intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:102

22
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bố cục của luận văn gồm có 2 chương: Chương 1 - Những vấn đề chung về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam; Chương 2 - Quy định của Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật hình sự 2015 về bắt buộc chữa bệnh và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam từ năm 2014 đến 2018. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN QUANG SƠN BIỆN PHÁP TƢ PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN QUANG SƠN BIỆN PHÁP TƢ PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2015 Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 8380101.03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS ĐỖ NGỌC QUANG HÀ NỘI - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Quang Sơn
  4. MỤC LỤC Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các chữ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .................. 7 1.1. Khái niệm và ý nghĩa biện pháp tƣ pháp bắt buộc chữa bệnh ......... 7 1.1.1. Khái niệm biện pháp bắt buộc chữa bệnh ...................................... 7 1.1.2. Ý nghĩa biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh .......................... 11 1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến áp dụng biện pháp tƣ pháp bắt buộc chữa bệnh .................................................................................................... 17 1.2.1. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ................................................................. 17 1.2.2. Tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự bị hạn chế khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ......................................................... 23 1.2.3. Tình trạng dùng rượu, bia hoặc chất kích thích mạnh khác khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội ................................................ 28 1.3. Sự phát triển của Luật hình sự Việt Nam về biện pháp tƣ pháp bắt buộc chữa bệnh........................................................................................... 34 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự 1985 ........................................................................................................... 34 1.3.2. Giai đoạn từ 1985 đến khi ban hành Bộ luật hình sự 1999 ........ 38 1.4. Quy định của một số quốc gia về biện pháp tƣ pháp bắt buộc chữa bệnh ............................................................................................................. 42
  5. Chƣơng 2 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 1999 VÀ BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 VỀ BẮT BUỘC CHỮA BỆNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM TỪ NĂM 2014 ĐẾN 2018 .................................. 49 2.1. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật hình sự 2015 về biện pháp tƣ pháp bắt buộc chữa bệnh ............................................................ 49 2.1.1. Quy định của Bộ luật hình sự 1999 về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh ................................................................................................. 49 2.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự 2015 về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh ................................................................................................. 54 2.2.Thực tiễn áp dụng biện pháp tƣ pháp bắt buộc chữa bệnh từ 2014 đến 2018....................................................................................................... 64 2.2.1. Những kết quả đạt được về áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh ................................................................................................. 60 2.2.2. Những hạn chế, khó khăn trong việc áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh .................................................................................. 68 2.2.3. Những nguyên nhân gây nên những hạn chế, khó khăn trong việc áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh ........................... 72 2.3. Các giải pháp hoàn thiện quy định về biện pháp tƣ pháp bắt buộc chữa bệnh .................................................................................................... 81 2.3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự ....................................................... 76 2.3.2. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự .......................................... 81 2.3.3. Các giải pháp khác......................................................................... 84 KẾT LUẬN .................................................................................................... 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 93
  6. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CQĐT: Cơ quan điều tra VKS: Viện kiểm sát TA: Tòa án
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua, công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm, theo dõi và chỉ đạo sát sao. Đảng, Nhà nước ta đã đặt ra một trong những mục tiêu quan trọng trong quá trình lập pháp trong lĩnh vực tư pháp hình sự là trừng trị người phạm tội, giáo dục họ tuân thủ pháp luật để họ trở thành những công dân có ích cho xã hội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Theo đó, người thực hiện hành vi phạm tội thì phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của mình và hậu quả do mình gây ra. Tuy nhiên, trong thực tiễn cuộc sống cũng cho thấy nhiều trường hợp do các yếu tố khách quan (bệnh tâm thần…) mà bản thân người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không nhận thức hoặc điều khiển được hành vi của mình dẫn đến gây ra những hậu quả nguy hại cho xã hội, cũng như người sau khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc đang chấp hành hình phạt tù thì họ bị rơi vào trạng thái không nhận thức hoặc điều khiển được hành vi. Như vậy, nếu áp dụng hình phạt đối các trường hợp nêu trên như những người bình thường khác có hành vi phạm tội sẽ không đạt được mục đích của hình phạt. Vì vậy, cần phải có một giải pháp hữu hiệu và quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là cần thiết và đóng vai trò rất quan trọng. Quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự vừa thể hiện được chính sách hình sự của nhà nước ta với mục đích chính là phòng ngừa khả năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội của người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần, vừa thể hiện tính nhân đạo khi không cần thiết phải áp dụng hình phạt mà đưa họ vào cơ sở điều trị chuyên khoa. Như vậy, với biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thì hình phạt không phải là công cụ duy nhất để giáo dục người phạm tội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Tuy nhiên trong thời gian qua, Bộ luật hình sự nói 1
  8. chung và chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh nói riêng đã thể hiện những hạn chế nhất định trong nhiệm vụ phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Trong khi đó, với nền kinh tế - xã hội ngày càng phát triển ở nước ta hiện nay, tình hình tội phạm sẽ ngày càng gia tăng với những diễn biến phức tạp và thủ đoạn tinh vi hơn. Đòi hỏi Bộ luật hình sự nói chung và chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh nói riêng phải luôn được đổi mới, hoàn thiện nhằm bắt kịp, dự đoán được tội phạm, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Chính vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, đồng bộ, có hệ thống chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015. 2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài 2.1. Mục tiêu tổng quát Qua việc nghiên cứu, tác giả muốn đem đến cái nhìn tổng quan về khái niệm, nội dung, ý nghĩa của biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh để từ đó làm rõ các quy định liên quan đến biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh được quy định trong Bộ luật hình sự 2015. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ đưa các quy định liên quan đến biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh ở một số quốc gia trên thế giới. Trên cơ sở đó, sẽ đánh giá được những ưu điểm, khuyết điểm của chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh của nước ta so với các quốc gia khác, từ đó tiếp thu những kinh nghiệm của các nước đã đạt được để chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh hoàn thiện và hiệu quả hơn. 2.2. Mục tiêu cụ thể Để đạt được mục tiêu đặt ra nêu trên, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu những vấn đề sau: 2
  9. Thứ nhất, Những vấn đề chung về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam; Ở phần này, tác giả sẽ làm rõ khái niệm và ý nghĩa biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, các yếu tố ảnh hưởng đến áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, sự phát triển của Luật hình sự Việt Nam về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, quy định của một số quốc gia về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. Thứ hai, quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015 về bắt buộc chữa bệnh; Ở phần này, tác giả sẽ đưa ra quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 2015 về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. Thứ ba, thực tiễn áp dụng quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh; Ở phần này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu hoạt động áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn hiện nay và ảnh hưởng của việc áp dụng biện pháp này đến công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trên cơ sở thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh từ năm 2014 đến năm 2018. Thứ tư, giải pháp hoàn thiện quy định về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh; Ở nội dung này, tác giả sẽ nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, nâng cao hiệu quả phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm. 3
  10. 3. Tình hình nghiên cứu đề tài Chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh không phải là một chế định mới được quy định trong Bộ luật hình sự 2015. Kể từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời cho đến nay, biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh không được nghiên cứu nhiều, còn nhiều thiếu sót, phần lớn chỉ nêu lên một cách chung chung hoặc chỉ phân tích một khía cạnh của vấn đề này. Khi nghiên cứu về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, tác giả đã tìm đọc, tham khảo rất nhiều tài liệu liên quan nhưng chỉ tìm được luận văn của Ths. Ngô Thanh Sơn năm 2013 nghiên cứu chuyên sâu về quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh với đề tài “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh)”. Ngoài ra, tác giả không tìm thấy một công trình nghiên cứu chuyên sâu về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh của các nhà khoa học Việt Nam. Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh chỉ được các nhà khoa học Việt Nam bình luận ở một phần của công trình nghiên cứu chung về bộ luật hình sự như: “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 2015” của GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa; Chánh tòa hình sự Đinh Văn Quế, “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung”…. Từ những bất cập nêu trên, tác giả muốn xây dựng một công trình nghiên cứu chuyên sâu về quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự, trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu trước đây. Với đề tài “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015” đã khẳng định được tính mới và sẽ góp phần nâng cao sức mạnh, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật hình sự. 4
  11. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng mà tác giả nghiên cứu là quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Tác giả lựa chọn đề tài để nghiên cứu là “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015”. Trong giới hạn đề tài này, tác giả nghiên cứu quy định của bộ luật hình sự về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh; lịch sử hình thành, quy định của các quốc gia về biện pháp bắt buộc chữa bệnh; thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh từ năm 2014 đến 2018; quy định Bộ luật tố tụng hình sự về biện pháp bắt buộc chữa bệnh; các giải pháp hoàn thiện quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Thứ nhất, phương pháp so sánh: Trong quá trình nghiên cứu quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, tác giả sẽ sử dụng biện pháp so sánh thông qua việc trình bày các chế tài hình sự qua từng thời kỳ cũng như các quy định về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh ở một số quốc gia. Thứ hai, phương pháp phân tích, tổng hợp: Để làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh và quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, tác giả sẽ sử dụng phương pháp phân tích. Sau đó, tác giả dùng phương pháp tổng hợp để làm cho những vấn đề được trình bày trở nên rõ ràng và có căn cứ. 5
  12. 6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn Hiện nay, việc nghiên cứu về chế định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh ở nước ta còn hạn chế, các tài liệu nghiên cứu về vấn đề này của các nhà khoa học Việt Nam không nhiều và phần lớn chỉ đề cập đến một khía cạnh nhất định chưa thể hiện được đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề này. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015” để làm rõ những vấn đề có liên quan thông qua lý luận và thực tiễn để phát huy những điểm mới, điểm tiến bộ cũng như chỉ ra những hạn chế, bất cập, nguyên nhân để từ đó có thể đưa ra các kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015. Bên cạnh đó, luận văn có thể làm tài liệu sử dụng cho việc nghiên cứu của những sinh viên, học viên, những người nghiên cứu về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. 7. Bố cục của luận văn Tác giả sẽ bố cục luận văn thành ba phần, bao gồm: Lời nói đầu, phần nội dung gồm hai chương và phần kết luận. Cụ thể như sau: Mở đầu Chương 1: Những vấn đề chung về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh trong luật hình sự Việt Nam Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự 1999 và Bộ luật hình sự 2015 về bắt buộc chữa bệnh và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam từ năm 2014 đến 2018 Kết luận 6
  13. Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BIỆN PHÁP TƢ PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm và ý nghĩa biện pháp tƣ pháp bắt buộc chữa bệnh 1.1.1. Khái niệm biện pháp bắt buộc chữa bệnh Hình phạt không phải là công cụ duy nhất để trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội, phòng ngừa đấu tranh chống tội phạm. Trên thực tế, nhiều trường hợp nếu cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng hình phạt một cách máy móc thì sẽ không đạt được các mục đích nêu trên. Ngoài hình phạt thì trong một số trường hợp Bộ luật hình sự còn quy định việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người phạm tội. Biện pháp tư pháp có thể được áp dụng chung với hình phạt để xử lý tội phạm nhưng cũng có thể được áp dụng riêng cho từng trường hợp cụ thể. Trong các biện pháp tư pháp được quy định trong Bộ luật hình sự thì biện pháp bắt buộc chữa bệnh giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống biện pháp cưỡng chế hình sự, nhằm mục đích chính là phòng ngừa khả năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội của người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần. Như vậy, biện pháp tư pháp nói chung và biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh nói riêng được quy định trong Bộ luật hình sự đã cho thấy chính sách của nhà nước ta trong việc xử lý tội phạm là áp dụng nhiều biện pháp, cách thức khác nhau để đạt được mục tiêu chung vì sự ổn định, trật tự, an toàn xã hội, không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người phạm tội mà đưa họ vào cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Bên cạnh đó, việc quy định biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh còn thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước ta đối với 7
  14. người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần. Bản thân họ có thể do bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi dẫn đến thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà nếu ở trong tình trạng tỉnh táo họ có thể không mong muốn thực hiện tội pham đó và quy định cũng đảm bảo cho mỗi công dân được chăm sóc về y tế, được chữa trị khi bị bệnh. Biện pháp bắt buộc chữa bệnh là biện pháp đặc biệt trong các biện pháp cưỡng chế về hình sự. Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh không phải là biện pháp nhằm giáo dục, cải tạo người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà là biện pháp mang tính chất cưỡng chế nhằm điều trị, chăm sóc phục hồi sức khỏe cho người bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Sau khi khỏi bệnh, người bị áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh sẽ có thể tiếp tục bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của mình hoặc phải tiếp tục chấp hành hình phạt tù theo bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, thi hành biện pháp bắt buộc chữa bệnh phải tuân thủ theo nguyên tắc bảo đảm việc điều trị, chăm sóc, phục hồi sức khỏe cho người bị áp dụng biện pháp tư pháp và ngăn ngừa họ tiếp tục thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là biện pháp cưỡng chế về hình sự được quy định để phòng ngừa khả năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội. Mặc dù là một quy định rất quan trọng, đã trải qua ba lần pháp điển hóa nhưng đến thời điểm này Bộ luật hình sự năm 2015 vẫn không đưa ra khái niệm như thế nào là biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. Chính vì vậy trong khoa học luật hình sự hiện nay còn tồn tại rất nhiều quan điểm khác nhau của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu về khái niệm biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. Chẳng hạn như: 8
  15. Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa và PSG.TS Lê Thị Sơn: “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là buộc người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hay đang chấp hành hình phạt và đang mắc bệnh tới mức mất năng lực trách nhiệm hình sự do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác phải vào cơ sở điều trị chuyên khoa để chữa bệnh” [19, tr.12]. Theo tác giả Nguyễn Thị Ánh Hồng: “Biện pháp bắt buộc chữa bệnh là biện pháp buộc người bị mắc bệnh tâm thần đến mức làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi phải vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh, hoặc nếu không cần thiết phải đưa vào một cơ sở điều trị chuyên khoa thì có thể giao cho gia đình hoặc người giám hộ trông nom dưới sự giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp này là Viện kiểm sát hoặc Tòa án tùy vào giai đoạn tố tụng, trên cơ sở căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y” [20, tr.28]. Theo tác giả Đinh Văn Quế - Nguyên Chánh Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao: “Bắt buộc chữa bệnh là một biện pháp bắt buộc người phạm tội phải chữa bệnh trong một cơ sở chuyên khoa y tế do cơ quan tiến hành tố tụng quyết định tùy theo giai đoạn tố tụng”[28, tr.221]. Còn theo TS. Hoàng Văn Hùng: “Biện pháp bắt buộc chữa bệnh là biện pháp tư pháp được Bộ luật hình sự quy định, do Tòa án hoặc Viện kiểm sát áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”[32,tr.261]. Trên đây là một số quan điểm của các nhà khoa học Việt Nam về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. Tuy nhiên, nhìn chung các quan điểm mà các nhà khoa học đưa ra chỉ ở một phạm vi nhất định chưa thể hiện được hết nội hàm của biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. Điều này thể hiện ở chỗ quy định của pháp luật về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh không chỉ được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi 9
  16. mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần mà còn được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự nhưng trước khi bị kết án đã mắc bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hoặc được áp dụng đối với người đang chấp hành hình phạt tù mà bị bệnh tới mức mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Điều này có nghĩa là biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh được áp dụng đối với người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi trong hoặc sau khi người này thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc khi đang chấp hành hình phạt tù. Trên cơ sở kết luận giám định của Hội đồng giám định pháp y, pháp y tâm thần, Viện kiểm sát hoặc Tòa án áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ. Tùy vào từng giai đoạn giải quyết vụ án (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử) hoặc giai đoạn thi hành án mà thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thuộc về Viện kiểm sát hoặc Tòa án. Khi có quyết định áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thì người mất năng lực trách nhiệm hình sự sẽ được đưa vào cơ sở điều trị chuyên khoa để thực hiện bắt buộc chữa bệnh. Chính vì lẽ đó, việc xây dựng, đưa ra một khái niệm pháp lý mang tính chung nhất về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là cần thiết. Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu, các quan điểm, lý luận của các nhà khoa học và quy định tại Điều 49 Bộ luật hình sự năm 2015, tác giả của luận văn xin được đưa ra khái niệm biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh như sau: “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là biện pháp cưỡng chế về hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự, tùy vào từng giai đoạn giải quyết vụ án hoặc giai đoạn thi hành án, trên cơ sở kết luận giám định pháp y, pháp y tâm thần mà Tòa án hoặc Viện kiểm sát áp dụng đối với người trong hoặc sau khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng trước khi kết án hoặc đang 10
  17. chấp hành hình phạt tù mà mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình vào cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh, nhằm phòng ngừa khả năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội”. 1.1.2. Ý nghĩa biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh Với ý nghĩa là một trong biện pháp cưỡng chế về hình sự, biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh giữ một vị trí rất quan trọng trong việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Quy định “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh” được tác giả nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ thông qua việc làm rõ khái niệm về biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, các điều kiện, cũng như mục đích áp dụng biện pháp này. Bên cạnh đó, tác giả còn nghiên cứu các giai đoạn áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh, thực tế áp dụng để đưa ra những đánh giá về tính hiệu quả của việc áp dụng biện pháp này. Do đó, việc nghiên cứu “Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh” có ý nghĩa rất lớn trong quá trình phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm hiện nay. Cụ thể: Thứ nhất, Biện pháp bắt buộc chữa bệnh hạn chế quyền tự do của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc người phạm tội. Biện pháp bắt buộc chữa bệnh là biện pháp cưỡng chế về hình sự. Cưỡng chế được hiểu là việc sử dụng quyền lực Nhà nước buộc phải tuân thủ. Vì là biện pháp cưỡng chế về hình sự cho nên biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh cũng mang những nội dung cưỡng chế nhất định. Tuy nhiên, nếu hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất thì tính cưỡng chế ở biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh ít nghiêm khắc hơn. Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ người bị kết án có thể bị hạn chế hoặc tước bỏ quyền tự do, quyền tài sản, về chính trị thậm chí cả quyền sống [32, tr.227]. Bên cạnh đó, hình phạt cũng để lại hậu quả pháp lý là án tích cho người bị kết án 11
  18. trong thời hạn nhất định theo quy định của pháp luât [32, tr.227]. Tính cưỡng chế của biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thể hiện ở việc người bị bệnh bị hạn chế quyền tự do đi lại mà phải thực hiện việc chữa bệnh mà không phụ thuộc vào mong muốn của họ cũng như người thân thích khi có quyết định của Tòa án hoặc Viện kiểm sát. Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thì tính cưỡng chế không những nhằm mục đích phòng ngừa khả năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội mà còn đảm bảo cho mỗi công dân được chăm sóc về y tế, được chữa trị khi bị bệnh. Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh được áp dụng nhằm thay thế, hỗ trợ hình phạt theo những căn cứ, điều kiện mà pháp luật quy định. So với hình phạt, tính cưỡng chế trong biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh ít nghiêm khắc hơn, nhưng là một trong những biện pháp làm hạn chế quyền tự do của con người cho nên để tránh sự tùy tiện trong việc áp dụng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Bộ luật hình sự quy định thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thuộc về Viện kiểm sát nhân dân hoặc Tòa án nhân dân tùy vào từng giai đoạn tố tụng giải quyết vụ án và giai đoạn thi hành án hình sự. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 102 Hiến pháp 2013: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Đây là cơ quan duy nhất có quyền nhân danh Nhà nước tuyên một người có tội hay không có tội và quyết định hoặc không quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế về hình sự đối với họ. Ngoài Tòa án thì Viện kiểm sát cũng có thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 107 Hiến pháp 2013: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Theo quy định tại Khoản 1, Điều 49 Bộ luật hình sự năm 2015 thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh tâm thần, 12
  19. một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì Viện kiểm sát hoặc Tòa án căn cứ vào kết luận giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở điều trị chuyên khoa để bắt buộc chữa bệnh. Như vậy, quy định này cho thấy trong giai đoạn điều tra, truy tố mà Viện kiểm sát biết được người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì Viện kiểm sát có quyền áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ. Còn trong giai đoạn xét xử hoặc thi hành án thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thuộc về Tòa án. Nói tóm lại, tùy vào từng giai đoạn giải quyết vụ án hoặc thi hành án mà thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh thuộc về Tòa án hoặc Viện kiểm sát. Ngoài hai cơ quan này ra thì không có một cơ quan Nhà nước nào khác có quyền quyết định áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh. Thứ hai, biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh là một trong cơ sở để xác định lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội Biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh được áp dụng đối với người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Điều này có nghĩa, đối với người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi, nhưng không thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì không áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ. Khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội do đang trong tình trạng không có khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi cho nên họ được xác định là không có lỗi đối với hành vi và hậu quả do mình gây ra cho nên hình phạt không được áp dụng đối với họ mà áp dụng biện pháp tư pháp 13
  20. bắt buộc chữa bệnh mặc dù trong trường hợp tương tự nếu người bình thường thực hiện hành vi gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội thì phải chịu hình phạt. Phạm vi áp dụng biện pháp tư pháp rộng hơn hình phạt. Nếu hình phạt chỉ áp dụng đối với người có hành vi phạm tội thì biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh được áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Tức là biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh được áp dụng đối với người phạm tội, là người đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình và áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng hành vi đó không đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Mặt khác, cũng có những trường hợp người bị bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi nhưng tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội họ không bị bệnh mà chỉ trước hoặc sau khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì họ bị bệnh. Đối với những trường hợp này, thì nếu vẫn tiến hành xét xử và tuyên hình phạt đối với họ sẽ trái với nguyên tắc nhân đạo đã được thừa nhận trong luật hình sự Việt Nam, cũng như không đạt được mục đích của hình phạt. Như vậy, việc áp dụng biện pháp tư pháp bắt buộc chữa bệnh đối với họ nhằm phòng ngừa khả năng gây thiệt hại cho trật tự, an toàn xã hội là phù hợp. Khi họ đã khỏi bệnh thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ theo quy định của pháp luật. Khi áp dụng biện pháp này thì Tòa án hoặc Viện kiểm sát phải căn cứ vào kết luận pháp y, pháp y tâm thần. Quy định này nhằm tránh sự tùy tiện, tiêu cực trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hiện nay, pháp luật đã quy định rất chặt chẽ đối với công tác giám định pháp y, pháp y tâm thần đảm bảo xác định chính xác tình trạng bệnh của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Theo Thông tư 18/2015/TT-BYT ngày 14/07/2015 ban hành quy trình giám định pháp y tâm thần và biểu mẫu sử dụng trong giám định pháp y 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2