Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam
lượt xem 11
download
Luận văn đưa ra một cái nhìn tương đối hệ thống, toàn diện về bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, từ đó, kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VÂN TRANG ĐẢM BẢO QUYỀN AN SINH XÃ HỘI TRONG VIỆC TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN Ở VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2016
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN VÂN TRANG ĐẢM BẢO QUYỀN AN SINH XÃ HỘI TRONG VIỆC TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN Ở VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật Kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Thị Hoài Thu Hà nội – 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Nguyễn Vân Trang
- DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CRC Công ước quốc tế về quyền trẻ em CERD Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi thình thức phân biệt chủng tộc CEDAW Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. ILO Tổ chức lao động thế giới ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính tr ị ICESCR Công ước quốc tế về các quyền kinh t ế, xã hội, văn hóa NGO Tổ chức phi ch ính phủ UDHR Tuyên ngôn quốc tế về Nhân quy ền UNICEF Quỹ nhi đồng Liên h ợp qu ốc WHO Tổ chức y t ế thế giới
- MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU………………………………………………………………... 1 Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về quyền an sinh xã hội và bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản………………………………………………………………............. 9 1.1. Quan niệm về quyền an sinh xã hội và bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản……………………… 9 1.2.Nội dung quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản………………………………………………………………......... 16 1.3.Các biện pháp bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản …………………………………………………… 28 Kết luận chương 1………………………………………………………. 32 Chƣơng 2: Thực trạng bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam……………………….. 33 2.1. Thực trạng bảo đảm quyền giáo dục cơ bản……………………… 33 2.2. Thực trạng bảo đảm quyền chăm sóc y tế cơ bản………………… 40 2.3. Thực trạng bảo đảm quyền có nơi cư trú………………………….. 47 2.4. Thực trạng bảo đảm quyền được cung cấp nước sạch……………. 52 2.5.Thực trạng bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin……………….. 55 Kết luận chương 2………………………………………………………. 61 Chƣơng 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam 62 3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc bảo đảm thực hiện quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản……………………… 62
- 3.2. Một số giải pháp nhằm bảo đảm thực hiện quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản………………………….. 64 3.3. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản………………………….. 68 Kết luận chương 3………………………………………………………. 73 KẾT LUẬN……………………………………………………………... 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………... 76
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo đảm quyền an sinh xã hội là yêu cầu, và là điều kiện cần thiết cho sự ổn định, phát triển đất nước, góp phần hiện thực hóa các quyền xã hội của mọi người dân. Trên thực tế, quyền An sinh xã hội và bảo đảm thực hiện quyền an sinh xã hội luôn là mối quan tâm của cả nhân loại, là lý tưởng mà các quốc gia hướng tới, và là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Trong Tuyên ngôn Quốc tê Nhân quyền (1948) (UDHR) , Liên hợp quốc đã đề cập đến an sinh xã hội và nhấn mạnh: “Mọi người dân và hộ gia đình đều có quyền có mức sống tối thiểu về sức khỏe và các phúc lợi xã hội, bao gồm ăn, mặc, chăm sóc y tế, dịch vụ xã hội thiết yếu và có quyền được an sinh khi có các biến cố về việc làm, ốm đau, tàn tật, góa phụ, tuổi già... hoặc các trường hợp bất khả kháng khác”[ Điều 25] Ở Việt Nam, ngay từ những ngày đầu xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước đã luôn coi trọng việc đảm bảo quyền an sinh xã hội, coi việc phát triển bảo đảm an sinh xã hội, bảo đảm chất lượng sống cho người dân ngày càng được an toàn và cải thiện, là động lực và mục tiêu xuyên suốt của sự nghiệp đổi mới đất nước. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong một thời gian dài, an sinh xã hội chỉ được thực hiện ở mức độ nhất định với những chế độ cơ bản. Ngày nay, cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, hệ thống an sinh xã hội ngày càng phát triển, thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Việc bảo đảm quyền an sinh xã hội cho người dân cũng được thực thi ngày một hiệu quả hơn thông qua hệ thống các văn bản pháp luật. Đặc biệt, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) khẳng định, công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội [Điều 34] . Đây là quyền mới, chưa có trong các bản Hiến pháp trước đây. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc khẳng định quyền được bảo đảm an sinh xã hội của người dân được xem là tất yếu. 1
- Quyền an sinh xã hội ở nước ta ngày càng được nâng lên đáng kể, mở rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, như: Quyền được bảo vệ thu nhập; Quyền được bảo vệ và chăm sóc sức khỏe; Quyền được trợ giúp trong các hoàn cảnh khó khăn; Quyền được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản; Quyền an sinh xã hội đối với một số đối tượng đặc biệt… Trong đó, Quyền được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh xã hội ở Việt Nam hiện nay. Có thể hiểu, dịch vụ xã hội cơ bản là hệ thống dịch vụ được cung cấp, nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người và được xã hội thừa nhận. Dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm các nhóm: giáo dục cơ bản, chăm sóc y tế cơ bản, cư trú (nhà ở), cung cấp nước sạch, tiếp cận thông tin. Đó là những nhu cầu tối thiểu mà bất cứ một cá nhân nào cũng cần phải có, để tồn tại và phát triển. Con người là mục tiêu, động lực, tiền đề cho sự phát triển của mỗi một quốc gia. Bởi vậy, đảm bảo tốt đời sống cho người dân, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân cũng chính là góp phần tích cực vào việc ổn định, an toàn xã hội, đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước. Hiện nay, ở Việt Nam, bảo đảm quyền an sinh trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản đã được quy định trong nhiều văn bản pháp luật, như: Luật Giáo dục (2005, sửa đổi năm 2009), Luật Bảo hiểm y tế (2008), Luật Khám chữa bệnh (2009), Luật cư trú (2006, sửa đổi, bổ sung 2013), Luật Nhà ở (2014), Nghị định 117/2007/NĐ-CP về sản xuất, cung cấp và tiêu thụ nước sạch, Luật Báo chí (1989, sửa đổi năm 1999), Luật Viễn thông (2009)… Những văn bản này đã luật hóa hoạt động bảo đảm an sinh xã hội, trong đó có quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản một cách có hiệu quả, thông qua hành lang pháp lý tương đối đầy đủ, làm cơ sở cho sự phát triển thống nhất, toàn diện hệ thống pháp luật về an sinh xã hội ở nước ta. 2
- Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, việc bảo đảm quyền an sinh trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở nước ta còn nhiều bất cập. Chẳng hạn, nội dung bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, mặc dù đã được thể chế hóa tương đối đầy đủ trong các văn bản pháp luật, nhưng xét từ khía cạnh quản lý, thi hành, áp dụng trong thực tiễn, việc quy định như vậy dẫn đến sự tản mạn, lan man, thiếu tính hệ thống. Bên cạnh đó, trong từng khía cạnh của các dịch vụ xã hội cơ bản, việc bảo đảm quyền cho người dân vẫn còn nhiều hạn chế. Có thể kể đến một số ví dụ, như : Trong lĩnh vực giáo dục, mặc dù Việt Nam đã hoàn thành được một số mục tiêu như phổ cập giáo dục tiểu học, đẩy mạnh phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong độ tuổi, tuy nhiên, chất lượng giáo dục không đồng đều, năng lực giáo viên chưa đáp ứng yêu cầu, học sinh bỏ học nhiều do hoàn cảnh khó khăn… Trong lĩnh vực y tế, nhìn chung các hoạt động khám chữa bệnh còn nhiều yếu kém. Chất lượng khám, chữa bệnh chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân, nhất là các tuyến y tế cơ sở và các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa. Các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến Trung ương thường trong tình trạng quá tải. Thủ tục hành chính khám chữa bệnh còn rườm rà, nhất là đối với đối tượng có bảo hiểm y tế. Trong việc tiếp cận thông tin, do chưa được cụ thể hóa thành cơ chế bảo đảm, quyền thông tin của công dân chưa được thực thi một cách thống nhất, hiệu quả trong các lĩnh vực. Thực tế này đòi hỏi phải có một sự nghiên cứu, đánh giá toàn diện về việc bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam. Từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề Đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam làm đề tài Luận văn thạc sĩ, nhằm giải quyết một số vấn đề về lý luận và thực tiễn đang đặt ra trong việc tiếp cận các dịch vụ cơ bản ở nước ta hiện nay. 3
- 2. Tình hình nghiên cứu Vấn đề bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản không còn là vấn đề mới mẻ. Ở những phương diện và mức độ khác nhau đã có một số công trình, bài báo đề cập đến vấn đề này. Dựa vào nguồn tư liệu bao quát được, và trong phạm vi quan tâm của đề tài, chúng tôi thấy nổi bật lên một số công trình sau: Năm 2010, cuốn sách “Pháp luật an sinh xã hội - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS.Nguyễn Hiền Phương được xuất bản, đã đưa đến cái nhìn tổng quan về cơ sở lý luận và thực tiễn pháp luật an sinh xã hội, từ đó đưa ra những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật. Năm 2011, trong cuốn chuyên khảo “Pháp luật về an sinh xã hội:kinh nghiệm của một số nước đối với Việt Nam”, các tác giả TS. Trần Hoàng Hải và TS. Lê Thị Thúy Hương đã nghiên cứu, phân tích hệ thống pháp luật an sinh xã hội ở một số quốc gia tiêu biểu như Mỹ, Đức, Nga, đồng thời trình bày những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác giả đã nhận định, đánh giá về những ưu điểm, hạn chế trong pháp luật hiện hành, đồng thời đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực này. Năm 2014, Chuyên khảo “Quyền An sinh xã hội và đảm bảo thực hiện trong pháp luật Việt Nam”, do PGS.TS Lê Thị Hoài Thu chủ biên, được xuất bản. Đây công trình tiêu biểu nghiên cứu toàn diện, hệ thống vấn đề quyền An sinh xã hội và bảo đảm quyền an sinh xã hội. Cuốn sách gợi mở nhiều vấn đề cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về an sinh xã hội, đặc biệt là trên phương diện quyền con người ở nước ta hiện nay. Trong đó, vấn đề quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản đã được tác giả đề cập đến ở mục 3.3, chương III – “Quyền An sinh xã hội trong pháp luật Việt Nam”. Đặc biệt, các tác giả đã dành hẳn chương VII để bàn về “Thực trạng đảm bảo quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản”. Tuy nhiên, do tính chất của một cuốn 4
- sách chuyên khảo, nhằm đưa ra một cái nhìn tổng thể về mọi mặt của quyền An sinh xã hội, nên các tác giả chưa đi sâu, phân tích lý giải vấn đề trên cơ sở phân loại các nhóm đối tượng của quyền được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Như đã nói ở trên, quyền tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản bao gồm các nhóm: Quyền giáo dục cơ bản, Quyền chăm sóc y tế cơ bản, Quyền có nơi cư trú (nhà ở), Quyền được cung cấp nước sạch, Quyền tiếp cận thông tin. Việc phân tích, nghiên cứu những nhóm quyền này cũng đã được nhiều người quan tâm. Một số đề tài nghiên cứu, sach chuyên khảo, bài báo khoa học đã bước đầu đi sâu bàn về những vấn đề cụ thể. Trong đó, có thể kể đến một số công trình được công bố thời gian gần đây, như: Lê Thị Hoài Thu, Xây dựng Luật bảo hiểm y tế ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, 2008; Đào văn Dũng, Thực hiện chính sách bảo hiểm y tế ở nước ta: Thành tựu, Thách thức và giải pháp, Tạp chí Tuyên giáo, 2009; Vũ Công Giao, Cơ chế và việc hoàn thiện cơ chế bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam, Website của Trung tâm nghiên cứu Quyền con người và Quyền công dân; Phạm Thị Phương Liên, Quyền tiếp cận thông tin và thực hiện quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam, Cổng thông tin điện tử Đại học Văn hóa Hà Nội ; Nguyễn Hiền Phương (Chủ biên), Pháp luật bảo hiểm y tế một số quốc gia trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2013; Nguyễn Hiền Phương, Giáo dục đối với người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam – Từ quy định đến thực tiễn, Tạp chí Luật học – Đại học Luật Hà Nội, 2013… Ở những phạm vi và mức độ khác nhau, những công trình, bài viết kể trên đã đề cập đến thực trạng bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận một số nhóm dịch vụ xã hội cơ bản ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, hầu hết những bài nghiên cứu tập trung chủ yếu vào một số vấn đề, như dịch vụ y tế, quyền tiếp cận thông tin. Trong khi đó có nhiều vấn đề thiết yếu của đời sống xã hội, như: quyền giáo dục cơ bản, quyền được cư trú, quyền tự do 5
- báo chí, quyền được cấp nước sạch,… vẫn chưa nhận được sự quan tâm đầy đủ, thậm chí là còn bỏ ngỏ. Kinh tế - xã hội của nước ta đang trong quá trình hội nhập và phát triển. Điều đó đòi hỏi phải không ngừng củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống an sinh xã hội. Mặt khác, sự phát triển của kinh tế xã hội đã cho thấy, nhiều vấn đề bất cập của hệ thống luật pháp hiện hành về bảo đảm quyền an sinh xã hội nói chung và quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản nói riêng. Nói cách khác, nhiều vấn đề của luật pháp đã không còn phù hợp với sự phát triển, biến động của đời sống xã hội. Thực tế đó đòi hỏi cần thiết phải có một công trình nghiên cứu đầy đủ, kỹ lưỡng, và có hệ thống về quyền được tiếp cận các nhóm dịch vụ xã hội cơ bản trong bảo đảm an ninh xã hội. Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu của những người đi trước về bảo đảm quyền an sinh xã hội, chúng tôi thực hiện đề tài Bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam với mong muốn góp thêm một tiếng nói vào quá trình nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật bảo đảm quyền an sinh xã hội ở nước ta. Dựa vào những khảo sát, phân tích một cách hệ thống, toàn diện những văn bản pháp luật hiện hành ở nước ta về Bảo đảm quyền an sinh xã hội, chúng tôi sẽ đề cập đến một số vấn đề lý luận, thực tiễn về bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1 Mục tiêu tổng quát Luận văn đưa ra một cái nhìn tương đối hệ thống, toàn diện về bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, từ đó, kiến nghị, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam. 3.2 Mục tiêu cụ thể 6
- Để đạt được mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn cần giải quyết các mục tiêu cụ thể sau: Thứ nhất, khái quát được một số vấn đề lý luận về quyền an sinh xã hội và bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Thứ hai, chỉ ra thực trạng bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam. Thứ ba, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và nhà nước ta về phát triển kinh tế - xã hội, về vấn bảo đảm quyền con người nói chung và quyền an sinh xã hội nói riêng. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ vận dụng các nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để phân tích làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng hợp, hệ thống, tiếp cận lịch sử và phương pháp so sánh để làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là Luận văn thạc sĩ luật học đầu tiên ở nước ta nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam. Đề tài có ý nghĩa lý luận trong việc xây dựng hệ thống văn bản pháp luật thống nhất, toàn diện về an sinh xã hội, làm cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các quy phạm pháp luật liên quan, nhằm đảm bảo chất lượng đời sống cho người dân, ổn định xã hội, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam. 7
- 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền an sinh xã hội và bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở Việt Nam 8
- Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN AN SINH XÃ HỘI VÀ BẢO ĐẢM QUYỀN AN SINH XÃ HỘI TRONG VIỆC TIẾP CẬN CÁC DỊCH VỤ XÃ HỘI CƠ BẢN 1.1. Quan niệm về quyền an sinh xã hội và bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản 1.1.1. Quyền an sinh xã hội một trong những quyền cơ bản của con ngƣời Như một lẽ tự nhiên, để tồn tại và phát triển, con người trước hết phải có cái ăn, cái mặc, có chỗ để ở. Những nhu cầu thiết yếu ấy chỉ có thể được đáp ứng khi con người biết lao động, được lao động. Nói cách khác, lao động là điều kiện, là phương thức có ý nghĩa quyết định sự tồn tại, phát triển của con người, xã hội. Tuy nhiên, có một thực tế là không phải khi nào con người cũng có thể lao động tạo ra thu nhập. Bởi lẽ, trong cuộc sống con người luôn phải đối mặt với nhiều khó khăn, rủi ro, bất hạnh mà nguyên nhân có thể đến từ nhiều phía, như ốm đau, tai nạn, mất người nuôi dưỡng, tuổi già, tử vong; thiên tai hay rủi ro trong nghề nghiệp. Lịch sử phát triển của nhân loại cho thấy, cuộc sống của con người phụ thuộc nhiều vào môi trường sống tự nhiên và xã hội. Ở đó luôn tiềm ẩn những biến động, thay đổi khó lường. Bởi vậy, để tồn tại và phát triển, con người phải luôn chủ động tìm kiếm những giải pháp khắc phục khó khăn, ứng phó với những rủi ro, bất trắc. Từ rất sớm, con người đã nghĩ tới việc “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn” và ứng xử với nhau theo tinh thần “tương thân tương ái”, san sẻ, đùm bọc nhau trong khó khăn, hoạn nạn. Cùng với sự phát triển của xã hội, sự tương trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức. Những yếu tố đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của Nhà nước ở các chế độ xã hội khác nhau. Trong đó, an sinh xã hội được nhìn nhận như một vấn đề thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển của con người, xã hội. 9
- Bước ngoặt lớn, đánh dấu cho sự ra đời chính thức của hệ thống an sinh xã hội đó là cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra vào thế kỷ XIX ở các nước châu Âu. Lao động thủ công được thay thế bằng lao động máy móc,nền sản xuất thủ công dần chuyển sang nền sản xuất cơ khí. Năng suất lao động ngày càng cao, đời sống của người ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những thay đổi tích cực về kinh tế, văn hóa, xã hội, người lao động luôn phải đối mặt với nguy cơ mất việc làm, giảm thu nhập do tai nạn lao động, ốm đau và tuổi già. Để đối phó với những nguy cơ ngày một hiện hữu, các nghiệp đoàn đã hình thành những quỹ cứu trợ, nhằm bảo đảm ổn định xã hội và lợi ích của người lao động. Nhận rõ ích lợi của hoạt động đó, nhà nước và giới chủ đã tham gia vào việc đóng góp, hình thành và tổ chức hoạt động của các quỹ mang tính đoàn kết, tương trợ. Đây có thể xem là cơ sở cho sự hình thành và phát triển của hệ thống an sinh xã hội. Mô hình an sinh xã hội đầu tiên trên thế giới xuất hiện ở Đức vào năm1850, sau đó bắt đầu lan dần ra châu Âu rồi sang các nước Mỹ Latinh, Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, an sinh xã hội đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu Á, châu Phi, vùng Caribe. Thuật ngữ An sinh xã hội lần lượt được ghi nhận trong nhiều văn bản, đạo luật khác nhau . Đạo luật đầu tiên về An sinh xã hội trên thế giới là Đạo luật năm 1935 ở Mỹ. Theo đó, an sinh xã hội “…là sự bảo đảm nhằm bảo tồn nhân cách cùng những giá trị cá nhân đồng thời tạo lập cho mỗi con người một đời sống sung mãn và hữu ích để phát triển tài năng đến tột độ”. Tiếp đến, Hiến chương Đại Tây Dương (1941) cũng chính thức sử dụng thuật ngữ “An sinh xã hội”. Trong bản Hiến chương này, an sinh xã hội được hiểu theo nghĩa rất rộng, đó là: “Sự bảo đảm thực hiện quyền con người sống trong hoà bình, được tự do làm ăn cư trú, di chuyển, phát biểu chính kiến trong khuôn khổ của pháp luật, được bảo vệ bình đẳng trước pháp luật, được học tập, làm việc, 10
- nghỉ ngơi, có nhà ở, được chăm sóc y tế và bảo đảm thu nhập để có thể thỏa mãn những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi bị rủi ro, thai sản, ốm đau, tuổi già...”. Trong cuốn sách “Giới thiệu về an sinh xã hội” do Tổ chức lao động quốc tế xuất bản tại Genever năm 1992, khái niệm về an sinh xã hội được xác định: “...là sự bảo đảm thực hiện quyền con người được sống trong hoà bình, được học tập, được làm việc và nghỉ ngơi, được chăm sóc y tế và bảo đảm thu nhập” Tại Hội nghị trù bị về “an sinh xã hội ASEAN” tháng 6/2001 ở Singapore, các nhà khoa học cũng đã đưa ra một khái niệm tương đối rộng về an sinh xã hội. Hệ thống an sinh xã hội bao gồm: Bảo hiểm xã hội và tiết kiệm; Bảo hiểm tai nạn công nghiệp, y tế, người già, thất nghiệp. Đó là hệ thống có sự tham gia đóng góp của các bên tạo nguồn dự trữ để sử dụng cho các trường hợp tuổi già, ốm đau, thai sản, chết, tàn tật, thương tật, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp; Trợ giúp xã hội và những dịch vụ xã hội (trợ cấp). Đó là loại phúc lợi xã hội trích từ thuế và các nhà tài trợ và chính sách thị trường lao động (bao gồm cả thị trường lao động tích cực và thụ động); tạo cơ hội việc làm, hình thành nguồn nhân lực, phát triển kỹ năng nghề nghiệp, tìm kiếm việc làm (thông tin, giới thiệu việc làm; đào tạo lại; hỗ trợ việc làm). Qua các khái niệm trên, có thể thấy an sinh xã hội có đối tượng áp dụng rộng lớn, bao gồm toàn bộ thành viên xã hội. Không nên xem an sinh xã hội đơn thuần chỉ là giá trị về tiền bạc, mà phải xem đó là sự đầu tư cho con người, lấy con người làm trọng tâm, nhằm mục tiêu nâng cao sức lao động, hướng tới một nền sản xuất hiệu quả. Nói một cách cụ thể hơn, nội dung của an sinh xã hội chính là sự bảo vệ của xã hội được thực hiện thông qua một loạt các biện pháp công cộng tiến hành bởi Nhà nước, tổ chức, cá nhân. dưới hình thức tương trợ bằng tiền, hiện vật, phương tiện... nhằm mục đích chống lại những túng quẫn về kinh tế, những khó khăn về mặt xã hội của người dân khi gặp phải những biến cố, rủi ro góp phần đảm bảo cuộc sống con người và cao hơn thế là đảm bảo an toàn chung cho toàn xã hội. 11
- Ở Việt Nam, hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về an sinh xã hội. Do được dịch từ nhiều thứ tiếng khác nhau nên có nhiều cách gọi khác nhau cho nội dung này như: “An ninh xã hội”, “An toàn xã hội”, “Bảo trợ xã hội”. Tuy nhiên, đến nay, hầu hết các nhà khoa học đều thống nhất sử dụng cụm từ “an sinh xã hội” xuất phát từ cụm từ “Social security” mà ILO ghi nhận. Về nội hàm của “an sinh xã hội”, trong một công trình nghiên cứu của mình, PGS.TS Đỗ Minh Cương cho rằng an sinh xã hội “…là sự bảo vệ của xã hội đối với những thành viên của mình, trước hết là trong những trường hợp túng thiếu về kinh tế và xã hội, bị mất hoặc giảm sút thu nhập đáng kể do gặp những rủi ro như ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, mất việc làm, mất người nuôi dưỡng, nghỉ do thai sản, về già, trong các trường hợp thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, hoả hoạn. Đồng thời xã hội cũng ưu đãi những thành viên của mình đã xả thân vì nước, vì dân, có những cống hiến đặc biệt cho cách mạng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Mặt khác cũng cứu vớt những thành viên lầm lỗi mắc vào tệ nạn xã hội nhằm phối hợp chặt chẽ với các chính sách xã hội khác đạt tới mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh”[25, tr18] . Tiếp cận dưới góc độ rộng hơn, GS.Tương Lai cho rằng “An sinh xã hội là một lĩnh vực rộng lớn, không chỉ bao hàm sự bảo vệ của xã hội đối với mọi người khi gặp phải thiếu thốn về kinh tế mà còn đảm bảo về môi trường thuận lợi để giúp mọi người phát triển về giáo dục, văn hóa nhằm nâng cao trình độ dân trí, học vấn.”[26]. Có thể thấy, các khái niệm này đều xác định được những nội dung cơ bản của an sinh xã hội song do được tiếp cận từ những góc độc khác nhau nên chỉ phù hợp với những giới hạn nhất định. Ở đây, chúng tôi đồng tình với quan điểm của PGS.TS Lê Thị Hoài Thu trong bài viết “Một số vấn đề lý luận về an sinh xã hội”, theo đó: “an sinh xã hội là sự bảo vệ, trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng đối với những người “yếu thế” trong xã hội bằng các biện pháp khác nhau nhằm hỗ trợ cho các đối tượng khi họ bị suy giảm khả năng lao động, giảm sút thu nhập hoặc là bị 12
- rủi ro, bất hạnh, hoặc là trong tình trạng nghèo đói, hoặc là ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, mất sức lao động, già yếu...động viên, khuyến khích tự lực vươn lên giải quyết vấn đề của chính họ.” Nói cách khác, mục đích sâu xa của an sinh xã hội là góp phần đảm bảo thu nhập và đời sống cho công dân trong xã hội với phương thức hoạt động là thông qua các biện pháp công cộng, nhằm tạo ra sự “an sinh” cho mọi thành viên, thể hiện ý nghĩa xã hội và tính nhân văn sâu sắc. Nhìn từ góc độ này thì “quyền an sinh xã hội” chính là một bộ phận của quyền con người và điều này được các quốc gia trên thế giới thừa nhận. Trong Tuyên ngôn nhân quyền do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948, nội dung của quyền an sinh xã hội được khẳng định:“Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng an sinh xã hội. Quyền đó đặt cơ sở trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người…”. Ngày 25/6/1952, Hội nghị toàn thể của ILO đã thông qua Công ước số 102, được gọi là Công ước về an sinh xã hội (tiêu chuẩn tối thiểu) trên cơ sở tập hợp các chế độ về an sinh xã hội đã có trên toàn thế giới thành chín bộ phận: Chăm sóc y tế, Trợ cấp ốm đau, Trợ cấp thất nghiệp, Trợ cấp tuổi già (hưu bổng), Trợ cấp tai nạn lao động/bệnh nghề nghiệp, Trợ cấp thai sản,Trợ cấp tàn tật, Trợ cấp tiền tuất, Trợ cấp gia đình. Theo công ước này, Nhà nước chịu trách nhiệm chính về bộ máy quản lý, bảo đảm an toàn và kiểm soát hoạt động của quỹ an sinh xã hội, tạo điều kiện cho đại diện của những người được bảo vệ, người sử dụng lao động và Chính phủ cùng tham gia. Tháng 11/1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội văn hóa (ICESCR) ra đời, ghi nhận quyền an sinh xã hội như sau: “Các quốc gia thành viên Công ước này công nhận quyền được hưởng an sinh xã hội của tất cả mọi người, bao gồm cả bảo hiểm xã hội”[Điều 9]. Tuy cách thức diễn đạt, ghi nhận ở các văn bản này có 13
- khác nhau, song tất cả đều có sự gặp gỡ và thống nhất, theo đó quyền an sinh xã hội là quyền của con người được bảo đảm an toàn để sinh sống trong đời sống chung của cộng đồng xã hội”[22, tr17]. Là một bộ phận của quyền con người, nên quyền an sinh xã hội cũng mang đầy đủ những thuộc tính cơ bản của quyền con người, đó là: tính phổ biến, tính không thể chuyển nhượng, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau [22, tr19]. Ngày nay, an sinh xã hội ngày càng chứng minh được vai trò quan trọng của nó đối với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia trên thế giới. Không một quốc gia nào có thể bác bỏ được chân lý “Quyền được hưởng an sinh xã hội là một trong những quyền cơ bản của con người”. Việc thực hiện an sinh xã hội không bị giới hạn bởi bất kỳ rào cản chính trị hay địa lý nào, và nó được thể hiện rõ nhất qua các hoạt động cứu trợ xã hội, các hiệp định hợp tác về bảo hiểm xã hội giữa các quốc gia vì một thế giới hòa bình, ổn định và phát triển. 1.1.2. Khái niệm bảo đảm quyền an sinh xã hội trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản 1.1.2.1. Dịch vụ xã hội Trước hết, theo nghĩa rộng, “dịch vụ xã hội” là một khái niệm “kép”, được gắn kết hữu cơ bởi hai khái niệm “dịch vụ” và “xã hội”, bao gồm những dịch vụ đáp ứng các nhu cầu cộng đồng và cá nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò đảm bảo phúc lợi và công bằng xã hội, đề cao giá trị chân lý, nhân văn, vì con người, là hoạt động mang bản chất kinh tế - xã hội, do nhà nước, thị trường hoặc xã hội dân sự cung ứng, tùy theo tính chất thuần công, không thuần công hay tư của từng loại hình dịch vụ, bao gồm các lĩnh vực: giáo dục – đào tạo, y tế, khoa học – công nghệ, văn hóa – thông tin, thể dục - thể thao và các trợ giúp xã hội khác. [7, Tr20-21] 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 313 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 216 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 173 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 238 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 82 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 156 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn