intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:110

27
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các quy định của luật thực định về chế độ tài sản của vợ chồng, tìm hiểu thực tiễn áp dụng luật thực định để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong hoạt động xét xử của Tòa án. Từ đó, tìm hiều những bất cập, chưa cụ thể, trên cơ sở đó có những nhận xét, kiến nghị, hướng hoan thiện pháp luật dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ DUNG CHẾ ĐỘ HÔN SẢN TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2017
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ DUNG CHẾ ĐỘ HÔN SẢN TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 60 38 01 03 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Minh Hồng HÀ NỘI - 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lê Thị Dung
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ HÔN SẢN 7 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế độ hôn sản 7 1.1.1. Khái niệm chế độ hôn sản 7 1.1.2. Đặc điểm của chế độ hôn sản 9 1.1.3. Ý nghĩa của chế độ hôn sản 10 1.2. Nội dung của chế độ hôn sản 12 1.2.1. Chế độ hôn sản theo luật định 12 1.2.2. Chế độ hôn sản theo thỏa thuận 17 1.3. Khái quát chế độ hôn sản trong hệ thống pháp luật Việt Nam qua 22 các thời kỳ 1.3.1. Chế độ hôn sản trong pháp luật thời kỳ phong kiến 22 1.3.2. Chế độ hôn sản trong pháp luật thời kỳ Pháp thuộc 23 1.3.3. Chế độ hôn sản trong pháp luật ở Miền nam giai đoạn 1954 đến 27 1975 1.3.4. Chế độ hôn sản trong pháp luật HN&GĐ của Nhà nước ta từ năm 30 1945 đến nay Chương 2: NỘI DUNG CHẾ ĐỘ HÔN SẢN THEO LUẬT 36 HN&GĐ NĂM 2014 2.1. Quy định chung bắt buộc đối với vợ chồng 36 2.1.1. Nguyên tắc tôn trọng ý chí chung của vợ chồng 36 2.1.2. Nguyên tắc chung về chế độ hôn sản 37 2.1. 3. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết 39 yếu của cuộc sống gia đình 2.1.4. Giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng 40 2.1.5. Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân 41 hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng 2.2. Chế độ hôn sản theo luật định 43 2.2.1. Quy định về tài sản chung của vợ chồng 43 2.2.2. Quy định về tài sản riêng của vợ chồng 63
  5. 2.3. Chế độ hôn sản theo thỏa thuận 73 2.3.1. Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng 74 2.3.2 Cung cấp thông tin về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận 81 trong giao dịch với người thứ ba 2.3.3 Sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ 83 chồng Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM 85 NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CỦA CHẾ ĐỘ HÔN SẢN TRONG THỰC TẾ 3.1. Thực tiễn áp dụng chế độ hôn sản ở nước ta trong thời gian qua 85 3.1.1. Những thuận lợi cơ bản trong việc áp dụng chế độ hôn sản vào thực 85 tiễn xét xử của Tòa án nhân dân 3.1.2. Một số khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng chế độ hôn sản 87 vào thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân 3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật HN&GĐ về chế độ hôn sản 92 3.2.1. Đối với các quy định về chế độ hôn sản theo luật định 93 3.2.2. Đối với các quy định về chế độ hôn sản theo thỏa thuận 97 3.3. Kiến nghị một số giải pháp về tổ chức thực hiện và áp dụng chế độ 98 hôn sản trong luật HN&GĐ năm 2014 KẾT LUẬN 100 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLDS : Bộ luật dân sự HN&GĐ : Hôn nhân và gia đình DLBK : Dân luật Bắc kỳ DLTK : Dân luật Trung kỳ DLGYNK : Dân luật giản yếu Nam kỳ LGĐ : Luật Gia đình SL : Sắc luật Nghị định số 70/2001/NĐ-CP : Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật HN&GĐ năm 2000. Nghị định số126/2014/NĐ-CP : Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết mốt số điều và biện pháp thi hành luật HN&GĐ năm 2014 TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chế độ hôn sản là một trong những nội dung quan trọng của luật HN&GĐ. Kết hôn là sự kiện làm phát sinh một gia đình mà ở đó phản ánh sự chung sống của hai vợ chồng và con cái (nếu có). Như là một tất yếu của cuộc sống chung, vợ và chồng thực hiện những quan hệ về tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình. Đây là những quan hệ xảy ra phổ biến trong xã hội và chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về hôn nhân và gia đình, trong một quy chế được gọi là chế độ hôn sản. Cùng với xu thế hội nhập và sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng chức năng kinh tế của gia đình đã có nhiều biến chuyển rõ rệt, hoạt động sản xuất phát triển mạnh để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ ngày càng cao của gia đình. Do đó, trong gia đình cả vợ và chồng đều có nhu cầu tiến hành các hoạt động kinh doanh để tạo lập tài sản và thực hiện các hoạt động kinh tế khác nhau liên quan đến tài sản với bên thứ ba. Thực tế cho thấy, hoạt động kinh doanh của vợ chồng trong xã hội ngày càng phức tạp và liên quan đến lợi ích của nhiều bên dẫn đến hậu quả là các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng với bên thứ ba liên quan đến lợi ích kinh tế cũng ngày càng nhiều về số lượng, phức tạp về tính chất và với mức độ ngày càng tăng cao. Trước thực trạng đó, việc xây dựng một cơ chế pháp lý rõ ràng, cụ thể mang tính khả thi để điều chỉnh các quan hệ về tài sản giữa vợ và chồng, giữa vợ chồng và các bên liên quan là hết sức cần thiết. Trong thời gian qua, việc thực hiện và áp dụng Luật HN&GĐ năm 2000 ở Việt nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn góp phần cũng cố, bảo vệ và phát huy chế độ hôn nhân gia đình ở nước ta. Tuy nhiên, việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng chưa rõ ràng, đầy đủ và còn nhiều hạn chế, bất cập. Các quy định về chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân còn chưa chặt chẽ, có nhiều điểm không rõ ràng đặc biệt là về hình thức của thỏa thuận chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân và hậu quả pháp lí của việc chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân. Xuất phát từ những hạn chế của Luật HN&GĐ năm 2000, việc ban hành Luật HN&GĐ năm 2014 nhằm đáp ứng đòi hỏi của việc giải quyết những vấn đề bức thiết của đời sống hôn nhân gia đình trong giai đoạn hiện nay. Luật HN&GĐ năm 2014 có nhiều sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị của đất nước và phù hợp xu thế khách quan của thế giới hiện nay. Trong số các nội dung mới được sửa đổi, bổ 1
  8. sung có nội dung đáng chú ý liên quan đến vấn đề hôn sản, đó là chế độ hôn sản theo thỏa thuận lần đầu tiên được ghi nhận trong luật, cho phép vợ chồng tự do lựa chọn áp dụng chế độ hôn sản theo thỏa thuận hoặc chế độ hôn sản luật định. Với việc lựa chọn đề tài “Chế độ hôn sản trong Luật HN&GĐ năm 2014”, tác giả luận văn muốn đi sâu tìm hiểu các quy định của Luật HN&GĐ mới về chế độ hôn sản về: lựa chọn chế độ hôn sản áp dụng; xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng; việc phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân; nội dung, hình thức của thỏa thuận về chế độ hôn sản và hậu quả pháp lý …. Đồng thời, thông qua việc tìm hiểu các vấn đề về chế độ hôn sản, tác giả sẽ phân tích, đánh giá những điểm mới, điểm hạn chế, phù hợp của các quy định từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm, tăng cường khả năng thực thi, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các cơ quan tư pháp tiến hành giải quyết các tranh chấp liên quan đến chế độ hôn sản một cách kịp thời và đúng đắn nhất. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 ra đời, trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến chế định hôn sản như: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, luận án tiến sĩ, 2005); Xác định chế độ tài sản của vợ chồng – một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nguyễn Hồng Hải, luận văn thạc sĩ, 2002); “Vấn đề thừa nhận chế độ tài sản ước định trong Luật HN&GĐ Việt Nam” (Nguyễn Hồng Hải), Tạp chí Luật học số 10 năm 1998; “Một số vấn đề về nguyên tắc xác định tài sản chung, tài sản riêng và trách nhiệm tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh”( Th.s Nguyễn Thị Lan, bài viết trong đề tài khoa học cấp trường: Tài sản của vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh - Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2008 do TS Nguyễn Phương Lan làm chủ nhiệm đề tài); Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật HN&GĐ năm 2000 (Nguyễn Văn Cừ - Ngô Thị Hường, 2002, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội); Bình luận khoa học Luật HN&GĐ Việt Nam (Nguyễn Ngọc Điện, 2002, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh; “Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong pháp luật Cộng hòa Pháp và Pháp luật Việt Nam” (Ths.Bùi Minh Hồng), Tạp chí Luật học số 11 năm 2009; … Các công trình nghiên cứu kể trên có phạm vi nghiên cứu rộng, đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về vấn đề hôn sản. Bên cạnh việc làm rõ những nội dung theo quy định của pháp luật, các công trình nghiên cứu cũng đã đề cập và giải quyết nhiều vấn đề phát sinh trong thực tế chưa được pháp luật dự liệu, là cơ sở để sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hơn nữa các quy định về hôn nhân gia đình nói chung và các quy định về hôn sản nói riêng ở nước ta hiện nay. 2
  9. Sau khi Luật HN&GĐ năm 2014 được thông qua, bên cạnh chế độ hôn sản luật định truyền thống còn ghi nhận thêm chế độ hôn sản theo thỏa thuận. Mặc dù là một nội dung mới trong quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam, nhưng chế độ hôn sản theo thỏa thuận lại không phải là vấn đề xa lạ trong tư duy của những nhà người nghiên cứu pháp luật. Đây là đề tài luôn được nhiều người quan tâm và đã có một số công trình nghiên cứu liên quan đến chế độ này như: Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam (Nguyễn Thị Kim Dung, Luận văn thạc sỹ năm 2014); Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 (Nguyễn Thị Thu Thủy, Luận văn thạc sỹ năm 2015); Xác định tài sản của vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ Việt Nam nă m 2014 (Phạm Thị Anh, Luận văn thạc sỹ năm 2015)… 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài Mục đích của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các quy định của luật thực định về chế độ tài sản của vợ chồng, tìm hiểu thực tiễn áp dụng luật thực định để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong hoạt động xét xử của Tòa án. Từ đó, tìm hiều những bất cập, chưa cụ thể, trên cơ sở đó có những nhận xét, kiến nghị, hướng hoan thiện pháp luật dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014, với mục đích trên, luận văn được thực hiện với các nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng. Với nhiệm vụ này, luận văn xây dựng một số khái niệm khoa học trong nội hàm chế độ tài sản của vợ chồng; các đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của chế độ tài sản vợ chồng đối với sự tồn tại và phát triển của gia đình và xã hội; tìm hiểu một cách có hệ thống và đầy đủ về chế độ tài sản của vợ chông trong pháp luật Việt Nam và pháp luật HN&GĐ của một số nước trên thế giới. Từ đó, khẳng định tính tất yếu và cần thiết của chế độ hôn sản được quy định trong pháp luật; - Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế độ tài sản của vợ chồng. Với nhiệm vụ này, luận văn đi sâu phân tích nội dung các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014 và những ngành luật có liên quan (Luật Dân dự, Luật Đất đai…); tìm hiểm mục đích, cơ sở của việc quy định các điều luật điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng; phân tích tính kế thừa và phát triển, cũng như những điểm mới quy định về chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2014 để có cách hiểu đúng nhất, phù hợp với khoa học pháp lý về chế độ hôn sản của 3
  10. vợ chồng và thực tiễn đời sống trong lĩnh vực HN&GĐ. Đồng thời qua việc phân tích nội dung chế độ hôn sản trong luật thực định, luận văn cũng đưa ra những điểm bất cập, chưa hợp lý, thiếu tính khoa học của các quy định đó, để làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện chế độ hôn sản theo Luật HN&GĐ năm 2014. - Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ hôn sản quan hoạt động xét xử của ngành Tòa án giải quyết các tranh chấp từ quan hệ HN&GĐ liên quan trực tiếp đến vấn đề hôn sản. Qua đó, đánh giá về những thành công và hạn chế của việc áp dụng pháp luật về chế độ hôn sản. - Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng chế độ hôn sản theo luật thực định, luận văn nêu một số kiến nghị đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung các quy định trong Luật HN&GĐ năm 2014 nhằm hoàn thiện chế độ hôn sản. Từ những nhiệm vụ trên đây, luận văn được nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi luật thực định về chế độ hôn sản. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của Triết học Mác- Leenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về HN&GĐ. Luận văn được thực hiện thông qua các phương pháp sau: - Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu chế đọ tài sản của vợ chồng qua các thời kỳ ở Việt Nam; - Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn đề liên quan đến chế độ hôn sản và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu; - Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở Việt Nam cũng như pháp luật của một số nước khác quy định về chế độ hôn sản. Qua đó, phân tích nét tương đồng và đặc thù của pháp luật Việt Nam quy định về chế độ hôn sản, phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và tập quán của gia đình truyền thống Việt Nam; - Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn hoạt động xét xử của ngành Tòa án, với các số liệu cụ thể giải quyết các tranh chấp từ quan hệ HN&GĐ liên quan đến tài sản của vợ chồng. Tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng đã phù hợp hay chưa? Các nguyên nhân? Từ đó xem xét 4
  11. nội dung quy định của pháp luật về chế độ hôn sản với thực tiễn của đời sống nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này. 5. Những điểm mới của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về chế độ hôn sản theo pháp luật Việt Nam. Ngoài những điểm mới của Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về chế độ hôn sản, với đề tài này, luận văn được trình bày với những điểm mới sau đây: - Xây dựng và phân tích khải niệm chế độ hôn sản. Từ trước đến nay trong khoa học pháp lý nói chung và Luật HN&GĐ nói riêng ở nước ta chưa có một khái niệm thống nhất về chế độ hôn sản; - Phân tích sự cần thiết pháp luật phải quy định chế độ hôn sản. Các đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của chế độ hôn sản đối với sự ổn định, phát triển của gia đình và xã hội. - So sánh chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước khác để thấy rõ nét tương đồng và đặc thù, mang bản sắc dân tọc của pháp luật Việt Nam điều chỉnh chế độ hôn sản. - Khi phân tích nội dung chế độ hôn sản theo luật thực định, luận văn chỉ rõ các căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng; đặc biệt, phải xác định thời kỳ hôn nhân là căn cứ chung để xác lập tài sản chung của vợ chồng trong các trường hợp cụ thể. - Các loại nghĩa vụ chung và nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ chồng được hiểu và áp dụng như thế nào? Bao gồm cụ thể các loại nghĩa vụ nào? - Những đặc điểm khác biệt về tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng đối với sở hữu chung theo phần. - Luận giải tại sao Luật HN&GĐ của nhà nước ta (từ năm 1945 đến nay) không quy định về chế độ tài sản ước định (dựa theo sự thỏa thuận của vợ chồng). - Phân tích chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng về điều kiện xác lập, nội dung thỏa thuận, thỏa thuận về chế định hôn sản vô hiệu, sửa đổi, bổ sung nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng. - Qua việc phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về chế độ hôn sản, luận văn chỉ rõ những vấn đề bất cập, không hợp lý, chưa bảo đảm được tính khoa học về 5
  12. những quy định của luật thực định khi điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng; từ đó nêu các kiến nghị hoàn thiện các quy định về chế độ hôn sản theo pháp luật hiện hành. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Hoàn thành luận văn này, tôi hi vọng rằng những kiến thức khoa học trong luận văn được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy luật học tại các cơ sở đào tạo luật ở nước ta; đặc biệt là đối chuyên ngành Luật HN&GĐ. Nội dung của luận văn có ý nghĩa thiết thực cho mọi các nhân, đặc biệt là các cặp vợ chồng tìm hiểu các quy định về chế độ tài sản của vợ chồng; biết được cơ sở pháp lý tạo lập các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ cụ thể của vợ, chồng đối với những loại tài sản này; các trường hợp và nguyên tắc phân chia tài sản vợ chồng… Từ đó, góp phần thực hiện pháp luật, xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hành phúc, bền vững. Những kiến nghị khoa học trong luận văn được sử dụng trong việc pháp điển hóa Luật HN&GĐ của Nhà nước ta; bởi lẽ việc sửa đổi, bổ sung những quy định của Luật HN&GĐ (trong đó có chế độ hôn sản của vợ chồng) là rất cần thiết, tạo cơ sở pháp lý vững chắc và thống nhất trong quá trình thực hiện, áp dụng chế độ hôn sản theo Luật HN&GĐ Việt Nam. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn được chia thành 3 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế độ hôn sản Chương 2: Nội dung chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của chế độ hôn sản 6
  13. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ HÔN SẢN 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chế độ hôn sản 1.1.1 Khái niệm chế độ hôn sản Gia đình là tế bào của xã hội, thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội. Trong xã hội có giai cấp Nhà nước luôn bằng pháp luật điều chỉnh các quan hệ HN&GĐ, xây dựng mô hình (kiểu gia đình phù hợp) với thiết chế xã hội. Gia đình có vị trí, vai trò đặc biết quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong gia đình, vợ, chồng, cha mẹ, con vừa là thành viên trong gia đình, vừa là thành viên của xã hội. Để cho gia đình tồn tại và phát triển, cần phải có các điều kiện cơ sở vật chất- cơ sở kinh tế của gia đình, nuôi sống gia đình. Do vậy, chế độ hôn sản của vợ chồng luôn được nhà làm luật quan tâm xây dựng như là một trong các chế định cơ bản, quan trọng nhất của pháp luật về HN&GĐ. Vợ, chồng trước hết với tư cách là công dân có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Tài sản của vợ chồng thuộc phạm trù tài sản riêng của công dân đã được Hiến Pháp (Điều 58 Hiến pháp năm 1992 và Điều 32 Hiến pháp năm 2013) và BLDS năm 2015 ghi nhận. Về khái niệm tài sản, theo Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”. So với BLDS năm 2005, khái niệm về tài sản trong BLDS 2015 đã mở rộng hơn về những đối tượng được coi là tài sản. Xét về lý thuyết có thể áp dụng các quy định chi phối tài sản của vợ chồng như những người khác không phải là vợ chồng, như: tài sản của bên nào bên đó có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Những thu nhập hợp pháp của mỗi bên vợ, chồng là tài sản riêng của vợ, chồng… Tuy nhiên, lý thuyết này không thể áp dụng cho hai vợ chồng trong thực tiễn. Do quan hệ hôn nhân có tính chất cộng đồng, sau khi kết hôn, hai vợ chồng cùng ăn chung, ở chung, cùng chung sức, chung ý chí trong việc tạo dựng tài sản, xây dựng gia đình hạnh phúc, ổn định vì lợi ích chung của gia đình, các thành viên trong gia đình và sự phồn vinh của xã hội. Do vậy, nhà nước bằng pháp luật phải quy định về chế độ hôn sản. Sở dĩ, pháp luật phải dự liệu về chế độ hôn sản bởi các lý do sau: Thứ nhất, hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tình yêu, tình thương của hai bên vợ, chồng. Mục đích của quan hệ hôn nhân nhằm xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc để thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội, chắc năng duy trì nòi giống cũng như 7
  14. dưỡng dục con cái, ông bà, cha mẹ. Khi nam, nữ trở thành vợ chồng đồng nghĩa với việc họ sẽ cùng nhau gánh vác những nghĩa vụ chung như các nghĩa vụ về kinh tế, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng …Vợ chồng cùng chung sức, chung ý chí trong việc tạo lập tài sản nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của gia đình; để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chăm sóc lẫn nhau; cùng nhau nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái … thì cần phải có tài sản, của cải. Gia đình không phải là một đơn vị sản xuất, tiêu dùng khép kín, độc lập mà luôn có những mối quan hệ giao lưu bên ngoài xã hội. Để đáp ứng nhu cầu thiết yếu và thực hiện các nghĩa vụ khác của gia đình, trong suốt thời kỳ hôn nhân vợ chồng luôn thực hiện những quan hệ trao đổi, giao dịch với những người khác. Pháp luật cần quy định rõ những trường hợp nào việc sử dụng tài sản của vợ chồng cần phải có sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng; trường hợp nào được coi là thỏa thuận mặc nhiên của vợ, chồng khi một bên trực tiếp sử dụng, định đoạt tài sản của vợ chồng. Bên cạnh đó, trong suốt thời kỳ hôn nhân có thể phát sinh các quyền lợi và nghĩa vụ của vợ chồng, đặc biệt là các quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến người thứ ba. Nhờ có các quy định về chế độ hôn sản vợ, chồng và người thứ ba có thể thực hiện giao dịch bảo đảm lợi ích chung của gia đình và quyền lợi chính đáng của mỗi bên. Thứ hai, việc dự liệu chế độ hôn sản trong các quy định của pháp luật là cơ sở để vợ chồng thực hiện các quyền và nghĩa vụ tài sản của mình liên quan đến tài sản của vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân; như việc luật quy định căn cứ, nguồn gốc, phạm vi các loại tài sản thuộc tài sản chung hoặc tài sản riêng của vợ, chồng. Theo đó, vợ, chồng thực hiện quyền sở hữu (chiếm hữu, sử dụng, định đoạt) đối với từng loại tài sản luật định nhằm đảm bảo lợi ích chung của gia đình hoặc nhu cầu của bản thân vợ, chồng. Đồng thời xác định rõ các quyền lợi, nghĩa vụ của vợ chồng liên quan đến tài sản của mình. Thứ ba, khi vợ, chồng thực hiện các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản của mình nhằm đảm bảo đời sống chung của gia đình luôn liên quan đến quyền lợi của bên thứ ba trong các giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng. Để bảo vệ quyền lợi của mình, pháp luật quy định người thứ ba tham gia giao dịch cần phải biết rằng trường hợp nào giao dịch đó được bảo đảm bằng tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng của vợ, chồng. Thứ tư, việc quy định chế độ hôn sản trong pháp luật là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về hôn sản giữa vợ chồng với nhau và giữa vợ chồng với người thứ ba của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 8
  15. Như vậy, chế độ hôn sản được nhà làm luật dự liệu do tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân được xác lập; phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa để Nhà nước quy định trong pháp luật về chế độ hôn sản. Xuất phát từ tính chất và mục đích của quan hệ hôn nhân cũng như các lý do trên đòi hỏi cần phải có một cơ chế pháp lý đặc biệt để điều chỉnh vấn đề hôn sản. Hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2014 bên cạnh việc duy trì áp dụng chế độ hôn sản luật định còn thừa nhận chế độ hôn sản theo thỏa thuận. Có thể thấy, đây là một thay đổi lớn trong tư duy lập pháp ở Việt Nam, theo đó cần có một khái niệm về chế độ hôn sản bao quát và đầy đủ hơn. Từ những quy định mới này, theo tôi, có thể đưa ra khái niệm về chế độ hôn sản như sau: Chế độ hôn sản là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; thỏa thuận xác lập chế độ hôn sản; nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và chồng. 1.1.2. Đặc điểm của chế độ hôn sản Thứ nhất, xét về chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ hôn sản, các bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tư cách là vợ chồng của nhau. Do vậy, để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các chủ thể ngoài việc có đầy đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi hỏi họ phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong Luật HN&GĐ (ví dụ, các điều kiện về độ tuổi kết hôn, điều kiện về sự tự nguyện, không vi phạm các điều cấm kết hôn ...). Thứ hai, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, Nhà nước bằng pháp luật khi quy định về chế độ hôn sản đều xuất phát từ mục đích trước tiên và chủ yếu là bảo đảm quyền lợi của gia đình, trong đó có lợi ích của cá nhân vợ, chồng; từ đó, luật định dù vợ chồng lựa chọn loại chế độ hôn sản nào thì cũng đều phải có nghĩa vụ đóng góp công sức, tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu, bảo đảm đời sống chung của gia đình. Thứ ba, căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản này dựa trên sự kiện phát sinh, chấm dứt của quan hệ hôn nhân. Hay nói cách khác, chế độ hôn sản chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân (Thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt quan hệ hôn nhân). 9
  16. Thứ tư, trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ thể, đối với tài sản chung việc vợ, chồng sử dụng tài sản để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải xuất phát từ lợi ích chung của gia đình. Thông thường, khi vợ, chồng sử dụng tài sản chung để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình thì pháp luật coi là có sự thỏa thuận mặc nhiên của hai vợ chồng. Việc định đoạt hững tài sản có giá trị lớn (như bất động sản, động sản mà theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu, tài sản đang là nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình) phải có sự thỏa thuận bằng văn bản của cả hai vợ chồng. Đối với tài sản riêng thì vợ, chồng có quyền tự định đoạt tài sản của mình mà không phụ thuộc ý chí của bên kia. Tuy nhiên, trong một số trường hợp quyền năng này của họ bị hạn chế (ví dụ, nếu tài sản riêng đang là nguồn sống duy nhất của gia đình, khi định đoạt tài sản này phải có sự thỏa thuận của vợ chồng). 1.1.3. Ý nghĩa của chế độ hôn sản Chế độ hôn sản phản ánh trung thực và chính xác trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và ý chí của mỗi nước. Trong mỗi quố c gia, mỗi chế độ xã hội luôn có một chế độ HN&GĐ tương ứng được xác lập bằng quy định pháp luật hoặc thừa nhận bằng tập quán, trong đó có chế độ hôn sản. Chế độ hôn sản có ý nghĩa quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ sở hữu tài sản giữa vợ, chồng, tạo ra những nguyên tắc, cách thức xử sự của vợ chồng trong quan hệ sở hữu tài sản, đảm bảo phù hợp quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Chế độ hôn sản quy định cụ thể căn cứ xác lập, nguồn gốc, thành phần tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng. Khi xác lập quan hệ hôn nhân, vợ, chồng dù lựa chọn chế độ tài sản pháp định hay ước định thì các quy định về tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng luôn được xác định cụ thể. Chế độ hôn sản có ý nghĩa xác định quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng với nhau và với người thứ ba. Trên cơ sở xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng, chế độ hôn sản xác định quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng đối với các loại tài sản đó. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong quan hệ tài sản được thể hiện như sau: vợ, chồng có quyền sở hữu chung hợp nhất đối với tài sản chung, một người không thể tự ý định đoạt tài sản chung khi chưa có sự đồng ý của người kia; có quyền sở hữu riêng đối với tài sản riêng (nếu có) của mình, tuy nhiên, quyền sở hữu riêng kèm theo những hạn chế về quyền sở hữu trong một số trường hợp đặc biệt do tính chất đặc biệt của quan hê ̣ hôn nhân. Chế độ hôn sản là cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng hoặc với người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của 10
  17. vợ chồng, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng hoặc người thứ ba. Trên cơ sở các quy định của chế độ hôn sản, cơ quan áp dụng pháp luật có căn cứ, nguyên tắc để giải quyết tranh chấp về tài sản giữa vợ, chồng trong những trường cụ thể, ví dụ: vợ chồng ly hôn, vợ chồng phân chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân, vợ hoặc chồng chết trước cần phân chia tài sản để chia thừa kế hoặc để giải quyết nghĩa vụ về tài sản của người đã chết với người thứ ba… Ngoài ra, chế đô ̣ tài sản vơ ̣ chồ ng pháp đinḥ còn là những quy đinh ̣ mang tính đinh ̣ hướng cho các că ̣p vơ ̣ chồ ng lựa chọn thỏa thuâ ̣n chế đô ̣ tài sản phù hơ ̣p quy đinh ̣ của pháp luâ ̣t, đảm bảo thỏa thuâ ̣n chế đô ̣ tài sản vơ ̣ chồ ng không bị vô hiê ̣u do vi phạm quy đinh ̣ pháp luâ ̣t. - Chế độ tài sản của vợ chồng với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật hôn nhân và gia đình được nhà nước quy định dựa trên sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội. Nó thể hiện tính giai cấp, bản chất của chế độ chính trị - xã hội cụ thể. Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật của nhà nước, người ta có thể nhận biết được trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và ý chí của nhà nước thể hiện bản chất của chế độ xã hội đó. - Chế độ hôn sản được quy định trong pháp luật có ý nghĩa nhằm xác định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. Khi hai bên nam nữ kết hôn với nhau trở thành vợ chồng, chế độ hôn sản được dự liệu với những thành phần tài sản của vợ chồng. Dù vợ chồng lựa chọn chế độ hôn sản nào (theo thỏa thuận hay luật định) đi chăng nữa thì cũng được pháp luật quy định rõ. - Việc phân định các loại tài sản trong quan hệ vợ chồng của chế độ hôn sản còn nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên vợ, chồng đối với các loại tài sản của vợ chồng. Với tư cách là chủ sở hữu đối với tài sản chung hay tài sản riêng (nếu có) của vợ chồng, vợ, chồng thực hiện các quyền sở hữu (quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt) đối với các loại tài sản này vì quyền lợi của gia đình hay lợi ích của cá nhân vợ, chồng theo quy chế pháp lý dành cho từng loại tài sản. - Chế độ tài sản của vợ chồng được sử dụng với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau hoặc với những người khác trong thực tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng về tài sản cho các bên vợ chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng. Trong thực tế, để đáp ứng lợi ích cho gia đình, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cái … trong suốt thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng phải ký rất nhiều hợp đồng với những người khác nhau liên quan đến tài sản của vợ chồng. Nhiều tranh chấp về 11
  18. tài sản phát sinh giữa vợ chồng, liên quan đến những người khác. Nhờ có chế độ hôn sản được pháp luật quy định, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng luật giải quyết các tranh chấp về tài sản của vợ chồng trong các trường hợp cụ thể dựa trên những nguyên tắc, căn cứ do pháp luật quy định. 1.2. Nội dung các loại chế độ hôn sản Nhà làm luật ở mỗi quốc gia đều lựa chọn và xây dựng chế độ hôn sản phù hợp với điều kiện về kinh tế – xã hội, truyền thống, văn hóa, phong tục, tập quán của đất nước. Do đó, trong hệ thống pháp luật giữa những nước khác nhau cũng thường có những qui định khác biệt về chế độ hôn sản. Tuy nhiên, về cơ bản chế độ hôn sản được xác định dựa trên hai căn cứ: theo các qui định của pháp luật (chế độ hôn sản luật định) và sự thoả thuận bằng văn bản của vợ chồng (chế độ hôn sản ước định). 1.2.1. Chế độ hôn sản luật định Chế độ hôn sản luật định là một giải pháp được nhà làm luật ở hầu hết các quốc gia trên thế giới ghi nhận trong pháp luật như một giải pháp thay thế trong trường hợp vợ chồng không có thoả thuận bằng hôn ước, hoặc với mục đích để vợ chồng lựa chọn chế độ hôn sản áp dụng cho họ (phổ biến trong pháp luật ở các nước phương Tây như Pháp, Nhật Bản, Canađa, Australia, Thái Lan); một số nước lại qui định chế độ hôn sản luật định như là căn cứ duy nhất để xác định tài sản của vợ chồng (phổ biến trong pháp luật HN&GĐ các nước XHCN như Việt Nam trước khi có Luật HN&GĐ năm 2014, Trung Quốc, Liên xô cũ, Cu Ba…). Chế độ hôn sản luật định dự liệucác vấn đề về căn cứ, nguồn gốc thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay riêng của vợ chồng được pháp luật đã dự liệu từ trước. Chế độ tài sản này được tất cả các nước dự liệu trong hệ thống pháp luật của mình, nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng. Điều 1387 BLDS Cộng hòa Pháp quy định: “Luật pháp chỉ điều chỉnh quan hệ vợ chồng về tài sản khi không có thỏa thuận riêng mà vợ chồng có thể làm vì cho rằng điều đó là cần thiết, miễn sao những thỏa thuận đó không trái với thuần phong mỹ tục và những quy định sau đây …”, và tại Điều 1400 của Bộ luật này cũng quy định:”Chế độ cộng đồng tài sản được thiết lập khi không có hôn ước hoặc khi vợ chồng tuyên bố kết hôn theo chế độ cộng đồng tài sản” [40, tr 87]. Dưới ảnh hưởng của nguyên tắc tự do lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng, chế độ hôn sản luật định không có hiệu lực áp dụng một cách đương nhiên mà trái lại, 12
  19. nó chỉ là chế độ tùy nghi, là giải pháp thay thế, dự phòng. Những người kết hôn hoàn toàn có quyền tự do thoả thuận chế độ tài sản cho riêng mình. Nếu họ không thiết lập những thoả thuận về vấn đề này thì chế độ tài sản pháp định sẽ đương nhiên được áp dụng. Về hình thức, chế độ hôn sản luật định trong pháp luật của các quốc gia được thể hiện ở nhiều hình thức khác nhau và thường được quy định dưới hai hình thức: Chế độ tài sản theo tiêu chuẩn cộng đồng (chế độ tài sản cộng đồng) và chế độ tài sản theo tiêu chuẩn phân sản (chế độ phân sản).  Chế độ tài sản theo tiêu chuẩn cộng đồng Chế độ tài sản theo tiêu chuẩn cộng đồng là hình thức phổ biến của chế độ hôn sản luật định. Việc thừa nhận chế độ tài sản cộng đồng là xuất phát từ quan điểm lợi ích của vợ chồng phải chịu sự chi phối bởi tính chất cộng đồng của hôn nhân và lợi ích chung của gia đình. Chế độ tài sản cộng đồng có đặc điểm cơ bản là trong quan hệ sở hữu giữa vợ và chồng luôn tồn tại khối tài sản chung và các nghĩa vụ tài sản được bảo đảm bằng tài sản chung của vợ chồng. Về cơ bản, chế độ tài sản này cũng được qui định chủ yếu ở ba hình thức sau: - Chế độ cộng đồng tạo sản: Chế độ cộng đồng tạo sản có đặc điểm là tài sản chung của vợ chồng chỉ được xác định đối với những tài sản mà vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân; những tài sản khác không phân biệt động sản hay bất động sản mà vợ, chồng có được trước khi kết hôn, hay được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng. Đây là giải pháp được qui định phổ biến trong pháp luật về HN&GĐ của nhiều nước: Luật gia đình Cộng hoà Cu Ba (Điều 30 và 32), Luật gia đình Bun ga ri (Điều 13), BLDS Cộng hoà Pháp sửa đổi năm 1965(Từ Điều 1401 đến Điều 1408), BLDS Nhật Bản (Điều 762), BLDS và thương mại Thái Lan (Điều 1471 và Điều 1474)… đều ghi nhận chế độ tài sản cộng đồng này. Điều 13 Luật hôn nhân năm 1980 của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa qui định: “Tài sản của vợ chồng làm ra trong suốt thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, ngoài ra, mỗi bên có thể có tài sản riêng ngoài qui định trên”. Điều 1401 BLDS Cộng hoà Pháp cũng qui định: Tài sản cộng đồng gồm những thu nhập chung của hai vợ chồng hoặc thu nhập riêng của từng người trong thời kỳ hôn nhân và có nguồn gốc từ công việc làm ăn của họ, cũng như từ những khoản tiết kiệm có được do hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng của họ. 13
  20. Tại Việt Nam, Luật HN&GĐ cũng được các nhà lập pháp xây dựng theo hướng lựa chọn chế độ cộng đồng tạo sản này để áp dụng cho các cặp vợ chồng từ khi xác lập quan hệ hôn nhân (Luật HN&GĐ năm 1986; Luật HN&GĐ năm 2000; Luật HN&GĐ năm 2014). Việc chế độ cộng đồng tạo sản được thừa nhận rộng rãi ở các nước là do chế độ này rất phù hợp với tình hình thực tế ở mỗi nước. Một mặt, nó không làm phá vỡ chế độ tài sản chung của vợ chồng – nền tảng cơ bản của quan hệ HN&GĐ, mặt khác chế độ tài sản này còn tạo điều kiện thuận lợi cho vợ, chồng có thể chủ động trong việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng của mình, ngăn chặn các trường hợp kết hôn với mục đích không lành mạnh, việc kết hôn chỉ nhằm vào khối tài sản đã sẵn có của bên kia. - Chế độ cộng đồng động sản và tạo sản: Trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội tư bản, bất động sản được coi trọng như là một tài sản chính yếu hiện hữu và chắc chắn dẫn đến chế độ cộng đồng động sản và tạo sản được xác lập một cách phổ biến ở các nước phương Tây. Chế độ này cũng thừa nhận trong hôn nhân bao gồm có tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng như trong chế độ cộng đồng tạo sản. Tuy nhiên, chế độ cộng đồng động sản và tạo sản lại xác định tài sản của vợ chồng dựa trên việc phân định tài sản của vợ, chồng là động sản hay bất động sản. Theo đó, khối tài sản chung chỉ bao gồm các động sản của vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân, các hoa lợi và các bất động sản mà vợ, chồng mua lại bằng tài sản chung. Vợ, chồng có quyền sở hữu riêng đối với bất động sản có trước khi kết hôn và bất động sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Việc qui định chế độ cộng đồng động sản và tạo sản là xuất phát từ quan điểm của nhà làm luật một số nước cho rằng: Vợ, chồng phải để dành cho mình làm của riêng những tài sản chính của mình và theo các nhà làm luật đó là bất động sản. Chế độ tài sản này đã được quy định trong BLDS Pháp năm 1804, SL 15/64 ngày 23/7/1964 của Chế độ Sài Gòn cũ…. Điều 53 của Sắc luật 15/64 quy định: “Chế độ cộng đồng tài sản là là chế độ phu phụ tài sản thường luật, trong trường hợp vợ chồng không có làm hôn ước hoặc khai kết hôn dưới chế độ cộng đồng tài sản. Chế độ này khởi đầu tư ngày lập hôn thú. Không ai có thể định đoạt một ngày nào khác cho sự khởi điểm này” [ 4, tr.33]. Cũng theo Sắc luật này thì khối cộng đồng tài sản gồm có: động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng ngày hôn thú thành lập; động sản của vợ hay chồng 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
8=>2