Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
lượt xem 4
download
Mục tiêu của luận văn "Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai" là nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong hệ thống Tòa án trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019. Để hiểu rõ hơn mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết của luận văn này!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
- 1 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN ĐÌNH HOÀNG ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
- 2 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để thực hiện nhiệm vụ đảm bảo tình hình ANTT, bảo vệ chủ quyền quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền, lợi ích của con người, từ đó tạo môi trường xã hội an toàn cho mọi người dân, thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng XHCN, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế của dân tộc Việt Nam. Nhà nước phải sử dụng nhiều biện pháp, biện pháp hữu hiệu nhất là công cụ pháp lý. Nếu muốn sử dụng công cụ pháp lý, phải có pháp luật, để trên cơ sở đó áp dụng các hình phạt nhằm răn đe, giáo dục đối với những hành vi phạm tội. Trong các hình phạt, hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc nhất của Nhà nước. Đây là hình phạt chính được quy định trong Bộ luật hình sự của Việt Nam. Khi áp dụng hình phạt tù có thời hạn (viết tắt HPTCTH) đối với những hành vi vi phạm pháp luật, ít nhiều đã răn đe, ngăn ngừa tội phạm trong toàn xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn khi áp dụng HPTCTH cho thấy còn nhiều vướng mắc, bất cập. Thực tiễn cho thấy, đôi lúc việc trừng trị bằng hình phạt khi áp dụng phạt quá nhẹ dẫn đến việc áp dụng án treo không đúng, làm mất đi tính giáo dục, phòng ngừa, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật. Trái lại, sẽ không còn mục đích giáo dục và tính nhân đạo của hình phạt nếu áp dụng quá nặng, từ đó dẫn đến phòng chống tội phạm không đạt được hiệu quả. Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Áp dụng hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai" để nghiên cứu. Tỉnh Đồng Nai là tỉnh thuộc khu Miền Đông Nam Bộ, tỉnh có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, có có 136 xã, 29 phường và 06 Thị trấn; được xem là một tỉnh cửa ngõ đi vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ- Vùng kinh tế phát triển và năng động nhất cả nước, là một tỉnh nằm trong vùng quy hoạch phát triển kinh tế trọng điểm khu vực phía Nam, có tốc độ tăng dân số cao, nhiều khu
- 3 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự công nghiệp, nhà máy, nên thu hút rất nhiều người lao động từ các tỉnh khác đến làm việc, đặc biệt là dân nhập cư không có nơi ở hoặc không có việc làm ổn định, dễ phát sinh tệ nạn xã hội, vì vậy tình hình vi phạm pháp luật hình sự cũng gia tăng, ngày càng tinh vi và phức tạp. Do đó, cần có sự nghiên cứu sâu sắc để giải quyết vấn đề cả về lý luận và thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn của hệ thống tòa án hai cấp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Việc nghiên cứu đề tài có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật hình sự nói chung, áp dụng hình phạt tù có thời hạn nói riêng.
- 4 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hiện tại đã có nhiều công trình khoa học, bài viết về đề tài Áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Tác giả đã tham khảo và tâm đắc một số công trình, bài viết, cụ thể là: - Nguyễn Thành Chung (2018) với đề tài: “ Áp dụng HPTCTH theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam -Hoc viện Khoa học Xã hội. - Nguyễn Văn Doãn (2019) với đề tài: "Lịch sử phát triển các quy định về HPTCTH trong PLHS Việt Nam từ năm 1945 đến nay", Viện Hàn lâm KHXHVN –Học viện KHXH. - Nguyễn Ngọc Đô (2019) với đề tài: “ Áp dụng HPTCTH từ thực tiễn Tòa án nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh”, Viện Hàn lâm KHXHVN –Học viện KHXH. - Võ Hồng Nam (2014) với đề tài: “Hình phạt tù có thời hạn theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn xét xử thành phố Hồ Chí Minh”, Viện Hàn lâm KHXHVN –Học viện KHXH. - Chu Thị Thu Trang (2019) với đề tài Luận án tiến sĩ: “Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án Việt Nam”, Khoa Luật của Đại học Quốc gia Hà Nội. Những công trình nghiên cứu khoa học nêu trên có giá trị rất lớn trong việc nghiên cứu, tạo ý tưởng mới cho tác giả. Đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nghiên cứu độc lập nào về việc áp dụng HPTCTH của tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai nên việc nghiên cứu sẽ mang tới cái nhìn mới mẻ về vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt động này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong hệ thống Tòa án trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019. Thông qua đó, làm sáng tỏ vấn đề về lý luận
- 5 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự cũng như thực tiễn của hình phạt tù theo pháp luật hình sự, từ đó xác định những bất cập, hạn chế để trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng hình phạt tù nhằm đảm bảo công lý, công bằng xã hội, cải tạo, giáo dục người phạm tội và phòng ngừa tội phạm, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn của hệ thống tòa án hai cấp trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận dựa trên quy định của pháp luật, khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn. - Nghiên cứu thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn của các tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ năm 2015 đến năm 2019, nhằm tìm ra nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc. - Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng, bảo đảm áp dụng đúng HPTCTH, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn liên quan trực tiếp đến việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn trong công tác xét xử hình sự của tòa án từ thực tiễn ở các tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. 4.2. Phạm vi nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong thời gian 05 năm, từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 5.1 Phương pháp luận.
- 6 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về tội phạm, về hình phạt, về đấu tranh phòng, chống tội phạm, về cải cách tư pháp… 5.2 Phương pháp nghiên cứu. Đồng thời, đề tài còn được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác nhau như: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu điển hình nhằm làm rõ nội dung các vấn đề cần trình bày nêu trên và đưa ra các giải pháp để nâng cao việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn. 6.1. Ý nghĩa lý luận. Ý nghĩa của việc nghiên cứu sẽ được đề cập toàn diện trong quá trình áp dụng HPTCTH thông qua thực tiễn xét xử hình sự trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, qua đó làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận về áp dụng HPTCTH theo pháp luật hình sự Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn. Ý nghĩa về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu đề tài có thể được Toà án các cấp xem xét, tham khảo để áp dụng đúng HPTCTH trong hoạt động xét xử, góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm và thể hiện tính công bằng, nghiêm minh của pháp luật. 7. Kết cấu của luận văn. Kết cấu Luận văn được phân thành ba chương chính và các phần phụ gồm phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo: Chương 1: Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt tù có thời hạn.
- 7 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Chương 2: Hoạt động thực tiễn áp dụng hình phạt tù có thời hạn của các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng hình phạt tù có thời hạn. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TÙ CÓ THỜI HẠN 1.1. Cơ sở lý luận của áp dụng hình phạt tù có thời hạn. 1.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt tù có thời hạn: Hình phạt là một trong những chế định quan trọng, nghiêm khắc của Nhà nước được quy định trong pháp luật hình sự. Về khái niệm hình phạt, Điều 26 BLHS năm 1999 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Khung hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và sẽ do Toà án quyết định mức hình phạt cụ thể”. [17] Bộ luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm đối tượng chịu TNHS là các pháp nhân thương mại; do vậy BLHS 2015 cũng đã bổ sung thêm khái niệm hình phạt như sau: ”Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó.” (Điều 30, BLHS 2015) [24, tr.12] Quy định Hình phạt trong hệ thống PLHS Việt Nam bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Hình phạt chính là hình phạt được áp dụng chính cho một tội phạm và được tuyên độc lập [Tr.353 Luật Hình sự Việt Nam phần chung]. Theo khoản 1, Điều 32 Bộ luật hình sự năm 2015, quy định
- 8 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự về hình phạt chính, bao gồm: a) Cảnh cáo; b) Phạt tiền; c) Cải tạo không giam giữ; d) Trục xuất; đ) Tù có thời hạn; e) Tù chung thân; g) Tử hình. [24, tr.12]. Hình phạt bổ sung bao gồm: a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; b) Cấm cư trú; c) Quản chế; d) Tước một số quyền công dân; đ) Tịch thu tài sản; e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính; g) Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính…”. (khoản 2, 3 Điều 32 BLHS 2015), [24, tr.12] Hình phạt tù có thời hạn là việc cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống cộng đồng trong một thời gian nhất định và tước bỏ quyền tự do của họ. Hình phạt tù có thời hạn được quy định tại Điều 38 BLHS 2015 như sau: “Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm…” [24, tr.14-15]. Nguyên tắc áp dụng HPTCTH đối với trường hợp một người phạm nhiều tội được PLHS quy định như sau: “Khi xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt …Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn…”. (Điều 55 BLHS 2015) [24, tr.21]. Như vậy, có thể thấy để đạt được mục đích vừa trừng trị người phạm tội, vừa giáo dục người phạm tội phải biết tuân thủ pháp luật và thượng tôn pháp luật là rất quan trọng. Hình phạt nói chung, hình phạt tù có thời hạn rói riêng được quyết định áp dụng thông qua hoạt động xét xử của Tòa án nhân danh nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam - Cơ quan thay mặt Nhà nước nhằm khôi phục trật tự nếu nó bị xâm phạm, hoặc nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của công dân, của tập thể, của quốc gia và xã hội. Hoạt động xét xử của
- 9 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Tòa án phải tuân thủ nghiêm theo quy định của BLTTHS kể từ khi bắt đầu thụ lý hồ sơ, đưa vụ án ra xét xử và ban hành ra bản án, quyết định. Từ những phân tích trên thì khái niệm áp dụng HPTCTH được hiểu như sau: Áp dụng HPTCTH là hoạt động áp dụng PLHS sau khi đã định tội danh, trên cơ sở hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại Tòa, xác định các tình tiết của vụ án, Hội đồng xét xử căn cứ quy định của Bộ luật hình sự lựa chọn mức hình phạt tù có thời hạn để áp dụng đối với người bị kết tội và ra phán quyết kết tội trong bản án. 1.1.2. Đặc điểm áp dụng hình phạt tù có thời hạn - Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự Đối với hồ sơ vụ án hình sự, xuất phát từ nguyên tắc Tòa án chỉ xét xử những hành vi, những bị can theo tội danh mà cơ quan công tố đã truy tố và Tòa án đã đưa ra xét xử, thông thường người áp dụng pháp luật phải ngay từ đầu nắm vững nội dung cáo trạng. Bản cáo trạng trong hồ sơ vụ án hình sự như là một chiếc "chìa khóa" để mở hồ sơ vụ án về các vấn đề: ai đã thực hiện hành vi bị truy tố, hành vi bị truy tố là hành vi gì, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi bị truy tố ra sao, động cơ của hành vi đó là gì, người bị truy tố có lỗi hay không có lỗi, nếu có lỗi thì lỗi cố ý hay vô ý; nhân thân người bị truy tố có đặc điểm gì cần lưu ý; hành vi bị truy tố xâm phạm đến quan hệ xã hội nào mà pháp luật hình sự bảo vệ; điều luật mà bản cáo trạng viện dẫn để buộc tội là điều luật nào của Bộ luật hình sự... Trên cơ sở đó, người áp dụng pháp luật đối chiếu với bản kết luận điều tra của cơ quan điều tra để tìm hiểu xem vì sao cáo trạng chấp nhận toàn bộ hoặc một phần nội dung của bản kết luận điều tra. Tiếp theo đó là việc nghiên cứu lời khai của bị can, bị cáo, người làm chứng, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, các tài liệu giấy tờ liên quan, kết quả giám định, bản ảnh, biên bản khám nghiệm hiện trường... Trong trường hợp vụ án có đồng phạm thì cần lưu ý đến sự giống nhau và khác nhau giữa các lời khai của các bị can, bị cáo, các biên bản đối chất về những vấn đề khác nhau thể hiện qua các lời khai và chứng cứ của hồ sơ vụ án. Qua nghiên cứu hồ sơ,
- 10 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự người áp dụng pháp luật cần hệ thống lại một cách logic các chứng cứ gỡ tội, các chứng cứ buộc tội để đưa ra nhận định công tác điều tra, thu thập chứng cứ đã đi đến cùng hay chưa, đã thu thập đủ các chứng cứ cần thiết để chứng minh việc buộc tội và gỡ tội hay chưa; có những vấn đề gì đã rõ hoặc chưa rõ v.v... Để xác định và áp dụng hình phạt tù, thì người áp dụng pháp luật cần phải nắm rõ các quy định pháp luật về các loại tội phạm, đây là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất trong toàn bộ các hoạt động áp dụng hình phạt và Nhà nước có thể ngày càng hoàn thiện hệ về thống pháp luật này cũng phải thông qua hoạt động này. - Chủ thể áp dụng HPTCTH là Hội đồng xét xử: Hiến pháp năm 2013 đã quy định: TAND là cơ quan xét xử và thực hiện quyền tư pháp. Tòa án, cụ thể là HĐXX, thông qua hoạt động xét xử để thực hiện quyền lực nhà nước, và HĐXX nhân danh nhà nước ra bản án quyết định một tổ chức, cá nhân có tội hay không có tội; qua đó thể hiện ý chí, thái độ, sức mạnh của bộ máy nhà nước đối với người phạm tội. Trong quá trình xét xử Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. (Điều 23 Bộ luật tố tụng hình sự) Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật” [19]. Pháp luật TTHS quy định Hội thẩm nhân dân (HTND) ngang quyền với Thẩm phán, và HĐXX thảo luận và quyết định theo đa số. Đối với hoạt động xét xử các vụ án hình sự thì quyết định áp dụng hình phạt của HĐXX là trọng tâm của hoạt động tố tụng hình sự. - Được thực hiện sau khi định tội danh. Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi tội phạm cụ thể đã dược thực hiện với
- 11 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự các dâu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật hình sự. [30]. Để hoạt động áp dụng PLHS được hiệu quả thì hoạt động định tội danh phải được tiến hành cùng lúc cả ba quá trình: Một là xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế của vụ án. Hai là nhận thức đúng nội dung của các quy định trong BLHS. Ba là lựa chọn đúng quy phạm PLHS tương ứng để đối chiếu chính xác, đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định với các tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế. Trên cơ sở đó đưa ra kết luận có cơ sở, có căn cứ đồng nhất giữa hành vi thực tế cấu thành tội phạm được quy định trong điều, khoản của Luật. - Hình phạt được áp dụng là hình phạt tù có thời hạn. Khi xác định được tội danh, HĐXX sẽ lựa chọn và áp dụng một hình phạt phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo. Bộ luật HS quy định hình phạt gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Trường hợp hình phạt được áp dụng là hình phạt tù có thời hạn thì buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định.(Điều 38 BLHS 2015). Đối với người phạm một tội thì tù có thời hạn có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm; nếu người bị kết án đã bị tạm giam, tạm giữ, thì thời hạn này được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù theo nguyên tắc 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù. Đối với trường hợp phạm nhiều tội thì Tòa sẽ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với từng tội, nhưng khi tổng hợp các hình phạt và thời gian áp dụng hình phạt tù có thời hạn được cộng lại thành hình phạt chung thì không được vượt quá ba mươi năm. Đây là hình phạt khá phổ biến trong thực tiễn xét xử của tòa án. (căn cứ Điều 55 BLHS năm 2015) [24]. - Bản án kết tội của Hội đồng xét xử chính là văn bản áp dụng hình phạt tù có thời hạn: Pháp luật hình sự đã quy định là người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và
- 12 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 13 BLTTHS 2015). Do vậy, Hội đồng xét xử khi áp dụng hình phạt đối với hành vi của bị cáo gây ra phải thể hiện rõ trong Bản án, chẳng hạn như: xác định bị cáo có tội, tội gì, theo điểm, khoản, điều nào của Bộ luật HS và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt cụ thể được áp dụng… và phải ghi nhận đầy đủ quan điểm của những người tham gia tố tụng và nhận định của Hội đồng xét xử. Bản án là văn bản thể hiện rõ tính nhân đạo, quyền lực nhà nước khi trừng phạt đối với người phạm tội, buộc phải chịu hình phạt tù cho hành vi vi phạm pháp luật hình sự mà mình đã gây ra. Để bản án đảm bảo đầy đủ về nội dung và hình thức phù hợp với quy định, TANDTC đã ban hành Văn bản số 155/TANDTC ngày 28/7/2017 về việc áp dụng thống nhất kỹ thuật trình bày các văn bản tố tụng trong đó có bản án và Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/07/2017 về việc Ban hành một số biểu mẫu trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của BLTTHS. 1.2. Cơ sở pháp luật của áp dụng hình phạt tù có thời hạn. 1.2.1. Xác định các tình tiết có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt - Tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm được thực hiện. Các nhà làm luật phân loại tội phạm và xác định khung hình phạt cho từng tội phạm sẽ căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của các hành vi phạm tội để xác định. Theo khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015, người có “…hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự” được xem là tội phạm [24, tr 4]. Trong thực tiễn khi xét xử, các Tòa án thường chú ý đến nhân thân người phạm tội, để xem xét các tình tiết tăng nặng hoặc tình tiết giảm nhẹ, nên rất ít có bản án phân tích được tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Chẳng hạn như thay vì đánh giá hành vi nguy hiểm cho xã hội như thế nào, mức độ nguy hiểm ra sao thì thường bản án chỉ nhận xét chung
- 13 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự chung “hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội”. Có nhiều trường hợp Tòa án chỉ dựa vào các tình tiết này để quyết định hình phạt, dẫn đến quyết định hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ, chưa đúng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội; và theo quy định thì mặc dù một hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm (khoản 2 Điều 8 BLHS hiện hành 2015) [24, tr 4] Tùy thuộc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tội phạm được chia thành bốn loại: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Và ngay trong mỗi nhóm tội phạm nêu trên thì tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của từng loại tội cụ thể cũng khác nhau, và tương ứng thì các mức hình phạt trong một khung hình phạt cũng khác nhau. Do vậy khi quyết định hình phạt cần phải xác định đúng tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong cùng một khung hình phạt, vì nếu xác định không đúng khung hình phạt tức là đã xác định sai pháp luật, là đã không căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự. Cần phải xem xét một cách toàn diện các yếu tố liên quan khi cân nhắc đến tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội như: mục đích, động cơ của người phạm tội, hành vi phạm tội và hậu quả của hành vi gây ra, và cần đặc biệt lưu ý đến các tình tiết có liên quan đến nhân thân người phạm tội, vì đây là một căn cứ đã được pháp luật quy định để áp dụng tăng nặng hay giảm nhẹ khi quyết định hình phạt. Mức độ lỗi của hành vi phạm tội cũng là căn cứ để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong một khung hình phạt. Ví dụ cùng là lỗi cố ý trực tiếp, nhưng nếu người phạm tội quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội đến cùng thì sẽ nguy hiểm hơn đối với người phạm tội không thể hiện ý chí quyết tâm phạm tội đến cùng. Một yếu tố nữa gây ảnh hưởng tới việc quyết định hình phạt đó là hậu quả do tội phạm gây ra sau khi thực hiện hành vi phạm tội, là hậu quả nguy
- 14 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự hiểm. Các nhà làm luật chia hậu quả nguy hiểm thành hai nhóm: hậu quả được quy định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm và hậu quả không được quy định là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Việc xác định hậu quả có hay không là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc quyết định hình phạt, là căn cứ để xác định tính chất tăng nặng của hành vi hay không. Có thể thấy được việc xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc quyết định hình phạt. Tòa án phải đánh giá một cách toàn diện, khách quan để quyết định loại hình phạt, khung hình phạt phù hợp. Hai yếu tố này luôn song hành và bổ trợ cho nhau trong việc xác định về mặt “chất” – tính chất và “lượng” – mức độ. Nếu việc đánh giá mang tính khiên cưỡng, nặng về hình thức, hoặc thiên lệch (tức là coi nặng mặt chất, coi nhẹ mặt lượng hoặc ngược lại) thì sẽ rất nguy hiểm bởi lẽ khi có sự biến đổi về lượng trong một khung hình phạt đến một mức độ nhất định sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất, nghĩa là khi hành vi nguy hiểm của người bị kết án biến đổi đến một mức độ nhất định nào đó (tăng lên hoặc giảm đi ở một mức độ đáng kể nhất định) thì sẽ cho phép Tòa án chuyển khung hình phạt (lên khung tăng nặng hoặc xuống khung giảm nhẹ liền kề hoặc xuống khung giảm nhẹ không bắt buộc phải liền kề). Do vậy, đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội sẽ là căn cứ quan trọng để xác định có hay không việc quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, để quyết định hình phạt tù có thời hạn cho phù hợp, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật. - Xác định nhân thân người bị kết tội. Các yếu tố về nhân thân người phạm tội là những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt, được quy định cụ thể trong BLTTHS; do vậy việc xác định nhân thân người phạm tội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định khung hình phạt. Pháp luật hình sự quy định cụ thể về nhân thân của người bị kết tội như: hoàn cảnh gia đình, tuổi đời, … của người phạm tội. Do vậy khi quyết định
- 15 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự hình phạt tù có thời hạn, Tòa án xác định, cân nhắc nhân thân người bị kết tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng được quy định tại Điều 51, 52 của BLHS năm 2015 để làm cơ sở xác định và đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của người bị kết tội. Ngoài ra, một số trường hợp những đặc điểm, đặc tính không được chỉ ra trong luật, nhưng chúng có ý nghĩa đối với việc quyết định hình phạt thì cũng thường được HDXX cân nhắc. Các đặc điểm về nhân thân người phạm tội tác động đến việc quyết định hình phạt ở nhiều góc độ khác nhau: Ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm như tái phạm, tái phạm nguy hiểm,...; khả năng cải tạo và giáo dục của người phạm tội để đạt được mục đích hình phạt...; thể hiện tính nhân đạo của pháp luật, của Nhà nước đối với những trường hợp có nhân thân tốt, người có thành tích cao... Riêng đối với Pháp nhân thương mại, mặc dù cũng là chủ thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng khi xét xử thì Tòa án không đưa ra yếu tố nhân thân, mà chỉ căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (căn cứ Điều 83 BLHS 2015). Các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ không phải là yếu tố quyết định đến tính chịu trách nhiệm hình sự của người bị kết án nhưng lại là yếu tố có tính ảnh hưởng cao đến việc quyết định hình phạt đối với người bị kết án. Thông thường khi quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, người có thẩm quyền tố tụng chỉ quan tâm đến các tình tiết giảm nhẹ, tuy nhiên, vấn đề này cần phải được loại bỏ bởi quyết định hình phạt là một hoạt động tư duy pháp luật có chủ đích của Tòa án đối với người bị kết án, trên cơ sở toàn bộ nội dung vụ án và sự đánh giá toàn diện các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để từ đó quyết định áp dụng hay không áp dụng quy định này. Một lưu ý quan trọng là khi quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định, phải hiểu đúng và đủ về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, có nghĩa là phải tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc có từ 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 BLHS mới được
- 16 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định bất kể trường hợp nào thuộc Điều 54 BLHS. Do vậy, dù người bị kết án có rất nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 nhưng chỉ có một tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 thì được xác định là không đủ điều kiện và không được quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định. Điều này sẽ tránh tình trạng lợi dụng pháp luật để áp dụng tràn làn, thiếu căn cứ trong thực tiễn xét xử. Tuy nhiên, cũng không nhất thiết là cứ đủ 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 điều 51 BLHS là phải quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định mà phải cân nhắc một cách thận trọng trong tương quan với các yếu tố khác, như tổng số tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng; tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội; nhân thân người bị kết án, khả năng thi hành hình phạt… để áp dụng pháp luật chính xác, đảm bảo quyền lợi của người bị kết án. Bên cạnh đó, thực tiễn hoạt động xét xử cho thấy do nhiều yếu tố tác động nên những người tiến hành tố tụng đã hiểu sai hoặc cố tình hiểu sai về định lượng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ tại mỗi điểm của điều luật. Ví dụ như coi điểm s khoản 1 Điều 51 (người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) là hai tình tiết giảm nhẹ để quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cho người bị kết án hoặc coi điểm x khoản 1 Điều 51 là 01 tình tiết giảm nhẹ để không quyết định hình phạt nhẹ hơn luật định cho người bị kết án. Vì vậy, khi áp dụng pháp luật cần lưu ý nắm chắc về kỹ thuật lập pháp của điều luật để nhận định chính xác đâu là tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ độc lập hoặc đâu là các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ ghép. Thực tiễn xét xử cho thấy trong nhiều vụ án luôn tồn tại cùng lúc cả tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, trong các trường hợp này HDXX phải đánh giá, cân nhắc các tình tiết đó để có thể quyết định một hình phạt thể hiện sự công bằng, hợp lý, đúng quy định pháp luật và phù hợp với lỗi của hành vi phạm tội. 1.2.2. Cơ sở pháp lý của áp dụng hình phạt tù có thời hạn. - Hình phạt tù có thời hạn.
- 17 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Tù có thời hạn được quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 như sau: “Tù có thời hạn là buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ trong một thời hạn nhất định”. Hình phạt tù có thời hạn là hình phạt nghiêm khắc, vì người bị kết án bị tước quyền tự do, bị cách ly với xã hội, người phạm tội phải lao động cải tạo trong trại giam dưới sự quản lý và giám sát của lực lượng chức năng. Việc chấp hành hình phạt tù có thời hạn luôn phải tuân thủ theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Tính nhân văn của pháp luật Việt Nam thể hiện: Mặc dù hình phạt tù có thời hạn là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc, nhưng không mang tính chất trả thù hay hành hạ người bị kết án mà có ý nghĩa cải tạo giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội. Trong thời gian chấp hành hình phạt, những phạm nhân thể hiện sự tiến bộ thì được xét giảm mức hình phạt, thực tế thì rất nhiều những người bị phạt tù có thời hạn đã được giảm và được trả lại tự do trước thời hạn. Pháp luật có quy định về thời gian chấp hành hình phạt tù, đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 03 tháng và mức tối đa là 20 năm (Điều 38 BLHS năm 2015). Mức tối thiểu và tối đa đối với hình phạt tù có thời hạn được quy định trong các điều luật và trong từng khung hình phạt cụ thể không hoàn toàn giống với mức tối thiểu và tối đa quy định cho loại hình phạt này, mà tùy thuộc và từng tội phạm, từng trường hợp phạm tội cụ thể mà nhà làm luật quy định mức tối thiểu và tối đa cho phù hợp. Người bị kết án bị Tòa án áp dụng hình phạt tù có thời hạn, nếu trước đó họ đã bị tạm giữ hoặc tạm giam, thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù. Tù có thời hạn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền con người, do vậy nó chỉ được áp dụng trong trường hợp khi thấy cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội trong khoảng thời gian nhất định. Khi quyết định hình phạt, Tòa án chỉ được phép áp dụng hình phạt tù có thời hạn khi khung hình phạt của điều luật mà người phạm tội bị kết án có quy định hình phạt này. Đối với người
- 18 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa (khoản 6 Điều 91 BLHS 2015). Như vậy, trường hợp mục đích của hình phạt có thể đạt được mà không cần phải cách ly người phạm tội ra khỏi đời sống xã hội bình thường thì cần áp dụng hình phạt không phải hình phạt tù. - Chế tài các quy phạm quy định tội phạm. Theo quy định trong quy phạm pháp luật hình sự, Chế tài hình sự có thể áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội khi xác định loại và giới hạn mức độ hình phạt. Nhận thức chính xác về các chế tài lựa chọn, chế tài bắt buộc, chế tài tùy nghi; nhận thức về điều kiện, phạm vi áp dụng hình phạt và tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội quy định trong BLHS nhằm để hình phạt được áp dụng không trái pháp luật, đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Khi Toà án quyết định hình phạt thì phải căn cứ vào loại và khung hình phạt được quy định đối với tội cụ thể mà bị cáo đã thực hiện, để lựa chọn những chế tài và mức hình phạt phù hợp nhất, được pháp luật quy định cụ thể đối với tội phạm cụ thể. Như vậy, Toà án khi quyết áp dụng hình phạt từ có thời hạn, cần phải căn cứ vào tất cả các quy định của BLHS năm 2015 có liên quan trực tiếp đến việc quyết định một hình phạt cụ thể đối với một bị cáo cụ thể [ 2]. - Các quy định liên quan đến áp dụng hình phạt. Khi áp dụng hình phạt cho người phạm tội đang bị xét xử, do Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự không có chương riêng quy định, hướng dẫn, Hội đồng xét xử phải nghiên cứu, tìm hiểu quy định của BLHS để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi nguy hiểm của người bị kết tội, đúng với quy định của pháp luật hình sự, và tuân thủ các quy định liên quan đến áp dụng hình phạt, Cụ thể:
- 19 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự + Đối với người bị kết án phạm nhiều tội thì tổng hợp hình phạt chung không quá 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn (Điều 55 BLHS 2015) [24, tr.21] + Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn khi xét tấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng với thời hạn thích hợp ngắn nhất (khoản 6 Điều 91 BLHS 2015). + Đối với người chưa thành niên, Tòa án phải cân nhắc khi áp dụng hình phạt, vì quy định khoản 1 Điều 103 BLHS năm 2015 quy định người dưới 18 tuổi phạm nhiều tội và bị đưa ra xét xử cùng một lần “…nếu hình phạt chung là hình phạt tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không được vượt quá 18 năm đối với người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi khi phạm tội và 12 năm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội” [24, Tr.43] . Trường hợp phải bắt buộc áp dụng hình phạt tù có thời hạn thì phải cân nhắc khi hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng trong việc răn đe, phòng ngừa. 1.2.3. Xác định sự tương thích của Bộ luật hình sự qua các quy định đối với các tình tiết vụ án được xác định để quyết định biện pháp trách nhiệm hình sự; biện pháp chấp hành hình phạt tù, loại, và mức hình phạt. Hội đồng xét xử cần phải tìm sự phù hợp giữa các quy định của Bộ luật hình sự với các tình tiết vụ án dựa trên cơ sở nhận thức, cơ sở pháp lý các quy định của Bộ luật hình sự khi áp dụng hình phạt. Bởi các tình tiết có lợi hay bất lợi không phải do quyết định cảm tính của HĐXX, mà phải dựa trên cơ sở quy định của luật. Vì điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến người bị kết án theo xu hướng tiêu cực hay tích cực khi bị kết án. Trường hợp bị cáo bị đưa ra xét xử là người dưới 18 tuổi, HĐXX phải xem xét độ tuổi là tình tiết giảm nhẹ đối với việc quyết định hình phạt tù.
- 20 Trần Đình Hoàng MS: 8.38.01.04 Ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Hội đồng xét xử phải xem xét nhân thân của cùng các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo để quyết định hình phạt tù có thời hạn phù hợp với quy định của pháp luật căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 65 BLHS năm 2015, và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 05 năm 2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo, để cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách …, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù. 1.2.4. Ban hành bản án áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người bị kết tội Pháp luật (Điều 13 BLTTHS) quy định người bị coi là có tội khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy Bản án chính là văn bản kết tội bị cáo và buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội do mình gây ra. Bản án phải tuân thủ hình thức và đầy đủ các nọi dung theo luật định. Bản án hợp pháp chỉ khi được các thành viên HĐXX thảo luận và ký thông qua tại phòng nghị án; nhận định của HĐXX được nêu trong bản án phải phân tích những chứng cứ xác định có tội hoặc không có tội. Trường hợp xác định có tội, thì phải xác định tội danh chính xác theo các điều luật cụ thể của BLHS. Nếu xác định không có tội, thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và việc giải quyết khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật; phải phân tích được lý do mà hội đồng xét xử không chấp nhận chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội, yêu cầu, đề nghị của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác; Phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử; Quyết định về từng vấn đề phải giải quyết như: tội danh, loại hình phạt tù có thời hạn, mức hình phạt tù có thời hạn, biện pháp chấp hành hình phạt tù. 1.3. Ý nghĩa của áp dụng hình phạt tù có thời hạn
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 313 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 216 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 173 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 238 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 82 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 156 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn