nghiệp và phát triển tài chính .................. 56
TÓM TẮT
Công trình nghiên cứu này của tôi tìm hiểu về mối quan hệ giữa vốn con người và khởi
nghiệp dưới ảnh hưởng của mức độ phát triển tài chính ở Việt Nam và một số quốc gia
khác. Trong bài nghiên cứu, tôi sử dụng mẫu dữ liệu của 43 quốc gia trong giai đoạn từ
2001 – 2015, trong đó có Việt Nam. Để tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi nghiên cứu
trong bài, tôi đã dựa trên những lý thuyết nền tảng và các bài nghiên cứu trước đây, từ đó
xây dựng một mô hình để xem xét sự tác động lẫn nhau giữa ba yếu tố trên. Tôi sử dụng
dữ liệu bảng cùng phương pháp ước lượng GMM hệ thống để ước lượng cho phương
trình này, kèm theo đó là các kiểm định liên quan như: hiện tượng tự tượng quan, đa cộng
tuyến để kiểm tra các “khuyết tật” có thể có của mô hình.
Kết quả tôi thu được là sự tác động của nguồn vốn nhân lực lên tinh thần khởi nghiệp là
lớn hay nhỏ phụ thuộc vào mức độ phát triển tài chính của một quốc gia. Cụ thể, tác động
của giáo dục đại học lên tinh thần khởi nghiệp mạnh nhất ở các quốc gia có mức độ vốn
khả dụng và phát triển tài chính thấp và ngược lại. Thêm vào đó, ở những quốc gia có thu
nhập thấp hơn mức trung bình, để tăng tỷ lệ khởi nghiệp thì nên tập trung cải thiện giáo
dục hơn là tập trung vào phát triển tài chính. Qua những kết quả thực nghiệm trên tôi đã
đưa ra những giải thích, đề xuất cho các nghiên cứu tiếp theo và các khuyến nghị cho
chính sách giáo dục của Việt Nam để giúp nâng cao tinh thần khởi nghiệp và giúp đất
nước phát triển một cách mạnh mẽ trong tương lai.
Từ khóa: Khởi nghiệp, vốn nhân lực, tuyển sinh đại học, phát triển tài chính.
ABSTRACT
The previous literature is filled with mixed findings with regard to human capital’s
impact on entrepreneurial outcomes. In particular, the prior literature has treated human
capital’s impact on entrepreneurship in isolation, while in reality its impact depends on
access to financial capital. This study of mine explores the relationship between human
capital and entrepreneurship under the influence of the level of financial development in
Vietnam and some other countries. In the study, I used data samples from 43 countries in
the period from 2001 to 2015, including Vietnam. In order to find out the answers to the
research questions in the paper, I have based on the fundamental theories of
entrepreneurship, human capital of previous studies to build two models to consider the
impact of mutual feedback between the above factors. I use the table data and the GMM
system estimation method to estimate the two equations proposed in the paper.
My results show that a rise in tertiary enrollment benefits entrepreneurship most when the
level of financial development is low. For higher levels of financial development, the
impact of tertiary enrollment on entrepreneurship is still positive but much lesser in
magnitude compared to countries with lower level of financial development. Through the
above results, I have provided explanations and suggestions for Vietnam's education
policy to enhance the entrepreneurial spirit and develop the country more strongly.
Keywords: Entrepreneurship, Human Capital, Tertiary Enrollment, Financial
Development.
1
GIỚI THIỆU
1.1 Lý do chọn đề tài
Các tài liệu trước đây đã tìm thấy rất nhiều kết quả liên quan đến mối quan hệ giữa kết
quả giáo dục và tinh thần khởi nghiệp. Một loạt các nghiên cứu kết luận rằng vốn con
người có liên quan đến thành công của doanh nhân (Cassar, 2006; Van der Sluis et al.,
2005; Bosma et.al., 2004), cụ thể là vốn con người tăng lên rất quan trọng trong việc thúc
đẩy tinh thần khởi nghiệp (Haber và Reichel, 2007). Tuy nhiên, các nghiên cứu của
Baum và Silverman (2004) cho rằng mối quan hệ giữa vốn con người và tinh thần khởi
nghiệp đang được nhấn mạnh quá mức. Trong bài nghiên cứu này, tôi tiếp tục làm rõ vấn
đề liên quan đến tác động của vốn con người đến tinh thần khởi nghiệp. Trong khi lý
thuyết vốn con người tiêu chuẩn (Becker, 1964) cho rằng kết quả giáo dục tốt hơn sẽ cải
thiện hiệu quả kinh tế, nhưng điều này không phải lúc nào cũng làm tăng tỷ lệ doanh
nhân khởi nghiệp thực tế, vì tỷ lệ này còn chịu tác động của một số yếu tố khác.
Yếu tố đầu tiên là giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, có thể cản trở sự không đồng
nhất và tư duy sáng tạo cần thiết cho sự đổi mới (Baumol, 2004). Ông thấy rằng việc nắm
vững các phương pháp khoa học được cung cấp bởi giáo dục đại học tiêu chuẩn là vô
cùng quý giá đối với các hoạt động R & D của tập đoàn lớn nhưng cản trở sự sáng tạo
thực sự cần thiết cho những đổi mới đột phá góp phần không nhỏ vào tăng trưởng (chủ
yếu đến từ các công ty khởi nghiệp nhỏ và mới). Về bản chất, giáo dục đại học hầu hết
đều dẫn đến những tiến bộ gia tăng hơn là tạo ra những đổi mới đột phá (Christensen,
1997). Đây chính xác là lý do tỷ phú doanh nhân Peter Thiel của PayPal đã tài trợ học
bổng Thiel mang lại cho sinh viên 100.000 đô la trong hai năm cho những sinh viên nào
dám bỏ học đại học và nỗ lực theo đuổi khởi nghiệp kinh doanh.
Thứ hai, bởi vì một cá nhân có trình độ giáo dục cao và chất lượng sẽ dẫn đến cơ hội việc
làm mở rộng trong các công ty và doanh nghiệp hiện tại có sẵn, điều đó làm tăng chi phí
cơ hội cho cá nhân trở thành một doanh nhân khởi nghiệp. Đây chính xác là lý do tại sao
các khu vực kém phát triển với môi trường kinh doanh kém và chính sách yếu kém có xu
2
hướng có tỷ lệ tự khởi nghiệp cao, chính xác đây là những gì được chứng minh trong bài
nghiên cứu về chi phí cơ hội của khởi nghiệp (Cassar, 2006).
Cuối cùng, giáo dục được cải thiện có thể khiến các cá nhân đánh giá tốt hơn các rủi ro,
thất bại tiềm ẩn và các vấn đề với ý tưởng của họ, khiến các cá nhân khởi nghiệp phải từ
bỏ theo đuổi ý tưởng xấu và giảm tổng số khởi nghiệp mới. Mặc dù yếu tố thứ ba này dẫn
đến ít thất bại hơn trong kinh doanh vì ít ý tưởng tồi tệ hơn được thực hiện, nhưng nó
cũng dẫn đến các doanh nghiệp khởi nghiệp ít được thành lập hơn.
Các kết quả không đồng nhất về mối quan hệ giữa giáo dục đại học và tỷ lệ khởi nghiệp
không những thể hiện qua các nghiên cứu lý thuyết trước đây mà chúng còn được tìm
thấy trong thực tế, đặc biệt dành cho sinh viên tham gia các khóa học về kinh doanh và
lập kế hoạch kinh doanh, và những phát hiện này được nhân rộng ở nhiều quốc gia khác
nhau (Martin, McNally và Kay, 2013). Ví dụ, Oosterbeek, van Praag và Ysselstein
(2010) nhận thấy rằng sinh viên đại học Ý định khởi nghiệp đã giảm bớt sau khi tham gia
một khóa học về tinh thần kinh doanh và điều này đã được nhân rộng. Mentoor và
Friedrich (2007) tìm thấy các khóa học đại học ở Nam Phi tập trung vào quản lý doanh
nghiệp nhỏ và kết quả là tinh thần kinh doanh có mối tương quan nghịch với các kỹ năng
và kiến thức kinh doanh, đồng thời Von Graevenitz, Harhoff, và Weber (2010) tìm thấy
kết quả tương tự đối với các sinh viên Đức. Một số nghiên cứu của sinh viên Pháp và
Litva (Fayolle, Gailly và Lassas-Clerc, 2006; Garalis và Strazdiene, 2007) lại tìm thấy
kết quả hỗn hợp. Nhiều yếu tố có thể giải thích mối quan hệ nghịch đảo này bao gồm việc
hiểu rõ hơn về rủi ro thực sự và khối lượng công việc liên quan đến việc bắt đầu một
doanh nghiệp mới đã làm giảm tỷ lệ khởi nghiệp thực tế của sinh viên.
Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu giá trị về đề tài trên, tuy nhiên các kết quả lại khá hỗn
loạn và chưa đi đến một câu trả lời xác đáng cho mối quan hệ trên, đồng thời còn tồn tại
khá nhiều vấn đề cần khắc phục. Đầu tiên, đa số các nghiên cứu nhầm lẫn và bỏ qua tác
động phi tuyến tính của vốn con người đối với tinh thần kinh doanh. Thứ hai, tác động
của nguồn nhân lực đối với tinh thần kinh doanh còn phụ thuộc vào mức độ phát triển tài
chính của quốc gia đó, tuy nhiên cũng chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu nào khai
thác. Cuối cùng, các nghiên cứu trước vẫn chủ yếu tập trung vào các quốc gia có nền
kinh tế thị trường phát triển, hệ thống kinh tế thị trường được hình thành đồng bộ và vận
3
hành hiệu quả, môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển nên chưa phản ánh một
cách chung nhất và chính xác nhất về mối quan hệ này; dữ liệu nghiên cứu cũng chưa
được cập nhật đầy đủ đến thời điểm gần nhất nên sẽ không phản ánh được chính xác mối
quan hệ trên trong nền kinh tế nhiều biến động những năm gần đây.
Ngoài ra, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, tôi thấy rằng vấn đề khởi nghiệp và vốn con
người đang được các nước trên thế giới ngày càng quan tâm vì nó ảnh hưởng mạnh mẽ
đến sự tăng trưởng kinh tế và phát triển chung của một quốc gia. Hãy cùng điểm qua một
vài quốc gia luôn chú trọng đến tinh thần khởi nghiệp trong những năm qua. Đầu tiên
phải nói đến quốc gia có tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ nhất trên thế giới trong vài chục
năm qua là Israel. Có lẽ vì thấy được tầm quan trọng của khởi nghiệp trong sự phát triển
kinh tế mà họ đã rèn luyện và giáo dục tinh thần khởi nghiệp cho trẻ em ngay từ khi còn
nhỏ. Tiếp theo, không thể không nhắc đến nước Mỹ, đất nước với những tập đoàn lớn
mạnh, hàng chục nhà bác học đạt giải Nobel, hàng trăm nhà tỷ phú, hàng nghìn nhà khoa
học thiên tài, chiếm lĩnh hầu hết những công nghệ hiện đại nhất thế giới. Vậy điều gì đã
tạo nên điều đó cho nước Mỹ? Có rất nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quyết định là tinh thần
khởi nghiệp của người Mỹ. Ở Việt Nam hiện nay, môi trường khởi nghiệp được đánh giá
là còn non trẻ so với thế giới nhưng có nhiều tiềm năng để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp
một cách mạnh mẽ. Theo đó, có hàng trăm Trường đại học, Viện – nơi được coi là trung
tâm của hệ sinh thái khởi nghiệp, đang hoạt động khắp cả nước và ngày càng nhân rộng.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là có thật sự kết quả giáo dục (vốn con người) sẽ có mối quan hệ
cùng chiều với tỷ lệ khởi nghiệp hay không?
Thấy được những khoảng trống lý thuyết cũng như tính thực tiễn của đề tài này trong giai
đoạn hiện nay, tôi đã quyết định thực hiện đề tài này nhằm kiểm tra thực nghiệm mối
quan hệ giữa tuyển sinh giáo dục đại học và tỷ lệ khởi nghiệp (sự hình thành các doanh
nghiệp mới) trên khắp các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tôi cố gắng làm
rõ vấn đề này bằng cách xem xét mối quan hệ giữa vốn con người và tinh thần khởi
nghiệp dưới ảnh hưởng của các mức độ phát triển tài chính khác nhau. Đặc biệt ở nước
ta, khi xu hướng khởi nghiệp đang bắt đầu lan tỏa mạnh mẽ và Chính phủ cũng đã quyết
định chọn năm 2016 là năm khởi đầu cho năm năm quốc gia khởi nghiệp sắp tới, cho
thấy các nhà chính sách cũng đã nhận ra tầm quan trọng của khởi nghiệp và đổi mới lên
4
sự tăng trưởng của quốc gia, tuy nhiên lại chưa có nghiên cứu nào về đề tài này cho thực
tế Việt Nam. Do đó, tôi đã tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn
con người và khởi nghiệp dưới ảnh hưởng của mức độ phát triển tài chính ở Việt Nam
và một số quốc gia khác”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích mối quan hệ của tinh thần khởi nghiệp
và vốn con người dưới ảnh hưởng của kênh phát triển tài chính ở Việt Nam cùng một số
quốc gia khác trên thế giới. Các tài liệu trước đây đã nhất trí rằng phát triển tài chính và
vốn con người là thành phần quan trọng của tăng trưởng kinh tế; cùng với đó, những yếu
tố này cũng không thể thiếu cho sự thành công của một doanh nhân khởi nghiệp.
Câu hỏi đầu tiên đặt ra trong nghiên cứu này là hai yếu tố giáo dục và phát triển tài chính
có tác động đến tinh thần khởi nghiệp của một quốc gia hay không và nếu có thì tác động
theo chiều hướng nào?
Thứ hai là liệu mức độ phát triển tài chính có tác động phi tuyến tính đến tinh thần khởi
nghiệp không? Nghĩa là đối với quốc gia có mức độ phát triển tài chính cao thì vốn tài
chính tăng lên nữa có làm tinh thần khởi nghiệp tăng lên nữa không và ngược lại.
Thứ ba, mức độ phát triển tài chính có ảnh hưởng đến sự tác động của nguồn vốn con
người lên tinh thần khởi nghiệp hay không? Tức là đối với một quốc gia có mức độ phát
triển tài chính thấp, thì sự tăng lên về nguồn vốn con người có làm tinh thần khởi nghiệp
tăng lên hay không và ngược lại.
Cuối cùng, ở những nước có thu nhập thấp hơn trung bình, để tăng tỷ lệ khởi nghiệp thì
nên tập trung cải thiện giáo dục hay phát triển tài chính và một sự cải thiện trong yếu tố
nguồn vốn con người có đủ khả năng bù đắp sự thiếu hụt của hiệu quả tài chính hay
không? Bởi vì đối với nhiều nước đang phát triển, việc có cả lĩnh vực tài chính mạnh và
mức vốn con người cao có thể khó xảy ra do hạn chế về nguồn lực.
Để giải quyết những câu hỏi chưa được khám phá đó, tôi đã đào sâu và mở rộng các
nghiên cứu lý thuyết trước đây về tinh thần khởi nghiệp, nguồn vốn con người và phát
triển tài chính. Đồng thời sử dụng một phân tích thực nghiệm cho một nhóm các quốc gia
rộng lớn theo thời gian, tôi dùng các biến định lượng đặc trưng thay thế cho từng yếu tố
5
trên để kiểm định mối quan hệ và những tác động lẫn nhau của chúng. Từ đó, đưa ra
những khuyến nghị cho các chính sách nhằm tạo động lực để gia tăng tinh thần khởi
nghiệp và phát triển nền kinh tế đất nước.
1.3 Phương pháp, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Bài nghiên cứu này trình bày phân tích thực nghiệm mối quan hệ ba yếu tố: hoạt động
khởi nghiệp, vốn con người và phát triển tài chính ở 43 quốc gia trên khắp thế giới trong
đó có Việt Nam. Tôi sử dụng dữ liệu bảng cho các quốc gia đó trong giai đoạn từ 2001
đến 2015. Đồng thời tôi sử dụng phương pháp ước lượng GMM hệ thống để ước lượng
dữ liệu bảng động xuyên quốc gia để khắc phục triệt để hiện tượng nội sinh (nếu có).
Ngoài ra tôi đã thực hiện các kiểm định liên quan như kiểm tra hiện tượng nội sinh bằng
kiểm định kiểm tra tự tương quan bằng kiểm định Wooldridge và kiểm định đa cộng
tuyến để xác định những “khuyết tật” có thể có của mô hình GMM để đảm bảo tính vững
chắc của nghiên cứu. Thậm chí ngay cả trong điều kiện giả thiết nội sinh bị vi phạm,
phương pháp GMM hệ thống vẫn cho ra các hệ số ước lượng vững, không chệch và hiệu
quả nên tôi đã chọn phương pháp này.
1.4 Bố cục bài nghiên cứu
Để phục vụ cho việc tra cứu của độc giả, giúp độc giả có thể nắm tổng quan bài nghiên
cứu một cách dễ dàng, tôi đưa ra các danh mục tra cứu như mục lục và các danh mục
bảng biểu, danh mục từ viết tắt, danh mục biểu đồ. Sau đó tôi mô tả một cái nhìn tổng
quát cho toàn bài nghiên cứu bằng những giới thiệu tổng quan trong phần tóm tắt.
Công trình nghiên cứu của tôi được chia thành năm chương. Trong chương một, tôi nêu
lên lý do thực hiện và mục tiêu nghiên cứu của đề tài này, tiếp sau đó tôi giới thiệu tổng
quan về phương pháp nghiên cứu cũng như đối tượng và phạm vi nghiên cứu của bài. Ở
chương 2, tôi sẽ trình bày những khung lý thuyết liên quan đến hoạt động khởi nghiệp,
vốn con người, và phát triển tài chính, cùng với đó là những bằng chứng thực nghiệm từ
các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế học đi trước, những bằng chứng thực
nghiệm đã khẳng định vai trò của tinh thần khởi nghiệp trong quá trình đổi mới và tăng
trưởng kinh tế. Đến chương 3, tôi trình bày chi tiết về phương pháp ước lượng và các mô
hình thực nghiệm. Trong đó, tôi mô tả cụ thể hơn về phương pháp ước lượng mà tôi sử
dụng trong bài, sau đó tôi đưa ra mô hình thực nghiệm cho công trình của mình dựa trên
6
những lý thuyết đã nêu ở trên. Tiếp sau đó, tôi giải thích các biến số trong mô hình và
nguồn của bộ dữ liệu mà tôi thu thập. Đến chương 4, tôi trình bày những kết quả thực
nghiệm của mình sau khi chạy các mô hình hồi quy nêu trên, đồng thời tiến hành các
kiểm định cần thiết để kiểm tra những khuyết tật có thể mắc phải của mô hình. Hơn nữa,
ở phần cuối chương này, tôi đã đưa ra những giải thích cho kết quả thực nghiệm, sau đó
trả lời các câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra ở đầu bài và đưa ra các đề xuất đóng góp dựa trên
nhưng kết quả mà tôi phát hiện được. Chương cuối cùng, tôi đưa ra kết luận chung cho
toàn bộ bài nghiên cứu, ngoài ra tôi cũng chỉ ra những hạn chế còn gặp phải cùng với
hướng nghiên cứu tiếp theo cho đề tài này trong tương lai.
7
KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC BẰNG CHỨNG THỰC
NGHIỆM
2.1 Khung lý thuyết
2.1.1 Lý thuyết về vai trò của khởi nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế
Trước khi tiến hành nghiên cứu về động lực thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp có phải là
nguồn vốn nhân lực không, ta phải thấy được tầm quan trọng của tinh thần khởi nghiệp
đối với tăng trưởng kinh tế. Động lực của tăng trưởng kinh tế luôn là đề tài gây hứng thú
cho các nhà kinh tế trong nhiều năm qua. Trước đây, đã có rất nhiều công trình của
những nhà nghiên cứu nổi tiếng về sự tác động của các yếu tố như vốn, lao động, khoa
học công nghệ lên tăng trưởng kinh tế và nhiều trong số đó đã trở thành nền móng cơ bản
cho các nghiên cứu mở rộng sau này. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: Liệu có mối quan hệ
nào giữa khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế không? Theo lý thuyết của Adam Smith cho
rằng: Các thị trường đang ngày càng mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình khởi
nghiệp và đổi mới sáng tạo, từ đó năng suất lao động sẽ tăng lên và tạo ra sự tăng trưởng
kinh tế. Trái chiều với lý thuyết của Adam Smith, David Ricardo lại nhận định rằng sự
kết hợp của các yếu tố đầu vào như: đất đai, lao động, nguồn vốn sẽ cho ta một hàm sản
lượng nói lên sự tăng trưởng kinh tế. Xem xét các yếu tố trên để nhận xét về tăng trưởng
kinh tế, ông cho rằng: Nguồn vốn có thể tăng lên trong quá trình đầu tư nhưng đất đai thì
hữu hạn và sự gia tăng dân số luôn cao hơn sự tăng trưởng kinh tế do đó phần lớn dân số
chỉ có mức thu nhập vừa đủ. Nhìn trên phương diện này, ông nhận xét rằng khởi nghiệp
sẽ không làm gia tăng nhanh của cải, hay nói cách khác, khởi nghiệp và sáng tạo đổi mới
không phải là yếu tố chủ yếu trong sự tăng trưởng.
Hai ý kiến về vấn đề khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế trên là những khái niệm cơ bản
và giản đơn nhất. Smith kết luận rằng sự tăng trưởng kinh tế có một tiềm năng không giới
hạn, còn Ricardo cho rằng tiềm năng đó không thể vô hạn mà bị hạn chế bởi những hữu
hạn trong các yếu tố, các nguồn lực cấu thành nên sự tăng trưởng. Ta thấy rằng, Adam
Smith khi xem xét về sự tăng trưởng kinh tế đã có tầm nhìn rộng hơn Ricardo. Nhưng các
nghiên cứu kinh tế lại có vẻ gần gũi với tư tưởng của Ricardo hơn khi nhắc đến vấn đề
tăng trưởng kinh tế. Lý do là khi thiết lập các mô hình kinh tế, cách tiếp cận của Ricardo
8
có tính ứng dụng tốt hơn vì quá trình mô hình hóa các hiện tượng kinh tế đòi hỏi mô hình
phải tính toán và so sánh được, trong khi yếu tố “đổi mới sáng tạo” của Adam Smith lại
rất khó đưa vào các mô hình kinh tế một cách chính xác.
Trong hàm sản lượng của Ricardo, nguồn vốn (vốn đầu tư) là yếu tố chính của quá trình
tăng trưởng kinh tế, còn theo Adam Smith, sự đổi mới sáng tạo mới là chìa khóa của tăng
trưởng kinh tế, nhưng quá trình đổi mới sáng tạo diễn ra như thế nào thì không được ông
giải thích. Về sau này, nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu và thảo luận vấn đề này, nhà kinh
tế học Kirzner cũng theo trường phái của Smith về tăng trưởng kinh tế khi ông chỉ đưa ra
quan điểm rằng: Động lực của tinh thần khởi nghiệp chính là “cơ hội sinh lời chưa được
phát hiện từ trước”. Theo quan điểm đó, khởi nghiệp chính là động lực thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, giống phát biểu của Smith. Theo Kirzner, tri thức khởi nghiệp là việc
nhận ra cơ hội kiếm lời mà từ trước đến giờ không ai chú ý đến. Nhà khởi nghiệp thực
hiện những ý tưởng tạo ra một năng suất cao hơn, sự thỏa mãn nhu cầu lớn hơn với mức
chi phí thấp hơn. Nhà kinh tế học Schumpeter phân tích một bối cảnh mà điểm cân bằng
cạnh tranh làm tối thiểu hóa lợi nhuận, và một bối cảnh trong đó lợi nhuận chính là phần
thưởng cho quá trình khởi nghiệp. Schumpeter cho rằng, tinh thần khởi nghiệp là nền
móng cho sự tăng trưởng kinh tế. Bắt đầu từ những kinh nghiệm lịch sử, các tư tưởng và
ý tưởng về khởi nghiệp được sinh ra và phát triển, rồi những tri thức mới lại được tích
góp làm kinh nghiệm để tạo ra những tư tưởng khởi nghiệp mới, quá trình này cứ tiếp
diễn dấn đến sự tăng trưởng kinh tế. Vậy theo Schumpeter quá trình tăng trưởng kinh tế
diễn ra là do quá trình khởi nghiệp đã tạo ra một môi trường mà trong đó sự đổi mới sáng
tạo được nuôi dưỡng và phát triển do vậy mà năng suất lao động ngày càng tăng, hiệu
quả kinh tế của sản xuất ngày càng cao, tạo ra tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta sẽ cùng xem xét lại các mô hình tăng trưởng kinh tế từ sơ khai đến nay để có
cái nhìn tổng quát hơn. Đầu tiên phải kể đến là mô hình tăng trưởng cơ bản. Trong mô
hình này, phương trình hàm sản xuất phụ thuộc vào 2 yếu tố: Nguồn vốn (K) và lực
lượng lao động (L). Đây là mô hình cơ bản nhất và phương trình của hàm sản xuất (hay
hàm tổng sản lượng) sẽ là:
Y = F (K, L) (2-1)
9
Qua phương trình này ta thấy rằng: Nếu lực lượng lao động hay nguồn vốn gia tăng, sẽ
dẫn đến sản xuất gia tăng. Theo cách lập luận này thì tăng trưởng kinh tế diễn ra do tăng
đầu tư (đầu tư vào nhà xưởng, máy móc, cơ sở vật chất, hạ tầng,…) hoặc tăng quy mô
của lực lượng lao động, hay cả hai. Dạng chính xác của hàm F (cho biết chính xác sản
xuất sẽ tăng bao nhiêu khi thay đổi K và L) chính là điểm phân biệt giữa các mô hình
tăng trưởng khác nhau.
Mô hình này còn đơn giản và chưa đề cập nhiều đến các yếu tố quan trọng khác như sự
đổi mới khoa học công nghệ, quá trình khởi nghiệp,…Và với nền kinh tế hiện đại ngày
nay, các nghiên cứu mới cho rằng: nguồn vốn và số lượng lao động không còn là những
yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế, và chúng chỉ là một thành phần trong quá trình
tăng trường.
Tiếp đến là mô hình tăng trưởng của Harrod-Domar, một mô hình dựa vào lý thuyết
trong trường phái Keynes. Vào năm 1929-1933 thế giới phải đối mặt với cuộc đại khủng
hoảng kinh tế thừa do các nước tư bản chạy theo lợi nhuận, sản xuất hàng hóa ồ ạt, trong
khi sức mua giảm sút vì người dân đang còn nghèo. Đến đây thì mô hình tăng trưởng cổ
điển tỏ ra bất lực khi giải thích hiện tượng kinh tế này. Bên cạnh đó, một sự xuất hiện của
các thành tựu về khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, kỹ
thuật thâm canh, và đặc biệt là máy kéo đã giúp cho sản lượng trong ngành nông nghiệp
tăng lên nhanh chóng và tuy bị giới hạn bởi nguồn đất đai “hữu hạn” nhưng sản lượng
thực phẩm cung cấp cho mọi người vẫn đầy đủ. Và điều này đã khiến các nhà nghiên cứu
có một cái nhìn rộng hơn trong tăng trưởng kinh tế. Phương trình của mô hình này có thể
được mô tả như sau:
Y = K/v hay Y = 1/v x K (2-2)
Trong đó, v là một hằng số. Nguồn vốn (K) trong phương trình được nhân cho 1 số cố
định (1/v) để tính tổng sản lượng. Vậy v có ý nghĩa gì? Các nhà kinh tế thường gọi v là tỷ
số vốn tăng thêm trên sản lượng, hay v chính là tỷ số ICOR, cho biết cần bỏ thêm bao
nhiêu đơn vị trong nguồn vốn để tạo ra thêm một đơn vị sản lượng. Và tỷ số này giúp
chúng ta đo lường năng suất của mỗi lượng vốn được đưa vào sản xuất.
Mô hình Harrod Domar đã mở rộng hơn mô hình cổ điển nhưng vẫn mang một sự đơn
giản, phương trình dễ dàng sử dụng và ước lượng. Mô hình còn nhận xét rằng, các quyết
10
định cá nhân về việc tiết kiệm bao nhiêu và tiêu dùng bao nhiêu từ thu nhập là trọng tâm
của quá trình tăng trưởng. Người ta thích tiêu dùng ngay bây giờ hơn là mai sau, nhưng
càng tiêu dùng nhiều, thì càng có ít tiết kiệm để tài trợ đầu tư, vì thế mô hình đã tập trung
vào vai trò cốt lõi của tiết kiệm trong tăng trưởng kinh tế theo thời gian. Nhưng phải
chăng mô hình Harrod Domar quá chú trọng vào tiết kiệm? Nếu xét đến các điều kiện của
tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm được xem là một điều kiện cần, nhưng trong mô hình của
Harrod Domar thì ngụ ý rằng tiết kiệm là điều kiện cần và đủ trong tăng trưởng kinh tế,
nhưng thực tế thì điều này còn nhiều vấn đề cần làm rõ.
Tiếp đến là mô hình tăng trưởng tân cổ điển - mô hình tăng trưởng Solow. Năm 1956,
nhà kinh tế học MIT Robert Solow giới thiệu một mô hình tăng trưởng kinh tế mới, đó là một sự phát triển từ mô hình Harrod Domar. Solow thừa nhận là có nhiều vấn đề
phát sinh từ hàm sản xuất khá cứng nhắc trong mô hình Harrod Domar. Vì vậy Solow
đã đưa ra giải pháp là bỏ hàm sản xuất có hệ số cố định và thay thế nó bằng hàm sản
xuất tân cổ điển, điều này cho phép mô hình có tính linh hoạt hơn và có sự thay thế
giữa các yếu tố sản xuất. Trong mô hình Solow, yếu tố thay đổi công nghệ được đưa vào
phương trình như sau:
Y = F(K, TxL) (2-3)
Trong đó, nguồn vốn (K) và nguồn lao động (L) được kết hợp với sự thay đổi công nghệ
(T). Theo các mô tả này, phát triển công nghệ được đưa vào mô hình và làm thay đổi hiệu
quả của yếu tố lao động (LxT). Khi công nghệ được cải tiến (T tăng), hiệu quả và năng
suất của lao động tăng, vì cùng một giá trị lao động bây giờ có thể sản xuất được nhiều
sản lượng hơn. T có thể tăng lên nhờ những cải tiến trong công nghệ theo ý nghĩa khoa
học (các phát minh và các quy trình mới) hay theo nguồn vốn nhân lực, như sự cải thiện
về y tế, giáo dục, hay kỹ năng của lực lượng lao động.
Trong mô hình Solow, công nghệ là một biến ngoại sinh, vì thế mà nó được xác định độc
lập với tất cả các biến và các thông số trong mô hình. Tuy Solow không mô tả chính xác
sự thay đổi công nghệ diễn ra như thế nào nhưng rõ ràng sự đổi mới công nghệ đã bổ
sung cho khả năng tăng sản lượng của các yếu tố sản xuất.
Solow thừa nhận rằng tỷ lệ lợi nhuận trong đầu tư là một hàm giảm dần theo vốn bình
quân đầu người, và thu nhập bình quân đầu người ở các nước khác nhau sẽ hội tụ vào
11
một trạng thái dừng ổn định trong trường hợp không có thay đổi công nghệ ngoại sinh.
Quả thật, tiến bộ công nghệ đã trở thành một nhân tố chính đằng sau sự tăng trưởng kinh
tế, mô hình cho thấy việc tiếp thu công nghệ mới thông qua phát minh trong nước hay
nhập khẩu công nghệ mới từ nước ngoài, có thể kích thích tăng trưởng kinh tế vô
cùng mạnh mẽ. Tuy nhiên, những dự đoán của mô hình có phần không phù hợp với các
quan sát trong thực tế, đặc biệt khi cho rằng tất cả các phần không giải thích được của
tăng trưởng kinh tế là do các cú sốc công nghệ ngoại sinh.
Mô hình tân cổ điển Solow chúng ta vừa đề cập ở phía trên đã mô tả được những đặc
điểm chủ yếu của một mô hình kinh tế mang tính thực tế ở các nước phát triển. Mô hình
Solow có thể được gọi là cơ sở trong hầu hết các nghiên cứu thuộc kinh tế vĩ mô ở các
nước phát triển. Tuy nhiên, mô hình Solow chưa giải thích đầy đủ những thực tế trong
tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Ở môi hình Solow, ngoài
nguồn vốn (K) ra thì yếu tố quyết định sản lượng là hiệu suất của nguồn lao động (TxL)
nhưng nguồn lao động có ý nghĩa như thế nào thì mô hình chưa làm rõ.
Vậy làm sao để thấy được sự khác biệt giữa hai quan điểm về tăng trưởng của Smith và
Ricardo? Trong bối cảnh của kinh tế học đương đại, một phương pháp có thể áp dụng để
trả lời câu hỏi này đó chính là mô hình tăng trưởng Solow (1956). Theo mô hình này, Y
là sản lượng, K và L lần lượt là nguồn vốn và lao động, t là thời gian và hàm sản lượng là
một hàm gồm sự kết hợp của các yếu tố trên.
Y = f(K, L, t)
Giải thích cho sự có mặt của thời gian trong hàm sản lượng này, Solow cho rằng: Theo
thời gian, đổi mới công nghệ sẽ xảy ra tạo ra một hiệu suất sử dụng nguồn vốn và lao
động cao hơn. Ta thấy rằng, để xây dựng mối quan hệ giữa các yếu tố sản lượng, nguồn
vốn và nguồn lao động trong mô hình thì không khó nhưng để đưa vào mô hình sự ảnh
hưởng của thời gian thì không phải việc đơn giản, chính vì thế người ta thường xem thời
gian là một biến ngoại sinh. Bên cạnh đó, lao động (L) cũng thường được xem là một
biến ngoại sinh và nếu ta phân tích về thu nhập đầu người thì ta sẽ chia hàm số cho lao
động (L) để chỉ còn lại nguồn vốn (K) và biến ngoại sinh thời gian (t) lúc này sẽ giúp ta
giải thích được sự tăng trưởng. Ở dạng hàm tổng quát trên, khi chia hàm số cho lao động
(L), có khả năng ta vẫn chưa loại trừ được hết biến số đó bên vế phải của phương trình
12
nhưng phép chia này giúp ta loại bỏ một cách cơ bản yếu tố tăng trưởng dân số trong khi
xem xét quá trình tăng trưởng kinh tế. Từ đây ta thấy, nguồn vốn tăng lên (K tăng) do đầu
tư tăng lên dẫn đến sản lượng tăng (Y). Đây là quan điểm của Ricardo về tăng trưởng
kinh tế. Các nhà hoạch định ngân sách cũng đã cân nhắc kỹ lưỡng mô hình tăng trưởng
Ricardo khi tiến hành thiết lập các chính sách kinh tế quốc gia. Có một vấn đề xảy ra như
thế này: Nếu nguồn vốn (hay việc đầu tư) là yếu tố quyết định của tăng trưởng kinh tế thì
tại sao những nỗ lực đầu tư rất đáng kể ở các nước kinh tế chưa phát triển không đem lại
sự tăng trưởng rõ rệt nào cho họ? một vài bằng chứng đã khẳng định rằng: Việc tăng đầu
tư chỉ góp phần rất nhỏ vào trong sự tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, mô hình này cần phải
được xem xét lại.
Quay lại mô hình, như cách tiếp cận ở trên thì nguồn gốc của tăng trưởng phụ thuộc chủ
yếu vào nguồn vốn (K) và thời gian (t), vì nguồn gốc dễ phân tích hơn nên ta dường như
đã nâng tầm quan trọng của nó lên trong mô hình tăng trưởng, trong khi đó yếu tố thời
gian (t) lại rất khó phân tích và có gì đó còn mơ hồ. Thực tế cho thấy, không thể hiểu
rằng tự bản thân thời gian sẽ sinh ra sự tăng trưởng, mà phải xem xét rằng phải có điều gì
đó trong nền kinh tế đã thay đổi và tạo ra sự tăng trưởng theo thời gian? Và đáp án cho
câu hỏi này chính là: “Sự đổi mới sáng tạo hay sự tiến bộ khoa học công nghệ”. Đây là
một yếu tố có thể được đưa vào mô hình Solow để làm rõ vấn đề trên. Ví dụ dễ thấy
trong thực tế là nguồn chi tiêu R&D của các doanh nghiệp có thể làm tăng năng suất lao
động theo thời gian. Lucas (1988) lại cho rằng yếu tố quan trọng trong tăng trưởng kinh
tế có thể là lao động (L), chứ không phải nguồn vốn (K). Và ông cho rằng nguồn nhân
lực mới là chìa khóa cho quá trình phát triển. Trong nghiên cứu của mình, ông đưa ra ý
tưởng rằng: Khi dân số cao hơn có thể dẫn đến việc phân chia lao động xã hội thích hợp
hơn và nguồn lao động có thể ảnh hưởng tích cực đến các yếu tố khác khiến chúng hoạt
động hiệu quả hơn. Có thể nói rằng, cách suy luận của Lucas đã làm cho tư tưởng của
Smith và Ricardo bắt đầu có nét tương đồng. Young (1928) coi tăng trưởng kinh tế như
một kết quả của việc gia tăng lợi nhuận, ông cũng bước theo nền tảng của Smith trong
nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc tập trung vào lợi nhuận lại không
được quan tâm nhiều trong các mô hình kinh tế tân cổ điển (neo-classical). Paul Romer là
một trong những nhà kinh tế vạch ra hướng đi cho hệ thống lý thuyết tân cổ điển. Trong
bài nghiên cứu của ông, Romer (1986), yếu tố gia tăng lợi nhuận có thể được xem xét
13
trong mô hình và điều này gần gũi với thực tế hơn mô hình đơn giản của Solow. Tiếp sau
đó, công trình của ông năm 1990 (Romer (1990)) đã đề cập đến yếu tố nguồn nhân lực và
đưa ra nhận xét rằng mức chi tiêu trong R&D có thể là động lực làm tăng trưởng kinh tế.
Theo những phương pháp trong lý thuyết tân cổ điển, cách tạo ra tiến bộ khoa học công
nghệ chính là sự đổi mới. Sự đổi mới đem đến những phát minh, những công nghệ mới.
Và chi tiêu cho R&D cùng với sự kết hợp các nguồn lực khác như nguồn vốn và lao động
sẽ tạo nên sự tiến bộ khoa học công nghệ. Chính vì thế, ta có thể thấy được những thành
công từ việc đầu từ vào R&D, nhưng việc chi tiêu vào R&D chưa phải là điểm kết thúc
của câu chuyện tăng trưởng. Vì khi các kết quả từ hoạt động R&D (nghiên cứu và phát
triển) hoàn tất, những phát minh đó phải được thiết lập chiến lược để đưa vào thực tế, tạo
ra một sự đổi mới, giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành,… hay nói cách khác, các phát
minh khi ứng dụng vào thực tế phải sản xuất được các sản phẩm chưa từng được tung ra
thị trường, đó là một sự đổi mới thật sự.
Trong bài nghiên cứu năm 1973 của Kirzer, Kirzer (1973), ông đã đưa ra khái niệm thế
nào là nhà khởi nghiệp: “Nhà khởi nghiệp là những người có đủ khả năng nhạy bén để
phát hiện được các cơ hội sinh lời mà trước đó chưa có ai phát hiện ra, sau đó họ tận
dụng cơ hội này để tạo ra sự đổi mới”. Qua đó ta thấy, việc khởi nghiệp phụ thuộc vào
khả năng phát hiện và chú ý đến những cơ hội khó nhận ra, thứ mà ít người có thể nhận
ra. Sự nhạy bén trong khởi nghiệp không hẳn là có liên quan đến tri thức, tất cả mọi
người đều có tiềm năng và những kiến thức cụ thể của mình để nhận ra và nắm bắt một
cơ hội khởi nghiệp nào đó. Nhưng tùy vào kiến thức chuyên môn của mỗi người mà cơ
hội của mỗi người đều rất khác nhau. Ví dụ: Thật không có gì ngạc nhiên khi những phát
minh về hệ thống tưới tiêu trong nông nghiệp được sáng tạo từ những người nông dân,
chứ không phải từ một nhà kinh tế. Nhưng nhà kinh tế là người đưa phát minh này đến
thị trường với mục tiêu thu được một khoản sinh lời đáng kể. Sau đây là một số ví dụ
thực tế về các cơ hội có thể sinh lời mà các nhà khởi nghiệp vĩ đại trong lịch sử đã nhận
ra được: Sự phát triển của khoa học máy tính đã giúp Bill Gates trở thành người giàu nhất
thế giới; John D. Rockefeller, nhà sáng lập công ty dầu lửa Standard Oil có thể kiểm soát
được hệ thống phân phối của công ty mình vì thời kỳ đó hoàn toàn phụ thuộc vào các
công trình đường sắt mới được xây dựng; Ông vua thép Andrew Carnegie (1835 – 1913)
14
nhờ dựa vào quy trình sản xuất Bessemer vừa mới ra đời, ông đã tạo dựng được một đế
chế US Steel hùng mạnh ở Mỹ.
Những nhà khởi nghiệp trên đây không tự mình tạo ra các công nghệ, mà họ nắm bắt
được những cơ hội khởi nghiệp từ những công nghệ đó. Trong hầu hết các trường hợp,
các cơ hội tồn tại dưới trạng thái ít ai nhận ra, chúng xuất hiện bất ngờ và ai là người
nhanh chân, người đó là người nắm ưu thế.
Romer (1986, 1990) nói đến một hiệu ứng lan tỏa tri thức. Tri thức là thứ chứa đựng
trong nguồn vốn con người, nó là một yếu tố làm cho lợi nhuận gia tăng, qua đó cho thấy
việc đầu tư vào nguồn nhân lực khiến cho các khoản đầu tư trong tương lai vào mảng này
càng có hiệu quả. Sở dĩ nói vậy vì nguồn nhân lực sẽ được kết hợp với các yếu tố sản
xuất khác để tạo ra một hiệu suất cao hơn trong quá trình sản xuất. Qua đó có thể thấy vai
trò quan trọng của nguồn vốn con người đối với khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế.
2.1.2 Lý thuyết về vốn con người và tinh thần khởi nghiệp
2.1.2.1 Tổng quan các nghiên cứu lý thuyết về vốn con người
Sự quan tâm đến vốn con người trong các tài liệu khởi nghiệp đã có từ lâu và tăng lên
mạnh mẽ trong hai thập kỷ qua. Lý thuyết vốn con người ban đầu được phát triển để
nghiên cứu giá trị của giáo dục (Becker, 1964; Schultz, 1961) và cho thấy mọi người có
kiến thức và kỹ năng khác nhau và đều có giá trị kinh tế. Mincer (1958) lần đầu tiên thảo
luận về khái niệm vốn con người như một lời giải thích cho bất bình đẳng thu nhập.
Schultz quan sát thấy rằng sự gia tăng sản lượng quốc gia là không tương xứng so với đất
đai, giờ lao động, hoặc vốn vật chất, và lập luận đầu tư vào vốn con người có lẽ là lời giải
thích chính. Becker xây dựng trên những quan điểm này và đưa ra lý thuyết đầu tư vào
vốn con người dựa trên số lượng bằng chứng khổng lồ cho thấy những người có trình độ
học vấn và kỹ năng cao hơn hầu như luôn có xu hướng kiếm được nhiều tiền hơn những
người khác.
Lý thuyết này ngày càng được áp dụng trong lĩnh vực khởi nghiệp, liên tục liên kết các
thuộc tính vốn con người với thành công của doanh nhân (Unger, Rauch, Frese, &
Rosenbusch, 2011). Một số lập luận khác mô tả lý do tại sao vốn con người, hoặc kiến
thức có tầm quan trọng đặc biệt đối với lĩnh vực kinh doanh (Ardichvili, Cardozo, & Ray,
15
2003; Shane, 2000). Đầu tiên, vốn con người rất quan trọng để khám phá và tạo ra cơ hội
kinh doanh (Alvarez & Barney, 2007; Marvel, 2013). Vốn con người cũng hỗ trợ khai
thác các cơ hội bằng cách tìm được các nguồn tài chính tung ra các dự án (Bruns,
Holland, Shepherd & Wiklund, 2008; Dimov, 2010). Thứ ba, vốn con người hỗ trợ tích
lũy kiến thức mới và tạo ra lợi thế cho các công ty mới (Bradley, McMullen, Artz, &
Simiyu, 2012; Corbett, Neck & DeTienne, 2007). Trong nghiên cứu thực tế, vốn con
người là tiêu chí lựa chọn được sử dụng thường xuyên nhất trong các dự án đầu tư mạo
hiểm khi đánh giá hiệu quả tiềm năng của dự án (Zacharakis & Meyer, 2000). Ngoài ra,
nghiên cứu về vốn con người và lợi nhuận công ty có thể được tìm thấy trong công trình
của Unger et al. (2011) và nghiên cứu về giáo dục khởi nghiệp; tài sản, hành vi và hiệu
quả vốn con người được tìm thấy trong một bài viết của Martin, McNally và Kay (2013).
Mỗi nghiên cứu đều cung cấp bằng chứng thuyết phục rằng vốn con người là rất quan
trọng để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp.
Thêm vào đó, để tiến hành đánh giá toàn diện, bài nghiên cứu: “Vốn con người và khởi
nghiệp” của Matthew R. Marvel, Justin L. Davis, Curtis R. Sproul (2014) đã thống kê lại
các nền tảng lý thuyết về vốn con người trong các bài nghiên cứu trước. Ngoài việc lấy lý
thuyết vốn con người làm trọng tâm thì các nghiên cứu khởi nghiệp còn tích hợp nhiều lý
thuyết để giải thích các hiện tượng. Cụ thể, 109 bài viết nghiên cứu về chủ đề này đã sử
dụng chung 142 phương pháp lý thuyết khác nhau, trung bình hơn hai lý thuyết cho mỗi
nghiên cứu. Trong tổng số các nghiên cứu, 18 nghiên cứu (16%) chỉ sử dụng lý thuyết
vốn con người và 52 nghiên cứu (48%) sử dụng phương pháp lý thuyết kép. Ba mươi
chín nghiên cứu (36%) tận dụng ba hoặc nhiều lý thuyết trong cùng một nghiên cứu
chứng minh sự phổ biến của các phương pháp đa lý thuyết.
Để hệ thống lại 142 lý thuyết được sử dụng, tác giả đã sắp xếp từng lý thuyết vào nguồn
gốc xuất xứ của chúng. Các lý thuyết đã được phân loại và tần số được mô tả trong Bảng
2.1.
16
Loại hình lý thuyết Số nghiên cứu sử dụng Tỷ lệ phần trăm
Chiến lược 43 30.7%
Nhận thức, học tập và tâm lý học 33 23.6%
Khởi nghiệp 31 22.1%
Vốn xã hội hoặc mạng lưới kết nối 25 17.9%
Kinh tế và tài chính 8 5.7%
Tổng cộng 140 100%
Theo Human Capital and Entrepreneurship Research, 2014
Bảng 2.1. Các lý thuyết được áp dụng trong nghiên cứu khởi nghiệp của con người tính
đến tháng 9/2014
Các lý thuyết từ chiến lược đã được áp dụng phổ biến nhất kết hợp với vốn con người
(30,3%), và các lý thuyết về nhận thức, học tập và tâm lý học cũng đã phổ biến (23,2%).
Các lý thuyết phổ biến thứ ba được kết hợp là từ khởi nghiệp (21,8%). Chúng bao gồm
các lý thuyết về khám phá cơ hội, sáng tạo, khai thác, ý định khởi nghiệp, khởi nghiệp
nhập cư và giới tính. Các lý thuyết về mạng lưới kết nối và vốn xã hội đã được áp dụng
với vốn con người trong 17,6% các nghiên cứu. Đặc biệt lưu ý, mặc dù lý thuyết vốn con
người có nguồn gốc từ các tài liệu kinh tế, chỉ có 5,6% bài viết trong dòng này áp dụng lý
thuyết kinh tế hoặc tài chính kết hợp với vốn con người. Tác giả đã cho rằng phát hiện
này cần đặc biệt quan tâm và có thể là hướng nghiên cứu tiềm năng mà tác giả xem xét
lại trong các phần sắp tới. Kết hợp lại với nhau, những phát hiện cho thấy nghiên cứu
khởi nghiệp vốn con người rất đa ngành và khá đa dạng về mặt lý thuyết vi mô và vĩ mô.
Tuy nhiên, chiến lược, nhận thức và khởi nghiệp là các lý thuyết phổ biến nhất khi
nghiên cứu về vấn đề này.
2.1.2.2 Cấu trúc vốn con người
Nghiên cứu vốn con người ban đầu nhấn mạnh các yếu tố cốt lõi của lý thuyết bao gồm
kiến thức và kỹ năng (Schultz, 1961) cũng như các yếu tố bậc cao hơn bao gồm vốn con
người nói chung và cụ thể (Becker, 1964). Theo nghiên cứu Matthew R. Marvel, Justin
L. Davis, Curtis R. Sproul (2014) có tổng cộng 344 yếu tố vốn con người được đưa vào
17
trong các nghiên cứu được phân tích, mặc dù nhiều yếu tố giống hệt nhau. Số lượng yếu
tố vốn con người trung bình được sử dụng trong các nghiên cứu thực nghiệm là 3,3
nhưng dao động từ 1 đến 10. Tác giả đã thống kê và hệ thống lại để xác định những yếu
tố phổ biến nhất được sử dụng. Số lượng và tần số của các yếu tố phổ biến nhất được mô
tả trong Bảng 2.2.
Tần số Các yếu tố Tỷ lệ (%)
105 Kinh nghiệm làm việc 39.9%
70 Giáo dục 26.6%
52 Kinh nghiệm khởi nghiệp 19.8%
23 Nhân khẩu học 8.7%
13 Nhận thức / Tâm lý 4.9%
263 Tổng cộng 100%
Theo Human Capital and Entrepreneurship Research, 2014
Bảng 2.2. Cấu trúc vốn nhân lực chung
Việc xây dựng vốn con người phổ biến nhất được điều tra là kinh nghiệm làm việc,
chiếm 39,9% các công trình. Tiếp theo là giáo dục, chiếm 26,6% cơ cấu vốn con người.
Phù hợp với những phát hiện trong quá khứ, đầu tư vào giáo dục và kinh nghiệm rõ ràng
là những loại công trình phổ biến nhất được sử dụng (Reuber & Fischer, 1994). Ví dụ về
các biện pháp giáo dục điển hình bao gồm nhiều năm giáo dục hoặc hoàn thành bằng đại
học hoặc bằng kỹ thuật. Ví dụ về các biện pháp dựa trên kinh nghiệm bao gồm công việc
trong quá khứ trong một ngành hoặc số lượng vị trí quản lý trước đây được giữ. Biện
pháp phổ biến thứ ba là kinh nghiệm khởi nghiệp (19,8%), chẳng hạn như kinh nghiệm
khởi nghiệp trước đây hoặc quyền sở hữu doanh nghiệp trước đây, phản ánh một loại vốn
con người cụ thể từ bối cảnh doanh nhân. Các biện pháp ít được đánh giá bao gồm nhân
khẩu học như tuổi tác, cho dù các thành viên trong gia đình là doanh nhân hay giới tính.
Một số ít các nghiên cứu bao gồm các biện pháp nhận thức và / hoặc tâm lý là các khía
cạnh chính của vốn con người. Ví dụ, cả địa điểm kiểm soát và định hướng thành tích đều
được đưa vào như các cấu trúc vốn con người, điều này cho thấy sự mờ nhạt của ranh
giới giữa vốn con người và các yếu tố tâm lý.
18
Tiếp theo tác giả điều tra các cấp độ của vốn con người theo cả khía cạnh cá nhân và
doanh nghiệp. Đánh giá về cấu trúc vốn con người đã được thực hiện ở cấp độ cá nhân
trong 86% các nghiên cứu, so với 14% đánh giá nó ở cấp độ doanh nghiệp. Phát hiện
không cân xứng này một phần có thể là do sự dễ dàng truy cập vào dữ liệu cá nhân về số
năm kinh nghiệm hoặc trình độ giáo dục. Tuy nhiên, việc nghiên cứu ngắn gọn ở cấp độ
cá nhân làm thiếu đi dữ liệu của nguồn nhân lực cấp công ty trong một môi trường khởi
nghiệp. Xem xét sự cần thiết và nhấn mạnh vào định hướng khởi nghiệp của công ty
(Lumpkin & Dess, 1996), nghiên cứu trong tương lai có thể được hưởng lợi từ việc khám
phá vốn con người ở cấp độ doanh nghiệp tác động đến doanh nghiệp.
Một đặc điểm khác biệt của vốn con người là lợi ích thiết thực liên quan đến công việc
trực tiếp. Ví dụ, tính hữu dụng của vốn con người có thể phụ thuộc hoàn toàn vào chất
lượng hoặc loại vốn con người hơn là sự hiện diện đơn thuần của nó. Unger et al. (2011)
nhấn mạnh tầm quan trọng của hai khía cạnh vốn con người khác nhau bao gồm (1) liên
quan đến công việc và không liên quan đến công việc; (2) đầu vào và đầu ra của vốn con
người.
Trước tiên, tác giả thảo luận về vốn con người liên quan đến công việc. Vốn con người đã
được tranh luận là lợi ích cao hơn khi áp dụng cho các công việc cụ thể cần phải được
thực hiện. Ví dụ, việc chuyển giao giáo dục và kinh nghiệm hoạt động tốt nhất nếu các
hoạt động cũ và mới chia sẻ các yếu tố phản ứng tình huống chung. Vì vậy, có thể hữu
ích để phân biệt giữa các yếu tố có liên quan đến công việc và không liên quan đến công
việc (Cooper et al., 1994). Vốn con người liên quan đến công việc bao gồm các loại vốn
con người liên quan đến công việc hiện tại của công việc mạo hiểm (ví dụ: kinh nghiệm
khởi nghiệp, kinh nghiệm trong ngành, kỹ năng khởi nghiệp). Ngược lại, vốn con người
không liên quan đến công việc bao gồm các loại vốn con người không liên quan trực tiếp
đến các công việc mạo hiểm (ví dụ: giáo dục chính thức, kinh nghiệm làm việc). Do tầm
quan trọng của sự liên quan đến công việc, các yếu tố vốn con người từ mẫu của tác giả
được phân loại là liên quan đến công việc hoặc không liên quan đến công việc. Phân tích
của tác giả cho thấy 49% các cấu trúc vốn con người có liên quan đến công việc so với
51% không liên quan đến công việc. Trong khi cuộc điều tra về công việc và vốn con
người phi công việc này, việc sử dụng chúng tương đối cân xứng, bằng chứng khác cho
19
thấy vốn con người đặc thù công việc có thể mang lại lợi ích lớn hơn cho việc hiểu về
khởi nghiệp (Unger et al., 2011).
Theo hướng này, một đặc điểm khác biệt của vốn con người là sự phân chia giữa đầu vào
vốn con người (đầu tư) so với đầu ra vốn con người (kết quả). Becker (1964) đưa ra giả
thuyết rằng kiến thức và kỹ năng là kết quả của sự đầu tư vào giáo dục và kinh nghiệm
làm việc. Vì vậy, hầu hết các nghiên cứu đã sử dụng giáo dục hoặc kinh nghiệm để đánh
giá vốn con người. Tuy nhiên, những khoản này đại diện cho các khoản đầu tư vào vốn
con người thay vì nhận thức đầy đủ kiến thức và / hoặc kỹ năng (tức là kết quả). Nghiên
cứu trong quá khứ đã cung cấp bằng chứng cho thấy các thành phần vốn con người dựa
trên kết quả là các chỉ số trực tiếp tốt hơn về vốn con người, trong khi các chỉ số dựa trên
đầu tư được xem là yếu tố dự báo gián tiếp về vốn con người (Davidsson, 2004). Ví dụ,
Unger et al. (2011) cho thấy mối quan hệ giữa tinh thần khởi nghiệp với kết quả của vốn
con người là cùng chiều và mạnh mẽ hơn so với chỉ đầu tư vì đầu tư là chỉ số gián tiếp và
do đó một bước được loại bỏ. Mặc dù một số doanh nhân có thể có cùng trình độ học vấn
hoặc kinh nghiệm làm việc (đầu tư) rất giống nhau, nhưng kiến thức hoặc kỹ năng sẵn có
có thể khác biệt đáng kể (kết quả) (Keith & Frese, 2005).
Xem xét sự khác biệt và giá trị tiềm năng của kết quả vốn con người so với đầu tư vốn
con người, tác giả đã phân loại các cấu trúc vốn con người tương ứng. Đánh giá của tác
giả chỉ ra rằng 80% các công trình được phân tích là các khoản đầu tư vốn con người so
với 20% là kết quả vốn con người. Một nguyên nhân cho sự chênh lệch và thiên vị này
đối với các yếu tố đầu tư là sự dễ dàng truy cập vào dữ liệu này, trong khi dữ liệu về về
kết quả thì khó thu thập hơn.
c ệ i v g n ô C
n ê i l ộ đ
c ứ M
c ệ i v g n ô c n a u q
c ệ i v g n ô c i h P
Kết quả
Đầu tư
Đánh giá vốn con người
20
Theo Human Capital and Entrepreneurship Research, 2014
Hình 2.1. Trọng tâm của nghiên cứu trong quá khứ
Để phân tích sâu hơn các xu hướng và lỗ hổng trong cấu trúc vốn con người được sử
dụng, tác giả phát triển khái niệm ba chiều bằng cách tích hợp các cấp độ phân tích, liên
quan đến công việc và đầu tư so với đánh giá kết quả. Hình 2.1 minh họa số lượng cấu
trúc vốn con người được kiểm tra tương ứng với từng chiều. Sự phân loại này dẫn đến
tám kết hợp và cung cấp một số hiểu biết về các thành kiến đối với các kích thước xây
dựng cụ thể cũng như các kích thước ít được chú ý. Cho đến nay, nghiên cứu khởi nghiệp
đã rất ủng hộ sự kết hợp các khía cạnh của các khoản đầu tư ở cấp độ cá nhân. Các nhóm
xây dựng vốn con người này đã được phân chia tương đối trong mối quan hệ công việc
của họ (115) so với không liên quan đến công việc (123). Trong số tám kết hợp có thể,
hai phân loại này chiếm 72% trong số các khái niệm hóa và có thể phản ánh xu hướng sử
dụng các cấu trúc cấp cá nhân truyền thống như giáo dục và kinh nghiệm trong ngành. Có
một sự sụt giảm rõ ràng và đáng chú ý trong phạm vi xây dựng các kỳ thi sau hai loại
này.
Một nhóm thứ hai của các phân loại, đã nhận được sự chú ý vừa phải, tập trung vào kết
quả vốn con người ở cấp độ cá nhân, cả hai đều liên quan đến công việc (25) và không
liên quan đến công việc (24). Ví dụ: kỹ năng khởi nghiệp cá nhân là cấu trúc kết quả liên
quan đến công việc so với thu nhập trước đó, phù hợp với cấu trúc kết quả không liên
quan đến công việc cá nhân. Cùng với nhau, hai loại này chiếm 15% trong số các khái
21
niệm được phân tích. Như thể hiện trong hình, có một sự thiên vị rõ ràng trong lý thuyết
đối với việc khái niệm hóa vốn con người ở cấp độ cá nhân.
2.1.2.3 Đầu tư và kết quả vốn con người
Phần lớn các nghiên cứu về khởi nghiệp - vốn con người nhấn mạnh các khoản đầu tư
giáo dục và giả định các khoản đầu tư này chuyển thành kết quả hữu ích (nghĩa là, các kỹ
năng có giá trị kinh tế). Tuy nhiên kết quả vốn con người được cho là yếu tố có giá trị lớn
hơn đối với tinh thần khởi nghiệp hơn sự đầu tư vào vốn con người. Để hỗ trợ cho các
nghiên cứu về sau và giải mã sự phức tạp của vốn con người, Matthew R. Marvel, Justin
L. Davis, Curtis R. Sproul (2014) đưa ra một bảng phân loại (bảng 2.3). Kết quả vốn con
người ở đây cụ thể là kỹ năng, kiến thức, khả năng (KSAs).
Đầu tư Kết quả
Tác động Giáo dục - Đầu tư vào hoạt động Kiến thức – Hiểu về bản chất,
học những kiến thức rõ ràng ý nghĩa, quy trình
Thay đổi từ chung đến các loại Được nhóm lại trong các lĩnh
hình giáo dục cụ thể vực như những người được học
thông qua giáo dục chính quy Khác nhau về chi phí, sự đa dạng
và thời gian đầu tư Thay đổi từ chung đến cụ thể
Phát triển Huấn luyện/ Kinh nghiệm – Đầu Kỹ năng – Ứng dụng kiến
tư vào việc học từ những hoạt thức có thể quan sát để tạo ra
động các giải pháp cho các vấn đề để
hoàn thành những nhiệm vụ cụ Chung hoặc cụ thể cho từng ngành
thể Khác nhau về chi phí, số lượng,
Kỹ năng chuyên ngành hoặc thời gian và loại hoạt động
lĩnh vực cụ thể
Thay đổi từ người mới đến
chuyên gia
22
Kết quả Tuyển dụng – Đầu tư vào hoạt Khả năng – Bền bỉ, là đặc điểm
động tuyển dụng để có được khả hữu ích cho phạm vi công việc
năng Tổng quát hơn với ý nghĩa đối
Gồm các nhóm công việc mạo với nhiều bối cảnh và nhiệm vụ
hiểm, liên minh vững chắc, mạng Khó để phát triển nội bộ so với
lưới chặt chẽ, R & D bên ngoài kiến thức hoặc kỹ năng
Khác nhau về chi phí, chất lượng
Bảng 2.3. Các loại hình vốn nhân lực
Kiến thức là sự sở hữu và hiểu biết về các nguyên tắc, sự kiện, quy trình và sự tương tác
giữa chúng. Kiến thức có xu hướng có giá trị lớn hơn khi nó đặc trưng cho một lĩnh vực
cụ thể và khi liên quan đến các hoạt động khởi nghiệp cụ thể (Markman & Baron, 2003).
Các cá nhân hoặc công ty táo bạo phải có kiến thức, đặc biệt là về thị trường và bất kỳ
công nghệ có liên quan nào quan trọng để thành công. Kiến thức có thể bao gồm từ
chung chung đến các lĩnh vực cụ thể về công việc, tổ chức hoặc ngành công nghiệp. Nó
thường được nhóm trong các lĩnh vực như những người được học thông qua giáo dục
chính quy (ví dụ: kế toán, tiếp thị, hệ thống thông tin, kỹ thuật điện). Một vài nghiên cứu
đã kêu gọi sự chú ý đến các lĩnh vực kiến thức trong tinh thần khởi nghiệp. Ví dụ, Shane
(2000) đã chứng minh kiến thức về các vấn đề của khách hàng, thị trường và cách phục
vụ thị trường tác động đến việc phát hiện ra các cơ hội. Trong một nghiên cứu liên quan,
Dimov (2007) đã minh họa cách các lĩnh vực của kiến thức thị trường và công nghệ tác
động đến sự phát triển của các cơ hội. Kết quả kiến thức như vậy có thể đạt được thông
qua các khoản đầu tư vào giáo dục, đào tạo, kinh nghiệm hoặc tuyển dụng các cá nhân
quan trọng.
Kỹ năng cũng là kết quả vốn con người nhưng tham khảo các ứng dụng hoặc bí quyết
quan sát được. Kỹ năng không nhất thiết phải là đặc điểm lâu dài và phụ thuộc vào kinh
nghiệm hoặc thực hành. Đây thường là các công việc cụ thể hoặc liên quan chặt chẽ đến
một tập hợp các công việc. Ví dụ, Heneman, Thẩm phán và Kammeyer-Mueller (2009)
đã xác định các kỹ năng khác nhau liên quan đến công việc, từ cơ bản (ví dụ: nói trước
công chúng, toán học, học tập tích cực) đến chức năng chéo (ví dụ: kỹ năng xã hội, kỹ
23
năng giải quyết vấn đề, kĩ năng công nghệ). Các kỹ năng áp dụng cụ thể cho một công
việc khởi nghiệp có thể cung cấp lợi thế trong quá trình tiên phong. Một loạt các kỹ năng
có thể được phát triển thông qua đầu tư vào đào tạo hoặc kinh nghiệm và cũng có thể
được phát triển kết hợp với giáo dục và thực hành. Quan tâm đặc biệt là làm thế nào các
kỹ năng cụ thể cho quá trình khởi nghiệp có thể được phát triển.
Khả năng là kết quả vốn thứ ba của con người và là một công cụ hữu ích tiềm ẩn hoặc
bền bỉ để thực hiện một loạt các công việc. Ở cấp độ cá nhân, khả năng thường được liên
kết với các đặc điểm chung như khả năng suy luận theo quy nạp. Khả năng khác với các
kỹ năng ở chỗ chúng ít có khả năng thay đổi theo thời gian và chúng được áp dụng trên
một loạt các công việc có thể gặp phải trong nhiều bối cảnh khác nhau (Nyberg,
Moliterno, Hale, & Lepak, 2014). Mặc dù các khả năng không thể được phát triển theo
cách tương tự như kiến thức hoặc kỹ năng, các doanh nhân và công ty có thể có được khả
năng thông qua các khoản đầu tư vào các thành viên trong nhóm, liên minh và tổ chức.
Các KSA cần thiết (nghĩa là, kết quả vốn con người) sẽ phụ thuộc vào hoàn cảnh của quá
trình khởi nghiệp, nhưng có thể bao gồm các yếu tố như kiến thức ngành, bán hàng và
đàm phán, lập kế hoạch, tạo mẫu, ra quyết định, giải quyết vấn đề, làm việc nhóm và giao
tiếp. Tác giả khẳng định rằng những nỗ lực trong tương lai có thể được hưởng lợi từ việc
khám phá chất lượng kết quả vốn con người và tính cụ thể của các lĩnh vực vốn con
người cho công việc khởi nghiệp. Ví dụ, mỗi kết quả vốn con người này có thể khác nhau
về chất lượng như được thể hiện dọc theo tính liên tục. Ở cấp thấp, một cá nhân hoặc
công ty có thể không đủ năng lực về các kỹ năng tiếp thị, điều này có thể ảnh hưởng đến
công việc bán sản phẩm cho một khách hàng đủ điều kiện. Ở đầu kia của sự liên tục, sở
hữu các kỹ năng chất lượng cao trong tiếp thị có thể liên quan đến việc tạo ra doanh số
ban đầu hoặc thâm nhập thị trường. Cụ thể, nghiên cứu trong tương lai sẽ được hưởng lợi
từ sự hiểu biết ngày càng tăng về kiến thức, kỹ năng cụ thể của ngành đó và cách thức
phát triển.
Các cá nhân, công ty và quốc gia có thể đầu tư vào nguồn nhân lực, nhưng việc tạo ra các
dự án khả thi và bền vững có thể phụ thuộc vào sự cân bằng giữa các KSA thích hợp.
Một số loại đầu tư vốn con người có thể dẫn đến sự quá tập trung vào các KSA cụ thể có
thể không đảm bảo sự phát triển vững chắc của các sản phẩm hoặc doanh thu trong tương
24
lai. Ngược lại, các khía cạnh khác của đầu tư vốn con người có thể dẫn đến lợi ích của
nhiều loại KSA. Tác giả khuyến khích những nỗ lực trong tương lai để phân tích các loại
đầu tư vốn con người, kết quả và ứng dụng của chúng vào các mốc quan trọng trong quá
trình khởi nghiệp.
2.1.2.4 Vai trò của vốn con người đối với tinh thần khởi nghiệp trong các nghiên cứu
trước
Trọng tâm chính của các nghiên cứu trước là kết quả mạo hiểm trong giai đoạn sau của
quá trình khởi nghiệp, đặc biệt là hiệu suất công ty. Có tương đối ít bài nghiên cứu về
giai đoạn đầu của quá trình khởi nghiệp trong dòng nghiên cứu này. Điều này khá đáng
ngạc nhiên khi có nhiều lý thuyết nhấn mạnh vào khám phá cơ hội và sáng tạo mạo hiểm
trong lĩnh vực khởi nghiệp. Cho đến nay, các lý thuyết chính về nhận biết cơ hội cho rằng
các doanh nhân sẽ tìm kiếm và khám phá các cơ hội hoặc tạo ra các cơ hội mà không cần
tìm kiếm có chủ ý (ví dụ: Alvarez & Barney, 2007; Lumpkin et al., 2004). Cả lý thuyết
khám phá cơ hội và tạo cơ hội đều nêu bật kiến thức và kinh nghiệm quan trọng đối với
quá trình (Fiet, 1996; Sarasvathy, 2008). Các nghiên cứu trước còn khẳng định rằng vốn
con người rất quan trọng trong suốt quá trình khởi nghiệp và khuyến khích nghiên cứu
trong tương lai khám phá đầy đủ hơn các khía cạnh khác nhau của vốn con người qua các
giai đoạn cụ thể trong quy trình.
Vốn con người:
1.
Đầu tư
Giáo dục
Kinh nghiệm
Tuyển dụng
2.
Kết quả
Kiến thức
Kỹ năng
Khả năng
Cơ hội khởi nghiệp
Phát sinh mạo hiểm
Kết quả hoạt động mạo hiểm
Điều kiện bối cảnh
Yếu tố đa lý thuyết
1. Nhận thức
2. Học
3. Chiến lược
4. Liên minh
5. Mạng lưới quan hệ
6. Động lực
25
Theo Human Capital and Entrepreneurship Research, 2014
Hình 2.2. Mô hình vốn nhân lực và quá trình khởi nghiệp
Matthew R. Marvel, Justin L. Davis, Curtis R. Sproul (2014) đã đưa ra một mô hình về
khởi nghiệp – vốn con người cho thấy tác động của vốn con người đến khởi nghiệp và
được xem như một quy trình nghiên cứu cho đề tài này trong tương lai. Tác giả bắt đầu
với các yếu tố đầu tư và kết quả vốn con người. Tác giả đề xuất rằng tinh thần khởi
nghiệp là một quá trình bắt đầu bằng một cơ hội khởi nghiệp, tiếp theo là các hoạt động
phát sinh mạo hiểm và dẫn đến kết quả hoạt động mạo hiểm khác nhau. Nhận thức cơ hội
là nhận thức có ý thức rằng một ý tưởng có thể được chuyển đổi thành một khái niệm
khởi nghiệp làm tăng giá trị hoặc tạo doanh thu (Gaglio & Taub, 1992). Để các ý tưởng
tiến triển thành các cơ hội mạo hiểm, phải có các giai đoạn nhận thức quan trọng về đánh
giá và xây dựng tác động đến quá trình khởi nghiệp (Lumpkin & Lichtenstein, 2005).
Đánh giá đòi hỏi phải phân tích xem các cơ hội có đủ giá trị và đáng để theo đuổi hay
26
không, trong khi xây dựng bao gồm các công việc như giải quyết vấn đề, tổ chức tài
nguyên, phản hồi và thử nghiệm.
Một giai đoạn cơ bản khác trong quá trình khởi nghiệp là công việc mạo hiểm (Dimov,
2010), tuy nhiên trước đó vẫn chưa được quan tâm nhiều. Các nghiên cứu đã bắt đầu thực
hiện một cách tiếp cận quan trọng để đánh giá sự tích lũy của các thành tựu mạo hiểm. Ví
dụ: đánh giá lượng thời gian từ hành động khởi nghiệp đến thành lập pháp nhân, phát
triển dự án, thử nghiệm dự án với khách hàng tiềm năng hoặc đảm bảo tài chính, mỗi yếu
tố đại diện cho sự phát triển và tiến bộ đáng kể (Delmar & Shane, 2004; Morse &
Mitchell, 2005).
Những cột mốc cụ thể này đại diện cho các tiêu chí để các học giả khởi nghiệp xem xét
đầy đủ hơn về tác động của nguồn nhân lực so với sự xuất hiện của công việc mạo hiểm.
Tác giả kết thúc mô hình quy trình của tác giả về vốn con người và tinh thần khởi nghiệp
với kết quả công việc mạo hiểm truyền thống bao gồm sự tồn tại, đổi mới và tăng trưởng
về doanh số, lợi nhuận hoặc việc làm.
Các khía cạnh của vốn con người ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi từ một giai đoạn
của quá trình khởi nghiệp sang một giai đoạn khác. Tuy nhiên, một yếu tố trong vốn con
người cụ thể có thể là điều cần thiết để hoàn thành một cột mốc này nhưng nó có thể ít
quan trọng hơn, hoặc thậm chí bất lợi, đối với các cột mốc khác trong quá trình. Ví dụ,
bằng cách sử dụng các khái niệm khái quát về vốn con người nói chung và cụ thể (vốn
nhân lực cụ thể được sử dụng trong một tập hợp các ngành công nghiệp hạn chế, tức là,
phần việc làm của nó thể hiện mức độ tập trung cao trong các ngành; còn vốn nhân lực
chung được hiểu là vốn nhân lực được sử dụng trong sản xuất nhiều loại sản phẩm, tức
là, phần việc làm của nó có mức độ phân tán cao). Nghiên cứu đã chỉ ra rằng đầu tư vốn
con người cụ thể có lợi cho các doanh nhân mới thành lập và phát triển mạo hiểm trong
khi đầu tư vốn con người nói chung không có hiệu quả (Davidsson & Honig, 2003).
Ngược lại, các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng các loại hình đầu tư vốn con người nói
chung rất hữu ích cho việc đạt được các dịch vụ công cộng ban đầu, nhưng vốn con
người cụ thể rất ít giá trị (Dimov & Shepherd, 2005). Bằng chứng này cho thấy rằng thực
sự các tác động của vốn con người có giá trị không đồng đều khi xem xét các giai đoạn
khác nhau, hoặc các mốc quan trọng, cùng với quá trình khởi nghiệp.
27
Tóm lại ta thấy, mặc dù phần lớn các nghiên cứu cho rằng vốn con người có vai trò với
khởi nghiệp trên toàn cầu, một số phát hiện cho thấy các khía cạnh của vốn con người
cũng có thể cản trở các cột mốc mạo hiểm như khám phá cơ hội và đổi mới sản phẩm
(Marvel, 2013; Marvel & Lumpkin, 2007).
Qua các lý thuyết trên, có rất nhiều biến số đại diện cho vốn con người, song có thể thấy
hai yếu tố đại diện quan trọng là kinh nghiệm làm việc và giáo dục. Tuy nhiên kinh
nghiệm làm việc rất khó đo lường, chưa phổ biến rộng rãi trong các nghiên cứu về đề tài
này và sẽ có sự không đồng nhất giữa các quốc gia, nên tôi không sử dụng trong nghiên
cứu này. Vì vậy, tôi chỉ dùng yếu tố giáo dục – cụ thể là tỷ lệ tuyển sinh đại học (dựa
theo nghiên cứu “Khởi nghiệp và nguồn nhân lực: Vai trò của phát triển tài chính” của
Nabamita Dutta và Russell S. Sobel (2017)) để đại diện cho vốn nhân lực trong bài
nghiên cứu này.
2.2 Bằng chứng thực nghiệm
Ngày nay, các nước trên thế giới dần thấy được vai trò của khởi nghiệp trong quá trình
tăng trưởng kinh tế, điều này đã tạo động lực cho nhiều nhà nghiên cứu tập trung khai
thác đề tài này. Theo đó, các công trình nghiên cứu về tinh thần khởi nghiệp tăng lên
đáng kể và chủ đề này đang trở thành một trong những vấn đề đáng được quan tâm nhất
hiện nay. Như đã đề cập ở trên, một yếu tố thường được xem xét là vốn nhân lực, tuy
nhiên các kết quả về mối quan hệ giữa vốn nhân lực và tinh thần khởi nghiệp không đồng
nhất qua các thời kỳ nghiên cứu bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Để có cái nhìn cụ thể
hơn, tôi sẽ tóm tắt các bài nghiên cứu tiêu biểu trong dòng nghiên cứu này.
Trước tiên, tác giả sẽ tóm tắt các bằng chứng cho rằng vốn nhân lực có tác động cùng
chiều và tích cực với tinh thần khởi nghiệp. Thứ nhất là bài nghiên cứu “The value of
human and social capital investments for the business performance of startups” (Bosma,
2004), tác giả kết luận rằng đầu tư vào vốn nhân lực chẳng hạn như tích lũy kinh nghiệm
trong một ngành cụ thể sẽ giúp nâng cao hiệu quả các dự án khởi nghiệp. Bài nghiên cứu
tìm câu trả lời cho các câu hỏi đặt ra: "Đầu tư vào vốn con người và xã hội ở mức độ nào,
bên cạnh tác động của “tài năng”, sẽ nâng cao hiệu quả khởi nghiệp?". Tác giả phân biệt
giữa ba loại hình đầu tư vào cả vốn con người và vốn xã hội: đầu tư chung, đầu tư theo
ngành và đầu tư cụ thể. Tác giả sẽ điều tra cấp độ nào các loại đầu tư ban đầu này đóng
28
góp vào hiệu quả của người sáng lập doanh nghiệp nhỏ, tương đương theo kinh nghiệm
của tác giả với doanh nhân. Phân tích này dựa trên khảo sát của hội đồng đại diện trong
số gần 1.000 nhà sáng lập doanh nghiệp mới ở Hà Lan trong những năm 1994-1997. Tác
giả sử dụng ba thước đo hiệu quả: tỷ lệ sống, lợi nhuận và tạo ra việc làm. Phát hiện
chính của tác giả là mức độ tài năng của một nhà sáng lập doanh nghiệp nhỏ không phải
là yếu tố quyết định duy nhất của hiệu quả khởi nghiệp. Thay vào đó, đầu tư vào nguồn
nhân lực và xã hội đặc thù của ngành và doanh nghiệp đóng góp đáng kể vào việc giải
thích hiệu quả của các nhà khởi nghiệp. Chính xác hơn: các khoản đầu tư đặc thù của
ngành vào vốn nhân lực như kinh nghiệm trong ngành cụ thể giúp nâng cao hiệu quả,
không phân biệt thước đo hiệu quả nào được sử dụng. Ngoài ra, các khoản đầu tư vốn cụ
thể của con người và doanh nghiệp xã hội, chẳng hạn như kinh nghiệm khởi nghiệp và
thành viên của một hiệp hội cho các nhà sáng lập doanh nghiệp nhỏ tạo ra nhiều công
trình khởi nghiệp hứa hẹn hơn. Hơn nữa, hiệu quả của sự xuất hiện “các ngành công
nghiệp tri thức" đã được khám phá. Tác giả khuyến khích các nghiên cứu trong tương lai
cần phải tính đến mối quan hệ tương quan giữa danh mục vốn nhân lực và xã hội, các loại
chiến lược và hiệu quả khởi nghiệp, để khám phá vai trò của các ngành công nghiệp tri
thức trong việc giải thích hiệu quả khởi nghiệp.
Tiếp theo, bài nghiên cứu: “The cumulative nature of the entrepreneurial process: The
contribution of human capital, planning and environment resources to small venture
performance (Haber và Reichel, 2007) tiếp tục ủng hộ và cho rằng vốn nhân lực tăng lên
có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp. Nghiên cứu này dựa
trên lý thuyết về nguồn lực nội tại và áp dụng cho ngành dịch vụ - du lịch. Nó đã kiểm tra
hiệu quả của các dự án khởi nghiệp nhỏ bằng cách sử dụng một mô hình động tích hợp
của các lựa chọn khởi nghiệp và tích lũy tài nguyên. Kết quả từ 305 công ty khởi nghiệp
du lịch nhỏ cho thấy vốn nhân lực của doanh nhân khởi nghiệp, đặc biệt là kỹ năng quản
lý, là yếu tố đóng góp lớn nhất cho hiệu quả. Giả thuyết chung của nghiên cứu quy định
rằng vốn nhân lực của doanh nhân khởi nghiệp, loại hình mạo hiểm, tính hấp dẫn của địa
điểm mạo hiểm, sự tồn tại của một kế hoạch kinh doanh cụ thể, mức độ lập kế hoạch,
việc sử dụng các dịch vụ hỗ trợ tư vấn và tài chính ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án
khởi nghiệp.
29
Khi thảo luận về vốn nhân lực của doanh nhân, tác giả đề cập đến giáo dục, kinh nghiệm
trước khi khởi nghiệp và kỹ năng. Mối quan hệ giữa giáo dục và tỷ lệ khởi nghiệp đã
được kiểm chứng rộng rãi (Bird, 1989; Cooper và cộng sự, 1994; Robinson và Sexton,
1994), mặc dù các phát hiện liên quan đến tác động của giáo dục không nhất quán. Có
nghiên cứu cho rằng kinh nghiệm trước đây sẽ giúp cho doanh nhân khởi nghiệp có khả
năng dự đoán tốt về những rủi ro và có thể đóng góp cho việc khởi nghiệp thành công
(Ronstadt, 1988; Vesper, 1980). Các nghiên cứu khác kết luận rằng kỹ năng quản lý của
các doanh nhân có lợi cho hiệu quả khởi nghiệp và tăng trưởng (Bird, 1993; Cooper và
Gimeno-Gascon, 1992; Ronstadt, 1984). Hơn nữa, các học giả lập luận rằng các doanh
nhân thành công thường có thể sử dụng một loạt các kỹ năng khác nhau trong các lĩnh
vực như quản lý tài chính, kế toán và tiếp thị (Hood và Young, 1993). Các nghiên cứu
trong các ngành dịch vụ như du lịch và khách sạn cung cấp một số cái nhìn sâu sắc trong
việc xác định các nguồn lực của công ty có khả năng tạo ra sự bền vững, bao gồm các kỹ
năng giao tiếp và phối hợp đúng đắn, kỹ năng thực hiện hành vi, kỹ năng trao đổi thông
tin và tốc độ của năng lực quản lý giao dịch (Lundberg et al., 1995; et al., 1992). Lerner
và Haber (2001) nhận thấy rằng các kỹ năng quản lý tốt là rất quan trọng đối với hiệu quả
của công ty khởi nghiệp du lịch nhỏ.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại cho rằng vai trò của vốn nhân lực trong khởi
nghiệp đang được nhấn mạnh quá mức, thậm chí vốn nhân lực (giáo dục) còn tác động
tiêu cực lên tinh thần khởi nghiệp. Cụ thể, bài nghiên cứu “Entrepreneurship, selection
and performance: A meta-analysis of the role of education” (Van der Sluis, 2005) về tinh
thần khởi nghiệp cho rằng giáo dục càng cao càng khiến người lao động muốn làm việc
nhận lương hơn là khởi nghiệp – làm chủ một doanh nghiệp mới, song cũng có sự khác
biệt theo giới tính, theo thành thị với nông thôn và theo nhóm nước. Lý thuyết vốn con
người nói rằng một trong những động lực chính việc đi học là do quan niệm rằng việc đi
học tạo ra các kỹ năng nâng cao năng suất và thu nhập của người lao động. Do đó, giả sử
giáo dục có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, trong các tài liệu kinh tế phát triển, người
ta đã dành rất nhiều nỗ lực cho việc định lượng tỷ lệ lợi nhuận cho giáo dục. Bài viết này
cung cấp một đánh giá phân tích về các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của việc đi
học đối với việc lựa chọn và thực hiện khởi nghiệp ở các nước kém phát triển. Tác giả
phân tích sự thay đổi của tác động này giữa các quốc gia, phương pháp ước tính, xác định
30
các yếu tố đầu vào và hiệu suất, việc sử dụng các biến kiểm soát. Tác giả thấy rằng một
năm đi học làm tăng thu nhập doanh nghiệp lên trung bình 5%. Con số này thấp hơn đáng
kể so với tỷ lệ lợi nhuận giáo dục trong việc làm trả lương ở các nước đang phát triển,
trong đó mức trung bình dao động từ 7,2% ở các nước thu nhập trung bình đến hơn 11%
ở các nước thu nhập thấp và trung bình thấp (Psacharopoulos, 1994). Tuy nhiên, nó gần
giống với lợi nhuận trung bình (6,1%) khi đi học trong các hoạt động khởi nghiệp ở Hoa
Kỳ, như đã được báo cáo trong phân tích tổng hợp của các nước công nghiệp (Van der
Sluis, Van Praag và Vijverberg, 2003).
Lợi nhuận giáo dục thay đổi theo giới tính, cư trú nông thôn/ thành thị và tỷ trọng nông
nghiệp trong nền kinh tế. Hơn nữa, những người lao động có trình độ học vấn cao hơn
thường thích việc làm nhận lương nhưng cũng thích kinh doanh phi nông nghiệp hơn làm
nông nghiệp. Giáo dục càng cao càng khiến người lao động không muốn tự làm chủ mà
thích việc làm nhận lương hơn đối với phụ nữ nhiều hơn nam giới, đồng thời điều này
cũng tác động mạnh hơn ở thành thị và ở các nền kinh tế kém phát triển nơi nông nghiệp
chiếm ưu thế hơn và tỷ lệ biết chữ thấp hơn. Nhiều nghiên cứu báo cáo rằng phụ nữ ít học
tập trung vào các lĩnh vực thu nhập thấp của thương mại thực phẩm và dệt may. Do đó,
dường như giáo dục khiến phụ nữ hướng tới các công việc trả lương chứ không phải
trong kinh doanh - các lĩnh vực thu nhập cao. Lý thuyết kinh tế chỉ ra rằng có những tác
động đối nghịch mà giáo dục có thể có đối với việc khởi nghiệp, có thể diễn ra khác nhau
ở các nước đang phát triển, do cơ hội ở các nước đang phát triển lớn hơn, cũng như sự
khác biệt về thu nhập giữa các ngành.
Thêm vào đó, kết quả của bài nghiên cứu “The impact of entrepreneurship education on
entrepreneurship skills and motivation” (Oosterbeek và Praag, 2010) chỉ ra rằng giáo dục
khởi nghiệp tại trường đại học đã làm giảm tỷ lệ sinh viên có dự định khởi nghiệp trong
tương lai. Bài viết này phân tích tác động của một chương trình giáo dục khởi nghiệp
hàng đầu đối với sinh viên một trường đại học tại Ý dạy về kỹ năng và động lực khởi
nghiệp, bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận biến công cụ trong khuôn khổ khác biệt.
Kết quả cho thấy chương trình không có tác dụng như mong muốn: ảnh hưởng đến kỹ
năng tự đánh giá của sinh viên là không đáng kể, và ảnh hưởng đến ý định trở thành
31
doanh nhân thậm chí còn tiêu cực. Kết quả này trái ngược hoàn toàn với kết quả đánh giá
tích cực trước đó dựa trên sự đánh giá của các bên liên quan.
Nguyên nhân dẫn đến kết quả này có thể do các sinh viên đã có được những suy nghĩ
thực tế hơn cả về bản thân cũng như những gì cần có để trở thành một doanh nhân như đã
được dạy trong các buổi học được tổ chức với các huấn luyện viên. Những thay đổi trong
nhận thức bản thân có thể đã làm giảm nhẹ mức độ tự tin trong kỹ năng kinh doanh của
những người tham gia chương trình so với những người không tham gia. Một cách gián
tiếp hơn, những người tham gia có thể đã mất đi sự lạc quan của họ và điều này có thể
làm giảm sút tinh thần khởi nghiệp. Ngoài ra, những người tham gia chương trình có thể
đơn giản là không thích chương trình này. Nhiều yếu tố khác nhau có thể góp phần vào
đó: sự tham gia là bắt buộc, thời gian và nỗ lực đầu vào của người tham gia đòi hỏi cao
so với điểm tín dụng mà họ kiếm được và số lượng sinh viên mỗi nhóm lớn (trung bình
mười) có thể cản trở sự tham gia tích cực và có thể đã khiến một số người tham gia miễn
phí để hưởng lợi. Bài nghiên cứu này của tác giả đã đóng góp một nghiên cứu thực
nghiệm đầu tiên trong việc đánh giá tác động của chương trình giáo dục sinh viên khởi
nghiệp đối với tinh thần khởi nghiệp của sinh viên trong tương lai. Tuy nhiên, nghiên cứu
còn nhiều khuyết điểm như thiếu tính phổ biến vì tác giả sử dụng mẫu nghiên cứu chỉ
trong một trường. Ý nghĩa của nghiên cứu này là việc đánh giá tác động vì vậy nghiên
cứu nên được tiến hành phối hợp với các trường để đảm bảo phân bổ ngẫu nhiên các học
sinh trong các nhóm điều trị và kiểm soát.
Theo đó, nghiên cứu “Picking winners or building them? Alliance, intellectual, and
human capital as selection criteria in venture financing and performance of
biotechnology startups” (Baum và Silverman, 2004) cũng cho rằng vai trò của vốn nhân
lực trong các dự án khởi nghiệp đang bị nhấn mạnh quá mức. Trong môi trường kinh
doanh, các trung gian tài chính như các công ty đầu tư mạo hiểm (VC) có vai trò định
hình môi trường nơi mà các công ty khởi nghiệp mới phát triển. Các VC ảnh hưởng đến
việc lựa chọn cả hai bằng cách đóng vai trò là một trinh sát có thể xác định tiềm năng
trong tương lai và là một huấn luyện viên có thể giúp nhận ra điều đó. Mặc dù có nhiều
tài liệu về vai trò của các VC trong việc khuyến khích các công ty khởi nghiệp, nhưng
người ta thường cho rằng các VC là các chuyên gia trinh sát và huấn luyện viên, và vì
32
vậy các cách thức mà các VC đã làm để nâng cao hiệu suất khởi nghiệp không được hiểu
rõ. Trong nghiên cứu này, tác giả xem xét liệu VCs có nhấn mạnh đến việc chọn người
chiến thắng hoặc xây dựng chúng hay không bằng cách so sánh tác động của các đặc
điểm khởi nghiệp, cộng sự, trí tuệ và vốn nhân lực đối với các quyết định của VC để tài
trợ cho chúng với những tác động của các đặc điểm tương tự đến hiệu quả khởi nghiệp
trong tương lai. Phát hiện của tác giả chỉ ra một logic chung kết hợp các vai trò: Các công
ty khởi nghiệp tài chính của VC có công nghệ mạnh, nhưng có nguy cơ thất bại trong
ngắn hạn, và do đó cần có chuyên môn quản lý. Các quyết định tài chính của VCs dường
như bị ảnh hưởng bởi xu hướng nhận thức dẫn đến việc họ quá coi trọng các công ty khởi
nghiệp, vốn nhân lực khi đưa ra quyết định đầu tư.
Trong một nghiên cứu khác có tên “Education for inovation: entrepreneurial
breakthroughs vs. corporate incremental improvements” (Baumol, W. 2004) đã đưa ra
những chứng cứ cho rằng giáo dục đại học có thể cản trở sự đột phá và tư duy sáng tạo
cần thiết cho sự đổi mới. Bài viết này tìm hiểu một số giả thuyết về giáo dục phù hợp cho
tinh thần kinh doanh khuyến khích sự đổi mới: (1) các phát minh đột phá được đóng góp
không cân xứng bởi các doanh nhân độc lập trong khi các doanh nghiệp lớn tập trung vào
các cải tiến tích lũy, tăng dần; (2) giáo dục để làm chủ kiến thức và phương pháp khoa
học là vô cùng quý giá cho sự đổi mới và tăng trưởng nhưng có thể cản trở tư duy và trí
tưởng tượng không chính thống; (3) nghiên cứu và phát triển doanh nghiệp lớn (R & D)
đòi hỏi nhân sự có trình độ học vấn cao về thông tin và phương pháp phân tích, trong khi
các doanh nhân và nhà phát minh độc lập thành công thường thiếu sự chuẩn bị như vậy;
và (4) trong khi các quy trình giảng dạy kiến thức và phương pháp hiện tại chủ yếu về
khoa học và kỹ thuật, thì lại có rất ít chương trình đào tạo cho nhiệm vụ quan trọng là đổi
mới đột phá. Các quy trình đổi mới thường xuyên - những quy trình được hướng dẫn bởi
các nguyên tắc quyết định kinh doanh tiêu chuẩn thông qua giáo dục - có tầm quan trọng
lớn và có thể có tầm quan trọng ngày càng tăng. Nhưng nhà đổi mới độc lập trong doanh
nghiệp nhỏ vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng. Những đột phá mang tính cách
mạng tiếp tục được cung cấp chủ yếu bởi các doanh nghiệp nhỏ có thể tránh được xu
hướng bảo thủ của công ty khổng lồ. Nếu không có những đóng góp mang tính cách
mạng của họ, các công ty lớn sẽ phát triển ít hơn nhiều.
33
Tiếp nối quan điểm trên, Christensen, C. 1997 đã có có một phát hiện mới mẻ trong bài
nghiên cứu “When New Technologies Cause Great Firms to Fail”. Tác giả đã kết luận
rằng giáo dục đại học có thể dẫn đến những tiến bộ gia tăng nhiều hơn là những đổi mới
mang tính đột phá. Tác giả phân tích cách các công ty thành công hay thất bại khi đối mặt
với những thay đổi về công nghệ và thị trường, quy định một danh sách các quy tắc để
các công ty tuân theo như là một giải pháp. Chính vì tuân thủ các nguyên tắc quản lý tốt,
các công ty đổi mới, được quản lý tốt đã thất bại trước sự xuất hiện của các công nghệ
đột phá - đó là, những đổi mới phá vỡ các công nghệ thống trị hiện có trên thị trường.
Thật không may, thường không có ý nghĩa gì khi đầu tư vào các công nghệ đột phá cho
đến khi chúng chiếm lĩnh thị trường. Do đó, thay vì thực hiện các quyết định quản lý tốt,
khi xuất hiện những thay đổi kỹ thuật hoặc thị trường, thông thường các nhà quản lý phải
đưa ra quyết định trái ngược và không lắng nghe khách hàng, đầu tư vào các sản phẩm
hiệu suất thấp tạo ra lợi nhuận thấp hơn, để theo đuổi thị trường nhỏ. Từ phân tích ngành
công nghiệp ổ đĩa, một bộ quy tắc được đưa ra - các nguyên tắc đổi mới đột phá - để các
nhà quản lý đo lường khi nào các nguyên tắc quản lý tốt truyền thống nên được tuân và
khi nào thì không. Theo các nguyên tắc đổi mới đột phá, người quản lý nên có kế hoạch
thất bại sớm, thường xuyên và không tốn kém, phát triển các công nghệ đột phá trong các
tổ chức nhỏ hoạt động trong một thị trường thích hợp và với cơ sở khách hàng có liên
quan. Một nghiên cứu trường hợp trong thị trường xe chạy bằng điện minh họa cách
người quản lý có thể vượt qua những thách thức của các công nghệ đột phá bằng cách sử
dụng các nguyên tắc đổi mới đột phá này. Ngành công nghiệp máy đào cơ khí vào giữa
thế kỷ XX cũng được nhắc đến như một minh chứng cho kết quả này, trong đó hầu hết
các công ty thất bại vì họ không muốn từ bỏ công nghệ máy đào cáp cho máy thủy lực.
Mặc dù không có "câu trả lời đúng" hoặc công thức để sử dụng khi phản ứng với sự thay
đổi công nghệ không thể đoán trước, các nhà quản lý sẽ có thể thích nghi miễn là họ nhận
ra rằng thực tiễn quản lý "tốt" chỉ phù hợp với tình huống. Mặc dù các công nghệ đột phá
vốn có rủi ro cao, nhưng một công ty đầu tư vào chúng càng nhiều, thì nó càng phải tìm
hiểu về thị trường mới nổi và nhu cầu thay đổi của người tiêu dùng, do đó những tiến bộ
gia tăng có thể dẫn đến những bước nhảy vọt trong ngành.
Cũng liên quan đến đề tài này, có nhà nghiên cứu cho rằng chi phí cơ hội sẽ ảnh hưởng
đến tốc độ khởi nghiệp của một quốc gia, đây là kết luận được đưa ra trong nghiên cứu:
34
“Entrepreneur opportunity cost and intended venture growth” (Cassar, 2006). Nghiên
cứu này điều tra chi phí cơ hội của doanh nhân ảnh hưởng như thế nào đến quy mô dự
định trong tương lai của các dự án khởi nghiệp mới. Cụ thể, sử dụng khảo sát các doanh
nhân mới thành lập trong quá trình bắt đầu khởi nghiệp, bài viết này xem xét doanh thu
bán hàng dự định trong tương lai bị ảnh hưởng như thế nào bởi thu nhập hộ gia đình, giáo
dục và kinh nghiệm quản lý. Kết quả cho thấy chi phí cơ hội ảnh hưởng đáng kể đến sự
tăng trưởng dự định của các dự án khởi nghiệp mới. Trong các nghiên cứu trước về chi
phí cơ hội và nguồn nhân lực, người ta thấy rằng các cá nhân có chi phi cơ hội là thu
nhập hộ gia đình hiện tại cao hơn, và kinh nghiệm giám sát lớn hơn thì sẽ có quy mô khởi
nghiệp dự định cao hơn. Và kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy chi phí cơ hội càng
cao thì các nhà khởi nghiệp sẽ có khẩu vị rủi ro thấp hơn dẫn đến khởi nghiệp với quy mô
lớn hơn. Ngoài ra, những nhà khởi nghiệp có trình độ học vấn càng cao (tốt nghiệp đại
học) có doanh thu khởi nghiệp thấp hơn đáng kể so với những người có trình độ học vấn
thấp (tốt nghiệp cấp ba) khi cố định các biến số thu nhập hộ gia đình và các biến nhân
khẩu học khác.
Một phát hiện khác về khởi nghiệp và giáo dục khi xét thêm đến yếu tố phát triển tài
chính cũng từng được tìm thấy trong nghiên cứu về bối cảnh thể chế và phân bổ nỗ lực
khởi nghiệp của Bowen và Clercq (2007), cụ thể trong bài nghiên cứu “Institutional
context and the allocation of entrepreneurial effort”. Tác giả kết luận rằng phát triển tài
chính và vốn con người là thành phần quan trọng của tăng trưởng kinh tế, các hoạt động
tài chính và giáo dục nhắm vào tinh thần khởi nghiệp có mối tương quan cùng chiều với
việc phân bổ nỗ lực khởi nghiệp cho các hoạt động tăng trưởng cao. Cụ thể hơn, loại hoạt
động mà các doanh nhân tham gia có khả năng ảnh hưởng đến sự đóng góp tiềm năng
của tinh thần khởi nghiệp vào tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng. Tuy nhiên, các tài liệu
trước về tinh thần khởi nghiệp đã tập trung chủ yếu vào việc xác định các yếu tố quyết
định của cấp độ, chứ không phải là loại hình của hoạt động khởi nghiệp. Trong bài
nghiên cứu này, tác giả đưa ra giả thuyết rằng môi trường thể chế của một quốc gia sẽ
ảnh hưởng đến việc phân bổ nỗ lực khởi nghiệp và đặc biệt sẽ ảnh hưởng đến mức độ nỗ
lực của doanh nhân hướng đến các hoạt động tăng trưởng cao. Tác giả kiểm tra các giả
thuyết của mình bằng cách sử dụng dữ liệu của 40 quốc gia trong giai đoạn 2002 – 2004.
Tác giả thấy rằng việc phân bổ nỗ lực khởi nghiệp cho các hoạt động tăng trưởng cao có
35
tương quan cùng chiều với hoạt động giáo dục và tài chính của một quốc gia nhắm vào
tinh thần khởi nghiệp và có tương quan người chiều với mức độ tham nhũng của một
quốc gia. Nghiên cứu của tác giả là nghiên cứu đầu tiên cung cấp bằng chứng thực
nghiệm cho thấy các đặc điểm thể chế và phát triển tài chính cũng ảnh hưởng đáng kể
đến việc phân bổ nỗ lực khởi nghiệp.
36
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU
3.1 Phương pháp ước lượng
Dựa theo bài nghiên cứu “Entrepreneurship and human capital: The role of financial
development” của Nabamita Dutta và Russell S. Sobel (2017). Phân tích thực nghiệm
trong bài nghiên cứu này nhằm kiểm tra câu hỏi chính sau đây: Tác động của vốn con
người đến tinh thần kinh doanh có phụ thuộc vào mức độ phát triển tài chính của các
quốc gia không? Để trả lời câu hỏi, chúng tôi ước lượng phương trình sau:
𝐽 2 + 𝛽5 (FD*HC)it + ∑ 𝑗=1 𝑋jit + 𝛽6
𝛼𝑗 Ent it = 𝛽𝑜 + 𝛽1 Entit – 1 + 𝛽2 HCit + 𝛽3 FDit + 𝛽4 FD𝑖𝑡
𝛾𝑖 + 𝛽7 𝜃𝑡 + 𝜖𝑖𝑡
Trong đó Ent it là thước đo tinh thần kinh doanh được xem xét cho quốc gia i trong thời
gian t. Ent it - 1 là thước đo của tinh thần kinh doanh bị trì hoãn một thời kỳ. Nó thể hiện
sự bền vững của biến phụ thuộc và do đó cho phép chúng ta ước tính mô hình dữ liệu
bảng động tuyến tính (DPD). HCit đề cập đến thước đo vốn nhân lực của chúng tôi – tổng
số tuyển sinh đại học. FDit đại diện cho các yếu tố thể hiện mức độ phát triển tài chính.
Ba biến tôi xem xét là tín dụng tư nhân để gửi tiền ngân hàng, nợ có tính thanh khoản cao
2 thể hiện tác động phi tuyến tính của biến phát triển tài chính đối với tinh thần kinh
và tiền gửi ngân hàng. Tất cả ba biến này được xây dựng theo tỷ lệ phần trăm của GDP.
FD𝑖𝑡 doanh. Mục đích của việc đưa biến phát triển tài chính phi tuyến vào bài để xét đến sự tác
động phi tuyến của biến này đối với mối quan hệ giữa giáo dục và tinh thần khởi nghiệp,
tức là khi mức độ phát triển tài chính của một quốc gia tăng lên quá mức thì tác động của
nó đến tinh thần khởi nghiệp có thay đổi nhiều so với bình thường hay không. Ngoài ra,
tôi còn đưa vào phương trình biến tương tác FD*HC, điều này thể hiện sự thay thế của
biến giáo dục và phát triển tài chính khi tác động lên tinh thần khởi nghiệp, cũng như để
trả lời câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra đầu bài: liệu với mức độ phát triển tài chính cao, thì
sự tăng lên về nguồn vốn con người có làm tinh thần khởi nghiệp tăng lên hay không và
ngược lại.
37
𝑋jit là ma trận của các biến kiểm soát, 𝛾𝑖 là hiệu ứng cố định theo quốc gia, 𝜃𝑡 là hiệu ứng
thời gian cụ thể và 𝜖𝑖𝑡 là đại diện cho phần dư ngẫu nhiên. Cuối cùng, FC*HC là thuật
ngữ tương tác.
Các hệ số cần quan tâm của chúng ta là 𝛽2 và 𝛽5. Trong khi 𝛽2 thể hiện tác động trực tiếp
của vốn nhân lực lành nghề đối với tinh thần kinh doanh, thì 𝛽5 thể hiện tác động gián
tiếp của vốn nhân lực lành nghề đối với tinh thần kinh doanh thông qua kênh phát triển
tài chính. Tác động biên của vốn nhân lực lành nghề đối với tinh thần kinh doanh được
xác định bởi phương trình đạo hàm theo HCit :
sẽ <, > hay
= 𝛽2 + 𝛽5 FDit .
δ Ent𝑖𝑡 δ HC𝑖𝑡
δ Ent𝑖𝑡 δ HC𝑖𝑡
= 0; tùy thuộc vào việc β2 và β5 là > hay < 0 cũng như tầm quan trọng của mức độ phát
triển tài chính.
Công cụ ước lượng chính mà tôi sử dụng trong nghiên cứu này là ước lượng GMM hệ
thống. Việc sử dụng phương pháp ước lượng bảng động cho những nghiên cứu điều tra
thực nghiệm xuyên quốc gia đã tăng đều đặn trong những thập kỷ gần đây (Dutta và
Williamson, 2016; Dutta và Sobel, 2016; Cooray, Dutta và Mallick, 2016; Asiedu và Lin,
2011; Dollar và Kray, 2002, Bond, Hoeffler và Temple, 2001). Các mô hình động cho
phép chúng ta không chỉ xem xét sự năng động hoạt động kinh tế mà còn kiểm soát sự
không đồng nhất không thể quan sát được. Trong số các ước lượng bảng động, hai công
cụ phổ biến là GMM khác biệt (DGMM) và GMM hệ thống (SGMM). Hiệu ứng cá nhân
không quan sát được có thể tương quan không chỉ với các hồi quy nội sinh mà còn với
các hồi quy được xác định trước. Arellano và Bond (1991) đã đưa ra ước lượng DGMM
loại bỏ hiệu ứng các yếu tố không quan sát được, ngăn ngừa vấn đề nội sinh tiềm tàng do
có thể có những cú sốc hay những nhân tố không quan sát được tác động đến biến phụ
thuộc đồng thời cũng tác động đến các biến giải thích khác có trong mô hình nghiên cứu.
Một cách tổng quan, GMM là phương pháp tổng quát của rất nhiều phương pháp ước
lượng phổ biến như OLS, GLS, MLE,….Ngay cả trong điều kiện giả thiết nội sinh bị vi
phạm, phương pháp GMM vẫn sẽ cho ra các hệ số ước lượng vững, không chệch, phân
phối chuẩn và hiệu quả. Cả hai ước lượng DGMM và SGMM đều được thiết kế cho các
bảng có 'T' nhỏ, 'N' lớn; một biến phụ thuộc có tính chất động, một phương trình bao gồm
các biến bên phải không phải là ngoại sinh nghiêm ngặt và một dữ liệu bảng có các yếu
tố không quan sát được, một dữ liệu bảng với các hiệu ứng quốc gia cố định và sự hiện
38
diện của tính không đồng nhất và tự tương quan trong chính các quốc gia (Baum, 2013).
Dữ liệu bảng xuyên quốc gia của tôi đáp ứng tất cả các tiêu chí này và do đó, các ước
lượng bảng động rất phù hợp với nghiên cứu này tôi.
Điều quan trọng cần lưu ý là độ lệch Nickell thường được tạo trong trường hợp ước tính
hiệu ứng cố định sẽ được sửa chửa trong trường hợp ước lượng SGMM hoặc DGMM. Do
quá trình làm giảm ý nghĩa này được áp dụng trong bối cảnh ước tính hiệu ứng cố định
để loại bỏ tính các yếu tố không quan sát được nên độ lệch Nickell được tạo ra. Nickell
(1981) nói rằng quá trình giảm ý nghĩa dẫn đến sai lệch do mối tương quan phát sinh giữa
hồi quy và lỗi. Các ước tính dữ liệu bảng động (DPD) như GMM hệ thống và GMM khác
biệt được xây dựng để tính đến và sửa lỗi cho sai lệch Nickell.
Đối với ước lượng Arellano-Bond (DGMM), mô hình được thiết lập như một hệ phương
trình, mỗi lần một khoảng thời gian, trong đó độ trễ được tạo ra thông qua phương pháp
mô men được sử dụng làm công cụ. Các công cụ áp dụng cho mỗi phương trình khác
nhau. Arellano và Bover (1995) đã tiết lộ một điểm yếu tiềm tàng trong ước lượng
DGMM bằng cách nói rằng các mức độ trễ thường có thể là công cụ yếu cho các biến sai
phân bậc nhất và điều này có thể đúng hơn nếu các biến gần với bước đi ngẫu nhiên
(không cố định). Ước lượng có điều chỉnh và chính xác hơn được phát triển bởi Blundell
và Bond (1988) được gọi là ước lượng SGMM. Đối với ước lượng SGMM, các công cụ
được chỉ định là áp dụng cho các phương trình sai phân, phương trình bậc hoặc cả hai.
Ngoài vấn đề về công cụ yếu mà ước lượng SGMM cải thiện được, nó cũng hiệu quả hơn
so với ước lượng DGMM do ước lượng đạt được hiệu quả tiệm cận dựa trên các điều
kiện trực giao bổ sung (Heid, Langer và Larch, 2012). Sự đánh đổi của ước lượng
SGMM so với ước lượng DGMM là SGMM có thể có một số lượng lớn các công cụ và
do đó, có thể dẫn đến sai lệch mẫu hữu hạn. Vì vậy, điều quan trọng là làm các kiểm định
như Sargan-test để kiểm tra các điều kiện bên ngoài của các biến công cụ. Cùng với việc
kiểm định các giá trị p của Sargan, tôi cũng sử dụng độ lệch chuẩn hiệu chỉnh theo
phương pháp của Windmeijer (2005). Tôi coi ước lượng SGMM là ước lượng điểm
chuẩn sẽ sử dụng trong bài này.
39
3.2 Mô tả biến và dữ liệu
3.2.1 Mô tả biến
3.2.1.1 Tinh thần khởi nghiệp - Tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp mới - Ent
Cuốn sách “Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp và sự đổi mới” – Peter F.Drucker (2011)
đã định nghĩa Entrepreneurship như là việc doanh nhân khởi nghiệp tiến hành biến những
ý tưởng kinh doanh, tài chính và sự đổi mới thành những sản phẩm hàng hóa mang tính
kinh tế. Kết quả của những hành động này là góp phần tái tạo những tổ chức đã “già cỗi”
hoặc tạo ra một tổ chức mới. Biểu hiện rõ ràng nhất của tinh thần doanh nhân khởi
nghiệp là bắt đầu xây dựng những doanh nghiệp mới. Tác giả của cuốn sách còn cho rằng
tinh thần khởi nghiệp chính là tinh thần đổi mới, sáng tạo, không những thế đó còn phải
là một sự đổi mới có mục đích và có hệ thống. Ngoài ra, qua các nghiên cứu trước đây tôi
nhận thấy những yếu tố chính tạo nên một tinh thần khởi nghiệp đó là: khả năng nắm bắt
cơ hội kinh doanh; khả năng chấp nhận rủi ro; và phải có những ý tưởng đổi mới - sáng
tạo. Cụ thể, một nhà khởi nghiệp phải có hoài bão và khát vọng kinh doanh; có thể phát
triển ý tưởng sáng tạo và đổi mới phương pháp giải quyết vấn đề; có khả năng kiến tạo cơ
hội kinh doanh, độc lập và dám làm, dám chịu trách nhiệm; kiên trì và dám chấp nhận rủi
ro, thất bại; có đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội.
Từ định nghĩa trên, biến phụ thuộc tinh thần khởi nghiệp mà tôi sử dụng ở đây là tỷ lệ sở
hữu doanh nghiệp mới. Biến này được xác định bằng tỷ lệ phần trăm dân số 18-64 tuổi
hiện đang là chủ sở hữu hoặc người quản lý của một doanh nghiệp mới (GEM, 2017).
Theo GEM, các doanh nghiệp mới này phải có tiền lương, tiền công hoặc các khoản
thanh toán khác cho chủ sở hữu trong hơn ba tháng (nhưng không quá 42 tháng). Giá trị
trung bình là khoảng 4,7 với độ lệch chuẩn là 3,4, với phạm vi từ 0 đến 24,5.
3.2.1.2 Vốn nhân lực lành nghề - Tổng số người ghi danh vào giáo dục đại học - HC
Biến độc lập chính trong nghiên cứu này là thước đo vốn nhân lực, cụ thể hơn là vốn
nhân lực lành nghề. Vốn nhân lực là tổng thể kiến thức, kỹ năng và trình độ chuyên môn
mà người lao động tích lũy được. Nó thể hiện khả năng làm việc với một trình độ nhất
định của người lao động. Với người sử dụng lao động, nó được đánh giá cao khi mức độ
đầu tư và phát triển vốn nhân lực gắn liền với khả năng tăng năng suất lao động. Với
40
người lao động, nó rất được coi trọng vì đầu tư cho vốn nhân lực được coi là một phương
cách hiệu quả để gia tăng thu nhập trong tương lai.
Theo nghiên cứu Matthew R. Marvel, Justin L. Davis, Curtis R. Sproul (2014) có tổng
cộng 344 yếu tố đại diện cho vốn con người được đưa vào trong các nghiên cứu được
phân tích trước đây. Yếu tố đại diện phổ biến nhất là kinh nghiệm làm việc, chiếm
39,9%. Tiếp theo là giáo dục, chiếm 26,6%. Phù hợp với những phát hiện trong quá khứ,
đầu tư vào giáo dục và kinh nghiệm rõ ràng là những loại công trình phổ biến nhất được
sử dụng (Reuber & Fischer, 1994). Vì dữ liệu về kinh nghiệm làm việc rất khó đo lường,
chưa phổ biến rộng rãi và sẽ có sự không đồng nhất giữa các quốc gia, nên tôi không sử
dụng trong nghiên cứu này. Do đó, tôi chỉ dùng yếu tố giáo dục – cụ thể là tỷ lệ tuyển
sinh đại học (dựa theo nghiên cứu “Entrepreneurship and human capital: The role of
financial development” của Nabamita Dutta và Russell S. Sobel (2017)) để đại diện cho
vốn nhân lực trong bài nghiên cứu này.
Để đo lường cho biến số này tôi sẽ sử dụng tổng số ghi danh vào giáo dục đại học, bất kể
tuổi tác, được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm của tổng dân số của nhóm tuổi năm năm sau
khi học từ trường trung học cơ sở, được lấy từ dữ liệu trực tuyến 2016 (WDI). Giá trị
trung bình của biến là khoảng 52,2 với độ lệch chuẩn là 21,8, dao động từ 8,8 đến 119, 7.
3.2.1.3 Mức độ phát triển tài chính - FD
Biến độc lập khác mà tôi muốn nhấn mạnh trong bài nghiên cứu này là mức độ phát triển
tài chính. Phát triển tài chính là một phần của chiến lược phát triển khu vực tư nhân nhằm
kích thích tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo, giảm thiểu các chi phí phát sinh trong hệ
thống tài chính. Phát triển tài chính liên quan đến những cải tiến trong cung cấp thông tin
về các khoản đầu tư tiềm năng và phân bổ vốn; việc giám sát các công ty và quản trị
doanh nghiệp; việc giao dịch, đa dạng hóa và quản lý rủi ro; việc huy động và tập hợp các
khoản tiết kiệm; việc dễ dàng trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Các chức năng tài chính này
ảnh hưởng đến các quyết định tiết kiệm – đầu tư, đổi mới công nghệ và do đó tăng trưởng
kinh tế.
Tóm lại, phát triển tài chính là yếu tố chính quyết định khả năng cung cấp vốn cho khởi
nghiệp và sẽ quyết định môi trường khởi nghiệp cho doanh nhân mới. Để đo lường mức
41
độ phát triển tài chính, tôi sử dụng ba biện pháp khác nhau nhằm đo lường quy mô và
hoạt động của sức khỏe tài chính một quốc gia, đó là: Tín dụng tư nhân gửi tiền vào ngân
hàng, nợ có tính thanh khoản cao của các ngân hàng và các trung gian tài chính khác và
tiền gửi ngân hàng tính phần trăm GDP.
a. Tín dụng tư nhân gửi tiền vào ngân hàng theo phần trăm GDP – FD1
Dữ liệu biến số này được lấy từ Cơ sở dữ liệu phát triển tài chính toàn cầu của Ngân hàng
Thế giới. Giá trị trung bình của mẫu tôi sử dụng là 73,9 với độ lệch chuẩn là gần 44
(Bảng 1). Theo nghĩa rộng, như Giuliano và Ruiz-Arranz (2009) đã nêu, điều này đo
lường mức độ trung gian và vai trò của hệ thống ngân hàng. Như Beck, Demirgüç-Kunt
và Levine (2007) đã chỉ ra, đây là biện pháp tốt nhất có thể nắm bắt được chức năng của
các trung gian tài chính hay nói cách khác, nắm bắt mức độ tiết kiệm và chuyển hóa
thành vốn kinh doanh cho các dự án khu vực tư nhân. Trong bối cảnh khởi nghiệp và
phát triển kinh doanh, biến này phản ánh mức độ mà hệ thống tài chính của một quốc gia
có thể giúp phân bổ nguồn tài chính khan hiếm giữa các dự án đầu tư vốn. Ngoài ra,
Gwartney, Holcombe và Lawson (2006) cũng nhấn mạnh, một quốc gia có thể sử dụng
thị trường để phân bổ vốn giữa các dự án đầu tư một cách hiệu quả sẽ là yếu tố chính
quyết định tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động.
b. Nợ có tính thanh khoản cao của các ngân hàng và các trung gian tài chính khác
theo phần trăm GDP – FD2
Thước đo được xem xét thứ hai về phát triển tài chính là nợ có tính thanh khoản cao tính
theo phần trăm GDP. Chính xác hơn, điều này tương đương với tiền tệ, tiền gửi không kỳ
hạn và nợ vay của các ngân hàng và các trung gian tài chính khác chia cho GDP. Như
Beck, Demirgiiu-Kunt và Levine (1999) lập luận, chỉ số này là chỉ số trung gian tài chính
có sẵn rộng nhất.
c. Tiền gửi ngân hàng theo phần trăm GDP – FD3
Cuối cùng, thước đo được sử dụng là tiền gửi ngân hàng theo phần trăm GDP. Điều này
bao gồm tổng giá trị của tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm
tại các ngân hàng tiền gửi trong nước chia cho GDP. Đây cũng là thước đo quy mô của
42
hoạt động tài chính. Trong khi giá trị trung bình của nợ có tính thanh khoản cao là 79,2%,
giá trị trung bình của tiền gửi ngân hàng lại nhỏ hơn (67,9%).
3.2.1.4 Nhóm biến kiểm soát
Ngoài các biến quan tâm độc lập chính mà tôi sử dụng để đo lường giáo dục đại học và
mức độ phát triển tài chính, tôi còn sử dụng thêm một số biến kiểm soát khác thường
được sử dụng trong các nghiên cứu thực nghiệm về sự khác nhau giữa các quốc gia trong
tỷ lệ khởi nghiệp. Các biến kiểm soát này là: tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu
người (GDP), tổng thu nhập quốc nội bình quân đầu người (GNI), tỷ lệ dân số thành thị
trên tổng dân số (Urb), tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ so với nam (FeM), tỷ lệ tham
gia lực lượng lao động (LFPR).
Theo Dutta và Sobel (2016) và Audretsch và Keilbach (2007), tôi đưa vào biến kiểm soát
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người theo đô la Mỹ không đổi (dựa trên
ngang giá sức mua - PPP) và tổng thu nhập quốc nội bình quân đầu người (GNI) như một
thước đo cho quy mô thị trường và sự giàu có. Sự giàu có gia tăng trong một khu vực ngụ
ý tăng quy mô thị trường và do đó, cơ hội gia tăng cho doanh nghiệp mới phát triển nhờ
tiềm năng trao đổi kinh tế lớn hơn.
Biến kiểm soát thứ hai là tỷ lệ dân số đô thì trên tổng dân số của một quốc gia. Sự lan tỏa
đô thị hóa có thể thúc đẩy tinh thần kinh doanh vì mật độ dân số ở các thành phố tạo ra
các yếu tố bên ngoài và cơ hội để tăng lợi nhuận; và do đó, ảnh hưởng tích cực đến các
sáng kiến kinh doanh (Brüderl và Preisendorfer, 1998; Storey, 1994; Reynold et.al.,
1994).
Các nghiên cứu trước đã chỉ ra tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là rất quan trọng đối với
tinh thần khởi nghiệp. Không những thế, giới tính cũng đã được chứng minh là quan
trọng cùng với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động. Ví dụ, Uhlaner et.al. (2002) đã chỉ ra
rằng các quốc gia có tỷ lệ nữ cao hơn trong lực lượng lao động có tỷ lệ phần trăm thấp
hơn của các cá nhân tự làm chủ. Các nghiên cứu khác như Delmar và Davidsson (2000)
đã tìm thấy xác suất bắt đầu kinh doanh đối với nam cao hơn nữ. Ngoài ra, các nghiên
cứu như Du Rietz và Henrekson (2001) cho thấy tỷ lệ từ bỏ của các nhà khởi nghiệp nữ
cao hơn so với các đồng nghiệp nam của họ (Verheul, van Stel và Thurik, 2006).
43
Audretsch et. Al. (2002) thấy rằng tổng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cùng với tỷ lệ
tham gia lực lượng lao động nữ là những yếu tố quan trọng quyết định tinh thần kinh
doanh. Vì vậy, tôi đưa vào biến kiểm soát tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ/ nam.
44
Ký
Tên biến
N
hiệu
Trung bình mẫu
Độ lệch chuẩn
Giá trị nhỏ nhất
Giá trị lớn nhất
Đơn vị tính
Tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp
4.66
3.37
0.00
24.49
%
274
Ent
mới
%
52.24
21.79
8.85
119.69
274
Vốn nhân lực lành nghề
HC
Tín dụng tư nhân trên
%
73.89
43.99
9.12
262.46
274
FD1
GDP
Nợ có tính thanh khoản
%
79.20
51.34
14.21
348.75
274
FD2
cao trên GDP
Tiền gửi ngân hàng trên
%
67.93
48.84
8.76
334.71
274
FD3
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
25812.85
16359.27
2692.13
81741.10
USD 274
GDP
bình quân đầu người
%
72.70
17.21
24.94
100.00
Tỷ lệ dân số thành thị
274
Urb
Tỷ lệ tham gia lực lượng
%
50.60
12.22
13.68
73.91
274
FeM
lao động nữ so với nam
Tổng thu nhập quốc nội
23359.45
20303.55
848.16
94381.71
USD 274
GNI
bình quân đầu người
LFP
Tỷ lệ tham gia lực lượng
%
47.78
12.61
23.69
79.91
274
lao động
R
Nguồn: Kết quả ước lượng của tác giả
Bảng 3.1. Thống kê mô tả biến
Bảng 3.1 cho thấy một số thống kê mô tả của tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp mới, vốn nhân
lực lành nghề, các biến đại diện cho mức độ phát triển tài chính và một số biến kiểm soát
khác. Tinh thần khởi nghiệp (được đo lường bằng tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp mới) có giá
trị trung bình là 4,66; trong khi độ lệch chuẩn là 3,37, thấp nhất là 0 (thuộc về Israel), lớn
45
nhất là 24,49 (thuộc về Úc, 2001). Tiếp theo, tỷ lệ ghi danh vào giáo dục đại học có giá
trị trung bình là 52,24 và độ lệch chuẩn là 21,9; và giá trị lớn nhất vẫn thuộc về nước Úc
(2015). Thực tế, theo Theo Tổ chức giáo dục Úc thì Úc là quốc gia có tốc độ tăng trưởng
khởi nghiệp đáng kinh ngạc, bằng chứng là trong số các doanh nghiệp mới được thành
lập tại bang New South Wales thì start-up đã chiếm 48%. Trong đó, Sydney được coi là
trung tâm chính của các start-up, chiếm 12% số lượng các doanh nghiệp, cùng với đó
chính phủ Úc cũng luôn có nhiều chính sách ưu đãi khuyến khích sinh viên khởi nghiệp.
Bên cạnh đó, thước đo mức độ phát triển tài chính – tín dụng tư nhân có giá trị trung bình
73,9 và giá trị cao nhất là 262,46 thuộc về quốc gia Iceland (2006), đây cũng là một quốc
gia tiên phong trong khởi nghiệp và có mức độ phát triển tài chính cao. Trong khi đó
thước đo nợ có tính thanh khoản cao và tiền gửi ngân hàng trên GDP có giá trị trung bình
lần lượt là 79,2 và 67,9 và giá trị cao nhất thuộc về HongKong, Trung Quốc. Ngoài ra,
GDP trung bình của mẫu nghiên cứu 25.812,85 (triệu USD) và độ lệch chuẩn lên tới
16.359,37 (triệu USD), GDP cao nhất là Singapore và thấp nhất trong mẫu là Việt Nam.
Nguyên nhân có sự chênh lệch lớn là do mẫu các quốc gia đưa vào nghiên cứu là một tập
hợp của các nhóm nước có mức độ phát triển từ thấp đến cao không đồng đều để đảm bảo
tính tổng quát của kết quả nghiên cứu. Sau đây tôi sẽ mô tả cụ thể các nguồn dữ liệu của
các biến được sử dụng trong nghiên cứu này.
3.2.1 Dữ liệu
Bảng 3.2 dưới đây là danh sách 43 quốc gia tôi đưa vào trong nghiên cứu được chia làm
ba nhóm thu nhập: 22 nước thu nhập cao, 16 nước thu nhập trên trung bình và 5 nước thu
nhập trung bình thấp. Như những gì đã được trình bày trong bảng dưới, tôi lựa chọn khá
nhiều nước trong nhóm có thu nhập trên trung bình và thu nhập cao vì đây là những khu
vực có nền giáo dục tiên tiến trở lên và trình độ khoa học kĩ thuật khá đồng đều và không
chênh lệch quá lớn như các nước ở khu vực thu nhập thấp. Thêm vào đó, nhóm nước có
thu nhập trên trung bình và cao có bộ dữ liệu đầy đủ hơn các nước thu nhập thấp. Tuy
nhiên, tôi vẫn đưa vào các nước có mức thu nhập thấp như Việt Nam, Philippines,… để
đảm bảo tính khách quan của nghiên cứu và để kết quả nghiên cứu này có giá trị thực tiễn
đối với nền kinh tế Việt Nam.
46
Ngoài ra, mẫu dữ liệu 43 nước trên thuộc 6 khu vực địa lý và trải đều khắp các châu lục,
cụ thể: Đông Á và Thái Bình Dương; Châu Âu và Trung Á; Mỹ Latinh và Caribbean;
Trung Đông và Bắc Phi; Bắc Mỹ; Châu Phi. Trong đó, chiếm đa số là các quốc gia thuộc
Châu Âu và Châu Á, bởi đây là 2 khu vực có nền kinh tế năng động, sôi nổi và luôn nhận
được nhiều sự quan tâm của thế giới. Vì vậy, kết quả nghiên cứu sẽ mang tính ảnh hưởng
và giá trị thực tiễn nhiều hơn.
Danh sách tôi trải dài từ những nước đang phát triển như Việt Nam đến những cường
quốc kinh tế như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Anh. Do đó tôi sẽ có cái nhìn tổng quát và
chính xác hơn về mối quan hệ giữa tinh thần khởi nghiệp với giáo dục dưới tác động của
mức độ phát triển tài chính so với bài nghiên cứu nền tảng mà tôi sử dụng trong nghiên
cứu này, đó là công trình “Entrepreneurship and human capital: The role of financial
development” của Dutta và Russell (2017) khi chỉ sử dụng 28 quốc gia.
47
Thu nhập cao Thu nhập trên trung bình Thu nhập trung bình thấp
Úc Trung Quốc Philippines
Hồng Kông, Trung Quốc Việt Nam Malaysia
Guatemala Thái Lan Nhật Bản
Bosnia và Herzegovina Ai Cập, Cộng hòa Ả Rập. Hàn Quốc
New Zealand Liên bang Nga Tunisia
Thổ Nhĩ Kỳ Singapore
Argentina Bỉ
Brazil Phần Lan
Colombia Pháp
Ecuador Đức
Jamaica Hungary
Mexico Iceland
Panama Ai-len
Peru Ý
Iran Hà Lan
Nam Phi Na Uy
Tây Ban Nha
Vương quốc Anh
Uruguay
Israel
Canada
Hoa Kỳ
Nguồn: Thống kê của tác giả
Bảng 3.2. Danh sách các nước sử dụng trong nghiên cứu
48
Về bộ dữ liệu mà tôi sử dụng, chi tiết về nguồn lấy dữ liệu được nêu trong bảng 3.3. Tất
cả dữ liệu của các biến số vĩ mô cơ bản được lấy từ WDI (World Development
Indicators). Riêng tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp mới được lấy từ cơ sở dữ liệu trực tuyến
Global Entusinessurship Monitor (GEM). Cơ sở dữ liệu Giám sát khởi nghiệp toàn cầu
(GEM) đã trở thành cơ sở dữ liệu được sử dụng rộng rãi nhất để đo lường tinh thần kinh
doanh do sự đa dạng của các quốc gia, khoảng thời gian, các biến số và sự chính xác của
dữ liệu. Ở mỗi quốc gia, một nhóm quốc gia bao gồm các tổ chức nghiên cứu hoặc học
thuật dẫn đầu việc thu thập dữ liệu để đảm bảo chất lượng và độ tin cậy. Ngoài ra, dữ liệu
của 3 biến đại diện cho mức độ phát triển tài chính được lấy từ cơ sở dữ liệu phát triển tài
chính toàn cầu GFDD (Global Financial Development Database).
49
Ký
Biến Nguồn dữ liệu
hiệu
Tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp mới Ent Global Entrepreneurship Monitor
Vốn nhân lực lành nghề World Development Indicators HC
Tín dụng tư nhân trên GDP FD1 Global Financial Development Database
Nợ có tính thanh khoản cao trên Global Financial Development FD2 GDP Database
Tiền gửi ngân hàng trên GDP FD3 Global Financial Development Database
Tổng sản phẩm quốc nội bình quân GDP World Development Indicators đầu người
Tỷ lệ dân số thành thị Urb World Development Indicators
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ FeM World Development Indicators so với nam
Tổng thu nhập quốc nội bình quân GNI World Development Indicators đầu người
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động LFPR World Development Indicators
Nguồn: Thống kê của tác giả
Bảng 3.3. Nguồn dữ liệu của các biến sử dụng trong mô hình
Với những dữ liệu thu thập được, tôi sử dụng dữ liệu bảng theo quốc gia – năm cho các
biến số. Đồng thời tiến hành ước lượng bằng phương pháp tác động cố định như đã đề
cập ở trên. Bởi các mô hình tác động cố định thường có trong phân tích của các quốc gia
hoặc khu vực, vì các tác động cố định cho phép hệ số chặn khác nhau trong mỗi quan sát
(Wooldridge, 2008, trang 452). Bên cạnh đó, tôi sử dụng phương pháp dữ liệu bảng kết
50
hợp các đơn vị chéo (thông tin từ nhiều cá thể tại một thời điểm nhất định) cho một số
điểm thời gian vì dữ liệu bảng có nhiều ưu điểm để ước lượng kinh tế lượng. Ví dụ, dữ
liệu bảng sẽ kiểm soát tính không đồng nhất của cá thể và thời gian, điều mà các biến
trong mô hình không thể đạt được. Hơn nữa, như Baltagi (2008, trang 7) khẳng định, dữ
liệu bảng cung cấp “thông tin nhiều dữ liệu hơn, độ biến thiên nhiều hơn, ít có cộng
tuyến giữa các biến, độ độc lập cao hơn và hiệu quả hơn”. Các đặc điểm chung của dữ
liệu bảng với các hiệu ứng cố định là:
𝐾 Yit = 𝑎𝑖𝑡 + ∑ 𝐾=1
(𝛽𝑘𝑖𝑡𝑋𝑘𝑖𝑡) + 𝑈𝑖𝑡
Trong đó: i là các quốc gia và t là khoảng thời gian. αit là một tham số đại diện cho các
hiệu ứng cụ thể của mỗi đơn vi chéo (cross-section); cụ thể là mỗi quốc gia. Tham số
này không đổi theo thời gian. Uit tập hợp các hiệu ứng bất kỳ của biến vắng mặt (absent
variables) đặc trưng cho đơn vị chéo và khoảng thời gian.
Do đó dữ liệu bảng của 43 quốc gia giai đoạn 2001 – 2015, cùng với phương pháp ước
lượng GMM hệ thống đã cung cấp phương tiện để tôi thực hiện ước lượng các mô hình
này một cách chính xác nhất.
51
KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
4.1 Kết quả thực nghiệm và giải thích
4.1.1 Kết quả hồi quy phương trình (1)
Bảng 4.9 dưới đây là tóm tắt kết quả hồi quy mô hình SGMM của phương trình (1) cho
lần lượt từng biến phát triển tài chính là: tín dụng tư nhân, nợ có tính thanh khoản cao và
tiền gửi ngân hàng. Ba cột bên phải là kết quả hệ số hồi quy của phương trình ứng với 3
2 + 𝛽5 (FD*HC)it +
biến phát triển tài chính.
Phương trình (1): Ent it = 𝛽𝑜 + 𝛽1 Entit – 1 + 𝛽2 HCit + 𝛽3 FD it + 𝛽4 FD𝑖𝑡
𝛽6 𝑈𝑟𝑏𝑖 + 𝛽7 𝐹𝑒𝑀𝑡 + 𝛽8 LFPR + 𝛽9 ln GDP +𝛽10 ln GNI
Tín dụng tư nhân
Nợ có tính thanh
Tiền gửi ngân hàng
Biến độc lập
(FD1)
khoản cao (FD2)
(FD3)
Ent t – 1
HC
FD
FD2
FD* HC
Urb
FeM
LFPR
ln GDP
ln GNI
𝜷𝟎 0.4202 *** (0.000) 0.1131 *** (0.004) 0.1073 *** (0.000) -0.0002 *** (0.002) -0.0011 *** (0.001) -0.0198 (0.401) -0.0417 * (0.056) 0.1162 *** (0.000) 2.3726 (0.259) -2.7467 ** (0.038) -4.3108 (0.679) 0.3310 *** (0.000) 0.0271 ** (0.048) 0.0743 *** (0.000) -0.0003 *** (0.000) -0.0001 ** (0.023) 0.0157** (0.033) -0.0039* (0.094) 0.0495 * (0.058) -4.1279 *** (0.000) -0.1906 (0.558) 38.8205 *** (0.000) 0.2304 ** (0.017) 0.1268 *** (0.000) 0.1646 *** (0.000) -0.0003 ** (0.014) -0.0009 *** (0.004) -0.0638 ** (0.011) 0.0062 ** (0.022) 0.0362 * (0.050) -8.6659 *** (0.001) 1.5976 (0.159) 65.4041 *** (0.000)
52
Số quan sát 274 274 274
Hansen test (p_value) 0.566 0.608 0.233
AR(1) test (p_value) 0.001 0.009 0.007
AR(2) test (p_value) 0.944 0.997 0.977
***, **, * lần lượt là các ký hiệu thể hiện ý nghĩa tại mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%
Bảng 4.1. Kết quả hồi quy GMM phương trình (1)
Bảng trên đây là kết quả hồi quy GMM cho phương trình (1) với biến đại diện cho mức
độ phát triển tài chính là tín dụng tư nhân. Tôi đưa vào phương trình biến FD tuyến tính
và cả phi tuyến như đã đề cập ở phần phương pháp ước lượng để có một cái nhìn sâu sắc
và toàn diện hơn về tác động của biến này đối với tnh thần khởi nghiệp
Đầu tiên, kết quả hồi quy có Prob < F = 0,0000 cho thấy kết quả này phù hợp mức ý
nghĩa 1%. Kết quả kiểm định Hansen test có p_value > 10% đối với cả 3 thước đo phát
triển tài chính, do đó mô hình SGMM là phù hợp và không bị tự tương quan bậc 2, các
biến công cụ cũng phù hợp. Cùng với đó, kết quả kiểm định AR (1) test có p_value <
10% và AR(2) test có p_value > 10%, ta có thể suy ra được kết quả này đã khắc phục
hiện tượng tự tương quan.
Chúng ta dễ dàng nhìn thấy tất cả các biến độc lập trong phương trình (1) đều có ý nghĩa.
Trong đó, hệ số hồi quy của biến tinh thần khởi nghiệp với độ trễ 1 năm là dương và có ý
nghĩa cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp mới cao trong quá khứ sẽ dẫn đến tỷ lệ doanh nghiệp
mới cao hơn trong hiện tại. Tiếp tục, tôi thấy rằng tuyển sinh đại học cũng có tác động
tích cực và đáng kể đến tinh thần khởi nghiệp. Kết quả này giống với các nghiên cứu
trong quá khứ và hiện tại với quan điểm rằng vốn nhân lực lớn hơn giúp tăng cường khả
năng nhận thức và do đó, các cá nhân sẽ dễ dàng xác định các cơ hội sinh lời có thể có
dẫn đến gia tăng tỷ lệ khởi nghiệp (Schultz, 1959; Becker, 1964; Mincer, 1974;
Davidsson, 2003).
Các hệ số của biến phát triển tài chính tuyến tính và phi tuyến tính đều có ý nghĩa, hệ số
tác động tương đối lớn và trong đó biến FD thì tác động cùng chiều, biến FD2 tác động
ngược chiều với tinh thần khởi nghiệp, điều đó cho thấy rằng phát triển tài chính có mối
quan hệ lồi với tinh thần khởi nghiệp (như hình 4.1). Nghĩa là ở các quốc gia có mức độ
53
phát triển tài chính thấp hơn thì sự gia tăng biên của vốn khả dụng sẽ dẫn đến sự gia tăng
trong tinh thần khởi nghiệp, nhưng đối với các quốc gia có mức độ phát triển tài chính
cao hơn thì sự gia tăng biên của vốn khả dụng sẽ không còn làm tăng tinh thần khởi
16
14
12
10
8
nghiệp, thậm chí còn làm giảm số doanh nghiệp mới.
t n E
6
4
2
FD
0
0
100
200
300
400
500
600
-2
-4
Hình 4.1. Mối quan hệ giữa tinh thần khởi nghiệp và phát triển tài chính
Đối với nhóm biến kiểm soát - dân số thành thị (Urb), tỷ lệ tham gia lực lượng lao động
nữ so với nam (FeM), tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (LFPR) đều có ý nghĩa với hầu
hết các thước đo phát triển tài chính, nhưng mức độ tác động không đáng kể. Đối với
GDP và GNI có giá trị khá lớn nên tôi sử dụng logarit để bộ dữ liệu đồng bộ và chính xác
hơn, tôi cũng thấy rằng GDP bình quân đầu người có tác động đáng kể đến tinh thần khởi
nghiệp nhưng chủ yếu là tác động ngược chiều. Tức là một quốc gia có GDP/GNI cao
hơn thì tinh thần khởi nghiệp lại giảm đi. Kết quả này có thể được giải thích là do chi phí
cơ hội của doanh nhân tăng lên khi nền kinh tế phát triển và do đó nhu cầu tự kinh doanh
nhỏ (khởi nghiệp dựa trên nhu cầu) giảm đi. Tuy nhiên, ta phải chú ý rằng hệ số này cho
thấy mức tăng GDP bình quân đầu người tác động đến tinh thần khởi nghiệp như thế nào
khi giữ các biến số khác không đổi như trình độ giáo dục và phát triển tài chính. Các
quốc gia có GDP bình quân đầu người cao hơn không liên quan đến trình độ giáo dục
hoặc phát triển tài chính cao hơn mà có thể là những quốc gia hưởng lợi bởi sự gia tăng
khác như tài nguyên thiên nhiên, từ đó không có tác động làm gia tăng tinh thần khởi
nghiệp như mong muốn, thậm chí làm giảm đi.
54
Ngoài ra, hệ số của biến tương tác FD*HC là âm và có ý nghĩa đối với tất cả các thước
đo phát triển tài chính. Đây là phát hiện về sự thay thế giữa phát triển tài chính và tuyển
sinh đại học, nhưng để đi sâu hơn vào các mối liên kết, tôi tiếp tục sử dụng các phân tích
tác động biên như trong Bảng 4.2.
Quốc gia
Quốc gia
Quốc gia
Thứ tự
Thứ tự
Thứ tự
(1)
(5)
(9)
Ước tính giá trị biên
Ước tính giá trị biên
Ước tính giá trị biên
Giá trị của FD1
Giá trị của FD2
Giá trị của FD3
(3)
(7)
(11)
(2)
(4)
(6)
(8)
(10)
(12)
0.0989
Argentina 11.84 10th
0.1001 Colombia 17.68 10th
0.1021 Việt Nam 12.89 10th
0.0581
37.11 50th
0.0723
Colombia 29.92 50th
0.0802 Hungary 43.26 50th
Nga
53.39 90th
0.0141
47.83 90th
0.0605
Phần Lan 52.53 90th
0.0553 Na Uy
Na Uy
Bảng 4.2. Tác động biên của tuyển sinh đại học đối với tinh thần khởi nghiệp ứng với 3
thước đo phát triển tài chính ở một số quốc gia
Để tìm hiểu sâu hơn, tôi tiếp tục ước tính các tác động cận biên dựa theo nghiên cứu
trước đây của Dutta và Sobel (2016), Dutta và Williamson (2016) và Asiedu, Jin và
Nandwa (2009). Đầu tiên, tôi ước tính giá trị FD ở tỷ lệ phần trăm thứ 10, 50 và 90 của
ba thước đo phát triển tài chính như trong cột (2), (6), (10). Như tôi đã đề cập ở phần
phương pháp ước lượng, các ước tính cận biên sẽ dựa trên phương trình là
= 𝛽2 +
δ Ent𝑖𝑡 δ HC𝑖𝑡
, cụ thể cột
δ Ent𝑖𝑡 δ HC𝑖𝑡
𝛽5 FDit. Lấy kết quả 𝛽2, 𝛽5từ bảng 4.1, tôi ước tính được giá trị biên
(4) trình bày các ước tính giá trị biên cho tín dụng tư nhân, cột (8) cho các khoản nợ có
tính thanh khoản cao và cột (12) cho tiền gửi ngân hàng.
Qua bảng 4.2, tôi đã tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ về mối quan hệ thay thế giữa tuyển
sinh đại học và phát triển tài chính. Các quốc gia có mức độ phát triển tài chính kém, khi
tuyển sinh đại học tăng thì tinh thần khởi nghiệp cũng sẽ tăng mạnh mẽ. Cụ thể giá trị thứ
10 của biến phát triển tài chính cho một quốc gia như Colombia, lợi ích của việc tăng
tuyển sinh đại học là tối đa khi chúng ta coi nợ có tính thanh khoản cao là thước đo của
sự phát triển tài chính. Nghĩa là ở Colombia khi tuyển sinh đại học tăng 1% thì tỷ lệ khởi
nghiệp sẽ tăng lên khoảng 10,2%. Đối với Hungary, khi gia tăng 1% tuyển sinh đại học
55
làm tăng khả năng kinh doanh lên khoảng 5,8%, thấp hơn khoảng 4,4% so với Colombia.
Điều này do Hungary có mức độ phát triển tài chính – nợ có tính thanh khoản cao cao
hơn so với Colombia. Tương tự đối với Việt Nam, giá trị tiền gửi ngân hàng đại diện cho
phát triển tài chính của Việt Nam thấp nhất trong 3 nước, nhưng lại có giá trị biên cao
nhất là 9,9%, tức là khi tăng 1% giáo dục đại học ở Việt Nam thì sẽ tăng 9,9% tỷ lệ khởi
nghiệp, tỷ lệ này cao hơn hẳn so với hai nước phát triển tài chính cao hơn là Nga và Na
Uy. Kết quả tương tự trong trường hợp biến phát triển tài chính là tín dụng tư nhân.
Do đó, kết quả mô hình trên cung cấp một đóng góp quan trọng cho mối quan hệ đan xen
và phức tạp giữa vốn nhân lực lành nghề và vốn tài chính bị bỏ qua trong các tài liệu
nghiên cứu trước đây. Trong trường hợp không có đủ vốn tài chính, các quốc gia được
hưởng lợi rất nhiều từ sự gia tăng tuyển sinh đại học, khi mà giáo dục đại học cung cấp
nhiều kỹ năng cần thiết giúp nhận biết nhiều cơ hội kinh doanh và do đó tỷ lệ sở hữu
doanh nghiệp mới tăng lên mạnh mẽ. Nhưng một khi sự phát triển tài chính được cải
thiện đối với các quốc gia, thì tác động của giáo dục trong việc thúc đẩy tinh thần khởi
nghiệp bị giảm đi và thậm chí là làm giảm tỷ lệ khởi nghiệp. Nói một cách đơn giản, tác
động của giáo dục đại học lên tỷ lệ khởi nghiệp mạnh nhất ở các quốc gia có mức độ vốn
khả dụng và phát triển tài chính thấp nhất.
Để thấy được mối quan hệ giữa vốn nhân lực và vốn tài chính cụ thể tại Việt Nam, tôi
đưa ra bảng tóm tắt dữ liệu của riêng Việt Nam (Bảng 4.3) về ba mức độ phát triển tài
δ Ent𝑖𝑡 δ HC𝑖𝑡
chính trong giai đoạn 2001 – 2015, đồng thời dựa theo phương trình tác động biên
= 𝛽2 + 𝛽5 FDit để tính toán giá trị biên tương ứng.
Giá trị biên
Giá trị biên
Giá trị biên
Năm
FD1
FD2
FD3
2001
35.61
0.0739
46.24
0.0622
8.76
0.1035
2002
39.5
0.0697
50.33
0.0577
9.14
0.1030
2003
43.19
0.0656
54.17
0.0535
9.61
0.1025
2004
50.74
0.0573
61.94
0.0450
11.01
0.1010
2005
53.57
0.0542
63.01
0.0438
11.01
0.1010
2006
59.16
0.0480
70.66
0.0354
11.6
0.1003
2007
69.64
0.0365
82.64
0.0222
13.73
0.0980
2008
78.17
0.0271
89.67
0.0145
13.53
0.0982
2009
88.31
0.0160
94.23
0.0094
12.89
0.0989
2010
100
0.0031
100.98
0.0020
12.94
0.0989
2011
98.38
0.0049
97.36
0.0060
11.18
0.1008
2012
91.08
0.0129
95.8
0.0077
10.76
0.1013
2013
91.75
0.0122
107.04
-0.0046
12.13
0.0998
2014
94.56
0.0091
117.35
-0.0160
13.47
0.0983
2015
102.79
0.0000
128.38
-0.0281
15.02
0.0966
56
Bảng 4.3. Tác động biên của tuyển sinh đại học đối với tinh thần khởi nghiệp ứng với 3
thước đo phát triển tài chính ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2015
Tương tư kết quả trên, khi giá trị phát triển tài chính tăng dần từ năm 2001 đến năm 2015
thì giá trị biên lại giảm dần, đỉnh điểm là vào năm 2015 khi FD1 (tín dụng tư nhân) đạt
mức tối đa 102,79% thì giá trị biên giảm còn 0%, tức là khi tăng giáo dục đại học lên 1%
thì tỷ lệ khởi nghiệp không hề tăng (0%). Thậm chí, khi biến FD2 (nợ có tính thanh
khoản) tăng mạnh lên 128.38% (năm 2015) thì giá trị biên giảm về giá trị âm (- 0.0281),
tức là khi giáo dục đại học tăng 1% ta thấy tỷ lệ khởi nghiệp không những không tăng mà
còn giảm đi 2,81%.
δEnt/δHC
0.0800
0.0700
0.0600
0.0500
0.0400
0.0300
0.0200
0.0100
FD1
0.0000
0
20
40
60
80
100
120
Hình 4.2. Mối quan hệ giữa tín dụng tư nhân và giá trị biên giữa tinh thần khởi nghiệp và
giáo dục đại học tại Việt Nam giai đoạn 2001 – 2015
57
4.1.2 Kết quả hồi quy phương trình (2)
Để kết quả nghiên cứu được vững chắc và toàn diện hơn, tôi kiểm tra lại kết quả trên khi
thêm vào biến tuyển sinh đại học phi tuyến tính. Cụ thể, tôi thực hiện hồi quy GMM với
2 + 𝛽6
phương trình (2) tương tự phương trình (1) nhưng có thêm biến HC2.
Phương trình (2): Ent it = 𝛽𝑜 + 𝛽1 Entit – 1 + 𝛽2 HCit + 𝛽3 HC2 + 𝛽4 FD it + 𝛽5 FD𝑖𝑡 (FD*HC)it + 𝛽7 𝑈𝑟𝑏𝑖 + 𝛽8 𝐹𝑒𝑀𝑡 + 𝛽9 LFPR + 𝛽10 ln GDP +𝛽11 ln GNI
Biến độc lập
Tín dụng tư nhân (FD1)
Nợ có tính thanh khoản cao (FD2)
Tiền gửi ngân hàng (FD3)
Ent t – 1 0.3417*** 0.2442 *** 0.0761*
HC 0.1476** 0.1650 *** 0.4470***
FD 0.0851* 0.0726 ** 0.1410***
FD2 -0.0003** -0.0002*** -0.0003**
FD* HC -0.0004* -0.0001** -0.0007***
HC2 -0.0006* -0.0008** -0.0021**
Urb -0.0058 -0.0130* -0.0722
FeM -0.0226* -0.0126 -0.0923**
LFPR 0.1071** 0.0721** 0.1904*
ln GDP -4.6165*** -4.6984** -8.3851
ln GNI -0.2564 -0.4745*** -0.6519**
40.1453 44.0581* 74.0163 𝜷𝟎
274 0.507 0.022 0.934 274 0.570 0.004 0.845
274 Số quan sát 0.536 Hansen test (p_value) 0.020 AR(1) test (p_value) 0.827 AR(2) test (p_value) ***, **, * lần lượt là các ký hiệu thể hiện ý nghĩa tại mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.
Bảng 4.4. Kết quả hồi quy GMM phương trình (2)
58
Một lần nữa, tôi kiểm tra lại kết quả trên khi đưa vào phương trình (2) biến tuyển sinh đại
học phi tuyến tính HC2 cho cả ba thước đo phát triển tài chính. Dựa trên các kết quả trong
Bảng 4.4, kết luận chính của nghiên cứu vẫn không thay đổi. Cả hai biến tuyến tính và
phi tuyến tính của tuyển sinh đại học đều có ý nghĩa đối với cả ba thước đo. Trong khi
biến tuyến tính là dương, thì biến phi tuyến tính là âm. Điều này ngụ ý rằng tuyển sinh
đại học có mối quan hệ lồi với tinh thần kinh doanh. Tác động của việc tuyển sinh đại
học giảm dần ở các cấp cao hơn, điều này hỗ trợ cho những phát hiện còn tồn tại trong tài
liệu như đã nêu trong phần Giới thiệu. Đồng thời, hệ số biến tương tác FD*HC tiếp tục
âm và có ý nghĩa đối với cả ba biện pháp. Điều này lại chứng minh biến phát triển tài
chính có mối quan hệ lồi với tinh thần kinh doanh cho tất cả các biện pháp, một lần nữa
làm vững chắc hơn kết quả của phương trình (1).
Tác động biên của tuyển sinh đại học lên tinh thần khởi nghiệp theo mức độ phát triển tài
chính tiếp tục được thể hiện qua phương trình sau:
= 𝛽2 + 2𝛽3 HCit + 𝛽6 FDit.
δ Ent𝑖𝑡 δ HC𝑖𝑡
Thay các hệ số hồi quy từ bảng 4.4 vào ta có thể thấy rằng mức độ tuyển sinh đại học
thấp thì sẽ không mang lại lợi ích gì cho tinh thần khởi nghiệp ngay cả khi sự phát triển
tài chính trở nên tốt hơn. Do đó, các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người dưới mức
trung bình thường được hưởng lợi nhiều hơn trong việc gia tăng tinh thần khởi nghiệp từ
sự gia tăng vốn nhân lực lành nghề và kinh nghiệm làm việc so với các quốc gia có thu
nhập bình quân đầu người cao hơn trung bình.
4.2 Các kiểm định cho mô hình hồi quy GMM
4.2.1 Kiểm định đa cộng tuyến
Với tiêu chí (VIF < 10) cho thấy tất cả các biến đều không xảy ra hiện đa cộng tuyến và
phù hợp để đưa vào mô hình.
59
Variable VIF SQRT VIF Tolerance R- Squared
1.54 2.36 0.4234 0.5766 Ent
1.67 2.79 0.3579 0.6421 HC
1.59 2.53 0.3955 0.6045 FD1
2.55 6.49 0.1540 0.8460 FD2
2.42 5.84 0.1713 0.8287 FD3
2.59 6.73 0.1485 0.8515 ln GDP
1.69 2.85 0.3511 0.6489 ln GNI
1.56 2.42 0.4132 0.5868 FeM
1.55 2.40 0.4170 0.5830 LFPR
3.82 Mean VIF
Bảng 4.5. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến
4.2.2 Kiểm định hiện tượng tự tương quan
Wooldridge test for autocorrelation in panel data
H0: no first-order autocorrelation
F (1, 29) = 0.326
Prob > F = 0.5725
Với p-value > 0,01, tức là chấp nhận giả thuyết H0, do đó không có hiện tượng tự tương
quan giữa các biến trong mô hình.
Từ những kiểm định trên ta thấy hồi quy GMM phương trình (1) không mắc phải hiện
tượng đa cộng tuyến và tự tương quan. Đồng thời, tôi không kiểm định hiện tượng
phương sai thay đổi cũng như không kiểm định hiện tượng nội sinh cho từng biến vì khi
sử dụng dữ liệu bảng và sử dụng phương pháp ước lượng GMM, tôi đã khắc phục được
60
hiện tượng phương sai thay đổi lẫn hiện tượng nội sinh của các biến chính trong mô hình.
Thậm chí ngay cả trong điều kiện giả thiết nội sinh bị vi phạm, phương pháp GMM vẫn
cho ra các hệ số ước lượng vững, không chệch và hiệu quả.
4.3 Thảo luận kết quả thực nghiệm
Từ kết quả trên ta có thể trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu ở phần I như sau:
Thứ nhất, giáo dục và mức độ phát triển tài chính đều có tác động lên tinh thần khởi
nghiệp của một quốc gia. Cụ thể, biến giáo dục có tác động cùng chiều với tinh thần
khởi nghiệp, tức là khi tỷ lệ tuyển sinh đại học (đại diện cho trình độ giáo dục của một
quốc gia) tăng lên thì tỷ lệ khởi nghiệp của quốc gia đó cũng tăng lên và ngược lại. Tỷ lệ
tuyển sinh đại học ở đây thể hiện các yếu tố như trình độ học vấn, kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm. Quả thật vậy, Schultz (1959), Becker (1964), Mincer (1974); Davidsson
(2003) cũng cho rằng vốn nhân lực lớn hơn giúp tăng cường khả năng nhận thức và do
đó, các cá nhân sẽ có đánh giá tốt hơn và nhạy bén hơn trong việc xác định các cơ hội
sinh lời có thể tồn tại của một dự án khởi nghiệp, từ đó tinh thần khởi nghiệp của quốc
gia sẽ tăng lên. Kết quả này tiếp tục hỗ trợ và tăng tính vững chắc cho kết quả của những
tác giả trước đó như Haber và Reichel (2007), Cassar (2006), Van der Sluis et al., (2005),
Bosma et.al., (2004).
Bên cạnh đó, mức độ phát triển tài chính của một quốc gia cũng ảnh hưởng đến tinh thần
khởi nghiệp của quốc gia đó. Ba thước đo để đo lường mức độ phát triển tài chính được
nhắc đến trong nghiên cứu này là: tín dụng tư nhân, nợ có tính thanh khoản cao và tiền
gửi ngân hàng đều có ý nghĩa và chúng đều tác động cùng chiều với tinh thần khởi
nghiệp, khi tăng một trong ba yếu tố trên (hoặc cả ba) thì tỷ lệ doanh nghiệp mới của một
quốc gia cũng theo đó mà tăng lên và ngược lại. Mặc dụ trước đây có các nghiên cứu của
Gwartney, Holcombe và Lawson (2006); Bowen và Clercq (2007) từng nghiên cứu về
vốn tài chính với tinh thần kinh doanh nhưng cũng chưa làm rõ tác động của từng yếu tố
cụ thể đại diện cho mức độ phát triển tài chính như trong nghiên cứu này. Do đó đây là
một phát hiện mới và có thể khai thác tiếp tục trong những nghiên cứu sau này.
Thứ hai, mức độ phát triển tài chính có tác động phi tuyến tính đến tinh thần khởi
nghiệp. Theo kết quả mô hình, hệ số hồi quy của cả ba biến phát triển tài chính phi tuyến
tính đều âm, trong khi biến phát triển tài chính tuyến tính có hệ số dương, mối quan hệ
61
của biến phát triển tài chính và tỷ lệ khởi nghiệp có dạng hàm số lồi. Cho thấy ở các quốc
gia có mức độ phát triển tài chính thấp thì sự gia tăng của vốn tài chính sẽ dẫn đến sự gia
tăng trong tinh thần khởi nghiệp, nhưng khi một quốc gia có mức độ phát triển tài chính
cao hơn thì sự tác động của sự gia tăng của vốn tài chính lên tinh thần khởi nghiệp sẽ
giảm dần, đến một mức độ nhất định sẽ không còn làm tăng tinh thần khởi nghiệp, thậm
chí còn làm giảm tỷ lệ doanh nghiệp mới hình thành.
Thứ ba, mức độ phát triển tài chính sẽ ảnh hưởng lớn đến sự tác động của nguồn vốn
nhân lực lên tinh thần khởi nghiệp. Cụ thể hơn, đối với một quốc gia có mức độ phát
triển tài chính cao, thì sự tăng lên của giáo dục không còn làm tinh thần khởi nghiệp tăng
lên nữa và thậm chí là giảm đi. Trong trường hợp không có đủ vốn tài chính, các quốc gia
được hưởng lợi rất nhiều từ sự gia tăng tuyển sinh đại học, khi mà giáo dục đại học cung
cấp nhiều kỹ năng cần thiết giúp nhận biết nhiều cơ hội kinh doanh và do đó tỷ lệ sở hữu
doanh nghiệp mới tăng lên mạnh mẽ. Nhưng một khi sự phát triển tài chính được cải
thiện đối với các quốc gia, thì tác động của giáo dục trong việc thúc đẩy tinh thần khởi
nghiệp bị giảm đi và thậm chí là làm giảm tỷ lệ khởi nghiệp. Nói một cách đơn giản, tác
động của giáo dục đại học lên tỷ lệ khởi nghiệp mạnh nhất ở các quốc gia có mức độ vốn
khả dụng và phát triển tài chính thấp nhất.
Cuối cùng là ở những nước đang phát triển – có thu nhập thấp hơn mức trung bình,
để tăng tỷ lệ khởi nghiệp thì nên tập trung cải thiện giáo dục hơn là tập trung vào phát
triển tài chính. Bởi vì đối với nhiều nước đang phát triển, việc có cả lĩnh vực tài chính
mạnh và mức vốn con người cao có thể khó xảy ra do hạn chế về nguồn lực. Theo kết
quả nghiên cứu trên ta có thể thấy rằng đối với các nước này mức độ tuyển sinh đại học
thấp thì sẽ không mang lại lợi ích gì cho tinh thần khởi nghiệp ngay cả khi sự phát triển
tài chính trở nên tốt hơn. Do đó, các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người dưới mức
trung bình thì sự gia tăng vốn nhân lực lành nghề và kinh nghiệm làm việc sẽ làm tăng
tinh thần khởi nghiệp nhiều hơn so với các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao
hơn trung bình. Đây cũng là một phát hiện mới mẻ và có nhiều khía cạnh khác để khai
thác sâu hơn cho các nghiên cứu sau này.
62
4.4 Các đề xuất từ kết quả nghiên cứu
Kết quả bài nghiên cứu này cho thấy, đối với những nước đang phát triển như Việt Nam,
thì việc gia tăng chất lượng vốn nhân lực, cụ thể là đầu tư cho giáo dục sẽ thúc đẩy tinh
thần khởi nghiệp mạnh hơn là đầu tư cho vốn tài chính. Do đó, vấn đề tôi muốn đề xuất
chính là nhà nước nên có nhiều chính sách để khuyến khích tinh thần khởi nghiệp ngay từ
khi còn là sinh viên, đưa giáo dục khởi nghiệp vào trường học, vào giáo dục chính thức,
chứ không chỉ dừng lại ở những lớp học khởi nghiệp không chính thức, không thường
xuyên và không chất lượng đang tràn lan ngoài thị trường lao động như hiện tại.
Thứ hai, giảng viên nên được chủ động trong chương trình giảng dạy, có khả năng tự
nghiên cứu khoa học để tìm ra phương pháp giảng dạy khởi nghiệp tối ưu, tạo môi trường
cho SV nghiên cứu một phát kiến mới ngay trong lớp học và thực hành như 1 dự án khởi
nghiệp thực tế.
Ngoài ra, đầu vào giáo dục ảnh hưởng tới đầu ra vốn nhân lực, tạo nền tảng kiến thức,
hình thành các kỹ năng, khả năng và thái độ cho sự lựa chon nghề nghiệp tương lai. Khởi
nghiệp cần đam mê, tuy nhiên để thành công thì cần có khả năng thực sự để biến đam mê
thành hành động. Do đó, hệ sinh thái khởi nghiệp nên để giáo dục làm chủ.
Cuối cùng, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy ở những nước đang phát triển – có thu nhập
thấp hơn mức trung bình chẳng hạn như Việt Nam, để tăng tỷ lệ khởi nghiệp thì nên tập
trung cải thiện giáo dục hơn là tập trung vào phát triển tài chính. Đối với Việt Nam, mức
độ tuyển sinh đại học thấp thì sẽ không mang lại lợi ích gì cho tinh thần khởi nghiệp ngay
cả khi sự phát triển tài chính trở nên tốt hơn. Do đó, tôi đề xuất Việt Nam nên chú trọng
gia tăng vốn nhân lực lành nghề và kinh nghiệm làm việc, điều đó sẽ làm tăng tinh thần
khởi nghiệp nhiều hơn là tập trung đẩy mạnh phát triển tài chính.
Theo bài viết về Khởi nghiệp của Khu Công Nghệ Phần Mềm ĐHQG TP.Hồ Chí Minh,
Phần Lan luôn được xem là trung tâm khởi nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới. Start up
tại Phần Lan không chỉ nổi tiếng với những start – up kiểu giải trí như những chú Angry
Birds mà còn là sự phát triển của hàng chục start – up trong lĩnh vực giáo dục với trị giá
của mỗi Start – up lên có thể lên tới hàng tỷ USD. Nguyên nhân của sự phát triển mạnh
mẽ trong khởi nghiệp này là Chính phủ Phần Lan tập trung hỗ trợ và khuyến khích khởi
63
nghiệp trong sinh viên, chủ yếu là lĩnh vực công nghệ. Các start – up còn được hỗ trợ
bằng những nghiên cứu khoa học từ chính các trường đại học ở nước này. Tại đây, hầu
hết giảng viên đều có thể chủ động chương trình mình dạy và đều có khả năng tự nghiên
cứu khoa học. Họ có thể thúc đẩy nghiên cứu một phát kiến mới ngay trong lớp học và
nhân rộng nó ra thành một dự án khởi nghiệp thực tế. Chính vì vậy, hệ sinh thái giáo dục
của Phần Lan sẽ do giáo dục làm chủ.
Hệ thống giáo dục ảnh hưởng tới nền tảng kiến thức, sự hình thành các kỹ năng, khả năng
và thái độ cho sự lựa chon nghề nghiệp tương lai. Bới vì các quyết định này cần thiết cho
tương lai các cá nhân, trường học cần có trách nhiệm hình thành và khơi mở cho sinh
viên các lựa chọn nghề nghiệp trong phạm vi rộng trong đó bao gồm khởi nghiệp. Vì
vậy, tôi đề xuất nền giáo dục nước ta cũng nên đưa các môn học về kinh doanh và có
những chương trình giảng dạy có thể phát triển những ý tưởng khởi nghiệp của sinh viên.
Hansemark (1998) cho rằng giáo dục truyền thống được xem chỉ là sự chuyển đổi giữa
kiến thức và các kỹ năng, trong khi giáo dục khởi nghiệp thì ngược lại, được biết đến như
là mô hình thay đổi thái độ và động cơ. Hai trong số điều kiện tiên quyết cho thành công
khi bắt đầu kinh doanh mới đó là sự khát khao và năng lực thực hiện. Khởi nghiệp cần
đam mê, tuy nhiên để thành công thì cần có khả năng thực sự để biến đam mê của mình
thành hành động. Đó chính là vai trò của giáo dục.
64
KẾT LUẬN
5.1 Kết luận chung
Công trình của tôi dựa trên ý tưởng của bài nghiên cứu “Entrepreneurship and human
capital: The role of financial development” của Nabamita Dutta và Russell S. Sobel
(2017). Bài nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích mối quan hệ của tinh thần khởi
nghiệp và vốn con người dưới ảnh hưởng của kênh phát triển tài chính ở Việt Nam cùng
một số quốc gia khác trên thế giới. Qua đó, khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục
trong việc thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp đối với những quốc gia có mức độ phát triển tài
chính chưa cao.
Tôi lựa chọn một mẫu gồm 43 quốc gia (trong đó có Việt Nam) để nghiên cứu. Dữ liệu
được sử dụng là dữ liệu bảng được lấy từ nguồn WDI, GEM, GFDD trong giai đoạn năm
2001 – 2015. Tôi sử dụng phương pháp ước lượng là phương pháp hồi quy GMM hệ
thống, bên cạnh đó là các kiểm định liên quan như tự tương quan, đa cộng tuyến để kết
quả nghiên cứu đảm bảo tính vững chắc.
Sau khi tôi chạy hồi quy mô hình GMM, kết quả thu được cho thấy giáo dục và mức độ
phát triển tài chính đều có tác động đáng kể lên tinh thần khởi nghiệp của một quốc gia.
Bên cạnh đó, mức độ phát triển tài chính có tác động phi tuyến tính đến tinh thần khởi
nghiệp. Nghĩa là ở các quốc gia có mức độ phát triển tài chính thấp thì sự gia tăng của
vốn tài chính sẽ dẫn đến sự gia tăng trong tinh thần khởi nghiệp, nhưng khi một quốc gia
có mức độ phát triển tài chính cao hơn thì sự tác động của sự gia tăng của vốn tài chính
lên tinh thần khởi nghiệp sẽ giảm dần, đến một mức độ nhất định sẽ không còn làm tăng
tinh thần khởi nghiệp, thậm chí còn làm giảm tỷ lệ doanh nghiệp mới hình thành. Ngoài
ra, mức độ phát triển tài chính sẽ ảnh hưởng lớn đến sự tác động của nguồn vốn nhân lực
lên tinh thần khởi nghiệp. Cụ thể, tác động của giáo dục đại học lên tỷ lệ khởi nghiệp
mạnh nhất ở các quốc gia có mức độ vốn khả dụng và phát triển tài chính thấp nhất và
ngược lại. Cuối cùng là ở những nước đang phát triển – nước có thu nhập thấp hơn mức
trung bình, để tăng tỷ lệ khởi nghiệp thì nên tập trung cải thiện giáo dục hơn là tập trung
vào phát triển tài chính.
65
5.2 Các hạn chế của bài nghiên cứu và hướng nghiên cứu sắp tới
Bài nghiên cứu của tôi vẫn còn tồn tại những hạn chế khách quan trong quá trình thực
hiện. Do giới hạn về thời gian nghiên cứu nên tôi còn hạn chế về mẫu dữ liệu, số lượng
mẫu chưa đủ lớn. Ngoài ra vì việc thu thập số liệu còn khó khăn do dữ liệu của các quốc
gia không đầy đủ, vì vậy các biến số đưa vào mô hình vẫn chưa là những đại lượng đo
lường hoàn hảo trong việc xem xét mối quan hệ giữa vốn nhân lực, tinh thần khởi nghiệp,
phát triển tài chính. Dữ liệu về tỷ lệ doanh nghiệp mới, tỷ lệ tuyển sinh đại học hoặc ba
thước đo phát triển tài chính như tín dụng tư nhân, nợ có tính thanh khoản cao và tiền gửi
ngân hàng có thể chưa chính xác và phản ánh đầy đủ ý nghĩa của các biến chính. Mặc dù
sử dụng các biến trên là tương đối phù hợp và là một cách để tận dụng nguồn dữ liệu có
sẵn, nhưng rõ ràng có cơ hội để cải thiện trong các nghiên cứu sau này. Tôi khuyến khích
các nghiên cứu trong tương lai xem xét các phương pháp đo lường khác, chẳng hạn như
ngành học hoặc sự đa dạng của vốn con người (ví dụ: kinh nghiệm làm việc, kỹ thuật,
nghệ thuật tự do, khoa học tự nhiên hoặc xã hội, bằng cấp khoa học, …); về biến tinh
thần khởi nghiệp có thể sử dụng các thước đo khác như hệ số khởi nghiệp TEA. Bên cạnh
đó, mẫu dữ liệu tìm cho Việt Nam và các nước trong khoảng thời gian chưa được cập
nhật đến hiện tại nên có thể chưa phản ánh đúng hoàn toàn nền kinh tế cũng như tình
hình đổi mới ở nước ta trong giai đoạn gần đây nhất. Do đó, các bài nghiên cứu mở rộng
sau này có thể thu thập mẫu dữ liệu lớn hơn với thời gian quan sát dài hơn, và tìm ra
những thước đo chính xác hơn cho vốn nhân lực, vốn tài chính và tinh thần khởi nghiệp
nhằm tìm kiếm mối quan hệ đa chiều và chính xác hơn của ba yếu tố trên. Bài nghiên cứu
này được thực hiện trong thời gian ngắn nên những hạn chế và thiếu sót là không thể
tránh khỏi. Nếu có thời gian dài hơn, tôi sẽ cải thiện những thiếu sót trên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Alvarez, S.A. & Barney, J.B. (2007). Discovery and creation: Alternative theories of
entrepreneurial action. Strategic Entrepreneurship Journal, 1(1), 11–26.
Ardichvili, A., Cardozo, R., & Ray, S. (2003). A theory of entrepreneurial opportunity
identification and development. Journal of Business Venturing, 18(1), 105–123.
Baum J.A.C. and B.S. Silverman. 2004. “Picking winners or building them?, Alliance,
intellectual, and human capital as selection criteria in venture financing and
performance of biotechnology startups”. Journal of Business Venturing, 19, 411–
436
Baumol, W. 2004. “Education for inovation: entrepreneurial breakthroughs vs. corporate
incremental improvements”. Cambridge, MA: NBER Working Paper 10578.
Becker, G., 1964. Human Capital. Columbia University Press, New York.
Becker, G.S. (1964). Human capital: A theoretical analysis with special reference to
education. New York: National Bureau for Economic Research, Columbia
University Press.
Bosma, N.S., C.M. van Praag, A.R. Thurik and G. de Wit. 2004. “The value of human
and social capital investments for the business performance of startups”. Small
Business Economics, 23, 227–236
Bradley, S.W., McMullen, J.S., Artz, K., & Simiyu, E.M. (2012). Capital is not enough:
Innovation in developing economies. Journal of Management Studies, 49(4), 684–
717.
Bruns, V., Holland, D.V., Shepherd, D.A., & Wiklund, J. (2008). The role of human
capital in loan officers’ decision policies. Entrepreneurship Theory and Practice,
32(3), 485–506.
Cassar, G. 2006. “Entrepreneur opportunity cost and intended venture growth”. Journal
of Business Venturing, 21, 610-632
Cassar, G. 2006. “Entrepreneur opportunity cost and intended venture growth”. Journal
of Business Venturing, 21, 610-632
Christensen, C. 1997. The Innovator's Dilemma: When New Technologies Cause Great
Firms to Fail. Boston, Mass.: Harvard Business School Press.
Corbett, A.C. (2007). Learning asymmetries and the discovery of entrepreneurial
opportunities. Journal of Business Venturing, 22(1), 97–118.
Davidsson Per. 2003. The Domain Of Entrepreneurship Research: Some Suggestions, in
Jerome A. Katz, Dean A. Shepherd (ed.) Cognitive Approaches to
Entrepreneurship Research (Advances in Entrepreneurship, Firm Emergence and
Growth, Volume 6) Emerald Group Publishing Limited 315 – 372
Dimov, D. (2010). Nascent entrepreneurs and venture emergence: Opportunity
confidence, human capital, and early planning. Journal of Management Studies,
47(6), 1123–1153.
Fayolle, A., Gailly, B., Lassas-Clerc, N. 2006. “Assessing the impact of entrepreneurship
education programmes: a new methodology”. Journal of European Industrial
Training, 30 (9), 701–720.
Garalis, A. and G. Strazdiene. 2007. “Entrepreneurial skills development via simulation
business enterprise”. Social Research, 2 (10), 39–48.
Graevenitz Georg Von, Dietmar Harhoff and Richard Weber. 2010. “The Effects of
Entrepreneurship Education”. Journal of Economic Behavior and Organization,
76 (1), 90-112.
Haber S. and A. Reichel. 2007. “The cumulative nature of the entrepreneurial process:
the contribution of human capital, planning and environmental resources to small
venture performance”. Journal Business Venturing, 22, 119–145
Israel Kirzner (1973). Perception, Opportunity and Profit: Studies in the Theory of
Entrepreneurship. Journal of Behavioral Economics, vol. 8, issue 2, 183-188
Lumpkin, G.T. & Dess, G.G. (1996). Clarifying the entrepreneurial orientation construct
and linking it to performance. Academy of Management Review, 21(1), 135–172.
Martin, B., J. McNally and M. Kay. 2013. “Examining the formation of human capital in
entrepreneurship: A meta-analysis of entrepreneurship education outcomes”.
Journal of Business Venturing, 28, 211-224.
Martin, B., J. McNally and M. Kay. 2013. “Examining the formation of human capital in
entrepreneurship: A meta-analysis of entrepreneurship education outcomes”.
Journal of Business Venturing, 28, 211-224.
Marvel, M.R. (2013). Human capital and search-based discovery: A study of high-tech
entrepreneurship. Entrepreneurship Theory and Practice, 37(2), 403–419.
Matthew R. Marvel, Justin L. Davis, Curtis R. Sproul (2014). Human Capital and
Entrepreneurship Research: A Critical Review and Future Directions”.
Entrepreneurship Theory and Practice, Vol. 40, Issue 3, pp. 599-626.
Mentoor, E. and C. Friedrich. 2007. “Is Entrepreneurial Education at South African
Universities successful? An empirical example”, Industry and Higher Education,
21,231–232.
Mincer, J. (1958). Investment in human capital and personal income distribution. Journal
of Political Economy, 66(4), 281–302.
Mincer, J. (1974). Schooling, Experience, and Earnings. National Bureau of Economic
Research, Columbia University Press, New York.
Nabamita Dutta, Sobel, R.S. Entrepreneurship and human capital: The role of financial
development. International Review of Economics and Finance, 2017.
Oosterbeek, H., M. van Praag and A. Ysselstein. 2010. “The impact of entrepreneurship
education on entrepreneurship skills and motivation”, European Economic
Review, 54 (3), 442–454.
Paul M. Romer (1990). Endogenous Technological Change. Journal of Political
Economy, vol. 98, no.5, pt. 2.
Schultz, T.W. (1961). Investment in human capital. The American Economic Review,
51(1), 1–17.
Schultz, Theodore W. 1959. “Investment in Man: An Economist's View”. Social Science
Review, 33(2), 109-117
Shane, S. (2000). Prior knowledge and the discovery of entrepreneurial opportunities.
Organization Science, 11(4), 448–469.
Unger, J.M., Rauch, A., Frese, M., & Rosenbusch, N. (2011). Human capital and
entrepreneurial success: A meta-analytical review. Journal of Business Venturing,
26(3), 341–358.
Unger, J.M., Rauch, A., Frese, M., & Rosenbusch, N. (2011). Human capital and
entrepreneurial success: A meta-analytical review. Journal of Business Venturing,
26(3), 341–358.
Van der Sluis J., C.M. Van Praag and W. Vijverberg. 2005. “Entrepreneurship, selection
and performance: a meta-analysis of the role of education”. World Bank Economic
Review, 19 (2), 225–261.
Zacharakis, A.L. & Meyer, G.D. (2000). “The potential of actuarial decision models: Can
they improve the venture capital investment decision?”. Journal of Business
Venturing, 15(4), 323–346.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Ma trận tương quan
Ent HC FD1 FD2 FD3 GDP Urb FeM GNI LFPR
1.0000 s Ent
1.0000 HC
FD1
1.0000 FD2
1.0000 FD3
1.0000 GDP
1.0000 Urb
1.0000 FeM
1.0000 GNI
1.0000 LFPR -0.3943* (0.0000) -0.2304** (0.0000) -0.1932* (0.0000) -0.3187* (0.0000) -0.4935* (0.0000) -0.3510* (0.0000) 0.2304* (0.0000) -0.4503** (0.0000) 0.2580* (0.0000) 0.3544* (0.0000) 0.0852* (0.0601) 0.2096** (0.0000) 0.7091* (0.0000) 0.5881 (0.0000) 0.2229* (0.0000) 0.6284 (0.0000) -0.0029 (0.9474) 1.0000 0.7348* (0.0000) 0.6759* (0.0000) 0.5688** (0.0000) 0.2827** (0.0000) 0.3362* (0.0000) 0.5169* (0.0000) 0.2495* (0.0000) 0.9118** (0.0000) 0.4164* (0.0000) 0.2370** (0.0000) 0.1729** (0.0000) 0.3227** (0.0000) 0.0226 (0.5718) 0.5085* (0.0000) 0.3997* (0.0000) 0.0656 (0.1041) 0.3985** (0.0000) -0.0619 (0.1252) 0.6482** (0.0000) 0.2581* (0.0000) 0.9277* (0.0000) 0.1669** (0.0000) 0.1546* (0.0001) 0.5577* (0.0000) 0.1547* (0.0001) 0.3043* (0.0000) 0.6923* (0.0000) 0.2882* (0.0000)
Phụ lục 2: Tên biến và nguồn dữ liệu
Biến Nguồn dữ liệu
Tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp mới Global Entrepreneurship Monitor
Vốn nhân lực lành nghề World Development Indicators
Tín dụng tư nhân trên GDP Global Financial Development Database
Global Financial Development Nợ có tính thanh khoản cao trên GDP Database
Tiền gửi ngân hàng trên GDP Global Financial Development Database
Tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người World Development Indicators
Tỷ lệ dân số thành thị World Development Indicators
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ so với World Development Indicators nam
Tổng thu nhập quốc nội bình quân đầu người World Development Indicators
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động World Development Indicators
Global Entrepreneurship Monitor TEA
Phụ lục 3: Kết quả hồi quy GMM phương trình (1) với FD1 - Tín dụng tư nhân
Tóm tắt phương trình (1) – FD1:
2 + 𝛽5 (FD1*HC)it + 𝛽6 𝑈𝑟𝑏𝑖 + 𝛽7
Ent it = 𝛽𝑜 + 𝛽1 Entit – 1 + 𝛽2 HCit + 𝛽3 FD1 it + 𝛽4 FD𝑖𝑡
𝐹𝑒𝑀𝑡 + 𝛽8 LFPR + 𝛽9 Ln GDP +𝛽10 Ln GNI
Biến độc lập Hệ số ước lượng P - value
Ent t – 1 0.4202 *** 0.000
HC 0.1131 *** 0.004
FD1 0.1073 *** 0.000
𝟐 𝑭𝑫𝟏
-0.0002 *** 0.002
FD1* HC -0.0011 *** 0.001
Urb -0.0198 0.401
FeM -0.0417 * 0.056
LFPR 0.1162 *** 0.000
Ln GDP 2.3726 0.259
Ln GNI -2.7467 ** 0.038
-4.3108 0.679 𝜷𝟎
Số quan sát 274
Hansen test 19.29 0.566
AR(1) test -3.38 0.001
AR(2) test -0.07 0.944
***, **, * lần lượt là các ký hiệu thể hiện ý nghĩa tại mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.
Phụ lục 4: Kết quả hồi quy GMM phương trình (1) với FD2 – Nợ có tính thanh
khoản cao
2 + 𝛽5 (FD2*HC)it + 𝛽6 𝑈𝑟𝑏𝑖 + 𝛽7
Tóm tắt phương trình (1) – FD2:
Ent it = 𝛽𝑜 + 𝛽1 Entit – 1 + 𝛽2 HCit + 𝛽3 FD2 it + 𝛽4 FD2 𝑖𝑡 𝐹𝑒𝑀𝑡 + 𝛽8 LFPR + 𝛽9 Ln GDP +𝛽10 Ln GNI
Biến độc lập Hệ số ước lượng P - value
Ent t – 1 0.3310 *** 0.000
HC 0.0271 ** 0.048
FD2 0.0743 *** 0.000
𝟐 𝑭𝑫𝟐
-0.0003 *** 0.000
FD2* HC -0.0001 ** 0.023
Urb 0.0157** 0.033
FeM -0.0039* 0.094
LFPR 0.0495 * 0.058
Ln GDP -4.1279 *** 0.000
Ln GNI -0.1906 0.558
38.8205 *** 0.000 𝜷𝟎
Số quan sát 274
Hansen test 20.55 0.608
AR(1) test -2.61 0.009
AR(2) test -0.00 0.997
***, **, * lần lượt là các ký hiệu thể hiện ý nghĩa tại mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.
Phụ lục 5: Kết quả hồi quy GMM phương trình (1) với FD3 – Tiền gửi ngân hàng
trên GDP
2 + 𝛽5 (FD3*HC)it + 𝛽6 𝑈𝑟𝑏𝑖 + 𝛽7
Tóm tắt phương trình (1) – FD3:
Ent it = 𝛽𝑜 + 𝛽1 Entit – 1 + 𝛽2 HCit + 𝛽3 FD3 it + 𝛽4 FD3 𝑖𝑡 𝐹𝑒𝑀𝑡 + 𝛽8 LFPR + 𝛽9 Ln GDP +𝛽10 Ln GNI
Biến độc lập Hệ số ước lượng P - value
0.2304 ** 0.017 Ent t – 1
0.1268 *** 0.000 HC
0.1646 *** 0.000 FD3
𝟐 𝑭𝑫𝟑
-0.0003 ** 0.014
FD3* HC -0.0009 *** 0.004
-0.0638 ** 0.011 Urb
0.0062 ** 0.022 FeM
0.0362 * 0.050 LFPR
-8.6659 *** 0.001 Ln GDP
1.5976 0.159 Ln GNI
65.4041 *** 0.000 𝜷𝟎
274 Số quan sát
26.44 0.233 Hansen test
-2.68 0.007 AR(1) test
0.03 0.977 AR(2) test
***, **, * lần lượt là các ký hiệu thể hiện ý nghĩa tại mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.
Phụ lục 6: Kết quả hồi quy GMM phương trình (2) với FD1 – Tín dụng tư nhân
Phụ lục 7: Kết quả hồi quy GMM phương trình (2) với FD2 – Nợ thanh khoản
Phụ lục 8: Kết quả hồi quy GMM phương trình (2) với FD3 – Tiền gửi ngân hàng
Phụ lục 9: Kết quả kiểm định đa cộng tuyến phương trình (1)
Phụ lục 10: Kết quả kiểm định tự tương quan phương trình (1)