BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH __________________

HỒ THỊ THANH HẰNG

NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA VỐN CON NGƯỜI VÀ KHỞI NGHIỆP

DƯỚI ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA KHÁC

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH __________________

HỒ THỊ THANH HẰNG

NGHIÊN CỨU MỐI QUAN HỆ GIỮA VỐN CON NGƯỜI VÀ KHỞI NGHIỆP

DƯỚI ẢNH HƯỞNG CỦA MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN TÀI CHÍNH

Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA KHÁC

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

(Hướng ứng dụng)

Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS. TS Trần Ngọc Thơ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự

hướng dẫn khoa học của GS.TS Trần Ngọc Thơ. Các số liệu sử dụng trong luận văn có

nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Những kết quả nghiên cứu trong luận

văn này là do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với

thực tiễn Việt Nam. Các kết quả này chưa được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào

khác.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Học viên

Hồ Thị Thanh Hằng

MỤC LỤC

GIỚI THIỆU ................................................................................. 1

1.1 Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1

1.2 Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 4

1.3 Phương pháp, đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..................................................... 5

1.4 Bố cục bài nghiên cứu ......................................................................................... 5

KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM .............................................................................................................. 7

2.1 Khung lý thuyết .................................................................................................. 7

2.1.1 Lý thuyết về vai trò của khởi nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế .................. 7

2.1.2 Lý thuyết về vốn con người và tinh thần khởi nghiệp ................................. 14

2.2 Bằng chứng thực nghiệm .................................................................................. 27

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU ....................... 36

3.1 Phương pháp ước lượng .................................................................................... 36

3.2 Mô tả biến và dữ liệu ........................................................................................ 39

3.2.1 Mô tả biến .................................................................................................. 39

3.2.1 Dữ liệu ....................................................................................................... 45

KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM ...................................................... 51

4.1 Kết quả thực nghiệm và giải thích ..................................................................... 51

4.1.1 Kết quả hồi quy phương trình (1) ............................................................... 51

4.1.2 Kết quả hồi quy phương trình (2) ............................................................... 57

4.2 Các kiểm định cho mô hình hồi quy GMM ....................................................... 58

4.2.1 Kiểm định đa cộng tuyến ............................................................................ 58

4.2.2 Kiểm định hiện tượng tự tương quan .......................................................... 59

4.3 Thảo luận kết quả thực nghiệm ......................................................................... 60

4.4 Các đề xuất từ kết quả nghiên cứu..................................................................... 62

KẾT LUẬN .................................................................................. 64

5.1 Kết luận chung .................................................................................................. 64

5.2 Các hạn chế của bài nghiên cứu và hướng nghiên cứu sắp tới ........................... 65

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DGMM Mô hình hồi quy GMM khác biệt

DPD Dữ liệu bảng động (Dynamic Panel Data)

GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)

GEM Dữ liệu giám sát khởi nghiệp toàn cầu (Global Entrepreneurship Monitor)

GFDD Dữ liệu phát triển tài chính toàn cầu (Global Financial Development

Database)

GMM Mô hình hồi quy GMM (Generalized Method of Moments)

KSA Kiến thức, kỹ năng, khả năng (Knowledge, skills, and abilities)

MLS Maximum Likelihood Estimation (Ước lượng hợp lý cực đại)

OLS Phương pháp hồi quy bình phương nhỏ nhất

R&D Nghiên cứu và phát triển (Research and development)

SGMM Mô hình hồi quy GMM hệ thống

WDI Chỉ số phát triển thế giới (World Development Indicators)

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Các lý thuyết được áp dụng trong nghiên cứu khởi nghiệp của con người tính

đến tháng 9/2014 ............................................................................................................ 16

Bảng 2.2. Cấu trúc vốn nhân lực chung ........................................................................ 17

Bảng 2.3. Các loại hình vốn nhân lực ........................................................................... 22

Bảng 3.1. Thống kê mô tả biến ..................................................................................... 44

Bảng 3.2. Danh sách các nước sử dụng trong nghiên cứu ............................................. 47

Bảng 3.3. Nguồn dữ liệu của các biến sử dụng trong mô hình ....................................... 49

Bảng 4.1. Kết quả hồi quy GMM phương trình (1) ....................................................... 52

Bảng 4.2. Tác động biên của tuyển sinh đại học đối với tinh thần khởi nghiệp ứng với 3

thước đo phát triển tài chính ở một số quốc gia ............................................................. 54

Bảng 4.3. Tác động biên của tuyển sinh đại học đối với tinh thần khởi nghiệp ứng với 3

thước đo phát triển tài chính ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2015 ................................... 56

Bảng 4.4. Kết quả hồi quy GMM phương trình (2) ....................................................... 57

Bảng 4.5. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến ............................................................ 59

DANH MỤC HÌNH

Hình 2.1. Trọng tâm của nghiên cứu trong quá khứ .................................................... 20

Hình 2.2. Mô hình vốn nhân lực và quá trình khởi nghiệp .......................................... 25

Hình 4.1. Mối quan hệ giữa tinh thần khởi nghiệp và phát triển tài chính .................. 53

Hình 4.2. Mối quan hệ giữa tinh thần khởi nghiệp và phát triển tài chính .................. 56

TÓM TẮT

Công trình nghiên cứu này của tôi tìm hiểu về mối quan hệ giữa vốn con người và khởi

nghiệp dưới ảnh hưởng của mức độ phát triển tài chính ở Việt Nam và một số quốc gia

khác. Trong bài nghiên cứu, tôi sử dụng mẫu dữ liệu của 43 quốc gia trong giai đoạn từ

2001 – 2015, trong đó có Việt Nam. Để tìm ra câu trả lời cho những câu hỏi nghiên cứu

trong bài, tôi đã dựa trên những lý thuyết nền tảng và các bài nghiên cứu trước đây, từ đó

xây dựng một mô hình để xem xét sự tác động lẫn nhau giữa ba yếu tố trên. Tôi sử dụng

dữ liệu bảng cùng phương pháp ước lượng GMM hệ thống để ước lượng cho phương

trình này, kèm theo đó là các kiểm định liên quan như: hiện tượng tự tượng quan, đa cộng

tuyến để kiểm tra các “khuyết tật” có thể có của mô hình.

Kết quả tôi thu được là sự tác động của nguồn vốn nhân lực lên tinh thần khởi nghiệp là

lớn hay nhỏ phụ thuộc vào mức độ phát triển tài chính của một quốc gia. Cụ thể, tác động

của giáo dục đại học lên tinh thần khởi nghiệp mạnh nhất ở các quốc gia có mức độ vốn

khả dụng và phát triển tài chính thấp và ngược lại. Thêm vào đó, ở những quốc gia có thu

nhập thấp hơn mức trung bình, để tăng tỷ lệ khởi nghiệp thì nên tập trung cải thiện giáo

dục hơn là tập trung vào phát triển tài chính. Qua những kết quả thực nghiệm trên tôi đã

đưa ra những giải thích, đề xuất cho các nghiên cứu tiếp theo và các khuyến nghị cho

chính sách giáo dục của Việt Nam để giúp nâng cao tinh thần khởi nghiệp và giúp đất

nước phát triển một cách mạnh mẽ trong tương lai.

Từ khóa: Khởi nghiệp, vốn nhân lực, tuyển sinh đại học, phát triển tài chính.

ABSTRACT

The previous literature is filled with mixed findings with regard to human capital’s

impact on entrepreneurial outcomes. In particular, the prior literature has treated human

capital’s impact on entrepreneurship in isolation, while in reality its impact depends on

access to financial capital. This study of mine explores the relationship between human

capital and entrepreneurship under the influence of the level of financial development in

Vietnam and some other countries. In the study, I used data samples from 43 countries in

the period from 2001 to 2015, including Vietnam. In order to find out the answers to the

research questions in the paper, I have based on the fundamental theories of

entrepreneurship, human capital of previous studies to build two models to consider the

impact of mutual feedback between the above factors. I use the table data and the GMM

system estimation method to estimate the two equations proposed in the paper.

My results show that a rise in tertiary enrollment benefits entrepreneurship most when the

level of financial development is low. For higher levels of financial development, the

impact of tertiary enrollment on entrepreneurship is still positive but much lesser in

magnitude compared to countries with lower level of financial development. Through the

above results, I have provided explanations and suggestions for Vietnam's education

policy to enhance the entrepreneurial spirit and develop the country more strongly.

Keywords: Entrepreneurship, Human Capital, Tertiary Enrollment, Financial

Development.

1

GIỚI THIỆU

1.1 Lý do chọn đề tài

Các tài liệu trước đây đã tìm thấy rất nhiều kết quả liên quan đến mối quan hệ giữa kết

quả giáo dục và tinh thần khởi nghiệp. Một loạt các nghiên cứu kết luận rằng vốn con

người có liên quan đến thành công của doanh nhân (Cassar, 2006; Van der Sluis et al.,

2005; Bosma et.al., 2004), cụ thể là vốn con người tăng lên rất quan trọng trong việc thúc

đẩy tinh thần khởi nghiệp (Haber và Reichel, 2007). Tuy nhiên, các nghiên cứu của

Baum và Silverman (2004) cho rằng mối quan hệ giữa vốn con người và tinh thần khởi

nghiệp đang được nhấn mạnh quá mức. Trong bài nghiên cứu này, tôi tiếp tục làm rõ vấn

đề liên quan đến tác động của vốn con người đến tinh thần khởi nghiệp. Trong khi lý

thuyết vốn con người tiêu chuẩn (Becker, 1964) cho rằng kết quả giáo dục tốt hơn sẽ cải

thiện hiệu quả kinh tế, nhưng điều này không phải lúc nào cũng làm tăng tỷ lệ doanh

nhân khởi nghiệp thực tế, vì tỷ lệ này còn chịu tác động của một số yếu tố khác.

Yếu tố đầu tiên là giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại học, có thể cản trở sự không đồng

nhất và tư duy sáng tạo cần thiết cho sự đổi mới (Baumol, 2004). Ông thấy rằng việc nắm

vững các phương pháp khoa học được cung cấp bởi giáo dục đại học tiêu chuẩn là vô

cùng quý giá đối với các hoạt động R & D của tập đoàn lớn nhưng cản trở sự sáng tạo

thực sự cần thiết cho những đổi mới đột phá góp phần không nhỏ vào tăng trưởng (chủ

yếu đến từ các công ty khởi nghiệp nhỏ và mới). Về bản chất, giáo dục đại học hầu hết

đều dẫn đến những tiến bộ gia tăng hơn là tạo ra những đổi mới đột phá (Christensen,

1997). Đây chính xác là lý do tỷ phú doanh nhân Peter Thiel của PayPal đã tài trợ học

bổng Thiel mang lại cho sinh viên 100.000 đô la trong hai năm cho những sinh viên nào

dám bỏ học đại học và nỗ lực theo đuổi khởi nghiệp kinh doanh.

Thứ hai, bởi vì một cá nhân có trình độ giáo dục cao và chất lượng sẽ dẫn đến cơ hội việc

làm mở rộng trong các công ty và doanh nghiệp hiện tại có sẵn, điều đó làm tăng chi phí

cơ hội cho cá nhân trở thành một doanh nhân khởi nghiệp. Đây chính xác là lý do tại sao

các khu vực kém phát triển với môi trường kinh doanh kém và chính sách yếu kém có xu

2

hướng có tỷ lệ tự khởi nghiệp cao, chính xác đây là những gì được chứng minh trong bài

nghiên cứu về chi phí cơ hội của khởi nghiệp (Cassar, 2006).

Cuối cùng, giáo dục được cải thiện có thể khiến các cá nhân đánh giá tốt hơn các rủi ro,

thất bại tiềm ẩn và các vấn đề với ý tưởng của họ, khiến các cá nhân khởi nghiệp phải từ

bỏ theo đuổi ý tưởng xấu và giảm tổng số khởi nghiệp mới. Mặc dù yếu tố thứ ba này dẫn

đến ít thất bại hơn trong kinh doanh vì ít ý tưởng tồi tệ hơn được thực hiện, nhưng nó

cũng dẫn đến các doanh nghiệp khởi nghiệp ít được thành lập hơn.

Các kết quả không đồng nhất về mối quan hệ giữa giáo dục đại học và tỷ lệ khởi nghiệp

không những thể hiện qua các nghiên cứu lý thuyết trước đây mà chúng còn được tìm

thấy trong thực tế, đặc biệt dành cho sinh viên tham gia các khóa học về kinh doanh và

lập kế hoạch kinh doanh, và những phát hiện này được nhân rộng ở nhiều quốc gia khác

nhau (Martin, McNally và Kay, 2013). Ví dụ, Oosterbeek, van Praag và Ysselstein

(2010) nhận thấy rằng sinh viên đại học Ý định khởi nghiệp đã giảm bớt sau khi tham gia

một khóa học về tinh thần kinh doanh và điều này đã được nhân rộng. Mentoor và

Friedrich (2007) tìm thấy các khóa học đại học ở Nam Phi tập trung vào quản lý doanh

nghiệp nhỏ và kết quả là tinh thần kinh doanh có mối tương quan nghịch với các kỹ năng

và kiến thức kinh doanh, đồng thời Von Graevenitz, Harhoff, và Weber (2010) tìm thấy

kết quả tương tự đối với các sinh viên Đức. Một số nghiên cứu của sinh viên Pháp và

Litva (Fayolle, Gailly và Lassas-Clerc, 2006; Garalis và Strazdiene, 2007) lại tìm thấy

kết quả hỗn hợp. Nhiều yếu tố có thể giải thích mối quan hệ nghịch đảo này bao gồm việc

hiểu rõ hơn về rủi ro thực sự và khối lượng công việc liên quan đến việc bắt đầu một

doanh nghiệp mới đã làm giảm tỷ lệ khởi nghiệp thực tế của sinh viên.

Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu giá trị về đề tài trên, tuy nhiên các kết quả lại khá hỗn

loạn và chưa đi đến một câu trả lời xác đáng cho mối quan hệ trên, đồng thời còn tồn tại

khá nhiều vấn đề cần khắc phục. Đầu tiên, đa số các nghiên cứu nhầm lẫn và bỏ qua tác

động phi tuyến tính của vốn con người đối với tinh thần kinh doanh. Thứ hai, tác động

của nguồn nhân lực đối với tinh thần kinh doanh còn phụ thuộc vào mức độ phát triển tài

chính của quốc gia đó, tuy nhiên cũng chưa có nhiều nghiên cứu chuyên sâu nào khai

thác. Cuối cùng, các nghiên cứu trước vẫn chủ yếu tập trung vào các quốc gia có nền

kinh tế thị trường phát triển, hệ thống kinh tế thị trường được hình thành đồng bộ và vận

3

hành hiệu quả, môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển nên chưa phản ánh một

cách chung nhất và chính xác nhất về mối quan hệ này; dữ liệu nghiên cứu cũng chưa

được cập nhật đầy đủ đến thời điểm gần nhất nên sẽ không phản ánh được chính xác mối

quan hệ trên trong nền kinh tế nhiều biến động những năm gần đây.

Ngoài ra, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, tôi thấy rằng vấn đề khởi nghiệp và vốn con

người đang được các nước trên thế giới ngày càng quan tâm vì nó ảnh hưởng mạnh mẽ

đến sự tăng trưởng kinh tế và phát triển chung của một quốc gia. Hãy cùng điểm qua một

vài quốc gia luôn chú trọng đến tinh thần khởi nghiệp trong những năm qua. Đầu tiên

phải nói đến quốc gia có tinh thần khởi nghiệp mạnh mẽ nhất trên thế giới trong vài chục

năm qua là Israel. Có lẽ vì thấy được tầm quan trọng của khởi nghiệp trong sự phát triển

kinh tế mà họ đã rèn luyện và giáo dục tinh thần khởi nghiệp cho trẻ em ngay từ khi còn

nhỏ. Tiếp theo, không thể không nhắc đến nước Mỹ, đất nước với những tập đoàn lớn

mạnh, hàng chục nhà bác học đạt giải Nobel, hàng trăm nhà tỷ phú, hàng nghìn nhà khoa

học thiên tài, chiếm lĩnh hầu hết những công nghệ hiện đại nhất thế giới. Vậy điều gì đã

tạo nên điều đó cho nước Mỹ? Có rất nhiều yếu tố, nhưng yếu tố quyết định là tinh thần

khởi nghiệp của người Mỹ. Ở Việt Nam hiện nay, môi trường khởi nghiệp được đánh giá

là còn non trẻ so với thế giới nhưng có nhiều tiềm năng để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp

một cách mạnh mẽ. Theo đó, có hàng trăm Trường đại học, Viện – nơi được coi là trung

tâm của hệ sinh thái khởi nghiệp, đang hoạt động khắp cả nước và ngày càng nhân rộng.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là có thật sự kết quả giáo dục (vốn con người) sẽ có mối quan hệ

cùng chiều với tỷ lệ khởi nghiệp hay không?

Thấy được những khoảng trống lý thuyết cũng như tính thực tiễn của đề tài này trong giai

đoạn hiện nay, tôi đã quyết định thực hiện đề tài này nhằm kiểm tra thực nghiệm mối

quan hệ giữa tuyển sinh giáo dục đại học và tỷ lệ khởi nghiệp (sự hình thành các doanh

nghiệp mới) trên khắp các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Tôi cố gắng làm

rõ vấn đề này bằng cách xem xét mối quan hệ giữa vốn con người và tinh thần khởi

nghiệp dưới ảnh hưởng của các mức độ phát triển tài chính khác nhau. Đặc biệt ở nước

ta, khi xu hướng khởi nghiệp đang bắt đầu lan tỏa mạnh mẽ và Chính phủ cũng đã quyết

định chọn năm 2016 là năm khởi đầu cho năm năm quốc gia khởi nghiệp sắp tới, cho

thấy các nhà chính sách cũng đã nhận ra tầm quan trọng của khởi nghiệp và đổi mới lên

4

sự tăng trưởng của quốc gia, tuy nhiên lại chưa có nghiên cứu nào về đề tài này cho thực

tế Việt Nam. Do đó, tôi đã tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu mối quan hệ giữa vốn

con người và khởi nghiệp dưới ảnh hưởng của mức độ phát triển tài chính ở Việt Nam

và một số quốc gia khác”.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Bài nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích mối quan hệ của tinh thần khởi nghiệp

và vốn con người dưới ảnh hưởng của kênh phát triển tài chính ở Việt Nam cùng một số

quốc gia khác trên thế giới. Các tài liệu trước đây đã nhất trí rằng phát triển tài chính và

vốn con người là thành phần quan trọng của tăng trưởng kinh tế; cùng với đó, những yếu

tố này cũng không thể thiếu cho sự thành công của một doanh nhân khởi nghiệp.

Câu hỏi đầu tiên đặt ra trong nghiên cứu này là hai yếu tố giáo dục và phát triển tài chính

có tác động đến tinh thần khởi nghiệp của một quốc gia hay không và nếu có thì tác động

theo chiều hướng nào?

Thứ hai là liệu mức độ phát triển tài chính có tác động phi tuyến tính đến tinh thần khởi

nghiệp không? Nghĩa là đối với quốc gia có mức độ phát triển tài chính cao thì vốn tài

chính tăng lên nữa có làm tinh thần khởi nghiệp tăng lên nữa không và ngược lại.

Thứ ba, mức độ phát triển tài chính có ảnh hưởng đến sự tác động của nguồn vốn con

người lên tinh thần khởi nghiệp hay không? Tức là đối với một quốc gia có mức độ phát

triển tài chính thấp, thì sự tăng lên về nguồn vốn con người có làm tinh thần khởi nghiệp

tăng lên hay không và ngược lại.

Cuối cùng, ở những nước có thu nhập thấp hơn trung bình, để tăng tỷ lệ khởi nghiệp thì

nên tập trung cải thiện giáo dục hay phát triển tài chính và một sự cải thiện trong yếu tố

nguồn vốn con người có đủ khả năng bù đắp sự thiếu hụt của hiệu quả tài chính hay

không? Bởi vì đối với nhiều nước đang phát triển, việc có cả lĩnh vực tài chính mạnh và

mức vốn con người cao có thể khó xảy ra do hạn chế về nguồn lực.

Để giải quyết những câu hỏi chưa được khám phá đó, tôi đã đào sâu và mở rộng các

nghiên cứu lý thuyết trước đây về tinh thần khởi nghiệp, nguồn vốn con người và phát

triển tài chính. Đồng thời sử dụng một phân tích thực nghiệm cho một nhóm các quốc gia

rộng lớn theo thời gian, tôi dùng các biến định lượng đặc trưng thay thế cho từng yếu tố

5

trên để kiểm định mối quan hệ và những tác động lẫn nhau của chúng. Từ đó, đưa ra

những khuyến nghị cho các chính sách nhằm tạo động lực để gia tăng tinh thần khởi

nghiệp và phát triển nền kinh tế đất nước.

1.3 Phương pháp, đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Bài nghiên cứu này trình bày phân tích thực nghiệm mối quan hệ ba yếu tố: hoạt động

khởi nghiệp, vốn con người và phát triển tài chính ở 43 quốc gia trên khắp thế giới trong

đó có Việt Nam. Tôi sử dụng dữ liệu bảng cho các quốc gia đó trong giai đoạn từ 2001

đến 2015. Đồng thời tôi sử dụng phương pháp ước lượng GMM hệ thống để ước lượng

dữ liệu bảng động xuyên quốc gia để khắc phục triệt để hiện tượng nội sinh (nếu có).

Ngoài ra tôi đã thực hiện các kiểm định liên quan như kiểm tra hiện tượng nội sinh bằng

kiểm định kiểm tra tự tương quan bằng kiểm định Wooldridge và kiểm định đa cộng

tuyến để xác định những “khuyết tật” có thể có của mô hình GMM để đảm bảo tính vững

chắc của nghiên cứu. Thậm chí ngay cả trong điều kiện giả thiết nội sinh bị vi phạm,

phương pháp GMM hệ thống vẫn cho ra các hệ số ước lượng vững, không chệch và hiệu

quả nên tôi đã chọn phương pháp này.

1.4 Bố cục bài nghiên cứu

Để phục vụ cho việc tra cứu của độc giả, giúp độc giả có thể nắm tổng quan bài nghiên

cứu một cách dễ dàng, tôi đưa ra các danh mục tra cứu như mục lục và các danh mục

bảng biểu, danh mục từ viết tắt, danh mục biểu đồ. Sau đó tôi mô tả một cái nhìn tổng

quát cho toàn bài nghiên cứu bằng những giới thiệu tổng quan trong phần tóm tắt.

Công trình nghiên cứu của tôi được chia thành năm chương. Trong chương một, tôi nêu

lên lý do thực hiện và mục tiêu nghiên cứu của đề tài này, tiếp sau đó tôi giới thiệu tổng

quan về phương pháp nghiên cứu cũng như đối tượng và phạm vi nghiên cứu của bài. Ở

chương 2, tôi sẽ trình bày những khung lý thuyết liên quan đến hoạt động khởi nghiệp,

vốn con người, và phát triển tài chính, cùng với đó là những bằng chứng thực nghiệm từ

các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế học đi trước, những bằng chứng thực

nghiệm đã khẳng định vai trò của tinh thần khởi nghiệp trong quá trình đổi mới và tăng

trưởng kinh tế. Đến chương 3, tôi trình bày chi tiết về phương pháp ước lượng và các mô

hình thực nghiệm. Trong đó, tôi mô tả cụ thể hơn về phương pháp ước lượng mà tôi sử

dụng trong bài, sau đó tôi đưa ra mô hình thực nghiệm cho công trình của mình dựa trên

6

những lý thuyết đã nêu ở trên. Tiếp sau đó, tôi giải thích các biến số trong mô hình và

nguồn của bộ dữ liệu mà tôi thu thập. Đến chương 4, tôi trình bày những kết quả thực

nghiệm của mình sau khi chạy các mô hình hồi quy nêu trên, đồng thời tiến hành các

kiểm định cần thiết để kiểm tra những khuyết tật có thể mắc phải của mô hình. Hơn nữa,

ở phần cuối chương này, tôi đã đưa ra những giải thích cho kết quả thực nghiệm, sau đó

trả lời các câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra ở đầu bài và đưa ra các đề xuất đóng góp dựa trên

nhưng kết quả mà tôi phát hiện được. Chương cuối cùng, tôi đưa ra kết luận chung cho

toàn bộ bài nghiên cứu, ngoài ra tôi cũng chỉ ra những hạn chế còn gặp phải cùng với

hướng nghiên cứu tiếp theo cho đề tài này trong tương lai.

7

KHUNG LÝ THUYẾT VÀ CÁC BẰNG CHỨNG THỰC

NGHIỆM

2.1 Khung lý thuyết

2.1.1 Lý thuyết về vai trò của khởi nghiệp đối với tăng trưởng kinh tế

Trước khi tiến hành nghiên cứu về động lực thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp có phải là

nguồn vốn nhân lực không, ta phải thấy được tầm quan trọng của tinh thần khởi nghiệp

đối với tăng trưởng kinh tế. Động lực của tăng trưởng kinh tế luôn là đề tài gây hứng thú

cho các nhà kinh tế trong nhiều năm qua. Trước đây, đã có rất nhiều công trình của

những nhà nghiên cứu nổi tiếng về sự tác động của các yếu tố như vốn, lao động, khoa

học công nghệ lên tăng trưởng kinh tế và nhiều trong số đó đã trở thành nền móng cơ bản

cho các nghiên cứu mở rộng sau này. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: Liệu có mối quan hệ

nào giữa khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế không? Theo lý thuyết của Adam Smith cho

rằng: Các thị trường đang ngày càng mở rộng tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình khởi

nghiệp và đổi mới sáng tạo, từ đó năng suất lao động sẽ tăng lên và tạo ra sự tăng trưởng

kinh tế. Trái chiều với lý thuyết của Adam Smith, David Ricardo lại nhận định rằng sự

kết hợp của các yếu tố đầu vào như: đất đai, lao động, nguồn vốn sẽ cho ta một hàm sản

lượng nói lên sự tăng trưởng kinh tế. Xem xét các yếu tố trên để nhận xét về tăng trưởng

kinh tế, ông cho rằng: Nguồn vốn có thể tăng lên trong quá trình đầu tư nhưng đất đai thì

hữu hạn và sự gia tăng dân số luôn cao hơn sự tăng trưởng kinh tế do đó phần lớn dân số

chỉ có mức thu nhập vừa đủ. Nhìn trên phương diện này, ông nhận xét rằng khởi nghiệp

sẽ không làm gia tăng nhanh của cải, hay nói cách khác, khởi nghiệp và sáng tạo đổi mới

không phải là yếu tố chủ yếu trong sự tăng trưởng.

Hai ý kiến về vấn đề khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế trên là những khái niệm cơ bản

và giản đơn nhất. Smith kết luận rằng sự tăng trưởng kinh tế có một tiềm năng không giới

hạn, còn Ricardo cho rằng tiềm năng đó không thể vô hạn mà bị hạn chế bởi những hữu

hạn trong các yếu tố, các nguồn lực cấu thành nên sự tăng trưởng. Ta thấy rằng, Adam

Smith khi xem xét về sự tăng trưởng kinh tế đã có tầm nhìn rộng hơn Ricardo. Nhưng các

nghiên cứu kinh tế lại có vẻ gần gũi với tư tưởng của Ricardo hơn khi nhắc đến vấn đề

tăng trưởng kinh tế. Lý do là khi thiết lập các mô hình kinh tế, cách tiếp cận của Ricardo

8

có tính ứng dụng tốt hơn vì quá trình mô hình hóa các hiện tượng kinh tế đòi hỏi mô hình

phải tính toán và so sánh được, trong khi yếu tố “đổi mới sáng tạo” của Adam Smith lại

rất khó đưa vào các mô hình kinh tế một cách chính xác.

Trong hàm sản lượng của Ricardo, nguồn vốn (vốn đầu tư) là yếu tố chính của quá trình

tăng trưởng kinh tế, còn theo Adam Smith, sự đổi mới sáng tạo mới là chìa khóa của tăng

trưởng kinh tế, nhưng quá trình đổi mới sáng tạo diễn ra như thế nào thì không được ông

giải thích. Về sau này, nhiều nhà kinh tế đã nghiên cứu và thảo luận vấn đề này, nhà kinh

tế học Kirzner cũng theo trường phái của Smith về tăng trưởng kinh tế khi ông chỉ đưa ra

quan điểm rằng: Động lực của tinh thần khởi nghiệp chính là “cơ hội sinh lời chưa được

phát hiện từ trước”. Theo quan điểm đó, khởi nghiệp chính là động lực thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế, giống phát biểu của Smith. Theo Kirzner, tri thức khởi nghiệp là việc

nhận ra cơ hội kiếm lời mà từ trước đến giờ không ai chú ý đến. Nhà khởi nghiệp thực

hiện những ý tưởng tạo ra một năng suất cao hơn, sự thỏa mãn nhu cầu lớn hơn với mức

chi phí thấp hơn. Nhà kinh tế học Schumpeter phân tích một bối cảnh mà điểm cân bằng

cạnh tranh làm tối thiểu hóa lợi nhuận, và một bối cảnh trong đó lợi nhuận chính là phần

thưởng cho quá trình khởi nghiệp. Schumpeter cho rằng, tinh thần khởi nghiệp là nền

móng cho sự tăng trưởng kinh tế. Bắt đầu từ những kinh nghiệm lịch sử, các tư tưởng và

ý tưởng về khởi nghiệp được sinh ra và phát triển, rồi những tri thức mới lại được tích

góp làm kinh nghiệm để tạo ra những tư tưởng khởi nghiệp mới, quá trình này cứ tiếp

diễn dấn đến sự tăng trưởng kinh tế. Vậy theo Schumpeter quá trình tăng trưởng kinh tế

diễn ra là do quá trình khởi nghiệp đã tạo ra một môi trường mà trong đó sự đổi mới sáng

tạo được nuôi dưỡng và phát triển do vậy mà năng suất lao động ngày càng tăng, hiệu

quả kinh tế của sản xuất ngày càng cao, tạo ra tăng trưởng kinh tế.

Chúng ta sẽ cùng xem xét lại các mô hình tăng trưởng kinh tế từ sơ khai đến nay để có

cái nhìn tổng quát hơn. Đầu tiên phải kể đến là mô hình tăng trưởng cơ bản. Trong mô

hình này, phương trình hàm sản xuất phụ thuộc vào 2 yếu tố: Nguồn vốn (K) và lực

lượng lao động (L). Đây là mô hình cơ bản nhất và phương trình của hàm sản xuất (hay

hàm tổng sản lượng) sẽ là:

Y = F (K, L) (2-1)

9

Qua phương trình này ta thấy rằng: Nếu lực lượng lao động hay nguồn vốn gia tăng, sẽ

dẫn đến sản xuất gia tăng. Theo cách lập luận này thì tăng trưởng kinh tế diễn ra do tăng

đầu tư (đầu tư vào nhà xưởng, máy móc, cơ sở vật chất, hạ tầng,…) hoặc tăng quy mô

của lực lượng lao động, hay cả hai. Dạng chính xác của hàm F (cho biết chính xác sản

xuất sẽ tăng bao nhiêu khi thay đổi K và L) chính là điểm phân biệt giữa các mô hình

tăng trưởng khác nhau.

Mô hình này còn đơn giản và chưa đề cập nhiều đến các yếu tố quan trọng khác như sự

đổi mới khoa học công nghệ, quá trình khởi nghiệp,…Và với nền kinh tế hiện đại ngày

nay, các nghiên cứu mới cho rằng: nguồn vốn và số lượng lao động không còn là những

yếu tố quyết định đến tăng trưởng kinh tế, và chúng chỉ là một thành phần trong quá trình

tăng trường.

Tiếp đến là mô hình tăng trưởng của Harrod-Domar, một mô hình dựa vào lý thuyết

trong trường phái Keynes. Vào năm 1929-1933 thế giới phải đối mặt với cuộc đại khủng

hoảng kinh tế thừa do các nước tư bản chạy theo lợi nhuận, sản xuất hàng hóa ồ ạt, trong

khi sức mua giảm sút vì người dân đang còn nghèo. Đến đây thì mô hình tăng trưởng cổ

điển tỏ ra bất lực khi giải thích hiện tượng kinh tế này. Bên cạnh đó, một sự xuất hiện của

các thành tựu về khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, kỹ

thuật thâm canh, và đặc biệt là máy kéo đã giúp cho sản lượng trong ngành nông nghiệp

tăng lên nhanh chóng và tuy bị giới hạn bởi nguồn đất đai “hữu hạn” nhưng sản lượng

thực phẩm cung cấp cho mọi người vẫn đầy đủ. Và điều này đã khiến các nhà nghiên cứu

có một cái nhìn rộng hơn trong tăng trưởng kinh tế. Phương trình của mô hình này có thể

được mô tả như sau:

Y = K/v hay Y = 1/v x K (2-2)

Trong đó, v là một hằng số. Nguồn vốn (K) trong phương trình được nhân cho 1 số cố

định (1/v) để tính tổng sản lượng. Vậy v có ý nghĩa gì? Các nhà kinh tế thường gọi v là tỷ

số vốn tăng thêm trên sản lượng, hay v chính là tỷ số ICOR, cho biết cần bỏ thêm bao

nhiêu đơn vị trong nguồn vốn để tạo ra thêm một đơn vị sản lượng. Và tỷ số này giúp

chúng ta đo lường năng suất của mỗi lượng vốn được đưa vào sản xuất.

Mô hình Harrod Domar đã mở rộng hơn mô hình cổ điển nhưng vẫn mang một sự đơn

giản, phương trình dễ dàng sử dụng và ước lượng. Mô hình còn nhận xét rằng, các quyết

10

định cá nhân về việc tiết kiệm bao nhiêu và tiêu dùng bao nhiêu từ thu nhập là trọng tâm

của quá trình tăng trưởng. Người ta thích tiêu dùng ngay bây giờ hơn là mai sau, nhưng

càng tiêu dùng nhiều, thì càng có ít tiết kiệm để tài trợ đầu tư, vì thế mô hình đã tập trung

vào vai trò cốt lõi của tiết kiệm trong tăng trưởng kinh tế theo thời gian. Nhưng phải

chăng mô hình Harrod Domar quá chú trọng vào tiết kiệm? Nếu xét đến các điều kiện của

tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm được xem là một điều kiện cần, nhưng trong mô hình của

Harrod Domar thì ngụ ý rằng tiết kiệm là điều kiện cần và đủ trong tăng trưởng kinh tế,

nhưng thực tế thì điều này còn nhiều vấn đề cần làm rõ.

Tiếp đến là mô hình tăng trưởng tân cổ điển - mô hình tăng trưởng Solow. Năm 1956,

nhà kinh tế học MIT Robert Solow giới thiệu một mô hình tăng trưởng kinh tế mới, đó là một sự phát triển từ mô hình Harrod Domar. Solow thừa nhận là có nhiều vấn đề

phát sinh từ hàm sản xuất khá cứng nhắc trong mô hình Harrod Domar. Vì vậy Solow

đã đưa ra giải pháp là bỏ hàm sản xuất có hệ số cố định và thay thế nó bằng hàm sản

xuất tân cổ điển, điều này cho phép mô hình có tính linh hoạt hơn và có sự thay thế

giữa các yếu tố sản xuất. Trong mô hình Solow, yếu tố thay đổi công nghệ được đưa vào

phương trình như sau:

Y = F(K, TxL) (2-3)

Trong đó, nguồn vốn (K) và nguồn lao động (L) được kết hợp với sự thay đổi công nghệ

(T). Theo các mô tả này, phát triển công nghệ được đưa vào mô hình và làm thay đổi hiệu

quả của yếu tố lao động (LxT). Khi công nghệ được cải tiến (T tăng), hiệu quả và năng

suất của lao động tăng, vì cùng một giá trị lao động bây giờ có thể sản xuất được nhiều

sản lượng hơn. T có thể tăng lên nhờ những cải tiến trong công nghệ theo ý nghĩa khoa

học (các phát minh và các quy trình mới) hay theo nguồn vốn nhân lực, như sự cải thiện

về y tế, giáo dục, hay kỹ năng của lực lượng lao động.

Trong mô hình Solow, công nghệ là một biến ngoại sinh, vì thế mà nó được xác định độc

lập với tất cả các biến và các thông số trong mô hình. Tuy Solow không mô tả chính xác

sự thay đổi công nghệ diễn ra như thế nào nhưng rõ ràng sự đổi mới công nghệ đã bổ

sung cho khả năng tăng sản lượng của các yếu tố sản xuất.

Solow thừa nhận rằng tỷ lệ lợi nhuận trong đầu tư là một hàm giảm dần theo vốn bình

quân đầu người, và thu nhập bình quân đầu người ở các nước khác nhau sẽ hội tụ vào

11

một trạng thái dừng ổn định trong trường hợp không có thay đổi công nghệ ngoại sinh.

Quả thật, tiến bộ công nghệ đã trở thành một nhân tố chính đằng sau sự tăng trưởng kinh

tế, mô hình cho thấy việc tiếp thu công nghệ mới thông qua phát minh trong nước hay

nhập khẩu công nghệ mới từ nước ngoài, có thể kích thích tăng trưởng kinh tế vô

cùng mạnh mẽ. Tuy nhiên, những dự đoán của mô hình có phần không phù hợp với các

quan sát trong thực tế, đặc biệt khi cho rằng tất cả các phần không giải thích được của

tăng trưởng kinh tế là do các cú sốc công nghệ ngoại sinh.

Mô hình tân cổ điển Solow chúng ta vừa đề cập ở phía trên đã mô tả được những đặc

điểm chủ yếu của một mô hình kinh tế mang tính thực tế ở các nước phát triển. Mô hình

Solow có thể được gọi là cơ sở trong hầu hết các nghiên cứu thuộc kinh tế vĩ mô ở các

nước phát triển. Tuy nhiên, mô hình Solow chưa giải thích đầy đủ những thực tế trong

tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển. Ở môi hình Solow, ngoài

nguồn vốn (K) ra thì yếu tố quyết định sản lượng là hiệu suất của nguồn lao động (TxL)

nhưng nguồn lao động có ý nghĩa như thế nào thì mô hình chưa làm rõ.

Vậy làm sao để thấy được sự khác biệt giữa hai quan điểm về tăng trưởng của Smith và

Ricardo? Trong bối cảnh của kinh tế học đương đại, một phương pháp có thể áp dụng để

trả lời câu hỏi này đó chính là mô hình tăng trưởng Solow (1956). Theo mô hình này, Y

là sản lượng, K và L lần lượt là nguồn vốn và lao động, t là thời gian và hàm sản lượng là

một hàm gồm sự kết hợp của các yếu tố trên.

Y = f(K, L, t)

Giải thích cho sự có mặt của thời gian trong hàm sản lượng này, Solow cho rằng: Theo

thời gian, đổi mới công nghệ sẽ xảy ra tạo ra một hiệu suất sử dụng nguồn vốn và lao

động cao hơn. Ta thấy rằng, để xây dựng mối quan hệ giữa các yếu tố sản lượng, nguồn

vốn và nguồn lao động trong mô hình thì không khó nhưng để đưa vào mô hình sự ảnh

hưởng của thời gian thì không phải việc đơn giản, chính vì thế người ta thường xem thời

gian là một biến ngoại sinh. Bên cạnh đó, lao động (L) cũng thường được xem là một

biến ngoại sinh và nếu ta phân tích về thu nhập đầu người thì ta sẽ chia hàm số cho lao

động (L) để chỉ còn lại nguồn vốn (K) và biến ngoại sinh thời gian (t) lúc này sẽ giúp ta

giải thích được sự tăng trưởng. Ở dạng hàm tổng quát trên, khi chia hàm số cho lao động

(L), có khả năng ta vẫn chưa loại trừ được hết biến số đó bên vế phải của phương trình

12

nhưng phép chia này giúp ta loại bỏ một cách cơ bản yếu tố tăng trưởng dân số trong khi

xem xét quá trình tăng trưởng kinh tế. Từ đây ta thấy, nguồn vốn tăng lên (K tăng) do đầu

tư tăng lên dẫn đến sản lượng tăng (Y). Đây là quan điểm của Ricardo về tăng trưởng

kinh tế. Các nhà hoạch định ngân sách cũng đã cân nhắc kỹ lưỡng mô hình tăng trưởng

Ricardo khi tiến hành thiết lập các chính sách kinh tế quốc gia. Có một vấn đề xảy ra như

thế này: Nếu nguồn vốn (hay việc đầu tư) là yếu tố quyết định của tăng trưởng kinh tế thì

tại sao những nỗ lực đầu tư rất đáng kể ở các nước kinh tế chưa phát triển không đem lại

sự tăng trưởng rõ rệt nào cho họ? một vài bằng chứng đã khẳng định rằng: Việc tăng đầu

tư chỉ góp phần rất nhỏ vào trong sự tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, mô hình này cần phải

được xem xét lại.

Quay lại mô hình, như cách tiếp cận ở trên thì nguồn gốc của tăng trưởng phụ thuộc chủ

yếu vào nguồn vốn (K) và thời gian (t), vì nguồn gốc dễ phân tích hơn nên ta dường như

đã nâng tầm quan trọng của nó lên trong mô hình tăng trưởng, trong khi đó yếu tố thời

gian (t) lại rất khó phân tích và có gì đó còn mơ hồ. Thực tế cho thấy, không thể hiểu

rằng tự bản thân thời gian sẽ sinh ra sự tăng trưởng, mà phải xem xét rằng phải có điều gì

đó trong nền kinh tế đã thay đổi và tạo ra sự tăng trưởng theo thời gian? Và đáp án cho

câu hỏi này chính là: “Sự đổi mới sáng tạo hay sự tiến bộ khoa học công nghệ”. Đây là

một yếu tố có thể được đưa vào mô hình Solow để làm rõ vấn đề trên. Ví dụ dễ thấy

trong thực tế là nguồn chi tiêu R&D của các doanh nghiệp có thể làm tăng năng suất lao

động theo thời gian. Lucas (1988) lại cho rằng yếu tố quan trọng trong tăng trưởng kinh

tế có thể là lao động (L), chứ không phải nguồn vốn (K). Và ông cho rằng nguồn nhân

lực mới là chìa khóa cho quá trình phát triển. Trong nghiên cứu của mình, ông đưa ra ý

tưởng rằng: Khi dân số cao hơn có thể dẫn đến việc phân chia lao động xã hội thích hợp

hơn và nguồn lao động có thể ảnh hưởng tích cực đến các yếu tố khác khiến chúng hoạt

động hiệu quả hơn. Có thể nói rằng, cách suy luận của Lucas đã làm cho tư tưởng của

Smith và Ricardo bắt đầu có nét tương đồng. Young (1928) coi tăng trưởng kinh tế như

một kết quả của việc gia tăng lợi nhuận, ông cũng bước theo nền tảng của Smith trong

nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, việc tập trung vào lợi nhuận lại không

được quan tâm nhiều trong các mô hình kinh tế tân cổ điển (neo-classical). Paul Romer là

một trong những nhà kinh tế vạch ra hướng đi cho hệ thống lý thuyết tân cổ điển. Trong

bài nghiên cứu của ông, Romer (1986), yếu tố gia tăng lợi nhuận có thể được xem xét

13

trong mô hình và điều này gần gũi với thực tế hơn mô hình đơn giản của Solow. Tiếp sau

đó, công trình của ông năm 1990 (Romer (1990)) đã đề cập đến yếu tố nguồn nhân lực và

đưa ra nhận xét rằng mức chi tiêu trong R&D có thể là động lực làm tăng trưởng kinh tế.

Theo những phương pháp trong lý thuyết tân cổ điển, cách tạo ra tiến bộ khoa học công

nghệ chính là sự đổi mới. Sự đổi mới đem đến những phát minh, những công nghệ mới.

Và chi tiêu cho R&D cùng với sự kết hợp các nguồn lực khác như nguồn vốn và lao động

sẽ tạo nên sự tiến bộ khoa học công nghệ. Chính vì thế, ta có thể thấy được những thành

công từ việc đầu từ vào R&D, nhưng việc chi tiêu vào R&D chưa phải là điểm kết thúc

của câu chuyện tăng trưởng. Vì khi các kết quả từ hoạt động R&D (nghiên cứu và phát

triển) hoàn tất, những phát minh đó phải được thiết lập chiến lược để đưa vào thực tế, tạo

ra một sự đổi mới, giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành,… hay nói cách khác, các phát

minh khi ứng dụng vào thực tế phải sản xuất được các sản phẩm chưa từng được tung ra

thị trường, đó là một sự đổi mới thật sự.

Trong bài nghiên cứu năm 1973 của Kirzer, Kirzer (1973), ông đã đưa ra khái niệm thế

nào là nhà khởi nghiệp: “Nhà khởi nghiệp là những người có đủ khả năng nhạy bén để

phát hiện được các cơ hội sinh lời mà trước đó chưa có ai phát hiện ra, sau đó họ tận

dụng cơ hội này để tạo ra sự đổi mới”. Qua đó ta thấy, việc khởi nghiệp phụ thuộc vào

khả năng phát hiện và chú ý đến những cơ hội khó nhận ra, thứ mà ít người có thể nhận

ra. Sự nhạy bén trong khởi nghiệp không hẳn là có liên quan đến tri thức, tất cả mọi

người đều có tiềm năng và những kiến thức cụ thể của mình để nhận ra và nắm bắt một

cơ hội khởi nghiệp nào đó. Nhưng tùy vào kiến thức chuyên môn của mỗi người mà cơ

hội của mỗi người đều rất khác nhau. Ví dụ: Thật không có gì ngạc nhiên khi những phát

minh về hệ thống tưới tiêu trong nông nghiệp được sáng tạo từ những người nông dân,

chứ không phải từ một nhà kinh tế. Nhưng nhà kinh tế là người đưa phát minh này đến

thị trường với mục tiêu thu được một khoản sinh lời đáng kể. Sau đây là một số ví dụ

thực tế về các cơ hội có thể sinh lời mà các nhà khởi nghiệp vĩ đại trong lịch sử đã nhận

ra được: Sự phát triển của khoa học máy tính đã giúp Bill Gates trở thành người giàu nhất

thế giới; John D. Rockefeller, nhà sáng lập công ty dầu lửa Standard Oil có thể kiểm soát

được hệ thống phân phối của công ty mình vì thời kỳ đó hoàn toàn phụ thuộc vào các

công trình đường sắt mới được xây dựng; Ông vua thép Andrew Carnegie (1835 – 1913)

14

nhờ dựa vào quy trình sản xuất Bessemer vừa mới ra đời, ông đã tạo dựng được một đế

chế US Steel hùng mạnh ở Mỹ.

Những nhà khởi nghiệp trên đây không tự mình tạo ra các công nghệ, mà họ nắm bắt

được những cơ hội khởi nghiệp từ những công nghệ đó. Trong hầu hết các trường hợp,

các cơ hội tồn tại dưới trạng thái ít ai nhận ra, chúng xuất hiện bất ngờ và ai là người

nhanh chân, người đó là người nắm ưu thế.

Romer (1986, 1990) nói đến một hiệu ứng lan tỏa tri thức. Tri thức là thứ chứa đựng

trong nguồn vốn con người, nó là một yếu tố làm cho lợi nhuận gia tăng, qua đó cho thấy

việc đầu tư vào nguồn nhân lực khiến cho các khoản đầu tư trong tương lai vào mảng này

càng có hiệu quả. Sở dĩ nói vậy vì nguồn nhân lực sẽ được kết hợp với các yếu tố sản

xuất khác để tạo ra một hiệu suất cao hơn trong quá trình sản xuất. Qua đó có thể thấy vai

trò quan trọng của nguồn vốn con người đối với khởi nghiệp và tăng trưởng kinh tế.

2.1.2 Lý thuyết về vốn con người và tinh thần khởi nghiệp

2.1.2.1 Tổng quan các nghiên cứu lý thuyết về vốn con người

Sự quan tâm đến vốn con người trong các tài liệu khởi nghiệp đã có từ lâu và tăng lên

mạnh mẽ trong hai thập kỷ qua. Lý thuyết vốn con người ban đầu được phát triển để

nghiên cứu giá trị của giáo dục (Becker, 1964; Schultz, 1961) và cho thấy mọi người có

kiến thức và kỹ năng khác nhau và đều có giá trị kinh tế. Mincer (1958) lần đầu tiên thảo

luận về khái niệm vốn con người như một lời giải thích cho bất bình đẳng thu nhập.

Schultz quan sát thấy rằng sự gia tăng sản lượng quốc gia là không tương xứng so với đất

đai, giờ lao động, hoặc vốn vật chất, và lập luận đầu tư vào vốn con người có lẽ là lời giải

thích chính. Becker xây dựng trên những quan điểm này và đưa ra lý thuyết đầu tư vào

vốn con người dựa trên số lượng bằng chứng khổng lồ cho thấy những người có trình độ

học vấn và kỹ năng cao hơn hầu như luôn có xu hướng kiếm được nhiều tiền hơn những

người khác.

Lý thuyết này ngày càng được áp dụng trong lĩnh vực khởi nghiệp, liên tục liên kết các

thuộc tính vốn con người với thành công của doanh nhân (Unger, Rauch, Frese, &

Rosenbusch, 2011). Một số lập luận khác mô tả lý do tại sao vốn con người, hoặc kiến

thức có tầm quan trọng đặc biệt đối với lĩnh vực kinh doanh (Ardichvili, Cardozo, & Ray,

15

2003; Shane, 2000). Đầu tiên, vốn con người rất quan trọng để khám phá và tạo ra cơ hội

kinh doanh (Alvarez & Barney, 2007; Marvel, 2013). Vốn con người cũng hỗ trợ khai

thác các cơ hội bằng cách tìm được các nguồn tài chính tung ra các dự án (Bruns,

Holland, Shepherd & Wiklund, 2008; Dimov, 2010). Thứ ba, vốn con người hỗ trợ tích

lũy kiến thức mới và tạo ra lợi thế cho các công ty mới (Bradley, McMullen, Artz, &

Simiyu, 2012; Corbett, Neck & DeTienne, 2007). Trong nghiên cứu thực tế, vốn con

người là tiêu chí lựa chọn được sử dụng thường xuyên nhất trong các dự án đầu tư mạo

hiểm khi đánh giá hiệu quả tiềm năng của dự án (Zacharakis & Meyer, 2000). Ngoài ra,

nghiên cứu về vốn con người và lợi nhuận công ty có thể được tìm thấy trong công trình

của Unger et al. (2011) và nghiên cứu về giáo dục khởi nghiệp; tài sản, hành vi và hiệu

quả vốn con người được tìm thấy trong một bài viết của Martin, McNally và Kay (2013).

Mỗi nghiên cứu đều cung cấp bằng chứng thuyết phục rằng vốn con người là rất quan

trọng để thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp.

Thêm vào đó, để tiến hành đánh giá toàn diện, bài nghiên cứu: “Vốn con người và khởi

nghiệp” của Matthew R. Marvel, Justin L. Davis, Curtis R. Sproul (2014) đã thống kê lại

các nền tảng lý thuyết về vốn con người trong các bài nghiên cứu trước. Ngoài việc lấy lý

thuyết vốn con người làm trọng tâm thì các nghiên cứu khởi nghiệp còn tích hợp nhiều lý

thuyết để giải thích các hiện tượng. Cụ thể, 109 bài viết nghiên cứu về chủ đề này đã sử

dụng chung 142 phương pháp lý thuyết khác nhau, trung bình hơn hai lý thuyết cho mỗi

nghiên cứu. Trong tổng số các nghiên cứu, 18 nghiên cứu (16%) chỉ sử dụng lý thuyết

vốn con người và 52 nghiên cứu (48%) sử dụng phương pháp lý thuyết kép. Ba mươi

chín nghiên cứu (36%) tận dụng ba hoặc nhiều lý thuyết trong cùng một nghiên cứu

chứng minh sự phổ biến của các phương pháp đa lý thuyết.

Để hệ thống lại 142 lý thuyết được sử dụng, tác giả đã sắp xếp từng lý thuyết vào nguồn

gốc xuất xứ của chúng. Các lý thuyết đã được phân loại và tần số được mô tả trong Bảng

2.1.

16

Loại hình lý thuyết Số nghiên cứu sử dụng Tỷ lệ phần trăm

Chiến lược 43 30.7%

Nhận thức, học tập và tâm lý học 33 23.6%

Khởi nghiệp 31 22.1%

Vốn xã hội hoặc mạng lưới kết nối 25 17.9%

Kinh tế và tài chính 8 5.7%

Tổng cộng 140 100%

Theo Human Capital and Entrepreneurship Research, 2014

Bảng 2.1. Các lý thuyết được áp dụng trong nghiên cứu khởi nghiệp của con người tính

đến tháng 9/2014

Các lý thuyết từ chiến lược đã được áp dụng phổ biến nhất kết hợp với vốn con người

(30,3%), và các lý thuyết về nhận thức, học tập và tâm lý học cũng đã phổ biến (23,2%).

Các lý thuyết phổ biến thứ ba được kết hợp là từ khởi nghiệp (21,8%). Chúng bao gồm

các lý thuyết về khám phá cơ hội, sáng tạo, khai thác, ý định khởi nghiệp, khởi nghiệp

nhập cư và giới tính. Các lý thuyết về mạng lưới kết nối và vốn xã hội đã được áp dụng

với vốn con người trong 17,6% các nghiên cứu. Đặc biệt lưu ý, mặc dù lý thuyết vốn con

người có nguồn gốc từ các tài liệu kinh tế, chỉ có 5,6% bài viết trong dòng này áp dụng lý

thuyết kinh tế hoặc tài chính kết hợp với vốn con người. Tác giả đã cho rằng phát hiện

này cần đặc biệt quan tâm và có thể là hướng nghiên cứu tiềm năng mà tác giả xem xét

lại trong các phần sắp tới. Kết hợp lại với nhau, những phát hiện cho thấy nghiên cứu

khởi nghiệp vốn con người rất đa ngành và khá đa dạng về mặt lý thuyết vi mô và vĩ mô.

Tuy nhiên, chiến lược, nhận thức và khởi nghiệp là các lý thuyết phổ biến nhất khi

nghiên cứu về vấn đề này.

2.1.2.2 Cấu trúc vốn con người

Nghiên cứu vốn con người ban đầu nhấn mạnh các yếu tố cốt lõi của lý thuyết bao gồm

kiến thức và kỹ năng (Schultz, 1961) cũng như các yếu tố bậc cao hơn bao gồm vốn con

người nói chung và cụ thể (Becker, 1964). Theo nghiên cứu Matthew R. Marvel, Justin

L. Davis, Curtis R. Sproul (2014) có tổng cộng 344 yếu tố vốn con người được đưa vào

17

trong các nghiên cứu được phân tích, mặc dù nhiều yếu tố giống hệt nhau. Số lượng yếu

tố vốn con người trung bình được sử dụng trong các nghiên cứu thực nghiệm là 3,3

nhưng dao động từ 1 đến 10. Tác giả đã thống kê và hệ thống lại để xác định những yếu

tố phổ biến nhất được sử dụng. Số lượng và tần số của các yếu tố phổ biến nhất được mô

tả trong Bảng 2.2.

Tần số Các yếu tố Tỷ lệ (%)

105 Kinh nghiệm làm việc 39.9%

70 Giáo dục 26.6%

52 Kinh nghiệm khởi nghiệp 19.8%

23 Nhân khẩu học 8.7%

13 Nhận thức / Tâm lý 4.9%

263 Tổng cộng 100%

Theo Human Capital and Entrepreneurship Research, 2014

Bảng 2.2. Cấu trúc vốn nhân lực chung

Việc xây dựng vốn con người phổ biến nhất được điều tra là kinh nghiệm làm việc,

chiếm 39,9% các công trình. Tiếp theo là giáo dục, chiếm 26,6% cơ cấu vốn con người.

Phù hợp với những phát hiện trong quá khứ, đầu tư vào giáo dục và kinh nghiệm rõ ràng

là những loại công trình phổ biến nhất được sử dụng (Reuber & Fischer, 1994). Ví dụ về

các biện pháp giáo dục điển hình bao gồm nhiều năm giáo dục hoặc hoàn thành bằng đại

học hoặc bằng kỹ thuật. Ví dụ về các biện pháp dựa trên kinh nghiệm bao gồm công việc

trong quá khứ trong một ngành hoặc số lượng vị trí quản lý trước đây được giữ. Biện

pháp phổ biến thứ ba là kinh nghiệm khởi nghiệp (19,8%), chẳng hạn như kinh nghiệm

khởi nghiệp trước đây hoặc quyền sở hữu doanh nghiệp trước đây, phản ánh một loại vốn

con người cụ thể từ bối cảnh doanh nhân. Các biện pháp ít được đánh giá bao gồm nhân

khẩu học như tuổi tác, cho dù các thành viên trong gia đình là doanh nhân hay giới tính.

Một số ít các nghiên cứu bao gồm các biện pháp nhận thức và / hoặc tâm lý là các khía

cạnh chính của vốn con người. Ví dụ, cả địa điểm kiểm soát và định hướng thành tích đều

được đưa vào như các cấu trúc vốn con người, điều này cho thấy sự mờ nhạt của ranh

giới giữa vốn con người và các yếu tố tâm lý.

18

Tiếp theo tác giả điều tra các cấp độ của vốn con người theo cả khía cạnh cá nhân và

doanh nghiệp. Đánh giá về cấu trúc vốn con người đã được thực hiện ở cấp độ cá nhân

trong 86% các nghiên cứu, so với 14% đánh giá nó ở cấp độ doanh nghiệp. Phát hiện

không cân xứng này một phần có thể là do sự dễ dàng truy cập vào dữ liệu cá nhân về số

năm kinh nghiệm hoặc trình độ giáo dục. Tuy nhiên, việc nghiên cứu ngắn gọn ở cấp độ

cá nhân làm thiếu đi dữ liệu của nguồn nhân lực cấp công ty trong một môi trường khởi

nghiệp. Xem xét sự cần thiết và nhấn mạnh vào định hướng khởi nghiệp của công ty

(Lumpkin & Dess, 1996), nghiên cứu trong tương lai có thể được hưởng lợi từ việc khám

phá vốn con người ở cấp độ doanh nghiệp tác động đến doanh nghiệp.

Một đặc điểm khác biệt của vốn con người là lợi ích thiết thực liên quan đến công việc

trực tiếp. Ví dụ, tính hữu dụng của vốn con người có thể phụ thuộc hoàn toàn vào chất

lượng hoặc loại vốn con người hơn là sự hiện diện đơn thuần của nó. Unger et al. (2011)

nhấn mạnh tầm quan trọng của hai khía cạnh vốn con người khác nhau bao gồm (1) liên

quan đến công việc và không liên quan đến công việc; (2) đầu vào và đầu ra của vốn con

người.

Trước tiên, tác giả thảo luận về vốn con người liên quan đến công việc. Vốn con người đã

được tranh luận là lợi ích cao hơn khi áp dụng cho các công việc cụ thể cần phải được

thực hiện. Ví dụ, việc chuyển giao giáo dục và kinh nghiệm hoạt động tốt nhất nếu các

hoạt động cũ và mới chia sẻ các yếu tố phản ứng tình huống chung. Vì vậy, có thể hữu

ích để phân biệt giữa các yếu tố có liên quan đến công việc và không liên quan đến công

việc (Cooper et al., 1994). Vốn con người liên quan đến công việc bao gồm các loại vốn

con người liên quan đến công việc hiện tại của công việc mạo hiểm (ví dụ: kinh nghiệm

khởi nghiệp, kinh nghiệm trong ngành, kỹ năng khởi nghiệp). Ngược lại, vốn con người

không liên quan đến công việc bao gồm các loại vốn con người không liên quan trực tiếp

đến các công việc mạo hiểm (ví dụ: giáo dục chính thức, kinh nghiệm làm việc). Do tầm

quan trọng của sự liên quan đến công việc, các yếu tố vốn con người từ mẫu của tác giả

được phân loại là liên quan đến công việc hoặc không liên quan đến công việc. Phân tích

của tác giả cho thấy 49% các cấu trúc vốn con người có liên quan đến công việc so với

51% không liên quan đến công việc. Trong khi cuộc điều tra về công việc và vốn con

người phi công việc này, việc sử dụng chúng tương đối cân xứng, bằng chứng khác cho

19

thấy vốn con người đặc thù công việc có thể mang lại lợi ích lớn hơn cho việc hiểu về

khởi nghiệp (Unger et al., 2011).

Theo hướng này, một đặc điểm khác biệt của vốn con người là sự phân chia giữa đầu vào

vốn con người (đầu tư) so với đầu ra vốn con người (kết quả). Becker (1964) đưa ra giả

thuyết rằng kiến thức và kỹ năng là kết quả của sự đầu tư vào giáo dục và kinh nghiệm

làm việc. Vì vậy, hầu hết các nghiên cứu đã sử dụng giáo dục hoặc kinh nghiệm để đánh

giá vốn con người. Tuy nhiên, những khoản này đại diện cho các khoản đầu tư vào vốn

con người thay vì nhận thức đầy đủ kiến thức và / hoặc kỹ năng (tức là kết quả). Nghiên

cứu trong quá khứ đã cung cấp bằng chứng cho thấy các thành phần vốn con người dựa

trên kết quả là các chỉ số trực tiếp tốt hơn về vốn con người, trong khi các chỉ số dựa trên

đầu tư được xem là yếu tố dự báo gián tiếp về vốn con người (Davidsson, 2004). Ví dụ,

Unger et al. (2011) cho thấy mối quan hệ giữa tinh thần khởi nghiệp với kết quả của vốn

con người là cùng chiều và mạnh mẽ hơn so với chỉ đầu tư vì đầu tư là chỉ số gián tiếp và

do đó một bước được loại bỏ. Mặc dù một số doanh nhân có thể có cùng trình độ học vấn

hoặc kinh nghiệm làm việc (đầu tư) rất giống nhau, nhưng kiến thức hoặc kỹ năng sẵn có

có thể khác biệt đáng kể (kết quả) (Keith & Frese, 2005).

Xem xét sự khác biệt và giá trị tiềm năng của kết quả vốn con người so với đầu tư vốn

con người, tác giả đã phân loại các cấu trúc vốn con người tương ứng. Đánh giá của tác

giả chỉ ra rằng 80% các công trình được phân tích là các khoản đầu tư vốn con người so

với 20% là kết quả vốn con người. Một nguyên nhân cho sự chênh lệch và thiên vị này

đối với các yếu tố đầu tư là sự dễ dàng truy cập vào dữ liệu này, trong khi dữ liệu về về

kết quả thì khó thu thập hơn.

c ệ i v g n ô C

n ê i l ộ đ

c ứ M

c ệ i v g n ô c n a u q

c ệ i v g n ô c i h P

Kết quả

Đầu tư

Đánh giá vốn con người

20

Theo Human Capital and Entrepreneurship Research, 2014

Hình 2.1. Trọng tâm của nghiên cứu trong quá khứ

Để phân tích sâu hơn các xu hướng và lỗ hổng trong cấu trúc vốn con người được sử

dụng, tác giả phát triển khái niệm ba chiều bằng cách tích hợp các cấp độ phân tích, liên

quan đến công việc và đầu tư so với đánh giá kết quả. Hình 2.1 minh họa số lượng cấu

trúc vốn con người được kiểm tra tương ứng với từng chiều. Sự phân loại này dẫn đến

tám kết hợp và cung cấp một số hiểu biết về các thành kiến đối với các kích thước xây

dựng cụ thể cũng như các kích thước ít được chú ý. Cho đến nay, nghiên cứu khởi nghiệp

đã rất ủng hộ sự kết hợp các khía cạnh của các khoản đầu tư ở cấp độ cá nhân. Các nhóm

xây dựng vốn con người này đã được phân chia tương đối trong mối quan hệ công việc

của họ (115) so với không liên quan đến công việc (123). Trong số tám kết hợp có thể,

hai phân loại này chiếm 72% trong số các khái niệm hóa và có thể phản ánh xu hướng sử

dụng các cấu trúc cấp cá nhân truyền thống như giáo dục và kinh nghiệm trong ngành. Có

một sự sụt giảm rõ ràng và đáng chú ý trong phạm vi xây dựng các kỳ thi sau hai loại

này.

Một nhóm thứ hai của các phân loại, đã nhận được sự chú ý vừa phải, tập trung vào kết

quả vốn con người ở cấp độ cá nhân, cả hai đều liên quan đến công việc (25) và không

liên quan đến công việc (24). Ví dụ: kỹ năng khởi nghiệp cá nhân là cấu trúc kết quả liên

quan đến công việc so với thu nhập trước đó, phù hợp với cấu trúc kết quả không liên

quan đến công việc cá nhân. Cùng với nhau, hai loại này chiếm 15% trong số các khái

21

niệm được phân tích. Như thể hiện trong hình, có một sự thiên vị rõ ràng trong lý thuyết

đối với việc khái niệm hóa vốn con người ở cấp độ cá nhân.

2.1.2.3 Đầu tư và kết quả vốn con người

Phần lớn các nghiên cứu về khởi nghiệp - vốn con người nhấn mạnh các khoản đầu tư

giáo dục và giả định các khoản đầu tư này chuyển thành kết quả hữu ích (nghĩa là, các kỹ

năng có giá trị kinh tế). Tuy nhiên kết quả vốn con người được cho là yếu tố có giá trị lớn

hơn đối với tinh thần khởi nghiệp hơn sự đầu tư vào vốn con người. Để hỗ trợ cho các

nghiên cứu về sau và giải mã sự phức tạp của vốn con người, Matthew R. Marvel, Justin

L. Davis, Curtis R. Sproul (2014) đưa ra một bảng phân loại (bảng 2.3). Kết quả vốn con

người ở đây cụ thể là kỹ năng, kiến thức, khả năng (KSAs).

Đầu tư Kết quả

Tác động Giáo dục - Đầu tư vào hoạt động Kiến thức – Hiểu về bản chất,

học những kiến thức rõ ràng ý nghĩa, quy trình

Thay đổi từ chung đến các loại Được nhóm lại trong các lĩnh

hình giáo dục cụ thể vực như những người được học

thông qua giáo dục chính quy Khác nhau về chi phí, sự đa dạng

và thời gian đầu tư Thay đổi từ chung đến cụ thể

Phát triển Huấn luyện/ Kinh nghiệm – Đầu Kỹ năng – Ứng dụng kiến

tư vào việc học từ những hoạt thức có thể quan sát để tạo ra

động các giải pháp cho các vấn đề để

hoàn thành những nhiệm vụ cụ Chung hoặc cụ thể cho từng ngành

thể Khác nhau về chi phí, số lượng,

Kỹ năng chuyên ngành hoặc thời gian và loại hoạt động

lĩnh vực cụ thể

Thay đổi từ người mới đến

chuyên gia

22

Kết quả Tuyển dụng – Đầu tư vào hoạt Khả năng – Bền bỉ, là đặc điểm

động tuyển dụng để có được khả hữu ích cho phạm vi công việc

năng Tổng quát hơn với ý nghĩa đối

Gồm các nhóm công việc mạo với nhiều bối cảnh và nhiệm vụ

hiểm, liên minh vững chắc, mạng Khó để phát triển nội bộ so với

lưới chặt chẽ, R & D bên ngoài kiến thức hoặc kỹ năng

Khác nhau về chi phí, chất lượng

Bảng 2.3. Các loại hình vốn nhân lực

Kiến thức là sự sở hữu và hiểu biết về các nguyên tắc, sự kiện, quy trình và sự tương tác

giữa chúng. Kiến thức có xu hướng có giá trị lớn hơn khi nó đặc trưng cho một lĩnh vực

cụ thể và khi liên quan đến các hoạt động khởi nghiệp cụ thể (Markman & Baron, 2003).

Các cá nhân hoặc công ty táo bạo phải có kiến thức, đặc biệt là về thị trường và bất kỳ

công nghệ có liên quan nào quan trọng để thành công. Kiến thức có thể bao gồm từ

chung chung đến các lĩnh vực cụ thể về công việc, tổ chức hoặc ngành công nghiệp. Nó

thường được nhóm trong các lĩnh vực như những người được học thông qua giáo dục

chính quy (ví dụ: kế toán, tiếp thị, hệ thống thông tin, kỹ thuật điện). Một vài nghiên cứu

đã kêu gọi sự chú ý đến các lĩnh vực kiến thức trong tinh thần khởi nghiệp. Ví dụ, Shane

(2000) đã chứng minh kiến thức về các vấn đề của khách hàng, thị trường và cách phục

vụ thị trường tác động đến việc phát hiện ra các cơ hội. Trong một nghiên cứu liên quan,

Dimov (2007) đã minh họa cách các lĩnh vực của kiến thức thị trường và công nghệ tác

động đến sự phát triển của các cơ hội. Kết quả kiến thức như vậy có thể đạt được thông

qua các khoản đầu tư vào giáo dục, đào tạo, kinh nghiệm hoặc tuyển dụng các cá nhân

quan trọng.

Kỹ năng cũng là kết quả vốn con người nhưng tham khảo các ứng dụng hoặc bí quyết

quan sát được. Kỹ năng không nhất thiết phải là đặc điểm lâu dài và phụ thuộc vào kinh

nghiệm hoặc thực hành. Đây thường là các công việc cụ thể hoặc liên quan chặt chẽ đến

một tập hợp các công việc. Ví dụ, Heneman, Thẩm phán và Kammeyer-Mueller (2009)

đã xác định các kỹ năng khác nhau liên quan đến công việc, từ cơ bản (ví dụ: nói trước

công chúng, toán học, học tập tích cực) đến chức năng chéo (ví dụ: kỹ năng xã hội, kỹ

23

năng giải quyết vấn đề, kĩ năng công nghệ). Các kỹ năng áp dụng cụ thể cho một công

việc khởi nghiệp có thể cung cấp lợi thế trong quá trình tiên phong. Một loạt các kỹ năng

có thể được phát triển thông qua đầu tư vào đào tạo hoặc kinh nghiệm và cũng có thể

được phát triển kết hợp với giáo dục và thực hành. Quan tâm đặc biệt là làm thế nào các

kỹ năng cụ thể cho quá trình khởi nghiệp có thể được phát triển.

Khả năng là kết quả vốn thứ ba của con người và là một công cụ hữu ích tiềm ẩn hoặc

bền bỉ để thực hiện một loạt các công việc. Ở cấp độ cá nhân, khả năng thường được liên

kết với các đặc điểm chung như khả năng suy luận theo quy nạp. Khả năng khác với các

kỹ năng ở chỗ chúng ít có khả năng thay đổi theo thời gian và chúng được áp dụng trên

một loạt các công việc có thể gặp phải trong nhiều bối cảnh khác nhau (Nyberg,

Moliterno, Hale, & Lepak, 2014). Mặc dù các khả năng không thể được phát triển theo

cách tương tự như kiến thức hoặc kỹ năng, các doanh nhân và công ty có thể có được khả

năng thông qua các khoản đầu tư vào các thành viên trong nhóm, liên minh và tổ chức.

Các KSA cần thiết (nghĩa là, kết quả vốn con người) sẽ phụ thuộc vào hoàn cảnh của quá

trình khởi nghiệp, nhưng có thể bao gồm các yếu tố như kiến thức ngành, bán hàng và

đàm phán, lập kế hoạch, tạo mẫu, ra quyết định, giải quyết vấn đề, làm việc nhóm và giao

tiếp. Tác giả khẳng định rằng những nỗ lực trong tương lai có thể được hưởng lợi từ việc

khám phá chất lượng kết quả vốn con người và tính cụ thể của các lĩnh vực vốn con

người cho công việc khởi nghiệp. Ví dụ, mỗi kết quả vốn con người này có thể khác nhau

về chất lượng như được thể hiện dọc theo tính liên tục. Ở cấp thấp, một cá nhân hoặc

công ty có thể không đủ năng lực về các kỹ năng tiếp thị, điều này có thể ảnh hưởng đến

công việc bán sản phẩm cho một khách hàng đủ điều kiện. Ở đầu kia của sự liên tục, sở

hữu các kỹ năng chất lượng cao trong tiếp thị có thể liên quan đến việc tạo ra doanh số

ban đầu hoặc thâm nhập thị trường. Cụ thể, nghiên cứu trong tương lai sẽ được hưởng lợi

từ sự hiểu biết ngày càng tăng về kiến thức, kỹ năng cụ thể của ngành đó và cách thức

phát triển.

Các cá nhân, công ty và quốc gia có thể đầu tư vào nguồn nhân lực, nhưng việc tạo ra các

dự án khả thi và bền vững có thể phụ thuộc vào sự cân bằng giữa các KSA thích hợp.

Một số loại đầu tư vốn con người có thể dẫn đến sự quá tập trung vào các KSA cụ thể có

thể không đảm bảo sự phát triển vững chắc của các sản phẩm hoặc doanh thu trong tương

24

lai. Ngược lại, các khía cạnh khác của đầu tư vốn con người có thể dẫn đến lợi ích của

nhiều loại KSA. Tác giả khuyến khích những nỗ lực trong tương lai để phân tích các loại

đầu tư vốn con người, kết quả và ứng dụng của chúng vào các mốc quan trọng trong quá

trình khởi nghiệp.

2.1.2.4 Vai trò của vốn con người đối với tinh thần khởi nghiệp trong các nghiên cứu

trước

Trọng tâm chính của các nghiên cứu trước là kết quả mạo hiểm trong giai đoạn sau của

quá trình khởi nghiệp, đặc biệt là hiệu suất công ty. Có tương đối ít bài nghiên cứu về

giai đoạn đầu của quá trình khởi nghiệp trong dòng nghiên cứu này. Điều này khá đáng

ngạc nhiên khi có nhiều lý thuyết nhấn mạnh vào khám phá cơ hội và sáng tạo mạo hiểm

trong lĩnh vực khởi nghiệp. Cho đến nay, các lý thuyết chính về nhận biết cơ hội cho rằng

các doanh nhân sẽ tìm kiếm và khám phá các cơ hội hoặc tạo ra các cơ hội mà không cần

tìm kiếm có chủ ý (ví dụ: Alvarez & Barney, 2007; Lumpkin et al., 2004). Cả lý thuyết

khám phá cơ hội và tạo cơ hội đều nêu bật kiến thức và kinh nghiệm quan trọng đối với

quá trình (Fiet, 1996; Sarasvathy, 2008). Các nghiên cứu trước còn khẳng định rằng vốn

con người rất quan trọng trong suốt quá trình khởi nghiệp và khuyến khích nghiên cứu

trong tương lai khám phá đầy đủ hơn các khía cạnh khác nhau của vốn con người qua các

giai đoạn cụ thể trong quy trình.

Vốn con người:

1.

Đầu tư

Giáo dục

Kinh nghiệm

Tuyển dụng

2.

Kết quả

Kiến thức

Kỹ năng

Khả năng

Cơ hội khởi nghiệp

Phát sinh mạo hiểm

Kết quả hoạt động mạo hiểm

Điều kiện bối cảnh

Yếu tố đa lý thuyết

1. Nhận thức

2. Học

3. Chiến lược

4. Liên minh

5. Mạng lưới quan hệ

6. Động lực

25

Theo Human Capital and Entrepreneurship Research, 2014

Hình 2.2. Mô hình vốn nhân lực và quá trình khởi nghiệp

Matthew R. Marvel, Justin L. Davis, Curtis R. Sproul (2014) đã đưa ra một mô hình về

khởi nghiệp – vốn con người cho thấy tác động của vốn con người đến khởi nghiệp và

được xem như một quy trình nghiên cứu cho đề tài này trong tương lai. Tác giả bắt đầu

với các yếu tố đầu tư và kết quả vốn con người. Tác giả đề xuất rằng tinh thần khởi

nghiệp là một quá trình bắt đầu bằng một cơ hội khởi nghiệp, tiếp theo là các hoạt động

phát sinh mạo hiểm và dẫn đến kết quả hoạt động mạo hiểm khác nhau. Nhận thức cơ hội

là nhận thức có ý thức rằng một ý tưởng có thể được chuyển đổi thành một khái niệm

khởi nghiệp làm tăng giá trị hoặc tạo doanh thu (Gaglio & Taub, 1992). Để các ý tưởng

tiến triển thành các cơ hội mạo hiểm, phải có các giai đoạn nhận thức quan trọng về đánh

giá và xây dựng tác động đến quá trình khởi nghiệp (Lumpkin & Lichtenstein, 2005).

Đánh giá đòi hỏi phải phân tích xem các cơ hội có đủ giá trị và đáng để theo đuổi hay

26

không, trong khi xây dựng bao gồm các công việc như giải quyết vấn đề, tổ chức tài

nguyên, phản hồi và thử nghiệm.

Một giai đoạn cơ bản khác trong quá trình khởi nghiệp là công việc mạo hiểm (Dimov,

2010), tuy nhiên trước đó vẫn chưa được quan tâm nhiều. Các nghiên cứu đã bắt đầu thực

hiện một cách tiếp cận quan trọng để đánh giá sự tích lũy của các thành tựu mạo hiểm. Ví

dụ: đánh giá lượng thời gian từ hành động khởi nghiệp đến thành lập pháp nhân, phát

triển dự án, thử nghiệm dự án với khách hàng tiềm năng hoặc đảm bảo tài chính, mỗi yếu

tố đại diện cho sự phát triển và tiến bộ đáng kể (Delmar & Shane, 2004; Morse &

Mitchell, 2005).

Những cột mốc cụ thể này đại diện cho các tiêu chí để các học giả khởi nghiệp xem xét

đầy đủ hơn về tác động của nguồn nhân lực so với sự xuất hiện của công việc mạo hiểm.

Tác giả kết thúc mô hình quy trình của tác giả về vốn con người và tinh thần khởi nghiệp

với kết quả công việc mạo hiểm truyền thống bao gồm sự tồn tại, đổi mới và tăng trưởng

về doanh số, lợi nhuận hoặc việc làm.

Các khía cạnh của vốn con người ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi từ một giai đoạn

của quá trình khởi nghiệp sang một giai đoạn khác. Tuy nhiên, một yếu tố trong vốn con

người cụ thể có thể là điều cần thiết để hoàn thành một cột mốc này nhưng nó có thể ít

quan trọng hơn, hoặc thậm chí bất lợi, đối với các cột mốc khác trong quá trình. Ví dụ,

bằng cách sử dụng các khái niệm khái quát về vốn con người nói chung và cụ thể (vốn

nhân lực cụ thể được sử dụng trong một tập hợp các ngành công nghiệp hạn chế, tức là,

phần việc làm của nó thể hiện mức độ tập trung cao trong các ngành; còn vốn nhân lực

chung được hiểu là vốn nhân lực được sử dụng trong sản xuất nhiều loại sản phẩm, tức

là, phần việc làm của nó có mức độ phân tán cao). Nghiên cứu đã chỉ ra rằng đầu tư vốn

con người cụ thể có lợi cho các doanh nhân mới thành lập và phát triển mạo hiểm trong

khi đầu tư vốn con người nói chung không có hiệu quả (Davidsson & Honig, 2003).

Ngược lại, các nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng các loại hình đầu tư vốn con người nói

chung rất hữu ích cho việc đạt được các dịch vụ công cộng ban đầu, nhưng vốn con

người cụ thể rất ít giá trị (Dimov & Shepherd, 2005). Bằng chứng này cho thấy rằng thực

sự các tác động của vốn con người có giá trị không đồng đều khi xem xét các giai đoạn

khác nhau, hoặc các mốc quan trọng, cùng với quá trình khởi nghiệp.

27

Tóm lại ta thấy, mặc dù phần lớn các nghiên cứu cho rằng vốn con người có vai trò với

khởi nghiệp trên toàn cầu, một số phát hiện cho thấy các khía cạnh của vốn con người

cũng có thể cản trở các cột mốc mạo hiểm như khám phá cơ hội và đổi mới sản phẩm

(Marvel, 2013; Marvel & Lumpkin, 2007).

Qua các lý thuyết trên, có rất nhiều biến số đại diện cho vốn con người, song có thể thấy

hai yếu tố đại diện quan trọng là kinh nghiệm làm việc và giáo dục. Tuy nhiên kinh

nghiệm làm việc rất khó đo lường, chưa phổ biến rộng rãi trong các nghiên cứu về đề tài

này và sẽ có sự không đồng nhất giữa các quốc gia, nên tôi không sử dụng trong nghiên

cứu này. Vì vậy, tôi chỉ dùng yếu tố giáo dục – cụ thể là tỷ lệ tuyển sinh đại học (dựa

theo nghiên cứu “Khởi nghiệp và nguồn nhân lực: Vai trò của phát triển tài chính” của

Nabamita Dutta và Russell S. Sobel (2017)) để đại diện cho vốn nhân lực trong bài

nghiên cứu này.

2.2 Bằng chứng thực nghiệm

Ngày nay, các nước trên thế giới dần thấy được vai trò của khởi nghiệp trong quá trình

tăng trưởng kinh tế, điều này đã tạo động lực cho nhiều nhà nghiên cứu tập trung khai

thác đề tài này. Theo đó, các công trình nghiên cứu về tinh thần khởi nghiệp tăng lên

đáng kể và chủ đề này đang trở thành một trong những vấn đề đáng được quan tâm nhất

hiện nay. Như đã đề cập ở trên, một yếu tố thường được xem xét là vốn nhân lực, tuy

nhiên các kết quả về mối quan hệ giữa vốn nhân lực và tinh thần khởi nghiệp không đồng

nhất qua các thời kỳ nghiên cứu bởi nhiều nguyên nhân khác nhau. Để có cái nhìn cụ thể

hơn, tôi sẽ tóm tắt các bài nghiên cứu tiêu biểu trong dòng nghiên cứu này.

Trước tiên, tác giả sẽ tóm tắt các bằng chứng cho rằng vốn nhân lực có tác động cùng

chiều và tích cực với tinh thần khởi nghiệp. Thứ nhất là bài nghiên cứu “The value of

human and social capital investments for the business performance of startups” (Bosma,

2004), tác giả kết luận rằng đầu tư vào vốn nhân lực chẳng hạn như tích lũy kinh nghiệm

trong một ngành cụ thể sẽ giúp nâng cao hiệu quả các dự án khởi nghiệp. Bài nghiên cứu

tìm câu trả lời cho các câu hỏi đặt ra: "Đầu tư vào vốn con người và xã hội ở mức độ nào,

bên cạnh tác động của “tài năng”, sẽ nâng cao hiệu quả khởi nghiệp?". Tác giả phân biệt

giữa ba loại hình đầu tư vào cả vốn con người và vốn xã hội: đầu tư chung, đầu tư theo

ngành và đầu tư cụ thể. Tác giả sẽ điều tra cấp độ nào các loại đầu tư ban đầu này đóng

28

góp vào hiệu quả của người sáng lập doanh nghiệp nhỏ, tương đương theo kinh nghiệm

của tác giả với doanh nhân. Phân tích này dựa trên khảo sát của hội đồng đại diện trong

số gần 1.000 nhà sáng lập doanh nghiệp mới ở Hà Lan trong những năm 1994-1997. Tác

giả sử dụng ba thước đo hiệu quả: tỷ lệ sống, lợi nhuận và tạo ra việc làm. Phát hiện

chính của tác giả là mức độ tài năng của một nhà sáng lập doanh nghiệp nhỏ không phải

là yếu tố quyết định duy nhất của hiệu quả khởi nghiệp. Thay vào đó, đầu tư vào nguồn

nhân lực và xã hội đặc thù của ngành và doanh nghiệp đóng góp đáng kể vào việc giải

thích hiệu quả của các nhà khởi nghiệp. Chính xác hơn: các khoản đầu tư đặc thù của

ngành vào vốn nhân lực như kinh nghiệm trong ngành cụ thể giúp nâng cao hiệu quả,

không phân biệt thước đo hiệu quả nào được sử dụng. Ngoài ra, các khoản đầu tư vốn cụ

thể của con người và doanh nghiệp xã hội, chẳng hạn như kinh nghiệm khởi nghiệp và

thành viên của một hiệp hội cho các nhà sáng lập doanh nghiệp nhỏ tạo ra nhiều công

trình khởi nghiệp hứa hẹn hơn. Hơn nữa, hiệu quả của sự xuất hiện “các ngành công

nghiệp tri thức" đã được khám phá. Tác giả khuyến khích các nghiên cứu trong tương lai

cần phải tính đến mối quan hệ tương quan giữa danh mục vốn nhân lực và xã hội, các loại

chiến lược và hiệu quả khởi nghiệp, để khám phá vai trò của các ngành công nghiệp tri

thức trong việc giải thích hiệu quả khởi nghiệp.

Tiếp theo, bài nghiên cứu: “The cumulative nature of the entrepreneurial process: The

contribution of human capital, planning and environment resources to small venture

performance (Haber và Reichel, 2007) tiếp tục ủng hộ và cho rằng vốn nhân lực tăng lên

có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp. Nghiên cứu này dựa

trên lý thuyết về nguồn lực nội tại và áp dụng cho ngành dịch vụ - du lịch. Nó đã kiểm tra

hiệu quả của các dự án khởi nghiệp nhỏ bằng cách sử dụng một mô hình động tích hợp

của các lựa chọn khởi nghiệp và tích lũy tài nguyên. Kết quả từ 305 công ty khởi nghiệp

du lịch nhỏ cho thấy vốn nhân lực của doanh nhân khởi nghiệp, đặc biệt là kỹ năng quản

lý, là yếu tố đóng góp lớn nhất cho hiệu quả. Giả thuyết chung của nghiên cứu quy định

rằng vốn nhân lực của doanh nhân khởi nghiệp, loại hình mạo hiểm, tính hấp dẫn của địa

điểm mạo hiểm, sự tồn tại của một kế hoạch kinh doanh cụ thể, mức độ lập kế hoạch,

việc sử dụng các dịch vụ hỗ trợ tư vấn và tài chính ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án

khởi nghiệp.

29

Khi thảo luận về vốn nhân lực của doanh nhân, tác giả đề cập đến giáo dục, kinh nghiệm

trước khi khởi nghiệp và kỹ năng. Mối quan hệ giữa giáo dục và tỷ lệ khởi nghiệp đã

được kiểm chứng rộng rãi (Bird, 1989; Cooper và cộng sự, 1994; Robinson và Sexton,

1994), mặc dù các phát hiện liên quan đến tác động của giáo dục không nhất quán. Có

nghiên cứu cho rằng kinh nghiệm trước đây sẽ giúp cho doanh nhân khởi nghiệp có khả

năng dự đoán tốt về những rủi ro và có thể đóng góp cho việc khởi nghiệp thành công

(Ronstadt, 1988; Vesper, 1980). Các nghiên cứu khác kết luận rằng kỹ năng quản lý của

các doanh nhân có lợi cho hiệu quả khởi nghiệp và tăng trưởng (Bird, 1993; Cooper và

Gimeno-Gascon, 1992; Ronstadt, 1984). Hơn nữa, các học giả lập luận rằng các doanh

nhân thành công thường có thể sử dụng một loạt các kỹ năng khác nhau trong các lĩnh

vực như quản lý tài chính, kế toán và tiếp thị (Hood và Young, 1993). Các nghiên cứu

trong các ngành dịch vụ như du lịch và khách sạn cung cấp một số cái nhìn sâu sắc trong

việc xác định các nguồn lực của công ty có khả năng tạo ra sự bền vững, bao gồm các kỹ

năng giao tiếp và phối hợp đúng đắn, kỹ năng thực hiện hành vi, kỹ năng trao đổi thông

tin và tốc độ của năng lực quản lý giao dịch (Lundberg et al., 1995; et al., 1992). Lerner

và Haber (2001) nhận thấy rằng các kỹ năng quản lý tốt là rất quan trọng đối với hiệu quả

của công ty khởi nghiệp du lịch nhỏ.

Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác lại cho rằng vai trò của vốn nhân lực trong khởi

nghiệp đang được nhấn mạnh quá mức, thậm chí vốn nhân lực (giáo dục) còn tác động

tiêu cực lên tinh thần khởi nghiệp. Cụ thể, bài nghiên cứu “Entrepreneurship, selection

and performance: A meta-analysis of the role of education” (Van der Sluis, 2005) về tinh

thần khởi nghiệp cho rằng giáo dục càng cao càng khiến người lao động muốn làm việc

nhận lương hơn là khởi nghiệp – làm chủ một doanh nghiệp mới, song cũng có sự khác

biệt theo giới tính, theo thành thị với nông thôn và theo nhóm nước. Lý thuyết vốn con

người nói rằng một trong những động lực chính việc đi học là do quan niệm rằng việc đi

học tạo ra các kỹ năng nâng cao năng suất và thu nhập của người lao động. Do đó, giả sử

giáo dục có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, trong các tài liệu kinh tế phát triển, người

ta đã dành rất nhiều nỗ lực cho việc định lượng tỷ lệ lợi nhuận cho giáo dục. Bài viết này

cung cấp một đánh giá phân tích về các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của việc đi

học đối với việc lựa chọn và thực hiện khởi nghiệp ở các nước kém phát triển. Tác giả

phân tích sự thay đổi của tác động này giữa các quốc gia, phương pháp ước tính, xác định

30

các yếu tố đầu vào và hiệu suất, việc sử dụng các biến kiểm soát. Tác giả thấy rằng một

năm đi học làm tăng thu nhập doanh nghiệp lên trung bình 5%. Con số này thấp hơn đáng

kể so với tỷ lệ lợi nhuận giáo dục trong việc làm trả lương ở các nước đang phát triển,

trong đó mức trung bình dao động từ 7,2% ở các nước thu nhập trung bình đến hơn 11%

ở các nước thu nhập thấp và trung bình thấp (Psacharopoulos, 1994). Tuy nhiên, nó gần

giống với lợi nhuận trung bình (6,1%) khi đi học trong các hoạt động khởi nghiệp ở Hoa

Kỳ, như đã được báo cáo trong phân tích tổng hợp của các nước công nghiệp (Van der

Sluis, Van Praag và Vijverberg, 2003).

Lợi nhuận giáo dục thay đổi theo giới tính, cư trú nông thôn/ thành thị và tỷ trọng nông

nghiệp trong nền kinh tế. Hơn nữa, những người lao động có trình độ học vấn cao hơn

thường thích việc làm nhận lương nhưng cũng thích kinh doanh phi nông nghiệp hơn làm

nông nghiệp. Giáo dục càng cao càng khiến người lao động không muốn tự làm chủ mà

thích việc làm nhận lương hơn đối với phụ nữ nhiều hơn nam giới, đồng thời điều này

cũng tác động mạnh hơn ở thành thị và ở các nền kinh tế kém phát triển nơi nông nghiệp

chiếm ưu thế hơn và tỷ lệ biết chữ thấp hơn. Nhiều nghiên cứu báo cáo rằng phụ nữ ít học

tập trung vào các lĩnh vực thu nhập thấp của thương mại thực phẩm và dệt may. Do đó,

dường như giáo dục khiến phụ nữ hướng tới các công việc trả lương chứ không phải

trong kinh doanh - các lĩnh vực thu nhập cao. Lý thuyết kinh tế chỉ ra rằng có những tác

động đối nghịch mà giáo dục có thể có đối với việc khởi nghiệp, có thể diễn ra khác nhau

ở các nước đang phát triển, do cơ hội ở các nước đang phát triển lớn hơn, cũng như sự

khác biệt về thu nhập giữa các ngành.

Thêm vào đó, kết quả của bài nghiên cứu “The impact of entrepreneurship education on

entrepreneurship skills and motivation” (Oosterbeek và Praag, 2010) chỉ ra rằng giáo dục

khởi nghiệp tại trường đại học đã làm giảm tỷ lệ sinh viên có dự định khởi nghiệp trong

tương lai. Bài viết này phân tích tác động của một chương trình giáo dục khởi nghiệp

hàng đầu đối với sinh viên một trường đại học tại Ý dạy về kỹ năng và động lực khởi

nghiệp, bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận biến công cụ trong khuôn khổ khác biệt.

Kết quả cho thấy chương trình không có tác dụng như mong muốn: ảnh hưởng đến kỹ

năng tự đánh giá của sinh viên là không đáng kể, và ảnh hưởng đến ý định trở thành

31

doanh nhân thậm chí còn tiêu cực. Kết quả này trái ngược hoàn toàn với kết quả đánh giá

tích cực trước đó dựa trên sự đánh giá của các bên liên quan.

Nguyên nhân dẫn đến kết quả này có thể do các sinh viên đã có được những suy nghĩ

thực tế hơn cả về bản thân cũng như những gì cần có để trở thành một doanh nhân như đã

được dạy trong các buổi học được tổ chức với các huấn luyện viên. Những thay đổi trong

nhận thức bản thân có thể đã làm giảm nhẹ mức độ tự tin trong kỹ năng kinh doanh của

những người tham gia chương trình so với những người không tham gia. Một cách gián

tiếp hơn, những người tham gia có thể đã mất đi sự lạc quan của họ và điều này có thể

làm giảm sút tinh thần khởi nghiệp. Ngoài ra, những người tham gia chương trình có thể

đơn giản là không thích chương trình này. Nhiều yếu tố khác nhau có thể góp phần vào

đó: sự tham gia là bắt buộc, thời gian và nỗ lực đầu vào của người tham gia đòi hỏi cao

so với điểm tín dụng mà họ kiếm được và số lượng sinh viên mỗi nhóm lớn (trung bình

mười) có thể cản trở sự tham gia tích cực và có thể đã khiến một số người tham gia miễn

phí để hưởng lợi. Bài nghiên cứu này của tác giả đã đóng góp một nghiên cứu thực

nghiệm đầu tiên trong việc đánh giá tác động của chương trình giáo dục sinh viên khởi

nghiệp đối với tinh thần khởi nghiệp của sinh viên trong tương lai. Tuy nhiên, nghiên cứu

còn nhiều khuyết điểm như thiếu tính phổ biến vì tác giả sử dụng mẫu nghiên cứu chỉ

trong một trường. Ý nghĩa của nghiên cứu này là việc đánh giá tác động vì vậy nghiên

cứu nên được tiến hành phối hợp với các trường để đảm bảo phân bổ ngẫu nhiên các học

sinh trong các nhóm điều trị và kiểm soát.

Theo đó, nghiên cứu “Picking winners or building them? Alliance, intellectual, and

human capital as selection criteria in venture financing and performance of

biotechnology startups” (Baum và Silverman, 2004) cũng cho rằng vai trò của vốn nhân

lực trong các dự án khởi nghiệp đang bị nhấn mạnh quá mức. Trong môi trường kinh

doanh, các trung gian tài chính như các công ty đầu tư mạo hiểm (VC) có vai trò định

hình môi trường nơi mà các công ty khởi nghiệp mới phát triển. Các VC ảnh hưởng đến

việc lựa chọn cả hai bằng cách đóng vai trò là một trinh sát có thể xác định tiềm năng

trong tương lai và là một huấn luyện viên có thể giúp nhận ra điều đó. Mặc dù có nhiều

tài liệu về vai trò của các VC trong việc khuyến khích các công ty khởi nghiệp, nhưng

người ta thường cho rằng các VC là các chuyên gia trinh sát và huấn luyện viên, và vì

32

vậy các cách thức mà các VC đã làm để nâng cao hiệu suất khởi nghiệp không được hiểu

rõ. Trong nghiên cứu này, tác giả xem xét liệu VCs có nhấn mạnh đến việc chọn người

chiến thắng hoặc xây dựng chúng hay không bằng cách so sánh tác động của các đặc

điểm khởi nghiệp, cộng sự, trí tuệ và vốn nhân lực đối với các quyết định của VC để tài

trợ cho chúng với những tác động của các đặc điểm tương tự đến hiệu quả khởi nghiệp

trong tương lai. Phát hiện của tác giả chỉ ra một logic chung kết hợp các vai trò: Các công

ty khởi nghiệp tài chính của VC có công nghệ mạnh, nhưng có nguy cơ thất bại trong

ngắn hạn, và do đó cần có chuyên môn quản lý. Các quyết định tài chính của VCs dường

như bị ảnh hưởng bởi xu hướng nhận thức dẫn đến việc họ quá coi trọng các công ty khởi

nghiệp, vốn nhân lực khi đưa ra quyết định đầu tư.

Trong một nghiên cứu khác có tên “Education for inovation: entrepreneurial

breakthroughs vs. corporate incremental improvements” (Baumol, W. 2004) đã đưa ra

những chứng cứ cho rằng giáo dục đại học có thể cản trở sự đột phá và tư duy sáng tạo

cần thiết cho sự đổi mới. Bài viết này tìm hiểu một số giả thuyết về giáo dục phù hợp cho

tinh thần kinh doanh khuyến khích sự đổi mới: (1) các phát minh đột phá được đóng góp

không cân xứng bởi các doanh nhân độc lập trong khi các doanh nghiệp lớn tập trung vào

các cải tiến tích lũy, tăng dần; (2) giáo dục để làm chủ kiến thức và phương pháp khoa

học là vô cùng quý giá cho sự đổi mới và tăng trưởng nhưng có thể cản trở tư duy và trí

tưởng tượng không chính thống; (3) nghiên cứu và phát triển doanh nghiệp lớn (R & D)

đòi hỏi nhân sự có trình độ học vấn cao về thông tin và phương pháp phân tích, trong khi

các doanh nhân và nhà phát minh độc lập thành công thường thiếu sự chuẩn bị như vậy;

và (4) trong khi các quy trình giảng dạy kiến thức và phương pháp hiện tại chủ yếu về

khoa học và kỹ thuật, thì lại có rất ít chương trình đào tạo cho nhiệm vụ quan trọng là đổi

mới đột phá. Các quy trình đổi mới thường xuyên - những quy trình được hướng dẫn bởi

các nguyên tắc quyết định kinh doanh tiêu chuẩn thông qua giáo dục - có tầm quan trọng

lớn và có thể có tầm quan trọng ngày càng tăng. Nhưng nhà đổi mới độc lập trong doanh

nghiệp nhỏ vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng. Những đột phá mang tính cách

mạng tiếp tục được cung cấp chủ yếu bởi các doanh nghiệp nhỏ có thể tránh được xu

hướng bảo thủ của công ty khổng lồ. Nếu không có những đóng góp mang tính cách

mạng của họ, các công ty lớn sẽ phát triển ít hơn nhiều.

33

Tiếp nối quan điểm trên, Christensen, C. 1997 đã có có một phát hiện mới mẻ trong bài

nghiên cứu “When New Technologies Cause Great Firms to Fail”. Tác giả đã kết luận

rằng giáo dục đại học có thể dẫn đến những tiến bộ gia tăng nhiều hơn là những đổi mới

mang tính đột phá. Tác giả phân tích cách các công ty thành công hay thất bại khi đối mặt

với những thay đổi về công nghệ và thị trường, quy định một danh sách các quy tắc để

các công ty tuân theo như là một giải pháp. Chính vì tuân thủ các nguyên tắc quản lý tốt,

các công ty đổi mới, được quản lý tốt đã thất bại trước sự xuất hiện của các công nghệ

đột phá - đó là, những đổi mới phá vỡ các công nghệ thống trị hiện có trên thị trường.

Thật không may, thường không có ý nghĩa gì khi đầu tư vào các công nghệ đột phá cho

đến khi chúng chiếm lĩnh thị trường. Do đó, thay vì thực hiện các quyết định quản lý tốt,

khi xuất hiện những thay đổi kỹ thuật hoặc thị trường, thông thường các nhà quản lý phải

đưa ra quyết định trái ngược và không lắng nghe khách hàng, đầu tư vào các sản phẩm

hiệu suất thấp tạo ra lợi nhuận thấp hơn, để theo đuổi thị trường nhỏ. Từ phân tích ngành

công nghiệp ổ đĩa, một bộ quy tắc được đưa ra - các nguyên tắc đổi mới đột phá - để các

nhà quản lý đo lường khi nào các nguyên tắc quản lý tốt truyền thống nên được tuân và

khi nào thì không. Theo các nguyên tắc đổi mới đột phá, người quản lý nên có kế hoạch

thất bại sớm, thường xuyên và không tốn kém, phát triển các công nghệ đột phá trong các

tổ chức nhỏ hoạt động trong một thị trường thích hợp và với cơ sở khách hàng có liên

quan. Một nghiên cứu trường hợp trong thị trường xe chạy bằng điện minh họa cách

người quản lý có thể vượt qua những thách thức của các công nghệ đột phá bằng cách sử

dụng các nguyên tắc đổi mới đột phá này. Ngành công nghiệp máy đào cơ khí vào giữa

thế kỷ XX cũng được nhắc đến như một minh chứng cho kết quả này, trong đó hầu hết

các công ty thất bại vì họ không muốn từ bỏ công nghệ máy đào cáp cho máy thủy lực.

Mặc dù không có "câu trả lời đúng" hoặc công thức để sử dụng khi phản ứng với sự thay

đổi công nghệ không thể đoán trước, các nhà quản lý sẽ có thể thích nghi miễn là họ nhận

ra rằng thực tiễn quản lý "tốt" chỉ phù hợp với tình huống. Mặc dù các công nghệ đột phá

vốn có rủi ro cao, nhưng một công ty đầu tư vào chúng càng nhiều, thì nó càng phải tìm

hiểu về thị trường mới nổi và nhu cầu thay đổi của người tiêu dùng, do đó những tiến bộ

gia tăng có thể dẫn đến những bước nhảy vọt trong ngành.

Cũng liên quan đến đề tài này, có nhà nghiên cứu cho rằng chi phí cơ hội sẽ ảnh hưởng

đến tốc độ khởi nghiệp của một quốc gia, đây là kết luận được đưa ra trong nghiên cứu:

34

“Entrepreneur opportunity cost and intended venture growth” (Cassar, 2006). Nghiên

cứu này điều tra chi phí cơ hội của doanh nhân ảnh hưởng như thế nào đến quy mô dự

định trong tương lai của các dự án khởi nghiệp mới. Cụ thể, sử dụng khảo sát các doanh

nhân mới thành lập trong quá trình bắt đầu khởi nghiệp, bài viết này xem xét doanh thu

bán hàng dự định trong tương lai bị ảnh hưởng như thế nào bởi thu nhập hộ gia đình, giáo

dục và kinh nghiệm quản lý. Kết quả cho thấy chi phí cơ hội ảnh hưởng đáng kể đến sự

tăng trưởng dự định của các dự án khởi nghiệp mới. Trong các nghiên cứu trước về chi

phí cơ hội và nguồn nhân lực, người ta thấy rằng các cá nhân có chi phi cơ hội là thu

nhập hộ gia đình hiện tại cao hơn, và kinh nghiệm giám sát lớn hơn thì sẽ có quy mô khởi

nghiệp dự định cao hơn. Và kết quả nghiên cứu này cũng cho thấy chi phí cơ hội càng

cao thì các nhà khởi nghiệp sẽ có khẩu vị rủi ro thấp hơn dẫn đến khởi nghiệp với quy mô

lớn hơn. Ngoài ra, những nhà khởi nghiệp có trình độ học vấn càng cao (tốt nghiệp đại

học) có doanh thu khởi nghiệp thấp hơn đáng kể so với những người có trình độ học vấn

thấp (tốt nghiệp cấp ba) khi cố định các biến số thu nhập hộ gia đình và các biến nhân

khẩu học khác.

Một phát hiện khác về khởi nghiệp và giáo dục khi xét thêm đến yếu tố phát triển tài

chính cũng từng được tìm thấy trong nghiên cứu về bối cảnh thể chế và phân bổ nỗ lực

khởi nghiệp của Bowen và Clercq (2007), cụ thể trong bài nghiên cứu “Institutional

context and the allocation of entrepreneurial effort”. Tác giả kết luận rằng phát triển tài

chính và vốn con người là thành phần quan trọng của tăng trưởng kinh tế, các hoạt động

tài chính và giáo dục nhắm vào tinh thần khởi nghiệp có mối tương quan cùng chiều với

việc phân bổ nỗ lực khởi nghiệp cho các hoạt động tăng trưởng cao. Cụ thể hơn, loại hoạt

động mà các doanh nhân tham gia có khả năng ảnh hưởng đến sự đóng góp tiềm năng

của tinh thần khởi nghiệp vào tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng. Tuy nhiên, các tài liệu

trước về tinh thần khởi nghiệp đã tập trung chủ yếu vào việc xác định các yếu tố quyết

định của cấp độ, chứ không phải là loại hình của hoạt động khởi nghiệp. Trong bài

nghiên cứu này, tác giả đưa ra giả thuyết rằng môi trường thể chế của một quốc gia sẽ

ảnh hưởng đến việc phân bổ nỗ lực khởi nghiệp và đặc biệt sẽ ảnh hưởng đến mức độ nỗ

lực của doanh nhân hướng đến các hoạt động tăng trưởng cao. Tác giả kiểm tra các giả

thuyết của mình bằng cách sử dụng dữ liệu của 40 quốc gia trong giai đoạn 2002 – 2004.

Tác giả thấy rằng việc phân bổ nỗ lực khởi nghiệp cho các hoạt động tăng trưởng cao có

35

tương quan cùng chiều với hoạt động giáo dục và tài chính của một quốc gia nhắm vào

tinh thần khởi nghiệp và có tương quan người chiều với mức độ tham nhũng của một

quốc gia. Nghiên cứu của tác giả là nghiên cứu đầu tiên cung cấp bằng chứng thực

nghiệm cho thấy các đặc điểm thể chế và phát triển tài chính cũng ảnh hưởng đáng kể

đến việc phân bổ nỗ lực khởi nghiệp.

36

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU

3.1 Phương pháp ước lượng

Dựa theo bài nghiên cứu “Entrepreneurship and human capital: The role of financial

development” của Nabamita Dutta và Russell S. Sobel (2017). Phân tích thực nghiệm

trong bài nghiên cứu này nhằm kiểm tra câu hỏi chính sau đây: Tác động của vốn con

người đến tinh thần kinh doanh có phụ thuộc vào mức độ phát triển tài chính của các

quốc gia không? Để trả lời câu hỏi, chúng tôi ước lượng phương trình sau:

𝐽 2 + 𝛽5 (FD*HC)it + ∑ 𝑗=1 𝑋jit + 𝛽6

𝛼𝑗 Ent it = 𝛽𝑜 + 𝛽1 Entit – 1 + 𝛽2 HCit + 𝛽3 FDit + 𝛽4 FD𝑖𝑡

𝛾𝑖 + 𝛽7 𝜃𝑡 + 𝜖𝑖𝑡

Trong đó Ent it là thước đo tinh thần kinh doanh được xem xét cho quốc gia i trong thời

gian t. Ent it - 1 là thước đo của tinh thần kinh doanh bị trì hoãn một thời kỳ. Nó thể hiện

sự bền vững của biến phụ thuộc và do đó cho phép chúng ta ước tính mô hình dữ liệu

bảng động tuyến tính (DPD). HCit đề cập đến thước đo vốn nhân lực của chúng tôi – tổng

số tuyển sinh đại học. FDit đại diện cho các yếu tố thể hiện mức độ phát triển tài chính.

Ba biến tôi xem xét là tín dụng tư nhân để gửi tiền ngân hàng, nợ có tính thanh khoản cao

2 thể hiện tác động phi tuyến tính của biến phát triển tài chính đối với tinh thần kinh

và tiền gửi ngân hàng. Tất cả ba biến này được xây dựng theo tỷ lệ phần trăm của GDP.

FD𝑖𝑡 doanh. Mục đích của việc đưa biến phát triển tài chính phi tuyến vào bài để xét đến sự tác

động phi tuyến của biến này đối với mối quan hệ giữa giáo dục và tinh thần khởi nghiệp,

tức là khi mức độ phát triển tài chính của một quốc gia tăng lên quá mức thì tác động của

nó đến tinh thần khởi nghiệp có thay đổi nhiều so với bình thường hay không. Ngoài ra,

tôi còn đưa vào phương trình biến tương tác FD*HC, điều này thể hiện sự thay thế của

biến giáo dục và phát triển tài chính khi tác động lên tinh thần khởi nghiệp, cũng như để

trả lời câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra đầu bài: liệu với mức độ phát triển tài chính cao, thì

sự tăng lên về nguồn vốn con người có làm tinh thần khởi nghiệp tăng lên hay không và

ngược lại.

37

𝑋jit là ma trận của các biến kiểm soát, 𝛾𝑖 là hiệu ứng cố định theo quốc gia, 𝜃𝑡 là hiệu ứng

thời gian cụ thể và 𝜖𝑖𝑡 là đại diện cho phần dư ngẫu nhiên. Cuối cùng, FC*HC là thuật

ngữ tương tác.

Các hệ số cần quan tâm của chúng ta là 𝛽2 và 𝛽5. Trong khi 𝛽2 thể hiện tác động trực tiếp

của vốn nhân lực lành nghề đối với tinh thần kinh doanh, thì 𝛽5 thể hiện tác động gián

tiếp của vốn nhân lực lành nghề đối với tinh thần kinh doanh thông qua kênh phát triển

tài chính. Tác động biên của vốn nhân lực lành nghề đối với tinh thần kinh doanh được

xác định bởi phương trình đạo hàm theo HCit :

sẽ <, > hay

= 𝛽2 + 𝛽5 FDit .

δ Ent𝑖𝑡 δ HC𝑖𝑡

δ Ent𝑖𝑡 δ HC𝑖𝑡

= 0; tùy thuộc vào việc β2 và β5 là > hay < 0 cũng như tầm quan trọng của mức độ phát

triển tài chính.

Công cụ ước lượng chính mà tôi sử dụng trong nghiên cứu này là ước lượng GMM hệ

thống. Việc sử dụng phương pháp ước lượng bảng động cho những nghiên cứu điều tra

thực nghiệm xuyên quốc gia đã tăng đều đặn trong những thập kỷ gần đây (Dutta và

Williamson, 2016; Dutta và Sobel, 2016; Cooray, Dutta và Mallick, 2016; Asiedu và Lin,

2011; Dollar và Kray, 2002, Bond, Hoeffler và Temple, 2001). Các mô hình động cho

phép chúng ta không chỉ xem xét sự năng động hoạt động kinh tế mà còn kiểm soát sự

không đồng nhất không thể quan sát được. Trong số các ước lượng bảng động, hai công

cụ phổ biến là GMM khác biệt (DGMM) và GMM hệ thống (SGMM). Hiệu ứng cá nhân

không quan sát được có thể tương quan không chỉ với các hồi quy nội sinh mà còn với

các hồi quy được xác định trước. Arellano và Bond (1991) đã đưa ra ước lượng DGMM

loại bỏ hiệu ứng các yếu tố không quan sát được, ngăn ngừa vấn đề nội sinh tiềm tàng do

có thể có những cú sốc hay những nhân tố không quan sát được tác động đến biến phụ

thuộc đồng thời cũng tác động đến các biến giải thích khác có trong mô hình nghiên cứu.

Một cách tổng quan, GMM là phương pháp tổng quát của rất nhiều phương pháp ước

lượng phổ biến như OLS, GLS, MLE,….Ngay cả trong điều kiện giả thiết nội sinh bị vi

phạm, phương pháp GMM vẫn sẽ cho ra các hệ số ước lượng vững, không chệch, phân

phối chuẩn và hiệu quả. Cả hai ước lượng DGMM và SGMM đều được thiết kế cho các

bảng có 'T' nhỏ, 'N' lớn; một biến phụ thuộc có tính chất động, một phương trình bao gồm

các biến bên phải không phải là ngoại sinh nghiêm ngặt và một dữ liệu bảng có các yếu

tố không quan sát được, một dữ liệu bảng với các hiệu ứng quốc gia cố định và sự hiện

38

diện của tính không đồng nhất và tự tương quan trong chính các quốc gia (Baum, 2013).

Dữ liệu bảng xuyên quốc gia của tôi đáp ứng tất cả các tiêu chí này và do đó, các ước

lượng bảng động rất phù hợp với nghiên cứu này tôi.

Điều quan trọng cần lưu ý là độ lệch Nickell thường được tạo trong trường hợp ước tính

hiệu ứng cố định sẽ được sửa chửa trong trường hợp ước lượng SGMM hoặc DGMM. Do

quá trình làm giảm ý nghĩa này được áp dụng trong bối cảnh ước tính hiệu ứng cố định

để loại bỏ tính các yếu tố không quan sát được nên độ lệch Nickell được tạo ra. Nickell

(1981) nói rằng quá trình giảm ý nghĩa dẫn đến sai lệch do mối tương quan phát sinh giữa

hồi quy và lỗi. Các ước tính dữ liệu bảng động (DPD) như GMM hệ thống và GMM khác

biệt được xây dựng để tính đến và sửa lỗi cho sai lệch Nickell.

Đối với ước lượng Arellano-Bond (DGMM), mô hình được thiết lập như một hệ phương

trình, mỗi lần một khoảng thời gian, trong đó độ trễ được tạo ra thông qua phương pháp

mô men được sử dụng làm công cụ. Các công cụ áp dụng cho mỗi phương trình khác

nhau. Arellano và Bover (1995) đã tiết lộ một điểm yếu tiềm tàng trong ước lượng

DGMM bằng cách nói rằng các mức độ trễ thường có thể là công cụ yếu cho các biến sai

phân bậc nhất và điều này có thể đúng hơn nếu các biến gần với bước đi ngẫu nhiên

(không cố định). Ước lượng có điều chỉnh và chính xác hơn được phát triển bởi Blundell

và Bond (1988) được gọi là ước lượng SGMM. Đối với ước lượng SGMM, các công cụ

được chỉ định là áp dụng cho các phương trình sai phân, phương trình bậc hoặc cả hai.

Ngoài vấn đề về công cụ yếu mà ước lượng SGMM cải thiện được, nó cũng hiệu quả hơn

so với ước lượng DGMM do ước lượng đạt được hiệu quả tiệm cận dựa trên các điều

kiện trực giao bổ sung (Heid, Langer và Larch, 2012). Sự đánh đổi của ước lượng

SGMM so với ước lượng DGMM là SGMM có thể có một số lượng lớn các công cụ và

do đó, có thể dẫn đến sai lệch mẫu hữu hạn. Vì vậy, điều quan trọng là làm các kiểm định

như Sargan-test để kiểm tra các điều kiện bên ngoài của các biến công cụ. Cùng với việc

kiểm định các giá trị p của Sargan, tôi cũng sử dụng độ lệch chuẩn hiệu chỉnh theo

phương pháp của Windmeijer (2005). Tôi coi ước lượng SGMM là ước lượng điểm

chuẩn sẽ sử dụng trong bài này.

39

3.2 Mô tả biến và dữ liệu

3.2.1 Mô tả biến

3.2.1.1 Tinh thần khởi nghiệp - Tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp mới - Ent

Cuốn sách “Tinh thần doanh nhân khởi nghiệp và sự đổi mới” – Peter F.Drucker (2011)

đã định nghĩa Entrepreneurship như là việc doanh nhân khởi nghiệp tiến hành biến những

ý tưởng kinh doanh, tài chính và sự đổi mới thành những sản phẩm hàng hóa mang tính

kinh tế. Kết quả của những hành động này là góp phần tái tạo những tổ chức đã “già cỗi”

hoặc tạo ra một tổ chức mới. Biểu hiện rõ ràng nhất của tinh thần doanh nhân khởi

nghiệp là bắt đầu xây dựng những doanh nghiệp mới. Tác giả của cuốn sách còn cho rằng

tinh thần khởi nghiệp chính là tinh thần đổi mới, sáng tạo, không những thế đó còn phải

là một sự đổi mới có mục đích và có hệ thống. Ngoài ra, qua các nghiên cứu trước đây tôi

nhận thấy những yếu tố chính tạo nên một tinh thần khởi nghiệp đó là: khả năng nắm bắt

cơ hội kinh doanh; khả năng chấp nhận rủi ro; và phải có những ý tưởng đổi mới - sáng

tạo. Cụ thể, một nhà khởi nghiệp phải có hoài bão và khát vọng kinh doanh; có thể phát

triển ý tưởng sáng tạo và đổi mới phương pháp giải quyết vấn đề; có khả năng kiến tạo cơ

hội kinh doanh, độc lập và dám làm, dám chịu trách nhiệm; kiên trì và dám chấp nhận rủi

ro, thất bại; có đạo đức kinh doanh và trách nhiệm xã hội.

Từ định nghĩa trên, biến phụ thuộc tinh thần khởi nghiệp mà tôi sử dụng ở đây là tỷ lệ sở

hữu doanh nghiệp mới. Biến này được xác định bằng tỷ lệ phần trăm dân số 18-64 tuổi

hiện đang là chủ sở hữu hoặc người quản lý của một doanh nghiệp mới (GEM, 2017).

Theo GEM, các doanh nghiệp mới này phải có tiền lương, tiền công hoặc các khoản

thanh toán khác cho chủ sở hữu trong hơn ba tháng (nhưng không quá 42 tháng). Giá trị

trung bình là khoảng 4,7 với độ lệch chuẩn là 3,4, với phạm vi từ 0 đến 24,5.

3.2.1.2 Vốn nhân lực lành nghề - Tổng số người ghi danh vào giáo dục đại học - HC

Biến độc lập chính trong nghiên cứu này là thước đo vốn nhân lực, cụ thể hơn là vốn

nhân lực lành nghề. Vốn nhân lực là tổng thể kiến thức, kỹ năng và trình độ chuyên môn

mà người lao động tích lũy được. Nó thể hiện khả năng làm việc với một trình độ nhất

định của người lao động. Với người sử dụng lao động, nó được đánh giá cao khi mức độ

đầu tư và phát triển vốn nhân lực gắn liền với khả năng tăng năng suất lao động. Với

40

người lao động, nó rất được coi trọng vì đầu tư cho vốn nhân lực được coi là một phương

cách hiệu quả để gia tăng thu nhập trong tương lai.

Theo nghiên cứu Matthew R. Marvel, Justin L. Davis, Curtis R. Sproul (2014) có tổng

cộng 344 yếu tố đại diện cho vốn con người được đưa vào trong các nghiên cứu được

phân tích trước đây. Yếu tố đại diện phổ biến nhất là kinh nghiệm làm việc, chiếm

39,9%. Tiếp theo là giáo dục, chiếm 26,6%. Phù hợp với những phát hiện trong quá khứ,

đầu tư vào giáo dục và kinh nghiệm rõ ràng là những loại công trình phổ biến nhất được

sử dụng (Reuber & Fischer, 1994). Vì dữ liệu về kinh nghiệm làm việc rất khó đo lường,

chưa phổ biến rộng rãi và sẽ có sự không đồng nhất giữa các quốc gia, nên tôi không sử

dụng trong nghiên cứu này. Do đó, tôi chỉ dùng yếu tố giáo dục – cụ thể là tỷ lệ tuyển

sinh đại học (dựa theo nghiên cứu “Entrepreneurship and human capital: The role of

financial development” của Nabamita Dutta và Russell S. Sobel (2017)) để đại diện cho

vốn nhân lực trong bài nghiên cứu này.

Để đo lường cho biến số này tôi sẽ sử dụng tổng số ghi danh vào giáo dục đại học, bất kể

tuổi tác, được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm của tổng dân số của nhóm tuổi năm năm sau

khi học từ trường trung học cơ sở, được lấy từ dữ liệu trực tuyến 2016 (WDI). Giá trị

trung bình của biến là khoảng 52,2 với độ lệch chuẩn là 21,8, dao động từ 8,8 đến 119, 7.

3.2.1.3 Mức độ phát triển tài chính - FD

Biến độc lập khác mà tôi muốn nhấn mạnh trong bài nghiên cứu này là mức độ phát triển

tài chính. Phát triển tài chính là một phần của chiến lược phát triển khu vực tư nhân nhằm

kích thích tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo, giảm thiểu các chi phí phát sinh trong hệ

thống tài chính. Phát triển tài chính liên quan đến những cải tiến trong cung cấp thông tin

về các khoản đầu tư tiềm năng và phân bổ vốn; việc giám sát các công ty và quản trị

doanh nghiệp; việc giao dịch, đa dạng hóa và quản lý rủi ro; việc huy động và tập hợp các

khoản tiết kiệm; việc dễ dàng trao đổi hàng hóa và dịch vụ. Các chức năng tài chính này

ảnh hưởng đến các quyết định tiết kiệm – đầu tư, đổi mới công nghệ và do đó tăng trưởng

kinh tế.

Tóm lại, phát triển tài chính là yếu tố chính quyết định khả năng cung cấp vốn cho khởi

nghiệp và sẽ quyết định môi trường khởi nghiệp cho doanh nhân mới. Để đo lường mức

41

độ phát triển tài chính, tôi sử dụng ba biện pháp khác nhau nhằm đo lường quy mô và

hoạt động của sức khỏe tài chính một quốc gia, đó là: Tín dụng tư nhân gửi tiền vào ngân

hàng, nợ có tính thanh khoản cao của các ngân hàng và các trung gian tài chính khác và

tiền gửi ngân hàng tính phần trăm GDP.

a. Tín dụng tư nhân gửi tiền vào ngân hàng theo phần trăm GDP – FD1

Dữ liệu biến số này được lấy từ Cơ sở dữ liệu phát triển tài chính toàn cầu của Ngân hàng

Thế giới. Giá trị trung bình của mẫu tôi sử dụng là 73,9 với độ lệch chuẩn là gần 44

(Bảng 1). Theo nghĩa rộng, như Giuliano và Ruiz-Arranz (2009) đã nêu, điều này đo

lường mức độ trung gian và vai trò của hệ thống ngân hàng. Như Beck, Demirgüç-Kunt

và Levine (2007) đã chỉ ra, đây là biện pháp tốt nhất có thể nắm bắt được chức năng của

các trung gian tài chính hay nói cách khác, nắm bắt mức độ tiết kiệm và chuyển hóa

thành vốn kinh doanh cho các dự án khu vực tư nhân. Trong bối cảnh khởi nghiệp và

phát triển kinh doanh, biến này phản ánh mức độ mà hệ thống tài chính của một quốc gia

có thể giúp phân bổ nguồn tài chính khan hiếm giữa các dự án đầu tư vốn. Ngoài ra,

Gwartney, Holcombe và Lawson (2006) cũng nhấn mạnh, một quốc gia có thể sử dụng

thị trường để phân bổ vốn giữa các dự án đầu tư một cách hiệu quả sẽ là yếu tố chính

quyết định tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động.

b. Nợ có tính thanh khoản cao của các ngân hàng và các trung gian tài chính khác

theo phần trăm GDP – FD2

Thước đo được xem xét thứ hai về phát triển tài chính là nợ có tính thanh khoản cao tính

theo phần trăm GDP. Chính xác hơn, điều này tương đương với tiền tệ, tiền gửi không kỳ

hạn và nợ vay của các ngân hàng và các trung gian tài chính khác chia cho GDP. Như

Beck, Demirgiiu-Kunt và Levine (1999) lập luận, chỉ số này là chỉ số trung gian tài chính

có sẵn rộng nhất.

c. Tiền gửi ngân hàng theo phần trăm GDP – FD3

Cuối cùng, thước đo được sử dụng là tiền gửi ngân hàng theo phần trăm GDP. Điều này

bao gồm tổng giá trị của tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm

tại các ngân hàng tiền gửi trong nước chia cho GDP. Đây cũng là thước đo quy mô của

42

hoạt động tài chính. Trong khi giá trị trung bình của nợ có tính thanh khoản cao là 79,2%,

giá trị trung bình của tiền gửi ngân hàng lại nhỏ hơn (67,9%).

3.2.1.4 Nhóm biến kiểm soát

Ngoài các biến quan tâm độc lập chính mà tôi sử dụng để đo lường giáo dục đại học và

mức độ phát triển tài chính, tôi còn sử dụng thêm một số biến kiểm soát khác thường

được sử dụng trong các nghiên cứu thực nghiệm về sự khác nhau giữa các quốc gia trong

tỷ lệ khởi nghiệp. Các biến kiểm soát này là: tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu

người (GDP), tổng thu nhập quốc nội bình quân đầu người (GNI), tỷ lệ dân số thành thị

trên tổng dân số (Urb), tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ so với nam (FeM), tỷ lệ tham

gia lực lượng lao động (LFPR).

Theo Dutta và Sobel (2016) và Audretsch và Keilbach (2007), tôi đưa vào biến kiểm soát

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người theo đô la Mỹ không đổi (dựa trên

ngang giá sức mua - PPP) và tổng thu nhập quốc nội bình quân đầu người (GNI) như một

thước đo cho quy mô thị trường và sự giàu có. Sự giàu có gia tăng trong một khu vực ngụ

ý tăng quy mô thị trường và do đó, cơ hội gia tăng cho doanh nghiệp mới phát triển nhờ

tiềm năng trao đổi kinh tế lớn hơn.

Biến kiểm soát thứ hai là tỷ lệ dân số đô thì trên tổng dân số của một quốc gia. Sự lan tỏa

đô thị hóa có thể thúc đẩy tinh thần kinh doanh vì mật độ dân số ở các thành phố tạo ra

các yếu tố bên ngoài và cơ hội để tăng lợi nhuận; và do đó, ảnh hưởng tích cực đến các

sáng kiến kinh doanh (Brüderl và Preisendorfer, 1998; Storey, 1994; Reynold et.al.,

1994).

Các nghiên cứu trước đã chỉ ra tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là rất quan trọng đối với

tinh thần khởi nghiệp. Không những thế, giới tính cũng đã được chứng minh là quan

trọng cùng với tỷ lệ tham gia lực lượng lao động. Ví dụ, Uhlaner et.al. (2002) đã chỉ ra

rằng các quốc gia có tỷ lệ nữ cao hơn trong lực lượng lao động có tỷ lệ phần trăm thấp

hơn của các cá nhân tự làm chủ. Các nghiên cứu khác như Delmar và Davidsson (2000)

đã tìm thấy xác suất bắt đầu kinh doanh đối với nam cao hơn nữ. Ngoài ra, các nghiên

cứu như Du Rietz và Henrekson (2001) cho thấy tỷ lệ từ bỏ của các nhà khởi nghiệp nữ

cao hơn so với các đồng nghiệp nam của họ (Verheul, van Stel và Thurik, 2006).

43

Audretsch et. Al. (2002) thấy rằng tổng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cùng với tỷ lệ

tham gia lực lượng lao động nữ là những yếu tố quan trọng quyết định tinh thần kinh

doanh. Vì vậy, tôi đưa vào biến kiểm soát tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ/ nam.

44

Tên biến

N

hiệu

Trung bình mẫu

Độ lệch chuẩn

Giá trị nhỏ nhất

Giá trị lớn nhất

Đơn vị tính

Tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp

4.66

3.37

0.00

24.49

%

274

Ent

mới

%

52.24

21.79

8.85

119.69

274

Vốn nhân lực lành nghề

HC

Tín dụng tư nhân trên

%

73.89

43.99

9.12

262.46

274

FD1

GDP

Nợ có tính thanh khoản

%

79.20

51.34

14.21

348.75

274

FD2

cao trên GDP

Tiền gửi ngân hàng trên

%

67.93

48.84

8.76

334.71

274

FD3

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

25812.85

16359.27

2692.13

81741.10

USD 274

GDP

bình quân đầu người

%

72.70

17.21

24.94

100.00

Tỷ lệ dân số thành thị

274

Urb

Tỷ lệ tham gia lực lượng

%

50.60

12.22

13.68

73.91

274

FeM

lao động nữ so với nam

Tổng thu nhập quốc nội

23359.45

20303.55

848.16

94381.71

USD 274

GNI

bình quân đầu người

LFP

Tỷ lệ tham gia lực lượng

%

47.78

12.61

23.69

79.91

274

lao động

R

Nguồn: Kết quả ước lượng của tác giả

Bảng 3.1. Thống kê mô tả biến

Bảng 3.1 cho thấy một số thống kê mô tả của tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp mới, vốn nhân

lực lành nghề, các biến đại diện cho mức độ phát triển tài chính và một số biến kiểm soát

khác. Tinh thần khởi nghiệp (được đo lường bằng tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp mới) có giá

trị trung bình là 4,66; trong khi độ lệch chuẩn là 3,37, thấp nhất là 0 (thuộc về Israel), lớn

45

nhất là 24,49 (thuộc về Úc, 2001). Tiếp theo, tỷ lệ ghi danh vào giáo dục đại học có giá

trị trung bình là 52,24 và độ lệch chuẩn là 21,9; và giá trị lớn nhất vẫn thuộc về nước Úc

(2015). Thực tế, theo Theo Tổ chức giáo dục Úc thì Úc là quốc gia có tốc độ tăng trưởng

khởi nghiệp đáng kinh ngạc, bằng chứng là trong số các doanh nghiệp mới được thành

lập tại bang New South Wales thì start-up đã chiếm 48%. Trong đó, Sydney được coi là

trung tâm chính của các start-up, chiếm 12% số lượng các doanh nghiệp, cùng với đó

chính phủ Úc cũng luôn có nhiều chính sách ưu đãi khuyến khích sinh viên khởi nghiệp.

Bên cạnh đó, thước đo mức độ phát triển tài chính – tín dụng tư nhân có giá trị trung bình

73,9 và giá trị cao nhất là 262,46 thuộc về quốc gia Iceland (2006), đây cũng là một quốc

gia tiên phong trong khởi nghiệp và có mức độ phát triển tài chính cao. Trong khi đó

thước đo nợ có tính thanh khoản cao và tiền gửi ngân hàng trên GDP có giá trị trung bình

lần lượt là 79,2 và 67,9 và giá trị cao nhất thuộc về HongKong, Trung Quốc. Ngoài ra,

GDP trung bình của mẫu nghiên cứu 25.812,85 (triệu USD) và độ lệch chuẩn lên tới

16.359,37 (triệu USD), GDP cao nhất là Singapore và thấp nhất trong mẫu là Việt Nam.

Nguyên nhân có sự chênh lệch lớn là do mẫu các quốc gia đưa vào nghiên cứu là một tập

hợp của các nhóm nước có mức độ phát triển từ thấp đến cao không đồng đều để đảm bảo

tính tổng quát của kết quả nghiên cứu. Sau đây tôi sẽ mô tả cụ thể các nguồn dữ liệu của

các biến được sử dụng trong nghiên cứu này.

3.2.1 Dữ liệu

Bảng 3.2 dưới đây là danh sách 43 quốc gia tôi đưa vào trong nghiên cứu được chia làm

ba nhóm thu nhập: 22 nước thu nhập cao, 16 nước thu nhập trên trung bình và 5 nước thu

nhập trung bình thấp. Như những gì đã được trình bày trong bảng dưới, tôi lựa chọn khá

nhiều nước trong nhóm có thu nhập trên trung bình và thu nhập cao vì đây là những khu

vực có nền giáo dục tiên tiến trở lên và trình độ khoa học kĩ thuật khá đồng đều và không

chênh lệch quá lớn như các nước ở khu vực thu nhập thấp. Thêm vào đó, nhóm nước có

thu nhập trên trung bình và cao có bộ dữ liệu đầy đủ hơn các nước thu nhập thấp. Tuy

nhiên, tôi vẫn đưa vào các nước có mức thu nhập thấp như Việt Nam, Philippines,… để

đảm bảo tính khách quan của nghiên cứu và để kết quả nghiên cứu này có giá trị thực tiễn

đối với nền kinh tế Việt Nam.

46

Ngoài ra, mẫu dữ liệu 43 nước trên thuộc 6 khu vực địa lý và trải đều khắp các châu lục,

cụ thể: Đông Á và Thái Bình Dương; Châu Âu và Trung Á; Mỹ Latinh và Caribbean;

Trung Đông và Bắc Phi; Bắc Mỹ; Châu Phi. Trong đó, chiếm đa số là các quốc gia thuộc

Châu Âu và Châu Á, bởi đây là 2 khu vực có nền kinh tế năng động, sôi nổi và luôn nhận

được nhiều sự quan tâm của thế giới. Vì vậy, kết quả nghiên cứu sẽ mang tính ảnh hưởng

và giá trị thực tiễn nhiều hơn.

Danh sách tôi trải dài từ những nước đang phát triển như Việt Nam đến những cường

quốc kinh tế như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Anh. Do đó tôi sẽ có cái nhìn tổng quát và

chính xác hơn về mối quan hệ giữa tinh thần khởi nghiệp với giáo dục dưới tác động của

mức độ phát triển tài chính so với bài nghiên cứu nền tảng mà tôi sử dụng trong nghiên

cứu này, đó là công trình “Entrepreneurship and human capital: The role of financial

development” của Dutta và Russell (2017) khi chỉ sử dụng 28 quốc gia.

47

Thu nhập cao Thu nhập trên trung bình Thu nhập trung bình thấp

Úc Trung Quốc Philippines

Hồng Kông, Trung Quốc Việt Nam Malaysia

Guatemala Thái Lan Nhật Bản

Bosnia và Herzegovina Ai Cập, Cộng hòa Ả Rập. Hàn Quốc

New Zealand Liên bang Nga Tunisia

Thổ Nhĩ Kỳ Singapore

Argentina Bỉ

Brazil Phần Lan

Colombia Pháp

Ecuador Đức

Jamaica Hungary

Mexico Iceland

Panama Ai-len

Peru Ý

Iran Hà Lan

Nam Phi Na Uy

Tây Ban Nha

Vương quốc Anh

Uruguay

Israel

Canada

Hoa Kỳ

Nguồn: Thống kê của tác giả

Bảng 3.2. Danh sách các nước sử dụng trong nghiên cứu

48

Về bộ dữ liệu mà tôi sử dụng, chi tiết về nguồn lấy dữ liệu được nêu trong bảng 3.3. Tất

cả dữ liệu của các biến số vĩ mô cơ bản được lấy từ WDI (World Development

Indicators). Riêng tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp mới được lấy từ cơ sở dữ liệu trực tuyến

Global Entusinessurship Monitor (GEM). Cơ sở dữ liệu Giám sát khởi nghiệp toàn cầu

(GEM) đã trở thành cơ sở dữ liệu được sử dụng rộng rãi nhất để đo lường tinh thần kinh

doanh do sự đa dạng của các quốc gia, khoảng thời gian, các biến số và sự chính xác của

dữ liệu. Ở mỗi quốc gia, một nhóm quốc gia bao gồm các tổ chức nghiên cứu hoặc học

thuật dẫn đầu việc thu thập dữ liệu để đảm bảo chất lượng và độ tin cậy. Ngoài ra, dữ liệu

của 3 biến đại diện cho mức độ phát triển tài chính được lấy từ cơ sở dữ liệu phát triển tài

chính toàn cầu GFDD (Global Financial Development Database).

49

Biến Nguồn dữ liệu

hiệu

Tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp mới Ent Global Entrepreneurship Monitor

Vốn nhân lực lành nghề World Development Indicators HC

Tín dụng tư nhân trên GDP FD1 Global Financial Development Database

Nợ có tính thanh khoản cao trên Global Financial Development FD2 GDP Database

Tiền gửi ngân hàng trên GDP FD3 Global Financial Development Database

Tổng sản phẩm quốc nội bình quân GDP World Development Indicators đầu người

Tỷ lệ dân số thành thị Urb World Development Indicators

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ FeM World Development Indicators so với nam

Tổng thu nhập quốc nội bình quân GNI World Development Indicators đầu người

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động LFPR World Development Indicators

Nguồn: Thống kê của tác giả

Bảng 3.3. Nguồn dữ liệu của các biến sử dụng trong mô hình

Với những dữ liệu thu thập được, tôi sử dụng dữ liệu bảng theo quốc gia – năm cho các

biến số. Đồng thời tiến hành ước lượng bằng phương pháp tác động cố định như đã đề

cập ở trên. Bởi các mô hình tác động cố định thường có trong phân tích của các quốc gia

hoặc khu vực, vì các tác động cố định cho phép hệ số chặn khác nhau trong mỗi quan sát

(Wooldridge, 2008, trang 452). Bên cạnh đó, tôi sử dụng phương pháp dữ liệu bảng kết

50

hợp các đơn vị chéo (thông tin từ nhiều cá thể tại một thời điểm nhất định) cho một số

điểm thời gian vì dữ liệu bảng có nhiều ưu điểm để ước lượng kinh tế lượng. Ví dụ, dữ

liệu bảng sẽ kiểm soát tính không đồng nhất của cá thể và thời gian, điều mà các biến

trong mô hình không thể đạt được. Hơn nữa, như Baltagi (2008, trang 7) khẳng định, dữ

liệu bảng cung cấp “thông tin nhiều dữ liệu hơn, độ biến thiên nhiều hơn, ít có cộng

tuyến giữa các biến, độ độc lập cao hơn và hiệu quả hơn”. Các đặc điểm chung của dữ

liệu bảng với các hiệu ứng cố định là:

𝐾 Yit = 𝑎𝑖𝑡 + ∑ 𝐾=1

(𝛽𝑘𝑖𝑡𝑋𝑘𝑖𝑡) + 𝑈𝑖𝑡

Trong đó: i là các quốc gia và t là khoảng thời gian. αit là một tham số đại diện cho các

hiệu ứng cụ thể của mỗi đơn vi chéo (cross-section); cụ thể là mỗi quốc gia. Tham số

này không đổi theo thời gian. Uit tập hợp các hiệu ứng bất kỳ của biến vắng mặt (absent

variables) đặc trưng cho đơn vị chéo và khoảng thời gian.

Do đó dữ liệu bảng của 43 quốc gia giai đoạn 2001 – 2015, cùng với phương pháp ước

lượng GMM hệ thống đã cung cấp phương tiện để tôi thực hiện ước lượng các mô hình

này một cách chính xác nhất.

51

KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM

4.1 Kết quả thực nghiệm và giải thích

4.1.1 Kết quả hồi quy phương trình (1)

Bảng 4.9 dưới đây là tóm tắt kết quả hồi quy mô hình SGMM của phương trình (1) cho

lần lượt từng biến phát triển tài chính là: tín dụng tư nhân, nợ có tính thanh khoản cao và

tiền gửi ngân hàng. Ba cột bên phải là kết quả hệ số hồi quy của phương trình ứng với 3

2 + 𝛽5 (FD*HC)it +

biến phát triển tài chính.

Phương trình (1): Ent it = 𝛽𝑜 + 𝛽1 Entit – 1 + 𝛽2 HCit + 𝛽3 FD it + 𝛽4 FD𝑖𝑡

𝛽6 𝑈𝑟𝑏𝑖 + 𝛽7 𝐹𝑒𝑀𝑡 + 𝛽8 LFPR + 𝛽9 ln GDP +𝛽10 ln GNI

Tín dụng tư nhân

Nợ có tính thanh

Tiền gửi ngân hàng

Biến độc lập

(FD1)

khoản cao (FD2)

(FD3)

Ent t – 1

HC

FD

FD2

FD* HC

Urb

FeM

LFPR

ln GDP

ln GNI

𝜷𝟎 0.4202 *** (0.000) 0.1131 *** (0.004) 0.1073 *** (0.000) -0.0002 *** (0.002) -0.0011 *** (0.001) -0.0198 (0.401) -0.0417 * (0.056) 0.1162 *** (0.000) 2.3726 (0.259) -2.7467 ** (0.038) -4.3108 (0.679) 0.3310 *** (0.000) 0.0271 ** (0.048) 0.0743 *** (0.000) -0.0003 *** (0.000) -0.0001 ** (0.023) 0.0157** (0.033) -0.0039* (0.094) 0.0495 * (0.058) -4.1279 *** (0.000) -0.1906 (0.558) 38.8205 *** (0.000) 0.2304 ** (0.017) 0.1268 *** (0.000) 0.1646 *** (0.000) -0.0003 ** (0.014) -0.0009 *** (0.004) -0.0638 ** (0.011) 0.0062 ** (0.022) 0.0362 * (0.050) -8.6659 *** (0.001) 1.5976 (0.159) 65.4041 *** (0.000)

52

Số quan sát 274 274 274

Hansen test (p_value) 0.566 0.608 0.233

AR(1) test (p_value) 0.001 0.009 0.007

AR(2) test (p_value) 0.944 0.997 0.977

***, **, * lần lượt là các ký hiệu thể hiện ý nghĩa tại mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%

Bảng 4.1. Kết quả hồi quy GMM phương trình (1)

Bảng trên đây là kết quả hồi quy GMM cho phương trình (1) với biến đại diện cho mức

độ phát triển tài chính là tín dụng tư nhân. Tôi đưa vào phương trình biến FD tuyến tính

và cả phi tuyến như đã đề cập ở phần phương pháp ước lượng để có một cái nhìn sâu sắc

và toàn diện hơn về tác động của biến này đối với tnh thần khởi nghiệp

Đầu tiên, kết quả hồi quy có Prob < F = 0,0000 cho thấy kết quả này phù hợp mức ý

nghĩa 1%. Kết quả kiểm định Hansen test có p_value > 10% đối với cả 3 thước đo phát

triển tài chính, do đó mô hình SGMM là phù hợp và không bị tự tương quan bậc 2, các

biến công cụ cũng phù hợp. Cùng với đó, kết quả kiểm định AR (1) test có p_value <

10% và AR(2) test có p_value > 10%, ta có thể suy ra được kết quả này đã khắc phục

hiện tượng tự tương quan.

Chúng ta dễ dàng nhìn thấy tất cả các biến độc lập trong phương trình (1) đều có ý nghĩa.

Trong đó, hệ số hồi quy của biến tinh thần khởi nghiệp với độ trễ 1 năm là dương và có ý

nghĩa cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp mới cao trong quá khứ sẽ dẫn đến tỷ lệ doanh nghiệp

mới cao hơn trong hiện tại. Tiếp tục, tôi thấy rằng tuyển sinh đại học cũng có tác động

tích cực và đáng kể đến tinh thần khởi nghiệp. Kết quả này giống với các nghiên cứu

trong quá khứ và hiện tại với quan điểm rằng vốn nhân lực lớn hơn giúp tăng cường khả

năng nhận thức và do đó, các cá nhân sẽ dễ dàng xác định các cơ hội sinh lời có thể có

dẫn đến gia tăng tỷ lệ khởi nghiệp (Schultz, 1959; Becker, 1964; Mincer, 1974;

Davidsson, 2003).

Các hệ số của biến phát triển tài chính tuyến tính và phi tuyến tính đều có ý nghĩa, hệ số

tác động tương đối lớn và trong đó biến FD thì tác động cùng chiều, biến FD2 tác động

ngược chiều với tinh thần khởi nghiệp, điều đó cho thấy rằng phát triển tài chính có mối

quan hệ lồi với tinh thần khởi nghiệp (như hình 4.1). Nghĩa là ở các quốc gia có mức độ

53

phát triển tài chính thấp hơn thì sự gia tăng biên của vốn khả dụng sẽ dẫn đến sự gia tăng

trong tinh thần khởi nghiệp, nhưng đối với các quốc gia có mức độ phát triển tài chính

cao hơn thì sự gia tăng biên của vốn khả dụng sẽ không còn làm tăng tinh thần khởi

16

14

12

10

8

nghiệp, thậm chí còn làm giảm số doanh nghiệp mới.

t n E

6

4

2

FD

0

0

100

200

300

400

500

600

-2

-4

Hình 4.1. Mối quan hệ giữa tinh thần khởi nghiệp và phát triển tài chính

Đối với nhóm biến kiểm soát - dân số thành thị (Urb), tỷ lệ tham gia lực lượng lao động

nữ so với nam (FeM), tỷ lệ tham gia lực lượng lao động (LFPR) đều có ý nghĩa với hầu

hết các thước đo phát triển tài chính, nhưng mức độ tác động không đáng kể. Đối với

GDP và GNI có giá trị khá lớn nên tôi sử dụng logarit để bộ dữ liệu đồng bộ và chính xác

hơn, tôi cũng thấy rằng GDP bình quân đầu người có tác động đáng kể đến tinh thần khởi

nghiệp nhưng chủ yếu là tác động ngược chiều. Tức là một quốc gia có GDP/GNI cao

hơn thì tinh thần khởi nghiệp lại giảm đi. Kết quả này có thể được giải thích là do chi phí

cơ hội của doanh nhân tăng lên khi nền kinh tế phát triển và do đó nhu cầu tự kinh doanh

nhỏ (khởi nghiệp dựa trên nhu cầu) giảm đi. Tuy nhiên, ta phải chú ý rằng hệ số này cho

thấy mức tăng GDP bình quân đầu người tác động đến tinh thần khởi nghiệp như thế nào

khi giữ các biến số khác không đổi như trình độ giáo dục và phát triển tài chính. Các

quốc gia có GDP bình quân đầu người cao hơn không liên quan đến trình độ giáo dục

hoặc phát triển tài chính cao hơn mà có thể là những quốc gia hưởng lợi bởi sự gia tăng

khác như tài nguyên thiên nhiên, từ đó không có tác động làm gia tăng tinh thần khởi

nghiệp như mong muốn, thậm chí làm giảm đi.

54

Ngoài ra, hệ số của biến tương tác FD*HC là âm và có ý nghĩa đối với tất cả các thước

đo phát triển tài chính. Đây là phát hiện về sự thay thế giữa phát triển tài chính và tuyển

sinh đại học, nhưng để đi sâu hơn vào các mối liên kết, tôi tiếp tục sử dụng các phân tích

tác động biên như trong Bảng 4.2.

Quốc gia

Quốc gia

Quốc gia

Thứ tự

Thứ tự

Thứ tự

(1)

(5)

(9)

Ước tính giá trị biên

Ước tính giá trị biên

Ước tính giá trị biên

Giá trị của FD1

Giá trị của FD2

Giá trị của FD3

(3)

(7)

(11)

(2)

(4)

(6)

(8)

(10)

(12)

0.0989

Argentina 11.84 10th

0.1001 Colombia 17.68 10th

0.1021 Việt Nam 12.89 10th

0.0581

37.11 50th

0.0723

Colombia 29.92 50th

0.0802 Hungary 43.26 50th

Nga

53.39 90th

0.0141

47.83 90th

0.0605

Phần Lan 52.53 90th

0.0553 Na Uy

Na Uy

Bảng 4.2. Tác động biên của tuyển sinh đại học đối với tinh thần khởi nghiệp ứng với 3

thước đo phát triển tài chính ở một số quốc gia

Để tìm hiểu sâu hơn, tôi tiếp tục ước tính các tác động cận biên dựa theo nghiên cứu

trước đây của Dutta và Sobel (2016), Dutta và Williamson (2016) và Asiedu, Jin và

Nandwa (2009). Đầu tiên, tôi ước tính giá trị FD ở tỷ lệ phần trăm thứ 10, 50 và 90 của

ba thước đo phát triển tài chính như trong cột (2), (6), (10). Như tôi đã đề cập ở phần

phương pháp ước lượng, các ước tính cận biên sẽ dựa trên phương trình là

= 𝛽2 +

δ Ent𝑖𝑡 δ HC𝑖𝑡

, cụ thể cột

δ Ent𝑖𝑡 δ HC𝑖𝑡

𝛽5 FDit. Lấy kết quả 𝛽2, 𝛽5từ bảng 4.1, tôi ước tính được giá trị biên

(4) trình bày các ước tính giá trị biên cho tín dụng tư nhân, cột (8) cho các khoản nợ có

tính thanh khoản cao và cột (12) cho tiền gửi ngân hàng.

Qua bảng 4.2, tôi đã tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ về mối quan hệ thay thế giữa tuyển

sinh đại học và phát triển tài chính. Các quốc gia có mức độ phát triển tài chính kém, khi

tuyển sinh đại học tăng thì tinh thần khởi nghiệp cũng sẽ tăng mạnh mẽ. Cụ thể giá trị thứ

10 của biến phát triển tài chính cho một quốc gia như Colombia, lợi ích của việc tăng

tuyển sinh đại học là tối đa khi chúng ta coi nợ có tính thanh khoản cao là thước đo của

sự phát triển tài chính. Nghĩa là ở Colombia khi tuyển sinh đại học tăng 1% thì tỷ lệ khởi

nghiệp sẽ tăng lên khoảng 10,2%. Đối với Hungary, khi gia tăng 1% tuyển sinh đại học

55

làm tăng khả năng kinh doanh lên khoảng 5,8%, thấp hơn khoảng 4,4% so với Colombia.

Điều này do Hungary có mức độ phát triển tài chính – nợ có tính thanh khoản cao cao

hơn so với Colombia. Tương tự đối với Việt Nam, giá trị tiền gửi ngân hàng đại diện cho

phát triển tài chính của Việt Nam thấp nhất trong 3 nước, nhưng lại có giá trị biên cao

nhất là 9,9%, tức là khi tăng 1% giáo dục đại học ở Việt Nam thì sẽ tăng 9,9% tỷ lệ khởi

nghiệp, tỷ lệ này cao hơn hẳn so với hai nước phát triển tài chính cao hơn là Nga và Na

Uy. Kết quả tương tự trong trường hợp biến phát triển tài chính là tín dụng tư nhân.

Do đó, kết quả mô hình trên cung cấp một đóng góp quan trọng cho mối quan hệ đan xen

và phức tạp giữa vốn nhân lực lành nghề và vốn tài chính bị bỏ qua trong các tài liệu

nghiên cứu trước đây. Trong trường hợp không có đủ vốn tài chính, các quốc gia được

hưởng lợi rất nhiều từ sự gia tăng tuyển sinh đại học, khi mà giáo dục đại học cung cấp

nhiều kỹ năng cần thiết giúp nhận biết nhiều cơ hội kinh doanh và do đó tỷ lệ sở hữu

doanh nghiệp mới tăng lên mạnh mẽ. Nhưng một khi sự phát triển tài chính được cải

thiện đối với các quốc gia, thì tác động của giáo dục trong việc thúc đẩy tinh thần khởi

nghiệp bị giảm đi và thậm chí là làm giảm tỷ lệ khởi nghiệp. Nói một cách đơn giản, tác

động của giáo dục đại học lên tỷ lệ khởi nghiệp mạnh nhất ở các quốc gia có mức độ vốn

khả dụng và phát triển tài chính thấp nhất.

Để thấy được mối quan hệ giữa vốn nhân lực và vốn tài chính cụ thể tại Việt Nam, tôi

đưa ra bảng tóm tắt dữ liệu của riêng Việt Nam (Bảng 4.3) về ba mức độ phát triển tài

δ Ent𝑖𝑡 δ HC𝑖𝑡

chính trong giai đoạn 2001 – 2015, đồng thời dựa theo phương trình tác động biên

= 𝛽2 + 𝛽5 FDit để tính toán giá trị biên tương ứng.

Giá trị biên

Giá trị biên

Giá trị biên

Năm

FD1

FD2

FD3

2001

35.61

0.0739

46.24

0.0622

8.76

0.1035

2002

39.5

0.0697

50.33

0.0577

9.14

0.1030

2003

43.19

0.0656

54.17

0.0535

9.61

0.1025

2004

50.74

0.0573

61.94

0.0450

11.01

0.1010

2005

53.57

0.0542

63.01

0.0438

11.01

0.1010

2006

59.16

0.0480

70.66

0.0354

11.6

0.1003

2007

69.64

0.0365

82.64

0.0222

13.73

0.0980

2008

78.17

0.0271

89.67

0.0145

13.53

0.0982

2009

88.31

0.0160

94.23

0.0094

12.89

0.0989

2010

100

0.0031

100.98

0.0020

12.94

0.0989

2011

98.38

0.0049

97.36

0.0060

11.18

0.1008

2012

91.08

0.0129

95.8

0.0077

10.76

0.1013

2013

91.75

0.0122

107.04

-0.0046

12.13

0.0998

2014

94.56

0.0091

117.35

-0.0160

13.47

0.0983

2015

102.79

0.0000

128.38

-0.0281

15.02

0.0966

56

Bảng 4.3. Tác động biên của tuyển sinh đại học đối với tinh thần khởi nghiệp ứng với 3

thước đo phát triển tài chính ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2015

Tương tư kết quả trên, khi giá trị phát triển tài chính tăng dần từ năm 2001 đến năm 2015

thì giá trị biên lại giảm dần, đỉnh điểm là vào năm 2015 khi FD1 (tín dụng tư nhân) đạt

mức tối đa 102,79% thì giá trị biên giảm còn 0%, tức là khi tăng giáo dục đại học lên 1%

thì tỷ lệ khởi nghiệp không hề tăng (0%). Thậm chí, khi biến FD2 (nợ có tính thanh

khoản) tăng mạnh lên 128.38% (năm 2015) thì giá trị biên giảm về giá trị âm (- 0.0281),

tức là khi giáo dục đại học tăng 1% ta thấy tỷ lệ khởi nghiệp không những không tăng mà

còn giảm đi 2,81%.

δEnt/δHC

0.0800

0.0700

0.0600

0.0500

0.0400

0.0300

0.0200

0.0100

FD1

0.0000

0

20

40

60

80

100

120

Hình 4.2. Mối quan hệ giữa tín dụng tư nhân và giá trị biên giữa tinh thần khởi nghiệp và

giáo dục đại học tại Việt Nam giai đoạn 2001 – 2015

57

4.1.2 Kết quả hồi quy phương trình (2)

Để kết quả nghiên cứu được vững chắc và toàn diện hơn, tôi kiểm tra lại kết quả trên khi

thêm vào biến tuyển sinh đại học phi tuyến tính. Cụ thể, tôi thực hiện hồi quy GMM với

2 + 𝛽6

phương trình (2) tương tự phương trình (1) nhưng có thêm biến HC2.

Phương trình (2): Ent it = 𝛽𝑜 + 𝛽1 Entit – 1 + 𝛽2 HCit + 𝛽3 HC2 + 𝛽4 FD it + 𝛽5 FD𝑖𝑡 (FD*HC)it + 𝛽7 𝑈𝑟𝑏𝑖 + 𝛽8 𝐹𝑒𝑀𝑡 + 𝛽9 LFPR + 𝛽10 ln GDP +𝛽11 ln GNI

Biến độc lập

Tín dụng tư nhân (FD1)

Nợ có tính thanh khoản cao (FD2)

Tiền gửi ngân hàng (FD3)

Ent t – 1 0.3417*** 0.2442 *** 0.0761*

HC 0.1476** 0.1650 *** 0.4470***

FD 0.0851* 0.0726 ** 0.1410***

FD2 -0.0003** -0.0002*** -0.0003**

FD* HC -0.0004* -0.0001** -0.0007***

HC2 -0.0006* -0.0008** -0.0021**

Urb -0.0058 -0.0130* -0.0722

FeM -0.0226* -0.0126 -0.0923**

LFPR 0.1071** 0.0721** 0.1904*

ln GDP -4.6165*** -4.6984** -8.3851

ln GNI -0.2564 -0.4745*** -0.6519**

40.1453 44.0581* 74.0163 𝜷𝟎

274 0.507 0.022 0.934 274 0.570 0.004 0.845

274 Số quan sát 0.536 Hansen test (p_value) 0.020 AR(1) test (p_value) 0.827 AR(2) test (p_value) ***, **, * lần lượt là các ký hiệu thể hiện ý nghĩa tại mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.

Bảng 4.4. Kết quả hồi quy GMM phương trình (2)

58

Một lần nữa, tôi kiểm tra lại kết quả trên khi đưa vào phương trình (2) biến tuyển sinh đại

học phi tuyến tính HC2 cho cả ba thước đo phát triển tài chính. Dựa trên các kết quả trong

Bảng 4.4, kết luận chính của nghiên cứu vẫn không thay đổi. Cả hai biến tuyến tính và

phi tuyến tính của tuyển sinh đại học đều có ý nghĩa đối với cả ba thước đo. Trong khi

biến tuyến tính là dương, thì biến phi tuyến tính là âm. Điều này ngụ ý rằng tuyển sinh

đại học có mối quan hệ lồi với tinh thần kinh doanh. Tác động của việc tuyển sinh đại

học giảm dần ở các cấp cao hơn, điều này hỗ trợ cho những phát hiện còn tồn tại trong tài

liệu như đã nêu trong phần Giới thiệu. Đồng thời, hệ số biến tương tác FD*HC tiếp tục

âm và có ý nghĩa đối với cả ba biện pháp. Điều này lại chứng minh biến phát triển tài

chính có mối quan hệ lồi với tinh thần kinh doanh cho tất cả các biện pháp, một lần nữa

làm vững chắc hơn kết quả của phương trình (1).

Tác động biên của tuyển sinh đại học lên tinh thần khởi nghiệp theo mức độ phát triển tài

chính tiếp tục được thể hiện qua phương trình sau:

= 𝛽2 + 2𝛽3 HCit + 𝛽6 FDit.

δ Ent𝑖𝑡 δ HC𝑖𝑡

Thay các hệ số hồi quy từ bảng 4.4 vào ta có thể thấy rằng mức độ tuyển sinh đại học

thấp thì sẽ không mang lại lợi ích gì cho tinh thần khởi nghiệp ngay cả khi sự phát triển

tài chính trở nên tốt hơn. Do đó, các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người dưới mức

trung bình thường được hưởng lợi nhiều hơn trong việc gia tăng tinh thần khởi nghiệp từ

sự gia tăng vốn nhân lực lành nghề và kinh nghiệm làm việc so với các quốc gia có thu

nhập bình quân đầu người cao hơn trung bình.

4.2 Các kiểm định cho mô hình hồi quy GMM

4.2.1 Kiểm định đa cộng tuyến

Với tiêu chí (VIF < 10) cho thấy tất cả các biến đều không xảy ra hiện đa cộng tuyến và

phù hợp để đưa vào mô hình.

59

Variable VIF SQRT VIF Tolerance R- Squared

1.54 2.36 0.4234 0.5766 Ent

1.67 2.79 0.3579 0.6421 HC

1.59 2.53 0.3955 0.6045 FD1

2.55 6.49 0.1540 0.8460 FD2

2.42 5.84 0.1713 0.8287 FD3

2.59 6.73 0.1485 0.8515 ln GDP

1.69 2.85 0.3511 0.6489 ln GNI

1.56 2.42 0.4132 0.5868 FeM

1.55 2.40 0.4170 0.5830 LFPR

3.82 Mean VIF

Bảng 4.5. Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến

4.2.2 Kiểm định hiện tượng tự tương quan

Wooldridge test for autocorrelation in panel data

H0: no first-order autocorrelation

F (1, 29) = 0.326

Prob > F = 0.5725

Với p-value > 0,01, tức là chấp nhận giả thuyết H0, do đó không có hiện tượng tự tương

quan giữa các biến trong mô hình.

Từ những kiểm định trên ta thấy hồi quy GMM phương trình (1) không mắc phải hiện

tượng đa cộng tuyến và tự tương quan. Đồng thời, tôi không kiểm định hiện tượng

phương sai thay đổi cũng như không kiểm định hiện tượng nội sinh cho từng biến vì khi

sử dụng dữ liệu bảng và sử dụng phương pháp ước lượng GMM, tôi đã khắc phục được

60

hiện tượng phương sai thay đổi lẫn hiện tượng nội sinh của các biến chính trong mô hình.

Thậm chí ngay cả trong điều kiện giả thiết nội sinh bị vi phạm, phương pháp GMM vẫn

cho ra các hệ số ước lượng vững, không chệch và hiệu quả.

4.3 Thảo luận kết quả thực nghiệm

Từ kết quả trên ta có thể trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu ở phần I như sau:

Thứ nhất, giáo dục và mức độ phát triển tài chính đều có tác động lên tinh thần khởi

nghiệp của một quốc gia. Cụ thể, biến giáo dục có tác động cùng chiều với tinh thần

khởi nghiệp, tức là khi tỷ lệ tuyển sinh đại học (đại diện cho trình độ giáo dục của một

quốc gia) tăng lên thì tỷ lệ khởi nghiệp của quốc gia đó cũng tăng lên và ngược lại. Tỷ lệ

tuyển sinh đại học ở đây thể hiện các yếu tố như trình độ học vấn, kiến thức, kỹ năng,

kinh nghiệm. Quả thật vậy, Schultz (1959), Becker (1964), Mincer (1974); Davidsson

(2003) cũng cho rằng vốn nhân lực lớn hơn giúp tăng cường khả năng nhận thức và do

đó, các cá nhân sẽ có đánh giá tốt hơn và nhạy bén hơn trong việc xác định các cơ hội

sinh lời có thể tồn tại của một dự án khởi nghiệp, từ đó tinh thần khởi nghiệp của quốc

gia sẽ tăng lên. Kết quả này tiếp tục hỗ trợ và tăng tính vững chắc cho kết quả của những

tác giả trước đó như Haber và Reichel (2007), Cassar (2006), Van der Sluis et al., (2005),

Bosma et.al., (2004).

Bên cạnh đó, mức độ phát triển tài chính của một quốc gia cũng ảnh hưởng đến tinh thần

khởi nghiệp của quốc gia đó. Ba thước đo để đo lường mức độ phát triển tài chính được

nhắc đến trong nghiên cứu này là: tín dụng tư nhân, nợ có tính thanh khoản cao và tiền

gửi ngân hàng đều có ý nghĩa và chúng đều tác động cùng chiều với tinh thần khởi

nghiệp, khi tăng một trong ba yếu tố trên (hoặc cả ba) thì tỷ lệ doanh nghiệp mới của một

quốc gia cũng theo đó mà tăng lên và ngược lại. Mặc dụ trước đây có các nghiên cứu của

Gwartney, Holcombe và Lawson (2006); Bowen và Clercq (2007) từng nghiên cứu về

vốn tài chính với tinh thần kinh doanh nhưng cũng chưa làm rõ tác động của từng yếu tố

cụ thể đại diện cho mức độ phát triển tài chính như trong nghiên cứu này. Do đó đây là

một phát hiện mới và có thể khai thác tiếp tục trong những nghiên cứu sau này.

Thứ hai, mức độ phát triển tài chính có tác động phi tuyến tính đến tinh thần khởi

nghiệp. Theo kết quả mô hình, hệ số hồi quy của cả ba biến phát triển tài chính phi tuyến

tính đều âm, trong khi biến phát triển tài chính tuyến tính có hệ số dương, mối quan hệ

61

của biến phát triển tài chính và tỷ lệ khởi nghiệp có dạng hàm số lồi. Cho thấy ở các quốc

gia có mức độ phát triển tài chính thấp thì sự gia tăng của vốn tài chính sẽ dẫn đến sự gia

tăng trong tinh thần khởi nghiệp, nhưng khi một quốc gia có mức độ phát triển tài chính

cao hơn thì sự tác động của sự gia tăng của vốn tài chính lên tinh thần khởi nghiệp sẽ

giảm dần, đến một mức độ nhất định sẽ không còn làm tăng tinh thần khởi nghiệp, thậm

chí còn làm giảm tỷ lệ doanh nghiệp mới hình thành.

Thứ ba, mức độ phát triển tài chính sẽ ảnh hưởng lớn đến sự tác động của nguồn vốn

nhân lực lên tinh thần khởi nghiệp. Cụ thể hơn, đối với một quốc gia có mức độ phát

triển tài chính cao, thì sự tăng lên của giáo dục không còn làm tinh thần khởi nghiệp tăng

lên nữa và thậm chí là giảm đi. Trong trường hợp không có đủ vốn tài chính, các quốc gia

được hưởng lợi rất nhiều từ sự gia tăng tuyển sinh đại học, khi mà giáo dục đại học cung

cấp nhiều kỹ năng cần thiết giúp nhận biết nhiều cơ hội kinh doanh và do đó tỷ lệ sở hữu

doanh nghiệp mới tăng lên mạnh mẽ. Nhưng một khi sự phát triển tài chính được cải

thiện đối với các quốc gia, thì tác động của giáo dục trong việc thúc đẩy tinh thần khởi

nghiệp bị giảm đi và thậm chí là làm giảm tỷ lệ khởi nghiệp. Nói một cách đơn giản, tác

động của giáo dục đại học lên tỷ lệ khởi nghiệp mạnh nhất ở các quốc gia có mức độ vốn

khả dụng và phát triển tài chính thấp nhất.

Cuối cùng là ở những nước đang phát triển – có thu nhập thấp hơn mức trung bình,

để tăng tỷ lệ khởi nghiệp thì nên tập trung cải thiện giáo dục hơn là tập trung vào phát

triển tài chính. Bởi vì đối với nhiều nước đang phát triển, việc có cả lĩnh vực tài chính

mạnh và mức vốn con người cao có thể khó xảy ra do hạn chế về nguồn lực. Theo kết

quả nghiên cứu trên ta có thể thấy rằng đối với các nước này mức độ tuyển sinh đại học

thấp thì sẽ không mang lại lợi ích gì cho tinh thần khởi nghiệp ngay cả khi sự phát triển

tài chính trở nên tốt hơn. Do đó, các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người dưới mức

trung bình thì sự gia tăng vốn nhân lực lành nghề và kinh nghiệm làm việc sẽ làm tăng

tinh thần khởi nghiệp nhiều hơn so với các quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao

hơn trung bình. Đây cũng là một phát hiện mới mẻ và có nhiều khía cạnh khác để khai

thác sâu hơn cho các nghiên cứu sau này.

62

4.4 Các đề xuất từ kết quả nghiên cứu

Kết quả bài nghiên cứu này cho thấy, đối với những nước đang phát triển như Việt Nam,

thì việc gia tăng chất lượng vốn nhân lực, cụ thể là đầu tư cho giáo dục sẽ thúc đẩy tinh

thần khởi nghiệp mạnh hơn là đầu tư cho vốn tài chính. Do đó, vấn đề tôi muốn đề xuất

chính là nhà nước nên có nhiều chính sách để khuyến khích tinh thần khởi nghiệp ngay từ

khi còn là sinh viên, đưa giáo dục khởi nghiệp vào trường học, vào giáo dục chính thức,

chứ không chỉ dừng lại ở những lớp học khởi nghiệp không chính thức, không thường

xuyên và không chất lượng đang tràn lan ngoài thị trường lao động như hiện tại.

Thứ hai, giảng viên nên được chủ động trong chương trình giảng dạy, có khả năng tự

nghiên cứu khoa học để tìm ra phương pháp giảng dạy khởi nghiệp tối ưu, tạo môi trường

cho SV nghiên cứu một phát kiến mới ngay trong lớp học và thực hành như 1 dự án khởi

nghiệp thực tế.

Ngoài ra, đầu vào giáo dục ảnh hưởng tới đầu ra vốn nhân lực, tạo nền tảng kiến thức,

hình thành các kỹ năng, khả năng và thái độ cho sự lựa chon nghề nghiệp tương lai. Khởi

nghiệp cần đam mê, tuy nhiên để thành công thì cần có khả năng thực sự để biến đam mê

thành hành động. Do đó, hệ sinh thái khởi nghiệp nên để giáo dục làm chủ.

Cuối cùng, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy ở những nước đang phát triển – có thu nhập

thấp hơn mức trung bình chẳng hạn như Việt Nam, để tăng tỷ lệ khởi nghiệp thì nên tập

trung cải thiện giáo dục hơn là tập trung vào phát triển tài chính. Đối với Việt Nam, mức

độ tuyển sinh đại học thấp thì sẽ không mang lại lợi ích gì cho tinh thần khởi nghiệp ngay

cả khi sự phát triển tài chính trở nên tốt hơn. Do đó, tôi đề xuất Việt Nam nên chú trọng

gia tăng vốn nhân lực lành nghề và kinh nghiệm làm việc, điều đó sẽ làm tăng tinh thần

khởi nghiệp nhiều hơn là tập trung đẩy mạnh phát triển tài chính.

Theo bài viết về Khởi nghiệp của Khu Công Nghệ Phần Mềm ĐHQG TP.Hồ Chí Minh,

Phần Lan luôn được xem là trung tâm khởi nghiệp công nghệ hàng đầu thế giới. Start up

tại Phần Lan không chỉ nổi tiếng với những start – up kiểu giải trí như những chú Angry

Birds mà còn là sự phát triển của hàng chục start – up trong lĩnh vực giáo dục với trị giá

của mỗi Start – up lên có thể lên tới hàng tỷ USD. Nguyên nhân của sự phát triển mạnh

mẽ trong khởi nghiệp này là Chính phủ Phần Lan tập trung hỗ trợ và khuyến khích khởi

63

nghiệp trong sinh viên, chủ yếu là lĩnh vực công nghệ. Các start – up còn được hỗ trợ

bằng những nghiên cứu khoa học từ chính các trường đại học ở nước này. Tại đây, hầu

hết giảng viên đều có thể chủ động chương trình mình dạy và đều có khả năng tự nghiên

cứu khoa học. Họ có thể thúc đẩy nghiên cứu một phát kiến mới ngay trong lớp học và

nhân rộng nó ra thành một dự án khởi nghiệp thực tế. Chính vì vậy, hệ sinh thái giáo dục

của Phần Lan sẽ do giáo dục làm chủ.

Hệ thống giáo dục ảnh hưởng tới nền tảng kiến thức, sự hình thành các kỹ năng, khả năng

và thái độ cho sự lựa chon nghề nghiệp tương lai. Bới vì các quyết định này cần thiết cho

tương lai các cá nhân, trường học cần có trách nhiệm hình thành và khơi mở cho sinh

viên các lựa chọn nghề nghiệp trong phạm vi rộng trong đó bao gồm khởi nghiệp. Vì

vậy, tôi đề xuất nền giáo dục nước ta cũng nên đưa các môn học về kinh doanh và có

những chương trình giảng dạy có thể phát triển những ý tưởng khởi nghiệp của sinh viên.

Hansemark (1998) cho rằng giáo dục truyền thống được xem chỉ là sự chuyển đổi giữa

kiến thức và các kỹ năng, trong khi giáo dục khởi nghiệp thì ngược lại, được biết đến như

là mô hình thay đổi thái độ và động cơ. Hai trong số điều kiện tiên quyết cho thành công

khi bắt đầu kinh doanh mới đó là sự khát khao và năng lực thực hiện. Khởi nghiệp cần

đam mê, tuy nhiên để thành công thì cần có khả năng thực sự để biến đam mê của mình

thành hành động. Đó chính là vai trò của giáo dục.

64

KẾT LUẬN

5.1 Kết luận chung

Công trình của tôi dựa trên ý tưởng của bài nghiên cứu “Entrepreneurship and human

capital: The role of financial development” của Nabamita Dutta và Russell S. Sobel

(2017). Bài nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích mối quan hệ của tinh thần khởi

nghiệp và vốn con người dưới ảnh hưởng của kênh phát triển tài chính ở Việt Nam cùng

một số quốc gia khác trên thế giới. Qua đó, khẳng định vai trò quan trọng của giáo dục

trong việc thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp đối với những quốc gia có mức độ phát triển tài

chính chưa cao.

Tôi lựa chọn một mẫu gồm 43 quốc gia (trong đó có Việt Nam) để nghiên cứu. Dữ liệu

được sử dụng là dữ liệu bảng được lấy từ nguồn WDI, GEM, GFDD trong giai đoạn năm

2001 – 2015. Tôi sử dụng phương pháp ước lượng là phương pháp hồi quy GMM hệ

thống, bên cạnh đó là các kiểm định liên quan như tự tương quan, đa cộng tuyến để kết

quả nghiên cứu đảm bảo tính vững chắc.

Sau khi tôi chạy hồi quy mô hình GMM, kết quả thu được cho thấy giáo dục và mức độ

phát triển tài chính đều có tác động đáng kể lên tinh thần khởi nghiệp của một quốc gia.

Bên cạnh đó, mức độ phát triển tài chính có tác động phi tuyến tính đến tinh thần khởi

nghiệp. Nghĩa là ở các quốc gia có mức độ phát triển tài chính thấp thì sự gia tăng của

vốn tài chính sẽ dẫn đến sự gia tăng trong tinh thần khởi nghiệp, nhưng khi một quốc gia

có mức độ phát triển tài chính cao hơn thì sự tác động của sự gia tăng của vốn tài chính

lên tinh thần khởi nghiệp sẽ giảm dần, đến một mức độ nhất định sẽ không còn làm tăng

tinh thần khởi nghiệp, thậm chí còn làm giảm tỷ lệ doanh nghiệp mới hình thành. Ngoài

ra, mức độ phát triển tài chính sẽ ảnh hưởng lớn đến sự tác động của nguồn vốn nhân lực

lên tinh thần khởi nghiệp. Cụ thể, tác động của giáo dục đại học lên tỷ lệ khởi nghiệp

mạnh nhất ở các quốc gia có mức độ vốn khả dụng và phát triển tài chính thấp nhất và

ngược lại. Cuối cùng là ở những nước đang phát triển – nước có thu nhập thấp hơn mức

trung bình, để tăng tỷ lệ khởi nghiệp thì nên tập trung cải thiện giáo dục hơn là tập trung

vào phát triển tài chính.

65

5.2 Các hạn chế của bài nghiên cứu và hướng nghiên cứu sắp tới

Bài nghiên cứu của tôi vẫn còn tồn tại những hạn chế khách quan trong quá trình thực

hiện. Do giới hạn về thời gian nghiên cứu nên tôi còn hạn chế về mẫu dữ liệu, số lượng

mẫu chưa đủ lớn. Ngoài ra vì việc thu thập số liệu còn khó khăn do dữ liệu của các quốc

gia không đầy đủ, vì vậy các biến số đưa vào mô hình vẫn chưa là những đại lượng đo

lường hoàn hảo trong việc xem xét mối quan hệ giữa vốn nhân lực, tinh thần khởi nghiệp,

phát triển tài chính. Dữ liệu về tỷ lệ doanh nghiệp mới, tỷ lệ tuyển sinh đại học hoặc ba

thước đo phát triển tài chính như tín dụng tư nhân, nợ có tính thanh khoản cao và tiền gửi

ngân hàng có thể chưa chính xác và phản ánh đầy đủ ý nghĩa của các biến chính. Mặc dù

sử dụng các biến trên là tương đối phù hợp và là một cách để tận dụng nguồn dữ liệu có

sẵn, nhưng rõ ràng có cơ hội để cải thiện trong các nghiên cứu sau này. Tôi khuyến khích

các nghiên cứu trong tương lai xem xét các phương pháp đo lường khác, chẳng hạn như

ngành học hoặc sự đa dạng của vốn con người (ví dụ: kinh nghiệm làm việc, kỹ thuật,

nghệ thuật tự do, khoa học tự nhiên hoặc xã hội, bằng cấp khoa học, …); về biến tinh

thần khởi nghiệp có thể sử dụng các thước đo khác như hệ số khởi nghiệp TEA. Bên cạnh

đó, mẫu dữ liệu tìm cho Việt Nam và các nước trong khoảng thời gian chưa được cập

nhật đến hiện tại nên có thể chưa phản ánh đúng hoàn toàn nền kinh tế cũng như tình

hình đổi mới ở nước ta trong giai đoạn gần đây nhất. Do đó, các bài nghiên cứu mở rộng

sau này có thể thu thập mẫu dữ liệu lớn hơn với thời gian quan sát dài hơn, và tìm ra

những thước đo chính xác hơn cho vốn nhân lực, vốn tài chính và tinh thần khởi nghiệp

nhằm tìm kiếm mối quan hệ đa chiều và chính xác hơn của ba yếu tố trên. Bài nghiên cứu

này được thực hiện trong thời gian ngắn nên những hạn chế và thiếu sót là không thể

tránh khỏi. Nếu có thời gian dài hơn, tôi sẽ cải thiện những thiếu sót trên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Alvarez, S.A. & Barney, J.B. (2007). Discovery and creation: Alternative theories of

entrepreneurial action. Strategic Entrepreneurship Journal, 1(1), 11–26.

Ardichvili, A., Cardozo, R., & Ray, S. (2003). A theory of entrepreneurial opportunity

identification and development. Journal of Business Venturing, 18(1), 105–123.

Baum J.A.C. and B.S. Silverman. 2004. “Picking winners or building them?, Alliance,

intellectual, and human capital as selection criteria in venture financing and

performance of biotechnology startups”. Journal of Business Venturing, 19, 411–

436

Baumol, W. 2004. “Education for inovation: entrepreneurial breakthroughs vs. corporate

incremental improvements”. Cambridge, MA: NBER Working Paper 10578.

Becker, G., 1964. Human Capital. Columbia University Press, New York.

Becker, G.S. (1964). Human capital: A theoretical analysis with special reference to

education. New York: National Bureau for Economic Research, Columbia

University Press.

Bosma, N.S., C.M. van Praag, A.R. Thurik and G. de Wit. 2004. “The value of human

and social capital investments for the business performance of startups”. Small

Business Economics, 23, 227–236

Bradley, S.W., McMullen, J.S., Artz, K., & Simiyu, E.M. (2012). Capital is not enough:

Innovation in developing economies. Journal of Management Studies, 49(4), 684–

717.

Bruns, V., Holland, D.V., Shepherd, D.A., & Wiklund, J. (2008). The role of human

capital in loan officers’ decision policies. Entrepreneurship Theory and Practice,

32(3), 485–506.

Cassar, G. 2006. “Entrepreneur opportunity cost and intended venture growth”. Journal

of Business Venturing, 21, 610-632

Cassar, G. 2006. “Entrepreneur opportunity cost and intended venture growth”. Journal

of Business Venturing, 21, 610-632

Christensen, C. 1997. The Innovator's Dilemma: When New Technologies Cause Great

Firms to Fail. Boston, Mass.: Harvard Business School Press.

Corbett, A.C. (2007). Learning asymmetries and the discovery of entrepreneurial

opportunities. Journal of Business Venturing, 22(1), 97–118.

Davidsson Per. 2003. The Domain Of Entrepreneurship Research: Some Suggestions, in

Jerome A. Katz, Dean A. Shepherd (ed.) Cognitive Approaches to

Entrepreneurship Research (Advances in Entrepreneurship, Firm Emergence and

Growth, Volume 6) Emerald Group Publishing Limited 315 – 372

Dimov, D. (2010). Nascent entrepreneurs and venture emergence: Opportunity

confidence, human capital, and early planning. Journal of Management Studies,

47(6), 1123–1153.

Fayolle, A., Gailly, B., Lassas-Clerc, N. 2006. “Assessing the impact of entrepreneurship

education programmes: a new methodology”. Journal of European Industrial

Training, 30 (9), 701–720.

Garalis, A. and G. Strazdiene. 2007. “Entrepreneurial skills development via simulation

business enterprise”. Social Research, 2 (10), 39–48.

Graevenitz Georg Von, Dietmar Harhoff and Richard Weber. 2010. “The Effects of

Entrepreneurship Education”. Journal of Economic Behavior and Organization,

76 (1), 90-112.

Haber S. and A. Reichel. 2007. “The cumulative nature of the entrepreneurial process:

the contribution of human capital, planning and environmental resources to small

venture performance”. Journal Business Venturing, 22, 119–145

Israel Kirzner (1973). Perception, Opportunity and Profit: Studies in the Theory of

Entrepreneurship. Journal of Behavioral Economics, vol. 8, issue 2, 183-188

Lumpkin, G.T. & Dess, G.G. (1996). Clarifying the entrepreneurial orientation construct

and linking it to performance. Academy of Management Review, 21(1), 135–172.

Martin, B., J. McNally and M. Kay. 2013. “Examining the formation of human capital in

entrepreneurship: A meta-analysis of entrepreneurship education outcomes”.

Journal of Business Venturing, 28, 211-224.

Martin, B., J. McNally and M. Kay. 2013. “Examining the formation of human capital in

entrepreneurship: A meta-analysis of entrepreneurship education outcomes”.

Journal of Business Venturing, 28, 211-224.

Marvel, M.R. (2013). Human capital and search-based discovery: A study of high-tech

entrepreneurship. Entrepreneurship Theory and Practice, 37(2), 403–419.

Matthew R. Marvel, Justin L. Davis, Curtis R. Sproul (2014). Human Capital and

Entrepreneurship Research: A Critical Review and Future Directions”.

Entrepreneurship Theory and Practice, Vol. 40, Issue 3, pp. 599-626.

Mentoor, E. and C. Friedrich. 2007. “Is Entrepreneurial Education at South African

Universities successful? An empirical example”, Industry and Higher Education,

21,231–232.

Mincer, J. (1958). Investment in human capital and personal income distribution. Journal

of Political Economy, 66(4), 281–302.

Mincer, J. (1974). Schooling, Experience, and Earnings. National Bureau of Economic

Research, Columbia University Press, New York.

Nabamita Dutta, Sobel, R.S. Entrepreneurship and human capital: The role of financial

development. International Review of Economics and Finance, 2017.

Oosterbeek, H., M. van Praag and A. Ysselstein. 2010. “The impact of entrepreneurship

education on entrepreneurship skills and motivation”, European Economic

Review, 54 (3), 442–454.

Paul M. Romer (1990). Endogenous Technological Change. Journal of Political

Economy, vol. 98, no.5, pt. 2.

Schultz, T.W. (1961). Investment in human capital. The American Economic Review,

51(1), 1–17.

Schultz, Theodore W. 1959. “Investment in Man: An Economist's View”. Social Science

Review, 33(2), 109-117

Shane, S. (2000). Prior knowledge and the discovery of entrepreneurial opportunities.

Organization Science, 11(4), 448–469.

Unger, J.M., Rauch, A., Frese, M., & Rosenbusch, N. (2011). Human capital and

entrepreneurial success: A meta-analytical review. Journal of Business Venturing,

26(3), 341–358.

Unger, J.M., Rauch, A., Frese, M., & Rosenbusch, N. (2011). Human capital and

entrepreneurial success: A meta-analytical review. Journal of Business Venturing,

26(3), 341–358.

Van der Sluis J., C.M. Van Praag and W. Vijverberg. 2005. “Entrepreneurship, selection

and performance: a meta-analysis of the role of education”. World Bank Economic

Review, 19 (2), 225–261.

Zacharakis, A.L. & Meyer, G.D. (2000). “The potential of actuarial decision models: Can

they improve the venture capital investment decision?”. Journal of Business

Venturing, 15(4), 323–346.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Ma trận tương quan

Ent HC FD1 FD2 FD3 GDP Urb FeM GNI LFPR

1.0000 s Ent

1.0000 HC

FD1

1.0000 FD2

1.0000 FD3

1.0000 GDP

1.0000 Urb

1.0000 FeM

1.0000 GNI

1.0000 LFPR -0.3943* (0.0000) -0.2304** (0.0000) -0.1932* (0.0000) -0.3187* (0.0000) -0.4935* (0.0000) -0.3510* (0.0000) 0.2304* (0.0000) -0.4503** (0.0000) 0.2580* (0.0000) 0.3544* (0.0000) 0.0852* (0.0601) 0.2096** (0.0000) 0.7091* (0.0000) 0.5881 (0.0000) 0.2229* (0.0000) 0.6284 (0.0000) -0.0029 (0.9474) 1.0000 0.7348* (0.0000) 0.6759* (0.0000) 0.5688** (0.0000) 0.2827** (0.0000) 0.3362* (0.0000) 0.5169* (0.0000) 0.2495* (0.0000) 0.9118** (0.0000) 0.4164* (0.0000) 0.2370** (0.0000) 0.1729** (0.0000) 0.3227** (0.0000) 0.0226 (0.5718) 0.5085* (0.0000) 0.3997* (0.0000) 0.0656 (0.1041) 0.3985** (0.0000) -0.0619 (0.1252) 0.6482** (0.0000) 0.2581* (0.0000) 0.9277* (0.0000) 0.1669** (0.0000) 0.1546* (0.0001) 0.5577* (0.0000) 0.1547* (0.0001) 0.3043* (0.0000) 0.6923* (0.0000) 0.2882* (0.0000)

Phụ lục 2: Tên biến và nguồn dữ liệu

Biến Nguồn dữ liệu

Tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp mới Global Entrepreneurship Monitor

Vốn nhân lực lành nghề World Development Indicators

Tín dụng tư nhân trên GDP Global Financial Development Database

Global Financial Development Nợ có tính thanh khoản cao trên GDP Database

Tiền gửi ngân hàng trên GDP Global Financial Development Database

Tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người World Development Indicators

Tỷ lệ dân số thành thị World Development Indicators

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ so với World Development Indicators nam

Tổng thu nhập quốc nội bình quân đầu người World Development Indicators

Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động World Development Indicators

Global Entrepreneurship Monitor TEA

Phụ lục 3: Kết quả hồi quy GMM phương trình (1) với FD1 - Tín dụng tư nhân

Tóm tắt phương trình (1) – FD1:

2 + 𝛽5 (FD1*HC)it + 𝛽6 𝑈𝑟𝑏𝑖 + 𝛽7

Ent it = 𝛽𝑜 + 𝛽1 Entit – 1 + 𝛽2 HCit + 𝛽3 FD1 it + 𝛽4 FD𝑖𝑡

𝐹𝑒𝑀𝑡 + 𝛽8 LFPR + 𝛽9 Ln GDP +𝛽10 Ln GNI

Biến độc lập Hệ số ước lượng P - value

Ent t – 1 0.4202 *** 0.000

HC 0.1131 *** 0.004

FD1 0.1073 *** 0.000

𝟐 𝑭𝑫𝟏

-0.0002 *** 0.002

FD1* HC -0.0011 *** 0.001

Urb -0.0198 0.401

FeM -0.0417 * 0.056

LFPR 0.1162 *** 0.000

Ln GDP 2.3726 0.259

Ln GNI -2.7467 ** 0.038

-4.3108 0.679 𝜷𝟎

Số quan sát 274

Hansen test 19.29 0.566

AR(1) test -3.38 0.001

AR(2) test -0.07 0.944

***, **, * lần lượt là các ký hiệu thể hiện ý nghĩa tại mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.

Phụ lục 4: Kết quả hồi quy GMM phương trình (1) với FD2 – Nợ có tính thanh

khoản cao

2 + 𝛽5 (FD2*HC)it + 𝛽6 𝑈𝑟𝑏𝑖 + 𝛽7

Tóm tắt phương trình (1) – FD2:

Ent it = 𝛽𝑜 + 𝛽1 Entit – 1 + 𝛽2 HCit + 𝛽3 FD2 it + 𝛽4 FD2 𝑖𝑡 𝐹𝑒𝑀𝑡 + 𝛽8 LFPR + 𝛽9 Ln GDP +𝛽10 Ln GNI

Biến độc lập Hệ số ước lượng P - value

Ent t – 1 0.3310 *** 0.000

HC 0.0271 ** 0.048

FD2 0.0743 *** 0.000

𝟐 𝑭𝑫𝟐

-0.0003 *** 0.000

FD2* HC -0.0001 ** 0.023

Urb 0.0157** 0.033

FeM -0.0039* 0.094

LFPR 0.0495 * 0.058

Ln GDP -4.1279 *** 0.000

Ln GNI -0.1906 0.558

38.8205 *** 0.000 𝜷𝟎

Số quan sát 274

Hansen test 20.55 0.608

AR(1) test -2.61 0.009

AR(2) test -0.00 0.997

***, **, * lần lượt là các ký hiệu thể hiện ý nghĩa tại mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.

Phụ lục 5: Kết quả hồi quy GMM phương trình (1) với FD3 – Tiền gửi ngân hàng

trên GDP

2 + 𝛽5 (FD3*HC)it + 𝛽6 𝑈𝑟𝑏𝑖 + 𝛽7

Tóm tắt phương trình (1) – FD3:

Ent it = 𝛽𝑜 + 𝛽1 Entit – 1 + 𝛽2 HCit + 𝛽3 FD3 it + 𝛽4 FD3 𝑖𝑡 𝐹𝑒𝑀𝑡 + 𝛽8 LFPR + 𝛽9 Ln GDP +𝛽10 Ln GNI

Biến độc lập Hệ số ước lượng P - value

0.2304 ** 0.017 Ent t – 1

0.1268 *** 0.000 HC

0.1646 *** 0.000 FD3

𝟐 𝑭𝑫𝟑

-0.0003 ** 0.014

FD3* HC -0.0009 *** 0.004

-0.0638 ** 0.011 Urb

0.0062 ** 0.022 FeM

0.0362 * 0.050 LFPR

-8.6659 *** 0.001 Ln GDP

1.5976 0.159 Ln GNI

65.4041 *** 0.000 𝜷𝟎

274 Số quan sát

26.44 0.233 Hansen test

-2.68 0.007 AR(1) test

0.03 0.977 AR(2) test

***, **, * lần lượt là các ký hiệu thể hiện ý nghĩa tại mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.

Phụ lục 6: Kết quả hồi quy GMM phương trình (2) với FD1 – Tín dụng tư nhân

Phụ lục 7: Kết quả hồi quy GMM phương trình (2) với FD2 – Nợ thanh khoản

Phụ lục 8: Kết quả hồi quy GMM phương trình (2) với FD3 – Tiền gửi ngân hàng

Phụ lục 9: Kết quả kiểm định đa cộng tuyến phương trình (1)

Phụ lục 10: Kết quả kiểm định tự tương quan phương trình (1)