Luận văn Thạc sĩ Luật học: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dung trên địa bàn tỉnh Hà Giang)
lượt xem 6
download
Đề tài có cấu trúc gồm 3 chương trình bày những vấn đề chung về các căn cứ quyết định hình phạt theo Luật hình sự Việt Nam; quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự một số nƣớc trên thế giới về các căn cứ quyết định hình phạt; thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang và những kiến nghị.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dung trên địa bàn tỉnh Hà Giang)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG VĂN TIẾN C·N Cø QUYÕT ®ÞNH H×NH PH¹T THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Vµ THùC TIÔN ¸P DôNG TR£N ®ÞA BµN TØNH Hµ GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT HOÀNG VĂN TIẾN C·N Cø QUYÕT ®ÞNH H×NH PH¹T THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Vµ THùC TIÔN ¸P DôNG TR£N ®ÞA BµN TØNH Hµ GIANG Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT HÀ NỘI - 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Hoàng Văn Tiến
- MỤC LỤC Trang - Trang phụ bìa - Lời cam đoan - Mục lục - Danh mục các bảng MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM .............................9 1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ CÁC NGUYÊN TẮC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................9 1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt ....................................................................9 1.1.2. Ý nghĩa của quyết định hình phạt................................................................16 1.1.3. Các nguyên tắc quyết định hình phạt ..........................................................18 1.2. KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA CỦA CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...............................24 1.2.1. Khái niệm các căn cứ quyết định hình phạt ................................................24 1.2.2. Ý nghĩa của các căn cứ quyết định hình phạt ..............................................27 1.3. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA QUY ĐỊNH VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN KHI BAN HÀNH BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 ............................................................................................29 1.3.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến pháp điển hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 ....................................29 1.3.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ........................32 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ...................................................35 2.1. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ...............................................................35 2.1.1. Các quy định của Bộ luật hình sự ...............................................................35
- 2.1.2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội................................................41 2.1.3. Nhân thân ngƣời phạm tội ...........................................................................45 2.1.4. Khi quyết định hình phạt phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ..............................................................................................48 2.1.5. Khi quyết định hình phạt tòa án căn cứ vào các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự .....................................................................................54 2.2. QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ....................59 2.2.1. Bộ luật hình sự Nhật Bản ............................................................................59 2.2.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp ...................................................................61 2.2.3. Bộ luật hình sự Liên bang Nga....................................................................62 2.2.4. Bộ luật hình sự Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa .........................................63 2.2.5. Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức ...................................................64 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ.....65 3.1. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG ..............................................65 3.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế, xã hội của địa bàn tỉnh Hà Giang ...................65 3.1.2. Tình hình quyết định hình phạt và việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang ..........................................................66 3.1.3. Một số tồn tại, hạn chế của việc áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà giang và những nguyên nhân cơ bản ..................71 3.2. TIẾP TỤC HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT VÀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ......................................................................81 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ KHÁC NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CỦA VIỆC ÁP DỤNG CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ...............89 3.3.1. Kiện toàn đội ngũ cán bộ xét xử .................................................................89 3.3.2. Các giải pháp phối hợp khác .......................................................................93 KẾT LUẬN ..............................................................................................................95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................97
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng Tên bảng Trang Bảng 3.1: Tổng số ngƣời bị kết án tại TAND cấp tỉnh Hà Giang từ 2010 - 2014 68 Bảng 3.2: Tổng số ngƣời bị kết án tại Tòa án nhân dân cấp huyện ở Hà Giang từ 2010 - 2014 68 Bảng 3.3: Tổng hợp các hình phạt đƣợc áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ 2010 - 2014 69 Bảng 3.4: Bảng tổng hợp nhân thân ngƣời phạm tội qua việc xét xử của TAND tỉnh Hà Giang từ 2010 - 2014 70
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tính nguy hiểm cho xã hội là lý do khiến cho tội phạm phải bị trừng phạt. Tội phạm luôn có tính nguy hiểm cho xã hội, bởi vì “tội phạm luôn chứa đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền, tự do và các lợi ích hợp pháp của con người” [43, tr. 63]. Tuy vậy, mặc dù tất cả tội phạm đều có tính nguy hiểm cho xã hội nhƣng mức độ nguy hiểm của các hành vi phạm tội là khác nhau, do đó cần có biện pháp xử lý chính xác, phù hợp và công bằng. Trên cơ sở đó, với tƣ cách là một trong những công cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống tội phạm, Bộ luật hình sự Viê ̣t Nam đã quy định về tội phạm và hình phạt với mục đích - “bảo vệ các quyền và tự do của con người với tư cách là những giá trị cao quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm của công dân khác” [6, tr. 672]. Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn cơ bản, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Giai đoạn này chiếm vị trí đặc biệt trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự. Điều đó thể hiện trƣớc hết ở chỗ Tòa án mới có quyền áp dụng và quyết định hình phạt. Hiến pháp nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: 1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp. 2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định. 3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân [29]. Tƣơng tự, Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân: 1
- 1. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bằng hoạt động của mình, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác... [31, Điều 2]. Bên cạnh đó, Điều 26 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Tòa án quyết định” [30, Điều 26]. Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc về hình sự đƣợc Nhà nƣớc giao cho Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nƣớc quyết định áp dụng với ngƣời phạm tội, không một cơ quan nhà nƣớc nào khác ngoài Tòa án có quyền áp dụng hình phạt. Tòa án lựa chọn loại hình phạt phù hợp với mức hình phạt cụ thể đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự để áp dụng cho ngƣời phạm tội. Do đó: Tòa án “vốn là một cơ quan trong hoạt động của mình thể hiện những nguyên tắc pháp luật sâu xa đƣợc quyền đánh giá các quyền chủ thể của con ngƣời, phán quyết ở cấp cuối cùng và phán quyết theo cách là các quyết định của nó dù chỉ liên quan đến một vụ việc cụ thể, nhƣng nó có sức mạnh bắt buộc nhƣ chính là sức mạnh của bản thân pháp luật [48, tr. 145]. Hay nói cách khác, để nâng cao vai trò của pháp luật, "một nguyên tắc khác của ý tƣởng chế độ pháp trị là phải bảo đảm sự bảo vệ của pháp luật, mọi công dân phải đƣợc phép yêu cầu thực hiện các quyền của mình tại Tòa án” [19, tr. 50]. Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử. Quyết định hình phạt đúng pháp luật, công bằng là tiền đề cho việc đạt đƣợc các mục đích của hình phạt: cải tạo và giáo dục ngƣời bị kết án trở thành ngƣời có ích 2
- cho xã hội, phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung (Điều 27 Bộ luật hình sự năm 1999). Ngƣợc lại, quyết định một hình phạt không đúng pháp luật, không công bằng và không hợp lý thì không thể có khả năng đạt đƣợc các mục đích đó. Do đó, việc áp dụng hình phạt đối với ngƣời phạm tội có đạt đƣợc mục đích hay không, hiệu quả của hình phạt đạt đƣợc ở mức độ cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào việc quyết định hình phạt. Nếu Tòa án coi nhẹ mặt giáo dục, cải tạo, xem hình phạt nhƣ là phƣơng tiện chủ yếu để trừng trị ngƣời phạm tội thì sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt quá nặng. Trong trƣờng hợp này, ngƣời phạm tội luôn luôn mang tƣ tƣởng phải chịu một hình phạt không phù hợp với hậu quả do hành vi phạm tội của mình, gây ra oán hờn và không tin tƣởng đối với các cơ quan xét xử và thi hành. Một hình phạt nhƣ vậy không thể tạo ra tiền đề và điều kiện thuận lợi cho ngƣời phạm tội đƣợc cải tạo, giáo dục để hoàn lƣơng trở thành công dân có ích cho xã hội. Còn một hình phạt quá nhẹ, không tƣơng xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm sẽ làm giảm ý nghĩa phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung, đồng thời nảy sinh ở chính ngƣời phạm tội và những ngƣời khác có thái độ coi thƣờng pháp luật; không tạo ra sự tin tƣởng, đồng tình cần thiết để giáo dục quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm [13, tr. 83-84]. Do vậy, quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn rất quan trọng, một trong những nội dung của quá trình áp dụng pháp luật hình sự do Thẩm phán và Hội thẩm tiến hành đối với ngƣời thực hiện tội phạm theo một trật tự pháp lý nhất định. Nó còn là một dạng hoạt động pháp lý tố tụng hình sự, bởi vì để quyết định hình phạt, Tòa án phải dựa vào kết quả của các giai đoạn tố tụng hình sự khác nhau nhƣ kết quả hoạt động điều tra, truy tố… và kết quả hoạt động của mình ở giai đoạn xét xử để xác định một loại và một mức hình phạt cụ thể tối ƣu nhất trong việc cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Loại và mức hình phạt đƣợc quyết định áp dụng đối với bị cáo phải đƣợc thể hiện trong bản án buộc tội theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và đƣợc công bố một cách công khai khi tuyên án. Hình phạt do Tòa án quyết định tùy thuộc vào các tình tiết cụ thể của vụ án 3
- có thể là nghiêm khắc, ít nghiêm khắc hoặc nhẹ nhƣng trong mọi trƣờng hợp bao giờ cũng phải bảo đảm đúng pháp luật, công bằng và cá thể hóa. Điều đó có nghĩa, để bảo đảm sự tƣơng xứng khi quyết định hình phạt phải cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, cân nhắc nhân thân ngƣời phạm tội, cân nhắc các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ngoài ra, hình phạt đƣợc quyết định đối với bị cáo phải bảo đảm tính xác định, tính lập luận và bắt buộc có lý do. Các căn cứ quyết định hình phạt đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm tính pháp chế, công bằng và nhân đạo của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó, việc áp dụng chƣa đúng, chƣa chính xác các căn cứ quyết định hình phạt vẫn còn xảy ra, dẫn đến việc áp dụng mức và loại hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ, chƣa bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng nhƣ hiệu quả của hình phạt. Bên cạnh đó, trên phƣơng diện lý luận, các căn cứ quyết định hình phạt vẫn chƣa đƣợc đề cập sâu sắc và riêng rẽ. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu sắc hơn nữa để làm sáng tỏ về mặt khoa học những vấn đề lý luận cơ bản nhƣ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nguyên tắc và nội dung các căn cứ quyết định hình phạt và thực tiễn áp dụng áp dụng các quy định pháp luật về vấn đề này để đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lƣợng quyết định hình phạt không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết phục vụ yêu cầu cải cách tƣ pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 “Về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020” và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Đây chính là lý do luận chứng cho việc học viên công tác tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang quyết định lựa chọn đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình với tên gọi: “Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dung trên địa bàn tỉnh Hà Giang)”. 2. Tình hình nghiên cứu Nhƣ đã nêu trên, trong khoa học luật hình sự, quyết định hình phạt đã đƣợc đề 4
- cập nhiều, nhƣng các căn cứ quyết định hình phạt còn ít đƣợc quan tâm nghiên cứu. Vấn đề chủ yếu đƣợc đề cập đến bởi các nghiên cứu chung về quyết định hình phạt mà thôi, trong đó phải kể đến các công trình ở những cấp độ khác nhau dƣới đây: * Ở cấp độ sách tham khảo, chuyên khảo ở nƣớc ngoài: 1) C.L.Ten, Tội phạm, lỗi và hình phạt, Oxford at the Clarendon Press, 1987; 2) P.J.Fizgerald, Luật hình sự và hình phạt, Oxford at the Clarendon Press, 1992; 3) Doman J. Newman, Giới thiệu về Luật hình sự, McGraw-Hill, INC, 1993; 4) Larry K. Gaines and Roger LeRoy Miller, Luật hình sự: Những vấn đề cơ bản trọng tâm, Wadsworth Publishing, USA, 2006; v.v... * Ở cấp độ giáo trình, sách tham khảo, chuyên khảo, đề tài trong nƣớc: 1) Đề tài nghiên cứu cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: “Bảo vệ quyền con người bằng các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” do GS. TSKH. Lê Văn Cảm, PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí, PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (đồng chủ trì), Hà Nội, 2004; 2) PGS. TS. Trịnh Quốc Toản, Chương XVI - Quyết định hình phạt, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản 2007, GS.TSKH. Lê Văn Cảm chủ biên; 3) PGS. TS. Lê Văn Đệ, Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2005; 4) PGS.TS. Dƣơng Tuyết Miên, Định tội danh và quyết định hình phạt, Nxb. Lao động Xã hội, Hà Nội, 2007; 5) ThS. Đinh Văn Quế, Tìm hiểu hình phạt và quyết định hình phạt trong Bộ luật hình sự năm 1999, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000; v.v… * Ở cấp độ luận án, luận văn thạc sĩ luật học trong nƣớc: 1) Dƣơng Tuyết Miên, Quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 2004; 2) Nguyễn Thị Bình, Quyết định hình phạt trong đồng phạm, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; 3) Đào Thị Nga, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, 1997; 4) Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Luận văn thạc 5
- sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006; 5) Trịnh Thị Yến, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm nhiều tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014; v.v... * Còn về các công trình dƣới dạng bài viết đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý có thể kể đến các công trình sau: 1) GS.TSKH. Lê Cảm, Về bản chất pháp lý của quy phạm nguyên tắc quyết định hình phạt quy định tại Điều 37 Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 1/1989; 2) TS. Trần Văn Dũng, Quyết định hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 5/2000; 3) PGS. TS. Dƣơng Tuyết Miên, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Luật học, số 4/2002; 4) ThS. Đinh Văn Quế, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6/2007; v.v... Nhƣ vậy, nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên mới chỉ đề cập đến quyết định hình phạt trong trƣờng hợp phạm tội cụ thể hoặc những vấn đề chung, mà chƣa có công trình nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống nào về vấn đề lý luận cơ bản đồng thời đánh giá toàn diện quy định Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về các căn cứ quyết định hình phạt và thực tiễn áp dụng quy định đó trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Hà Giang để làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lƣợng, hiệu quả quyết định hình phạt. Nói một cách khác, các vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc áp dụng căn cứ quyết định hình phạt đòi hỏi phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện và chuyên sâu hơn. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn có đối tƣợng nghiên cứu là: Căn cứ quyết định hình phạt theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trên cơ sở đối tƣợng nghiên cứu trên, luận văn có phạm vi nghiên cứu nhƣ sau: - Phân tích khái niệm, nội dung, các nguyên tắc quyết định hình phạt, từ đó, chỉ ra xây dựng khái niệm (các) căn cứ quyết định hình phạt (lƣu ý, căn cứ quyết 6
- định hình phạt đƣợc học viên sử dụng ở đây là theo nghĩa rộng và đúng theo tên gọi trong Bộ luật hình sự và nội dung bao gồm cả bốn căn cứ quyết định hình phạt); - Hệ thống hóa quy định về các căn cứ quyết định hình phạt trong lịch sử từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay, trong đó phân tích quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về vấn đề này để rút ra nhận xét; - Nghiên cứu, so sánh quy định của Bộ luật hình sự một số nƣớc trên thế giới về các căn cứ quyết định hình phạt để rút ra đánh giá; - Đánh giá thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang, từ đó chỉ ra một số tồn tại, hạn chế và các nguyên nhân cơ bản; - Luận chứng và đƣa ra những kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về quyết định hình phạt và các căn cứ quyết định hình phạt và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả và chất lƣợng của việc quyết định hình phạt. 4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu của luận văn Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác-xít, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tƣ pháp đƣợc thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng XI, XII và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị. Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phƣơng pháp đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề tƣơng ứng đƣợc nghiên cứu trong luận văn. 5. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn và điểm mới về khoa học của luận văn Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ tác giả đã làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và các căn cứ, những nguyên tắc của quyết định hình phạt; phân tích, đánh giá nội dung quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện 7
- hành về các căn cứ quyết định hình phạt, đồng thời đƣa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định này ở khía cạnh lập pháp hình sự và một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng từ khía cạnh thực tiễn. Bên cạnh đó, về điểm mới về khoa học của luận văn ở một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng, đây là nghiên cứu chuyên khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ đề cập riêng đến các căn cứ quyết định hình phạt trong luật hình sự Việt Nam. Điều đó càng trở nên quan trọng hơn vì đây là một trƣờng hợp phức tạp của các căn cứu quyết định hình phạt đòi hỏi phải có nhận thức thống nhất phục vụ cho thực tiễn xét xử, tránh vi phạm trong việc áp dụng. Đặc biệt, nó còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng dạy, nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành Tƣ pháp hình sự. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Đặt vấn đề, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 3 chƣơng nhƣ sau: Chương 1: Những vấn đề chung về các căn cứ quyết định hình phạt theo Luật hình sự Việt Nam. Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự một số nƣớc trên thế giới về các căn cứ quyết định hình phạt. Chương 3: Thực tiễn áp dụng các căn cứ quyết định hình phạt trên địa bàn tỉnh Hà Giang và những kiến nghị. 8
- Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC CĂN CỨ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ CÁC NGUYÊN TẮC QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm quyết định hình phạt Pháp luật là đại lƣợng công bằng áp dụng cho những trƣờng hợp khác nhau. Do đó, pháp luật hình sự quy định những phạm vi chung đối với những ngƣời không giống nhau trong thực tế. Ttrong phạm vi đó, làm thế nào để đƣa ra một quyết định công bằng, hợp lý là nhiệm vụ rất quan trọng và đầy trách nhiệm của những cơ quan và ngƣời áp dụng pháp luật hình sự. Ở đây, việc áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự đã đƣợc ban hành liên quan chặt chẽ với việc áp dụng có căn cứ và đúng đắn các đòi hỏi của các quy phạm pháp luật hình sự với việc tuân thủ chính xác và nhất quán các quy định của pháp luật với việc xác định chân lý khách quan của vụ án hình sự. Lần đầu tiên, khái niệm hình phạt đƣợc quy định trong Điều 26 Bộ luật hình sự năm 1999, đây là một điểm mới so với Bộ luật hình sự năm 1985. Việc quy định này không những bảo đảm nhận thức thống nhất về hình phạt trong khoa học, mà còn có nhiều mục đích khác nhƣ: giáo dục, cải tạo ngƣời phạm tội, bảo đảm tính răn đe và nghiêm minh của pháp luật hình sự, cũng nhƣ yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Bởi lẽ, đề cập tội phạm chúng ta không thể không nhắc đến hình phạt. Tội phạm và hình phạt là hai nội dung cơ bản trong luật hình sự của mọi quốc gia. Tội phạm và hình phạt luôn luôn đi liền với nhau, có nghĩa là giữa tội phạm và hình phạt luôn luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và không tách rời nhau... [18, tr. 93]. Về nguyên tắc, khi đã thực hiện tội phạm thì phải chịu trách nhiệm hình sự và thông thƣờng phải chịu hình phạt và ngƣợc lại hình phạt không thể đƣợc áp dụng khi không có tội phạm xảy ra và cũng không áp dụng đối với ai khác ngoài ngƣời đã phạm tội. Do đó, đúng nhƣ PGS.TS. Trịnh Quốc Toản đã nhận định: 9
- Chừng nào, Nhà nƣớc còn cần đến luật hình sự và hình phạt, thì hình phạt chỉ đƣợc áp dụng và chỉ cho phép đƣợc áp dụng với tính chất là sự phản ứng Nhà nƣớc và xã hội đối với tội phạm; nó là sự phủ định công khai, quyết liệt của Nhà nƣớc, là sự thể hiện không thể dung thứ của Nhà nƣớc và xã hội đối với các hành vi phạm tội... [35, tr. 37]. Hình phạt là biện pháp cƣỡng chế nhà nƣớc nghiêm khắc nhất đƣợc áp dụng theo trình tự riêng biệt cho ngƣời phạm tội, bảo đảm cho luật hình sự thực hiện đƣợc mục đích của mình. Hình phạt với tƣ cách là sự hạn chế, tƣớc bỏ những quyền, lợi ích quan trọng nhất của ngƣời phạm tội có những tác động nhất định đến bản thân ngƣời phạm tội cũng nhƣ tác động đến xã hội theo những hƣớng khác nhau tuỳ thuộc vào việc hình phạt đó đƣợc quyết định thế nào. Luật hình sự đòi hỏi những tác động đó của hình phạt phải đạt đƣợc những kết quả trực tiếp hay nói cách khác là đạt đƣợc mục đích của hình phạt. Về mặt lập pháp, Bộ luật hình sự hiện hành không quy định cụ thể quyết định hình phạt là gì ? Dƣới góc độ lý luận, quyết định hình phạt là một khái niệm hiện nay có nhiều quan điểm không giống nhau. ThS. Đinh Văn Quế đƣa ra định nghĩa mang tính khái quát về quyết định hình phạt nhƣ sau "Quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn hình phạt buộc người bị kết án phải chấp hành. Tòa án lựa chọn loại hình phạt nào, mức hình phạt bao nhiêu, phải tuân theo những quy định của Bộ luật hình sự" [27, tr. 3]. Định nghĩa này đã chỉ ra nội dung quan trọng của quyết định hình phạt là một hoạt động của Toà án đồng thời đó là việc toà án lựa chọn hình phạt đồng thời chỉ ra căn cứ pháp lý của quyết định hình phạt đó chính là các quy định của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, định nghĩa này cho thấy chƣa bao quát đƣợc hết hoạt động quyết định hình phạt. Bởi lẽ, quyết định hình phạt là một hoạt động khá phức tạp bao gồm nhiều thao tác ngoài việc lựa chọn loại hình phạt còn xác định mức hình phạt.Bên cạnh đó, tác giả cho rằng hình phạt áp dụng với “người bị kết án” là chƣa chính xác. Bởi ngƣời bị kết là ngƣời đã có bản án kết tội của Tòa án. Trong khi đó, PGS.TS. Lê Văn Đệ thì cho rằng: "Quyết định hình phạt là sự 10
- lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể" [9, tr. 161]. Định nghĩa này đã chỉ ra cụ thể hai thao tác quan trọng khi quyết định hình phạt là xác định loại hình phạt và xác định mức hình phạt đồng thời chỉ ra tính chất pháp lý của của hoạt động quyết định hình phạt, đối tƣợng bị áp dụng hình phạt là ngƣời phạm tội cụ thể. Tuy nhiên, ở đây chƣa cho thấy chủ thể thực hiện hoạt động áp dụng hình phạt là toà án Cũng có quan điểm tiếp cận khái niệm quyết định hình phạt còn đƣợc tiếp cận dƣới góc độ của luật tố tụng hình sự. Theo đó: Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Bộ luật hình sự, là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể đƣợc quy định trong luật hình sự tƣơng ứng với cấu thành tội phạm cụ thể để áp dụng với ngƣời phạm tội, thể hiện trong bản án buộc tội [40, tr. 73]. Trong định nghĩa này coi quyết định hình phạt là một giai đoạn trong hoạt động xét xử là chƣa chính xác. Bởi lẽ nói đến giai đoạn trong tố tụng cũng nhƣ trong quá trình xét xử của toà án là nói đến một bƣớc (một khoảng thời gian) độc lập để chủ thể thực hiện hoạt động tố tụng. Tuy nhiên, trƣớc khi lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể toà án còn phải dựa vào các căn cứ nhƣ tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân bị cáo… Những hoạt động này đƣợc thực hiện xuyên suốt quá trình xét xử chứ không phải là một giai đoạn độc lập. Định nghĩa này chỉ ra hình thức của việc quyết định hình phạt đó chính là bản án của Tòa án. Tuy nhiên, trong tố tụng hình sự thì chỉ có bản án kết tội chứ không có bản án buộc tội nếu hiểu theo đúng nghĩa của hoạt động buộc tội trong mối quan hệ với hoạt động gỡ tội, xét xử thì nó thuộc về bên buộc tội thể hiện bằng cáo trạng của Viện kiểm sát. Ngoài ra, trong Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội thì "quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và có thể cả hình phạt bổ sung) với mức độ cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội" [20, tr. 317]. Bên cạnh đó, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà 11
- Nội thì định nghĩa: "Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể" [36, tr. 211]; v.v... Do đó, để làm sáng tỏ một cách đầy đủ nội dung của khái niệm quyết định hình phạt, cần xác định vị trí của quyết định hình phạt trong quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự. Trong lý luận luật hình sự, việc áp dụng pháp luật hình sự là một quá trình phức tạp gồm nhiều mặt đƣợc tiến hành thông qua các giai đoạn nhất định nhƣ: giải thích quy phạm pháp luật hình sự, xác định hiệu lực của đạo luật hình sự về không gian và thời gian, định tội danh và quyết định hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự và xoá án tích. Các quy phạm pháp luật hình sự cấm việc thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội trƣớc hết bằng sự tuân thủ các quy phạm đó. Bằng cách đó, mục đích của luật hình sự đã đƣợc và nhƣ vậy, quy phạm pháp luật hình sự đƣợc thực hiện đƣợc chức năng chính, cơ bản của mình Tuy nhiên, bản chất của các quy phạm pháp luật hình sự không bị hạn chế bởi việc công bố các điều cấm nhất định. Mọi quy phạm pháp luật đều có tính chất bắt buộc và cho phép. Quy phạm pháp luật hình sự ngoài việc đƣa ra điều cấm đối với mọi ngƣời còn xác định cả quyền, nghĩa vụ của toà án trong việc áp dụng quy phạm pháp luật hình sự, tức là áp dụng hình phạt trong trƣờng hợp một ngƣời thực hiện hành vi tội phạm. Chức năng thứ hai của quy phạm pháp luật hình sự - quy định về hình phạt chỉ đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp Toà án áp dụng quy phạm pháp luật hình sự. Liên quan đến khái niệm quyết định hình phạt trong khoa học pháp lý hiện nay đang có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung của quyết định hình phạt: Đó là quyết định hình phạt đƣợc hiêu theo nghĩa nghĩa hẹp của khái niệm quyết định hình phạt, nghĩa rộng của khái niệm quyết định hình phạt. Theo đó, quyết định hình phạt còn bao gồm cả các hoạt động: xác định ngƣời phạm tội có đƣợc miễn trách nhiệm hình sự hay miễn hình phạt hay không, xác định khung hình 12
- phạt, xác định loại và mức hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt hoặc dƣới khung đó [14, tr.65 - 66]. Theo PGS.TS. Dƣơng Tuyết Miên trong sách "Định tội danh và quyết định hình phạt" thì nên coi miễn hình phạt thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt: "Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật này, đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự" [21, tr 62]. Nhƣ vậy, về nội dung pháp lý thì miễn hình phạt là không buộc ngƣời phạm tội phải chịu hình phạt tức biện pháp cƣỡng chế nghiêm khắc nhất về tội mà họ đã phạm. Miễn hình phạt phải thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt vì miễn hình phạt đƣợc thực hiện sau khi Tòa án đã xác định xong tội danh và là bƣớc đầu của quá trình xác định hình phạt. Tác giả Dƣơng Tuyết Miên cho rằng, đối với trƣờng hợp miễn trách nhiệm hình sự cũng nên coi thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt, bởi những lý do sau: Miễn trách nhiệm hình sự là không buộc ngƣời phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự về tội họ đã thực hiện. Miễn trách nhiệm hình sự đƣợc thực hiện sau khi Tòa án đã xác định xong tội danh cho bị cáo nên không thể thuộc giai đoạn định tội danh. Trên cơ sở định tội danh bị cáo đã phạm, Tòa án sẽ xem xét, nếu thấy không cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo mà vẫn đảm bảo đƣợc các yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm thì Tòa án sẽ tuyên bố miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo [21, tr. 62]. Tác giả chia sẽ với quan điểm coi miễn hình phạt là biện pháp xử lý trách nhiệm hình sự chỉ do Tòa án tiến hành trên cơ sở những căn cứ, quy định của Bộ luật hình sự. Miễn hình phạt cũng chỉ đƣợc tiến hành sau khi Tòa án đã định tội danh xong đối với bị cáo. Vì vậy, cần xác định miễn hình phạt phải thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt. Còn đối với quan điểm cho rằng miễn trách nhiệm hình sự thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt thì tác giả không đồng ý, bởi lẽ, miễn trách nhiệm hình sự là một biện pháp xử lý hình sự do nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau tiến hành, tùy từng giai đoạn tố tụng khác nhau, nhƣ: Cơ quan điều tra ở giai đoạn điều tra, 13
- Viện kiểm sát ở giai đoạn truy tố, hay Tòa án ở giai đoạn xét xử. Nhƣ vậy, ngƣời đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có đủ các điều kiện đƣợc miễn trách nhiệm hình sự thì vẫn đƣợc các cơ quan có thẩm quyền áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự để miễn trách nhiệm hình sự cho ngƣời đó. Hơn nữa, quyết định hình phạt là hoạt động của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật hình sự, do đó nếu cho rằng miễn trách nhiệm hình sự thuộc về giai đoạn quyết định hình phạt là chƣa chính xác ở cả khía cạnh nội dung lẫn khía cạnh chủ thể có thẩm quyền quyết định hình phạt. Một vấn đề nữa mà chúng ta cần làm rõ để hiểu chính xác nội hàm khái niệm quyết định hình phạt là việc xác định giai đoạn định khung hình phạt có thuộc về hoạt động quyết định hình phạt hay không? Tác giả cho rằng, cần coi giai đoạn định khung hình phạt là một trình tự của hoạt động quyết định hình phạt, thuộc về hoạt động quyết định hình phạt. Bởi vì, định khung hình phạt là việc làm đƣợc thực hiện sau khi định tội danh xong và là hoạt động đầu tiên xác định giới hạn tối thiểu và tối đa của hình phạt theo khung hình phạt đƣợc phép áp dụng, trên cơ sở giới hạn luật định, hình phạt cụ thể sẽ đƣợc quyết định. Mặt khác, việc định tội danh phải đƣợc thực hiện trên cơ sở cấu thành tội phạm cơ bản chứ không phải là các cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc giảm nhẹ. Chỉ trên cơ sở định tội danh xong các cơ quan tố tụng mới xác định khung hình phạt, trong trƣờng hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt thì Tòa án đƣơng nhiên không phải xác định khung hình phạt. Khi định khung hình phạt, Tòa án dựa vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng định khung. Vì vậy, theo tác giả nên coi định khung hình phạt thuộc về hoạt động quyết định hình phạt. Từ những sự phân tích trên, kế thừa các quan điểm khoa học, học viên cho rằng nên định nghĩa khái niệm này nhƣ sau: Quyết định hình phạt là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật của Tòa án do Hội đồng xét xử thực hiện, căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và dựa trên những nguyên tắc nhất định, được thực hiện tùy thuộc vào từng trường hợp để xác định loại và mức hình phạt cụ thể áp dụng cho người phạm tội cụ thể hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 313 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 216 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 173 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 238 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 82 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 156 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn