BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Hải Hiền

THỦY XÁ, HỎA XÁ

TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Hải Hiền

THỦY XÁ, HỎA XÁ

TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

Mã số: 60 22 03 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. HÀ BÍCH LIÊN

Thành phố Hồ Chí Minh – 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, sự

kiện, tư liệu mà tôi trình bày, trích dẫn trong luận văn đều hoàn toàn trung thực và ghi rõ

nguồn. Nếu có gian dối tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!

Tác giả luận văn

Lê Thị Hải Hiền

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Lịch sử Trường Đại học

Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt

quá trình học tập và quá trình thực hiện luận văn.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Hà Bích Liên, người đã tận

tình giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện tốt cho tôi hoàn thành luận văn này. Những

phương pháp nghiên cứu khoa học mà cá nhân tôi học tập được từ cô, sẽ là hành trang

không thể thiếu trong suốt chặng đường nghiên cứu khoa học về sau.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong học tập và

hoàn thành luận văn tốt nghiệp.

Do còn nhiều hạn chế về thời gian, nguồn tư liệu… chắc chắn luận văn không

tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy

cô và bè bạn.

Cuối cùng tôi xin kính chúc quý thầy cô khoa Lịch Sử, các cán bộ của phòng Sau

Đại học, các cán bộ thư viện và các bạn học viên dồi dào sức khỏe.

Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!

Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2014

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 1.1: Cách gọi tên của Vua Lửa, Vua Nước của các dân tộc

Bảng 1.2: Thứ tự các đời vua Lửa, vua Nước

Bảng 1.3: Quy định về họ của Vua và họ vợ của vua

Bảng 1.4: Sơ đồ mối quan hệ của các Pơtao

MỤC LỤC Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

MỞ ĐẦU..............................................................................................................................1

Chương 1. SƠ LƯỢC VỀ NGƯỜI GIARAI VÀ THỦY XÁ, HỎA XÁ TRONG LỊCH

SỬ .................................................................................................................. 12

1.1. Vài nét về người Giarai ........................................................................................... 12

1.1.1. Nguồn gốc ............................................................................................................................ 12

1.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội ................................................................................. 13

1.2. Khái quát chung về Thủy Xá, Hỏa Xá .................................................................... 15

1.2.1. Tên gọi .................................................................................................................................. 15

1.2.2. Địa điểm ............................................................................................................................... 17

1.2.3. Nguồn gốc ............................................................................................................................ 23

Chương 2. THỦY XÁ, HỎA XÁ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC VÙNG XUN

QUANH ......................................................................................................... 26

2.1. Quan hệ với các triều đại phong kiến Việt Nam ..................................................... 26

2.1.1. Quan hệ thần phục và lệ thuộc của Thủy Xá, Hỏa Xá với các triều đại phong

kiến Việt Nam. .................................................................................................................... 26

2.1.2. Những chính sách của các vương triều phong kiến Việt Nam đối với Thủy Xá,

Hỏa Xá .................................................................................................................................. 46

2.2. Quan hệ với người Khơme ...................................................................................... 51

2.3. Quan hệ với người Chăm ........................................................................................ 57

Chương 3. VÀI NÉT VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA THỦY XÁ, HỎA XÁ ........................ 64

3.1. Văn hóa vật chất ...................................................................................................... 64

3.1.1. Ẩm thực (ăn) ........................................................................................................................ 64

3.1.2. Trang phục (mặc) ............................................................................................................... 65

3.1.3. Nhà cửa (ở) .......................................................................................................................... 65

3.2. Văn hóa tinh thần .................................................................................................... 67

3.2.1. Tâm linh ................................................................................................................................ 67

3.2.2. Nghi lễ ................................................................................................................................... 71

3.2.3. Tang ma, cưới hỏi .............................................................................................................. 74

3.2.4. Phong tục tập quán khác ................................................................................................... 82

KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 84

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 92

PHỤ LỤC .. ...................................................................................................................... 97

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Vùng Tây Nguyên Việt Nam ngày nay là nơi lưu giữ rất nhiều những nét độc đáo,

đặc sắc của một số dân tộc thiểu số, trong đó có tộc người Giarai, đang sinh sống ở tỉnh

Gia Lai. Lần dở những trang sử cũ, những ghi chép của cha ông để lại, đó là vùng đất vốn

gắn với tên gọi “Thủy Xá”, “Hỏa Xá” từ thế kỷ XV. Quá khứ đã rất xa xưa và nguồn tài

liệu còn lại cũng hạn hẹp nhưng tìm hiểu về “Thủy Xá”, “Hỏa Xá” chính là tìm hiểu về

một sự khởi nguồn cho những nét văn hóa của vùng đồng bào dân tộc miền núi Tây

Nguyên và để tôn vinh tính độc đáo, tính khác biệt và đa dạng của một nền văn hóa.

Liên quan đến Thủy Xá, Hỏa Xá có rất nhiều câu chuyện vô cùng cuốn hút như sự

tích Thủy Xá, Hỏa Xá, về thanh gươm thiêng của dân tộc Giarai, hay sự huyễn hoặc xoay

quanh những vị vua không ngai của hai “vương quốc” này. Nhiều quan điểm trái chiều

của các trường phái nghiên cứu khác nhau mà dường như đều gặp nhau ở một mục đích -

đó có thật sự là một vương quốc hay không? Cần tập hợp lại tất cả các nguồn tư liệu viết

về Thủy Xá, Hỏa Xá và mong muốn trả lời một câu hỏi cho chính mình: Vùng đất đó, tộc

người đó đã từng tồn tại như thế nào trong lịch sử Việt Nam? Đó thực sự là lý do thôi

thúc tôi lựa chọn đề tài này.

Nhưng dù thế nào chăng nữa, có hay không có một vương quốc đã từng tồn tại?

Thông qua việc nghiên cứu về vùng đất Thuỷ Xá, Hoả Xá xa xưa sẽ giúp chúng ta trả lời

được câu hỏi này, ngoài ra còn giúp chúng ta hiểu rõ hơn những nét văn hoá độc đáo của

người miền núi, mà chính những nét văn hoá đó đã góp phần tạo dựng nên một nền văn

hoá dân tộc Việt Nam đa dạng và giàu bản sắc. Điều này đặc biệt có ý nghĩa thực tiễn

trong thời kỳ toàn cầu hóa, khi những “tiêu chí” văn hoá hiện đại đang có nguy cơ rập

khuôn mọi nền văn hoá, làm mất đi mặt tích cực của giá trị toàn cầu hoá. Thông điệp

“chấp nhận sự khác biệt” để tạo nên tính “thống nhất trong đa dạng” góp phần bảo tồn

2

những nền văn hoá độc đáo, những di sản văn hoá sống chính là ý nghĩa thực tiễn cuốn

hút tôi vào mảng đề tài này.

Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài sẽ giúp người viết không chỉ củng cố thêm những

kiến thức đã được học mà còn mở mang thêm nhiều nguồn kiến thức mới về lịch sử và

văn hóa của các tộc người sống trên đất nước Việt Nam mà lịch sử của họ chính là một

phần lịch sử dân tộc chúng ta.

Đề tài cũng là một trong những lĩnh vực chưa được nghiên cứu rộng rãi ở Việt Nam,

tìm hiểu về lịch sử và văn hóa của Thủy Xá, Hỏa Xá là một vấn đề mới, chưa có nhiều

người quan tâm nghiên cứu một cách có hệ thống mà chỉ là những mảnh vụn rời rạc từ

thư tịch cổ Việt Nam hay một số bài báo, tác phẩm viết có liên quan đến Thủy Xá, Hỏa

Xá mà thôi. Bên cạnh đó trong sách giáo khoa phổ thông hay giáo trình đại học cũng chỉ

nhắc đến một vài dòng do vậy khi nhắc đến vấn đề này nhiều người còn rất lạ lẫm, chưa

biết Thủy Xá và Hỏa Xá là gì nên với việc lựa chọn đề tài này tác giả mong muốn trên cơ

sở tập hợp tư liệu có liên quan, đóng góp thêm một góc nhìn mới về bức tranh lịch sử và

văn hóa của một tộc người vùng Tây Nguyên Việt Nam, giúp bổ sung thêm một nguồn

tài liệu tham khảo cho sinh viên sử và giáo viên dạy sử.

Chính vì vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài này để làm luận văn thạc sĩ mặc dù nguồn tài

liệu của nó còn rất hạn hẹp, thậm chí là hiếm có nhưng khi tìm hiểu về vấn đề này tôi sẽ

có cơ hội mở mang kiến thức, biết thêm về lịch sử và văn hóa của một dân tộc trong số

54 dân tộc anh em trên lãnh thổ Việt Nam, đồng thời tập hợp thành nguồn tư liệu tham

khảo cho những ai quan tâm đến các vấn đề được đề cập trong đề tài.

2. Lịch sử nghiên cứu đề tài

Các nhà nghiên cứu người Pháp đã bắt đầu nghiên cứu về Thuỷ Xá, Hỏa Xá từ đầu

thế kỷ XX. Không hẳn vì sự hấp dẫn của nền văn hóa một tộc người Tây Nguyên, mà còn

là mối quan tâm của kẻ thống trị trước những phản kháng của một tộc người thiểu số,

trong đó nhiều sự kiện dẫn đến đối đầu và đàn áp, nên người Pháp dành một sự quan tâm

đặc biệt với vùng đất Gia Lai ngày nay và những gì liên quan đến Hỏa xá, Thủy Xá. Họ

đã dựa vào những nguồn thư tịch cổ mặc dù ít ỏi nhưng vô cùng quý giá của Việt Nam

3

viết về Thủy Xá, Hỏa Xá như: Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Đại Nam liệt truyện,

Đại Nam thực lục tiền biên và chính biên, Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ của Quốc

Sử Quán triều Nguyễn, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú…Đó là những

ghi chép của chính sử về hai “vương quốc” Thủy Xá - Hỏa Xá. Các thư tịch này hầu như

chỉ nhắc tới tên gọi, vị trí, và một vài đặc điểm của các ông vua Thủy, Hỏa. Bên cạnh đó

là chính sách “chư hầu” và “nhu viễn” của triều đình nhà Nguyễn đối với hai “vương

quốc” Thủy – Hỏa. Từ đó họ đã cho ra đời nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn

đề này, nhưng cũng không đồ sộ và chỉ viết riêng về từng mảng nhỏ liên quan ít nhiều

đến nội dung đề tài, đã được dịch sang tiếng việt, được thể hiện qua những công trình

sau:

- Les Jungles Moi, Rừng người Thượng, Henri Maitre, Lưu Đình Tuân dịch, hiệu

đính Nguyên Ngọc, NXB Tri Thức, 2008.

Tác phẩm đặc tả diện mạo của vùng cao nguyên trung phần Việt Nam vừa hoang

dại, vừa bí ẩn. Cùng với những khắc hoạ địa lý, những hệ sinh thái rất phong phú là các

vùng quần cư đa dạng của con người vừa mạnh mẽ hoang dã, những bộ tộc, tiểu vương

quốc với những biên giới luôn xáo động. Những chất liệu mà Maitre thu thập được trong

cuốn sách này làm toát lên một tinh thần văn hoá khá chung của những tộc người cao

nguyên trung phần Việt Nam. Trong cuốn sách này, ông nói rất rõ đến các tiểu quốc,

trong đó có tiểu quốc của người Giarai mà đứng đầu là các vua Lửa, vua Nước, quan hệ

giữa người Chăm và người ở miền rừng núi cao nguyên.

Tác phẩm này thực sự là một công trình khoa học có giá trị lớn về mặt lịch sử, đặc

biệt đối với việc nghiên cứu lịch sử, văn hóa, kinh tế các dân tộc thiểu số ở khu vực

Trường Sơn - Tây Nguyên.

Ngoài ra còn một số tác giả khác cũng có nhắc đến nội dung có liên quan đến đề

tài trong tác phẩm của mình như:

- Dân Làng Hồ, Piere Dourisboure, NXB Đà Nẵng, 2008.

Dân Làng Hồ là cuốn sách viết về buổi đầu gian khó trong hành trình truyền giáo

lên cao nguyên của các giáo sĩ phương Tây, trong cuốn sách này chúng ta còn có thể tìm

4

thấy khá nhiều thông tin khác liên quan đến địa lí, nhân văn của khu vực này vào hồi thế

kỉ XIX. Có lẽ trước hết đó sự hấp dẫn bởi các câu chuyện rải dọc theo những con đường

lên cao nguyên hoặc cụ thể hơn là những lối đi giữa bao la rừng rậm và hiểm nguy mà

những nhà truyền giáo đã lần mò, khai phá và kể lại. Chuyện lớn chuyện nhỏ đều có. Sự

giao thương giữa “Trung Châu” thời kì đó với miền Thượng thấp thoáng đằng sau những

trang viết tưởng chừng ít liên quan đến việc này, có thể giúp chúng ta hình dung ra phần

nào cuộc sống của đồng bào dân tộc miền đất nguyên sơ ngày ấy. Những miêu tả, nhận

xét về cây cỏ, muông thú, về số dân, các nhóm sắc tộc và hoạt động mưu sinh, việc rèn

đao kiếm, khai thác mỏ,… của các cộng đồng xưa - mà ngày nay đã có sự thay đổi đáng

kể đã thực sự mang lại cho chúng ta những tri thức quí, nhiều khi đáng ngạc nhiên.

Ngoài ra tác phẩm còn chạm đến văn hóa hay cụ thể hơn là tín ngưỡng dân gian,

những phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số. Cuốn sách đã cung cấp cho ta

nhiều hiểu biết liên quan đến các cộng đồng người nguyên thủy Tây Nguyên mà ngày

nay không phải muốn là còn có thể tìm thấy được.

- Chúng tôi ăn rừng, George Condominas, Lan Anh, Ngọc Hà, Thu Hồng dịch, NXB

Đà Nẵng, 2008.

Chúng tôi ăn rừng là một công trình nghiên cứu dân tộc học của Georges

Condominas, xuất bản năm 1957, dựa trên tư liệu ông ghi chép khi sống với dân làng Sar

Luk trên cao nguyên miền Trung, Việt Nam đã lưu lại một bức tranh lớn, hết sức chân

thực về cuộc sống của một làng người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Ngoài ra những bức

ảnh minh họa kèm theo sách đã giúp chúng ta thấy những gì được thuật lại không còn quá

xa lạ. Những con người đó có thật, cuộc sống của họ có thật, chẳng có gì hư cấu cả.

- Jacques Dournes, Pơtao, một lý thuyết về quyền lực của người Giarai ở Đông

Dương, Nguyên Ngọc dịch, NXB Tri Thức, 2013.

Đây là một tác phẩm mang dấu ấn của lý thuyết nhân học cấu trúc, là nơi từ đó

cuộc sống xã hội, thể chế chính trị và văn hóa được mở ra một cách nghiêm xác qua

những lý giải và những bằng chứng công phu, đa dạng. Trong tác phẩm này tác giả nói rõ

về hệ thống chính trị của người Giarai và khẳng định người đứng đầu hệ thống này không

5

phải là các Pơtao. Bên cạnh đó còn có một số ghi chép về mối quan hệ Việt Nam -

Campuchia, hình ảnh ông vua Lửa, thứ tự các đời vua Lửa, vua Gió, vua Nước….

Bên cạnh đó là những công trình nghiên cứu của các học giả trong nước, chúng ta có

thể đề cập đến những công trình sau:

- Miền thượng cao nguyên, Cửu Long Giang, Toan Ánh, 1974.

Cuốn sách này nói đến lịch sử của miền thượng cao nguyên, tổng quát về nếp sống,

sinh hoạt của những con người ở vùng cao nguyên, chủ yếu là vùng Tây Nguyên và vùng

miền núi nam Trường Sơn, đặc biệt sách có nhắc đến hai phiên vương của triều đình Việt

Nam thời trước, đó lá Thủy Xá và Hỏa Xá cũng như kể về sự tích Thủy Xá và Hỏa Xá

của các dân tộc khác nhau.

- Thư tịch cổ Việt Nam viết về Thủy Xá, Hỏa Xá, Chà Và, Miến Điện do

Nguyễn Lệ Thi sưu tập và được in năm 1978 tại Hà Nội, đây là một công trình tập hợp

những thư tịch cổ Việt Nam viết về các nước Đông Nam Á. Mặc dù đây không phải là tài

liệu gốc nhưng công trình này có thể giúp người nghiên cứu rút ngắn thời gian tìm kiếm

tư liệu từ những bộ thư tịch cổ đồ sộ và giúp công tác tra cứu thư tịch cổ được dễ dàng

hơn.

- Chính sách dân tộc của chính quyền nhà nước Việt Nam (thế kỉ X-XIX) của

tác giả Phan Hữu Dật và Lâm Bá Nam do nhà xuất bản chính trị quốc gia xuất bản năm

2001. Nội dung cuốn sách chủ yếu đề cập đến chính sách dân tộc của các triều đại phong

kiến Việt Nam trong lịch sử.

- Văn hóa, xã hội và con người Tây Nguyên, Nguyễn Tấn Đắc, NXB KHXH, HN,

2005.

Cuốn sách đề cập đến nhiều nội dung về văn hóa, xã hội của cả khu vực Tây

Nguyên nói chung và dân tộc Giarai trong đó có Thủy Xá, Hỏa Xá nói riêng.

- Tây Nguyên, những chặng đường lịch sử - văn hóa, Nguyễn Tuấn Triết, viện

KHXHVN, Viện KHXH vùng Nam Bộ, trung tâm nghiên cứu Tây Nguyên, NXB

KHXH, 2007.

6

Nội dung cuốn sách đề cập đến lịch sử và văn hóa vùng đất Tây Nguyên qua các

chặng đường lịch sử từ trước công nguyên tới sau năm 1975. Trong đó tác giả dành riêng

một chương để nói tổng quan về địa lý và dân cư vùng Tây Nguyên. Còn trong từng

chương còn lại, tác giả lần lượt nói đến văn hóa và lịch sử của vùng đất, đồng thời nói

đến những kho tàng văn hóa dân gian đồ sộ độc đáo, những hình thức sinh hoạt văn hóa

phong phú và đa dạng của các công xã. Trong đó có chương IV: Tây Nguyên từ thế kỉ

XV đến thế kỉ XIX một phần đề cập đến những chính sách của các vua Nguyễn đối với

vùng đất này, tuy không nhiều nhưng cũng góp phần làm sáng tỏ hơn những chính sách

của nhà Nguyễn đối với vùng đất Tây Nguyên nhiều bí ẩn này.

- Tư liệu điền dã của GS Nguyễn Tấn Đắc, 2010.

Tư liệu này ghi lại một cách đầy đủ và chi tiết về các “vua” mà tác giả dùng từ “các

Ơi”, đó là những hỏi đáp và ghi chép cụ thể của tác giả về các Ơi mà tác giả hỏi những

người trong cuộc, những người có liên quan và kể cả những người dân ở làng Ơi bây giờ,

qua các ghi chép và hình ảnh của giáo sư chúng ta thấy rõ được vai trò của các Ơi, các

phong tục, tập quán của người dân làng Ơi đồng thời từ đó tác giả cũng rút ra kết luận

rằng các “vua” hay các “Ơi” chỉ là những người thầy cúng đóng vai trò khá quan trọng

trong đời sống của người dân tộc Giarai.

Ngoài ra còn có một số công trình, bài báo khoa học hay bài nghiên cứu khác cũng

có phần nào đề cập đến lịch sử và văn hóa của tiểu quốc Thủy Xá, Hỏa Xá mà tác giả

đang nghiên cứu như:

- Quan hệ Việt Nam – khu vực Bắc Tây Nguyên trước thế kỉ XIX của tác giả Vũ

Ngọc Bình được in trong kỉ yếu hội thảo Nam Bộ và Nam Trung bộ - Những vấn đề lịch

sử thế kỉ XVII – XIX năm 2005, trong bài viết tác giả đã đề cập khái quát quan hệ của

Việt Nam với khu vực Bắc Tây Nguyên từ thời các chúa Nguyễn cho đến đầu thời các

vua Nguyễn. Đặc biệt là quan hệ giữa nhà Nguyễn với Thủy Xá, Hỏa Xá giúp cho người

đọc có thể hình dung một phần chính sách của triều Nguyễn đối với các dân tộc ở Tây

Nguyên.

7

3. Mục đích nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu nhằm khái quát được những nét cơ bản nhất về 2 “tiểu quốc”

Thủy Xá, Hỏa Xá và mối quan hệ của Thủy Xá, Hỏa Xá với triều đình Huế, Chân Lạp.

Đồng thời đề tài cũng nghiên cứu để làm rõ về những ông vua không ngai, quyền lực thật

sự của họ là gì và từ đó rút ra kết luận có hay không “tiểu quốc” Thủy Xá, Hỏa Xá trong

lịch sử Việt Nam, và quan trọng nhất là qua đề tài nghiên cứu để dựng lại một cách chân

thực nhất diện mạo lịch sử và văn hóa của Thủy Xá và Hỏa Xá đã từng tồn tại trong lịch

sử Việt Nam mà đến nay vẫn còn một vài dấu ấn khá đậm nét.

Nội dung đề tài chọn những nét đặc trưng tiêu biểu nhất của tộc người Thủy Xá,

Hỏa Xá để trình bày. Do đó, không phải tất cả các vấn đề phong phú, phức tạp trong đời

sống của cư dân đều được trình bày một cách đầy đủ. Mặt khác, do tính đa dạng của lĩnh

vực nghiên cứu và sự cho phép của tư liệu, nhiều vấn đề không đề cập đến sẽ không có

nghĩa là nó không từng tồn tại trong lịch sử.

Ngoài ra, dưới góc độ của người nghiên cứu lịch sử tác giả mong muốn nhìn lịch sử

và văn hóa Thủy Xá, Hỏa Xá dưới góc độ lịch sử để thấy được sự chi phối của bối cảnh

lịch sử đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa của tộc người này.

Một mục đích khác nữa của việc nghiên cứu đề tài chính là việc luận văn cũng mong

muốn góp phần làm rõ sự ảnh hưởng, tác động qua lại của các nền văn hóa với nhau qua

những quan hệ chính trị, nét sinh hoạt văn hóa của cư dân ở từng khu vực khác nhau, đặc

biệt là sự ảnh hưởng của văn hóa Chăm và mối quan hệ giữa triều đình Huế và Thủy Xá,

Hỏa Xá đã từng diễn ra trong lịch sử.

4.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu •

Đối tượng nghiên cứu là tất cả những gì liên quan đến lịch sử và văn hóa của Thủy

Xá và Hỏa Xá trong lịch sử Việt Nam, tập trung chủ yếu vào các mối quan hệ kinh tế,

chính trị của Thủy Xá, Hỏa Xá với Đại Việt, Chân Lạp, Chăm…và nền văn hóa vật chất,

tinh thần của cư dân như ăn, ở, mặc, đi lại, nhà cửa, ma chay, cưới hỏi, phong tục tập

quán…

8

Phạm vi nghiên cứu •

- Về không gian:

Tập trung ở vùng đất bắc Tây Nguyên mà cụ thể là tỉnh Gia Lai ngày nay.

- Về thời gian:

Chủ yếu nghiên cứu trong khoảng từ thế kỉ XV đến XIX. Thế kỉ XV là mốc mở đầu

vào năm 1471 vua Lê Thánh Tông hạ thành Đồ Bàn chia đất còn lại của Chiêm Thành

làm 3 nước là nước của Bồ Trí Trì, Hoa Anh và Nam Bàn, đến đây, Thủy Xá và Hỏa Xá

chính thức được gọi tên trong lịch sử. Và thế kỉ XIX là mốc thời gian mà Thủy Xá, Hỏa

Xá chính thức kết thúc mối quan hệ chính trị với triều Nguyễn, không còn triều cống do

sự xâm nhập của thực dân Phương Tây vào Việt Nam. Tuy nhiên, giai đoạn trước và sau

đó cũng sẽ được đề cập tới trong những giới hạn nhất định, đặc biệt thời hiện đại sau này,

để làm rõ hơn nội dung nghiên cứu.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp logic.

+ Phương pháp lịch sử:

- Trình bày những nội dung về lịch sử và văn hóa của tộc người Thủy Xá, Hỏa Xá

theo một trình tự thời gian và không gian cụ thể.

- Tiếp cận, sử dụng tư liệu từ việc quan sát, nghiên cứu các di tích lịch sử - văn hóa

có liên quan như vết tích nhà cửa, các hiện vật lịch sử: cồng, chiêng, ché, nhà rông…;

nguồn tư liệu điền dã và tư liệu tổng hợp qua tranh ảnh, hiện vật… của các bảo tàng dân

tộc học ở Việt Nam và trên thế giới.

+ Phương pháp Logic:

- Đặt các sự kiện, hiện tượng trong mối liên hệ với nhau và tổng hợp, so sánh, đối

chiếu, phân tích chúng… để tìm ra được ý nghĩa, bản chất của sự kiện lịch sử.

+ Sử dụng kết quả nghiên cứu của các ngành khoa học có liên quan như văn hóa

học, khảo cổ học, dân tộc học, xã hội học, nhân học, văn học, dân tộc học, địa lý học…

để tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về lịch sử và văn hóa của tộc người Thủy Xá và Hỏa Xá.

9

6. Nguồn tư liệu

• Nguồn tư liệu là thư tịch cổ

Thư tịch cổ của Việt Nam và bia kí Champa được coi là tư liệu gốc của đề tài trong

đó có thể nhắc đến một số tư liệu quan trọng mặc dù ít ỏi như Phủ Biên Tạp lục của Lê

Quý Đôn, Đại Nam liệt truyện, Đại Nam thực lục tiền biên và chính biên, Khâm định Đại

Nam hội điển sử lệ của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Lịch triều hiến chương loại chí của

Phan Huy Chú…Đó là những ghi chép của chính sử về 2 tộc người Thủy Xá - Hỏa Xá.

Cụ thể:

- Đại Nam thực lục: đây là bộ sử do quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn

trong vòng 88 năm (từ 1821 – 1909) mới hoàn thành, sách gồm hai phần:

tiền biên và chính biên. Luận văn này sử dụng cả hai phần trong bộ sử.

- Phủ biên tạp lục là bộ sách gồm 8 quyển được chia làm hai phần của Lê

Quý Đôn ghi chép lại hầu hết các thông tin quan trọng về kinh tế và xã hội

của xứ Đàng Trong trong gần 200 năm từ cuối thế kỉ XVI đến thời kỳ ông

làm quan Hiệp trấn xứ Thuận Hóa của chính quyền Lê - Trịnh, vào khoảng

năm 1776.

- Lịch triều hiến chương loại chí là bộ bách khoa toàn thư đầu tiên của Việt

Nam. Có nghĩa là phép tắc các triều đại chép theo thể phân loại do Phan

Huy Chú soạn trong 10 năm (1809 - 1819). Trong luận văn tác giả chủ yếu

sử dụng phần địa dư chí và nghi lễ chí.

- Minh Mệnh chính yếu: Do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn gồm 26

quyển chia làm 22 thiên ghi chép những chỉ dụ, những việc làm chủ yếu

dưới thời Minh Mạng từ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục cho đến ngoại

giao. Đây là một tài liệu quan trọng để nghiên cứu đề tài liên quan đến

chính sách “nhu viễn” của vua Minh Mạng đối với các thuộc quốc ở khu

vực Tây Nguyên trong đó có Thủy Xá, Hỏa Xá.

- Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ: là bộ sách do nội các triều Nguyễn

biên soạn theo thể hội điển, thể này được đặt ra nhằm ghi chép lại các điển

10

pháp, quy chuẩn và các dữ kiện liên quan đến tổ chức và hoạt động của một

triều đại. Bộ sử này được biên soạn vào giữa thế kỉ XIX, ghi chép lại đầy

đủ các chiếu chỉ, các tấu sớ, phiếu dụ của triều đình nhà Nguyễn về các việc

được đem ra thi hành, nhiều khi sửa đổi các lệ cũ thuộc cả sáu bộ và các ty.

Bộ sử này gồm 262 quyển. nội dung chủ yếu được khai thác để phục vụ đề

tài nằm trong phần “nhu viễn” từ quyển 133 – 136.

- Đại Nam chính biên liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn. Đây là

một bộ sử ghi chép lại những câu chuyện về các vị vua, hoàng tử, hậu cung,

chuyện các quan, các trung thần và nghịch thần của triều Nguyễn trong đó

có đề cập đến các vị đại thần được cử đi cai quản các khu vực miền Trung,

Tây Nguyên cũng như đề cập đến các vị thủ lĩnh dân tộc thiểu số như Thủy

Xá, Hỏa Xá…Là nguồn tư liệu rất quan trọng để nghiên cứu đề tài.

Những bộ sử này chính là những tài liệu gốc phục vụ đắc lực cho việc nghiên cứu

về triều Nguyễn và những vấn đề liên quan, cũng như là nguồn tài liệu quan trọng phục

vụ cho công tác nghiên cứu đề tài luận văn này.

• Nguồn tư liệu điền dã

Đây là nguồn tư liệu hết sức quan trọng đề cập đến những vấn đề cụ thể mà Giáo sư

Nguyễn Tấn Đắc đã trực tiếp tìm hiểu tại vùng đất Gia Lai trong suốt nhiều năm. Bên

cạnh đó là nguồn tư liệu điền dã do trực tiếp bản thân tác giả tìm hiểu.

• Các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước

Với các tác giả nổi tiếng như: Jacques Dournes, James George Frazer, Ian V

Trecnnop, G.C. Hickey, Oscar Salemink, Nguyễn Tấn Đắc, Nguyễn Tuấn Triết, Vũ Ngọc

Bình, Cửu Long Giang, Toan Ánh…

• Các nguồn tài liệu khác

Bên cạnh đó, tác giả cũng khai thác các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài như

sau:

Địa chí Gia Lai

Địa chí ĐăkLăk

11

Các bài báo, tạp chí có liên quan đến đề tài.

Các website lớn ở trong nước và nước ngoài viết về đề tài.

Phim, triển lãm ảnh, tượng... của các bảo tàng.

7. Đóng góp của luận văn

Với việc nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần nghiên cứu một mảng trống vắng trong

lịch sử dân tộc, vì từ trước đến nay có rất nhiều những công trình khoa học nghiên cứu về

vấn đề Thủy Xá, Hỏa Xá nhưng chủ yếu là nghiên cứu trên phương diện dân tộc học,

nhân học...mà chưa có một công trình sử học nào nghiên cứu về vấn đề này.

Đề tài cũng sẽ dựng lại một cách chân thực nhất về diện mạo lịch sử và văn hóa

của Thủy xá và Hỏa Xá một cách có hệ thống, là tài liệu có ích đối với những người quan

tâm đến đề tài hoặc những lĩnh vực riêng mà đề tài đã đề cập và nghiên cứu. Đặc biệt là

đối với sinh viên khoa Lịch Sử và giáo viên dạy lịch sử ở các trường phổ thông có thêm

tài liệu để học tập và giảng dạy cho bài giảng thêm sinh động khi nhắc đến các tộc người

thiểu số trong lịch sử Việt Nam, và đối với học viên cao học sẽ có thêm tài liệu mới khi

học và nghiên cứu chuyên đề “Các quốc gia cổ trên lãnh thổ Việt Nam”.

8. Bố cục của luận văn và các vấn đề cần giải quyết

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, phần phụ lục luận văn có ba

chương nội dung chính:

Chương 1: Sơ lược về người Giarai và Thủy Xá, Hỏa Xá trong lịch sử.

Chương 2: Thủy Xá, Hỏa Xá trong mối quan hệ với các vùng xung quanh.

Chương 3: Vài nét về văn hóa của Thủy Xá và Hỏa Xá.

12

Chương 1. SƠ LƯỢC VỀ NGƯỜI GIARAI VÀ THỦY XÁ, HỎA XÁ

TRONG LỊCH SỬ

1.1. Vài nét về người Giarai

1.1.1. Nguồn gốc

Giarai là tên chính thức của dân tộc, đó là tên tự gọi một tiếng đồng âm và cũng có

thể đồng nghĩa với từ Giơ rai (nghĩa là thác nước), người giải thích tộc danh Giarai theo

nghĩa này cho rằng có lẽ tổ tiên của dân tộc đã từng sinh tụ trên những khu vực có nhiều

thác ghềnh của một con sông nào đó: Ya Jun, Ya Pa, Ya Ly…

Người Giarai có nhiều tên gọi được ghi khác nhau: Jarai, Jơrai, Djarai, Giơrai,

Cheray, Chơ Rai, Tơ Buăn, Hơbau, Hdrung, Chor hay Gia Lai … là một dân tộc nói tiếng

Giarai thuộc hệ ngôn ngữ Nam Đảo Malayo - Polynésien. Những ngôn ngữ gần với ngôn

ngữ của họ là tiếng Bhih, Rađê, Raglai và Chăm – những người đã lập ra một trong

những nhà nước cổ nhất Đông Dương – Nhà nước Champa. Trong khuôn khổ của ngữ hệ

Malayo – Polynesien, ngôn ngữ của các tộc người trên thuộc nhánh Indonesien. Theo các

nhà ngôn ngữ học, ngôn ngữ của các tộc người Indonesien Đông Dương lại có những mối

quan hệ cổ xưa với các ngôn ngữ của các tộc người Môn – Khmer bao quanh.

Có tác giả đã giải thích hiện tượng này như sau: Từ xa xưa Tây Nguyên vốn là vùng

đất của các dân tộc Môn - Khơme. Các dân tộc Malayo - Polynésien đã từ các đảo phía

Nam đến, trước tiên đổ vào dải đồng bằng ven biển Nam Trung Bộ hiện nay. Các dân tộc

này đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, trong số đó riêng người Chăm đã phát triển

thành một vương quốc hùng mạnh, và ép các dân tộc ở cạnh mình ra, buộc họ phải tìm

cách tràn lên vùng đất cao phía tây. Do địa hình dốc đứng trên sườn phía đông của cao

nguyên này, họ chỉ có thể tràn lên theo một số đường độc đạo nhất định: người Giarai đã

lên theo đường đèo An Khê (tức đường 19 hiện nay) và đường Bà Lá, Cà Lúi, lên Cheo

Reo, Ayun Par (tức đường số 25), chiếm cao nguyên Gia Lai [65]. Dân số của dân tộc

này tại Việt Nam khoảng 317.557 người năm 1999 [50] và 411.275 người năm 2009,

chiếm 0,4729% so với dân số cả nước Việt Nam [51]. Người Giarai là một nhánh lớn của

tộc người Rang đê cổ hay còn gọi là người Ê Đê cổ được ghi chép khá nhiều trong các

13

bia ký Champa, sự tấn công của đế quốc Mông Cổ, sau này là Nam Tiến của người Việt

đã đẩy một phần cư dân Champa lên vùng bình nguyên Cheo Reo hòa hợp với người Ê đê

cổ tạo ra nhóm tộc người tự gọi là Anak Jarai tức con cái của Giarai. Trong văn hóa và

tính cách của người Giarai có nhiều yếu tố Champa trung đại so với người Ê đê chịu ảnh

hưởng đứt gãy của yếu tố Lâm Ấp Champa cổ đại. Người Giarai còn giữ được yếu tố

ngôn ngữ Rang Đê cổ đó là ngôn ngữ đa âm hơn so với người Ê Đê láng giềng.

1.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội

Kinh tế

Người Giarai sống chủ yếu bằng nghề trồng trọt nương rẫy, nuôi súc vật, săn bắn và

đánh cá. Lúa tẻ là cây lương thực chính. Công cụ canh tác của người Giarai giản đơn, chủ

yếu là con dao chặt cây, phát rừng, cái cuốc xới đất và cây gậy chọc lỗ khi tra hạt giống.

Chăn nuôi trâu, bò, lợn, chó, gà phát triển. Xưa kia, người Giarai có đàn ngựa khá đông.

Người Giarai còn thuần dưỡng và nuôi cả voi. Đàn ông thạo đan lát các loại gùi, giỏ, đàn

bà giỏi dệt khố váy, mền đắp, vải may áo cho gia đình. Săn bắn, hái lượm, đánh cá là

những hoạt động kinh tế phụ khác có ý nghĩa đáng kể đối với đời sống của họ xưa và nay.

Văn hóa

Nói đến văn hóa dân tộc Giarai phải kể đến những trường ca, truyện cổ nổi tiếng

như "Đăm Di đi săn", "Xinh Nhã"... Dân tộc Giarai cũng độc đáo trong nghệ thuật chơi

chiêng, cồng, cạnh đó là đàn T'rưng, đàn Tưng nưng, đàn Klông pút. Những nhạc cụ

truyền thống này gắn liền với đời sống tinh thần của người Giarai. Người Giarai hầu như

hát múa từ tuổi nhi đồng cho đến khi già yếu, không còn đủ sức nữa, mới chịu đứng

ngoài những cuộc nhảy múa nhân dịp lễ hội tổ chức trong làng hay trong gia đình.

Trong tôn giáo của người Giarai, chủ yếu và phổ biến nhất là niềm tin vào các vị

thần thiên nhiên. Họ hiến tế các thần đó thường xuyên, trong những trường hợp quan

trọng bằng trâu, lợn, gà…

Xã hội

Người Giarai sống thành từng làng (plơi hay bôn). Trong làng ông trưởng làng cùng

các bô lão có uy tín lớn và giữ vai trò điều hành mọi sinh hoạt tập thể, ai nấy đều nghe và

14

làm theo. Mỗi làng có nhà rông cao vút. Đây là tộc người duy nhất thuộc hệ ngôn ngữ

Nam Đảo có nhà rông, có thể do ảnh hưởng của cư dân Bana thuộc hệ ngôn ngữ Môn -

Khmer. Còn nhóm A Ráp của người Giarai thực ra là người gốc Ba Na đã bị Giarai hóa.

Đây là tộc người duy nhất ở Tây Nguyên đã có một tổ chức xã hội độc đáo, có

người đứng đầu trong cộng đồng được sử sách Việt Nam gọi là các vua Nước và vua

Lửa. Có thể đó là lý do mà nhiều nhà nghiên cứu nói đến một khái niệm “tiểu quốc Giarai

cổ” khi chỉ đơn thuần dựa vào cách gọi trong thư tịch cổ Việt Nam.

Dân tộc Giarai theo truyền thống mẫu hệ, phụ nữ tự do lựa chọn người yêu và chủ

động việc hôn nhân. Sau lễ cưới, chàng trai về ở nhà vợ, không được thừa kế tài sản. Trái

lại, con gái lấy chồng lần lượt tách khỏi cha mẹ ra ở riêng, được phân chia một phần tài

sản. Con cái đều theo họ mẹ. Ngoài xã hội, đàn ông đóng vai trò quan trọng hơn, nhưng

trong nhà phụ nữ có ưu thế hơn. Ngày xưa, có tục những người cùng dòng họ (theo phía

mẹ), khi chết chôn chung một hố, nay tục này đã giảm.

Là một xã hội mẫu hệ, huyết thống chảy theo về phía mẹ, con lấy họ mẹ chứ không

phải họ cha. Người mẹ đứng ở bên trong sự truyền nối nòi giống, trong dòng chảy liên

tục và bền chặt của sinh tồn. Người cha ở ngoài dòng chảy ấy, bên lề, có thể thỉnh thoảng

chạm vào đó, như một cú hích đến từ bên ngoài góp phần thúc đẩy sự vận hành và tốc độ

của dòng chảy kia, người đàn ông trong xã hội Giarai chỉ là một nhân tố phụ, người đàn

bà mới là chủ nhân chi phối tất cả, toàn bộ quyền lực nằm trong tay bà cả trong gia đình

lẫn ngoài xã hội. Bà là người chủ gia sản, là người phán quyết những việc hệ trọng nhất,

từ quản lí và phân chia gia tài, hôn phối và liên minh giữa các gia đình và các thị tộc,

cũng là người chủ đất đai, rừng núi, quyết định mọi điều liên quan đến tồn vong và phát

triển của gia tộc và của cộng đồng.

Thế nhưng khi bước chân vào một ngôi nhà hay một ngôi làng Giarai bạn sẽ không

nhận ra được điều đó, tiếp khách là đàn ông, chạy chỗ này chỗ nọ, chỉ huy việc này việc

kia, cử hành các nghi lễ, cầu khấn thần linh, giao tiếp với bên ngoài, với các lân bang, xét

xử các xung đột, cả trong và ngoài làng, thậm chí tuyên chiến hay đình chiến cũng là

người đàn ông, không hề thấy dấu vết quyền lực của người đàn bà.

15

Như vậy không phải là người đàn bà không có quyền lực, mà người đàn bà chính là

người ở phía sau người đàn ông, phía bên trong bóng tối. Vị trí của người đàn bà là ở

trong bếp, trái tim của nhà và của làng, người đàn bà ngồi đó, vững chãi và toàn quyền,

nhưng là toàn quyền, tối cao ở phía sau, trong bóng tối, còn thực thi cái quyền ấy thì đã

có đại diện, phụ tá, tay chân đó là đàn ông, thường đấy là người cậu, em hay anh trai của

mẹ.

Như vậy gia đình nhỏ mẫu hệ là đơn vị kinh tế độc lập, trong đó người đàn bà làm

chủ tài sản. Họ cũng là người quản lí các công việc khác của gia đình. Trong khi đó nam

giới là lực lượng sản xuất chủ yếu đóng vai trò quyết định trong công việc xã hội.

Trong số những người dân tộc thiểu số sống ở vùng miền núi thì người Giarai hiếu

chiến đặc biệt, vào giữa thế kỉ XIX họ thường gây chiến với các tộc người láng giềng để

bắt tù binh đem bán và làm nô lệ. Người Pháp tới cũng gặp phải sự kháng trả bằng vũ

trang của họ. Chúng ta có thể thấy một ví dụ cụ thể là vào năm 1904, viên do thám, nhà

nghiên cứu Odend’hal khi định đột nhập vào làng vua Lửa để lấy thanh kiếm thiêng đã bị

người Giarai giết chết [14, tr. 75].

Hiện nay về dân số người Giarai đứng thứ 10 trong số 54 dân tộc ở Việt Nam [38],

họ sống tập trung ở tỉnh Gia Lai thuộc các huyện Chư Pah, Đức Cơ, Chư Prông, Chư Sê,

Ia Pa, Ayun Pa, Krông Pa, Đắk Đoa, Đắk Pơ, Ia Grai, thành phố Plei Ku, Krông Chro, thị

xã An Khê trừ hai huyện Kbang và Mang Yang.

Ở Việt Nam, ngoài tỉnh Gia Lai người Giarai còn ở một phần các tỉnh Đắk Lắk, Kon

Tum, Bình Thuận, Phú Yên.

Ở Campuchia, người Giarai còn sống ở tỉnh Ratanariki.

1.2. Khái quát chung về Thủy Xá, Hỏa Xá

1.2.1. Tên gọi

Hầu hết các bộ lạc ở miền thượng du và thậm chí cả ở bên Lào, Campuchia đều biết

đến hai vị thủ lĩnh của bộ lạc Thủy Xá và Hỏa Xá tuy nhiên họ lại gọi theo nhiều tên gọi

khác nhau tùy vào mỗi dân tộc và mỗi vùng đất. Sau đây là tên gọi khác của họ:

16

Với Hỏa Xá: người Giarai gọi là Patau Pui (hay Pơtao Puih, Vua Lửa) hoặc là Patau

Ngo (Vua ở phía Đông)

Người Rhadé gọi là Mtau Pui (Vua Lửa), người Bahnar và Habau gọi là Bok Re

dau, Beur Dao, Oc Uy Rdau, người Mnông gọi là Adecht leu (vua ở miền trên), người

Campuchia gọi là Sdacht Phleung (vua Lửa), người Việt Nam gọi là Hỏa Xá, người Pháp

gọi là Sadet du feu.

Với Thủy Xá: người Giarai gọi là Patau Ya (hay Pơtao Ia, vua Nước), hoặc Patau Lu

(vua ở phía Tây), người Rhadé gọi là Mtau Ia (vua Nước), người Mnông gọi là Adecht

Tang (vua Miền Dưới), Lào gọi là Sadét Nam (vua Nước), hoặc Sadet Sam (vua Miền

Dưới) và Campuchia gọi là Sdacht Teuk (vua Nước), người Việt Nam gọi là Thủy Xá,

người Pháp gọi là Sadet de I’eau [3, tr. 150].

Tiếng tăm của các vị thủ lĩnh này lan truyền khắp miền Nam Đông Dương và thậm

chí cả Lào và Campuchia. Chúng ta có thể theo dõi bảng 1.1 để thấy rõ tên mà các láng

giềng gần xa gọi các vị Pơtao – thủ lĩnh người Giarai

Bảng 1.1: Cách gọi tên của Vua Lửa, Vua Nước của các dân tộc [19, tr. 179].

Vua Lửa Vua Nước

Được gọi là Nghĩa là Được gọi là Nghĩa là

Patau Pui Patau Ia (Pơtao

(Pơtao Pui) Ia) Vua Lửa Vua Nước Giarai Patau Ngo Patau Iu (Pơtao Vua phía Đông Vua phía tây

(Pơtao Ngo) Iu)

Rhadé Mtau Pui Vua Lửa Mtau Ia Vua Nước

Bok Redau Bahnar và Beur Dao Habau Oeuy Rdâu

Adet Leu Vua vùng cao Adet Tang Vua vùng thấp Mnông

Sadet Fai Vua Lửa Sadet Nam Vua Nước Lào Sadet Theung Vua vùng cao Sadet Lum Vua vùng thấp

17

Campuchia Sdacht Phleung Vua Lửa Sdacht teuk Vua Nước

Bầy tôi của Bầy tôi của Đại Việt Hỏa Xá Thủy Xá Lửa Nước

Sadet du feu Vua Lửa Sadet de I’eau Vua Nước Pháp

Như vậy mặc dù có nhiều tên gọi khác nhau nhưng thực chất thì đó cũng dùng để

chỉ chung tới những thủ lĩnh của bộ lạc người Giarai, nhưng quyền lực của họ thực chất

là gì và họ có ảnh hưởng tới những bộ tộc xung quanh không thì đó lại là một vấn đề

khác.

1.2.2. Địa điểm

Lần dở lại những trang sử cũ của Chân Lạp và Champa, chúng ta nhận ra mối quan

hệ tay ba khá phức tạp giữa Đại Việt, Champa và Chân Lạp. Một sự kiện quan trọng diễn

ra vào năm 1113 tại Chân Lạp, vua Suriavarman II lên ngôi, bắt đầu ổn định tình hình đất

nước và nổi tiếng là một ông vua chinh chiến. Trong thời gian trị vì của Suriavarman II,

quân Chân Lạp tấn công Đại Việt rất nhiều lần cả bằng đường thủy và đường bộ, đồng

thời cũng quay sang tấn công Champa, hạ thành Vijaya vào năm 1145, đưa một hoàng

thân Campuchia lên làm vua Vijaya. Những việc làm này đã khơi sâu mối hiềm khích

giữa Champa và Chân Lạp, đẩy mối quan hệ đến mức căng thẳng. Có chính biến, triều

Suryavarman II ở Chân Lạp bị lật đổ. Hoàng tử Chân Lạp trở về nước nhẫn nhục chờ

thời. Người địa phương Champa nổi dậy đánh đuổi người Chân Lạp. Một hoàng thân tên

là Vang saraja (Ung Minh Ta Điệp) ở Đồ Bàn cầu cứu triều nhà Lý. Lý Mông đem quân

sang giúp Chiêm Thành bị quân nổi dậy giết chết cả hai. Chế Bì La Bút (Jaya Harivarman

I) lên ngôi vua Champa cầu hòa nhà Lý và dâng con gái cho Lý Anh Tông (1138 - 1175).

Lê Văn Hưu đã từng chê trách vua Lý nhận con gái của vua Champa để lỡ cơ hội nhân

dịp giết sứ giả đem quân hỏi tội Chiêm Thành rồi lập vua Champa thân Đại Việt để mà

gây thanh thế. Tiếp theo đến lượt người Champa đánh trả thù Chân Lạp. Năm 1177

hoàng tử Chân Lạp nói trên chiến thắng trận thủy chiến với vua Champa tên là

18

Indravarman trên Biển Hồ để trở thành vua Chân Lạp Jayavarman VII (xây dựng Angkor

Thom nổi tiếng). Đến năm 1471 Lê Thánh Tông hạ thành Đồ Bàn chia đất còn lại của

Chiêm Thành làm 3 nước là nước của Bồ Trí Trì, Hoa Anh và Nam Bàn. Trong đó, Nam

Bàn được coi là lãnh thổ thuộc phạm vi ảnh hưởng của Pơtao Pui, Pơtao Ia. Sau đó người

Việt đã Hán Việt hóa các chức danh này thành Hỏa Xá – Vua Lửa, Thủy Xá – Vua Nước.

Sau này sách sử Triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử, liệt truyện và Thực Lục

đều nói Nam Bàn ở phía Tây núi Thạch Bi. Từ phủ Hoài Nhân theo thượng đạo lên tới

đó mất 14 ngày và ngày nay là Thủy Xá, Hỏa Xá.

Về hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá được các sử sách ghi chép sớm nhất là sách Phủ biên

tạp lục của Lê Quý Đôn vào năm 1776, khi ông được cử vào Thuận Hóa giữ chức Hiệp

Trấn tham tán Quân cơ, sách ấy viết rằng: “Nước ấy có chừng hơn 50 thôn, trong nước có

núi Bà Nam rất cao lớn, là trấn sơn một phương, Thuỷ Vương ở phía Đông núi, Hoả

Vương ở phía Tây núi, đều có địa phận riêng, gác cây làm nhà, bộ thuộc đều vài trăm

người, cày bằng dao, trồng bằng lửa, tháng giêng gieo, tháng năm lúa chín, không gặt mà

chỉ tuốt, không biết ngày tháng. Vua cưỡi voi, đi theo độ hơn mười người. Đến một thôn

Man nào đánh ba hồi chiêng, người trong thôn đều ra, làm nhà tranh cho vua ở” [2, tr.

126].

Còn trong Đại Nam liệt truyện sơ tập thì viết: “Cứ 5 năm một lần, chúa Nguyễn sai

người đến nước ấy, mang cho các đồ vật như áo gấm, mũ, nồi đồng, chảo sắt và bát đĩa,

các thứ đồ gốm... Hai nước nhận được các thứ cho ấy, tức khắc sắm sửa các thứ sản vật

địa phương như kỳ nam, sáp ong, nhung hươu, mật gấu, voi đực... để dâng hiến lại”. Sách

này chép tiếp: “Hai nước tuy này có vua mà không có binh lính và thành quách; cày lấy

mà ăn, dệt lấy mà mặc... chỉ nhờ dựa vào thần quyền mà dân chúng suy tôn. Mán dân thờ

phụng như thần thiêng vậy. Còn như cái quyền sinh sát, việc tranh đấu đều do sách

trưởng nắm cả, vua thực không dự đến” [36, tr.33].

Về vị trí hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá sách Phương đình dư địa chí của Nguyễn Siêu

cho biết: “Nước Thủy Xá và Hỏa Xá nằm ở phía Nam nước Chiêm Thành cũ, nay trên

đường Phú An (Phú Yên) có núi tên là Bà Nam rất cao. Nước Thủy Xá ở phía Đông ngọn

19

núi, giáp với đồn Phước-Sơn, tỉnh Phú An, phía Nam là thuộc Man Thạch Thành. Trong

Thạch Thành có tượng đá gọi là Hồ Vương Thành, vuông ước 4 mẫu, phía Bắc là sách

Man tỉnh Chiêm. Nước Hỏa Xá ở phía Tây ngọn núi giáp sở Sơn Bốc nước Chân Lạp,

phía Nam là Lạc Man, trên Đại Giang dưới Ba Giang là giới hạn phong vực hai nước”

[42, tr.198].

Cũng theo tài liệu trên: Từ nước Thủy Xá đến nước Hỏa Xá đi mất 1 ngày rưỡi thì

đến địa giới hai nước, rồi đi tiếp nửa ngày thì đến nơi ở vua Hỏa Xá. Vua Hỏa Xá ước

chừng 70 tuổi. Khi ra tiếp, khăn áo đều vải trắng, đứng đầu giường niệm chú xong mới

ngồi, đem rượu thịt mời, hai bên tả hữu đều đánh chiêng trống, có 4 người múa, người

trong sách đều quy phục [42, tr. 198 – 199].

Như vậy, dựa vào những tài liệu ghi lại thì hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá nằm ở trên

đất Nam Bàn, một chư hầu của nhà Nguyễn. Đại Nam liệt truyện viết rằng nước Thủy Xá

và Hỏa Xá, hai nước này ở trên đất Nam Bàn, (thời Thánh Tông nhà Lê đánh được nước

Chiêm Thành, cắt đất từ phía Tây núi Thạch Bi và phong cho dòng họ ấy làm vua nước

Nam Bàn, có độ hơn 50 thôn, vua Thủy Xá ở phía Đông núi này, vua Hỏa Xá ở phía Tây.

Theo như sử sách ghi lại thì đầu thời chúa Nguyễn, hai nước ấy ở giáp giới trấn Phú

Yên, cứ 5 năm 1 lần chúa Nguyễn sai người đến nước ấy, mang cho các đồ vật như áo

gấm, mũ, nồi đồng, chảo sắt, bát đĩa, các thứ đồ gốm…Hai nước nhận được các thứ cho

ấy, tức khắc sắm sửa các sản vật địa phương như kì nam, sáp ong, nhung hươu, mật gấu,

voi đực để dâng hiến lại.

Con đường để đi vào vùng đất của Thủy Xá, Hỏa Xá cũng được nhiều tài liệu nhắc

đến như sau: Lê Quý Đôn viết: Nước Nam Bàn xưa do Thánh Tông phong ở phía Tây

đầu nguồn phủ Phú Yên xứ Quảng Nam [17, tr.126].

Cựu cai đội Luân Bình hầu Văn Thế Nghị quê ở thuộc Thời Đôn, huyện Tuy Viễn

nói rằng y từng quản suất nội phủ sơn trường, vào núi lấy hương, có 3 đội Tân am sơn,

binh của đội thường lên núi kiếm kỳ nam hương, từ nguồn An Lạc đi lên các thôn Hà

Nghiêu, Đất Cày, qua đèo La Hai, giáp đất phủ Phú Yên đến các xứ sông Lôi, nước nóng,

Thượng nhà đến nguồn Hà Lội là các sách người Đê, người Man ở. Cộng 3 ngày, lại từ

20

đấy cho người Man tiền bảo họ dẫn đường theo đường núi mà đi hết 14 ngày thì tới nơi

hai vua Thủy Xá, Hỏa Xá nước Nam Bàn ở. Nước ấy có chừng 50 thôn, trong nước có

núi Bà Nam rất cao lớn, Thủy Vương ở phía Đông núi, Hỏa Vương ở phía Tây núi đều có

địa phận riêng [17, tr. 126].

Sách Đại Nam nhất thống chí chỉ rõ thêm: Từ huyện lỵ (Đồng Xuân) đi về phía Tây

20 dặm đến xã Phước Đức, lại đi 2 dặm đến thôn Phú Thành, lại đi 1 dặm đến thôn Cự

Phú, lại đi thêm 5 dặm đến thôn Vân Hòa, từ đây đi về phía Tây suốt đến địa giới nước

Thủy Xá, Hỏa Xá. Hai bên đường có nhiều trại sách người Man, núi khe hiểm trở, lại có

nhiều cọp.

Ngoài những tài liệu thư tịch cổ có nhắc đến vị trí của Thủy Xá, Hỏa Xá thì trong

các tài liệu của các nhà truyền giáo cũng đã phần nào nhắc đến vị trí của hai nước Thủy

Xá, Hỏa Xá như sau: “Xuất phát từ Phú Yên, họ ngược sông Ba (Apa) đi qua gần Phúc

Sơn, ngược sông Nain (có thể là sông Krông Hing hay Krông Năng, phụ lưu bên hữu

ngạn sông Apa hạ) đổ xuống lại đồng bằng, đến được ngôi làng cuối cùng cống nạp cho

Nam Kì, tới Buông Giang (Bbon Yang) cuối cùng đến đây chúng tôi tới vùng thống trị

của vua Nước…Sau đó họ tiếp tục đi đến vùng của những người Man di gọi là người Đê,

gần Buông Gia (Bbon Ya) thuộc về vua Lửa”[24, tr 34].

Như vậy, chúng ta có thể xác định rằng Thủy Xá và Hỏa Xá ở hai địa điểm khác

nhau, những địa điểm đó hiện nay thuộc xã Chư A Thai, huyện Ayun Pa (phía Nam

tỉnh Gia Lai) và xã Ia Lốp, huyện Ea Súp (phía tây bắc tỉnh Đắk Lắk). Mỗi ông có tầm

ảnh hưởng trong một vùng và không được gặp nhau, nếu không sẽ phải một mất một còn.

Nếu đúng như ghi chép của Lê Quý Đôn thì Thủy Xá ở xã Chư A Thai (phía Đông) còn

Hỏa Xá ở Ia Lốp (phía Tây). Tuy nhiên chưa có sự phân định rõ ràng, bởi vì các “tiểu

vương” này khi thì tự nhận là vua Nước, khi thì tự nhận là vua Lửa.

Hiện nay ngôi làng có tên Plei Pơtao cách thị xã Chưsê hơn 20 cây số, thuộc xã

Nhơn Hòa, huyện Chưsê, tỉnh Gia Lai vẫn được gọi là “làng Vua Nước”, ở đây vẫn còn

đông đảo hậu duệ của vua Nước – Pơtao Ia, dòng họ Rơchom.

21

Còn “làng Vua Lửa” là Plei Ơi (Ơi có nghĩa là Ông) thuộc xã Chư Athai, huyện

Ayun Pa, tỉnh Gia lai, đã được bộ văn hóa thông tin cấp bằng công nhận di tích lịch sử

ngày 24 tháng 3 năm 1993. Tại đây còn có nhà mồ Pơtao Apuih đời 14 là Siu Luynh (mất

năm 2002).

Thiết chế xã hội của người Giarai với hai người đứng đầu là Pơtao Ia và Pơtao Puih

đã tồn tại từ khoảng thế kỉ XV, theo tài liệu nghiên cứu điền dã tại làng Plei Pơtao và

làng Plei Ơi, phối hợp với thư tịch cho phép ta nhận diện được phả hệ của Pơtao Apuih đến nay là 15 đời, còn Pơtao Ia đến năm 1955 được 7 đời, theo thứ tự như bảng 1.2: 1

Bảng 1.2: Thứ tự các đời vua Lửa, vua Nước

Đời Vua Lửa (Pơtao Puih) Vua Nước (Pơtao Ia)

Kép R’Chăm 1 Ksor – Chơlõi ( 1425-1426)

Nhơn R’Chăm 2 Rcom – Anur (1501-1571)

Bring R’Chăm 3 Siu – Bôm (1576-1646)

Dăi R’Chăm 4 Siu – Djua ( 1651-1719)

- Guh R’Chăm 5 Siu – Anhong (1724- 1795)

Nhoak R’Chăm 6 Siu – Blông ( 1800- 1870)

1 Người ghi lại tên các vua Lửa là bà ami Thúy, người Giarai, tên thật là Rchom H’ueh, bà sinh năm 1943 tại Bon

Broãi, xã Iatul, bà là con gái út của bà Rchom H’Blon, con thứ 9 của cụ Nay Nui, một nhân vật Giarai nổi tiếng – là

đại diện cho các Ơi của một vùng.

7 Siu – Blet Bo R’Chăm

22

( 1897- 1955)

8 Siu – Jĩ

9 Siu – Y

10 Siu – At

11 Siu – Tũ

12 Siu – Anhót

Ngoài ra còn có một vị Pơtao nữa ít được nhắc đến hơn trong lịch sử, đó là vua Gió

(Pơtao Angin), cũng theo tài liệu điền dã thì thứ tự các đời vua Gió được nhắc đến như

sau:

Kôteo: thời gian trị vì 1906

Jom: con trai một người cháu gái vua trước

Nun: cháu của cháu ông Kôteo

Chôbla: con trai của chị ông Jom, mất vào 23/10/1964

Bom: con trai của chị vua trước [16, tr. 315].

Thị tộc của ba Pơtao và những người vợ của họ đã được khẳng định dứt khoát,

chúng ta có thể theo dõi bảng 1.3 để thấy được họ của các Pơtao cũng như họ vợ của họ.

Bảng 1.3: Quy định về họ của Vua và họ vợ của vua

Pơtao Họ Pơtao Họ vợ Pơtao

Pơtao Ia Rơchom Siu

Pơtao Apuih Siu Rơmah

Pơtao Angin Siu Rơmah

Như vậy chúng ta có thể thấy giữa các vị Pơtao có mối quan hệ khăng khít với nhau,

họ là những vị vua của các yếu tố: nước, lửa, gió. Ta có thể sơ đồ hóa mối quan hệ của

các Pơtao như bảng 1.4

Bảng 1.4: Sơ đồ mối quan hệ của các Pơtao [16, tr.104].

23

Pơtao Puih Pơtao Angin Pơtao Ia

Ama (cha) Anả (con) Ami (mẹ)

Rônang (yên lặng) Kôtang (mạnh) Kôtang hloh (mạnh hơn)

Hloc (nóng) Không nóng, không lạnh Rôot (lạnh)

Đông Càng về Đông Tây

2 Ania – gô 2 Ania – gô 2 Ania – gô

4 Kôiang 3 Kôiang 7 Kôiang

Điều vô cùng kì lạ và kì diệu là bằng một hệ thống Pơtao chỉ có như vậy, vừa như

rất đơn giản, vừa bí ẩn, người Giarai không biết tự bao giờ đã duy trì được một thiết chế

xã hội ổn định, bền chặt, độc lập, trải qua mọi biến thiên tự nhiên và lịch sử, không quân

đội, cảnh sát, không tổ chức quyền uy nào khác.

1.2.3. Nguồn gốc

Về vấn đề nguồn gốc của Thủy Xá và Hỏa Xá rất phức tạp, mỗi nơi có một cách giải

thích khác nhau cũng giống như gọi tên một cách khác nhau. Mỗi bộ lạc trên vùng cao

nguyên lại có một huyền thoại, một sự tích khác nhau để giải thích.

Người Giarai, qua bao nhiêu thế hệ vẫn còn kể cho nhau nghe câu chuyện truyền

thuyết ra đời của gươm thần và vua Lửa:

Năm ấy, hạn hán kéo dài, sông Pa, sông A Yun cạn kiệt, cây rừng không mọc

nổi, muông thú bỏ đi. Người Giarai đói khát phải lấy cây mục chấm mật ong ăn

qua ngày, lấy hạt cây Le nấu thành cơm ăn thay gạo... Trước tình thế đó hai

anh em T’Dia và T’Diêng lấy một hòn đá ở miệng núi lửa Hàm Rồng, để rèn

thành một cây gươm là Pơ Tao A Pui. Và họ đưa ra lời nguyền “Ai có được

thanh gươm sẽ có thể hô phong hoán vũ”. Thế nhưng sau khi rèn xong, thanh

gươm cứ đỏ rực, không chịu nguội, nhúng vào ghè , ghè cạn, nhúng xuống suối

suối khô, nhúng xuống sông sông hết nước... cuối cùng người ta đem thanh

gươm nhúng vào máu của nô lệ. Điều kỳ lạ là nó xèo xèo vài cái rồi nguội

24

ngay lập tức. Khi thanh gươm vừa nguội thì anh em T’Dia, T’Diêng vứt xuống

sông. Hay tin, các bộ tộc người trong khu vực đều xuống sông lặn tìm thanh

gươm. Người Giarai tìm thấy lưỡi gươm, người Lào thấy được chuôi gươm,

còn người Kinh giữ vỏ gươm. Truyền thuyết gươm thần của người Giarai được

nhiều dân tộc công nhận. Người giao tiếp được với gươm thần Pơ Tao A Pui

được gọi là vua lửa Pơtao. Với người Giarai vua lửa là vị trí cha truyền con nối

nên Gươm thần cũng bảo vật gia truyền [64].

Truyền thuyết về Vua Nước kể rằng : Yang H’ju H’măng và Yang Cưˇ (Thần Núi)

giao chiến. Yang Ea (Thần nước) đứng ra can thiệp, được Aê Diê (Thượng Đế) tin cậy

giao cho việc cai quản dân làng. Yang Ea ở tận trời cao muốn cai quản tốt dân làng nên

xin Thượng Đế dựng một cấp trung gian nữa là Mtao Ea (Vua nước ) để cai quản thế

gian. Vương miện đầu tiên được trao cho người Chăm. Sau này là người Giarai thuộc

dòng họ R’Chăm đã giành vương miện. Chính vì vậy, người Chăm đã nhiều lần đến đánh

nhau để giành vương miện.

Pơtao Ea là đại diện trần gian liên hệ với thần linh ở cõi trần, Vua được thần dân

trong làng góp tiền làm nhà, thần dân tự nguyện sản xuất nuôi Vua. Vua chỉ làm mỗi việc

là cầu trời cho mưa thuận gió hòa, người người khỏe mạnh, làm ăn phát đạt.

Theo sự tích, Hỏa Xá giữ thanh gươm thần ở làng Plei Drap, Thủy Xá giữ một cây

quyền trượng bằng gỗ ở làng Plei Amăng. Hai làng này đều ở vùng Cheo Reo thuộc tỉnh

Phú Bổn. Theo sự tin tưởng của người Thượng thì “gươm thần có phép làm ra lửa, nước,

làm cho trời đất mù mịt và gây bệnh dịch, gieo rắc sự chết, cây quyền trượng của Thủy xá

chỉ có phép làm cho ai đứng gần đó phải chết. Nhưng trái lại, quyền trượng này có thể

làm cho người chết hồi sinh. Khi sờ vào một đầu quyền trượng thì người chết nhưng nếu

một đầu quyền trượng kia chạm vào xác chết thì xác chết đó hồi sinh. Thủy Xá còn giữ

một hòn đá, đó là quả của cây Nak Yang, theo truyền thuyết thì khi quả này chín là ngày

thế giới tận thế”[3, tr.158].

25

Tiểu kết chương 1

Như vậy, qua tra cứu các tài liệu, các văn bản, các tác phẩm đã nhắc đến Thủy Xá,

Hỏa Xá ta nhận thấy họ đã được các dân tộc bên ngoài biết đến và liên lạc với họ qua các

Pơtao, những người đứng đầu một tộc người.

Trong thực tế chúng ta thấy người Giarai không tự gọi những nhân vật có chức năng

đặc biệt là Pơtao mà chỉ gọi là các Ơi, từ ngữ Pơtao được sử dụng như một thói quen theo

cách gọi của người Chăm, và ở đây các Pơtao được chia ra làm Pơtao Lửa, Nước, Gió,

đấy là những từ ngữ nói về một hệ thống loại hình chứ không phải một tôn ti. Chức năng

của các vị này là giữ mối quan hệ giữa xã hội loài người với các quyền năng vũ trụ được

thể hiện trong ba yếu tố đó, khiến họ với danh nghĩa đại diện là những vị chủ tể của các

trạng thái của vật chất. Mối liên hệ thần bí này giữa cuộc sống thường ngày với những cái

huyền thoại đã khiến những vị Pơtao này có quyền lực lớn và có ảnh hưởng không nhỏ ra

cả vùng bên ngoài họ sinh sống.

Có rất nhiều truyền thuyết của các dân tộc khác nhau cũng như nhiều tài liệu khác

nhau bao gồm cả chính sử nói về vua Lửa và vua Nước của người Giarai nhưng tựu

chung lại thì có thể “Thủy Xá và Hỏa Xá chính là nước Nam Bàn thời Lê Thánh Tông,

một phiên quốc của Đại Việt” [7, tr. 324], hay họ là một tộc người, vẫn nằm trong cơ chế

“chiefdom” một thiết chế đã có thủ lĩnh hay người đứng đầu là nhân vật trung gian giữa

thần thánh và con người nên có quyền lực trong phạm vi bộ tộc của họ và quyền lực này

chủ yếu là quyền lực về tinh thần - người Giarai gọi họ là các “ Ơi”, nghĩa là các “thầy

cúng”.

26

Chương 2. THỦY XÁ, HỎA XÁ TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI CÁC VÙNG

XUNG QUANH

Do sự biến chuyển về thành phần dân tộc và sự phát triển về văn hóa nên từ thế kỉ

XV trong cộng đồng cư dân bản địa Tây Nguyên đã xuất hiện sự cạnh tranh quyền hạn,

nhu cầu mở rộng ảnh hưởng và liên minh nhiều công xã, hình thành những cộng đồng

cao hơn công xã mà tiêu biểu chính là K’ring của người Giarai. Đứng đầu các K’ring là

những “gơn pô pơgiơrum bing pô plơi” được tôn vinh bằng thuật ngữ Pơtao. Như trên đã

nhắc đến, ở đây chúng ta có 3 vị Pơtao là Pơtao Apuih, Pơtao Ia, Pơtao Angin. Ba vị

Pơtao này là những đại diện cho các thần của bộ ba trạng thái vật chất lửa, nước, gió.

Những cộng đồng cư dân thuộc phạm vi ảnh hưởng của các Pơtao luôn trọng vọng các vị

Pơtao như những vị thần linh. Họ quan niệm rằng các Pơtao có chức năng liên hệ với các

thần linh, giữ liên hệ giữa xã hội con người với những sức mạnh của vũ trụ.

Như vậy, trong khi cộng đồng người ở Thuỷ Xá, Hoả xá, gọi những người đứng đầu

của tộc người là “ Ơi” - Thầy Cúng, thì các cộng đồng bên ngoài lại gọi các “Ơi” là Pơtao

hay Vua. Điểm chung của cách gọi này là đều dùng để chỉ người đứng đầu về mặt tinh

thần của một tổ chức cộng đồng. Nghiên cứu sâu hơn về những chính sách và những

quan hệ của các vùng xung quanh Thuỷ Xá, Hoả Xá với họ, sẽ làm sáng tỏ hơn vai trò

của các “vị vua” và thiết chế xã hội của vùng đất này trong lịch sử. Đó là nội dung chính

mà chương 2 đề cập tới.

2.1. Quan hệ với các triều đại phong kiến Việt Nam

2.1.1. Quan hệ thần phục và lệ thuộc của Thủy Xá, Hỏa Xá với các triều

đại phong kiến Việt Nam.

Đối với mỗi sắc tộc lớn trên cao nguyên hầu như đều thoát hẳn ra ngoài sự kiểm

soát của triều đình Việt Nam và được coi là những thuộc quốc, với những sắc tộc lớn như

Sédang, Bahnar, Rhadé, Giarai mà đặc biệt nhất là sắc tộc Giarai dưới sự lãnh đạo của 2

vị thủ lĩnh pháp sư Thủy Xá, Hỏa Xá đã từng một thời hùng mạnh và có ảnh hưởng

không nhỏ đối với cả khu vực và nước bạn Lào, Campuchia.

27

Từ hướng nhìn lịch sử chúng ta thấy sự xuất hiện và tồn tại của các Pơtao như là

một hiện tượng đánh dấu một giai đoạn phát triển của cộng đồng cư dân bản địa ở Tây

Nguyên mà đặc biệt nổi bật là dân tộc Giarai.

Các Pơtao đương thời thực sự là những đầu mối quan hệ giữa Tây Nguyên với bên

ngoài. Các Pơtao từng được người phương Tây miêu tả là “những con người có cuộc

sống đầy bí hiểm nhưng lại được khắp Đông Dương thán phục” [24, tr. 106].

Không những được người trong nước nể trọng và thán phục, các Pơtao còn có một

ảnh hưởng không nhỏ ra bên ngoài, các quốc gia bên ngoài cũng coi họ như là thủ lĩnh

quốc gia để từ đó thiết lập các mối quan hệ chính trị và văn hóa. Thông qua các Pơtao, cư

dân bên ngoài cũng biết đến và có nhiều liên hệ với cư dân bản địa ở vùng Tây Nguyên,

họ nhận sự triều cống của Thủy Xá, Hỏa Xá và đối xử với các Pơtao như những đồng

minh.

Cũng có những thời điểm nhất định, các nhà truyền giáo Phương Tây muốn thoát

khỏi những sự ngược đãi của chính quyền phong kiến Việt Nam nên đã tìm đường lên

Tây Nguyên, liên hệ với các Pơtao để tìm kiếm sự giúp đỡ của các Pơtao này.

Trên bình diện các mối quan hệ đương thời của Thủy Xá và Hỏa Xá nổi bật lên là

mối quan hệ giữa nhà nước phong kiến Đại Việt với các Pơtao so với các quốc gia láng

giềng chính là ở chỗ mối liên hệ thường xuyên hơn, được quan tâm nhiều mặt hơn, được

ghi chép biên niên vào quốc sử và nói chung, trong cách ứng xử của nhà nước phong kiến

Đại Việt đối với Thủy Xá, Hỏa Xá đều tỏ rõ sự dìu dắt mà không có bất kì sự áp đặt nào.

Thông qua mối quan hệ bền chặt và lâu dài ấy, những tiếp xúc và giao lưu giữa cư dân

Việt với cư dân bản địa Tây Nguyên, trong đó có dân tộc Giarai của các Pơtao được mở

rộng dần.

Từ thế kỉ thứ XV, với việc vua Lê Thánh Tông đánh được nước Chiêm Thành, cắt

đất từ phía Tây núi Thạch Bi, gọi lãnh thổ thuộc phạm vi ảnh hưởng của Pơtao Apui,

Pơtao Ia là Nam Bàn, xem lãnh thổ này như một thuộc quốc sau đó chính người Việt đã

Hán Việt hóa các chức danh này thành Thủy Xá – vua Nước và Hỏa Xá – vua Lửa. Đào

Duy Anh cho rằng “Hỏa Xá, Thủy Xá đã triều cống cho chúa Nguyễn từ khi họ Nguyễn

28

mới lập nghiệp ở miền Thuận Quảng…về sau các vua nhà Nguyễn cũng để cho họ tự ý

khi nào muốn thì triều cống và mỗi lần triều cống thì vua nhà Nguyễn lại thưởng cấp rất

hậu”[17, tr.165].

Từ năm 1471, vua Lê Thánh Tông tiến hành củng cố an ninh và xác lập tổ chức

hành chính lại vùng đất phía Nam đèo Hải Vân, chủ trương từng bước thúc đẩy việc tiếp

xúc nhằm tạo lập mối quan hệ lâu dài giữa Đại Việt với cư dân bản địa Tây Nguyên nói

chung và với Thủy Xá, Hỏa Xá nói riêng. Ông Bùi Tá Hán được triều đình cử vào trấn

thủ thành Quảng Nam. Sách Quảng Nam kí sự đã ghi chép về việc trấn thủ thành Quảng

Nam đương thời thực hiện tiến cử và tổ chức tấn phong cho Thủy Xá, Hỏa Xá, tổ chức

dinh điền, di dân lập ấp trên miền núi, mở rộng việc buôn bán giữa người Việt với đồng

bào Tây Nguyên, góp phần làm cho mối quan hệ giữa các thủ lĩnh Tây Nguyên với Đại

Việt ngày càng gần gũi hơn, tạo cơ sở thực tiễn để Đại Việt quan tâm chú ý nhiều hơn

đến Thủy Xá và Hỏa Xá.

Như vậy việc bang giao giữa hai Phiên Vương Thủy Xá, Hỏa Xá với nước Đại Việt

và sau đó là chính quyền Đàng Trong, theo Trương Vĩnh Ký, vào thời các chúa Nguyễn,

Thủy Xá và Hỏa Xá đã nộp phẩm vật đều đặn. Việc dâng nộp chỉ tạm ngừng trong thời

gian xảy ra cuộc chiến giữa nhà Tây Sơn với chúa Nguyễn Ánh. Sau đó, Thủy Xá và Hỏa

Xá lại làm nhiệm vụ của mình vào năm đầu thời vua Gia Long và liên tục vào các thời

vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức … Trong tác phẩm “rừng người Thượng”, Henri

Mantre đã viết rằng “vào năm 1558, các Sadet, có lẽ là sau những thất bại đã phải công

nhận ưu thế của người An Nam bằng cách trở thành chư hầu…bắt đầu từ năm đó, Thủy

Xá, Hỏa Xá đều đặn nộp cống vật ba năm một lần gửi qua đường Phú Yên” [16, tr. 200].

Việc tiếp xúc giữa triều đình Huế và hai phiên vương này diễn ra thường xuyên.

Cống vật của Thủy Xá và Hỏa Xá nộp cho các vua triều Nguyễn là những thứ lâm đặc

sản quý hiếm của núi rừng, còn phía triều đình Huế luôn có sự quan tâm đến đời sống các

dân tộc miền núi cùng với những khoản đãi, ban tặng phẩm vật có giá trị cho các phiên

vương.

29

Chúng ta có thể thấy rằng, việc giao tiếp giữa triều đình Việt Nam với các thuộc

quốc trong đó có cả Thủy Xá, Hỏa Xá dựa theo tiêu chuẩn áp dụng cho các nước chư

hầu: hàng năm phải đóng thuế và ba năm một kì phải triều cống. Như vậy, các chúa

Nguyễn còn sử dụng con đường ban cấp lễ lộc mua chuộc lòng trung thành của các bộ tộc

người miền núi.

Đến thời Nguyễn, mối quan hệ giữa Thủy Xá và Hỏa Xá với nhà nước phong kiến

Việt Nam trở nên thường xuyên hơn. Nhà Nguyễn cũng nhận sự triều cống từ Thủy Xá,

Hỏa Xá và cũng đã cử một số viên quan đi tuần trú ở khu vực Tây Nguyên. Do vậy chúng

ta có thể khẳng định các địa phương thuộc ảnh hưởng của hai pháp sư Thủy Xá, Hỏa Xá

được coi là thuộc quốc.

Những lần triều cống sau này của Thủy Xá và Hỏa Xá đều được sử sách ghi lại

chứng tỏ một mối quan hệ gắn bó và xuyên suốt giữa Đại Việt và thuộc quốc này. Chúng

ta có thể tìm thấy qua các bộ sử của quốc sử quán triều Nguyễn thể hiện các lần triều

cống của Thủy Xá và Hỏa Xá.

Sách Đại Nam thực lục của quốc sử quán triều Nguyễn đã nhiều lần nhắc đến những

lần triều cống của Thủy Xá và Hỏa Xá đến triều đình Huế như sau: Tân Mão năm thứ 20

(1711) mùa xuân, tháng giêng, Đôn Vương và Nga Vương ở hai rợ Nam Bàn và Trà Lai

(sau gọi là Jalai, Ja Rai, giáp giới Phú Yên và Bình Định, hình như thuộc về Hỏa quốc

nhưng không lấy làm đích xác) sai sứ đến dâng sản vật địa phương và trình bày rằng dân

họ không chịu đóng thuế nên không lấy gì để cống, xin phái quân ra oai. Chúa cho rằng

kí thuộc là Kiêm Đức đã từng đi chiêu dụ hai rợ man, quen hiểu thói man nên cho đem

thư đến hiểu dụ những tù trưởng, cho họ áo sa, áo đoạn và đồ đồng, đồ sứ lại lấy nghĩa kẻ

trên người dưới khuyên bảo dân man, định ra thuế lệ, khiến phải nộp cho man trưởng,

người man không ai không theo mệnh [37, tr.172].

Tân Mão năm thứ 13 (1751) dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, mùa đông, tháng

10, Vua Nước (Thủy Xá) và Vua Lửa (Hỏa Xá) vào cống, hai xứ này nằm ở phía trên

Nam Bàn [37, tr.214].

30

Nam Bàn là phần cao nguyên thuộc về nước Champa cổ, theo Lê Quý Đôn, nước

Nam Bàn xưa do Lê Thánh Tông phong ở phía Tây, đầu nguồn phủ Phú Yên, xứ Quảng

Nam, để đi từ nguồn An lạc theo đường núi tới chỗ các Pơtao ở phải mất tổng cộng 17

ngày, trong đó mất ba ngày để đi qua các thôn Hà Nghiêu, Đất Cày, La Hai giáp đất phủ

Phú yên rồi đi tới các xứ Sông Lôi, Nước Nóng, Thượng Nhà, đến nguồn Hà Lội, rồi lại

tiếp tục đi đường núi thêm 14 ngày mới tới nơi. Như vậy ta có thể phán đoán vùng

thượng Nam Bàn như vậy là xứ Giarai của các Pơtao Thủy Xá, Hỏa Xá.

Giáp Dần, năm thứ 15, ban phẩm vật cho vua nước Thủy Xá, sai man thuộc đến

thông hiếu ở thượng đạo Phú Yên, xin làm phiên thuộc và xin ban ơn cho. Bọn Nguyễn

Long và Võ Văn Lượng đem việc tâu lên, vua nói rằng “họ đã theo về thì triều đình đâu

có tiếc gì”, sai ban cho hai chiếc áo gấm và những vật theo như lời xin [37, tr. 197].

Khi Nguyễn Ánh chiến thắng nhà Tây Sơn, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long và tiếp

theo đó là những người nối nghiệp ông như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, các quan hệ

chính thức với các Pơtao được ghi chép và chiếm một vị trí quan trọng trong biên niên.

Quí Hợi (1803), hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá sai sứ đến xin quy phục, sứ giả đến Phú

Yên, dinh thần tâu lên, vua sai ban áo gấm và xuyến ngà rồi cho về.

Minh Mệnh năm thứ 2 (1821), nước Thủy Xá xin phụ thuộc vào nước ta. Đầu thời

Gia Long, quốc trưởng nước ấy sai sứ đến Phú Yên xin quy phục, Thế tổ cho nhiều rồi

bảo về. Đến nay sai người mang đồ vật được cho trước kia và sáp ong làm tin đến bảo

Phước Sơn, xin cho cứ được thông hành vào cống, trấn thần tâu lên, vua khen là “có ý

thiết tha, y cho”

Năm Minh Mạng thứ 10 (1831), nước Thủy Xá phái người đến trấn Phú yên kêu xin

nạp cống.

Tân Mão, Minh Mệnh năm thứ 12 (1831) mùa hạ tháng 6, nước Hỏa Xá sai sứ đến

cống một ngà voi, một sừng tê.

Sứ bộ được tỉnh Phú Yên phái người đến đồn Phú Yên nghinh tiếp về công quán ở

tỉnh yên nghỉ, khoản đãi. Đến khi sứ bộ lên đường tỉnh Phú yên phái một viên Thông

phán hoặc Kinh lịch sung chức trường tống, lại phái một cai đội chỉ huy hai mươi lính hộ

31

tống sứ bộ ấy. Đến chỗ giao tiếp giữa hai tỉnh thì quân viên chuyển đưa sứ bộ ấy với viên

Trường tống và viên thông ngôn, tất cả bảy vị, cứ mỗi vị được cấp một cái võng với hai

phu khiêng tư trang của sứ bộ và năm quân binh đi theo.

Tại kinh đô, “sứ bộ được bộ Lễ tiếp rước trang trọng với đầy đủ lễ nghi dành cho sứ

giả của một tiểu quốc. Khi vào triều cống, sứ bộ Thủy Xá được vua vời lên Điện ủy lạo

hỏi han (xét rằng việc triều cống của nước này là thuộc lần đầu nên được vua với lên ủy

lạo hỏi han để biểu thị cái ý làm yên lòng người ở xa đến, còn khoản ban trà thì vẫn bỏ”.

[3 tr. 175]

Căn cứ vào đoạn trích trên được Cửu Long Giang, Toan Ánh ghi lại trong tập Nhu

Viễn nói về chính sách của triều đình nhà Nguyễn đối với các thuộc quốc thì hai phiên

vương Thủy Xá và Hỏa Xá được tấn phong từ giữa thế kỉ thứ XVI và đã liên lạc nạp cống

với triều đình Việt Nam từ rất lâu trong lịch sử.

Khi sứ bộ đến cống, vua truyền thưởng cho Phiên vương Thủy Xá rất nhiều đồ có

giá trị trong đó được sách Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ ghi lại như sau: “gấm nhà

Tống hai cây, trứu sa 2 xấp, vũ đoạn 2 tấm, sa la ta 8 tấm. Cho sứ thần bạch kim 10

lượng, trứu sa lam một đoạn, quế sa ta 2 tấm, là màu 3 tấm, áo tay hẹp bằng khoáng

nhung tây lót vải vàng 1 cái, quần bằng trứu sa trơn màu lam và bằng trứu sa màu cánh

kiến mỗi thứ 1 cái. Cho bốn kẻ đi theo bạch kim mỗi người 5 lượng, trứu sa trơn 6 thước,

áo tay hẹp bằng vũ đoạn lót vải vàng một cái, quần bằng trứu sa và bằng đại sa màu cánh

kiến mỗi thứ một cái. Cho năm tên đi theo mỗi người bạch kim 2 lượng, đại sa màu cánh

kiến mỗi người một đoạn. Cho người thông ngôn áo tay hẹp bằng the lam một cái, quần

bằng trứu sa màu cánh kiến một cái” [38, tr 502].

Sứ bộ khi đến để cống nạp cũng như khi về đều được đưa tiễn rất trang trọng. Sau

lần sứ bộ Thủy Xá đến kinh đô triều cống đó, nhà vua đình nghị chuẩn định rằng “về sau

hễ đến kì nước Thủy Xá đến cống, khi sứ thần ấy đến an nghỉ nơi công quán ở Phú Yên

thì viên trấn quan ấy phải tâu báo chọn ngày tốt trần thiết các đồ nghi trượng ở hoàng

cung, trước sân phải đặt bàn riêng để các phẩm vật dâng cúng” [3, tr. 175 - 176].

32

Theo lệ khi đến cống quy định về nghi lễ như sau: khi sứ bộ đến kinh đô, bộ Lễ sẽ

chịu trách nhiệm đón tiếp, dâng biểu lên vua, báo cho Khâm Thiên Giám chọn ngày tốt

để lên hầu vua. Trước khi được vào chầu vua, sứ bộ được bộ Lễ dạy cho cách đi, cách

lạy, cách tới, cách dừng. Một ngày trước, bộ Lễ cho đặt ở gian bên hữu trên điện Cần

Chánh và bên hữu lối đi giữa thềm một cái bàn đỏ để đặt hộp đựng tờ biểu. Đến ngày

chầu cũng theo nghi thức thường triều trên điện Cần Chánh. Kì đài treo cờ vàng và các

thứ cờ màu biểu lộ sự vui mừng. Một viên quan bộ Lễ bưng hộp tờ biểu và dẫn Chánh,

Phó sứ, Trường tống và thông ngôn theo cửa bên phải Ngọ Môn đi vào đứng chờ ở phía

bên ngoài cửa Nguyệt Anh. Một viên quan bộ Lễ mời vua mặc triều phục và ra ngự trên

ngai. Viên trấn quan và các quan binh của hạt ấy đều mặc phẩm phục và phân ban ra, dẫn

sứ thần nước ấy cung kính làm lễ triều cống, 5 lạy rồi làm lễ bái tạ. Trấn quan ấy thu

nhận các phẩm vật dâng công khoãn đãi và chờ bộ Lễ giao phát các phẩm vật tặng

thưởng cùng tờ thiếp đỏ với công văn, lại lựa ngày tốt cần thiết như lúc đầu rồi dẫn sứ

thần các nước ấy quỳ. Một viên quan thuộc trấn mũ áo đàng hoàng đọc tờ thiếp sứ thần

ấy lại làm lễ bái tạ rồi ra đi. Lễ xong, một viên quan bộ Lễ sẽ dẫn sứ bộ đến Tả Đãi Lậu

Viện đãi trà rồi đưa về quán. Sau khi nhận biểu dâng, vua sẽ tuyên chỉ và ban lời an ủi,

thăm hỏi hoặc cho gọi vào điện úy lạo.

Mặc dù đã có đình nghị nạp cống ở Phú yên như vậy nhưng sứ bộ Thủy Xá, Hỏa Xá

vẫn còn đến kinh đô Huế triều cống, chúc thọ, mừng lễ đăng quang… nhiều lần nữa. Vào

những năm Minh Mạng 15 (1834), 21 (1840), năm Thiệu Trị (1841) và năm đầu Tự Đức

(1848) Thủy Xá và Hỏa Xá cũng cử sứ bộ về kinh đô mừng lễ đăng quang.

Rất nhiều lần sứ bộ vào triều cống tại kinh đô như năm Giáp Ngọ (Minh Mệnh năm

thứ 15) nước Hỏa Xá sai sứ đến cống, vua ra lệnh cho tỉnh Phú Yên hộ tống sứ giả theo

đường thủy vào kinh, khi sứ đã đến, bộ lễ thăm hỏi phong tục trong nước. Nước Thủy Xá

sai sứ đến cống và đưa cả lễ mừng dâng lên, Vua ngự điện Cần Chính, cho sứ nước ấy

làm lễ chiêm bái. Nhà vua còn sai bộ Lễ “ban cho quốc vương mới nối của Thủy Xá theo

họ Vĩnh, vẫn tên là Liệt, ban cấp cho một đạo sắc thư và đồ thưởng, đợi sau khi lễ Khánh

hạ xong giao cho sứ bộ lãnh đem về nước” [37, tr. 287].

33

Tân Sửu, Thiệu Trị năm thứ 1, nhà vua tiến hành đổi lại danh hiệu hai nước Thủy

Xá, Hỏa Xá. Hai nước này xưa gọi Nam Bàn là dòng dõi Chiêm Thành. Lê Thánh Tông

đánh được Chiêm Thành, lập cho con cháu vua nước ấy gọi là nước Nam Bàn ở phía Tây

núi Thạch Bi… Khi mới bắt đầu dựng nước, thường cứ năm năm một lần sai sứ tiến cống

các sản vật địa phương (nước Hỏa Xá không thể tự đến được phụ với nước Thủy Xá.

Được triều đình thưởng cho thứ gì, họ đều lưu truyền lại làm của báu đời đời. Đầu năm

Gia Long, sứ của nước ấy đến Phú Yên, được thưởng cho rất hậu và cho về nước. Sau vì

nước ấy không yên, không sai sứ đến cống được. Năm Minh Mệnh thứ 13 (1831) nước

Thủy Xá mới sai sứ đến cống, người thông dịch lại nói nhầm là Hỏa Xá, triều đình nhân

theo cũng cho là Hỏa Xá. Đến đây tỉnh thần Phú Yên là Lê Khiêm Quang và Nguyễn văn

Lý vâng lời thánh dụ, sai người đến tận nước ấy, hỏi rõ tình trạng rồi tâu lên. Lại tâu rằng

nước Thủy Xá liệt vào hàng chức cống của triều đình đã gần 20 năm, chỉ vì người thông

dịch nhầm Thủy ra Hỏa, quốc trưởng nước ấy là Vĩnh Liệt vẫn không yên lòng, xin đổi

tên nước ấy lại cho đúng. Nước Hỏa Xá cũng ngưỡng mộ đức hóa của nhà vua đã lâu

nhưng không thể tự đến được, quốc trưởng nước ấy là Ma Thát cũng muốn phụ với nước

Thủy Xá hợp nhau dâng lễ cống như lệ cũ.

Vua phán rằng: “hoàng khảo ta uy đức rộng khắp, những người tuy ở cõi xa, nơi

hoang chẳng ai không muốn dâng bày lễ cống ở trước sân, cũng tỏ lòng thành tôn kính bề

trên. Thủy, Hỏa vốn là hai nước, nước Hỏa nhỏ mà ở xa, nước Thủy ở gần mà lại to, năm

trước vào cống nói là nước Hỏa chứ không nói nước Thủy, Hoàng khảo ta là bậc thánh

minh, đã lấy làm ngờ, biết là thế nào cũng có duyên cớ, cho nên bắt đầu sai quan thành

trấn Tây, rồi lại sai quan tỉnh Phú Yên cho người đến hỏi sự trạng nước Thủy Xá, hỏi đi

hỏi lại, cốt để hiểu rõ sự trạng, đến nay quả nhiên như thế, vậy giao cho bộ Lễ bàn luận

cho kĩ, nếu là nhầm thì đổi lại cho đúng, nước nào đến cống thì tiến dẫn cho họ. Còn việc

tiến cống chung nhau, 3 năm một lần sai sứ đến đều cho tùy ý để người ở xa được tỏ lòng

thành”[36, tr. 113].

Khi tờ dụ đưa đến, “cả hai nước đều rất mừng, xin đến tháng 6 sai sứ đến kinh, vua

đồng ý cho, rồi sau đó còn ban cho quốc trưởng nước Hỏa Xá là Ma Thát họ là Cửu, tên

34

là Lại để tỏ mệnh lệnh mới. Hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá cống chung bắt đầu từ đây. Các

vật phẩm đem cống: nước Thủy Xá thì cống hai chiếc ngà voi, hai cái sừng tê. Nước Hỏa

Xá thì cống một cái sừng tê, một sừng tê. Cứ đến các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu thì nước

Thủy Xá phải chọn sai người đi sứ và mang cả phẩm vật của cả hai nước đến tỉnh Phú

Yên làm lễ tiến cống. Theo lệ, nhà vua “thưởng cho quốc vương nước Thủy Xá một cái

khăn nhiễu màu lam dài tám thước, áo dài bằng sa dày màu lam, màu trắng một cặp, áo

nhung vải trong lót lụa màu, tay hẹp một cái, áo sa dày màu lam màu trắng tay hẹp một

cặp, áo sa nam toàn tơ tay hẹp các màu 5 chiếc, quần nhiễu màu lam, màu hồng mỗi màu

một chiếc, một bộ đồ uống rượu. Lại cấp cho quốc vương hai nước đều một cặp áo tam

phẩm về võ nhai…” [37, tr. 148]

Mùa hạ tháng 6, hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá sai sứ đến kinh, trước một ngày, bộ Lễ

dẫn sứ thần là bọn Sơn Thí, Kiệu Mộc đến ngoài cửa công Khánh Ninh, nhân buổi cúng

sáng làm lễ dâng hương (nước Thủy Xá hai cân trầm hương, nước Hỏa Xá một cân).

Ngày hôm sau đưa các sản vật địa phương đến cửa cung khuyết chúc mừng vua lên ngôi

(nước Thủy Xá một cặp ngà voi, 2 sừng tê, nước Hỏa Xá 2 cặp ngà voi, một chiếc sừng

tê), làm lễ xong ở lại chờ ngày làm đại lễ Ninh lăng.

Vua dụ bộ lễ rằng: “nước Hỏa Xá đời đời ở nơi mọi rợ cõi xa, từ xưa đến nay chưa

từng giao thông với nước ta. Ta mới lên ngôi, họ lại biết ngưỡng mộ phong hóa của nhà

vua, gửi của cải, tỏ lòng thành khẩn, tấm lòng kính trời, thờ nước lớn của họ thật đáng

khen thưởng. Nước Thủy Xá thì dự hàng cống hiến đã lâu, trước sau một mực, còn việc

đổi lại quốc hiệu thì mới bắt đầu từ nay. Sứ thần họ đến đây ta nên tiếp đãi cung cấp ưu

hậu, để tỏ sự thân yêu người xa. Đối với hai quốc vương ấy, nên cấp cho sắc thư thế nào,

nên thưởng cho vật phẩm gì, số lượng bao nhiêu bộ nên tra xét trong hạn định rồi tâu lên

để châm chước mà làm” [37, tr. 275].

Chính vì sự triều cống đều đặn và thái độ yêu mến triều đình nên triều đình rất hài

lòng, vua dụ rằng “hai nước ở cõi xa, người mến thánh giáo của triều đình, được liệt vào

hàng chầu đã lâu. Tấm lòng sợ mệnh trời, thờ nước lớn, trước sau không thay đổi, rất

đáng khen thưởng. Sứ bộ ấy trước kia đã được chầu hầu, đến khi về, theo lệ, có ban cho

35

sắc thư và các phẩm vật. Nay sứ thần ở xa đến, tình huống càng đáng thương yêu, nên đã

chuẩn cho đội ở tỉnh Phú Yên, tha cho không phải đến kinh để bớt khó nhọc phiền phức”

rồi ban thưởng hơn nữa, sai phái viên đem đi ban cho nhưng đình không ban sắc thư mà

bảo cho về [37, tr. 388].

Qua nhiều lần tiếp xúc với sứ bộ Thủy Xá, Hỏa Xá nhà vua đã có ý định nâng đỡ

cho các sắc tộc miền núi bớt tự ti mặc cảm và cải thiện dân sinh, ý định đó được biểu

hiện qua các chỉ dụ mà triều đình nhà Nguyễn viết cho Thủy Xá, Hỏa Xá như sau:

Năm Minh Mệnh thứ 15 (1834), có chỉ dụ dạy rằng “từ trước đên nay tất cả các tờ

biểu văn của nước Thủy Xá cùng những chỉ dụ, tấu, báu, chương, sớ khen thưởng nước

ấy có dùng chữ Ma phải bôi lại sửa lại thành chữ Lung cho dùng xưng hô.

Ngoài ra triều đình cũng ra lời chỉ dạy “lần này quốc trưởng nước Thủy Xá đã theo

hạn kỳ dâng cống, kính thuận đáng khen nên đã dạt cho sứ thần nước ấy đến kinh đô

chiêm cận. Nhân nghĩ đến chánh và phó sứ nước ấy đã rong ruổi từ xa đến chẳng từ lao

khổ cũng đáng xót thương, ngoài phần thưởng cấp theo định lệ Trẫm gia ân cho Hữu Ty

tức thì lãnh vật liệu cắt may áo mão thường triều hai bộ tùng thất phẩm văn giai, ngày sứ

bộ ấy đến công cán thì trước tiên phải ban thưởng cho chánh và phó sứ mỗi người 1 bộ để

có sẵn khi hành lễ tiến cống”.

Bên cạnh đó cũng đưa ra các lời dụ như sau: “năm nay nước Thủy Xá đúng đến kỳ

dâng cống, nay quốc vương nước ấy là Ma Lâm cẩn thận ủy thác các bồi thần là Ma

Duyên, Ma Tài làm chánh sứ và phó sứ đến kinh đô triều cống kính dâng phẩm vật, trẫm

nghĩ nước đó ở vào một góc xa xôi, thắt nút dây mà cai trị, tự cày lấy mà ăn, phong tục

còn theo người thượng cổ…cho nên thánh nhân đã lấy văn minh mà giáo hóa man rợ,

phải lấy lễ nghĩa dẫn dắt họ, khiến họ ngày càng theo phong tục văn minh. Hôm nay

Trẫm ngự điện cho sứ thần ấy triều cống, Trẫm thấy tận mắt bọn họ áo mão tề chỉnh, quỳ

lạy thung dung, đều hợp lễ tiết, lòng Trẫm khen thưởng sâu xa, những phẩm vật gì để ban

thưởng thì hãy cho thu nhận. Lại thưởng cho hai người sứ thần ấy mỗi người sa đoạn mỗi

thứ một cuốn, cho một viên thông sự the ta hai tấm, cho ba viên hành nhân mỗi người

mẫu ty một tấm, lại ban thưởng cho chánh sứ họ Lĩnh, vẫn giữ tên Duyên, cho phó sứ họ

36

Kiệu, vẫn giữ tên Tài khiến cho biết tên và họ để nhiễm theo phong tục văn minh” [3, tr.

177].

Vào năm đó, cũng nhằm mục đích để cho các thuộc quốc nhiễm theo phong tục văn

minh, nhà vua còn ân thưởng ngoại lệ cho phiên vương Thủy Xá:

Một bộ đồ uống trà bằng sứ tây

Một bộ đồ uống rượu bằng pha lê

Một cái hộp pha lê vẽ chỉ vàng có cả dĩa

Một cái hộp bằng pha lê in bóng

Hai nhân vật bằng mã não đỏ.

Bên cạnh đó, nhà vua còn ban lịch cho hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá, vua xuống dụ

rằng: “nước Đại Nam ta, đức hóa thấm khắp, thánh giáo rộng ban, khoảng năm Minh

Mệnh, vua nước Thủy Xá là Vĩnh Liệt đã phụ thuộc vào nước Nam, khi trẫm mới lên

ngôi, vua nước Hỏa Xá là Cửu Lại cùng nước Thủy Xá cho sứ sang tỏ lòng thành, dâng lễ

cống. Trẫm khen lòng hướng mộ ấy, đã có sửa đổi quốc hiệu, cho tên hay, ban mũ áo,

châm chước định ra lễ cống. Nay hai nước đã theo lễ chư hầu, đời làm phiên thần, lịch

của triều đình đã ban cho, nên coi như dân một nước. Chuẩn cho từ nay trở đi, hàng năm

phát cho một bản quan lịch, 50 bản dân lịch, giao cho tỉnh Phú Yên chuyển cấp, bắt đầu

từ năm Thiệu Trị thứ năm. [37, tr. 205]

Như vậy, cùng với việc ban mũ áo, vua Minh Mạng còn ban tên cho Quốc trưởng và

hai vị chánh sứ, phó sứ của Thủy Xá với mong muốn họ ngày càng xích lại với văn hóa

của người Kinh hơn nữa.

Ngoài ra đến thời vua Thiệu Trị, khi Lê Văn Quyền được lệnh vua đi thám sát vùng

đất cao nguyên, đặc biệt lưu ý đến hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá, Lê Văn Quyền đã khảo

cứu tường tận về lễ nghi, phong tục đến cách ăn uống, lối chào đón, xưng hô của dân tộc

này. Sau chuyến khảo cứu này, vua Hỏa Xá đã theo gót ông đến kinh đô để cống hiến

phương vật gồm sừng tê, ngà voi, và sau đó vua Hỏa Xá được vua Thiệu Trị ban cho

danh hiệu là Cửu Bảo.

37

Như vậy chúng ta thấy Vĩnh Bảo, tên Thủy Xá, và Cửu Bảo, tên Hỏa Xá là những

cái tên mang âm hưởng Việt Nam, chính nhờ biện pháp này mà tình tương thân giữa hai

miền cũng như của triều đình đối với các dân tộc miền núi ngày càng được thắt chặt hơn

nữa. Bên cạnh đó thì việc ban họ Vĩnh cho Quốc trưởng Thủy Xá cũng có “thâm ý” như

tác giả Vũ Ngọc Bình viết [7, tr. 39] vì như chúng ta biết trước đó vua Minh Mạng đã có

làm một bài thơ gọi là Đế hệ thi quy định cách đặt họ và tên cho các vua kế tiếp mình,

với câu mở đầu là “Miên Hồng Ưng Bảo Vĩnh” [50, tr. 98]. Vậy ban cho quốc trưởng

Thủy Xá họ Vĩnh có nghĩa là con cháu của các vua Nguyễn. Chính việc này có thể làm

cho mối quan hệ giữa triều Nguyễn với Thủy Xá, Hỏa Xá trở nên khăng khít hơn, đồng

thời triều đình cũng có thể can thiệp sâu hơn vào nội bộ của các thuộc quốc này.

Năm 1848, nước Thủy Xá và Hỏa Xá sai các sứ thần về kinh làm lễ tiến hương. Đây

là lần thông giao cuối cùng giữa triều đình Huế với hai thủ lĩnh người Giarai là Thủy Xá

và Hỏa Xá. Sau lần này, các sử sách không còn ghi lại sự bang giao giữa hai nước nữa.

Trong các cống vật của Thủy Xá và Hỏa Xá nộp cho các vua Nhà Nguyễn là

những thứ lâm đặc sản quý hiếm của núi rừng như ngà voi, sừng tê giác, kỳ nam, trầm

hương, mật ong. Đặc biệt là các loại gỗ có hương thơm như kỳ nam, trầm hương được

đánh giá cao dưới thời thuộc Champa, được triều đình Huế kế tục tín nhiệm và ưa thích.

Cho đến nay, một số nhà nghiên cứu cho rằng: cống phẩm của hai phiên vương

Thủy Xá và Hỏa Xá dâng nộp cho các vua triều Nguyễn là một thứ thuế khá nặng và

mang tính chất bóc lột. Nhưng sự thật cống phẩm của Thủy Xá và Hỏa Xá dâng nộp chưa

ngang bằng với những khoản chi phí mà triều đình nhà Nguyễn đã bỏ ra như chi phí đưa

sứ bộ từ Phú Yên về kinh, khoản đãi, ban tặng phẩm vật, xem hát. Do có số sản vật thu

lại tương đối lớn và có giá trị sử dụng cao, nên các phiên vương đều mong muốn được đi

tiến cống nhiều lần, chứ không hạn chế theo quy định 3 năm 1 lần. Mục đích của nhà

Nguyễn là muốn tuyên dương “thanh cung giáo hóa” hơn là trị giá tương đương của

cống phẩm, và việc làm ấy đã được các phiên vương chấp nhận, quy thuận, đồng tình.

Sau khi nhận được cống vật, các vua triều Nguyễn bao giờ cũng tặng lại cho vua

Thủy Xá, Hỏa Xá và các sứ thần một số phẩm vật có giá trị. Cụ thể như sau:

38

Năm Minh Mạng thứ 10 (1829), vua ban tặng vua Hỏa Xá 1 tấm sa có vôn màu

xanh, 1 tấm sa có vôn màu đỏ, 20 tấm sa nam. Năm 1832, vua Minh Mạng quy định: tặng

cho vua Hỏa Xá 2 mảnh gấm thêu kim tuyến thời nhà Tống, 2 cuốn sa tanh, 2 tấm nhiễu

đen, 8 mảnh nhiễu địa phương, 10 tấm lụa địa phương, 1 tấm lụa thêu màu đỏ, 1 tấm lụa

màu chàm. Ngoài ra, vua Hỏa Xá còn nhận thêm một số hiện vật quý như:

+ 1 bộ ấm trà phương tây;

+ 1 bộ đồ uống rượu bằng thủy tinh;

+ 1 cái hộp bằng thủy tinh có chân mạ vàng;

+ 1 hộp thủy tinh trang trí 2 biểu tượng nhỏ bằng đá. [7, tr. 502]

Đến năm Tân Sửu (1841) đời vua Thiệu Trị, tặng phẩm cho vua Thủy Xá được quy định:

+ Khăn nhiễu màu lam dài 8 thước,

+ Áo dài bằng sa dày, màu lam, màu trắng, một cặp;

+ Áo nhung vải trong lót lụa màu, tay hẹp, 1 cái;

+ Áo sa dày màu lam trắng, tay hẹp, 1 cặp;

+ Áo sa nam toàn tơ tay hẹp các màu, 5 chiếc;

+ Quần nhiễu màu lam hồng mỗi màu, 1 chiếc;

+ Quần lụa nam màu cánh kiến 2 chiếc;

+ Một bộ đồ uống rượu có 1 cái nậm, 3 cái chén, 1 cái khay.

Đồng thời, vua nước Hỏa Xá cũng được nhận thêm:

+ Một cái khăn nhiễu màu lam dài 8 thước;

+ Áo dài bằng sa dày màu lam, màu trắng, 1 cặp;

+ Áo nhung vải trong lót lụa màu, tay hẹp, 1 chiếc;

+ Áo sa nam màu hồng mỗi màu, 1 chiếc;

+ Một bộ đồ uống rượu;

+ Mỗi vua được nhận 1 cặp áo hàm tam phẩm. [7, tr. 538]

Ngoài ra, các sứ bộ cũng được nhận một phần tặng phẩm như: Năm Giáp Ngọ

(1834), vua Minh Mạng ban tặng cho sứ bộ Hỏa Xá bộ triều phục hàm “thất phẩm”; năm

39

Đinh Dậu (1837) sứ bộ Hỏa Xá được vua Minh Mạng ban yến; năm Bính Ngọ (1846) đời

vua Thiệu Trị, sứ thần Thủy Xá, Hỏa Xá được xem diễn trò ở nhà Duyệt thị.

Vua Tự Đức còn ban tặng phẩm cho Thủy Xá và Hỏa Xá kim tiền lưỡng long, kim

tiền vạn sự như ý, ngân tiền phi long, ngân tiền lưỡng long, đồng tiền mỹ hiệu mạ bạc, sa

vũ hoa sắc đỏ, sa hoa chính đỏ, chén độc bạc sắc trắng của phương Tây, ấm pha trà, chén

đĩa bằng sứ, kim loại.

Trong các lần tiến cống, nhiều lần sứ bộ chỉ đến Phú Yên dâng lễ cống và nhận

tặng phẩm như các năm: 1803, 1822, 1842, 1855, 1859, 1868, 1878. Trường hợp các sứ

giả được phép đến kinh, thì tỉnh Phú Yên phải chuẩn bị phương tiện đi lại và hộ tống họ

từ Phú Yên ra kinh đô và ngược lại.

Về chi phí cho cuộc hành trình đi về kinh đô, năm 1834, vua Minh Mạng quy định

tiền thức ăn và tiền đi lại của đoàn đại biểu gồm:

+ 30 quan tiền đồng;

+ 1 con lợn, 5 con gà, 5 con vịt;

+ 20 giạ gạo nếp;

+ 5 giạ gạo trắng;

+ Cá ướp muối và nước mắm;

+ 1 vò rượu;

+ Trầu và cau đầy đủ số lượng

+ Phương tiện đi lại được ấn định bằng đường thủy [38, tr. 538].

Có thể xem đây là trường hợp đặc biệt, vì triều Nguyễn không làm vậy ở bất cứ

một đối tác nào trên lãnh thổ Việt Nam đương thời. Mỗi lần được đến kinh, sứ bộ Thủy

Xá và Hỏa Xá đến đồn Phước Sơn chờ viên chức Phú Yên lên đón sứ bộ về công quán

của tỉnh nghỉ và khoản đãi. Đến khi sứ bộ lên đường, tỉnh Phú Yên phải cử một viên

Thông phán hoặc Kinh lịch sung chức Trường tống, đưa phái bộ ra kinh.

Xem qua việc nhà Nguyễn tặng lại những tặng vật có giá trị cho các sứ bộ Thủy

Xá, Hỏa Xá chứng tỏ chính sách mềm mỏng và an dân của các vua triều Nguyễn đã được

thể hiện rõ trong cách đối xử mỗi khi họ cử người đến kinh đô dâng cống hay triều bái.

40

Ngoài ra giữa Thủy Xá, Hỏa Xá với triều đình phong kiến Việt Nam còn diễn ra

các mối giao lưu kinh tế. Phủ biên tạp lục cho biết: “Trong thời họ Nguyễn vỗ trị, thường

cứ năm năm một lần sai cai đội Phú Yên làm chánh phó sứ đem cho áo gấm, mũ, nồi

đồng, chảo gang, bát sứ các vật và thu thuế cống. Sai người thổ trại Làng xung thượng

phủ Qui Nhơn dẫn đường đến Phú Yên chỗ giáp đầu nguồn Hà Lôi. Lại sai người Đê dẫn

đường đến các sách Man thượng và Man cao, cho đến nước ấy (tức Thủy Xá và Hỏa Xá).

Nước ấy soạn ngay các thứ kỳ nam, sáp ong, lộc nhung, tê giác, mật gấu, voi đực, giao

cho sứ giả đem về dâng. Lại dâng hương do ngũ vị chế thành. Núi nước ấy có tổ kiến trên

cây, con kiến non đen to như đầu đũa. Trứng và con đều thơm, gọi là hương con kiến.

Người Man lấy đồ qua, lại lấy hoa khảm, hoa mộc, rễ bài trộn lẫn vào, lấy dầu tô hạp hòa

vào, lấy lá chuối gói lại, để đồ ở trên chõ cơm xôi. Cơm chín thì lấy ra, hơi thơm ngát. Để

hương ấy vào trong hòm áo, một năm không hết mùi thơm” [17, tr. 126].

Phương đình Nguyễn Văn Siêu cũng viết: “Buổi quốc sơ (thời các chúa Nguyễn),

2 nước ấy (Thủy xá và Hỏa xá) đều dâng đồ cống tỏ lòng thành. Cứ 5 năm 1 lần chúa sai

sứ đem áo gấm đồ đồng đến hai nước ấy mà ban cho” [17, tr 185].

Kỳ nam, trầm hương là những mặt hàng đặc biệt và chỉ ở miền núi mới có. Lê Quý

Đôn nhận xét rằng, trầm hương sản xuất ở Chân Lạp là tốt nhất, thứ đến của Chiêm

Thành. Theo Li Tana, người Chăm đã đóng vai trò như là người trung gian môi giới, mua

lại kỳ nam, trầm hương của người miền núi rồi bán cho các thuyền buôn nước ngoài.

Sách Đại Nam nhất thống chí cho biết, họ Nguyễn lập ra những trường giao dịch ở các

nguồn thuộc tỉnh Bình Định, đạo Phú Yên làm nơi thu mua sản vật miền núi. Ví dụ như

nguồn An Tượng (Bình Định) chuyên sản xuất củ nâu, nguồn Hà Thanh cung cấp thuốc

lá, nguồn Thạch Bàn mỗi năm nộp thuế 56 cân linh sáp ong; gỗ kiền kiền, trầm hương, kỳ

nam đều có thuế… Tại đạo Phú Yên có hai nguồn là Hà Duy và Thạch Thành đều có

trường giao dịch. Nguồn Thạch Thành hàng năm phải nộp thuế 364 cân sáp ong, Hà Duy

là 30 cân; Thạch Thành 325 cân mật ong, Hà Duy 300 cân một năm… Giáng hương, kỳ

nam, sa nhân… ở hai nguồn đều phải nộp thuế hàng năm

41

Việc mở mang kinh tế vùng dân tộc thiểu số lúc bấy giờ được nhà Nguyễn giao cho

Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Khắc Tuấn phụ trách, hai ông đã tổ chức cho đồng bào

vùng dân tộc miền núi biết cày bừa bằng trâu bò, tổ chức nhiều khu dinh điền và đồn điền

để di dân ở đồng bằng lên khai hoang lập ấp, khuyến khích trao đổi hàng hóa giữa người

đồng bằng và người miền núi.

Dưới thời Nguyễn, hầu hết các dân tộc ở Tây Nguyên đều chịu ảnh hưởng của vua

Thủy Xá, Hỏa Xá và họ được gọi là những thuộc quốc, với tư cách là những thuộc quốc,

các vua Thủy Xá, Hỏa Xá thường xuyên đến triều cống và được các vua Nguyễn đối xử

tử tế nhằm lấy ân đức để giáo hóa, đó chính là biểu hiện của chính sách “nhu viễn” của

vua Minh Mạng.

Nguyên lí “chiêu văn đức dĩ lai chi” vẫn được các vua tiếp theo của triều Nguyễn

thực hiện. Thiệu Trị năm thứ 3 (1843) vua có dụ rằng Thủy Xá, Hỏa Xá vốn ở góc xa

xôi, từ lâu hâm mộ thanh uy giáo hóa của triều đình, theo lời tâu, năm nay nước ấy ngẫu

nhiên bị nạn đói và bệnh dịch, tình hình cảm thấy khó khăn và quẫn bách mà còn dong

ruổi xa xôi hiểm trở tuân theo hạn kì triều cống, một tấm lòng thành ấy thật đáng xét tình

cho. Có bao nhiêu phẩm vật tặng thưởng cho nước ấy và khoản đãi thì hữu ti hãy chiếu

theo lệ lo liệu, nhưng vẫn chuẩn cho những vị bồi giới ấy làm lễ vọng bái ở hành cung

nơi tỉnh ấy, việc xong thì khiến họ trở về nước, khỏi phải đến kinh đô lặn lội rong ruổi

lao nhọc, hầu biểu thị cái ý biết thương xót kẻ ở xa của Trẫm.

Như vậy chính sách của nhà Nguyễn chính là sự kế tiếp chính sách hòa hợp, giao

hảo với các dân tộc thiểu số thời Chúa Nguyễn, các vua triều Nguyễn đã có sự quan tâm

đặc biệt đối với đồng bào miền núi Nam Trung Bộ (Tây Nguyên ngày nay), nhằm tạo nên

một khối đoàn kết, thống nhất các dân tộc trong nước.

Sự quan tâm của triều đình Huế đến hai phiên vương chứng tỏ kế sách vừa ổn định

xã hội, vừa giao lưu hàng hóa, phát triển kinh tế, bảo vệ cương vực lãnh thổ từ đồng bằng

đến miền núi, góp phần phát triển đất nước .

Nhìn lại lịch sử một lần nữa chúng ta thấy rằng chính sách của nhà Nguyễn đối với

hai thuộc quốc Thủy Xá, Hỏa Xá tương đối nhẹ tay hơn so với các dân tộc thiểu số ở khu

42

vực miền Trung cả về chính trị, kinh tế và văn hóa. Có thể điều này là do dưới thời

Nguyễn, đặc biệt là thời Minh Mạng, khi mà mối quan hệ của hai thuộc quốc với triều

đình nhà Nguyễn thể hiện một cách rõ rệt nhất thì triều đình nhà Nguyễn gặp phải nhiều

vấn đề trong nước và cả bên ngoài khiến nhà Nguyễn phải chú tâm nhiều và chưa thể

quan tâm, với tay trực tiếp đến vùng đất Tây Nguyên để chia khu vực, đặt quan chức cai

trị trực tiếp như ở các vùng khác. Hơn nữa đội ngũ quan chức có khả năng cai trị ở vùng

dân tộc thiểu số của triều đình còn quá ít ỏi, chưa đủ sức cai trị ở toàn khu vực miền

Trung, Tây Nguyên. Do vậy nhà Nguyễn đã thực hiện chính sách mềm dẻo, khéo léo để

tự vỗ yên vùng đồng bào dân tộc này.

Nhưng xét về một khía cạnh khác, mặc dù vẫn biết các chính sách của nhà Nguyễn

là mềm mỏng, là “nhu viễn” đối với các thuộc quốc cõi xa như Thủy Xá, Hỏa Xá nhưng

xét về mặt lịch sử và nhìn nhận sự thật thì chúng ta thấy có những sự kiện chứng tỏ rằng

nhà Nguyễn chỉ thực hiện những chính sách đó nhằm vỗ về và thu phục những người dân

tộc thiểu số ở đây mà thôi chứ chưa có sự quan tâm thực sự đến họ. Dựa vào những tư

liệu lịch sử ta thấy triều Nguyễn đã có sự nhầm lẫn giữa hai tiểu quốc Thủy Xá, Hỏa Xá

mà mãi về sau họ mới thấy được sự nhầm lẫn đó để sửa lại cho đúng. Sách Đại Nam

Thực lục chép về sự nhầm lẫn này như sau: “năm Minh Mệnh thứ 13 (1831) nước Thủy

Xá mới sai sứ đến cống, người thông dịch lại nói nhầm là Hỏa Xá, triều đình nhân theo

cũng cho là Hỏa Xá. Đến đây tỉnh thần Phú Yên là Lộc Khiêm Quang và Nguyễn Văn Lý

vâng lời thánh dụ, sai người đến tận nước ấy, hỏi rõ tình trạng rồi tâu lên. Lại tâu rằng:

Nước Thủy Xá liệt vào hàng chức cống của nước ta đã gần 20 năm nay, chỉ vì người

thông dịch nhầm Thủy ra Hỏa” [37, tr. 145].

Tuy nhiên mặc dù bị nhầm lẫn về tên gọi như vậy nhưng nước Thủy Xá và Hỏa

Xá họ cũng chẳng hề có phản ứng gì để đề nghị triều đình nhà Nguyễn sửa lại cho đúng

tên gọi của họ, họ vẫn rất dửng dưng trước điều này. Chẳng hạn như khi một vị quan của

triều Nguyễn hỏi về tên gọi của Thủy Xá, họ trả lời rất đơn giản như sau: “nước tôi là

Hỏa Xá, quốc trưởng xưng là Hỏa Vương, tôi chưa nghe thấy có nước Thủy Xá, gọi là

Thủy Xá vì người sứ nước thông ngôn dịch nhầm”.

43

Khi Lê Văn Quyền về nước Thủy Xá đem những lời của Hỏa Xá hỏi lại quốc

trưởng Vĩnh Liệt, “Vĩnh Liệt từ chối là sự thể ấy là việc đời trước, như thế nào hậu sinh

chúng tôi cũng không biết được”, Quyền tiếp tục hỏi: “đây là Thủy Xá, tại làm sao năm

trước đây lại xưng danh là Hỏa Xá?’” thì Thủy Xá trả lời rất đơn giản như sau: “ấy,

chúng tôi là Thủy Xá, sở dĩ xưng là Hỏa Xá vì đấy là người đi sứ nói nhầm, tôi cũng

không biết”. Khi bị chất vấn lại thì người đi sứ lúc trước là Ma Xanh nói rằng “nước

chúng tôi không biết chữ nghĩa, văn tự, tôi chỉ biết nước tôi vốn là Ia, Ia là Thủy (nước)

đấy, phía Tây nước này vốn gọi là Pui, Pui là Hỏa (lửa) đấy. Ngày trước nghe trên bộ hỏi

đến hai chữ Thủy, Hỏa tôi chả biết thế nào là Thủy, Hỏa chỉ theo lời mà vâng, thành ra

dùng nhầm là Hỏa Xá” [45, tr. 129].

Như vậy chúng ta thấy rằng, mặc dù có sự nhầm lẫn rất lớn của triều đình nhà

Nguyễn về tên gọi của Thủy Xá, Hỏa Xá trong các lần triều cống nhưng khi biết được

việc này thì họ cũng không phản ứng gì cả. Đối với họ, Thuỷ Xá hay Hoả Xá chỉ là tên

mà Chúa Nguyễn hay Nhà Nguyễn gọi họ mà thôi, họ không xem đó là quốc hiệu.

Bên cạnh đó chúng ta còn thấy mỗi lần đi chầu, đi cống cho triều đình nhà Nguyễn

thì các sứ bộ của Thủy Xá, Hỏa Xá không cần phải đi ra đến tận kinh thành Huế, triều

đình nói rằng vì xa xôi cách trở nên tạo điều kiện thuận lợi để cho Thủy Xá và Hỏa Xá

chầu tại Phú Yên, và mọi hoạt động đón tiếp cũng như nhận vật phẩm triều cống đều diễn

ra tại Phú Yên và được cai đội Phú yên chăm sóc, ban cấp thưởng lộc cũng nhận từ Phú

Yên. Ở vấn đề này, khi nhìn nhận ta thấy được sự quan tâm, chu đáo của triều đình đối

với các thuộc quốc này, nhưng trên một khía cạnh khác ta lại thấy rằng có thể triều đình

chỉ coi Thuỷ Xá, Hỏa Xá là một vùng đất nhỏ nằm trong một tỉnh của Đại Nam mà thôi.

Việc đón tiếp sứ bộ của Thủy Xá, Hỏa Xá cũng chẳng mấy quan trọng, chỉ là làm sao để

vỗ yên vùng miền núi xa xôi tránh những cuộc nổi dậy chống phá của các bộ tộc thiểu số

miền núi.

Như vậy thật ra họ có nhận được sự phong vương từ triều đình, có sự giao hảo

trong quan hệ đôi bên nhưng xét về thực chất thì triều đình cũng chỉ làm những việc này

cho có lệ chứ thực sự không hề coi họ là một nước và bản thân Thủy Xá, Hỏa Xá họ cũng

44

không coi họ là một nước như sử sách vẫn thường ghi lại bởi họ không có Vua. Chính

các vị vua Thủy Xá, Hỏa Xá cũng không nhận họ là Vua mà chỉ tự nhận là Ơi (tức là

Ông, thầy cúng). Lần dở những trang sử cũ ghi chép về điều này chúng ta có một số minh

chứng như sau:

Nói về Thủy Xá: “chỗ ở của họ 3 mặt là núi cả, một mặt cánh đồng rộng, trong đó

độ 100 nhà, quốc trưởng ở trong một cái nhà lá bảy gian, ở bên Đông chỗ dân ở, không

xây thành quách, trong nhà buộc cái giá để thờ thần ma, họ hàng tôi tớ độ 15 người mà

thôi” [45, tr. 124].

Nói về Hỏa Xá: “nước họ không có đặt quan chức, cũng không có bắt lính, không

có hình luật, dân không biết văn tự, có vay mượn nhau thì lấy dây buộc nút để nhớ. Cách

sinh sống thời chặt cây xuống, giùi lỗ xuống đất để trồng cấy, không biết cày bừa, hàng

năm không có lấy thuế má gì cả, quốc trưởng cũng không có đòi hỏi. Quốc trưởng có đi

đâu, gần thời chỉ độ 3, 4 người đi theo, xa cũng không quá hơn 10 người, cưỡi độ 3 con

voi, đều đội nón lá không có tàn lọng” [45, tr. 125].

Như vậy ta thấy những ghi chép về Thủy Xá, Hỏa Xá chứng tỏ họ chưa đủ điều

kiện là một nhà nước, bởi họ cũng không có quân đội, không có hình luật mà chỉ có luật

tục, không thu thuế, và đặc biệt là cũng chưa có chữ viết.

Những nghiên cứu điền dã của Giáo sư Nguyễn Tấn Đắc cũng cho thấy quan điểm

này. Phỏng vấn người Giarai, họ nói “Pơtao gắn với thần linh, do thần linh chọn, được

thần linh cho làm, giao nhiệm vụ. Pơtao (người Giarai chỉ gọi Ơi) nói cái gì thì có cái đó

nên người ta tin, tôn thờ. Pơtao không có chức năng quản lý xã hội khác với Pơtao của

người Chăm ở thời kì có nhà nước. Pơtao của người Giarai thuộc thời kì tiền nhà nước,

chưa có quyền lực nhà nước. Pơtao là người sung sướng nhất được thần linh ban cho biết

trông coi và giúp đỡ mọi người. Dân quý Pơtao nên cho heo, gà, gạo, tiền chứ hoàn toàn

không phải là hình thức đóng thuế bắt buộc. Ở Tây Nguyên chưa có nhà tù, chưa có chế

độ cai trị, cả già làng và dân thường cùng như nhau, chưa phải đã hình thành nhà nước.

Không có hội đồng già làng, trong những công việc của làng, dân mời những người già

có uy tín, biết cúng. Hoàn toàn không có tổ chức hội đồng già làng như hiện nay. Già

45

làng không phải là người nhà nước, họ thực hiện việc điều hành cộng đồng bằng phong

tục tập quán của tộc người, hoàn toàn không quản lí theo pháp luật” [16, tr. 300].

Bình luận về vấn đề này, trong tác phẩm Beyond complicity and naiveté (Bên kia

sự đồng lõa và khờ khạo), tác giả Oscar Salemink, một học giả người Hà Lan cho rằng

“cái tước vị Vua là một cái tên gọi sai…dùng để chỉ chủ quyền của người Thượng trên

cao nguyên miền Trung trong con mắt của những nước láng giềng và xâm lược” [34, tr.

215]. Luận điểm này của Oscar được nhiều người quan tâm tìm hiểu. Như chúng ta biết,

người Giarai họ không hề tự nhận mình là vua, họ chỉ gọi là các Ơi, các Ơi theo tiếng

Giarai có nghĩa là các Ông mà ta thường hay nghe gọi, sau tiếng Ơi là tên riêng của từng

người, ví dụ như: Ơi Alunh, Ơi Chuch, Ơi Bam. Họ gọi tiếng Ơi một cách tôn kính và

thiêng liêng như người Việt chúng ta gọi Ông Nội, Ông Ngoại, Ông Trời…, những ngôi

làng có các Ơi ở cũng được gọi tên theo một cách tôn kính, chẳng hạn như làng mà Ơi

Alunh ở cũng gọi là Plei Ơi – tức làng Ông. Còn thuật ngữ Pơtao dùng để chỉ vua lại là

một từ gốc Chăm, Thủy Xá, Hỏa Xá là từ Hán Việt do các triều đại phong kiến Việt Nam

sắc phong: Hỏa xá quốc vương, Thủy Xá quốc vương chứ không phải do người Giarai tự

gọi bởi họ không biết văn tự và cũng chẳng biết tiếng Hán Việt. Như vậy gọi là Vua có

thể là một cách gọi sai đúng như Oscar nói, bởi vì những người này chỉ là thầy cúng chứ

không phải là những người cai trị đứng đầu một làng. Các tơring trong xã hội Giarai càng

không thể là một nước bởi vì tơring chỉ là tổ chức xã hội vượt ra khỏi phạm vi từng làng

độc lập, thu hút nhiều làng để hình thành những cộng đồng lớn hơn (gọi là tơring, char),

hay khi nghiên cứu văn hóa xã hội và con người Tây Nguyên, Nguyễn Tấn Đắc viết:

“Một số làng ở trên một ngọn đồi nào đấy hay ở trong một thung lũng nào đấy có thể liên

kết với nhau thành một tơring, cùng chia sẻ những quan hệ thế tục nào đó, nhưng mỗi

làng vẫn độc lập trong những lễ thức cúng tế của mình”[15, tr. 320].

Trong công trình Không gian xã hội vùng Đông Nam Á, Georges Condominas

cũng viết: “Trước khi người Pháp đến, tổ chức xã hội và chính trị của đa số các bộ lạc

người Đông Dương nguyên thủy ở miền Trung Việt Nam chưa hề vượt ra khỏi khuôn khổ

cái làng. Mỗi làng sống độc lập với làng lân cận mà lúc nào cũng ở trong tình trạng chiến

46

tranh ngầm với nhau, trừ phi là thỏa thuận liên minh với nhau, một thứ liên minh thường

không lâu bền… nhằm chống một làng thứ ba” [18, tr. 556].

Theo tài liệu điền dã của giáo sư Nguyễn Tấn Đắc thì Siu Alunh nói rằng “gọi

Pơtao là gọi bậy”, còn anh hùng Núp nói :”Giarai cũng không có từ Pơtao” [16, tr. 9].

Như vậy Thủy Xá, Hỏa Xá mà đứng đầu là các vị Pơtao ở đây hoàn toàn chưa thật

sự là một tổ chức chính trị, xã hội, vai trò của các thủ lĩnh chỉ nổi bật khi tiến hành các

nghi lễ hoặc có chiến tranh. Các Pơtao là những vị “vua” có ảnh hưởng rộng lớn trên lãnh

thổ của họ nhưng họ là hiện thân của sự tín ngưỡng yang. Trên thực tế, các pơtao Ia (vua

Nước), pơtao Apui (vua Lửa) từ xưa chỉ chuyên cúng trời, đất, cầu mưa thuận gió hòa...

đúng như vai trò của họ trong xã hội người Giarai từ trước cho đến tận ngày nay.

Tóm lại suy ra cho cùng thì mối quan hệ giữa Thủy Xá, Hỏa Xá với các triều đại

phong kiến Việt Nam là một mối quan hệ qua lại, có lợi cho cả đôi bên, với triều đình

phong kiến Việt Nam với sự trao đổi sản vật giữa miền xuôi và miền núi, họ sẽ có được

nguồn lâm thổ sản quý giá mà chỉ có vùng miền núi này mới có như sừng tê, ngà voi,

cánh kiến, …bên cạnh đó bằng các chính sách của mình họ có thể vỗ yên được các dân

tộc thiểu số ở vùng miền núi Tây Nguyên để dễ bề cai trị. Ngược lại các dân tộc thiểu số

cũng có được những thứ mình muốn như sự che chở của triều đình phong kiến, và họ có

được những thứ cần thiết cho cuộc sống của mình, đặc biệt là muối, sắt…Điều này hoàn

toàn đúng với câu nói “hạt muối lên rừng, cây nấm về xuôi” dùng để nhắc đến sự trao đổi

sản vật giữa miền xuôi và vùng miền núi.

2.1.2. Những chính sách của các vương triều phong kiến Việt Nam đối

với Thủy Xá, Hỏa Xá • Đào tạo thông ngôn và phiên dịch Thượng ngữ

Để thu phục các tộc người thiểu số, trong đó có cả Thủy Xá và Hỏa Xá, nhà Nguyễn

đặc biệt lưu ý đến việc đào tạo các viên chức cả người dân tộc và người Kinh để phục vụ

cho công tác miền núi, đặc biệt là khu vực miền núi Trung và Tây Nguyên.

Để hiểu rõ dân tình và được biết rõ ràng về các văn bản ngoại quốc cùng các thuộc

quốc ở những vùng sâu, vùng xa xôi như Thủy Xá, Hỏa Xá, ngay từ đầu, vua Gia Long

47

đã cho tuyển dụng tại các thành trấn một số thông dịch viên Thượng ngữ đảm nhiệm

công tác thông ngôn, thông sự và hướng dẫn các sứ bộ (hành nhân) khi họ vào tiến cống,

thăm hỏi, xã giao…đồng thời phiên dịch các văn bản được gửi tới từ cùng đồng bào dân

tộc thiểu số. Những thông dịch viên này cũng được xếp vào hàng bát phẩm và cửu phẩm.

Minh Mạng là vị vua thứ hai của vương triều Nguyễn, một ông vua thông minh, tài

giỏi, chăm lo việc nước. Với mong muốn triều đại bền vững, nước Đại Nam trở nên hùng

mạnh, phú cường, vua Minh Mạng đã lưu tâm đến mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn

hóa... định ra nhiều chính sách tương ứng để xây dựng và phát triển đất nước, củng cố

khối đoàn kết dân tộc.

Công tác giáo dục, đào tạo con người, nhất là giáo dục và đào tạo các viên chức

người dân tộc cũng như viên chức người Kinh lên công tác miền núi là một trong những

chính sách được Minh Mạng đặc biệt quan tâm, xem đó là chiến lược nhằm gìn giữ sự ổn

định của đất nước.

Tiếp nhận giang sơn từ tay vua Gia Long với một tình hình xã hội chưa hoàn toàn

ổn định sau gần 300 năm ly tán loạn lạc, Minh Mạng dường như phải bắt đầu tất cả. Ông

gần như là người đầu tiên phải giải quyết vấn đề dân cư, dân tộc trên một phạm vi lãnh

thổ rộng lớn nhất, phức tạp nhất, nhiều thành phần dân tộc cư trú nhất.

Để củng cố và xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vững

mạnh, vua Minh Mạng đã có sự quan tâm thích đáng, đặt ra nhiều biện pháp phù hợp để

có chính sách cai trị lâu dài đối với đồng bào các dân tộc ít người trong cả nước. Việc

triển khai một kế hoạch giáo dục, đào tạo viên chức cho con em người thiểu số tại các địa

phương rất được nhà vua chú ý, xem trọng, coi đó như một trong những phương pháp

chính để truyền bá văn hóa tới đồng bào các dân tộc ít người. Sau những năm đầu thực

thi chính sách dân tộc một cách quy mô trên toàn quốc, vua Minh Mạng nhận thấy nhu

cầu thông hiểu phong tục tập quán, ngôn ngữ giữa các dân tộc trong nước ngày càng trở

nên bức thiết. Để giải quyết tình trạng bất đồng ngôn ngữ, tạo cơ sở cho sự hiểu biết, giao

lưu văn hóa, đồng thời gây dựng nền tảng cho một nền văn hóa thống nhất, vua Minh

Mạng đã cho tiến hành kế hoạch đào tạo, giáo dục con em người Kinh học ngôn ngữ,

48

phong tục của các dân tộc thiểu số, dạy con em các dân tộc ít người học tiếng nói, chữ

viết của người Kinh. Kế hoạch này được thực hiện liên tục, rộng khắp vào những năm

cuối đời Minh Mạng, sau đó trở thành định lệ cho các đời vua kế tiếp thi hành cho đến

khi triều Nguyễn mất quyền cai trị đất nước vào tay thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX. Đây

cũng chính là biện pháp cơ bản nhằm giáo hóa đồng bào dân tộc theo sự thống nhất trong

văn hóa và giáo dục của người Kinh để nhà nước phong kiến trung ương thuận lợi trong

công tác quản lý, điều hành.

Khi vua Minh Mạng lên ngôi, đối với các sắc dân miền núi ông đã dùng một chính

sách khôn khéo gọi là Nhu viễn. Như trên đã nói, Nhu viễn là một cách giao tiếp phủ trị

cõi xa, nguyên lý của chính sách này là “chiêu văn đức dĩ lai chi”, mình phải làm cho

sáng cái văn đức khoan dung, đại lượng để người ta tình nguyện theo về với mình. Muốn

được như thế, tất phải có một số người thông hiểu các ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số,

do vậy vua đã hạ chiếu để lựa người.

Năm Minh Mạng thứ 8 (1827) nhà vua cho thiết lập hành nhân ty, lại lập thêm

chánh bát phẩm hành nhân và chánh cửu phẩm hành nhân.

Năm Minh Mạng thứ 15 (1834) nhà vua đưa chỉ dụ rằng: “từ nay hễ có thứ từ của

nước phiên thuộc gửi tới phải tức khắc dịch ra quốc âm và đệ lên chung với lá thư chánh,

bất tất phải dịch ra chữ Nho. Bài dịch phải căn cứ ở bản chính, sự lý dịch ra phải đều

minh bạch, cần thiết là không thể tự ý thêm một chữ hay bớt một chữ có thể đưa đến tội

không nhỏ” [3, tr. 182].

Tiến xa hơn một bước nữa, nhằm đào tạo những thông dịch viên người địa phương,

cũng năm Minh Mạng thứ 15 (1834), nhà vua ra lệnh cho ấn quan ở bộ, viện về cách lựa

chọn trong số con em của các thuộc viên cho quan kinh doãn lựa chọn trong số sĩ dân ở

hạt những người từ 16 tuổi trở xuống thông minh, hiểu biết lại được học hành, tiếp xúc

qua kinh sử, văn thơ, lễ nghĩa cho học tập ngôn ngữ, chữ nghĩa của cả các nước Tây

dương và các phiên thuộc, khi học xong thì sẽ thâu dụng để làm những người thông dịch

viên với ngôn ngữ và kiến thức đã học được.

49

Từ năm 1835 trở về sau, chương trình giáo dục, đào tạo viên chức cho các dân tộc ít

người được triều Nguyễn chính thức thống nhất thành một kế hoạch của quốc gia. Vua

Minh Mạng quy định từ đây trở đi những ai tham gia học tập tiếng dân tộc thiểu số đều

được nhà nước đài thọ nơi ăn ở, được hưởng chế độ trợ cấp đặc biệt để ăn học theo tiêu

chuẩn “mỗi người một tháng được cấp 1 quan 5 tiền và 1 phương gạo” [38, tr. 414]. Cũng

trong năm 1835, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ lệnh cho tỉnh Nghệ An “kén chọn lấy người

thông hiểu chữ Man ở trong hạt, cần được nhiều người, rồi sức cho đội trưởng Lê Thái

Thực, thông ngôn Lê Thái Vĩ chỉ bảo rõ ràng, cần được thông thạo sớm, sau vài tháng về

Kinh để đợi làm việc công [38, tr. 415]. Sang năm 1836, chương trình giáo dục, đào tạo

viên chức cho các dân tộc ít người được triều đình tổ chức triển khai thực hiện sâu rộng

tới khắp các địa phương. Vua Minh Mạng truyền lệnh cho hàng loạt tỉnh thành trong

nước, mỗi tỉnh lựa chọn ra một vài người, tiền lương phụ cấp được hưởng theo tiêu chuẩn

đã quy định, được ăn ở luôn trong nha môn hoặc tại các địa điểm do quan tỉnh lựa chọn

để học tập ngôn ngữ, văn tự của người dân tộc, nhanh chóng đào tạo thành viên chức

phục vụ lâu dài cho các dân tộc ít người. Tùy theo sự phân bố dân tộc tại các địa phương

mà các tỉnh thành tự lựa chọn cho con em trong tỉnh học tập các ngôn ngữ dân tộc thiểu

số khác nhau sao cho phù hợp với công việc phục vụ các dân tộc ít người đang cư trú tại

chính tỉnh mình.

Lê Văn Quyền là một trong những người có sứ mệnh quan trọng trong việc gắn kết

mối quan hệ giữa triều đình phong kiến nhà Nguyễn với Thủy Xá, Hỏa Xá. Sinh ra và lớn

lên ở huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên, ngay từ thủa nhỏ, Lê Văn Quyền đã len lỏi theo

những đoàn thương lái lên buôn bán trên vùng miền núi, nhờ thông minh và ham học hỏi,

nên chưa đầy 20 tuổi ông đã thông thạo tiếng Giarai, Bana. Được các quan tỉnh Phú Yên

tiến cử, Lê Văn Quyền ra Huế làm phiên dịch tiếng dân tộc thiểu số cho triều đình và dạy

tiếng đó cho những thanh niên được các tỉnh tuyển chọn đưa ra Huế học tiếng của các

dân tộc thiểu số và tiếng nước ngoài. Chính ông là người đã phiên dịch trong những lần

sứ thần Thủy Xá, Hỏa Xá xuống Phú Yên và về kinh đô triều cống. Năm 1840 lê Văn

Quyền được lệnh đi thám sát vùng cao nguyên phía Tây, trong chuyến đi này, vùng đất

50

của Thủy Xá và Hỏa Xá đặc biệt được ông lưu tâm. Phái đoàn của Lê Văn Quyền đi từ

đồn Phước Sơn, tỉnh Phú Yên, sau sáu ngày đoàn đã đến nơi và được vua Thủy Xá, Hỏa

Xá đón tiếp trọng hậu, lúc phái đoàn trở về, sứ giả Hỏa Xá đã cùng đến kinh đô cống tiến

những sản vật địa phương như sừng tê, ngà voi… và được vua Thiệu Trị đón tiếp.

• Phủ dụ thượng dân

Năm Minh mạng thứ 2 (1841), nhà vua quyết định vẽ bản đồ quốc gia từng vùng,

từng địa phương để dùng vào việc quốc phòng, công tác này được giao cho giám thành

Phó sứ Đỗ Phúc Thịnh cùng binh sĩ đến các Đạo, các Mương khảo sát. Vì sợ những cuộc

hành binh làm cho các tộc dân kinh động và để phòng ngừa binh sĩ ức hiếp dân, nhà vua

đã nghiêm quân lệnh ngăn cấm binh sĩ không được sách nhiễu, nhờ vả thổ dân, việc mua

bán cũng phải rạch ròi, phân minh. Ngoài ra nhà vua còn ra dụ cho các tù trưởng địa

phương với nội dung như sau: “từ xưa khi có quốc gia, phàm đã thuộc trong bản đồ phải

rõ ràng cương giới, các Mương của các người đã thuận phục làm tôi của bản triều hơn

200 năm, giữ phận triều cống hàng năm, lòng chung thuận thành thật ấy rất đáng khen.

Chỉ vì núi sông đường sá chưa được rõ ràng nên nay chuẩn cho viên giám thành phó sứ

Đỗ Phúc Thịnh dẫn binh lính do bọn quản đạo Tôn Thất Thành, Nguyễn Văn Ngôn đến

những đạo ở các Mương của các người xem dò núi sông, đường sá vẽ thành bản địa đồ

tiến dâng lên xem để làm công cụ chế trị và giữ nước. Chỉ vì dân chúng ở miền biên viên

các người chưa hiểu ý đó nên đặc biệt có dụ này để dạy cho biết, các ngươi phải báo cáo,

khiến cho tỏ cái ý đầy ơn đức của triều đình. Khi quân của viên giám thành đến đấy, các

ngươi phải hướng dẫn minh bạch, chớ khá kinh hãi nghi ngờ. Còn việc tiêu pha trong mỗi

hành trình của quân viên, Trẫm đã cấp phát thừa thãi, dồi dào, việc mua bán trong lúc thi

hành cốt phải được thuận tình. Những tệ đoan và yêu sách đều đã nghiêm cấm ngăn dứt,

không phiền các người phải cực nhọc cung cấp” [3, tr. 183].

Như vậy chúng ta thấy rằng việc gì liên quan đến thuộc quốc và những vùng dân tộc

miền núi đều được nhà nước quan tâm kĩ lưỡng, đồng thời cũng tỏ tấm lòng của triều

đình đối với các sắc tộc ở vùng miền núi xa xôi, cho họ thấy được sự quan tâm của triều

đình tới vùng đất này. Nhìn chung thì chính sách của triều đình đối với thuộc quốc hay

51

các chính sách an dân để địa phương tự trị cốt sao cho các sắc tộc thiểu số miền núi một

lòng thần phục, đừng quấy nhiễu phần trung châu trong khi triều đình còn đang phải đối

phó với sự dòm ngó của các nước Âu Châu và cũng vì chưa tìm kiếm ra một chính sách

thỏa đáng để đặt các sắc tộc miền núi vào sự lãnh đạo thống nhất của quốc gia.

Thông qua chính sách của triều đình đối với các sắc dân trên vùng rừng núi Tây

Nguyên đã cho ta nhiều bài học kinh nghiệm thực tế và quý báu là cần phải có sự bình

đẳng và rộng lượng trong việc giao tiếp với người dân tộc thiểu số miền núi, phải biết

thưởng đúng lúc và rộng rãi, ngoài ra triều đình nhà Nguyễn cũng tỏ ra sáng suốt trong

việc giáo dục binh sĩ, xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ phục vụ cho nhu cầu của nhà

nước, của quốc gia.

2.2. Quan hệ với người Khơme

Do xuất thân từ các vùng đất thấp, quan hệ giữa người miền núi và đồng bằng đã rất

chặt chẽ. Người miền núi cần gạo muối và dụng cụ kim khí, người đồng bằng cần phẩm

vật rừng xanh, cả hai cộng đồng vẫn còn trao đổi qua lại cho đến ngày nay. Thêm vào đó

là những quan hệ quyền lợi và quyền lực, các thế lực đồng bằng cần người miền núi để

bổ sung nhân lực trong các công trình xây dựng hay quân đội, nhất là voi trận, nhằm tăng

cường uy thế; các nhóm miền núi cần người đồng bằng hỗ trợ để bảo vệ địa vị áp đảo của

mình. Sau mỗi thất bại các nhóm người miền núi thường phân hóa thành các chi bộ nhỏ

sống rải rác khắp nơi dọc các con suối, các thung lũng lòng chảo hay trên các triền núi,

đời sống vô cùng khó khăn vì bị tản mát. Về phía các vua Chăm và Khơme, mỗi khi thua

trận, thường dâng cống phẩm vật rừng xanh (cọp, nai, voi, ngà voi, sừng tê giác, trầm

hương, cánh kiến, mật ong, vàng bạc, đá quí) do người miền núi cung cấp cho phe thắng

trận để xin thần phục. Theo dõi những ghi chép còn lại trên bia đá của các vương triều

Angkor và Chiêm Thành cũ, quan hệ qua lại giữa hai khu vực đã được nhiều lần nhắc

đến.

Các vị vua Chân Lạp đã gửi cho các Sadet Thủy Xá, Hỏa Xá rất nhiều tặng vật. Có

thể trước khi có sự xâm lấn của người Chăm, các vua Thủy Xá, Hỏa Xá đã giúp vua

Khmer trong một hoàn cảnh khó khăn, và để tỏ sự tri ân giúp đỡ đó, từ đấy triều đình

52

Angkor đã dâng tạ lại các đồng minh của mình những tặng vật mà giá trị của chúng đã

chứng thực tầm quan trọng của sự trợ giúp.

Những ghi chép sớm nhất về quan hệ giữa Thủy Xá, Hỏa Xá với Cămpuchia được

thể hiện quan một số văn bản của triều đình Cămpuchia, vào đầu thế kỉ XVII, chính là

Cămpuchia cho biết “có hai văn kiện của vua Khơme Soriyopor nhấn mạnh rằng triều

đình Long Vek coi trọng các Pơtao Giarai và nói rõ các vinh dự mà Cămpuchia dành cho

các vị chủ tể này của vùng đất chưa được khai phá”[24, tr. 28].

Một trong những văn bản ấy chính là một sắc lệnh của nhà vua có niên đại 1525

Saka (tức năm 1601 dương lịch) về việc lên ngôi của các Sdach Tuk và Sdach Phlong

(tức Sadét Nước và Lửa), các lễ vật theo nghi lễ và các lời chúc mừng gửi đến họ. “Đức

vua ở Long Vek, kinh đô nước Cămpuchia truyền hãy mang lệnh và tặng phẩm này của

đức vua đến xứ Ayun-Apar đặng chúc mừng các Vua Nước, Vua Lửa được hạnh phúc và

thịnh vượng để giữ thanh Preah-khan trên đỉnh núi quý và chúc họ luôn là quốc vương

của các xứ Roder, Chréay và pnong…để giữ yên các con đường và các khu rừng…”[24,

tr. 26].

Trong văn bản trên, qua cuộc thám sát của Odend’hal đã xác định xứ Ayun-Apar

chính là các thung lũng của sông Ayun và sông Apa (sông Ba), hai sông này gặp nhau ở

Cheo Reo, trung tâm của xứ sở Giarai, vùng này đến nay vẫn là nơi cư trú của các Pơtao.

Ta cũng nhận ra những người Êđê, Giarai, (tiếng Khơme gọi là Chréay) và Bunong

(Mơnông) trong những người Roder, Chréay và Pnong. Preah-khan là lưỡi gươm thiêng,

vật thần hộ của vương quốc do các Pơtao gìn giữ, cũng vừa là chủ đề huyền thoại, vừa là

vật thờ cúng và là vũ khí lịch sử của người Giarai.

Tư liệu thứ hai, có liên quan chặt chẽ đến văn bản thứ nhất là pháp điển về việc

thành lập tu viện Sambok, cũng có niên đại vào năm 1601, chúng ta thu được những

thông tin rất quý về việc này cũng như kê khai rất đầy đủ các tặng phẩm của triều đình

Chân Lạp cho các vua Thủy Xá, Hỏa Xá, câu dưới đây đã minh chứng cho tính xa xưa

của lệ này:

53

“khi ông ta cất tiếng để trình những lời chúc mừng của nhà vua, người ta sẽ thổi vào

những chiếc sáo nhỏ và sáo lớn theo đúng quy cách của người Giarai…Từ xưa cho đến

nay, người ta bảo cứ 3 năm một lần phải lên chào vua Nước và vua Lửa” [19, tr. 201].

Tuyên cáo trên, ngoài các việc khác có nói rõ cách thức dâng tặng các cống vật ba

năm một lần, viên quan cai trị Sambok được trao nhiệm vụ mang cống vật đến cho các

vua Lửa, vua Nước mà họ gọi là các Sadet, và tuyên cáo cũng cho phép ông được nhận

một nửa số thuế thu được ở Sambok để bù công lao của ông trong việc này và trong việc

chuyển các thư của nhà vua và các tặng vật từ Lào đưa đến.

Ba quan chức có trách nhiệm dẫn đầu sứ bộ và bản tuyên cáo này còn quy định tỉ mỉ

các nghi lễ họ phải làm sao cho đúng khi dâng tặng cống vật cho những người nhận:

“trước khi ra mắt hai vua, các quan phải dùng bồ hòn xát vào mình (tức là tẩy mình thanh

khiết). Xong việc đó, các tặng vật được xếp thành hai hàng, một quan thay mặt nhà vua

(Chân Lạp) tâu và cho dịch ra tiếng địa phương rồi ngồi vào giữa (ở đây có thể là ngồi

giữa hai hàng tặng vật và hai viên quan kia) rồi ông ta lặp lại lời tấu của mình ba

lần…Khi ông cất lời để trình lời chúc mừng của nhà vua (Chân Lạp), sáo to, sáo nhỏ

cùng được thổi lên theo lệ của người Giarai. Khi đó, chánh sứ trình quốc thư của Prah

Chau Longvek Krung Kambujâdhipati sirisirin Indipat…là chủ tối cao của mọi người rồi

thay mặt nhà vua ông kê ra các cống vật mang tới Srok Ayanapar. Xong việc đó, thay

mặt bác của họ (vua Chân lạp), nhận vua Nước, vua Lửa làm cháu, ông sẽ nói lời chúc

mừng hai vua thịnh vượng và giữ được danh hiệu: chúc họ tiếp tục giữ Prah Khan (thanh

kiếm thần) và cư ngụ trên đỉnh núi Oudam Prakath, tiếp tục làm vương chủ toàn xứ

Giarai như vẫn từ xưa tới nay, giữ vững các con đường và các khu rừng chống lại tất cả

các kẻ thù, phân biệt được những người sẽ đến với thiện chí và những kẻ sẽ đến với tà

tâm, chúc họ sống trong thái bình, hùng mạnh, hạnh phúc và thịnh vượng, cầu chúc tất cả

các Devatas, téprakh (thần rừng) các arakh (thần làng) phù hộ cho hai vua sống lâu, luôn

sung túc và quyền lực lâu dài” [19, tr. 201 - 202].

Trong lệnh đó cũng nói rằng viên quan cai trị Sam Bok phải theo dõi việc đưa tiếp

các thông điệp do các vua Lào gửi và việc chuyển qua của vua Campuchia cho vua Lửa

54

và vua Nước của người Giarai (ba năm một lần gửi), trong tài liệu là những chi tiết tỉ mỉ

về quà cáp mà các vua Khơme gửi cho các vua Giarai, trong đó đồ chiếm một vị trí đặc

biệt là vải, lụa quý dùng để bọc Pra Khan (gươm thiêng) của vua Lửa và Prác Rôm pét

(khúc mây thiêng) của vua Nước. Ngoài ra còn có những vật phẩm dùng cho vương

quyền: kiệu để cưỡi voi, ô, lọng…Trong đó còn có một bản kê các tặng vật của vua

Khmer gửi tặng cho hai vua Thủy Xá và Hỏa Xá:

“Hai con voi đực, hai chiếc bành đỏ có điểm ngôi sao, sáu mươi con trâu, hai chiếc

khố thêu, hai bộ quần áo sọc, hai chiếc gối, hai gối tựa, hai chiếc chiếu Pursat, hai chiếc

chiếu khác bằng chichuot, hai chiếc rèm, hai nồi nấu cơm, hai nồi đun nước, hai bộ quần

áo đỏ, hai đôi trống nhỏ, hai đôi sáo to và nhỏ, hai chiếc lọng cán dài, hai chiếc bát ngũ

sắc, một trăm bát ăn cơm, một trăm bát canh, một trăm khăn mặt, một trăm bát chiết yêu,

hai xe muối, năm trăm thỏi sắt, hai mươi thỏi chì, hai đôi lược thưa và mau, bốn cái đục

cán có đánh đai, hai chiếc khố lễ mỗi chiếc dài năm khuỷu tay, hai trăm cái kim, hai

mảnh vải lomtong, hai mảnh lụa cho các vũ nữ để phủ Prah khan (kiếm thần) và Prah

rompot (đoạn mây thờ), hai khăn lụa đỏ dài năm khuỷu tay, một tràng hạt bằng hạt Phti

dài hai mươi ampan, hai bát nhỏ bằng đồng, hai trăm bát sứ, hai con dao kombet prèa, hai

con dao chuốt mây, hai con dao phát rừng, hai quạt giấy, hai trăm nhẫn đồng, hai trăm

lưỡi câu, hai mũ chóp đỏ, năm cân hạt cau và câu đằng, năm cân thuốc lá, hai đàn bầu,

hai đàn ba dây, hai đàn ba dây tang gáo dừa, hai sáo dọc, hai mâm đồng để hứng nước

thề, hai bát tre có nắp đặt trên hai chiếc mâm, hai mâm gỗ đựng các dụng cụ ăn trầu, hai

dao bổ cau, hai bình vôi ăn trầu bằng đồng, hai mâm khác đựng cau” [19, tr. 202].

Bên cạnh đó, tuyên cáo còn có đoạn nói thêm rằng: “nếu một trong hai vua chết và

vua kia còn sống thì sẽ gửi đến một cái Prasoda được chuẩn bị đầy đủ đặt trên lưng một

con voi cái và một con voi đực để chuyển cữu đi” [19, tr. 203] .Cái Prasoda này phải do

ba vị quan vẫn mang tặng vật sang cho các vua Thủy Xá, Hỏa Xá ba năm một lần đưa tới

tận nơi.

Đó là những nghi lễ mà sứ bộ quan trọng này phải thực hiện trên đường đi từ

Sambok tới xứ được tuyên cáo gọi là xứ “srok Ayonapar”, địa danh đó có thể chính là

55

biến thể của hai từ Ayun và Apah, Ayun là chi lưu của sông Apah, còn Apah chính là

sông Ba theo cách gọi của người Giarai Tây Nguyên. Ở nơi đó, cách thành phố SamBok

hai cây số về phía đông bắc, người ta cho xây dựng ngôi chùa SamBok. Nơi dựng chùa

có tên gọi là Tvar Prác Nôkôn (cửa Vương Quốc). Nơi trao đổi quà được diễn ra trên một

quả đồi – nơi ở của thần kiếm thiêng, vị thần ấy được coi là thần bảo hộ cho Vua Lửa và

Vua Nước. Trên đồi có những chuồng voi để cho voi của vua Lửa và Vua Nước có chỗ

nghỉ ngơi. Thương gia Hà Lan là Van Wusthof đã mô tả đời sống kinh tế ở Sam Bok, nơi

qua lại và trao đổi giữa vua Giữa Campuchia và vua Lửa, Vua Nước như sau: “Người ta

đếm được ở đấy năm ông Hoàng được coi là những vị quốc vương, nếu ta muốn kể thêm

các dân tộc sống trên vùng rừng núi xa xôi và dã man hơn, họ phục tùng hai vị vua nhỏ,

một vị được gọi là Vua Nước, vị kia là vua Lửa thì ta có tới bảy ông hoàng…vị thứ sáu

và vị thứ bảy ở trong vùng Rumoi, nơi sinh sống của những người Man di phục tùng hai

vị vua Nước và Vua Lửa…” [54, tr. 32].

Thậm chí sau khi quan hệ giữa vua Campuchia và các vua Giarai chấm dứt vào năm

1859, dân trong vùng Sambok vẫn thờ chuồng voi đó và cứ hai năm một lần làm lễ tế

thần. Hàng năm người ta vẫn làm một nghi lễ nhỏ để tưởng nhớ cuộc gặp gỡ của sứ đoàn

vua Campuchia với vua Lửa, vua Nước.

Như vậy với sự xuất hiện của tên gọi Ayonapar chứng tỏ từ thời đó các vua Lửa,

Vua Nước đã ở trên vùng triền sông Ba hiện nay.

Để đáp lại những tấm lòng và lễ vật cống tặng của nhà vua Chân Lạp, các vua Lửa,

vua Nước cũng gửi lại cho các vị vua Chân Lạp một ít ngà voi, một sừng tê giác và mỗi

vua Lửa, Nước còn gửi một bánh sáp ong có ấn chỉ ngón tay cái của mình.

Nhà nghiên cứu Moura nói rằng bánh sáp ong ấy rất to, kèm theo còn có hai quả bầu

to một quả chứa đầy gạo và một quả chưa đầy vừng. Sự khiêm tốn của món cống vật này

khẳng định một cách hài hước truyền thuyết của người Giarai về thanh kiếm thần: “Pôthê

khuyên người Giarai sống hòa hợp với người Cambodge là những người làm chủ bao

kiếm bởi khi trao thanh kiếm cho người Giarai và bao kiếm cho người Cambodge, trời đã

xác định họ phải liên minh với nhau. Nhưng khi cho người Cambodge bao kiếm, kém giá

56

trị hơn thanh kiếm, trời cũng đã chỉ rõ trong số những cống vật trao đổi đều đặn giữa các

vua với nhau thì phía vua Cambodge phải biếu nhiều hơn” [11, tr. 157].

Khi so sánh những tặng vật trao đổi giữa hai bên rõ ràng ta thấy các đồ biếu tặng

của vua Thủy Xá, Hỏa Xá cho vua Campuchia ít giá trị hơn so với các cống vật xa hoa do

vua Khơme gửi biếu, song nó lại mang lại tầm quan trọng rất đặc biệt đối với ông ta.

Những đồ biếu tặng này là do các thủ lĩnh phù thủy ban do vậy chúng được xem như có

chứa đựng một quyền năng siêu nhiên của các vị phù thủy núi rừng đó, vì vậy chúng

được đặc biệt chăm sóc và nâng niu “Ngay khi các tặng vật của vua Lửa tới kinh đô

Cambodge, chúng được trao cho các Brahme là những vệ sĩ bảo vệ gươm thần của vua

Khơme, họ cẩn thận để dồn chúng lại bên cạnh các biểu tượng của vị quốc vương của họ.

Sáp thì được họ dùng để làm nến thắp trên các bàn thờ trong các ngày lễ. Những lúc có

khốn khó, khi có dịch bệnh, lụt lội, chiến tranh, người ta sẽ rắc một ít gạo và vừng lên

mặt đất để làm dịu đi những cơn tức giận của các hung thần. Những điều này được xác

nhận trong một văn bản chính thức của triều đình Chân lạp cho ta biết những cống phẩm

của vua Lửa, vua Nước được họ sử dụng như sau: “mỗi lần muốn làm ngưng hạn hán,

cầu mưa, nhà vua khấn năm Ksatriya tức các thần hộ mệnh của vương quốc: Narayona,

Shiva, Ganésa, Kajjayana, và Prah khan. Họ lấy chiếc ngà voi, chiếc sừng tê giác và bộ

quần áo do vua Lửa, Vua Nước tặng ra, rưới nước thánh lên chúng trong khi bốn vị

Mahachay quỳ bên dưới và kêu lên như ếch” [19, tr. 204].

Như vậy là quà của Vua Lửa, theo các nguồn tài liệu được dùng trong nghi lễ cầu

thần thổ địa cho mưa, nghi lễ này được tiến hành dưới thời vua An Duông vào tháng 7

năm 1859 do các vị Bàlamôn Baku chủ trì. Ngoài ra người ta còn gọi các thần ruộng,

thần rừng, thần sông, thần đường sá, thần các tỉnh, thần thành phố, các làng quê về dự lễ.

Thời gian tiếp theo đế quốc Khơme gặp phải rất nhiều khó khăn, nhưng bất chấp

mọi thăng trầm, các sứ bộ vẫn được cử đến Thủy Xá, Hỏa Xá để cống đều đặn ba năm

một lần, họ vẫn rong ruổi qua các khu rừng thưa, hướng tới chỗ các thủ lĩnh phù thủy của

người Giarai. Chỉ đến năm 1860, các sứ bộ của hoàng gia mới thôi được gửi sang Thủy

Xá, Hỏa Xá.

57

Qua những lần cống nạp và những đồ lễ cống, chúng ta rõ ràng nhận thấy rằng vào

thời kì xa xưa ấy uy quyền của các vua Lửa, vua Nước dựa trên uy thế về mặt chính trị

hẳn còn được bao phủ bởi một vẻ huy hoàng hoang dã nào đó mà chúng ta thấy được qua

chất lượng của những món đồ cống vật và những dư âm còn vang tới tận chúng ta ngày

nay qua kí ức của những người già trong xứ.

Thực vậy, không chỉ thông qua lời kể truyền miệng của những người già, những câu

chuyện truyền thuyết còn được lưu truyền từ đời này qua đời khác đã nói rõ thêm được

mối quan hệ giữa các vua Chân Lạp và các vua Thủy Xá, Hỏa Xá và chính mối quan hệ

này đã kết nối đế quốc Khơme với các bộ tộc ở trong nội địa, đặc biệt là bộ tộc Giarai của

hai vua Thủy Xá, Hỏa Xá.

Những mối quan hệ giữa vua Campuchia và vua Lửa, vua Nước chỉ chấm dứt lúc

nhà vua Nôrôđôm làm lễ đăng quang vào năm 1859. Ông ta đã thôi không gửi những

món quà truyền thống cho bạn hữu của mình nữa. Mọi cố gắng của vua Lửa để hỏi

nguyên nhân sự việc đều không có hồi âm. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự chấm dứt

quan hệ đó, rõ ràng là do sự xuất hiện của người Pháp ở Campuchia và biến nước này

thành thuộc địa của Pháp vào năm 1861. Ngoài ra còn một nguyên nhân khác là việc

người Xiêm lấn chiếm vùng Đông Bắc Campuchia đã làm đứt con đường liên hệ giữa

người Campuchia và vùng người Giarai.

Như vậy là trong một thời gian dài, các vua Cămpuchia đã giữ quan hệ hữu hảo với

các Sadét của vùng đất thuộc Thủy Xá và Hỏa Xá, vào những thời kì nhất định, họ gửi đủ

thứ lễ vật đến cho các vị này. Năm 1893, hiệp ước Băng Cốc ký giữa Pháp và Xiêm,

vùng đất phía Đông sông Mê Kông không còn thuộc Xiêm. Vùng đất của Gia rai với toàn

bộ tỉnh ĐăkLăk bị chính quyền Pháp chuyển sang cho Lào. Từ năm 1904 vùng đó lại

được cắt chuyển cho thuộc địa An Nam… Quan hệ đã từng có giữa Thuỷ Xá Hoả Xá với

Campuchia chỉ còn là những huyền thoại nhạt nhoà dần theo năm tháng.

2.3. Quan hệ với người Chăm

Vùng đất Thủy Xá và Hỏa Xá của người Giarai đã trở thành phiên thuộc của nhà

Nguyễn cho đến thời Pháp thuộc. Nhưng trước đó, mối quan hệ của họ với các vùng xung

58

quanh cũng khá đặc biệt, ngoài có quan hệ chính trị với triều đình nhà Nguyễn thì họ

cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ về văn hóa của các dân tộc xung quanh, trong đó có ảnh

hưởng không nhỏ của văn hóa Chăm.

Tại Chiêm Thành, tù trưởng các bộ lạc lớn miền núi được phong tước chiến sĩ

(Ksatriya), có quyền lập gia đình với phụ nữ Chăm và ra vào cung đình. Các vua Chiêm

Thành cũng thường được các tù trưởng miền núi gả con gái để duy trì quan hệ quyền lực.

Hầu hết các bộ lạc hoang dã ở vùng miền núi Việt Nam đều có quan hệ qua lại với

người Chăm, ít nhiều là chư hầu của người Chăm và Thủy Xá, Hỏa Xá cũng không nằm

ngoài ngoại lệ ấy ít ra là về vấn đề trao đổi buôn bán.

Các nhà viết biên niên Trung Hoa đã ít nhiều cho chúng ta những bằng chứng về

điều này, thực vậy, trong sử sách của họ đã ghi lại khá đầy đủ danh sách nhiều sứ bộ do

các vương chủ Champa phái tới triều đình Trung Quốc, tất cả những đoàn ấy, theo những

kỳ hạn tuy không đều đặn lắm đã mang tới triều đình Trung Quốc các cống vật gồm

những sản vật quý rõ ràng thu được ở các khu vực ven biển nhưng chắc chắn cũng gồm

những sản vật phải kiếm trong núi và sâu trong vùng của đồng bào người miền núi. Voi

đã sống và vẫn còn đang sống ngay ở Trung kỳ, tới tận vùng ven biển nhưng ở các khu

vực đó chúng không bao giờ nhiều đến mức có thể cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ ghê

gớm ngà voi và những dịch vụ của các vương chủ Chăm. Tê giác mà sừng đã và vẫn

đang được lùng kiếm dữ dội bao giờ cũng chỉ sống trong những khe núi hiểm trở, đậu

khấu, sáp ong, gỗ hiếm, vàng, bạc và những sản vật khác mà chúng ta biết đầy ắp trong

triều đình Chăm, ít ra là một phần được lấy từ vùng cao, ngay trong thời kỳ nguyên thủy

ấy, khi dải đất trung kỳ còn chưa được trồng cấy như ngày nay thì rừng cũng chưa bao

giờ phủ kín một số khu vực rộng lớn đầy cát và khô cằn, hiện nay vẫn còn bỏ hoang,

chẳng có thể nuôi sống bất cứ thứ gì ngoài những bụi cây cằn gai góc, như vậy đã tồn tại

mối quan hệ giữa người Chăm với người miền núi, đó là mối quan hệ giữa chư hầu và tôn

bá, quan hệ buôn bán, đã cung cấp cho Champa phần lớn những mặt hàng quý kể trên

dưới dạng cống vật hoặc trao đổi với vùng dân tộc miền núi trong đó có thể có quan hệ

trao đổi với Thủy Xá, Hỏa Xá.

59

Văn hóa Chăm đã ảnh hưởng rất nhiều đến văn hóa của người dân Thủy Xá, Hỏa

Xá, trước hết thể hiện ở các ông “vua” và vợ của các ông.

Vợ của hai vua Lửa, Nước “mặc áo Chiêm Thành sặc sỡ,” hai vua ngự trên một

vùng “điện vua Hồ” có voi đá, ngựa đá – có thể là khu tháp Chàm Yang Mun ở Buôn

Chu (Cheo Reo) đã nói. Danh xưng chung cho hai vua: pơtao / botao là một tước hiệu của

người Chăm, có nghĩa là “ngài”, “thầy” hay cũng có thể là “vua”.

Bên cạnh đó, tổ chức xã hội của các bộ lạc Thủy Xá, Hỏa Xá hầu như cũng có

những ảnh hưởng từ phía Champa, có những tài liệu nhắc đến tổ chức xã hội của họ,

đứng đầu chỉ là những ông vua mang tính chất như một thầy phù thủy, một pháp sư với

chức năng cầu đảo để xin mưa thuận gió hòa, cầu cho con người được bình an, khỏi mọi

bệnh tật…và đó là do họ học hỏi được từ người Chăm, “ở đây, có một dạng nào đó gần

như là một tổ chức xã hội, hẳn là do họ học được của người Chăm đã từng ở xứ này trong

một thời gian dài, ta có thể nói đến các Vua Nước và Vua Lửa…” [24, tr. 72].

Như vậy, quan hệ với người Chăm là hoàn toàn có cơ sở, các bộ lạc hoang dã ở sâu

trong nội địa đã đóng một vai trò, dù rất lu mờ song không hề nhỏ trong nền kinh tế

Champa, rất năng động, họ hợp tác trong việc săn bắt voi, tê giác, đãi vàng, thu gom đậu

khấu, sáp ong, sơn, nhựa, đẵn gỗ, lùng kiếm kỳ nam để cung cấp cho những nhu cầu của

người Chăm ở giai đoạn lịch sử này.

60

Tiểu kết chương 2

Như vậy quan hệ giữa Thủy Xá và Hỏa Xá có với chúa Nguyễn và nhà Nguyễn

cũng như các vùng lân cận khác đã được lịch sử ghi lại khá rõ ràng. Đặc biệt là đối với

triều đình Huế thì mối quan hệ ấy được thể hiện một cách rõ nét nhất. Các sứ bộ đến triều

cống ở kinh đô thường được đón tiếp rất chu đáo, đảm bảo an toàn và coi trọng lễ nghi.

thông qua việc cung đốn phương tiện đi lại và cung cấp lương thực thực phẩm, tiền nong

chi tiêu cho các sứ bộ đến triều cống ta có thể ước đoán số người trong sứ bộ nhiều hay ít.

Thái độ của triều đình cũng tỏ ra trân trọng, chăm sóc, thương xót, chu đáo, vỗ về, đảm

bảo sức khỏe đi lại hàng tháng trời cho các sứ bộ ở vùng Thủy Xá, Hỏa Xá cũng như ở

các vùng phên dậu khác. Số người đi theo sứ bộ triều cống được lưu lại ở các trấn đều

được nuôi nấng và ban thưởng … Tuy nhiên không hẳn đây có thực sự là mối quan hệ

giữa thuộc quốc với tôn chủ.

Như đã nói ở trên, cách gọi là “vua”, “roi” của nhà Nguyễn hẳn chỉ là thói quen

trong dịch thuật và có thể không chính xác. Thật ra Pơtao - theo cách gọi của người

Chăm với những người đứng đầu của Thủy Xá, Hỏa Xá, hay “các Ơi” - như chính người

Giarai tự gọi là một kiểu thủ lĩnh tinh thần và tâm linh rất độc đáo trong xã hội Giarai,

một kiểu “thầy cúng” có uy tín lớn, đóng vai trò là người giữ mối quan hệ giữa Thần linh

và con người, giữa thế giới “bên trên” và xã hội trần thế, không có bất cứ quyền hành thế

tục và quyền lợi ưu tiên nào, nhưng mặt khác, phân tích mối quan hệ giữa Thuỷ Xá, Hỏa

Xá với các vùng xung quanh nó, ta cũng thấy các Ơi đại diện cho Thủy Xá, Hỏa Xá trong

quan hệ đối ngoại với các “lân bang”. Quan điểm này cũng đã được thể hiện trong tác

phẩm nghiên cứu rất công phu và đặc sắc “Pơtao, một lý thuyết về quyền lực ở người Gia

Rai Đông Dương” (P’tao, une théorie du pouvoir chez les indochinois Jarai) của nhà Tây

Nguyên học hàng đầu Jacques Dournes – viết về một kiểu quyền lực cũng hết sức độc

đáo ở xã hội Giarai nói riêng và xã hội Tây Nguyên nói chung.

Các Pơtao là người Giarai, sống ở vùng Giarai, nhưng tầm ảnh hưởng lan rất rộng,

sâu trên nhiều vùng dân tộc khác, thậm chí sang cả Cămpuchia. Trong nhiều thời kỳ, triều

đình Cămpuchia từng coi các Pơtao ở Tây Nguyên như một kiểu “vua thần”, định kỳ có

61

dâng cống vật. Người Cămpuchia gọi các Pơtao là Sadet (gần với từ Samdeth). Về sau,

các “Vua Nước” và “Vua Gió” giảm dần ảnh hưởng rồi mất hẳn, chỉ còn “Vua Lửa”…

Tôi nghĩ việc nghiên cứu hình thái tổ chức xã hội với các Pơtao của người Giarai có ý

nghĩa rất quan trọng trong việc tìm hiểu sâu sắc Tây Nguyên, con người, văn hóa, tổ chức

xã hội cổ truyền… ở vùng đất đặc biệt này. Thậm chí cũng còn có thể cho phép chúng ta

hình dung chừng nào về các xã hội cổ từng tồn tại trên vùng đất nay là bán đảo Đông

Dương.

Thủy Xá, Hỏa Xá quan hệ với các “lân bang” chính là qua các Pơtao. Quan hệ

nhiều nhất là với chính quyền Đàng Trong và sau này với nhà Nguyễn và với Cămpuchia.

Trong nhiều thời kỳ dài đã thường xuyên có các đoàn “sứ giả” đi lại hằng năm giữa các

Pơtao và triều đình Cămpuchia, trao đổi cống vật giữa hai bên. Trong quan hệ này đáng

chú ý là về phía Cămpuchia đối với các Pơtao là quan hệ dâng lên con chúa Nguyễn và

nhà Nguyễn với các Pơtao là quan hệ ban xuống . Quan hệ với Champa lại có những nét

riêng khác: Trong thực tế, triều đình Champa đối xử với Tây Nguyên nói chung và Thủy

Xá, Hỏa Xá nói riêng như với một “lân bang” phía tây của mình, cũng có quan hệ trao

đổi cống vật định kỳ (với các Pơtao) nhưng không chặt chẽ bằng phía Cămpuchia. Mặt

khác, người Giarai, dân tộc lớn nhất và quan trọng nhất ở Tây Nguyên với người Chăm

đều cùng thuộc một ngữ hệ Malayo-Polynésien nên rất gần gũi nhau, thậm chí có tác giả

còn cho rằng người Giarai chính là người Chăm dạt lên Tây Nguyên trong những điều

kiện và những thời gian lịch sử nào đó. Hiện còn có một số dấu vết các tháp Chăm ở

vùng Giarai gần với khu vực Thủy Xá, Hỏa Xá như tháp Drang Lai, tháp Yang Mum ở

khu vực Ayunpa.

Do còn nhiều việc cần phải giải quyết nên triều đình phong kiến Việt Nam chưa

có thời gian quan tâm nhiều đến vùng đất cao phía tây và các bộ lạc sống trên đó, mặc dù

vậy triều đình Huế cũng có phái một số quan chức lên tìm hiểu và tạo mối quan hệ với

các bộ lạc Tây Nguyên, tất nhiên với ý đồ chinh phục. Tuy nhiên công cuộc này cũng còn

rất sơ sài, các phái viên triều đình có gặp Vua Nước, Vua Lửa, mà họ gọi là Thủy Xá,

Hỏa Xá, đặt quan hệ “triều cống” định kỳ của các vị này với triều đình và “ban tước” của

62

triều đình cho các vị này, và vì hiểu rằng đây quả thực là các “Vua” nên họ yên trí như

vậy là đã nắm được toàn bộ Tây Nguyên. Có hiện tượng đáng chú ý: triều Nguyễn đã

từng thiết lập một hệ thống “đồn sơn phòng” suốt dọc các tỉnh trung Trung bộ trên ranh

giới giữa vùng người Việt và vùng sinh sống của các dân tộc thiểu số ở phía tây, riêng ở

Quảng Ngãi còn lập cả một bờ lũy dài hơn trăm kilômét ngăn cách giữa hai vùng, chứng

tỏ triều đình coi phía bên kia là một “nước” khác, có thể là một thuộc quốc hay một chư

hầu.

Như vậy, chính sách hoà hoãn và vỗ yên vùng dân tộc thiểu số miền núi ban đầu chỉ

là một bộ phận phục vụ cho mục tiên chiến lược lâu dài của họ Nguyễn là “chống chọi

với họ Trịnh” để “xây dựng cơ nghiệp muôn đời”. Trong điều kiện mong manh của

chính quyền buổi đầu lại phải chống chọi với kẻ thù ở cả hai phương Bắc Nam thì sự lựa

chọn đó của họ Nguyễn tỏ ra hợp lý, huy động một cách hiệu quả các nguồn lực của vùng

miền núi phối hợp với các nguồn lực khác tăng cường sức mạnh quốc gia đủ sức phân

tranh với tập đoàn Lê - Trịnh. Chính sách đó dĩ nhiên đã khuyến khích các mối quan hệ

giao lưu buôn bán giữa hai miền xuôi ngược.

Tuy nhiên, sau khi chính quyền được củng cố và đồng thời sức ép từ hai phía đã

giảm xuống đáng kể, Đàng Trong được hưởng một thời gian dài tương đối yên ổn thì

cũng là lúc chính sách đối với vùng miền núi mất dần đi tính chất ôn hoà của nó. Thay

vào đó, họ Nguyễn, trong quá trình chuyển dần từ một mô hình chính quyền quân sự sang

mô hình chính quyền dân sự như quan điểm của Li Tana, lại đã cố gắng thiết lập quyền

kiểm soát của mình lên trên các bộ tộc ở miền núi bằng các biện pháp hành chính và quân

sự, giảm quyền lợi và tăng nghĩa vụ. Và như vậy, thế cân bằng lợi ích giữa hai bên vốn

được các Chúa Tiên, Chúa Hiền… xây dựng, duy trì những ngày đầu đã bị vi phạm, xói

mòn dẫn đến tan vỡ. Hậu quả của tình trạng đó là họ Nguyễn đã mất dần đi lòng tín phục

của cộng đồng cư dân thượng nguồn. Sự nổi dậy của các dân tộc thiểu số và đặc biệt là sự

tham gia của họ vào cuộc khởi nghĩa Tây Sơn như là câu trả lời quyết liệt trước các chính

sách của họ Nguyễn, góp phần đập tan cơ đồ của họ Nguyễn vào năm 1777.

63

Việc phân tích những nguyên nhân chính trị làm cho ta hiểu được mối quan hệ giao

thương giữa hai vùng đồng bằng với miền Thượng trong suốt thời gian tồn tại của Đàng

Trong: nó cũng mạnh mẽ trong giai đoạn đầu và yếu ớt trong giai đoạn sau để rồi gần như

dứt hẳn trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.

Một ví dụ khác của chính sách bình định là mối quan hệ triều cống mà triều Nguyễn

đã áp đặt đối với rất nhiều nhóm tộc người ở khu vực biên giới. Ví dụ, Vua Lửa (Pơtao

Apui) và Vua Nước (Patao Ia) của người Gia Rai phải thần phục các vương triều ở

Phnôm Pênh và Huế. Hai “vị vua” này là những pháp sư đầy quyền năng với vị thế tôn

giáo và lễ nghi được công nhận bởi toàn bộ nhân dân. Khi quyền lực của họ được các

triều đại ở vùng xuôi công nhận, thì các Pơtao đã có được một vị thế chính trị ở khu vực

này, cái mà họ không có được trong xã hội của riêng mình. Họ được gọi là hai “vị vua”

trong nhiều biên niên sử và tư liệu của Việt Nam với tên gọi là Hỏa Xá và Thủy Xá, tức

là chúa tể của “Vương quốc Lửa” và “Vương quốc Nước” nhỏ bé, người đã trao đổi tặng

phẩm với Chúa Nguyễn ở miền Nam Việt Nam trước khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn

(1771-1802) thống nhất đất nước. Thật thú vị khi nhận thấy rằng vào năm 1820, dưới thời

vua Minh Mạng – vị vua thứ 2 của triều Nguyễn – mối quan hệ ngoại giao giữa “Vua

Nước” và triều đình Việt Nam đã được thiết lập thông qua một món cống phẩm và quà

tặng bao gồm ngà voi, trầm hương và các loại lâm sản khác. Vào năm 1831, việc cống

nạp ba năm một lần của hai “vua chư hầu” đã được thể chế hóa tại tỉnh Phú Yên, với việc

nhà vua sẽ đáp trả bằng những vật phẩm như vải vóc, những vật dụng giá trị khác hoặc

các đồ nghi lễ. Việc trao đổi tặng phẩm này được duy trì đến thời vua Thiệu Trị và Tự

Đức, cho đến khi người Pháp chiếm lấy quyền quản lý các mối quan hệ với người dân

vùng cao từ tay triều đình Huế.

64

Chương 3. VÀI NÉT VỀ NỀN VĂN HÓA CỦA THỦY XÁ, HỎA XÁ

Trong cơ cấu cổ truyền của các tộc người miền núi, trong đó nổi bật là Thủy Xá,

Hỏa Xá, họ đều sống thành từng buôn, plei hoặc làng riêng biệt, không có làng nào phụ

thuộc lẫn nhau. Giữa các làng gần nhau lại có quan hệ giao hảo, hôn nhân, buôn

bán…thỉnh thoảng cũng có những mâu thuẫn không giải quyết được thì nảy sinh quan hệ

chiến tranh nhưng chỉ trong một thời gian ngắn nào đó, rồi họ lại cùng nhau chung sống

từ đó xây dựng nên một nền văn hóa vật chất và tinh thần phong phú mang đậm màu sắc

dân tộc riêng biệt mà không phải ai cũng biết đến. Thủy Xá, Hỏa Xá cũng giống như

những dân tộc khác, họ đã xây dựng cho mình một nền văn hóa đặc sắc, đậm đả bản sắc

dân tộc, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc Việt Nam.

3.1. Văn hóa vật chất

3.1.1. Ẩm thực (ăn)

Bữa ăn của người Giarai nói chung và người dân của người dân Thủy Xá, Hỏa Xá

nói riêng thường đạm bạc và không cầu kì, chỉ có cơm với muối ớt và canh rau rừng hoặc

rau sắn. Nếu là bữa cơm thịnh soạn đãi khách hay ăn tươi để cải thiện thì có thêm thịt cá

được bày xung quanh những ché rượu cần, tất cả mọi người trong gia đình từ già, trẻ, gái,

trai đều cùng uống rượu cần và hút thuốc lá.

Gạo tẻ là lương thực chính, lương thực phụ là ngô. Bữa cơm hàng ngày có thể cả gia

đình ngồi quanh nồi cơm, bát ớt... hoặc chia thành từng phần cho mỗi người. Bữa tiệc,

lấy ché rượu cần làm trung tâm, quanh đó có các món ăn đựng trên bát, đĩa hoặc lá chuối

để vừa ăn, vừa uống. Khi rượu ngà say có hát, nhảy múa, đánh chiêng.

Ngoài việc ăn uống bình thường của người dân thì những người được chọn làm Ơi

phải có sự kiêng cữ trong ăn uống để giữ mình thanh khiết và tránh được những điều

không hay. Đã làm Ơi thì không được ăn những món sau: “cấm ăn bò tót, chó, ếch, nhái,

thỏ, chuột, dê, bò, ngan, ngỗng, báo, voi. Chỉ ăn heo, gà, heo rừng, công, trâu, mang, các

loại chim, nai, hươu, sóc, cá, các loại rau, chỉ ăn lòng trâu, không ăn lòng heo” [16, tr.

133].

65

Chính vì có những sự kiêng cữ về ăn uống như vậy nên có những người họ không

muốn nhận làm Ơi, ví dụ như T’lới, Ơi Anhung.

3.1.2. Trang phục (mặc)

Trang phục của người dân Giarai thuộc Thủy Xá, Hỏa Xá rất đơn giản, đàn ông thì

đóng khố bằng vải trắng kẻ sọc nhiều màu (toai), nếu là ngày tết sẽ đóng khố vải màu

chàm dài khoảng bốn mét, rộng khoảng ba mét có đường viền hoa văn và buông tua chỉ

nhiều màu ở hai đầu. Áo màu đen cộc tay, hở nách, đường viền hoa văn chỉ màu chạy

dọc hai sườn mang đậm dấu vết kiểu pông-sô.

Ðàn bà mặc váy chàm (dài 1,40 m x rộng 1 m), có đường viền hoa văn chạy quanh

gấu. Phần cạp có tua chỉ trắng hoặc màu. Váy không khâu liền thành ống nên khi mặc chỉ

cuốn vào thân để chỗ giáp hai đầu về phía trước. Họ mặc áo cánh ngắn bó sát thân, dài

tay. Trên cánh tay áo có chiếc được thêu những đường vòng hoa văn chỉ màu. Nơi ở

quanh năm nóng nực nên cả nam lẫn nữ ưa thích cởi trần.

Vua Thủy Xá, Hỏa Xá cũng ăn mặc rất đơn giản giống như những người dân bình

thường, thường là “đầu đội vải trắng, mình mặc áo vải trắng, dưới mặc khố vải, đùi và

đầu gối đều để hở ra” [36, tr. 39]. Ông mặc áo chàm che kín mông, tay dài, chui đầu, có

một mảng sợi màu đỏ làm khuy và khuyết cài từ cổ đến ngực. Dưới dải cúc là miếng vải

đỏ hình vuông khâu đáp vào để làm dấu hiệu là áo. Chỉ có điều, người dệt nên những

trang phục của Pơtao Apuih nhất thiết phải là người đàn bà đã qua sinh nở.

3.1.3. Nhà cửa (ở)

Nhìn chung tất cả nhà của người dân đều theo hướng trục chính Bắc – Nam. Nước

được đặt ở phía Tây, là phía thấp, đựng trong những trái bầu. Lửa được đặt ở phía Đông,

là phía cao, phía cao quý. Ở phía Bắc có một lối phụ chủ yếu dùng cho đàn bà, cũng

chính qua lối đó mà con người đi ra nghĩa trang (pơsát), chủ yếu do người đàn bà trông

nom, đấy là phương của tổ tiên, của quá khứ. Ở hướng Nam là lối vào chính (mang), mở

ra một khoảng hiên (adring) mà người ta bước lên bằng một chiếc cầu thang, khách khứa

66

sẽ đi vào, đi ra bằng lối này, trên adring là nơi giao tình, đấy là phương của hậu duệ và

người lạ, và ngạn ngữ đã kể ra trên kia, được kết thúc như sau:

Prong adring kõ sang (hiên vượt quá nhà)

Prong bblang kõ kõbau (cây gạo cao hơn con trâu)

Prong ddau kõ hrum (lưỡi gươm vượt quá vỏ)

Người dân ở tiểu quốc này rất coi trọng khía cạnh này và ca ngợi ngôi nhà hạnh

phúc là nơi những con người đến từ muôn phương bước lên và bước xuống cầu thang,

adring gắn với cửa, là nơi mở ra và đón nhận.

Nhà sàn cho mỗi gia đình một vợ một chồng mẫu hệ. Kiến trúc có hai loại. Nhà sàn

dài kiểu la-yun-pa, dài 13,5 m và rộng 3,5m là kích thước trung bình cho mỗi nhà. Nhà

được phân thành hai phần: bên mang và bên óc. Cửa bên óc chỉ quay về hướng Bắc và

bên óc dành cho những người đàn bà - chủ gia đình mẫu hệ. Trong nhà có hai bếp. Nhà

nhỏ kiểu Hđrung với kích thước rộng 3m x dài 9m. Chiều cao từ đất lên đòn nóc không

quá 4,50m. Cửa chính thông ra sàn phơi chỉ quay về hướng Bắc. Hai bên cửa chính có hai

cửa sổ. Trong nhà chỉ có một bếp.

Về bố trí nội thất trong nhà cũng như từng lễ cũng có sự khác nhau, chúng ta có thể

quan sát ở mỗi buổi lễ thì cách bố trí trong nhà cũng có sự khác nhau. Ví dụ ta thấy cách

bố trí các đồ vật và vị trí của những người trong nhà Khoa Yang như sau: 11 ché rượu

được đặt ở gian chính, xếp hàng theo trục lớn Bắc – Nam. Pơtao sẽ ngồi ở phía Đông –

phía danh dự. Đối lại, sát vách phía Tây là người đánh trống và dàn chiêng, giữa những

người này và các ché rượu là bốn nhân vật tháp tùng Pơtao, những chỗ trống còn lại

giành cho những người già. Trong phần nửa phía Tây của gian phòng, đám phụ nữ sẽ

ngồi ở lối đi vào phòng riêng, nhìn ra ngoài gian chính.[ 24, tr. 355]

Đối với nhà ở của vua Thủy Xá thì “quốc trưởng ở trong một cái nhà lá có bảy gian,

trong nước không có xây thành quách, trong nhà buộc cái giá để thờ thần ma, họ hàng tôi

tớ trong nhà độ 15 người mà thôi” [36, tr. 36].

67

Nhà của quốc trưởng ở cũng chỉ có một lớp, gian giữa bày một cái giường bằng tre,

hai bên cắm tàn lọng, giá trống, giá chiêng, gian bên trái để một cái nồi đồng to, một bình

bằng đất, hai cái bành voi, một hộp sơn khảm xà cừ, hai cái mâm đồng.

Nhà ở của Pơtao chỉ được cất xong trong một ngày (do dân làng ông làm), không

thể để qua đêm, ông không được ở lại đấy nếu mái tranh bị gió tốc, nếu có con chim đậu

lên đó, nếu có con hoẵng đi qua trước nhà. Khi ấy phải làm cho ông một ngôi nhà mới,

trong khi đi tuần du, ông không được ở cố định trong một ngôi nhà đặc biệt nào, để tránh

gây bẩn và ô nhiễm, do đó mà phải làm sang pơtao cho ông.

Đối với Thủy Xá “nước ấy cũng ở nhà tranh, họ hàng tôi tớ dân cư cũng gần như

Hỏa Xá chỉ khác có làm một cái nhà thờ riêng để thờ thần. Chỗ ở đều là cánh đồng rộng,

không có núi sông hiểm trở gì cả” [36, tr. 36].

Nhà cửa cũng cất giống như đồng bào ở làng nhưng không được làm to, phải ở trên

đầu làng cách dân làng 20m, để riêng biệt. Với con cái được ở gần chung một nhà. Khi

vợ có kinh hay sinh đẻ phải cất nhà riêng nho nhỏ ở tạm cho đến khi sạch. Còn khi sanh

đẻ thì ở riêng đúng 3 tháng. Còn đứa con thì tránh không được năm gần, tránh sự dơ bẩn.

Việc làm nhà mới bắt đầu bằng nghi thức bói tìm đất. Bà chủ đem 7 hạt gạo đặt trên

đất rồi lấy cái bát úp lên để bói tìm sự linh ứng của thần đất. Sau 3 ngày, 3 đêm đi lật bát

lên xem nếu hạt gạo còn nguyên là thuận. Ngược lại, mất hạt nào thì phải đi phải đi bói

tìm chỗ khác. Ðặt hạt gạo để bói xong tổ chức ăn uống, hò reo, múa chiêng 3 ngày. Dựng

nhà xong lại mở hội nhà mới 3 hôm nữa mới kết thúc.

3.2. Văn hóa tinh thần

3.2.1. Tâm linh

Trên mảnh đất Tây Nguyên kỳ bí với rất nhiều huyền thoại, sử thi …có những

truyền thuyết chỉ nằm trong phạm vi một vùng nhưng mang trong lòng nó là nét văn hóa

tâm linh của một tộc người. Tộc người Thủy Xá, Hỏa Xá theo vạn vật hữu linh. Thần linh

(Yang) có nhiều loại, trong đó có ba loại nổi bật được nhắc đến trong lễ cúng hàng năm

hay nhiều năm một lần:

68

Thần nhà (Yang sang) lực lượng bảo vệ nhà cửa được cúng trong nhà. Khi nhà mới

dựng thì phải tiến hành nghi thức lễ đâm trâu và trồng cây gạo.

Thần làng (yang ala bôn) và thần nước (yang ia) là lực lượng bảo vệ làng xóm và

cuộc sống của mọi thành viên được cúng ở bến nước và chân núi.

Thần vua (Yang pơtao) do vua Lửa, vua Nước, vua Gió (pơtao agin) tiến hành lễ

cầu trời, mưa thuận, gió hoà và mùa màng tươi tốt.

Ngoài ra, người dân ở đây còn tin khi chết các linh hồn biến thành ma. Có hiện

tượng gán cho người có ma thuật làm hại gọi là ma lai.

Như chúng ta biết, các Pơtao của dân tộc Giarai được trọng vọng và được cư dân ở

đây coi như những vị thần linh, đồng bào quan niệm rằng các Pơtao có chức năng giữ liên

hệ giữa xã hội con người với những sức mạnh của vũ trụ, trong số các Pơtao nêu ở trên

thì nổi bật hơn hết là Pơtao Puih (vua Lửa), kế đến là Pơtao Ia (vua Nước).

Phan Huy Chú khi viết về các vua đã đề cập đến vấn đề này dưới góc độ tâm linh

như sau: “khi hai vua còn sống, có sơn tinh, gọi là tinh dương sáng bằng bó đuốc, cũng

có lúc to bằng tấm lụa, thường đến chỗ vua nằm, hoặc bay lên trời, trông sáng như tấm

lụa trắng. Sau khi vua mất, cái tinh ấy vào nhà khác, người Man thấy đều nói rằng đó là

trời đã định ngôi vua cho người ấy, vì thế tôn lên làm vua”[43, tr. 133].

Tương truyền rằng Pơtao Apuih có một thanh gươm thiêng, thanh gươm thiêng đó

vừa là một vật thờ cúng, vừa là một loại vũ khí và trên hết đó là một dấu hiệu quyền lực.

Thanh gươm này thức sự là một báu vật nhưng người ta lại không hề dùng đến nó mà uy

quyền của các Pơtao, người giữ thanh gươm được tất cả cộng đồng thừa nhận. Thanh

gươm này là thanh gươm huyền thoại, theo truyền thuyết, với thanh gươm, Pơtao Apuih

có thể gọi lửa từ trên trời xuống theo ý muốn, chỉ cần rút lưỡi kiếm ra vài chục milimét là

đã có thể che kín cả mặt trời, làm cho người và động vật ngủ say không gượng dậy nổi,

nếu rút lưỡi gươm ra khỏi vỏ là ngày tận thế … Khi Pơtao Apuih qua đời, cộng đồng

không làm lễ bỏ mả cho ông như đối với những thành viên khác vì sợ linh hồn của vị

Pơtao Apuih đã chết sẽ đi về với làng của ông bà mà không phù hộ cho các Pơtao Apuih

kế nhiệm.

69

Rất nhiều các tài liệu đã nhắc đến thanh gươm thiêng, gọi là Prah-khan, vật thần hộ

của Pơtao. E. Aymonier, một nhà cai trị thộc địa, nhắc đến các Pơtao và thanh gươm

thiêng đã nói như sau: “nếu thanh Prah-khan bị gỉ sét, là báo hiệu có biến loạn, một số

người cho rằng cán của nó hiện ở trong tay Sdach Phloeung – vua Lửa và bao của nó ở

trong tay Sdach toeuk – vua Nước, các vị vua này dường như trong thực tế là người giữ

những vật thờ, sống hoàn toàn cô độc, họ sống liên tiếp ở bảy ngọn tháp trên bảy ngọn

núi và mỗi năm họ chuyển từ tháp này sang tháp khác, triều đại của họ kéo dài bảy

năm…” [24, tr. 44].

Ngoài ra, Aymonier còn ghi một chuyện đồn thổi của người Cămpuchia cũng là lấy

từ những chuyện thêu dệt dân gian, dựa trên những sự kiện được biến đổi và bắt nguồn từ

không khí huyễn hoặc vốn bao trùm tất cả những gì liên quan đên Pơtao như sau “Thanh

Pra-khan là di vật của xứ sở được bọc trong một tấm vải trắng, người ta làm lễ hiến sinh

cho nó trâu, lợn, gà, vịt để cầu mưa. Người ta kể rằng đã có lần người Khơme cả sư sãi

lẫn người thường đã đến đấy để chiếm lấy thanh gươm thiêng. Họ nói ý định của họ cho

người Rodê, người Rodê trả lời “tốt lắm” và dâng một lễ hiến sinh cho vị thần của di vật,

cầu khấn và nói: “nếu người lạ này là chủ của thanh Pra-khan thì xin trời thanh gió lặng,

còn nếu nó là một tên bịp thì xin hãy nổi gió bão”. Vậy là bao giờ gió cũng nổi lên, bão

tố ầm ầm và bọn không mời mà đến bị tàn sát không thương tiếc”[24, tr. 46].

Cây gươm thần của Pơ Tao A Pui-một báu vật của Vua lửa. Thanh gươm này được

yểm rất kỹ ở trong hang nhờ phép thuật của Vua lửa và người thường không ai có thể

thấy được.

Người Giarai, qua bao nhiêu thế hệ vẫn còn kể cho nhau nghe câu chuyện truyền

thuyết ra đời của gươm thần, “Năm ấy, hạn hán kéo dài, sông Pa, sông A Yun cạn kiệt,

cây rừng không mọc nổi, muông thú bỏ đi . Người J’rai đói khát phải lấy cây mục chấm

mật ong ăn qua ngày, lấy hạt cây Le nấu thành cơm ăn thay gạo…”. Trước tình thế đó hai

anh em T’Dia và T’Diêng lấy một hòm đá ở miệng núi lửa Hàm Rồng, để rèn thành một

cây gươm là Pơ Tao A Pui. Và họ đưa ra lời nguyền “Ai có được thanh gươm sẽ có thể

hô phong hoán vũ”.

70

Thế nhưng sau khi rèn xong, thanh gươm cứ đỏ rực, không chịu nguội, nhúng vào

ghè , ghè cạn, nhúng xuống suối suối khô, nhúng xuống sông sông hết nước... cuối cùng

người ta đem thanh gươm nhúng vào máu của nô lệ. Điều kỳ lạ là nó xèo xèo vài cái rồi

nguội ngay lập tức. Khi thanh gươm vừa nguội thì anh em T’Dia, T’Diêng vứt xuống

sông.

Hay tin, các bộ tộc người trong khu vực đều xuống sông lặn tìm thanh gươm. Người

Giarai tìm thấy lưỡi gươm, người Lào thấy được chuôi gươm, còn người Kinh giữ vỏ

gươm. Truyền thuyết gươm thần của người Giarai được nhiều dân tộc công nhận. Người

giao tiếp được với gươm thần Pơ Tao A Pui được gọi là vua lửa Pơtao. Với người Giarai

vua lửa là vị trí cha truyền con nối nên Gươm thần cũng bảo vật gia truyền.

Còn Pơtao Ia (vua Lửa) thì có ba báu vật: một là quả dây leo mọc từ trận đại hồng

thủy cuối cùng, tuy đã lâu đời mà vẫn luôn xanh tốt, hai là một cây mây mang những

bông hoa không bị tàn úa bỏi thời gian, ba là một cái chén. Nhờ các báu vật của mình mà

Pơtao Ia có thể mở được các nguồn nước của trời chỉ bằng sức mạnh từ những lời cầu

đảo, có thể làm cho nước dâng tràn các dòng sông và ngập lụt khắp vùng.

Chính vì vậy mà các Pơtao càng ngày càng nổi tiếng khắp cả vùng, họ được đánh

giá là những người có phép thuật và được nhiều người hết sức tin cậy, chính sứ bộ Trấn

Tây của triều đình khi đi xem xét hai nước Thủy Xá, Hỏa Xá sau đó cũng về tâu lại với

triều đình rằng: “chúng tôi nghe nói hai nước ấy tuy nhỏ mà ma quỷ thiêng hơn ma quỷ

lạp Man. Năm trước lũ Kế, Mạt thừa lệnh thiên vương lũ ấy mang các thứ đồ vật đi cầu

ma quỷ hai nước ấy phù hộ”[36, tr 36].

Chính vì có sự tin tưởng vào thần linh như vậy mà những lần hạn hán hay lũ lụt,

hoặc trong làng bị bệnh tật gì đó, họ đều tìm đến các Pơtao để nhờ ông cúng giải những

vấn đề rắc rối đó, và họ hoàn toàn tin tưởng rằng nếu được Pơtao cúng thì mọi chuyện sẽ

tốt đẹp. Một ví dụ cụ thể như sau:

Năm đó, trời Plei Măng nắng to, mọi con sông, con suối quanh làng đều khô cạn,

cây cối héo khô. Người Giarai phải vào rừng chặt ống tre, ống trúc để chắt từng giọt

71

nước. Không chịu nổi cái nắng, cái khát, dân làng khiêng nào heo, gà, rượu ghè… đến để

xin Pơtao Angin cầu mưa cứu giúp dân làng.

Lễ vật cầu mưa gồm một con gà, một ghè rượu lớn, một chén đồng và một đĩa lớn

đựng thịt heo được đặt trên đàn dựng ở gò đất trống đầu làng. "Vua gió" trong bộ lễ phục

màu trắng cùng hai trợ lý là Siu Ma Sâm và Siu Blơl và 5 người già trong làng bắt đầu

làm lễ. Cả ngày hôm đó, dân làng phải bỏ hết công việc nương rẫy, chỉ ở nhà khua

chiêng, đánh trống để phục lễ gọi gió, cầu mưa. Sau khi đọc lời khấn, “Vua Gió” đưa

gươm báu chỉ về tứ phía để mời các thần về dự lễ và cho gió, cho mưa giúp dân làng qua

cơn khô hạn.

Thật kỳ diệu, sau khi dứt lời khấn cầu, gió thốc lên từng cơn, mây đen ùn ùn kéo

đến, dông tố nổi lên rồi mưa như trút nước. Người dân Plei Măng chỉ biết hướng về phía

Pơtao Angin lập đàn cầu gió, cầu mưa mà cúi lạy… Sau lần đó, "Vua Gió" còn được dân

làng ở mãi tận Krông Pa mời về làm lễ giúp dân gọi gió, cầu mưa và cứu chữa cho người

ốm, người điên khỏi bệnh…

3.2.2. Nghi lễ Cư dân ở bất kì đâu cũng có những nghi lễ cho riêng mình, đặc biệt đối với một dân tộc

tin tưởng vào thần linh như Thủy Xá, Hỏa Xá thì những nghi lễ cúng bái lại càng đặc biệt

hơn bao giờ hết và không giống với bất kì một dân tộc nào khác.

Ở Thủy Xá, Hỏa Xá có một nghi lễ đặc biệt do các vị Pơtao chủ trì, đó là nghi lễ

cầu mưa. Bất kể làng nào có gặp phải sự cố như hạn hán hay bệnh tật, họ đều cầu đến

Pơtao nhờ ông cúng. Như phần trên đã nhắc đến, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu xem nghi lễ

cầu mưa diễn ra như thế nào.

Ngày đầu tiên khi đến làng, Pơtao sẽ khấn cho làng được tất cả những đều may

mắn ông có thể cầu xin: Mưa, phồn thịnh, sức khỏe…

Ngày thứ hai nghi lễ sẽ được làm riêng cho từng người, đích danh cho những gia

đình chính trong làng, những gia đình đã mang những ché rượu riêng của mình đến kèm

theo một con gà hay một con heo. Trình tự nghi lễ như sau: Pơtao bước về phía tây các

ché rượu, ngồi xổm xuống trước chiếc ché thứ nhất và khấn yang dlong, vị thần tối

72

thượng bằng một bài khấn dài như hát, bài này không gọi là iau-lai như các lời khấn

thông thường mà gọi là thuai, từ được dùng riêng cho các cầu khấn long trọng với Pô

(trời). Ông lấy một nhúm thịt trong đĩa, đưa lên cao rồi ném ra phía trước ông, ông lại đi

qua phía Đông, ngồi xổm trước ché rượu, tay chắp lại đưa lên hai lần, cầm lấy cần rượu

và uống. Trống và chiêng nổi lên. “Phía bên kia ché rượu, bốn người ngồi xổm vỗ tay

đánh nhịp, rồi họ từ từ đứng dậy, cho đến khi gần như đứng thẳng người, múa tay và bàn

tay, mỗi người múa một kiểu, quay tròn nửa cánh tay phía trước, song song, trước ngực,

khuỷu tay khép vào thân người, dang rộng ra rồi khép lại hai nửa cánh tay về phía trước

và bàn tay, liên tục đưa cánh tay ra phía trước rồi về sau vừa quay bàn tay, bàn tay úp

xuống khi cánh tay đưa ra trước, người này tiếp người kia kêu lên hót, hot, hot hay kru,

kru, kruuuu, độ cao khác nhau và nhỏ dần, động tác rất lạ. sau đó họ lại trở về tư thế ngồi

xổm và lại vỗ tay. Nhạc ngưng thì họ sẽ uống rượu” [24, tr. 356 – 357].

Đây chính là điệu múa Swang, được coi là điệu múa của con diệc, loài chim được

trời coi như là gà đối với người, các vũ công đã bắt chước tiếng kêu và tiếng vỗ cánh dồn

dập của co chim diệc.

Pơtao và những người trung thành bắt nhịp theo ông làm đúng như vậy trước

những ché rượu, có tất cả 11 ché rượu cho một buổi lễ cầu mưa, và như vậy tới 12 giờ

sau ché rượu thứ 11 vẫn chưa được uống. Như vậy chúng ta có thể thấy rằng cuộc lễ này

kéo dài rất lâu và nó không hề diễn ra trong im lặng như những buổi lễ long trọng mà

chúng ta từng biết đến, và cũng không hề có sự gián đoạn trong suốt cuộc lễ, các cuộc trò

chuyện không dừng lại trong cả khi đang khấn, thậm chí đến 24 giờ sau, cuộc lễ vẫn còn

tiếp tục [24, tr 369].

Ngày nay, nghi lễ cầu mưa được Vua lửa thực hiện trên một miếng đất rộng đã

được quét sạch sẽ hoặc ngay trong chính ngôi nhà sàn rộng rãi của các Vua. Trong lễ

cúng, những lão làng Giarai trong trang phục lễ nghi truyền thống trải bức chiếu trên vạt

cỏ bên cồn đất để Vua Lửa ngồi làm chủ lễ với mâm bát, bình ché bày kề bên. Các lão

làng cùng trai trẻ thay nhau gióng lên những hồi chiêng trống. Những người khác lo

nhóm bếp nhen lửa.

73

Lễ vật theo nghi thức phải gồm đủ các thành phần như một ghè rượu, sáp ong se

thành cây nến, gạo, một con heo thui được bỏ nội tạng, cắt ra bày trên đĩa đan bằng tre.

Ngoài ra còn có một ghè nước để tại bến nước, một giùi tre cắm một mũi tên phía sau

buộc 3 lông đuôi gà trống là linh vật để ở lối dẫn ra khu nhà mồ báo cho “những con ma

biết mà về”.

Khi lễ vật và các thủ tục cần thiết được hoàn tất, Vua lửa bắt đầu bước vào khu

vực hành lễ và tiến hành nghi thức vẩy và xoa nước vào bụng các già làng để cầu khỏe,

cầu phúc. Sau đó Vua lửa sẽ ngồi hướng về phía bàn lễ vật, lạy 3 lạy chào thần linh rồi tự

rót nước vào ché rượu bằng tay phải. Tiếng chiêng trống, lời văn tế ngân nga, vẻ trang

nghiêm, trịnh trọng. Vừa khấn, Vua Lửa vừa lấy gạo vãi ra chiếu mời thần Núi, thần

Sông, thần Gỗ, thần Đá... cùng về dự lễ.

Khi làm lễ, Vua lửa lấy thịt ném 3 lần ra phía trước. Mỗi lần ném thịt, Vua lửa

cũng không quên cầm cây gươm thần, chỉ hướng từ đông sang tây, vừa luôn miệng cầu

khấn, mong Yàng cho mưa thuận, gió hòa, bà con trong làng đoàn kết cùng bảo nhau làm

ăn, con cháu trong làng không nghe lời kẻ xấu xúi giục, mọi người ai cũng được hưởng

phúc của Yàng để sau này cùng sinh được con trai, con gái.

Lễ cầu mưa diễn ra, trong làng không ai bảo ai, mỗi nhà đều tự nguyện mang một

ghè rượu ra để góp vào việc chung. Ngày làm lễ cầu mưa, cả làng đều nghỉ làm nương

cùng tham dự. Tại lễ cầu mưa, thầy cúng dựng 4 cây gậy cao hơn 1m và để trên đó một

đài được đan bằng tre, bên trên để một tàu lá chuối, trên đó thắp một cây nến, một miếng

thịt vai, một đĩa gạo lẫn muối, 1 chén rượu. Khi nào nến tắt cũng là lúc xong lễ. Những

địa phương khác muốn cầu cho mưa thuận gió hòa thì phải mang theo lễ vật gồm “lợn hai

người khiêng, ché rượu cũng phải hai người khiêng”.

Cúng xong, cũng có khi mây đen ùn ùn kéo đến và đổ mưa tức thì nhưng cũng có

khi ngày hôm sau trời mới đổ nước. Thế nhưng, dù thế nào thì khi kết thúc lễ cúng,

những chàng trai, cô gái cũng sẽ bước ra cạnh bếp lửa, thể hiện những điệu múa truyền

thống độc đáo của mình làm cho tinh thần của đồng bào càng thêm phấn khởi. Sau những

74

hớp rượu cần chuếnh choáng, ai về nhà nấy và ngày hôm sau họ lại bắt tay tiếp tục vào

công việc để thực hiện ước muốn một mùa bội thu.

3.2.3. Tang ma, cưới hỏi

Tang ma

Người dân ở hai nước Thủy xá, Hỏa Xá khi chết đi thì “chôn không có quan quách,

để thây chết trên cái giường phẳng, họ hàng đến viếng khóc thì lấy một nắm cơm nhỏ bỏ

vào mồm người chết, bỏ đầy rồi thời đến người sau, lấy ngón tay móc những nắm cơm cũ

ra, bỏ nắm mới vào, để đủ ba ngày rồi đem giường thây chôn xuống huyệt, đắp nấm,

cúng lễ rồi về, áo mặc như thường, chỉ bỏ xõa tóc trong ba tháng. Gặp đến ngày giỗ cúng

đem các thứ phẩm vật cúng thờ ma.” [36, tr 37].

Khi một người ở vùng Thủy Xá, Hỏa Xá chết đi, họ vẫn được chia tài sản, những từ

“Potu” (gửi theo) hay “potruh” (chuyển qua) dùng để nói về những tài sản người ta muốn

đưa theo người chết. Để đi sang được thế giới bên kia, chúng phải được phá hủy đi, từ đó

mà có thói quen đập vỡ các chiêng và chọc thủng các ghè. Họ làm các thao tác trong đám

tang chậm để cho người chết có thêm một ít thời gian giữa hai nơi trú ngụ. Từ đó mà có

các cuộc viếng thăm hàng tháng ngôi mộ cho đến lúc có lễ bỏ mả chính thức, tức là khi

ấy người chết đã đi vào thế giới của tổ tiên.

Đó là đối với những người dân bình thường, nhưng đối với các vị vua thì lại khác,

ngay cả nghi thức khi chết cũng có nhiều thông tin khác nhau. Về nghi thức chết của họ

gần giống nghi thức của một số bộ lạc ở Châu Phi và một số nới thuộc Nam Ấn, tuy

nhiên các vị “vua” ở Thủy Xá, Hỏa Xá vốn chỉ là những người nông dân giản dị, chỉ sống

bằng lao động của mình và lễ vật của các tín đồ, do vậy khi chết đi người ta có rất nhiều

nghi thức kì lạ, và những nghi thức này được nhắc đến bởi nhiều tác giả khác nhau.

Có văn bản cho rằng các vua sẽ bị giết trước khi bị chết một cách tự nhiên, trong

một tài liệu có nhắc đến vấn đề này rằng: “khi tình trạng hấp hối đã rõ và người bệnh đã

có biểu hiện sắp chết, các chức sắc của ông ta và người trong gia đình ông tập hợp nhau

lại và đặt tay lên người ông. Khi ông trút hơi thở cuối cùng, người ta liền cắm một ngọn

lao vào bụng ông”[19, tr. 200].

75

Thậm chí một số văn bản dị bản còn cho rằng các chức sắc của ông chẳng đợi ông

chết hẳn, sau khi bàn bạc, nếu tin rằng vị đại thủ lĩnh sẽ chết, họ sẽ giúp ông qua đời, người ta nói rằng “Bok Redau không chết, người ta giết ông ấy”. 2

Một tác giả người nước ngoài khi viết về cái chết của vua Thủy Xá, Hỏa Xá cũng có

cái nhìn tương tự như vậy, cụ thể là người ta không cho phép các ông Vua Lửa và Vua

Nước được chết một cách bình thường, việc đó sẽ hạ thấp danh tiếng của họ. Vì vậy khi

một trong hai vua đó ốm nặng, các bậc lão thành mở một cuộc tư vấn, và nếu như họ cho

rằng ông vua không hồi phục được, họ hạ sát ông ta. Người ta hỏa thiêu xác của ông vua

và người ta sùng kính thu lượm di cốt của ông ta và tôn vinh công khai trong vòng 5 năm

trời.

Còn theo người Giarai thì Hỏa Xá không chết tự nhiên như mọi người, mà Hỏa Xá phải bị người ta giết chết. khi một trong hai vua chết, phải chuẩn bị các Prasada 3, đặt lên

lưng một con voi cái và một con voi đực rồi dắt chúng đến nhà vị vua ấy. Khi vua chết,

trước tiên người ta phải tắm rửa thân thể ông bằng quả cây Sambuor, rồi xát bằng bột và

dầu. cuối cùng, Oknha Thik Chiriya đọc lời viếng ca ngợi ông, bài viếng đấy được đọc lại

ba lần (mỗi lần do một chức sắc đọc) và được dịch ra tiếng của xứ mình, các lễ vật đặt hai

bên thi hài, các vị chức sắc đứng giữa nhóm các nhạc công thổi những chiếc sáo lớn và

nhỏ”[24, tr. 179]

Khi hay tin Hỏa Xá chết, hầu hết các làng đều cử đại diện đến dự đám tang. Trong

nhiều ngày ta nghe thấy tiếng than khóc, tiếng thanh la, tiếng trống ầm ĩ liên miên, dân

làng và các làng gần xa kéo đến, mỗi người sẽ mang theo một vò rượu, một con heo hay

một con gà. Mọi người sẽ cùng nhau uống rượu say sưa.

Trong lúc ấy thì một số người khác sẽ lo kiếm gỗ làm giàn để đặt xác Hỏa Xá lên đó

và bắt đầu tiến hành làm lễ thiêu xác. Khi các vua Thủy Xá, Hỏa Xá chết đi, họ sẽ được

3 Prasada: tiếng Sankrít, tiếng Khơme gọi là Prasat, là một công trình có mục đích nghi lễ, có thể là chỉ ngôi nhà táng to lớn được dựng lên để đặt thi hài nhà vua

hỏa táng trên một dàn hỏa bằng một loại củi chọn lọc, điều này ngược lại hoàn toàn với 2 Bok Redau chính là vua Lửa theo cách gọi của người Bahnar

76

tập tục của người Giarai, người Giarai không bao giờ thiêu xác người chết, đối với các

Pơtao thì lại khác. Khi thiêu xác xong, tro của các thứ như tim, răng và các xương ngón

tay sẽ được đựng trong một chiếc bình do các sứ thần từ Phú yên mang tới để sắc phong

cho các vua “khi biết có cuộc bầu chọn, các sứ thần từ Phú Yên tới, mang theo một chiếc

bình bằng kim loại trắng và sáng bóng…người Mọi cho rằng chiếc bình bằng bạc nguyên

chất” [19, tr. 200]. Còn những thứ than tro còn lại được đặt vào áo quan đem chôn, trên

nấm mộ người ta dựng tạm một nhà mồ, phía dưới đặt chiếc bình bạc đựng tro trái tim.

Khi người quả phụ tới khóc, bà ta phải dùng một mảnh vải địu chiếc bình trên lưng như

địu trẻ con, bà than khóc, quét dọn mộ, rót nước vào một chiếc chén nhỏ, rắc gạo lên một

chiếc lá rồi sau khi than khóc xong, đặt lại chiếc bình lên mộ, đóng cổng rào vây và quay

về nhà.

Trong mối quan hệ giữa triều đình Huế với các tiểu vương Thủy Xá, Hỏa Xá, triều

đình Huế thực hiện vương quyền bằng cách sắc phong cho các tiểu vương mỗi khi ở tiểu

quốc này có cuộc bầu chọn tiểu vương mới. Khi một vị tiểu vương chết, các sứ thần nhà

Nguyễn từ Phú Yên mang theo một chiếc bình bằng bạc trắng để người Giarai đựng hài

cốt vị tiểu vương của họ đã được hỏa táng.

Vào mỗi đầu tháng âm lịch, người ta tiến hành làm lễ Glom Pôrr, mọi người uống

rượu bên mộ suốt đêm và suốt đêm người vợ góa vừa phải khóc vừa phải địu chiếc bình

trên lưng chứa một phần tro của chồng, cứ như vậy trong vòng năm năm. Sau đó người ta

xây dựng một cái lăng thật to, đẹp, làm lễ Mut Breu, chiếc bình được chôn cùng với áo

quan và ngôi mộ từ đó bị bỏ quên vĩnh viễn [19, tr. 200].

Tuy nhiên, có tài liệu khác thì lại nói rằng “khi chết, Vua Lửa cũng được chôn như

những người khác chứ không phải hỏa thiêu như người ta nói, nếu trong năm tiếp theo

sau cái chết của ông xảy ra những chuyện nghiêm trọng hay kì lạ, thì người ta khai quật

thi hài của ông lên và hỏa táng, tro được chôn cất cẩn thận vào chiếc ché đặt ở đầu mộ,

sau đó được bỏ xuống một con suối”[24, tr. 73].

Còn trên thực tế thì như thế nào? Theo tài liệu điền dã thu thập được, khi vua Nước

đời thứ 7 là Rơchăm Bo chết, xác của ông được hỏa thiêu rất long trọng, giống như người

77

Chăm Bà La Môn ở vùng duyên hải Trung bộ. Trong thời gian này, các làng làm trâu bò

cúng tế. Sau bảy ngày, dân làng lấy tro chôn ngay dưới nhà mồ và họ cũng thực hiện việc

chia của cho vua. Nhà mồ được xây dựng như một nhà rông thu nhỏ trong một khu vực

riêng, không cùng với khu nhà mồ của làng, chỉ có vợ vua mới được chôn cất ở gần.

Trong tang lễ, người ở các buôn xa, buôn gần đều tới dự, những người Giarai ở Pleiku,

Chưprông, Đức Cơ (ở Gia Lai), những người Ê-Đê, GiaRai ở Buôn Ma Thuột, EaH’leo,

Buôn Hồ (tỉnh ĐakLak) đến rất đông. Tuy nhiên cũng cần lưu ý rằng khi hỏa thiêu xác

các Pơtao, nếu ngọn lửa thiêu bốc thẳng lên trời, ấy là điềm thịnh vượng, nhưng ngược

lại, nếu nó nghiêng về bất cứ hướng nào thì tất cả các làng ở hướng ấy đều phải làm lễ

hiến sinh để xua tan tức thì những tai họa mà họ có thể sẽ gặp phải.

“Người ta hỏa táng những người chết để họ được lên trời, nếu ngọn lửa dàn thiêu

không bốc lên thì họ lấy làm buồn, nếu khói bốc lên thẳng bầu tời thì họ lấy làm vui

mừng. Nếu khói ngập ngừng, họ hàng người chết lo lắng, họ cố tìm xem có thể họ đã

quên gì không, sợ đã bỏ quên ở nhà một vài vật gì đó phải gửi theo. Nếu người chết có

một ai đó có thể cưới bà vợ góa của ông, ông sẽ cho ngọn khói đi về hướng người trai trẻ

đó và như vậy chỉ ra anh ta cho cử tọa “hãy cưới vợ ta đi, ta đã chết, chính anh sẽ phải

chăm nom bà ta”[24, tr. 445].

Hay như cái chết của vua Lửa Nhót (Ơi Nhót) là do ông bị sốt, chết trong chính nhà

ông, cái hòm của ông cũng làm khác người dân bình thường, như cái máng heo, không có

hoa văn hay vẽ vời gì cả. Gia đình khóc, còn những người xung quanh thì đến thăm viếng

nhưng chỉ có người già được đến, người già ở các vùng Phú Túc, Banah cũng đến chia

buồn cùng gia đình và cộng đồng.

Xác của Ơi Nhót được để 2 ngày đêm, khi liệm, người ta mang theo tất cả những gì

của ông theo. Khi đưa tang, người khiêng hòm phải là người trong dòng họ, người khác

họ thì không được khiêng. Khi chôn xong, người ta đốt xung quanh mồ, gọi là chuch,

giống như thiêu xác ở bốn góc mồ. Họ không đốt bằng củi mà đốt bằng nến ở bốn góc

tượng trưng cho việc thiêu xác.

78

Còn Siu Luynh là đời Pơtao thứ 14 trong hệ thống các Pơtao đã tồn tại ở Tây Nguyên,

băng hà năm 1999. Khi ông mất, cả Plei và các vùng phụ cận đều đi đưa. Nghi lễ đám ma

của ông cũng khác người thường một chút: Không đặt thi hài trên sàn nhà mà đặt dưới

đất theo hướng đông tây, xác được quàn trong một cây gỗ to khoét rỗng và 2 ngày mới đi

chôn. Nhà mồ hiện đại lợp ngói và trang trí rất đẹp nhưng không có tượng mồ như phong

tục của người Tây Nguyên, vì tuy ông chết nhưng hồn ông vẫn còn ở với dân làng giúp

những người kế vị tốt hơn.

Dẫu sao, tang lễ của một vị Pơtao không hề bình thường, đấy là chiều hướng đầu tiên

và thống nhất hơn cả. Tang lễ cuối cùng của Pơtao được tổ chức là tang lễ của Ơi

Chobba, vị Vua Gió (Pơtao Angin), ít nhất ở đây chúng ta biết được chính xác sự việc đã

diễn ra như thế nào.

Khi Pơtao vừa chết thì ở nhà ông, người ta liền đặt ông xuống đất, mặt quay về phía

cửa sổ ngôi nhà, nằm quay đầu về phía mặt trời mọc, chân về phía mặt trời lặn. Phương

hướng đó, ở mộ cũng theo đúng như vậy, là hướng chung của những người chết “sao cho

khi nhổm lên (để đi vào cuộc sống ở thế giới bên kia) và đứng dậy trên đôi chân là họ đã

quay mặt về hướng Tây, xứ sở của những người chết”, và họ chỉ còn có việc đi đến đó.

Phương Tây của chúng ta, theo cách nhìn của người Giarai cũng là xứ sở của người chết.

Ngược lại, quay đầu về hướng Đông là lối người ta nằm về ban đêm, trừ một vài làng thì

cho rằng hướng Tây mới là hướng cao quý, và đối với Pơtao lúc đang sống cũng nằm

quay đầu về hướng Tây.

Người ta mở các ché rượu trong nhà người quá cố, đọc một lời khấn ngắn, “ta xin

chào ngươi, ta cầu khấn ngươi, ngươi đi tuần du, ta bao giờ cũng cần mưa”. Người ta

uống rượu cần ở chân nhà sàn, cạnh thi thể theo tục Komliang nhưng thay vì chơi điệu

chiêng tang lễ, ching arap người ta lại lấy ba chiêng kom để chơi điệu wang của Pơtao.

Dân chúng ở Plei Măng có thể tham gia nghi lễ Komliang này, nhưng từ các làng lân cận

thì chỉ có chức sắc thiêng chuyên cúng bến nước và một người phó được đến.

Sang ngày thứ ba thì người ta làm lễ chôn cất. Trước đó, theo tục lệ, nhiều người đàn

ông đã đẽo một chiếc quan tài trong một thân cây được khoét rỗng ruột và để bên mộ đã

79

được đào, không phải ở chính nghĩa trang (nằm ở phía Tây làng) mà hơi xế về hướng

Bắc, giữa nghĩa trang và nơi cất giữ các viên đá huyên náo. Chỉ những người già, các

chức sắc ania-gô và koiang được đi theo thi thể người chết, dân làng phải ở nhà. Pơtao

được khiêng đi trên một cái cáng, sau đó được đặt vào quan tài, đưa xuống mộ, lấp đất,

nhưng thay vì quây một khung gồm những tấm gỗ quanh nấm đất nhỏ được vun lên như

thường lệ người ta lại dựng những cây cọc chung quanh.

Không giống với những người chết khác, Pơtao phải nằm một mình trong mộ của ông,

vợ và các con không được chôn cùng, điều đó sẽ khiến đất khô đến mức lõm xuống và

nứt ra.

Khoảng một tháng sau, lễ giỗ kinh điển được cử hành để “rửa mộ”. Những người đến

gồm chức sắc ania-gô, người phó chính và những người đã thực hiện nghi lễ tang ma –

đặc biệt những người đàn ông và đàn bà đã buộc hai bàn tay người chết và xe sợi chỉ.

Một con trâu được xẻ thịt ăn trên mộ, người ta đánh chiêng wang, nhưng ở đây buổi lễ

không kéo dài về đêm, và sau đó không được lặp lại nữa, như vậy là tương đương với

việc bỏ mả. Căn lều athoa dùng trong cuộc chia tay cuối cùng này được đốt đi, ngôi mộ

bị bỏ, người ta sẽ không trở lại đó để mang cơm như đối với những người chết khác.

Nếu sau cái chết ấy xảy ra những tai họa, dịch bệnh hay hạn hán thì sẽ có một lễ hiến

sinh bồi chữa, tầm mức tùy theo tai họa nặng hay nhẹ: ba con heo và ba con trâu, hay bảy

con heo và bảy con trâu – mức lí thuyết gắn với giá trị biểu trưng của các số 3 và 7.

Người ta làm như vậy để có được mưa như trước, như ngày xưa.

Các vấn đề sau tang lễ không được bàn luận như đối với những người thường.

Puai’komai, cuộc bàn cãi giữa họ hàng người quá cố và họ hàng sui gia về lí thuyết để

tìm ra nguyên nhân cái chết, thực tế là để quyết định việc chia sẻ đóng góp, dầu là khi

Pơtao hay vợ ông ta chết chỉ có thể do các chức sắc cũng như những người thân của ông

đã buộc tay người quá cố và xe chỉ, giải quyết. Còn việc tục hôn theo ưu tiên của người

vợ hoặc chồng góa với một người họ hàng của người quá cố thì quy tắc với Pơtao có đổi

khác, đặc biệt người vợ góa không được tái hôn với một người họ hàng của người chết,

cũng như với một chức sắc ania-gô hay koitang mà chỉ được theo chỉ định của các đại

80

diện Pơtao ở các làng. Dù chi tiết trong các cuộc bàn cãi ấy và hệ quả áp dụng của chúng

ra sao, những dự tính ấy cũng là những sự phòng ngừa, nhằm cô lập Pơtao sau khi chết

cũng như khi ông ta còn sống, ông được đặt riêng ra một bên, ông đã từng và vẫn có quan

hệ với những gì hùng mạnh nhất trong lĩnh vực của các yang, vậy nên cẩn trọng gìn giữ

chế độ ngoại lệ ấy và giữ sao cho tục lệ được tôn trọng tốt, từ đó mà có chuyện các chức

sắc truyền thống can dự vào những việc thuần túy gia đình của các Pơtao.

Khi một người được chỉ định làm Pơtao mới, người ta sẽ dẫn ông ta đến chỗ người

ông ta sẽ thay thế, nghĩa là đến mộ người tiền nhiệm, để báo cho ông này biết ông ta có

một người kế vị, bằng cách hiến sinh một con trâu. Ở mộ người ta làm như sau:

“Vị Pơtao tương lai bị lôi kéo đến tận ngôi mộ để làm cho ông ta chịu nhận trách vụ

của mình, …Họ rót rượu vào cái ca rồi đưa cho ông ta “này, đây là rượu cho ông đấy”.

Ông ta sắp cầm lấy, nhưng chưa kịp thì những người dụ dỗ đã cầm rượu bỏ chạy và đến

ngồi ở chỗ xa hơn, ông ta đuổi theo, họ lại chạy mất, kéo ông ta đến thật gần mộ, đến đấy

họ mới chấm dứt trò chơi, nắm lấy ông, ôm chặt.

- Sao lại bắt tôi thế này?

- Ô Ơi, chúng tôi muốn ông làm Pơtao để thay chân người đã chết ở đây.

Rồi mọi người uống rượu trên mộ, trở về làng người ta làm một lễ hiến sinh dâng

Yang làm ra các Pơtao để chính thức hóa việc chỉ định người kế vị” [24, tr. 451].

Cưới hỏi

Trong vấn đề hôn nhân, theo phong tục mẫu hệ, người đàn bà bắt chồng, người con

gái ưng thuận đám nào thì về thưa với cha mẹ để nhờ mai mối đến hỏi ý kiến bố mẹ nhà

trai. Ông bà thông gia tương lai sẽ hỏi ý kiến người con trai nếu đồng ý hai họ sẽ làm lễ.

Về tổn phí cưới hỏi thường do nhà gái đài thọ cũng có khi do nhà trai nhưng rất hiếm.

Trong vấn đề hôn nhân, từ xưa Thủy Xá, Hỏa Xá cũng là một tộc người theo mẫu

hệ, người con trai thường đóng ở địa vị phái yếu, thụ động tuy nhiên với bản chất thiên

nhiên dù sao người đàn ông cũng không đến nỗi e thẹn, mềm yếu như người đàn bà, và

ngay trong phút ban đầu tìm hiểu, thường người đàn bà vẫn e lệ nên nhiều khi chính

người đàn ông là kẻ khởi xướng ý trung nhân. Rồi khi cả hai đã quyến luyến nhau người

81

con trai mới đóng vai trò chủ động cưới hỏi. Là một bộ tộc mẫu hệ nhưng người con trai

là người ngỏ ý trước yêu một cô gái nào cậu trai có thể đem đồ đạc đến trú ngụ ngay nhà

người yêu (miễn là phải được sự đồng ý của người con gái và tự xem như người nhà để

cùng phát nương, dọn rẫy với người yêu). Cha mẹ người con gái không hề ngăn cấm hay

phản đối con gái tiếp xúc đàm thoại với chàng trai. Sau một thời gian ăn ở như thế, chàng

trai sẽ tỏ tình bằng cách trao cho nàng một tặng vật (bông tai, vòng…), nếu nàng thuận

tình sẽ nhận tặng vật, không thì trả lại. Người con gái sau khi đã nhận biếu nhà trai và

bàn chuyện hôn nhân, lúc bấy giờ mới đến lượt người con gái chủ động.

Người con trai lúc đi lấy vợ cũng được gia đình chia của hồi môn để đem theo về

nhà gái. Sống với gia đình người con gái độ vài ba năm, hai vợ chồng có thể xin ra ở

riêng và thành lập một tiểu gia đình.

Tục cưới của dân tộc này khi trai gái bằng lòng nhau thì nhà trai đưa trầu rượu đến

nhà gái, mời dân ở đấy lại hội họp, thế là định việc thành hôn, đại khái ra ở riêng ít, phần

nhiều là ở rể [36, tr. 37]. Và để việc thành hôn được diễn ra tốt đẹp thì bắt buộc phải có

người đứng ra làm chủ hôn, và ở đây, vua Lửa, vua Nước chính là người đứng ra làm chủ

hôn cho các đám cưới, trong dịp quan trọng này, người ta dành cho ông ta một chỗ ngồi

đặc biệt, và con đường mà ông ta đi qua để tới dự lễ được trải những tấm vải bông màu

trắng.

Luật tục nghiêm cấm những người cùng ngành họ và dòng mẹ lấy nhau. Tuổi từ 18 -

19 nam nữ tự do lựa chọn người yêu, trong đó nữ chủ động lựa chọn lấy chồng. Phong

tục giản đơn, không mang tính chất mua bán và do nhà gái chủ động. Bảo lưu tục chồng

chết, vợ lấy em chồng và ngược lại vợ chết, chồng có thể lấy chị vợ. Khi đã thành vợ

thành chồng thì đàn ông phải sang nhà vợ, không có trường hợp ngược lại.

Trước ngày cưới, các quan hệ (nam nữ) được tự do; nhưng sau đó, người đàn bà là

thiêng liêng. Loạn luân, hiếm khi xảy ra, bị phạt rất nặng. Chuyện ly hôn cũng rất hiếm,

khi đã có con [13, tr. 9].

82

3.2.4. Phong tục tập quán khác

Nhiều phong tục tập quán của Thủy Xá, Hỏa Xá đã được các sử thần triều Nguyễn

ghi lại trong bộ Đại Nam liệt truyện như: “nước này ở nơi xa xôi hẻo lánh, chính sự còn

như thời thượng cổ, buộc dây làm nút để đánh dấu, tự cày lấy mà ăn, phong tục còn mộc

mạc” [36, tr. 34].

Chính khi sứ thần của nhà Nguyễn đi tới vùng đất của vua Thủy Xá, Hỏa Xá để tìm

hiểu về phong tục tập quán của họ khi về triều đã báo cáo lên như sau: “nước họ không

có đặt quan chức, cũng không có bắt lính, không có hình luật, dân không biết văn tự, có

vay mượn nhau thì lấy dây buộc nút để nhớ. Cách sinh sống thời chặt cây xuống, giùi lỗ

xuống đất để trồng cấy, không biết cày bừa, hàng năm không có lấy thuế má gì cả, quốc

trưởng cũng không đòi hỏi. quốc trưởng có đi đâu, gần thời chỉ độ 3, 4 người đi theo, xa

cũng không quá hơn 10 người, cưỡi độ 3 con voi, đều đội nón lá không có tàn lọng”[36,

tr. 37].

Lại cũng nghe nói hai quốc trưởng Thủy Xá, Hỏa Xá không bao giờ gặp nhau, bởi

hễ trông thấy nhau là sẽ có một người chết. Quốc trưởng khi tuổi già đến thường truyền

ngôi cho cháu nội hay cháu gọi là chú, bác mà không truyền lại cho con.

Phong tục ở Thủy Xá, Hỏa Xá lại có chỗ thú vị khác với các nơi khác, họ nói đêm là

thứ mấy, chứ không nói là ngày, lấy thóc chín làm một năm mà không nói là năm, quan

thì gọi là Lung, nhưng vì sứ giả không dám gọi là Lung nên chỉ xưng là Ma. Bên cạnh đó

còn có tục không dám mặc áo hoa, cho nên phàm khi lại cống, mà lại cho áo lụa thì chỉ

đều dùng một thứ mộc trơn mà thôi.

Trong vấn đề sinh đẻ, bà mẹ được coi trọng. Khi mang thai họ không được làm việc

nặng nhọc. Họ rất lo sợ đẻ khó và chết vì sinh nở. Khi sinh nở sản phụ phải kiêng khem

nhiều thứ như không ăn cơm nấu mà chỉ dùng cơm lam, không ăn thịt mà chỉ ăn rau...

83

Tiểu kết chương 3

Tộc người Giarai ở Thủy xá, Hỏa Xá trong khoảng thời gian từ thế kỉ XV đến cuối

thế kỉ XIX, dân tộc này đã xây dựng cho mình một nền văn hóa độc đáo, họ đã cùng nhau

tạo dựng nên một kho tàng văn hóa truyền thống phong phú và đặc sắc gắn với sinh hoạt

cộng đồng công xã. Kho tàng văn hóa truyền thống mà dân tộc này xây dựng nên khá đồ

sộ, đa dạng, nổi bật lên những sắc thái điển hình và độc đáo của văn hóa công xã. Nền

văn hóa ấy tương thích với tổ chức xã hội đặc thù ở giai đoạn tiền nhà nước, tiền giai cấp

trên cơ sở kinh tế nông nghiệp thô sơ lấy canh tác nương rẫy làm căn bản, duy trì nếp

sống du canh du cư, không ổn định, nền văn hóa ấy về cơ bản vẫn là nền văn hóa dân

gian, mang tính cộng đồng cao trong sáng tạo cũng như trong hưởng thụ. Cộng đồng

công xã từng là cái nôi của văn hóa dân gian và sau này là pháo đài vững chắc bảo vệ tài

sản văn hóa dân gian ấy.

Trong một không gian địa lý cận kề và điều kiện tự nhiên tương đồng, người ở Thủy

Xá, Hỏa Xá còn tiếp thu và dung hòa những nét văn hóa của tộc người lân cận hoặc các

quốc gia xung quanh mình. Điển hình chúng ta thấy văn hóa của Thủy Xá, Hỏa Xá có

ảnh hưởng của Văn hóa Chăm: tục hỏa thiêu người chết, cách ăn mặc và sử dụng những

thứ vải vóc của người Chăm, cách gọi tên “Pơtao” cũng là một từ gốc Chăm, chiếc áo Ơi

mặc có miếng vải đỏ trước ngực cũng là áo Chăm…Từ đó chúng ta thấy có sự giao lưu

văn hóa giữa các dân tộc với nhau để tạo nên một nền văn hóa riêng độc đáo, góp phần

làm phong phú thêm nền văn hóa đa dạng, đậm đả bản sắc của dân tộc Việt Nam.

84

KẾT LUẬN

Như vậy, mặc dù lượng tài liệu nói về Thủy Xá, Hỏa Xá cực kì ít ỏi, nhưng tác giả

cũng đã cố gắng để phục dựng lại một cách cơ bản nhất diện mạo về lịch sử và văn hóa

của hai phiên vương Thủy Xá, Hỏa Xá từng tồn tại trong lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XV

cho đến tận thế kỉ XIX.

Thứ nhất: Về thủ lĩnh của Thủy Xá, Hỏa Xá và vai trò thực sự của họ là gì?

Pơtao Pui hay còn gọi là Hỏa Vương, thời phong kiến Việt gọi là Hỏa Xá. Người

Khơme gọi là Sămdek Phlơng. Phạm vi ảnh hưởng của Mtao Pui là Cheo Reo và phụ cận.

Pơtao Ia còn gọi là Thủy Vương, thời phong kiến Việt gọi là Thủy Xá, người

Khơme gọi là Sămdek tơk. Phạm vi ảnh hưởng là Plei Kly phía tây bắc của Cheo Reo

(Đây huyện cực Nam của Gialai giáp với huyện Ea H’leo của Daklak nơi Vua Champa

từng xây thành để kháng chiến chống Mông –Nguyên).

Trong dân gian còn lưu truyền “Aê Tụ ti ngŏ ,Aê Bŏ ti yŭ” có nghĩa là “Ông Tụ

phía đông , Ông Bọ ở phía tây”.

Về Pơtao Angin, người Việt không nói đến việc phong Vương cho Vua gió.

Nhiều chi tiết chưa được kiểm chứng.

Người Giarai gọi vua Lửa là Pơtao. Thật ra chữ vua ở đây không đồng nghĩa với

“vua”, chúa” như chúng ta thường nghĩ. Pơtao của người Giarai không có nhiều thực

quyền họ cũng đi lên nương làm rẫy, sinh con đẻ cái và cũng nghèo như bất cứ người

Giarai nào. Quyền hạn của những ông vua này chỉ được thể hiện trong các lễ cúng và lễ

hội cầu mưa. Lúc đó Pơtao sẽ dùng gươm thần làm cầu nối giữa người Giarai với thần

linh để những vị thần trên trời có thể nghe thấy ước muốn của họ mà ban mưa cho dân

bản.

Có thể những truyền thuyết về Vua Lửa và kiếm thần xuất phát những mong ước lâu

đời của người dân nơi đây. Tây nguyên có đến 6 tháng mùa khô, địa hình núi cao, sông

dốc nhỏ, ngắn nên nỗi lo về hạn hán là nỗi lo thường trực nhất của cộng động các dân tộc

ở đây... Trong hoàn cảnh ấy, ước muốn lớn nhất của người Giarai là có thể cầu xin “mưa

85

thuận gió hòa”, để mùa màng tươi tốt, con heo, con bò sinh được nhiều con, cho lửa cháy

trên bếp, cho con người không đau ốm… Tuy chỉ mang ý nghĩa tâm linh và thật sự không

có thực quyền nhưng tầm ảnh hưởng về tinh thần của Pơtao (Vua lửa) đối với người

Giarai là có thật. Người Rơngao quan niệm chức năng của Vua Lửa như là một trường

hợp liên minh đặc biệt, người liên minh là thần của lưỡi gươm. Tuy nhiên thói quen liên

minh ở người Giarai dường như chỉ là một nét mượn ở các bộ lạc Môn – Khơme. Từ tất

cả những điều đó, ta có thể kết luận là Vua Lửa, vua Nước vốn thuộc kiểu các thủ lĩnh thị

tộc được coi là có tính chất thần thánh.

Nhiệm vụ bình thường của các Vua Lửa, Vua Nước là cầu mưa khi nắng hạn hoặc

cầu cho hết dịch bệnh của người hay động vật. Ta có thể thấy ví dụ cụ thể là vào năm

1919, tất cả các nhà cho đến tận vùng Rhadé đều treo những lá bùa do Vua Lửa cung cấp

nhằm chống lại dịch cúm làm chết rất nhiều người năm trước đó. Quyền lực của ông có

được là do sự tin tưởng vào thần thánh của người dân.

Thứ 2: Có hay không nhà nước Thủy Xá, Hỏa Xá?

Chúng ta đều biết, thực ra xã hội Tây Nguyên chưa có nhà nước. Một số nhà nghiên

cứu cho rằng, đến giữa thế kỷ XX thì Tây nguyên vẫn còn đang ở giai đoạn mạt kỳ mẫu

hệ. Cái gọi là chính quyền mới chỉ xuất hiện vai trò của già làng, một vài nơi có tù trưởng

như ông Chut Cheo Reo, người lãnh đạo nhân dân Giarai Ayun Pa chống pháp... Cho nên

từ “Pơtao” như lâu nay ta hay dịch là “vua” thực ra là không chính xác. Ở đây, Pơtao để

chỉ mối liên hệ giữa người Giarai với các sức mạnh vô hình với họ như thần linh hoặc vũ

trụ. Các Pơtao cũng đồng thời giữ mối liên hệ giữa huyền thoại và lịch sử. Thế tức là

Pơtao là những người không thực quyền, họ chỉ có vai trò là cầu nối giữa cộng đồng với

các đấng siêu nhiên, cụ thể ở đây là với việc cầu mưa. Ở đây, ta cũng cứ gọi là “vua’ theo

truyền thống. Trong hệ thống các vua mang yếu tố thần quyền ở Tây Nguyên gồm vua

Lửa, vua Nước, vua Gió thì vua Lửa là người có vai trò lớn trong đời sống tinh thần các

tộc người Tây Nguyên, đặc biệt là người Gia Rai. Những ông vua này đã từng nhận sắc

phong của triều Nguyễn trong những nỗ lực cố gắng của các vua Nguyễn muốn thâu tóm

vùng đất cao nguyên rộng lớn này. Siu Luynh là đời Pơtao thứ 14 trong hệ thống các

86

Pơtao đã tồn tại ở Tây nguyên. Gọi là vua nhưng thực chất họ không khác gì người bình

thường, cũng đi làm rẫy kiếm ăn, lấy vợ sinh con. Họ chỉ thực sự có quyền khi mà hạn

hán thì cúng cho mưa và mưa nhiều quá thì lại cúng cho hết mưa để khỏi úng. Vua có

một thanh gươm nghe đồn là gươm thần được tôi bằng máu người mới nguội, hiện được

cất rất kỹ tại một hang đá ngay bên cạnh làng Ơi, giữa cánh đồng Ayun hạ bây giờ. Đây

là một thanh gươm có thật nhưng chưa ai được thấy bao giờ. Có một số nhà nghiên cứu

đã nhiều lần đến Tây Nguyên, nhiều lần ngồi uống rượu với “vua”, nhiều lần xem xét

quanh cái hang kiếm thần ấy, nhưng chưa bao giờ dám xin xem thanh gươm thiêng vì

xung quanh nó có quá nhiều mẩu chuyện huyền thoại lẫn thêu dệt. Năm 1990, giáo sư

Nguyễn Tấn Đắc là người đầu tiên ngoài tộc được phép xem thanh gươm đó sau một lễ

cúng và hứa không chụp hình. Theo tài liệu điền dã mà ông ghi lại, đó chỉ là một con dao

cán dài và đã gỉ sét hết - như minh chứng cho những suy đoán về cuộc sống nghèo khổ,

không của cải và ngai vàng của những “Ơi” mà sử sách Việt Nam gọi là vua Lửa, vua

Nước. Từ năm 1904, một viên sĩ quan Pháp (có tài liệu nói là cố đạo, là nhà khoa học)

tên là Odend’hal cùng 4 tuỳ tùng chỉ vì lý do cứ đòi xem gươm cho bằng được, đã bị dân

làng giết chết. Qua quá trình tìm hiểu, cả bằng tư liệu lịch sử cũng như tư liệu điền dã của

giáo sư Nguyễn Tấn Đắc và của cá nhân, chúng ta đi đến kết luận rằng Pơtao là một

người đàn ông Giarai hiền lành, có vợ con đàng hoàng, cũng phải làm việc lam lũ, đến

nhà ban ngày bao giờ cũng phải nhờ người lên rẫy, cách nhà hàng 5, 7 cây số tìm, vì ông

suốt ngày làm việc trên ấy.

Vậy nên chúng ta thấy, có ba Pơtao là xuất phát từ vũ trụ quan của người Giarai,

theo đó vũ trụ được cấu tạo bằng ba yếu tố, hoặc vật chất trong vũ trụ tồn tại dưới ba

trạng thái: Nước (Lỏng), Lửa (Nóng) và Gió (Khí). Khi ba yếu tố, hay ba trạng thái ấy ổn

định, hài hòa, thì mọi sự đều tốt đẹp, dòng chảy của tự nhiên thông suốt, mưa thuận gió

hòa, núi rừng và muôn vật yên ổn, con người thanh bình, hạnh phúc. Ba yếu tố cơ bản đó

vừa là ba vừa là một, là ba trong một, là "tam vị nhất thể", có thể thể hiện thành ba mà

cũng có thể đọng lại trong một, có đủ cả ba càng tốt, chỉ có một cũng không sao, trong

87

một đã chứa cả ba. (Chính vì vậy khi "Vua Nước", "Vua Gió" không còn, thì đối với

người Giarai cũng không có gì quan trọng lắm).

Chức năng của Pơtao là điều hòa các yếu tố, tự nhiên và xã hội bởi đối với người

Tây Nguyên, Tự nhiên và Xã hội luôn gắn bó làm một để cho mọi sự được tốt đẹp, yên

ấm. Đối với người Giarai, ông không hề là "Vua", ông được dân các làng bầu lên qua các

Khoa Yang, ông thường là người nghèo nhất trong làng, không có bất cứ quyền hành hay

lợi ích đặc biệt nào. Ông chính là Rit của truyền thuyết. Ông gìn giữ sự điều hòa bằng

cách hằng năm vào đầu vụ sản xuất "tuần du" qua các làng và cúng cầu mưa, hoặc cúng

cầu yên khi có thiên tai, dịch bệnh. Ông giữ mối quan hệ giữa văn hóa, tự nhiên và siêu

nhiên. Vua Lửa giữ một lưỡi gươm thiêng, tượng trưng cho quyền lực điều hòa thiêng

liêng, được cất kín trong căn chòi trên một hòn núi bí mật, mà ngoài ông ra không ai

được nhìn thấy nó. Jacques Dournes nói rằng ông là đại diện của "dân đen" (le petit

peuple), “dưới bóng của các ông vua này, thần quyền nhều hơn là thế quyền” [24, tr. 40].

Người Giarai đã sáng tạo ra điều mà Dournes gọi là "một lý thuyết về quyền lực", độc

đáo, đặc sắc, quyền lực của "dân đen" được thể hiện trong một thiết chế vừa thần quyền

vừa thế quyền, đầy hiệu lực, không cần có nhà nước, không quân đội, cũng không cảnh

sát, không cần có lãnh chúa…, ổn định bền vững qua lịch sử nghìn năm. Cũng có thể là

một thiết chế quyền lực - phi quyền lực.

Khi người Việt dịch Pơtao là Vua, người Pháp dịch là Roi, người Mỹ dịch là King,

và đối xử với Pơtao như là "Vua của người Giarai", thì người Giarai cũng không cãi lại,

không phản đối. Họ sẵn sàng để cho triều đình Việt, nhà nước Pháp, quyền lực Mỹ cứ

hiểu thế đi, chẳng sao cả. Thậm chí các Pơtao cũng ứng xử lại với các thế lực bên

ngoài ấy như mình chính là vua của người Giarai vậy. Triều đình Huế đã từng phong

tước, ban các thứ vật phẩm tượng trưng cho vua Lửa, vua Nước, mà họ gọi là Hỏa Xá,

Thủy Xá, và coi là các "chư hầu". Các Pơtao vui vẻ nhận, lại còn định kỳ "triều cống"

triều đình các lâm sản quý: ngà voi, sừng tê giác, mật và sáp ong… Người Pháp, người

Mỹ cũng từng đối xử với các Pơtao và được các Pơtao đối xử lại hệt như vậy, không hơn

không kém. Các thế lực bên ngoài ấy ngỡ như vậy là đã nắm, đã thần phục được người

88

Giarai, dân tộc Giarai, cộng đồng Giarai qua các Pơtao của mình. Còn họ, lặng lẽ, họ vẫn

giữ nguyên nền độc lập riêng của mình, với thiết chế kỳ lạ, đặc sắc của mình, chỉ có họ

hiểu, chỉ họ biết với nhau, một nền độc lập dựa trên sự hài hòa của tự nhiên và xã hội, lấy

nền tảng văn hóa làm chính. Cũng có thể nói cách khác đối với người Giarai, chính trị

chính là văn hóa. Thiết chế Pơtao chính là một thiết chế chính trị - văn hóa độc đáo, hiệu

quả. Không phải ngẫu nhiên mà Giarai là dân tộc có tính độc lập và sức đề kháng dân tộc

mạnh mẽ, sâu sắc nhất ở Tây Nguyên.

Trên thực tế, có những thiết chế trên cấp buôn làng, nhưng chúng lại không mang

đặc trưng chính trị. Một vài xã chung nhau một khu đất để trồng cấy du canh, và do đó

đòi hỏi phải có thần hộ mệnh chung cho khu đất ấy. Một vài thiết chế tôn giáo có ảnh

hưởng đối với cả một vùng rộng lớn, chẳng hạn như Pơtao của người Giarai, là những vị

pháp sư giữ một vị trí đặc quyền gắn liền với các yếu tố lửa, nước và gió. Từ Pơtao có

nguồn gốc từ tiếng Chăm, dùng để chỉ những cá nhân có vị trí quan trọng về mặt chính trị

hoặc tôn giáo như vua, hoàng thân và các thủ lĩnh địa phương, cũng như những thầy tu và

pháp sư có ảnh hưởng lớn. Những thủ lĩnh địa phương khác khi đạt đến những địa vị có

thế lực cũng sẽ nhận được danh hiệu pơtao hoặc mesao. Thông thường, từ này được dùng

để chỉ “nhà vua”, do vậy đã dẫn đến sự nhầm lẫn của những người quan sát phương Tây,

những người cố tìm kiếm các vị vua với sự uy quyền và giàu có thường thấy, nhưng thay

vào đó lại chỉ thấy các thủ lĩnh nhỏ hoặc các lãnh tụ tôn giáo mà thôi.

Pơtao của người Giarai gắn với thần linh, Pơtao nói cái gì thì có cái đó nên người ta

tin và tôn thờ các Pơtao. Tuy nhiên Pơtao của người Giarai không có chức năng quản lý

nhà nước, họ chỉ là những người được thần linh giao cho nhiệm vụ trông coi và giúp đỡ

mọi người. Người dân họ quý Pơtao nên tự động cho heo, gà, gạo, tiền chứ hoàn toàn

không phải là hình thức đóng thuế bắt buộc.

Và cũng chính từ vai trò của những Pơtao như vậy mà họ đã xây dựng được một

mối quan hệ gắn bó với triều đình nhà Nguyễn cũng như với Champa và Campuchia.

Những mối quan hệ ấy được duy trì trong lịch sử và được ghi lại trong sử sách của cả

người Việt và người Khơme chứng tỏ Thủy Xá và Hỏa Xá trong lịch sử là có thật, có tồn

89

tại và đó thực sự là những tiểu quốc chư hầu của triều đình chúa Nguyễn, nhà Nguyễn và

vẫn thường tiến cống cho nhà Nguyễn theo đúng lệ.

Tuy nhiên chúng ta có thể thấy rằng, ở tiểu quốc Thủy Xá, Hỏa Xá chưa có nhà tù,

chưa có chế độ cai trị, cả già làng và dân thường đều như nhau, chưa phải là đã hình

thành nhà nước. Ở họ cũng chưa có hội đồng già làng, khi có việc gì thì dân mời những

người già có uy tín, biết cúng. Hoàn toàn chưa có tổ chức hội đồng già làng như hiện nay,

họ thực hiện việc điều hành cộng đồng bằng phong tục tập quán của tộc người, hoàn toàn

không quản lý theo pháp luật. Như vậy họ hoàn toàn không phải là một nước, một quốc

gia như chúng ta vẫn thường nghe nói mà chỉ là một cộng đồng dân tộc cũng như tất cả

53 dân tộc anh em còn lại trên lãnh thổ Việt Nam.

Trải qua những biến động lịch sử của nhiều thế kỉ, địa vị chính trị của các Pơtao mất

dần ảnh hưởng, và từ lâu họ chỉ còn lại như những người làm nghề tế tự. Các Pơtao Ia,

Pơtao Puih ngày nay chỉ còn là những người biết lệ luật, làm phù phép, cầu trời mưa nắng

thuận hòa, mùa màng tươi tốt. Tuy nhiên xét về một khía cạnh khác, do có thần quyền

nên phạm vi ảnh hưởng của họ còn khá rộng. Nếu không kể đến uy danh trong quá khứ,

trong lịch sử mà người ta còn thấy mãi tới đầu thế kỉ XX này, việc bang giao giữa họ với

các vua Campuchia vẫn còn được giữ, vẫn theo tục lệ cũ năm năm một lần có cuộc trao

đổi quà tặng giữa đôi bên.

Những nhà dân tộc học người Pháp lẫn các sứ giả triều Nguyễn đều ngạc nhiên với

những ông vua không ngai, chỉ tồn tại ở mặt thần quyền, quy ước. Pơtao Ia hay nhiều

người gọi là “Vua nước” đã được nhắc đến như thế, với địa vị, có lẽ là một thầy cúng

không hơn.

Tất cả những tài liệu của nhiều học giả, những nhà dân tộc học của Pháp hay Việt

Nam mà tôi tiếp cận được đều khẳng định chỉ có sự hiện diện về mặt thần quyền của các

Pơtao, hoàn toàn không có pháp trị. Qua bao dâu bể, những câu chuyện như sử làng được

truyền khẩu, dù nhiều phần là huyền sử. Duy có điều những Pơtao của người Giarai là có

thật. Họ không được “truyền ngôi” theo kiểu cha truyền con nối mà sau khi “vua” mất,

người làng sẽ chọn trong dòng họ này một người có uy tín, chấp nhận đảm đương công

90

việc để làm Pơtao. Giáo sư Nguyễn Tấn Đắc đã dẫn những tài liệu điền dã cho thấy,

người dân ở đây rất sợ và thường chạy trốn để không phải làm Pơtao – thầy cúng.

Ba ông vua là Vua nước, Vua lửa và Vua gió, dẫu không hề là một thể chế pháp trị,

chỉ đơn thuần mang tính chất thần quyền, nhưng sự chi phối của họ trong đời sống tâm

linh của những cư dân bản địa, với nền văn minh lúa nước vẫn có ảnh hưởng khá lớn từ

xa xưa.

Thứ ba: Vai trò và tác động của mối quan hệ giữa Thủy Xá, Hỏa Xá với triều đình

phong kiến Việt Nam và vùng phụ cận

Qua mối quan hệ giữa Thủy Xá, Hỏa Xá với triều đình phong kiến Việt Nam chúng

ta thấy rõ những chủ trương, chính sách của nhà Nguyễn đối với tộc người này. Xét về

khía cạnh này ta thấy bất kì một chủ trương, chính sách nào của nhà nước cũng hướng

đến một mục tiêu, mục đích cụ thể nhằm thống nhất quốc gia và tập trung quyền lực về

triều đình trung ương. Triều đình phong kiến Việt Nam đã dùng những biện pháp nhằm

mục đích phủ dụ, vỗ yên vùng dân tộc thiểu số này, hết sức hạn chế các hoạt động quân

sự. Điều này đã góp phần ổn định xã hội, giữ yên biên giới, đồng thời lôi kéo được các

các dân tộc thiểu số ở các vùng lân cận cùng quy phục triều đình.

Những chính sách của nhà Nguyễn như ban cấp bổng lộc, tuyển chọn và đưa những

vị quan tới cai trị theo đúng chủ trương khai hóa và phủ dụ đã góp phần ổn định, không

hề xảy ra chuyện dân tộc này đứng lên nổi dậy chống lại triều đình.

Ngoài ra còn có tác dụng mở rộng giao lưu kinh tế và tăng cường đoàn kết giữa

đồng bằng – miền núi. Đối với các dân tộc miền núi như Thủy Xá, Hỏa Xá, điều kiện

sinh hoạt khó khăn buộc họ phải trao đổi sản vật với những dân tộc khác để đáp ứng nhu

cầu sinh hoạt vật chất và tinh thần của chính họ. Hoạt động trao đổi các sản vật tự nhiên

lấy cồng chiêng, vải vóc là một ví dụ điển hình. Người miền xuôi thu được lợi nhuận rất

lớn từ việc trao đổi buôn bán với tộc người này. Và cũng chính nhu cầu trao đổi, buôn

bán hàng hóa để đáp ứng nhu cầu cuộc sống chính là điều kiện, là cơ sở mở rộng giao lưu

văn hóa giữa các dân tộc với nhau, kể cả là giao lưu văn hóa – kinh tế với Chân Lạp hay

Champa.

91

Tóm lại từ mối quan hệ giữa Thủy Xá, Hỏa Xá với triều đình phong kiến Việt Nam

cũng như với Chân Lạp và Champa đã có tác động tích cực giúp giữ yên biên giới, củng

cố địa vị độc lập thống nhất của nhà nước phong kiến cũng như giúp cải biên các hủ tục

lạc hậu của Thủy Xá, Hỏa Xá, từng bước khắc phục tình trạng chênh lệch về dân trí giữa

các dân tộc, đồng thời tạo sự giao lưu kinh tế - văn hóa giữa các dân tộc được thuận lợi

và dễ dàng hơn.

Cũng chính từ mối quan hệ này sẽ giúp chúng ta rút ra được những bài học kinh

nghiệm trong việc xây dưng những chính sách đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số

hiện nay.

Bên cạnh đó, Thủy Xá và Hỏa Xá cũng đã tự xây dựng cho mình một nền văn hóa

đặc sắc, nổi bật trong lịch sử, mặc dù có những nét ảnh hưởng từ bên ngoài, đặc biệt là

ảnh hưởng từ văn hóa Chăm, nhưng cũng mang đậm tính dân tộc, một nét văn hóa riêng

độc đáo không dân tộc nào có được.

92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Phan An (1992), Chính sách đối với các dân tộc ít người của nhà Nguyễn thời Minh 1.

Mạng (1820-1840) những vấn đề văn hóa xã hội thời Nguyễn, Nhà xuất bản

Khoa học xã hội, Hà Nội.

Đào Duy Anh (1964), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nhà xuất bản Khoa học xã 2.

hội, Hà Nội.

Cửu Long Giang, Toan Ánh (1974), Miền thượng cao nguyên, Nhà xuất bản Văn hóa 3.

dân tộc, Sài Gòn.

Ban Chỉ đạo Tây Nguyên (2006), Tây Nguyên trên đường phát triển bền vững, Nhà 4.

xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Phan Văn Bé, Trương Vũ Xương, Phan ngọc Liên (1993), Tây Nguyên sử lược, tập 1, 5.

từ thời nguyên thủy đến cách mạng tháng Tám năm 1945, hội giáo dục LS,

thuộc hội sử học Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.

Vũ Ngọc Bình (1995), Tiền sử Gia Lai, sở VHTT Gia Lai. 6.

Vũ Ngọc Bình, (2002), “quan hệ Việt Nam – khu vực Bắc Tây Nguyên trước thế kỉ 7.

XIX”, Kỉ yếu hội thảo khoa học Nam Bộ và Nam Trung Bộ, tr 324 – 329.

Phan Huy Chú (1997), Hoàng Việt Dư địa chí, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế. 8.

Võ Chuẩn (1933), Kon Tum tỉnh chí, Nam Phong, số 191. 9.

Phan Hữu Dật và Lâm Bá Nam (2001), Chính sách dân tộc của chính quyền nhà nước 10.

Việt Nam (thế kỉ X-XIX), nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Dư địa chí ĐắkLắk

12. Dư địa chí Gia Lai

13. Dam Bo (2003), Miền đất huyền ảo, Nguyên Ngọc dịch, NXB hội nhà văn, Hà Nội.

14. GS Nguyễn Tấn Đắc (2012) , Tôi gặp các Ơi, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, SG.

15. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa, xã hội và con người Tây Nguyên, nhà xuất bản

khoa học xã hội, Hà Nội.

16. Nguyễn Tấn Đắc (2010), tư liệu điền dã , Hà Nội.

93

Lê Quý Đôn (1961), Phủ Biên tạp lục, nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội. 17.

18. George Condominas (2008), Chúng tôi ăn rừng, Lan Anh, Ngọc Hà, Thu Hồng dịch,

NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.

19. Henri Maitre (2008), Les Jungles Moi (rừng người Thượng) Lưu Đình Tuân dịch,

hiệu đính Nguyên Ngọc, NXB Tri Thức, Hà Nội.

20. Nguyễn Thị Thanh Hòa (2012), Chính sách của vua Minh Mạng đối với các dân tộc

thiểu số ở miền Trung, luận văn thạc sĩ Lịch sử, trường ĐH Sư Phạm Thành

phố Hồ Chí Minh.

Lưu Hùng (1996), Làng buôn cổ truyền xứ Thượng, nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà 21.

Nội.

22. Hoàng Văn Huyên (1980), Tây Nguyên, Nhà xuất bản Văn hóa, Hà Nội.

23. Nguyễn Thị Hiệp Ngọc (2005), Phú Yên dưới thời các chúa Nguyễn (1578 -

1773), Luận văn Thạch sĩ Khoa học, Khoa sử, ĐHKH Huế.

Jacques Dournes (2013), Pơtao, một lý thuyết về quyền lực của người Giarai ở Đông 24.

Dương, Nguyên Ngọc dịch, NXB Tri Thức, Hà Nội.

Jacques Dournes (2002), Rừng, đàn bà, điên loạn, NXB hội nhà văn, Hà Nội. 25.

Phan Khoang (2000), Việt Sử xứ Đàng Trong, NXB Văn hóa, Hà Nội. 26.

Thủ bút Trương Vĩnh Ký, lưu trữ tại viện khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh. 27.

28. Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử kí toàn thư, tập 2, nhà xuất bản văn hóa thông tin, Hà

Nội

Thanh Nha (1962), Tiếng sấm Tây Nguyên, nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 29.

30. Nhiều tác giả (2007), Đất và người Tây Nguyên, tạp chí xưa và nay, Nhà xuất bản

Văn hóa, Sài Gòn.

Lương Ninh (2009), Vương quốc Phù Nam, NXB ĐHQG, Hà Nội. 31.

Lương Ninh (2004), Lịch sử vương quốc Champa, NXB Đại học quốc gia, Hà Nội. 32.

Lương Ninh, Người Nam Á, Nam Đảo và sự hình thành các quốc gia cổ ở Việt Nam, 33.

hội thảo VNH lần 3, Hà Nội.

94

34. Oscar Johannes Hubertus Maria Salemink (1999), Beyond Complicity and Naiveté,

Netherlands.

Piere Dourisboure (2008), dân Làng Hồ, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng. 35.

36. Quốc sử quán triều Nguyễn (1993), Đại Nam liệt truyện sơ tập, tập 2, NXB Thuận

Hóa, Huế.

37. Quốc sử quán triều Nguyễn (1962 – 1975), Đại Nam Thực lục, nhà xuất bản Khoa học

xã hội, Hà Nội

38. Quốc sử quán triều Nguyễn (1965), Khâm Định Đại Nam hội điển sử lệ, bản dịch tạ

Quang Phát, bộ VHGD, Sài Gòn.

39. Quốc sử quán triều Nguyễn (1994), Minh Mệnh chính yếu, tập 3, nhà xuất bản Thuận

Hóa, Huế.

40. Đào Huy Quyền (1995), “Vua Lửa, một hiện tượng văn hóa tín ngưỡng của người

Giarai”, Tạp chí Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay, (10), 13 -17.

41. Đào Huy Quyền (2008), Những biến đổi về cơ cấu xã hội và bản sắc văn hóa trong

quá trình đổi mới của các dân tộc bản địa ở Tây Nguyên Việt Nam, trường hợp

tỉnh Gia Lai, Hội thảo VNH lần 3, Hà Nội.

42. Nguyễn Siêu (1960), Phương Đình dư địa chí, bản dịch Ngô Mạnh Nghinh, tự do xuất

bản, Sài Gòn.

43. Nguyễn Văn Siêu (1997), Đại Việt Địa dư toàn biên, viện sử học, NXB Văn hóa, Hà

Nội.

44. Chu Thái Sơn (2005), Người Giarai, NXB Trẻ, TPHCM.

45. Nguyễn Lệ Thi (1978), Thư tịch cổ Việt Nam viết về Đông Nam Á, phần Chiêm

Thành, Thủy Xá, Hỏa Xá, Miến Điện, Chà Và, tài liệu lưu hành nội bộ, Hà

Nội.

46. Nguyễn Duy Thiệu (cb) (1997), Các dân tộc ở Đông Nam Á, nhà xuất bản Văn hóa

dân tộc, Hà Nội.

47. Ngô Đức Thịnh, Chu Thái Sơn & Nguyễn Hữu Thấu (1996), Luật tục Ê-đê, NXB

Chính trị xã hội, Hà Nội.

95

Trung Thị Thu Thủy (2008), giải pháp nào cho vấn đề bảo tồn, lưu giữ lễ hội truyền 48.

thống các tộc người thiểu số ở Tây Nguyên, Hội thảo VNH lần 3, Hà Nội.

49. Ngô Đức Thịnh (2007), Những mảng màu văn hóa Tây Nguyên, NXB Trẻ.

Tổng cục thống kê, báo cáo tổng điều tra dân số năm 1999. 50.

Tổng cục thống kê, báo cáo tổng điều tra dân số năm 2009. 51.

52. Nguyễn Văn Thưởng (2008), Các cuộc đấu tranh của đồng bào miền núi ở Nam

Trung kỳ những năm đầu thế kỉ XX, Hội thảo VNH lần 3, Hà Nội.

53. Nguyễn Tuấn Triết (1964), Lịch sử phát triển của các tộc người Mã lai – Đa đảo,

NXB Khoa học xã hội, HN.

54. Nguyễn Tuấn Triết (2007), Tây Nguyên những chặng đường lịch sử văn hóa, viện

KHXH Việt Nam, Viện KHXH vùng Nam Bộ, Trung tâm nghiên cứu Tây

Nguyên, NXB KHXH, Hà Nội.

Trung tâm nghiên cứu Tây Nguyên (2006), Tôn Giáo trong các tộc người bản địa ở 55.

bắc Tây Nguyên, TP HCM.

56. Nguyễn Đình Tư (1964), Giang sơn Việt Nam, đây non nước Phú Yên, Nxb Tiền

Giang.

57. Nguyễn Minh Tường (1993), Chính sách đối với dân tộc thiểu số của triều Nguyễn

nửa đầu thế kỉ XIX, tạp chí nghiên cứu lịch sử, (6), tr 37 – 44.

58. Đặng Nghiêm Vạn (1981), Các dân tộc tỉnh Gia Lai, Kontum, nhà xuất bản Khoa học

xã hội, Hà Nội.

Tạ Thị Hoàng Vân (2008), Một số thay đổi trong kiến trúc truyền thống các dân tộc 59.

bản địa ở Tây Nguyên, Hội thảo VNH lần 3, Hà Nội.

60. Nguyễn Thị Kim Vân (2008), Bước đầu tìm hiểu về Tơring và thủ lĩnh các Tơring của

người Giarai từ nửa cuối thế kỉ XIX, nửa đầu thế kỉ XX, Hội thảo VNH lần 3,

Hà Nội.

Trần Quốc Vượng (2004), Nam Trung Bộ dưới cái nhìn địa văn hóa, dân gian, tìm 61.

hiểu đặc trưng văn hóa văn nghệ dân gian Nam Trung Bộ, Nhà xuất bản Khoa

học xã hội, Hà Nội.

96

62. Nguyễn Đắc Xuân (2006), Chín đời chúa, mười ba đời vua Nguyễn, NXB Thuận Hóa,

Huế.

- Một số trang Web

http://dantocviet.vn 63.

http://baodatviet.vn 64.

http://namtrungbo.wordpress.com 65.

http://www.linhnganiekdam.vn/khai-niem-ve-tay-nguyen 66.

http://www.gio-o.com/ 67.

http://www.doanhnhansaigon.vn/su-kien/lang-vua-lua/2749/ 68.

http://dantri.com.vn/ 69.

http://vtc.vn/ 70.

http://xaluan.com 71.

http://vanghe.blogspot.com/ 72.

http://baophapluat.vn 73.

http://doisongphapluat.com 74.

http://baogialai.com.vn 75.

http://baomoi.com 76.

97

PHỤ LỤC

1. PHỤ LỤC 1

KỂ CHUYỆN VỀ CÁC ƠI

Các Ơi gồm 12 vị

1. KSor-Chơlơi

2. Rcom-Anur

3. Siu-Bôm

4. Siu-Djua

5. Siu-Anhong

6. Siu-Blông

7. Siu-Blet

8. Siu-Ji

9. Siu-Y

10. Siu-At

11. Siu-Tú

12. Siu-Anhot

• Ơi thứ nhất: KSOR-CHƠLƠI. Tên họ cha mẹ vợ con không được rõ.

Ngày xưa, có một gia đình ở buôn nọ có 2 người con gái rất xinh đẹp tên là: Hbia

Hying và Hbia Huyan. Tiếng đồn vang xa khắp mấy xứ. Bọn thực dân Pháp nghe tin toan

cướp 2 người. Cha mẹ và dân làng lo sợ đem 2 cô giấu vào hang đá “Amang nan chu ro

ung” thuộc xã Ia Tul hiện nay. Nhưng bọn thực dân Tây vẫn lục soát tận nơi, dân làng

phải đem lên núi Hàm Rồng “Chu hdrung”. Nơi có chàng anh hùng Dam Diung. Dam

Diung kêu gọi hiệp lực 12 vị anh hùng gồm:

1. Dam Dua, 2. Dam Dio, 3. Dam Ying, 4. Dam Yor, 5. Prong Mơng, 6. Prong-Pha,

7. Dam Drual, 8. Kơduol, 9. Non Meng, 10. Tlohkơman, 11. Dam Drit, 12. Dam Druai.

Dam Diung cùng 12 anh hùng chống lại Pháp xâm lược suốt 7 năm trời. Bọn Pháp thua,

bên Dam Diung thu được 1 thanh gươm và 1 cây súng. Rồi bọn Pháp rút lui. Khi thanh

98

gươm và cây súng của bọn Pháp đã trong tay Dam Dua và 12 vị anh hùng rồi, chiến lợi

phẩm đó của chung, nên Dam Dua kêu gọi 2 chị em Hbia Hying và Hbia Yuan mời tất cả

các bộ tộc láng giềng như: Chàm, Lào, Campuchia và Việt đến bàn bạc ai sẽ là người bảo

vệ và gìn giữ. Bàn cải mãi không được, vì ai cũng muốn gìn giữ, nên Dam Diung tức giận

đem giục bỏ xuống sông. Lạ thay, gươm ngâm xuống nước toả ánh sáng loà. Một người

chài lưới người Kinh thấy lạ lặn xuống đem lên. Dam Diung biết được đến đòi lại, 2

người giằng co, Dam Diung rút được lưỡi gươm chạy, người chài giữ cái vỏ. Vài ngày

sau, gươm tự nhiên đến nằm trong cái vỏ của ông chài đang giữ. Dam Diung lại mời các

bộ tộc lại đến đòi lấy lại. Người chài cũng đưa thanh gươm không, vỏ thì vẫn còn giữ lại.

Cho nên họ thường có câu: người Kinh giữ vỏ, người Jarai giữ lưỡi gươm.

Bốn bộ tộc có: CHÀM, LÀO, CAMPUCHIA, VIỆT. Triệu tập họp bàn bạc bầu

chọn một người có uy tín để gìn giữ, cúng thờ bảo vật đó. Họ đã bầu và nhất trí chọn

Ksor Chơilơi, một người có uy tín và trung thành nhất để lập một bàn thờ tại nhà riêng

của Chơi Lơi. Các bộ tộc Chàm, Lào, Campuchia mỗi bộ tộc được cung cấp: 1 cặp voi

(đực và cái), vải vóc. Còn bộ tộc Việt cung cấp: 1 đôi trâu (cái và đực), một cặp ngựa (cái

và đực), một cặp bò (cái và đực), một cặp ngang (trống và mái), quần áo. Về phía người

Giarai chịu một con trâu và một con lợn để cúng hàng năm 1 lần. Tất cả của cải trên trao

hết cho Chơilơi để trả công cho ông đã bảo quản, cúng tế bảo vật ấy. CHƠILƠI đảm

nhiệm thờ cúng một thời gian khá lâu, chuyện không may xảy đến cho CHƠLƠI , ông bị

giết chết vì báo thù cho Prô Thai do nhóm KPA trả thù.

Câu chuyện Prô Thai: Chàng Prô Thai và nàng Hbia Pê là anh em cùng họ KPA.

Vì nguyên nhân Hbia Pê làm bùa ngãi để rủ mê hai chàng Dam Phu và Dam Chơhlir.

Hbia Pê đang tắm và thoa ngãi mê để đón gặp hai anh em Dam Phu và Dam Chơhlir để

hai anh em ấy để ý mê và yêu. Nhưng ngày hôm đó hai chàng Phu và Chohlir không đến

tắm, mà rủi ro cho anh ruột là Prô Thai đến nơi đó mài gươm và liếc qua coi em gái mình

đang làm gì? Bùa ngãi thúc lòng mê yêu của Prô Thai, anh mất tự chủ, quên em gái của

mình, cố tìm đuổi rượt theo khắp nơi, hết núi này qua sông kia. Hbia Pê tìm cách chạy

trốn và nhiều cuộc thử thách để ngăn ngừa Prô Thai đừng si mê nàng nữa, nhưng vô hiệu

99

quả. Hết chổ trốn, đành chịu thua. Prô Thai bắt được em và buộc hai người yêu sống với

nhau đến có con. Tin Hbia Pê thụ thai, vài tháng sau, họ hàng, dân làng hay biết hai

người loạn luân, nên đòi giết Prô Thai cho bằng được. Họ tìm đủ mọi cách để giết chết

Prô Thai, nhưng anh không chết mà vẫn sống. Prô Thai mới bảo: “dân làng hãy đến hỏi ý

kiến Chơilơi quyết định ra sao thì dân làng mới hình xử tội”. Hai sứ giả đến hầu ý kiến

Chơilơi thì Chơilơi trả lời là không nên giết chết Prô Thai, phải cúng tế theo một lễ nghi

của sự loạn luân thôi. Nhưng hai sứ giả lại phản ý về báo cáo với dân làng là Chơilơi cho

phép giết Prô Thai. Tưởng rằng báo cáo đó là sự thật, Prô Thai mới chỉ cho dân làng biết

mạch máu của mình nằm ở hang đá, cắt sợi dây mạch máu đó Prô Thai mới tắt thở chết.

Khi được tin Prô Thai bị chết, Hbia Pê đang lâm bồn, ba ngày sau nàng lấy thịt con mang

ăn thì bị trúng thực chết cả mẹ lẫn con, chôn ở Rơbin Rơbeo thuộc xã Hiao hiện nay. Tin

buồn này làm cho muôn chim thú vật trong rừng thương nhớ khóc thảm thiết, nước mắt

tụ thành ao, hiện ao ấy vẫn còn. Họ thường gọi tên là Rơbin Rơbeo cho đến ngày nay.

Còn bên họ hàng của Prô Thai tức giận, căm thù Chơilơi vì đã cho lệnh giết Prô Thai. Họ

phải đến giết Chơilơi để trả thù cho Prô Thai, đem chặt đầu Chơilơi, hình hài hiện nay

• Ơi thứ hai: RCOM – ANUR

vẫn còn đã hoá thành đá. Chơilơi mất chọn thay Rcom Anur.

Rcom Anur lấy vợ họ Siu, lấy con gái của ông Rcom Bô. Ơi Bổ là người đầu tiên

biết cúng tế, cầu khẩn các thần linh. Tất cả đều do Rcom Bổ truyền đạt, giảng dạy lại

những lời tụng kinh. Để biết về cúng tế chính xác hơn, cho nên họ chọn Rcom Anur làm

rể của ông Rcom Bổ lên thay Chơilơi, để tiếp tục cúng thần gươm và cúng mùa màng cho

dân làng khắp vùng, để cầu mưa, cầu điều tốt lành cho dân làng hàng năm vào đầu mùa.

Rcom Anur lấy vợ sinh con đặt tên là Siu Bôm. Siu Bôm lớn lên tìm hiểu và biết cha

mình có thanh gươm quý, nên xin cha cho phép lấy thanh gươm đó để mài sắc lại cho

sáng, vì để lâu quá thành đen sì. Được cha cho phép, trong khi Siu Bôm mài rửa xong thì

thanh gươm đó toả ra ánh lửa để đâu cũng cháy thành lửa, Siu Bôm hoảng hốt chạy tứ

tung, vì lưỡi gươm càng sáng chói, càng cháy lên làm khắp vùng đều có lửa. Lúc đó

Apang là người giúp việc trong nhà đang vót nan dây mây bị trầy da chảy giọt máu chổ

100

ngón tay, sơ ý làm rơi giọt máu ấy vào lưỡi gươm thì đột nhiên ánh lửa giảm bớt làm

nguội lưỡi gươm, nên Apang hy sinh bảo Siu Bôm chặt cái đầu của mình để lấy máu

mình nguội thanh gươm. Sau khi thực hiện xong việc chặt đầu Apang làm nguội thanh

gươm, Siu Bôm cột chung cái đầu ấy vào thanh gươm. Bởi vậy, hiện nay cái đầu của

Apang được nằm chung với thanh gươm cuốn lại trong miếng vải để cúng thờ cho đến

ngày nay. Từ đó cho đến ngày nay, ai cũng tìm hiểu về việc thần gươm bốc ra lửa. Cho

nên lần lượt các vị kế tục gìn giữ bảo vật đó thường gọi và đặt tên tôn sư là Pơtao Apui,

tạm dịch là Vua Lửa, “Hoả Vương”. Từ ánh lửa của thanh gươm mới có câu chuyện đặt

ra Vua Lửa cho đến ngày nay. Từ nguồn xuất phát ra thần lửa ở lưỡi gươm, truyền thống

của các vị có trách nhiệm bảo quản thanh gươm để thờ cúng tế truyền nối lại từ đời xưa

cho đến thời nay. Với Siu Bôm câu chuyện đã xảy ra như kể trên mới đặt tên là thần lửa

• Ơi thứ ba: SIU – BÔM

hay vua lửa, và Rcom Anur chọn thay Siu Bôm kế tục sự nghiệp.

Siu Bôm là con của Rcom Anur. Siu Bôm tiếp tục thay thế cha để thờ cúng và bảo

quản thần gươm. Từ ngày xảy ra việc thanh gươm bốc thành lửa, Siu Bôm không dám dỡ

ra xem, chỉ biết cúng tế theo truyền thống truyền đạt. Siu Bôm già và chết vì bệnh già.

• Ơi thứ tư: SIU – DJUA

Rồi chọn thay Siu Djua.

Siu Djua là người đứng vào và được chọn kế tục việc cúng tế với thời gian khá lâu

• Ơi thứ năm: SIU – ANHONG

và già chết, và chọn Siu Anhong.

Thời Anhong kế vị thì có đoàn vua từ đất Kinh vào tiếp kiến và có một sự giao hữu

với nhau để liên hệ (thời ông Nguyễn Nhạc). Ơi Anhong bàn bạc với ông Nguyễn Nhạc

cho chia ranh giới: người Kinh từ sông Krông Hing, Krông Nang đến Sông Cầu, Tuy

Hoà; người Jarai từ Krông Ning Phú Túc, Krong Pa đến vùng chạy theo dòng sông Ba

cho đến Ankhê. Ranh giới giữa hai bộ tộc trên đánh dấu là lấy nguồn tin “trồng cây gạo”

lấy ngọn trồng ngược lại. Vậy là hiện nay, cây ấy vẫn còn sống, nơi trồng cây gạo đó là

tại Buôn Djuan. Ơi Anhong già chết và đến lượt Siu – Blông.

101

• Ơi thứ sáu: SIU - BLÔNG

Siu Blông thay thế vẫn tiếp tục cúng tế, bảo quản bảo vật cho đến già rồi chết, và

• Ơi thứ bảy: SIU – BLET

chọn thay Siu Blet.

Siu Blet, thay thế và tiếp tục cúng tế như các Ơi trên. Vợ, con. Cha, mẹ liên hệ thế

• Ơi thứ tám: SIU – JI

nào cũng không được rõ như các ơi trên. Rồi bịnh già chết.

Siu Ji vẫn như các Ơi khác, đều cúng tế thờ phượng cho đến già chết và chọn thay

• Ơi thứ chín: SIU – Y

Siu Y.

• Ơi thứ mười: SIU – ÁT

Siu Y kế vị, cúng tế với thời gian khá lâu rồi bịnh già chết.

Siu Át chọn thay với bổn phận và trách nhiệm cũng như các Ơi trên. Vẫn tiếp tục

cúng tế, đi cầu xin thần linh, ban phước lành cho muôn ngàn dân trong vùng. Từ ngày

con ông Sa Gôm là Nay Nui, lấy vợ tên là Rcom Hlion, là cháu ruột của Chư Chreo là

người uy tín nhất vùng. Người uy tín của vùng Krông Pa và người của vùng Ayun Pa, hai

bên làm xuôi gia để có quan hệ ngoại giao. Từ sự ngoại giao đó giữa hai người HRoai,

Mthur và Jarai có quan hệ, kết nghĩa với nhau mới có sự quan hệ với nhau. Do đó Ơi Át

cho người phụ tá là Ama Ju (RMAH LIM) đi bằng voi đến Krong King xem lại cây gạo

của Ơi Anhong cùng Nguyễn Nhạc trồng trước đây. Chưa đến chổ trồng cây gạo thì đến

chổ làng Buôn Djuan nghĩ chân, cột con voi để ăn cỏ thì lúc đó con voi bị đứt dây xích,

voi ăn phá hết rẫy của làng Buôn Djuan nên bị bắt giữ lại cả voi lẫn người. Ama Ju cùng

người đi theo đến tận Sông Cầu để nhờ quan Tây xử. Quan Tây cho điều kiện là về báo

cho Ơi Át, là buộc Ơi Át phải tiếp họ, để kết nghĩa anh em với bọn Tây, họ mới tha cho

về cả voi lẫn người. Ama Ju là người phụ tá Ơi Ất, nên đành chịu về bàn bạc lại để tổ

chức lại cho kỹ và làm như thế nào trong cuộc tiếp quan Tây. Vì Ama Ju đã lỡ lời hứa với

bọn Tây, dù thế nào đi nữa buộc lòng Ơi Ấtt phải chịu tiếp để giữ đúng lời hứa. Ơi Ất đã

102

sắp đặt, nếu có việc xảy ra không hay thì có đoàn hậu vệ để bảo vệ bảo mật thanh gươm

sẵn sàng đối phó.

Cuộc tiếp tân đã chuẩn bị đề phòng. Ngày tiếp quan Tây đã đến, có cúng 1 con trâu

để làm lễ đón khách theo phong tục nghi lễ. Ngày đó tổ chức tại nhà người phụ tá (Kơ-

iang) là Rmah Miơng. Trong ngày lễ cúng tế xong xuôi, quan Tây cố ý để lấy thanh

gươm đi, không để Ơi Ất ra lệnh, song thanh niên cận vệ bảo vệ thanh gươm đã ra tay

giết quan Tây “Odhendal”. Sau khi quan Tây bị giết chết, những bảo mật và thanh gươm

buộc phải chuyển đi cất giữ trong hang núi tránh sự cướp đoạt và sự trả thù của lính Tây.

Sau cuộc giết quan Tây xảy ra, đoàn lính Tây từ Tuy Hoà đến bao vây, bắt Ơi Ất đem đến

trại tù Sông Cầu và lính Tây lùng tìm những thủ phạm, và trận đánh giết chóc các làng

Plei Kueng, Plei Kuai, Plei Tur, đã đổ máu quá nhiều, nên các thanh niên ra đầu hàng và

hy sinh để bọn Tây thả Ơi Ất về với trách nhiệm của Ơi. Những thanh niên có lòng hy

sinh là: Ablố, Djon, Blon, Chonh, Dam Doa, Dam Alon. Vì chính 6 anh hùng này đã giết

quan để cứu thanh gươm. Bọn lính Tây bắt họ và xử giết tại Rơyi và cho Ơi Ất trở về.

Thời gian ngồi tù tại Sông Cầu là 6 tháng. Ơi Ất vẫn tiếp tục giữ gìn và bảo vệ thanh

gươm. Từ đó, các bảo vật để thờ không được để trong nhà nữa. Buộc lòng phải đem để

cất giấu bí mật trong hang đá trên núi để tránh sự việc xảy ra. Ơi Ất già, chết rồi truyền

• Ơi thứ mười một: SIU – TÚ

lại cho Ơi Tú.

Siu Tú là một người thay thế Ơi Ất. Thời Ơi Tú là thời gian Pháp đã chiếm lan tràn

các vùng nên Ơi Tú gặp nhiều khó khăn. Bọn Pháp cứ lùng bắt tìm kiếm để tìm lấy được

thanh gươm, nhưng buôn làng hết lòng trung thành với Ơi Tú để bảo vệ cho được. Tìm

kiếm thanh gươm không được, bọn họ bắt nhốt Siu Tú tại Kontum. Ơi Tú nằm trong

khám tù 2 năm. Trong trại tù, Ơi Tú có sự thử thách của bọn Tây, họ bắt Ơi Tú dùng phép

thuật làm cho cây cổ thụ lâu năm nằm ngang con sông Dakbla dài độ 20 – 30 mét, đường

kính 4 mét buộc phải đứng lên như cây đang còn sống tươi. Ơi Tú dù sợ đến đâu cũng

phải bắt buộc ngồi đọc thần chú, cầu xin, tụng kinh để cầu nguyện. Tự nhiên như phép lạ,

cây đa to tướng đó từ từ đứng lên, làm cho lính gác khiếp sợ nhìn Ơi Tú không dám nói

103

nên lời. Vì còn sợ quan Tây đứng đó. Cây đa đã đứng lên rồi, thằng Tây còn thách Ơi Tú

dùng gùi để chứa nước đừng để chảy một giọt nước nào ra ngoài. Ơi Tú vẫn múc nước

trong gùi đem về không chảy một giọt nào cả, càng làm cho các lính sợ và nể Ơi Tú

thêm. Ơi Tú qua 2 lần thử thách và bọn Tây cho ra về. Khi Ơi Tú về rồi, thằng Tây tự

nhiên lấy dây thắt cổ tự tử chết. Những việc xảy ra cho Ơi Tú trong trại tù có sự chứng

kiến của Ơi Hnhi (Y Blung), người Ê Đê, quê ở Buôn Ki, hồi đó làm lính vừa là thông

ngôn giữa Tây và Ơi Tú đã kể lại những sự việc lạ có thật. Ơi Hnhi mới qua đời vì già

mấy năm gần đây. Khi Ơi Tú ra, uy tín Ơi Tú càng truyền đi khắp nơi, quần chúng đến tạ

ơn, cầu xin, ai cũng kính nể như một vị thần linh. Rồi Ơi Tú già bịnh chết vào tháng 6

• Ơi thứ mười hai: SIU – ANHÓT

năm 1947. Ơi Tú truyền đạt lại cho Ơi Anhót.

Siu Anhót là người thay thế trong thời chế độ Bảo Đại, Mỹ – Thiệu. Một thời văn

minh tiến bộ Pháp và Mỹ đến viếng thăm, xem như việc cúng bái là lạc hậu và họ muốn

xoá bỏ. Cho nên vào năm 1959, họ tổ chức một cuộc thử thách, họ thách đố Ơi Anhót:

“Nếu Ơi là người có phép thần thì hãy cầu xin mưa gió trong khi nắng nóng”. Vào mùa

hạ tháng 3 tại vùng Cheo Reo là một mùa nắng gắt nhất. Cử hành lễ hôm đó có 12 vị phụ

tá tham dự. Có đúng một con trâu, 1 con heo và các ghè rượu đúng theo nghi lễ cổ truyền

mà trước đây đã làm. Ơi Anhót đọc giữa cả ngàn quần chúng đứng chứng kiến, vừa dứt lễ

cúng tế xong, mưa gió bão táp làm bay cả nón các vị đứng ở khán đài. Tiếp đến 1964 lại

cuộc thử thách nữa cũng tương tựa như 1959. Từ đó họ không dám khinh và cấm cản

việc cúng thờ của Ơi Anhót nữa. Họ cho Ơi xây một cái nhà riêng và cho ông tự nhiên đi

khắp vùng lân cận để thăm viếng và cúng tế cho dân làng an lành. Ông sống đến 1973, từ

từ bại liệt cả tay chân, khi vợ ông chết không ai chăm sóc, ông phải nhờ người cháu gọi

ông bằng cậu để nương tựa và qua đời vì bệnh tật ấy vào ngày 18 tháng 6 năm 1986.

( Người kể là cụ Siu Banh. Người ghi lại và phiên dịch là Rcom – H’ueh (Ami Thuý)

là con út của cụ Siu Banh.)

Nguồn: [19, tr. 202 – 209].

104

2. PHỤ LỤC 2: SỰ TÍCH VỀ THỦY XÁ, HỎA XÁ

(Theo truyền thuyết của người Giarai)

Đời xưa có một ông vua rất lười “M’tao Lah” sống ở trên một hòn đảo, lười đến nỗi

nhà vua chỉ nằm dưới cây Nara - một loại vả, đợi quả rơi xuống vào chính miệng của

ông. Một hôm có một chiếc thuyền đi gần tới đảo thì bị đắm, tất cả mọi người trên thuyền

đều bị chết đuối chỉ trừ có một người tên là Pô Thê vì bơi được tới đảo đó nên sống sót.

Pô Thê đến gần cây Nara thấy nhà vua nằm dưới gốc cây bèn hỏi cách rời đảo để trở về

đất liền. Nhà vua trả lời: “hãy nhặt những quả của cây Nara và đưa cho ta ăn thì ta sẽ nói

cái bí quyết đó”

Sau khi được PôThê cho ăn no, nhà vua nói: “chiều nào cũng có một nghìn con lợn

rừng đến đảo này để ăn quả cây Nara, những con lợn rừng này đi trên mặt nước bể nhờ có

một hòn ngọc quý “Atao”, con lợn rừng già ngậm ở trong miệng và dẫn các con lợn khác

đi theo. Khi tới đảo và muốn ăn quả cây Nara con lợn rừng già phải nhả viên ngọc đó ra

và để ở dưới đất, khi ăn xong thì lại ngậm viên ngọc đó vào miệng. Anh hảy nấp sau cây

này, khi thấy con lợn rừng đặt hòn ngọc trên đất, anh hãy cướp lấy viên ngọc đó thì anh

có thể đi trên bể để tới đất liền.

Chiều đến Pô Thê thấy một nghìn con lợn rừng đi trên mặt bể đến gần cây Nara,

đoàn lợn rừng này đi thành hàng một, con đi sau ngậm đuôi con đi trước trong miệng, khi

đã tới gốc cây Nara con lợn rừng già để hòn ngọc xuống đất rồi cả bầy cùng ăn. Nhưng

ngày hôm đó vì sợ đàn lợn rừng nên Pô Thê không dám vào giữa bầy để trộm viên ngọc.

Ngày hôm sau nghe lời khuyên của nhà vua, Pô Thê đặt quả Nara thành từng đống

rất xa nhau, đống thì ở gần bờ bể, đống thì ở rất xa trong đảo. Chiều tới, đàn lợn rừng này

lại đến như thường lệ, sau khi con đầu đàn đã đặt viên ngọc xuống đất, cả đàn cùng ăn

quả. Ăn hết đống quả thứ nhất, bầy lợn rừng sang đến đống thứ hai rồi dần dần đi xa viên

ngọc đặt gần đống thứ nhất. Pô Thê đã lấy cắp viên ngọc đó, muốn tránh cơn giận của

bầy lợn rừng, Pô Thê phải trèo lên cây cao để trốn. Khi bầy lợn rừng đã ăn xong và thấy

mất viên ngọc có phép màu thì cả bầy cuống lên và cùng nhảy xuống bể để trở về đất liền

nhưng cả bầy đều chết đuối.

105

Vì chiếm được hòn ngọc quý nên PôThê đi trên mặt nước và trở về đất liền mà

không gặp nguy hiểm gì.

Có một người có một quả Pô Kui, quả này có phép lạ là khi chủ của nó ném quả đó

xuống đất thì có thể làm ra gió và mưa, người này thấy Pô Thê có thể đi được trên mặt

nước thì đề nghị PôThê đổi Pô Kui lấy hòn ngọc quý, Pô Thê bằng lòng.

Pô Thê liền xin quả Pô Kui làm mưa làm gió, quả đó vì bị chủ cũ đem đổi lấy vật

khác như một kẻ vô lễ nên tức giận, khi được Pô Thê ném quả ấy về phía chủ cũ bèn làm

ra bão lớn và mưa to. Mưa gió mạnh đến nỗi mà người đó bị ngả lăn xuống và chết. Pô

Thê lấy lại luôn được ngọc quý Atao.

Đi một ngày đường xa nữa Pô Thê gặp một người có hai thứ bảo vật Kloi Ka A

Chan – cái dây thừng tự nó có thể trói buộc được và Akai Tha – cái gậy có khả năng làm

phép tự đánh người. Pô Thê đề nghị đổi ngọc Atao lấy hai bảo vật này, người đó thuận

đổi, Pô Thê ra lệnh cho dây thừng và gậy trả thù chủ cũ đánh đến nỗi người này chết. Thế

là Pô Thê có bốn bảo vật rất linh: hòn ngọc, quả Pô Kui, dây thừng và gậy.

PôThê còn gặp một số ngườic có nắm những viên đá quý, những viên đá này có thể

biến thành một nghìn chiến sĩ hoặc một nghìn con ong, hoặc một nghìn con kiến, những

viên đá này tên là Pol-rtanpol-r’ho, người này còn có một bảo bối nữa là Wai-chan atú

nhon, một cái roi bằng mây, roi này có thể làm cho đang ngày hóa ra đêm được, người có

bảo vật đó đề nghị liên kết với Pô Thê, Pô Thê ưng thuận và hai người cùng đi với nhau.

Hai người đi đến bờ một con sông lớn nơi mà tất cả các dân tộc trên thế giới đang

hội họp: vua Chàm, vua Campốt, vua Việt Nam, vua Lào, vua Rhadé, vua Giarai…Tất cả

các vị đó đang cố lặn xuống sông để tìm cây gươm thần vừa rơi từ trên trời xuống và mọi

người đề thấy chiếu sáng ở dưới đáy sông. Gươm thần ở trong bao mà vẫn sáng rực, vua

Chàm chiếm được gươm nhưng Pô Thê lấy gươm của vua Chàm đem về cho người

Giarai, trong khi đó vua Campốt chiếm được vỏ gươm đưa về.

Người Chàm vì giận người Giarai đã tranh lấy gươm nên khai chiến với người

Giarai, chiến tranh luôn trong nhiều năm, nhờ có nhiều bảo vật nên Pô Thê đã có thể

đánh nhau rất lâu với quân Chàm, nhưng vì người Chàm cũng có nhiều phép thuật nên

106

không bên nào thắng được bên nào. Pô Thê bèn nói với gươm thần nếu thật là gươm từ

trên trời rơi xuống thì hãy tỏ cho oai linh hoặc giúp người Giarai, hoặc người Chàm và

hãy tỏ cho mọi người biết là dân tộc nào được giữ gươm thần.

Pô Thê còn giết chết hai con trâu trắng và trâu đen để tế gươm thần.

Pô Thê tay cầm gươm thần xông vào đánh quân Chàm, gươm thần phun ra nhiều lửa

và nước nên tất cả quân Chàm đều bị chết cháy và chết đuối, không một người Chàm nào

trốn thoát vì roi mây làm cho trời tối đen nên người Chàm không biết đường nào để trốn

thoát.

Sau đó ít lâu Pô Thê trao gươm lại cho vị thủ lãnh gọi là vua Lửa Patau Pui rồi Pô

Thê biến mất không để lại dấu vết gì. Pô Thê còn dặn người Cam Bốt có lấy được vỏ

gươm thần vì trời đã chia cho người Gia rai gươm thần và người Cam Bốt vỏ gươm là

muốn họ phải liên kết với nhau. Chính vì vậy ta thấy hiện nay dân tộc Giarai vẫn còn giữ

thanh kiếm thần và được coi là bảo vật của dân tộc do vị thủ lãnh gìn giữ.

Nguồn: [11, tr. 154 – 159].

107

3. PHỤ LỤC 3: CÁC BÀI THƠ VIẾT VỀ THỦY XÁ, HỎA XÁ

Về Thủy Xá

Chiếc bè tre đưa em về Thủy Xá

Chân mây ngọn thác một dòng

Ông già điếc mái đầu bạc trắng

Nghiêng người chống khách sang sông

Buổi sáng chở sương

Buổi trưa chở nắng

Những ngày gió mưa

Thân bè trĩu nặng

Khách năm khi mới gặp một người

Lạ đường khản giọng gọi : Đò ơi!

Chiếc bè tre đưa em về Thủy Xá

Nẻo rừng rụng đỏ lá hồng-quang

Đôi quai guốc của thời xưa nhỏ bé

Chiều lên cuối lũng đầu ngàn

Em trở về con nhen buồn thơ thẩn

Trái bảy-thưa khô mở tự bao giờ

Con nai lạc trời khuya trăng lặn

Mùi tranh-săn cháy thoảng trong mơ

Em trở về ngỡ ngàng truông dốc nhỏ

Ngỡ ngàng vạt áo trung châu

108

Tiếng vượn hú gọi bầy thảng thốt

Hoàng hôn lạnh nứt dáng khe sâu

Em trở về

Và ông già đã chết

Chiếc bè tre giữa vực quay cuồng…

Tác giả: Trần Hiền Ân

Về Hỏa Xá

Về Hỏa Xá tiếng cồng vang gọi lửa

Mùi củi tươi ngây ngất khói rừng

Em trở lại lòng sơn man một thuở

Gởi cát lầm hạ bạn sau lưng

Gởi cát lầm cho kinh kỳ kẻ chợ

Rèm buông - Võng tía - Lọng đào

Dấu ơn nghĩa đêm nằm năm ở

Huống ngàn vàng trong trắng đã trao

Về Hỏa Xá đắm xin nguồn suối lạnh

Cuốn theo dòng ngày tháng phấn son

Em là em – con lòng-tong bé nhỏ

Chiều hôm qua còn giữa hạt trứng tròn

Đất vẫn hương nồng nụ nhím

Trời vàng chóp mũ hoa găng

Mùa xuân núi ba từng sắc lá

Lời chim gọi sáng sương giăng

109

Về Hỏa Xá một ngày cây trổ lộc

Xuống bành voi trăm họ trao cần

Nhìn xiêm áo đã nhàu chăn gối lạ…

Nhìn xiêm áo đã nhàu chăn gối lạ

Hai bàn tay nhỏ phân vân

Tác giả: Trần Hiền Ân

Nguồn: [66]

110

" Vua lửa" đời thứ 14 Siu Aluynh, nguồn [68]

Vua Gió đời thứ 5 – Siu Bam, nguồn [69]

111

Vị Vua Gió đời thứ 6 đã từ chức, nguồn [69]

Ông Rơ Lan Hieo, người phụ tá của vua Lửa cuối cùng, được coi là vua Lửa đời thứ 15

Nguồn [70]

112

Mộ của Vua Siu Luynh, nguồn [71]

Lâu đài của Vua Lửa nay đang bỏ hoang, nguồn [72]

113

Nghi lễ cúng cầu mưa được minh họa bằng tranh vẽ

Nguồn [73]

Nghi lễ cúng cầu mưa, nguồn [73]

114

Thanh gươm thần được bọc kĩ trong vải, nguồn [74]

Căn chòi giữ gươm hiện nay, nguồn [70]

115

Trống da voi của vua, nguồn [75]

Hai chiếc ghè cổ của Vua Gió còn giữ tới bây giờ, nguồn [75]

116

Tượng Vua Lửa, nguồn [76]

Núi Chư Tao Yang, nơi có hang kiếm thần, nguồn [70]

117

Các đồ vật của nhiều đời Pơtao Apuih

Nguồn [63]

Nguồn [24, tr 370]

118

Nguồn: [ 24, tr 355]

Nguồn: [24, tr 435]