Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo vệ người lao động bằng pháp luật lao động Việt Nam trong nền kinh tế thị trường
lượt xem 11
download
Trên cơ sở phân tích tình hình lao động-việc làm hiện nay ở nước ta, thực trạng người lao động ngày càng có vị thế yếu đi, sự phát triển nhanh chóng của tốc độ đô thị hoá và công nghiệp hoá đất nước đã ảnh hưởng như thế nào đến người lao động. Người lao động đã được bảo vệ như thế nào bằng các quy định của pháp luật, thực trạng về hiện tượng vi phạm các quy định của pháp luật trong bảo vệ người lao động, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hạn chế sự vi phạm, và bảo vệ một cách tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động cũng như người sử dụng lao động trong quan hệ lao động.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Bảo vệ người lao động bằng pháp luật lao động Việt Nam trong nền kinh tế thị trường
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ YẾN BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG LUẬN VĂN THẠC SỸ Người hướng dẫn: TS. Nguyễn Hữu Chí Hà nội - 2005
- MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG LAO ĐỘNG, PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ SỰ CẦN PHẢI THIẾT BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG 6 1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG LAO ĐỘNG 6 1.1.1 Khái niệm về thị trƣờng lao động 6 1.1.2 Đặc điểm của thị trƣờng lao động Việt nam 12 1.2 Pháp luật lao động Việt nam trong điều kiện kinh tế thị trƣờng 17 1.2.1 Quá trình ra đời và phát triển của pháp luật lao động Việt Nam 17 1.2.2 Đặc điểm của luật lao động Việt nam 22 1. 3 Sự cần thiết phải bảo vệ ngƣời lao động 26 1.3.1 Thực trạng về việc làm và thất nghiệp ở Việt nam 26 1.3.2 Những bất cập trong quá trình lao động 28 CHƢƠNG 2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG 32 2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG 32 2.1.1 Việc làm và bảo đảm việc làm 32 2.1.2 Hợp đồng lao động 36 2.1.3 Tiền lƣơng 43 2.1.4 An toàn lao động - Vệ sinh lao động 48 2.1.5 Bảo hiểm xã hội 52 2.2 HÌNH THỨC VÀ CƠ CHẾ BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG. 56 2.2.1 Hình thức bảo vệ ngƣời lao động 56 2.2.2 Cơ chế bảo vệ ngƣời lao động 68 CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ 81 1
- NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG QUAN HỆ LAO ĐỘNG 3.1 Thực trạng bảo vệ ngƣời lao động ở nƣớc ta 81 3.1.1 Quan hệ giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động trong nền kinh tế thị trƣờng 81 3.1.2 Thực trạng áp dụng pháp luật trong bảo vệ ngƣời lao động 83 3.2 Giải pháp nhằm bảo vệ ngƣời lao động 90 3.2.1 Nhóm các giải pháp hoàn thiện pháp luật lao động 90 3.2.2 Nhóm các giải pháp khác 99 KẾT LUẬN CHUNG 103 2
- LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lao động-việc làm là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia trong nền kinh tế thị trường. Lao động-việc làm cũng là một trong những nhân tố chính trong thị trường lao động, phản ánh một cách khái quát nhất thực trạng kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Thị trường lao động là một trong những thị trường non trẻ ở nước ta, mới chỉ bắt đầu hình thành và phát triển trong những năm gần đây với chủ trương chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta. Tuy nhiên, theo dự báo thị trường này đang và sẽ diễn ra một cách hết sức phức tạp và có nhiều bức xúc đặc biệt là trong quá trình công nghiêp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế của đất nước. Lao động Việt nam trước thềm mở cửa, trước các cơ hội quốc tế hoá và hội nhập, những thách thức đặt ra với một thị trường lao động còn non trẻ ngày một nhiều. Trước các sức ép về việc làm cho người lao động, trước thực trạng thất nghiệp của người lao động, trước khó khăn của nền kinh tế trong nước, sức ép gia tăng dân số, người lao động hiên nay càng khó khăn trong công cuộc tìm kiếm việc làm. Sự mất cân đối giữa cung và cầu lao động đang làm cho sức cạnh tranh trên thị trường lao động ngày càng khốc liệt, làm giản đi cơ hội lựa chọn của người lao động đối với việc làm. Cho đến nay, người lao động Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc làm, sau đó là những khó khăn, bất cập trong quá trình lao động, sự vi phạm về thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng lao động, sự trượt giá trên thị trường làm khoảng cách chênh lệch giữa mức thu nhập và giá cả thị trường. . .Khi tham gia vào thị trường lao động, người lao động không có mong muốn gì ngoài việc sẽ tìm được một việc làm phù hợp, với mức thu nhập có khả năng nuôi sống bản thân và nếu có thể nuôi sống gia đình. Sau khi có được việc làm mong muốn tiếp theo của họ là được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp trong lao động . Mong muốn này là chính đáng và hoàn toàn hợp lý và có 1
- cở sở, bởi vì trong mối quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động, người lao động bao giờ cũng ở thế yếu về mặt kinh tế, và bị động trong quan hệ pháp lý so với người sử dụng lao động, vì vậy họ cần và mong muốn được bảo vệ từ phía Nhà nước với công cụ hữu hiệu nhất là pháp luật, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi cung lao động lớn hơn rất nhiều so với cầu lao động, luôn được bổ sung hàng năm. Khi sự cạnh tranh trên thị trường ngày càn khốc liệt, vì lợi nhuận không ít các tổ chức, cá nhân sử dụng lao động đã vi phạm các quy định của pháp luật, sẵn sàng vi phạm nghĩa vụ đối với người lao động, xâm phạm đến các lợi ích của người lao động, những vi phạm này mới đầu có thể rất nhỏ và trong phạm vi hẹp nhưng dần dần nó trở nên phổ biến và bức xúc không chỉ cho bản thân người lao động mà đối với cả xã hội. Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động cần thiết phải có một cơ chế, chủ trương phát triển một thị trường lao động lành mạnh của nhà nước và các quy định của pháp luật có khả năng bảo vệ hiệu quả người lao động, bảo vệ nguồn nhân lực của đất nước. Chủ trương xây dựng thị trường lao động ở nước ta được đặt ra trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt nam là “Mở rộng thị trường lao động trong nước có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước, bảo vệ lợi ích của người lao động và của người sử dụng lao động; đẩy mạnh xuất khẩu lao động có tổ chức và hiệu quả. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách tạo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích người lao động tự tìm việc làm, nâng cao trình độ, đào tạo lại, học nghề mới để người lao động có cơ hội tìm được công việc tốt hơn”. Bộ luật lao động 1994 ra đời có ý nghĩa quan trọng đối với việc điều chỉnh quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường trên cơ sở thiết lập các chế định cơ bản bảo vệ người lao động làm công ăn lương, bảo vệ người lao động trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng lao động. Thực tế thi hành bộ luật lao động đã bảo vệ người lao động như thế nào? hiệu quả của việc thực hiện và thực trạng người lao động đã được bảo vệ tốt hay chưa 2
- theo tinh thần, ý nghĩa của Bộ luật lao động đề ra? Người lao động đã thật sự vận dụng các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ mình trước sự xâm phạm từ phía người sử dụng lao động? Điều này phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động áp dụng và thực thi pháp luật của nước nhà, và một phần phụ thuộc vào khả năng am hiểu pháp luật của người lao động. Với mong muốn nghiên cứu những nội dung cơ bản của pháp luật lao động, đặc biệt nghiên cứu cơ chế bảo vệ người lao động trong luật lao động hiện nay đặt trong mối liên hệ thực tế giữa các quy định của pháp luật và thực tế thi hành để thấy được luật đã bảo vệ người lao động như thế nào, người lao động đã được ra sao trong nền kinh tế thị trường? tôi đã chọn đề tài “ Bảo vệ người lao động bằng pháp luật lao động Việt nam trong nền kinh tế thị trường”. 2. Lịch sử nghiên cứu đề tài. Có thể nói, nghiên cứu về vấn đề lao động, thị trường lao động mới chỉ được đề cập đến chủ yếu dưới góc độ kinh tế-lao động. Việc nghiên cứu lĩnh vực này thuộc về các chế định của luật lao động cụ thể cũng đã được các nhà nghiên cứu đưa ra ở các cấp độ khác nhau của đề tài như vấn đề về Bảo hiểm xã hội; An sinh xã hội; Việc làm; Hợp đồng lao động. . . nhưng nghiên cứu dưới dạng tổng quát về việc bảo vệ người lao động trong pháp luật lao động Việt nam thì chưa có nhiều. Do vậy, đề tài luận văn chỉ muốn góp thêm một phần rất nhỏ vào việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản của luật Lao động Việt nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường. 3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở phân tích tình hình lao động-việc làm hiện nay ở nước ta, thực trạng người lao động ngày càng có vị thế yếu đi, sự phát triển nhanh chóng của tốc độ đô thị hoá và công nghiệp hoá đất nước đã ảnh hưởng như thế nào đến người lao động. Người lao động đã được bảo vệ như thế nào bằng các quy định của pháp luật, thực trạng về hiện tượng vi phạm các quy định của pháp luật trong bảo vệ người lao động, từ đó đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm 3
- hạn chế sự vi phạm, và bảo vệ một cách tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động cũng như người sử dụng lao động trong quan hệ lao động. Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những quy phạm pháp luật trong lĩnh vực lao động, đặc biệt là các quy định trong Bộ luật lao động 1994 đã được sửa đổi bổ sung năm 2002. Ngoài các quy định của pháp luật luận văn còn nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật lao động ở Việt nam. Tuy nhiên lao động-việc làm là hai vấn đề hết sức phức tạp, do đó trong phạm vi đề tài tác giả không có tham vọng có thể giải quyết toàn bộ tất cả các vấn đề, và toàn diện được những vấn đề đưa ra, mà chỉ tập trung vào một số các vấn đề đang trở nên bức xúc hiện nay trong lĩnh vực lao động như: việc làm, hợp đồng lao động; tiền lương. . .đó là những vấn đề quan trọng trong mối quan hệ lao động làm công ăn lương giữa người lao động với người sử dụng lao động, đối tượng chủ yếu của luật lao động. Với mục đích và đối tượng nghiên cứu nói trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ: - Xem xét những vấn đề có tính khái quát chung về thị trường lao động, đặc điểm của thị trường lao động Việt nam dấn đến nhu cầu cần thiết phải bảo vệ người lao động. - Nghiên cứu quá trình hình thành, pháp triển và đặc điểm của pháp luật lao động Việt nam. - Nghiên cứu các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ người lao động, đặc biệt là các quy định của Bộ luật lao động 1994 đã được sửa đổi bổ sung năm 2002. Thực tế người lao động và người sử dụng lao động đã vận dụng và thực hiện nó như thế nào, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân và cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo vệ người lao động. - Đưa ra các kiến nghị nhằm bảo đảm cho việc thực hiện tốt các quy định của pháp luật cũng như trong việc bảo vệ tốt hơn nữa những quyền và lợi ích hợp pháp của người lao đọng, người sử dụng lao động trong điều kiện cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. 4
- 4. Phƣơng pháp nghiên cứu. Để tiếp cận và giải quyết vấn đề, tác giả sử dụng phép biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật. Ngoài ra để phù hợp với đề tài, và những vấn đề của luận văn, tác giả còn sử dụng đan xen các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Hệ thống hoá; phân tích; tổng hợp, khảo sát. . . 5. Ý nghĩa của luận văn Khi thực hiện đề tài, tác giả không có nhiều tham vọng, tuy nhiên với những gì được viết trong đề tài này tác chỉ mong muốn luận văn sẽ đưa ra được những vấn đề đang cần được quan tâm, đáng quan tâm khi chúng ta mong muốn phát triển nguồn nhân lực dồi dào của đất nước, luận văn đã: - Làm sáng tỏ thêm những vấn đề có tính lý luận về lao động, thị trường lao động, sức lao đọng, vấn đề việc làm, cũng như ý nghĩa của việc bảo vệ người lao động, giải quyết việc làm, chống thất nghiệp dưới góc độ kinh tế- xã hội cũng như góc độ điều chỉnh của pháp luật. - Tìm hiểu được những bức xúc của người lao động, khó khăn mà họ gặp phải, cũng như những tồn tại của quá trình thực hiện, áp dụng pháp luật ở nước ta, vai trò của các cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. - Đưa ra một số kiến nghị có tính chất phương hướng, cũng như một số giải pháp cụ thể, nhằm góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống một cách hiệu quả hơn, bảovệ tốt nhất người lao động trong nền kinh tế thị trường Ngoài ra luận văn còn có ý nghĩa tham khảo đối với những ai quan tâm. 6. Cơ cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có ba chương. Chƣơng 1: Khái quát chung về thị trường lao động, pháp luật lao động Việt nam, sự cần thiết phải bảo vệ người lao động trong nền kinh tế thị trường. 5
- Chƣơng 2: Nội dung pháp luật bảo vệ người lao động trong luật lao động Việt nam Chƣơng 3:Các giải pháp để bảo vệ người lao động tốt hơn trong nền kinh tế thị trường. CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG LAO ĐỘNG, PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ SỰ CẦN PHẢI THIẾT BẢO VỆ NGƢỜI LAO ĐỘNG. 1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƢỜNG LAO ĐỘNG 1.1.1 Khái niệm về thị trƣờng lao động 1.1.1.1 Khái niệm về thị trường lao động Cùng với thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường khoa học và công nghệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán. . . thị trường lao động là một trong những thị trường đặc biệt vì nó liên quan trực tiếp đến con người, đến sức lao động của con người. Lý luận về thị trường lao động đã được đề cập nhiều trong các tác phẩm kinh điển, trong sách giáo trình kinh tế học hiện đại cũng như trong các công trình nghiên cứu khoa học. Thị trường lao động là thị trường luôn vận động và thay đổi qua các chế độ xã hội khác nhau do đó các khái niệm về thị trường lao động cũng thay đổi và hoàn thiện cùng với sự phát triển của kinh tế- xã hội, và nhận thức về thị trường lao động cũng không thể đồng nhất, bất biến mà nó có sự thay đổi cùng với sự thay đổi của các điều kiện về kinh tế, lịch sử và xã hội. Dưới đây ta tiếp cận các khái niệm khác nhau về thị trường lao động. Khái niệm thị trường lao động đã được đưa ra trong Đại từ điển kinh tế thị trường là: “Thị trường lao động là nơi mua bán sức lao động của người lao động”. Định nghĩa được đưa ra ở đây nhấn mạnh về một loại hàng hoá phổ biến và chủ yếu của thị trường lao động, đó là sức lao động. Quan điểm coi sức lao động là một loại hàng hoá đã được các nhà kinh điển nghiên cứu và 6
- đưa ra, cụ thể như Mác đã nghiên cứu về giá trị của sức lao động và đưa ra định nghĩa về quy luật giá trịvà giá trị thạng dư trong kinh tế chính trị. Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra một định nghĩa về thị trường lao động đó là thị trường trong đó các dịch vụ lao động được mua và bán thông qua quá trình để xác định mức độ có việc làm của người lao động cũng như mức độ tiền công. Khái niệm trên của ILO lại định nghĩa về thị trường lao động về khía cạnh việc làm và tiền công mà không phải là sức lao động như định nghĩa trên. Với cách đặt vấn đề khác nhau, nhấn mạnh ở một phương diện nào chúng ta sẽ đưa ra định nghĩa về thị trường lao động dựa trên phương diện đó. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể đưa ra khái niệm về thị trường lao động có tính chất phổ biến, và dễ hiểu nhất đó là: Trước hết thị trường lao động phải là nơi thực hiện mua bán hàng hoá giữa bên bán và bên mua, hàng hoá được mang ra trao đổi chính là sức lao động và công việc phải làm được trả công. Trong quan hệ mua bán này người mua chính là người sử dụng lao động, có thể là tổ chức hoặc cá nhân. Người bán là cá nhân người lao động, và chính bản thân người lao động phải tham gia, họ mang sức lao động của mình làm một công việc nhất định và được trả công cho công việc đó. Do đó, khái niệm thị trường lao động có thể hiều là nơi thực hiện việc làm được trả công qua các quan hệ mua và bán giữa người cung ứng lao động và người sử dụng lao động, tức là thông qua các quan hệ về cung cầu lao động. 1.1.1.2 Đặc điểm của thị trường lao động Lao động được đem ra mua bán trên thị trường lao động không phải là lao động trừu tượng mà là lao động cụ thể, lao động đó thể hiện qua việc làm, và để đánh giá chất lượng lao động chúng ta đánh giá thông qua năng suất lao động của người lao động. Một thị trường lao động tốt, lý tưởng là thị trường ở đó số lượng và chất lượng cung ứng việc làm, sử dụng việc làm về cơ bản là tương ứng nhau. 7
- Thị trường lao động ra đời và phát triển khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, ở đó có những người bị bần cùng hoá, không có tư liệu sản xuất đã phải bán sức lao động, tài sản duy nhất của mình cho người có trong tay tư liệu sản xuất và có nhu cầu thuê mướn người khác làm việc cho mình , quan hệ thuê mướn này luôn gắn liền với việc thực hiện một công việc nhất định đó là việc làm, nhưng cho đến khi chủ nghĩa tư bản ra đời, sức lao động của con người mới hoàn toàn được giải phóng và là tài sản riêng của mỗi cá nhân con người, thị trường lao động mới thực sự đúng với nghĩa của nó. Trải qua quá trình phát triển, các đặc trưng phân biệt thị trường lao động với các thị trường khác chủ yếu dựa vào tính chất, đặc điểm của hàng hoá sức lao động. Trong các nước, dù thể chế chính trị- xã hội và trình độ phát triển khác nhau nhưng đặc trưng của thị trường lao động có những nét tương đồng đó là: - Lao động không thể tách rời khỏi người cung ứng (người lao động), sức lao động là một loại hàng hoá, khác với hàng hoá thông thường mối quan hệ giữa người mua và người bán kết thúc khi đã thoả thuận xong việc mua bán, quyền của người mua sẽ được thiết lập khi đã thực hiện việc thanh toán, còn người bán không còn sở hữu hàng hoá của mình khi được thanh toán. Nhưng đối với hàng hoá sức lao động thì lúc này quan hệ lao động mới bắt đầu được hình thành, người làm thuê không hoàn toàn tách biệt sức lao động của mình mà phải tích cực chủ động trong quá trình khai thác và sử dụng sức lao động của mình để tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ với số lượng, chất lượng ngày càng tốt hơn. - Người lao động vẫn giữ quyền kiểm soát sức lao động, do vậy mối quan hệ lao động là mối quan hệ lâu dài. Việc duy trì và phát triển mối quan hệ lao động tốt đẹp là cần thiết nhằm nâng cao năng suất và hiệu quả lao động, người sử dụng lao động cần phải xây dựng một chế độ đãi ngộ, khuyến khích, tạo động lực phù hợp với người lao động thông qua việc thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng và phúc lợi xã hội. . . là những công cụ hữu hiệu góp phần duy trì và phát triển quá trình lao động. 8
- - Chất lượng lao động của người lao động không đồng nhất. Chất lượng lao động ở mỗi người lao động khác nhau về giới tính, tuổi tác, thể lực, trí lực và trình độ chuyên môn, kinh nghiệm làm việc, khả năng khéo léo, độc lập trong công việc, sức sáng tạo. . .do vậy việc đánh giá chất lượng lao động của người lao động là công việc hết sức khó khăn cho người tuyển dụng, bởi khả năng này nhiều khi chỉ được bộc lộ thông qua quá trình làm việc. - Lao động vừa là đầu vào của quá trình sản xuất, vừa là yếu tố quyết định số lượng và chất lượng của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, do vậy các chính sách về tuyển dụng, tiền lượng, bảo hiểm. . .không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của một tổ chức mà còn ảnh hưởng đến các chính sách vĩ mô như giá cả, việc làm. . . - Kết quả của quá trình lao động được phản ánh qua năng suất lao động của người lao động, thông thường năng suất lao động này luôn mang lại lợi ích hơn giá trị ban đầu của nó (khoản tiền công được trả để người lao động làm việc) do vậy nó thường đem lại lợi nhuận, làm tăng thêm giá trị hàng hoá nên dễ phát sinh tình trạng bóc lột nên cần sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. 1.1.1.3 Hàng hoá sức lao động và việc làm trên thị trường lao động Khi tham gia thị trường lao động, người lao động luôn mong muốn sẽ bán được hàng và người sử dụng lao động luôn móng muốn sẽ mua được hàng. Hàng hoá ở đây chính là sức lao động của người loa động và việc làm có trả công của người sử dụng lao động. a) Sức lao động Sức lao động của cá nhân người lao động, là tài sản gắn liền với người lao động, nó chính là năng lực làm việc của người lao động bao gồm cả thể lực và trí lực. Đặc trưng của sức lao động: - Sức lao động luôn tồn tại gắn liền với bản thân người lao động. Nó là loại hàng hoá đặc biệt không thể nhìn thấy, sờ thấy, không thể mang ra đong đếm được nhưng nó lại là hàng hoá có giá trị nhất, chính vì vậy mà người ta không thể định tính hay định lượng được trong việc xác định giá trị đích thực 9
- của nó. Tuy không nhìn thấy, nhưng không vì thế mà nó trừu tượng mà ngược lại nó được biểu hiện ra ngoài hết sức cụ thể thông qua người lao động cụ thể. - Sức lao động không thể đem ra mua đứt, bán đoạn như các loại hàng hóa khác, nó được thực hiện trong một thời gian dài và luôn có sự giàng buộc giữa người lao động và người sử dụng lao động thông qua quan hệ lao động. Trong suốt thời gian đó người lao động sẽ làm những công việc nhất định cho người sủ dụng lao động và được trả tiền công cho công việc đó. - Sức lao động là một loại hàng hóa mà khi sử dụng nó sẽ sáng tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị ban đầu của bản thân. Đây là đặc trưng nói lên giá trị của sức lao động so với các loại hàng hoá thông thường. Giá trị hàng hoá sức lao động trên thị trường lao động được biểu hiện thông qua tiền lương mà người sử dụng lao động trả cho người lao động. Tiền lương này được xác định thông qua năng suất lao động và hiệu quả làm việc của người lao động. Giá trị sức lao động sẽ kết tinh vào trong sản phẩm mang lại giá trị cũng như giá trị sử dụng của sản phẩm. Chính sự kết tinh của sức lao động vào sản phẩm mà khi tính tiền lương người sử dụng lao động sẽ căn cứ vào sức lao động của anh ta bỏ ra cho từng sản phẩm để trả lương cho người lao động. Như vậy sức lao động vừa là yếu tố chi phí của quá trình sản xuất đồng thời cũng là yếu tố mang lại lợi ích cho quá trình đó. b) Việc làm Cùng với sức lao động, việc làm là yếu tố làm nên thị trường lao động hoàn chỉnh, việc làm cũng có thể coi là một loại hàng hoá trên thị trường lao động, do vậy việc làm trước hết phải có ích tức là việc làm đó chứa đựng khả năng đem lại lợi ích cho người mua nó, theo đó việc làm được đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn sau. - Tính chất cá nhân hay tập thể của việc làm. - Tính chất kỹ thuật của việc làm. Đó là đòi hỏi việc áp dụng công nghệ và khoa học vào công việc đó. 10
- - Tính chất thành thạo của việc làm - Tính chất kinh tế của việc làm - Tính chất cơ động của việc làm Dựa vào các tính chất nêu trên của việc làm mà người ta chia việc làm thành những phạm trù nghề nghiệp-xã hội khác nhau. Các tính chất trên thể hiện cả hai mặt của việc làm đó là tính cá nhân của việc làm (Mức độ thành thạo, khả năng cơ động . . .) và cả tính xã hội của việc làm (tính kinh tế của việc làm, tính tập thể vì mỗi một cá nhân là một thành viên trong tổ lao động như một phân xưởng hay một doanh nghiệp. . . ). Trên thị trường lao động có rất nhiều các loại nghề nghiệp-xã hội khác nhau, đó là tập trung của những công việc cùng một loại lại với nhau tạo nên sự phong phú của việc làm và chất xã hội của việc làm. Tuy nhiên tính chất xã hội của việc làm đòi hỏi nó phải đáp ứng được những tiêu trí nhất định thể hiện các yêu cầu của xã hội và phải được xã hội chấp nhận. Điều này lý giải vì sao trong xã hội có rất nhiều hoạt động tạo ra thu nhập nhưng không được coi là việc làm cả về phương diện xã hội lẫn pháp luật. Như vậy, xét về phương diện kinh tế-xã hội, việc làm là các hoạt động lao động, đem lại lợi ích, thu nhập cho người lao động. Việc làm là hoạt động của mỗi cá nhân nhưng lại luôn gắn liền với xã hội và được xã hội thừa nhận. Việc làm là vấn đề hết sức quan trọng và được người lao động quan tâm, vì đi liền với vấn đề việc làm là thất nghiệp, vì vậy giải quyết việc làm là một vấn đề hết sức quan trọng nhằm tạo việc làm và đảm bảo việc làm cho người lao động, hạn chế thất nghiệp, thực hiện phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo các vấn đề xã hội. Khi giải phóng sức lao động, pháp luật thừa nhận sức lao động là tài sản thuộc sở hữu của mỗi cá nhân, người lao động có quyền bán sức lao động của mình cho bất kì ai. Và ai có trong tay tư liệu sản xuất đều có thể thuê mướn người khác làm việc cho mình tạo nên thị trường lao động phong phú và sôi động . 11
- Tuy nhiên, con người sống trong một xã hội, cho dù chế độ xã hội đó tôn trọng quyền tự do của con người ở mức độ tối đa thì quyền tự do đó cũng không phải là tuyệt đối. Quan hệ tự do giao kết hợp đồng lao động cũng vậy, nó chỉ có thể thực hiện khi tuân theo các quy định của pháp luật và khi gạt bỏ các quy định của pháp luật ra nó còn phải tuân thủ các quy luật của thị trường, một trong các quy luật cơ bản cần quan tâm đó là quy luật về cung cầu trên thị trường. Mức cung cầu của lao động lại phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khác của thị trường, của tình hình kinh tế- xã hội của đất nước và thế giới. Mức cầu lao động của người sử dụng lao động trước hết bị chi phối bởi nhu cầu của con người trong xã hội, ttrong khi đó nhu cầu của con người luôn thay đổi theo khả năng và sở thích tiêu dùng. Nếu mức cung lao động phù hợp với mức cầu lao động, với điều kiện mức cầu có khả năng thu hút tất cả những người có khả năng lao động trong xã hội thì thị trường lao động cân bằng và vận hành thắng lợi. Trong trường hợp ngược lại , cung lao động lớn hơn cầu lao động thì thị trường lâm vào tình trạng không ổn định, khi cung cao hơn mức cầu, sức lao động sẽ bị dôi dư và được bán thấp hơn giá trị của nó, và thấp hơn rất nhiều, lúc này nạn thất nghiệp trên thị trường lao động sẽ xảy ra với những hậu quả rất nghiêm trọng, nó không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của bản thân người lao động mà nó còn ảnh hưởng đến tật tự kinh tế- xã hội của đất nước. Do vậy một thị trường lao lý tưởng là thị trường ở đó tỷ lệ lao động thất nghiệp thấp, thậm trí bằng không tuy nhiên khả năng này khó có thể xảy ra. 1.1.2 Đặc điểm của thị trƣờng lao động Việt nam. Trong một thời gian dài, ở Việt nam quan hệ tư hữu về tư liệu sản xuất bị cấm, chúng ta không chấp nhận tình trạng người bóc lột người nên không thể có quan hệ thuê mướn lao động, tất nhiên quan hệ kinh tế thị trường chưa xuất hiện. Với chính sách mở cửa từ năm 1986, qua việc ban hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu được chấp nhận và phát triển đã từng bước tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành thị trường lao động ở Việt Nam. Hiến pháp 1992 ra đời, quy định về mục đích 12
- phát triển nền kinh tế ở nước ta đó là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Quuyền tự do kinh doanh của công dân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, xoá bỏ cơ chế kinh tế kế hoạch, tập trung bao cấp. Với việc thừa nhận quyền tự do kinh doanh, quyền chủ động trong việc thuê mướn, sử dụng và trả công lao động của người chủ sử dụng lao động được bảo đảm bằng hợp đồng lao động. Bộ luật lao động 1994 ra đời quy định người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sủ dụng lao động nào mà không phụ thuộc vào địa bàn tuyển dụng. Người sử dụng lao động có quyền tuyển dụng lao động, tăng giảm lao động theo yêu cầu sản xuất, kinh doanh của mình. Do đó, hợp đồng lao động trở thành phương tiện chính của việc hình thành quan hệ lao động trên thị trường lao động, và người lao động có quyền tự do dịch chuyển lao động giữa các khu vực khác nhau thông qua hợp đồng lao động, thông qua hình thức này, người lao động và người sử dụng lao động có thể thoả thuận với nhau về tiền lương, công việc phải làm. . .Đó chính là nền tảng cho sự ra đời và hoạt động của thị trường lao động ở Việt nam. Thị trường lao động Việt nam, bước đầu được hình thành và đi vào hoạt động với những phức tạp riêng. Sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã dẫn đến sự tồn tại của hai loại lao động trên thị trường hiện nay đó là: lao động trong khu vực quản lý nhà nước và quản lý xã hội, và lao động trong khu vực sản xuất kinh doanh, hình thành nên hai đối tượng khác nhau thuộc sự điều chỉnh của hai ngành luật khác nhau. Đặc biệt, lao động trong các Doanh nghiệp Nhà nước trước đây làm việc theo chế độ biên chế suốt đời, lương được đảm bảo bằng ngân sách Nhà nước thì nay chuyển sang giao kết hợp đồng lao động. Sự chuyển đổi này đã gây một trở ngại khó khăn không ít cho lực lượng lao động này, buộc Nhà nước phải bỏ ra một khoản chi phí khá lớn cho việc giải quyết chế độ cho lực lượng lao động dôi dư, sắp xếp lại biên chế và đào tạo lại để cung cấp cho thị trường lao động. Sự chuyển dịch lao động từ khu vực Nhà nước sang khu vực tư nhân cũng là một vấn đề của thị trường lao động Việt nam hiện nay bởi nó có liên quan 13
- nhiều đến tiền lương, thu nhập đó là tình trạng dẫn đến nạn chảy máu chất xám trong những năm gần đây. Đối với lao động trên thị trường theo hợp đồng lao động, mặc dù sự điều chỉnh của Bộ luật lao động là thống nhất trong cả nước nhưng luôn có sự phân biệt khá rõ giữa lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh và lao động trong khu vực kinh tế tư nhân, cũng như sự phân biệt giữa lao động làm việc trong các doanh nghiệp trong nước với lao động làm việc trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, biểu hiện cụ thể nhất của sự phân biệt này chính là các quy định về tiền lương đặc biệt là lương tối thiểu. Sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường lao động bằng việc thiết lập những điều kiện lao động và sử dụng lao động ở mức tối thiểu hay khống chế ở mức tối đa, nhằm tạo điều kiện cho hai bên người lao động và người sử dụng lao động có thể thoả thuận và chấp nhận lẫn nhau trong việc thực hiện pháp luật lao động. Đặc điểm của thị trường lao động Việt nam hiện nay là: - Có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa cung và cầu lao động, cũng như sự phân bố không đồng đều giữa các khu vực đặc biệt là khu vực nông thôn và thành thị. Với tốc độ gia tăng dân số đang có chiều hướng bùng phát ở nước ta hiện nay luôn có xu hướng tăng lên, theo tổng điều tra dân số năm 1989, dân số Việt nam có gần 65 triệu người, khoảng hơn 30 triệu trong độ tuổi lao động. Năm 1999, tổng dân số là 76,328 triệu người, có khoảng 44,566 triệu người trong độ tuổi lao động. Đến năm 2005 theo dự đoán có khoảng trên 80 triệu người và khoảng trên 50 triệu người trong độ tuổi lao động. Như vậy dân số không ngừng tăng lên, kéo theo lực lượng lao động mới không ngừng được bổ sung cần phải giải quyết việc làm. Bên cạnh đó, số lượng lao động dôi dư trong các doanh nghiệp nhà nước thực hiện chính sách cổ phần hoá cần phải sắp xếp lại lao động làm tăng thêm lực lượng lao động trong xã hội cần được giải quyết việc làm, trong khi số lượng việc làm hàng năm được tạo thêm còn hạn chế chưa đủ đáp ứng được nhu cầu của một lực lượng lao động dồi dào như hiện nay. 14
- Sự phân bố lực lượng lao động ở nước ta không đồng đều, chủ yếu tập trung ở khu vực nông thôn, trong khi quỹ thời gian lao động được sử dụng của lao động nông thôn chỉ đạt khoảng 75,41% (năm 2002). Lao động tập trung nhiều ở khu vực nông-lâm-ngư nghiệp, do không sử dụng hết quỹ thời gian lao động nên có tình trạng di cư lao động nông thôn ra các thành thị lớn tìm việc làm hình thành nên các “chợ người” ở một số đô thị lớn hiện nay. Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá hiện nay cũng tác động không nhỏ đến sự chênh lệch cung cầu lao động đó chính là xu hướng xây dựng ngày càng nhiều các khu công nghiệp, khu đô thị mới làm cho một lực lượng không nhỏ lao động nông nghiệp bị mất đi phương tiện sản xuất đó chính là diện tích đất nông nghiệp không ngừng được thu hẹp trở nên thất nghiệp. Vì không có việc làm và chưa có chính sách giải quyết việc làm đúng đắn cũng như kế hoạch đào tạo nghề cho họ làm cho lực lượng lao động bị thất nghiệp tăng lên trong khi giải quyết việc làm còn hạn chế. Trong giai đoạn 1996-2001, nhờ duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức cao, có sự phối hợp giữa Nhà nước và các tổ chức xã hội-nghề nghiệp, chính trị-xã hội. . . trong việc thực hiện chính sách về việc làm cũng như việc mở rộng các hoạt động xúc tiến việc làm của các trung tâm giới thiệu việc làm nên cầu về việc làm phần nào được giải quyết. Nhưng do tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây đang chững lại, tốc độ gia tăng dân số, sắp xếp lại lao động dôi dư trong các doanh nghiệp Nhà nước dẫn đến hàng năm thất nghiệp tồn đọng khoảng 1,1-1,5 triệu người, và số người đến tuổi lao động hàng năm được bổ sung vào lực lượng lao động khoảng 1,2 triệu người thì mức cầu lao động vẫn ở mức thấp, cung lao động vẫn ngày càng nhiều. - Quy mô lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật ở nước ta còn nhỏ. Năm 2000 cơ cấu lực lượng lao động theo trình độ chuyên môn kỹ thuật là: Không có chuyên môn kỹ thuật chiếm 84,49%; Sơ cấp và công nhân kỹ thuật 6,77%; Trung học chuyên nghiệp 4,84%; Cao đẳng,đại học trở lên 3,9% (Điều tra lao động- việc làm 1/7/2000 Bộ lao động- Thương binh và Xã hội). Mặc dù thị trường lao động Việt nam có lực lượng lao động trẻ do luôn được bổ sung 15
- lực lượng lao động mới nên có khả năng thích ứng với đòi hỏi và yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Nhưng thị trường lao động còn thiếu lao động có trình độ tay nghề và chuyên môn giỏi, đặc biệt lao động Việt nam không có khả năng thích ứng với công việc có yêu cầu phức tạp, đòi hỏi chuyên môn kỹ thuật, dẫn đến tồn tại mâu thuẫn lớn giữa cung và cầu lao động trên thị trường. Lực lượng lao động đông nhưng không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Do đó mặc dù lao động rất nhiều nhưng các doanh nghiệp lại không thể tuyển dụng được những lao động đáp ứng được đòi hỏi của công việc dẫn đến tình trạng thừa tương đối lao động phổ thông nhưng thiếu tuyệt đối lao động có trình độ và tay nghề cao.. Với sự non kém về trình độ lao động kỹ thuật, lao động Việt nam chủ yếu thực hiện các công việc có tính thủ công, phổ thông, phân bổ nhiều trong các ngành nghề như dệt may, giày dép. . . tiền công rẻ mạt và dễ bị lạm dụng. - Thị trường lao động thiếu các chế định pháp lý quan trọng. Việc làm, thu nhập và thất nghiệp là những nội dung chính của thị trường lao động. Bộ luật lao động đưa ra khái niệm về việc làm và xác định trách nhiệm của Nhà nước, của doanh nghiệp, của toàn xã hội trong việc giải quyết và đảm bảo việc làm cho người lao động. Trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc giải quyết việc làm và các điều kiện làm việc cho lao động nữ, lao động tàn tật cũng như việc thực hiện cấc ưu đãi cho doanh nghiệp đều được quy định trong luật nhưng chưa có cơ chế thực hiện và xúc tiến việc thực hiện những quy định đó. Tình trạng thất nghiệp của lao động chưa có cơ chế bảo vệ bằng trợ cấp thất nghiệp. - Tăng cường tốc độ di chuyển lao động ra các thị trường lao động nước ngoài, và di chuyển lao động đến những vùng có tốc độ phát triển kinh tế cao trong nước, đặc biệt là các thành phố lớn và khu vực có vốn đầu tư của nước ngoài có sức thu hút mạnh đối với dòng di chuyển lao động từ nông thôn. Sự quản lý của Nhà nước còn hạn chế đối với nguồn cung ứng và di chuyển lao động giữa các khu vực, nên hoạt động điều tra, thống kê lao động và lao động thất nghiệp trên thị trường và khu vực hết sức khó khăn từ đó ảnh hưởng đến 16
- việc hoạch định chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Hoạt động của các tổ chức giới thiệu việc làm chưa thể đảm nhận được chức năng điều tra và thông tin về thị trường lao động cho cả ba bên người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. - Ngoài những khó khăn khách quan ra, thị trường lao động Việt nam còn vướng vào những khó khăn nằm ngay ở chính bản thân người lao động. Sự hạn chế về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ thì người lao động còn có ý thức kỷ luật chưa cao, chưa có tác phong công nghiệp. Ý thức của người lao động về trách nhiệm đối với doanh nghiệp và cộng đồng còn hạn chế. Người sử dụng lao động trên thị trường lao động Việt nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có quy mô hoạt động hẹp, số lao động ít nhưng sự ổn định lại không cao, do đó hợp đồng lao động trên thị trường phần lớn là hợp đồng lao động ngắn hạn và theo thời vụ. - Sự dịch chuyển cơ cấu lao động trong những năm gần đây cho thấy, lĩnh vực dịch vụ đang thu hút lượng lớn lao động tham gia, bởi vì do sự phát triển của nền kinh tế và tốc độ đo thị hoá ngày càng cao, các hoạt động thuộc về lĩnh vực dịch vụ ngày càng cần , mặt khác số lượng lao động cần thiết cho các khu công nghiệp đã bảo hoà thì lao động còn lại sẽ dịch chuyển sang lĩnh vực dịch vụ như hiện nay. 1.2 Pháp luật lao động Việt nam trong điều kiện kinh tế thị trƣờng 1.2.1 Quá trình ra đời và phát triển của pháp luật lao động Việt nam. Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm miền Nam, xây dựng chế độ cai trị, bảo hộ đối với miền Trung và miền Bắc, điều khiển triều đình phong kiến, bắt tay vào các công cuộc khai thác thuộc địa ở nước ta đã dẫn đến sự hình thành, ra đời của một giai cấp mới, giai cấp công nhân lao động đó là những người bị bần cùng hoá buộc phải đi làm thuê. Tuy nhiên quan hệ thuê mướn lao động của những người công nhân trong chế độ cũ chưa chịu sự điều chỉnh của luật lao động tiến bộ mà hoàn toàn đơn thuần là quan hệ thuê mướn giữa các ông chủ và những người lao động bị thất nghiệp. 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 314 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 217 | 48
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 175 | 46
-
Luận văn thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trƣờng trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 202 | 34
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 239 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 83 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 157 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 265 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn