intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

Chia sẻ: ViJensoo ViJensoo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

39
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn Thạc sĩ Luật học "Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" trình bày các nội dung chính sau: Cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự; Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay; Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRƯƠNG ANH QUYẾT ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Đặng Thị Phượng HÀ NỘI, 2021 2
  2. MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ I. Khái niệm, đặc điểm về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự II. Nội dung của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự III. Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I. Khái quát đội ngũ Chấp hành viên thi hành án dân sự II.Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay III. Đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I. Quan điểm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay II. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên thi hành án dân sự trong thời gian tới KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO 3
  3. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 1. THA Thi hành án 2. THADS Thi hành án dân sự 3. TA Tòa án 4. XHCN Xã hội chủ nghĩa 5. CQTHA Cơ quan thi hành án 6. CQTHADS Cơ quan thi hành án dân sự 7. CHV Chấp hành viên 8. BA, QĐ Bản án, quyết định 9. TAND Tòa án nhân dân 10. PL Pháp luật 11. CQQLNN Cơ quan quản lý nhà nước 12. VKSND Viện kiểm sát nhân dân 13. CBCC Cán bộ công chức 14. CCHC Cải cách hành chính 4
  4. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận văn Trong thời gian qua, trên cơ sở các nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã thực hiện những biện pháp cải cách nền hành chính quốc gia trên nhiều lĩnh vực, trong đó, vấn đề cải cách chế độ công vụ, công chức luôn được xác định là yếu tố quan trọng. Các biện pháp cải cách đó đã mang lại những kết quả nhất định: nền hành chính phục vụ đã bắt đầu hình thành thay thế cho nền hành chính quan liêu, bao cấp; công tác tuyển chọn, quản lý cán bộ, công chức ngày càng công khai, minh bạch, có sự phân cấp rõ hơn về thẩm quyền; đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo cơ bản, tăng về số lượng và chất lượng, bước đầu đã có sự chuẩn hoá; một số cơ quan của Nhà nước, của Đảng đã được sắp xếp lại theo hướng tinh giảm… Tuy nhiên, kết quả đạt được chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu của nhân dân cũng như mong muốn của Đảng và Nhà nước. Tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là ở các cơ quan trực tiếp giải quyết công việc của nhân dân và doanh nghiệp chậm được khắc phục; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng; chế độ tiền lương chưa phản ánh đúng giá trị sức lao động và chưa đáp ứng được nhu cầu đời sống của cán bộ, công chức; các quy định về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và đánh giá cán bộ, công chức còn nhiều bất cập; chưa có chính sách phù hợp để thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ cho nền công vụ; v.v...1 Đội ngũ chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự cũng không nằm ngoài tình trạng nói trên. Ngoài ra, xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp, đội ngũ chấp hành viên ở nước ta còn tồn tại những điểm khiếm khuyết như: chấp hành viên còn lúng túng về các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự, việc đào tạo Chấp hành viên còn mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ, việc đào tạo chuẩn hoá trình độ 5
  5. chấp hành viên còn chậm và chưa được quan tâm đúng mức… Những vấn đề này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công tác thi hành án. Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân do dân vì dân, vai trò và ý nghĩa của công tác thi hành án dân sự ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn, có vị trí xứng đáng trong hệ thống tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp Việt Nam. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thi hành án dân sự cũng được ban hành và hoàn thiện đảm bảo khung pháp lý về tổ chức hoạt động và việc thực thi các phán quyết dân sự của Toà án. Hoạt động thi hành án trong thời gian qua đã có những bước chuyển biến đáng ghi nhận, tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án được hoàn thiện dần, đội ngũ chấp hành viên được tăng cường về số lượng và đào tạo về kỹ năng nghiệp vụ. Trong thời gian qua, để thực hiện Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị, năm 2003, Cục Thi hành án dân sự (nay là Tổng cục Thi hành án dân sự) cũng đã tiến hành rà soát từng bước đội ngũ Chấp hành viên. Năm 2005, thực hiện yêu cầu của Bộ Nội vụ, Cục Thi hành án dân sự cũng đã tiến hành tổng điều tra, khảo sát đội ngũ cán bộ công chức các cơ quan thi hành án dân sự trong phạm vi toàn quốc. Bên cạnh những thành quả đã đạt được, hoạt động của cơ quan thi hành án nói chung và đội ngũ chấp hành viên nói riêng vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Một trong số các khiếm khuyết nổi cộm đó là số vụ việc ngày càng tăng sẽ đặt ra những yêu cầu hết sức khó khăn cho các cơ quan thi hành án dân sự, do vậy: Cần có bao nhiêu Chấp hành viên để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao? và làm thế nào để tăng cường năng lực của chấp hành viên để thực hiện công việc thật năng suất, hiệu quả? vẫn đang là những câu hỏi lớn chưa có lời giải đáp một cách thoả đáng. Số lượng chấp hành viên theo đánh giá thì vẫn còn thiếu và yếu, vậy thiếu đến đâu và yếu như thế nào thì cho đến nay vẫn chưa có phân tích, đánh giá, lý giải một cách khoa học và hệ thống. 6
  6. Trong những năm qua, mặc dù các cơ quan chức năng đã có nhiều cố gắng, song vẫn chưa có được một giải pháp hữu hiệu cho việc đào tạo đối với đội ngũ Chấp hành viên. Trên thực tế, lâu nay việc đào tạo Chấp hành viên còn mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ. Việc đào tạo chuẩn hoá trình độ chấp hành viên còn chậm và chưa được quan tâm đúng mức. Công tác đào tạo nghiệp vụ Chấp hành viên tại Học viện tư pháp còn có những hạn chế như: chỉ tiêu được phân bổ hàng năm chưa cao (chỉ 300 Chấp hành viên/năm), đội ngũ giảng viên tuy có kinh nghiệm thực tiễn nhưng lại ít kinh nghiệm về công tác sư phạm, lịch học chưa thực sự phù hợp với các chấp hành viên ở các tỉnh xa, nội dung chương trình đào tạo mới dừng lại ở việc vừa đào tạo, vừa rút kinh nghiệm... Một bộ phận Chấp hành viên sau khi được bổ nhiệm còn gặp rất nhiều lúng túng về các kỹ năng nghiệp vụ cơ bản của hoạt động thi hành án dân sự như: các yêu cầu của việc tống đạt giấy tờ, yêu cầu của quá trình xác minh, kỹ năng lập biên bản, yêu cầu của việc cưỡng chế... Các kỹ năng nghề nghiệp là điều kiện hết sức quan trọng để Chấp hành viên có thể hoàn thành nhiệm vụ. Việc thi hành án không chỉ thực hiện đúng các thủ tục thi hành án mà đòi hỏi chấp hành viên phải hiểu biết pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình, đất đai, doanh nghiệp... Chưa kể, pháp luật ở nước ta thường xuyên thay đổi, nhiều quy định quá chung chung, thiếu rõ ràng, trong khi đó Chấp hành viên không được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn một cách thường xuyên, kịp thời. Điều này đã dẫn đến một thực tế là Chấp hành viên áp dụng không đúng, thiếu thống nhất, thậm chí sai các quy định của pháp luật. Mãi đến năm 2002, chúng ta mới mở được khóa đào tạo nguồn Chấp hành viên đầu tiên, song công tác đào tạo nghề của Chấp hành viên mới chỉ ở bước đầu vừa làm vừa học hỏi và rút kinh nghiệm, nên hiệu quả chưa thực sự như mong muốn; Đặc biệt, hiện nay trước yêu cầu thực hiện chiến lược cải cách tư pháp trong lĩnh vực thi hành án đã được đặt ra trong hai Nghị quyết quan trọng của Bộ Chính trị đó là Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và 7
  7. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 với các định hướng lớn về cải cách, đổi mới trong lĩnh vực thi hành án cần phải được nghiên cứu để luận giải một cách thấu đáo, như: Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không kỳ hạn; Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào chức danh chấp hành viên; Có cơ chế thu hút, tuyển chọn người có tâm huyết, đủ đức, đủ tài vào làm việc tại các cơ quan thi hành án; Mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào chức danh chấp hành viên không chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp, mà còn là các luật gia, luật sư; Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực về ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ chấp hành viên để có thể thi hành tốt các vụ án có yếu tố nước ngoài, v.v... Trong quá trình thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2025, Bộ Tư pháp đã xác định công tác thi hành án dân sự là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trước mắt cũng như lâu dài, đồng thời chuẩn bị các điều kiện cần thiết để giúp Chính phủ quản lý thống nhất công tác thi hành án nói chung. Vì vậy, việc xây dựng đội ngũ chấp hành viên đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có năng lực vững vàng về chuyên môn, nghiệp vụ được coi là điều kiện tiên quyết để đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ thi hành án. Tuy nhiên, hiện nay đội ngũ chấp hành viên nói riêng, cán bộ cơ quan thi hành án dân sự nói chung còn thiếu về số lượng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ đặt ra, kết quả đào tạo bồi dưỡng chưa đạt được nhiều hiệu quả như mong muốn, chưa có các chuyên đề kế hoạch đào tạo lâu dài mang tính chiến lược từ đó giải quyết được các yêu cầu trước mắt và lâu dài trong việc xắp xếp và bố trí các nhiệm vụ đào tạo bồi dưỡng cho cả hệ thống cơ quan thi hành án dân sự nói chung và Chấp hành viên nói riêng. Kết quả đào tạo và những chương trình trọng tâm thể hiện tại Học viện tư pháp chỉ mang vóc dáng đào tạo về nghiệp vụ mang tính bổ trợ kiến thức pháp lý chưa khái quát một cách có hệ thống cho việc đào tạo, bồi dưỡng mang tính chất lâu dài, vì thế việc nâng cao hơn nữa kết quả đào tạo một cách toàn diện về chuyên môn, đạo đức cho đội 8
  8. ngũ Chấp hành viên là nhiệm vụ giải pháp trước mắt và lâu dài mang tính chiến lược của cả hệ thống đặc biệt là Học viện tư pháp trong giai đoạn trước mắt và lâu dài mang tính chiến lược đây là cơ sở để dần hoàn thiện hơn nữa hệ thống cơ quan thi hành án dân sự và đội ngũ chấp hành viên đáp ứng sự mong đợi của nhà nước và nhân dân. Như vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng luôn là cái gốc rễ của cán bộ quyết định cho việc thực hiện nhiệm vụ của cả hệ thống nghành nên việc đào tạo bồi dưỡng làm sao cho trọng tâm, có hệ thống, chất lượng đào tạo bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đất nước là câu hỏi cần được giải đáp một cách khoa học đối với tất cả các nghành các lĩnh vực, Công tác đào tạo Chấp hành viên còn mới mẻ, kinh nghiệm chưa nhiều. Vì vậy, việc lựa chọn đề tài luận văn “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” làm luận văn thạc sĩ luật học góp phần quan trọng trong quá trình nâng cao năng lực thi hành án dân sự nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong thời gian tới. Tình hình nghiên cứu của đề tài: Ở Việt Nam, việc nghiên cứu vấn đề ĐTBD đội ngũ cán bộ tư pháp nói chung trong đó có CHVTHADS nói riêng luôn được Đảng và nhà nước ta quan tâm, đặc biệt kể từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, các chương trình kế hoạch cải cách tư pháp của Ban Cải cách tư pháp Trung ương và của ngành Thi hành án dân sự nói riêng và được cụ thể hóa bằng các chương trình đào tạo do Tổng cục thi hành án dân sự và Học viện tư pháp tổ chức thực hiện, Kết quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức trong hệ thống Nghành thi hành án nói chung và đào tạo, bồi dưỡng Chấp hành viên nói riêng đã nang tính bài bản có hệ thống các chức danh được quan tâm xây dựng trên cơ sở các điều kiện cần và đủ, chất lượng đào tạo đáp ứng yêu cầu, số lượng đào tạo phù hợp với nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra của xã hội, công tác bồi dưỡng được thực hiện đình kỳ theo chuyên đề hàng năm cững như các chuyên đề cụ thể được cập nhật đã tạo cho cán bộ, công chức và chấp hành viên linh hoạt và đủ điều kiện cơ sở bắt kịp các quy định của pháp luật, nhiều sự quan tâm của ngành trong đào tạo mở (đào tạo các chức danh thạc sĩ, tiến sĩ, cao cấp lý luận chính 9
  9. trị......được quan tâm và xem, như nhiệm vụ trong tâm của nghành đối với một số chức danh chủ chốt và dần mở rộng đối với toàn bộ hệ thống cán bộ nói chung. Đay là những bức đệm quan trọng mang tính tích cực để dần hoàn thiện một cơ chế đào tạo bồi dưỡng mang tính chát hệ thống và lâu dài khẳng định qua chất lượng của chấp hành viên và kết quả thi hành án dân sự hàng năm của toàn hệ thống. Làm tốt hơn nữa vấn đề này vai trò của tổng cục thi hành án, học viện tư pháp là rất quan trọng song song với những kết quả đạt được vẫn còn nhiều những bất cấp về chất lượng đội ngũ chấp hành viên mà nòng cốt là công tác đào tạo bồi dưỡng vẫn còn là một trong những vấn đề cần được quan tâm cần xây dựng thành một đề án có tính chiến lược đáp ứng được yêu cầu lâu dài và định hướng đúng đắn phù hợp trong công tác đào tạo bồi dưỡng. Bởi vậy, cũng có nhiều tác giả, nhiều công trình, Luận văn nghiên cứu, đánh giá và đề cập chuyên sâu về vấn đề này. Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến như - Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa của tác giả Đỗ Thành Nam. - Hoàn thiện địa vị pháp lý của chấp hành viên trong thi hành án dân sự tại Việt Nam của tác giả Nguyễn Thị Phíp. - Vai trò của Nhà nước trong lĩnh vực Thi hành án dân sự qua thực tiễn tại Thanh Hóa của tác giả Lê Trung Kiên. - Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang của tác giả Nguyễn Thành Bắc. - Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh Đồng Tháp của tác giả Vũ Quang Hiện. - Thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự ở tỉnh Đồng Tháp của tácgiả Trần Công Bằng. - Mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan Thi hành án dân sự với cơ quan, tổchức hữu quan trong Thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa của tác giả Vi Trọng Thụ . 10
  10. - Quản lý nhà nước bằng pháp luật trong thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa hiện nay của tác giả Lê Hùng Cường. - Xây dựng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở thành phố Hà Nội của tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân. - Chất lượng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở tỉnh Bắc Giang hiện nay của tác giả Hà Thị Thái. - Công tác thi hành án dân sự ở huyện miền núi Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa của tác giả Trương Anh Quyết. - Góp phần hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự tại Việt Nam hiệnnay của tác giả Lê Hùng Cường.Ngoài ra còn nhiều công trình, đề tài khoa học và các bài viết nghiên cứu của các tác giả khác về một số vần đề lý luận và thực tiễn về thi hành án dân sự và chấp hành viên; nhưng chưa có một công trình nào nghiên cứu dưới góc độ lý luận và thực tiễn về: “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ Chấp hành viên Thi hành án dân sự ở việt nam hiện nay”. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ 2.1. Mục tiêu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, phân tích quy định của pháp luật, đánh giá thực trạng đội ngũ chấp hành viên hiện nay, trên cơ sở đó đề xuất nhu cầu phát triển đội ngũ chấp hành viên và chương trình khung về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự trong thời gian tới đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. 2.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục tiêu đề ra, Luận văn có những nhiệm vụ chính sau đây: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ĐTBD đội ngũ CHV, từ đó làm rõ khái niệm, đặc thù nghề nghiệp chấp hành viên, các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động của chấp hành viên. - Phân tích thực trạng quy định về ĐTBD đội ngũ CHV, theo đó nghiên cứu khái niệm, nội dung và xác định rõ các tiêu chí đánh giá đội ngũ chấp hành viên. 11
  11. - Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng chấp hành viên nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận, những quy định về ĐTBD đội ngũ CHVTHADS. Phạm vi không gian: Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự ở Việt Nam Phạm vi thời gian: Giai đoạn 2015-2020 5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Để thực hiện nhiệm vụ đặt ra, Luận văn xây dựng dựa trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chính Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về ĐTBD cán bộ, công chức. 5.2. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp lịch sử: Thực tiễn cho thấy, hoạt động tư pháp nói chung và THADS nói riêng là một lĩnh vực có bề dày lịch sử. Vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tập trung nghiên cứu cả những vấn đề chúng ta đã làm được, thậm chí có những kinh nghiệm quý báu của cha ông ta đã được luật hóa có giá trị pháp lý. Ngoài ra, trong thời gian qua, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến công tác thi hành án. Vì vậy, việc sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử sẽ giúp tác giả sử dụng kết quả đã được nghiên cứu nay vẫn còn có giá trị thực tiễn, giá trị chứng minh để làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu của Luận văn, đồng thời đảm bảo tránh sự trùng lắp. 12
  12. - Phương pháp phân tích: Phân tích các định hướng phát triển nhất là địnhhướng cải cách tư pháp, các điều kiện khách quan, chủ quan, vấn đề kinh tế, xã hội của Việt nam; phân tích thực trạng đội ngũ CHV và phân tích các quy định PL có liên quan để làm rõ cơ sở thực tiễn và khoa học lý luận về phát triển đội ngũ CHV mà cụ thể là vấn đề đào tạo đội ngũ CHV. - Phương pháp so sánh: Để việc nghiên cứu có hiệu quả, mỗi vấn đề được đưa ra đều có sự so sánh, đối chiếu, kể cả so sánh đối chiếu với kinh nghiệm của một số nước, làm cơ sở cho việc vận dụng linh hoạt những nội dung đã được kiểm nghiệm có hiệu quả của nước ngoài phù hợp với tình hình của nước ta. Tránh sự sao chép máy móc kinh nghiệm của nước ngoài. - Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở những nghiên cứu lý luận và thực tế, tổng hợp các kết quả thu được, đưa ra phương hướng, giải pháp về nhu cầu phát triển đội ngũ chấp hành viên và xây dựng chương trình đào tạo theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Luận văn nghiên cứu làm rõ một số nội dung sau: - Làm rõ khái niệm, đặc điểm, nội dung của ĐTBD đội ngũ CHVTHADS của Việt Nam hiện nay - Đánh giá những kết quả, hạn chế và nguyên nhân những hạn chế trong công tác ĐTBD đội ngũ đội ngũ CHVTHADS của Việt Nam hiện nay -Từ đó đề ra những giải pháp có tính khoa học và phù hợp với thực tế nhằm nâng cao hiệu quả ĐTBD các chức danh tư pháp và đội ngũ đội ngũ CHVTHADS của Việt Nam trong thời gian tới. Kết quả của Luận văn được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng chiến lược ĐTBD đội ngũ CHVTHADS của Việt Nam. Đồng thời, kết quả đó cũng được sử dụng vào việc đổi mới các nội dung có liên quan trong thực tiễn thực hiện ĐTBD đội ngũ đội ngũ CHVTHADS của Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của Luận văn 13
  13. Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương. Chương 1. Cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội ngũ CHVTHADS. Chương 2. Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội ngũ CHVTHADS ở Việt Nam hiện nay. Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ đội ngũ CHVTHADS ở Việt Nam hiện nay. 14
  14. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ CHẤP HÀNH VIÊN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ I. Khái niệm, đặc điểm về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ chấp hành viên thi hành án dân sự. 1. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng. 1.1. Khái niệm về đào tạo. Đào tạo là quá trình truyền thụ tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học từ đó tạo ra một đội ngũ có kiến thức bằng cấp cơ bản tương ứng với các nghạch, bậc và trình độ chuyên môn được đào tạo (Trích nội dung Quyết định số 273/QĐ-BTP năm 2008) Đào tạo được hiểu là một quá trình hoạt động có tổ chức và mục đích hình thành và phát triển hệ thống các tri thức, kỹ xảo,…để hoàn thiện một cá nhân, với mục tiêu để cho họ có thể thực hiện công việc một cách có năng suất và hiệu quả. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, đào tạo là: Quá trình tác động đến một con người nhằm làm cho con người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống, nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng một sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào việc phát triển xã hội. Duy trì và phát triển nền văn minh loài người, về cơ bản đào tạo là giảng dạy và học tập ở nhà trường gắn với việc giáo dục đạo đức và nhân cách. Theo Đại Từ điển tiếng Việt: “Đào tạo là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp: Đào tạo thành người có tri thức, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ”. Theo các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam “đào tạo” như Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về ĐT,BD cán bộ, công chức đã đưa ra cách hiểu về ĐTBD:“Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học” 15
  15. Từ các quan niệm trên trong phạm vi nghiên cứu của luận văn “đào tạo” có thể được hiểu là quá trình trang bị kiến thức nghề nghiệp chuyên môn và kinh nghiệm cho một chủ thể để họ có thể thực hiện công việc một cách độc lập trong một điều kiện nhất định. Đào tạo là một quá trình hoạt động có tổ chức và mục đích nhằm trang bị những kiến thức, kỹ năng một cách có hệ thống nhằm làm hình thành và những tri thức thông qua giảng dạy, học tập, rèn luyện của chủ thể. Đào tạo có thể được thực hiện ở các cơ sở đào tạo như: Trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp, Trường dạy nghề…. Đào tạo cũng có thể được thực hiện qua việc tự rèn luyện, hoặc có thể được thực hiện thông qua. Đào tạo còn có được hiểu l một quá trình truyền thụ những kiến thức mới, cơ bản một cách có hệ thống để chủ thể được đào tạo qua đó có kiến thức, trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao hơn. Ví dụ: Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho CHVTHADS (đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ). Trong nội dung luận văn này đào tạo được hiểu là: Đào tạo là quá trình trang bị tri thức và kỹ năngmột cách toàn diện cho con người qua sự học tập và rèn luyện tích cực, chủ động của người đó. 1.2. Khái niệm về bồi dưỡng. Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật nâng cao kiến thức kỹ năng làm việc bổ sung các quy định mới trong lĩnh vực công tác hoặc các lĩnh vực khác có liên quan cho cán bộ, công chức hoặc người được bồi dưỡng, việc bồi dưỡng mang tính chất ngắn hạn hoặc bổ sung thêm các kiến thức, các quy định mới ở một giai đoạn một thời gian cụ thể. Bên cạnh đó theo Đại từ điển tiếng Việt: bồi dưỡng là làm khoẻ thêm, mạnh thêm. Làm cho tốt hơn, giỏi hơn. Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 của Chính phủ về ĐTBD cán bộ, công chức, viên chức định nghĩa bồi dưỡng, “bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc”. Như vậy, bồi dưỡng là công việc thường được thực hiện sau đào tạo hoặc trong quá trình đào tạo, với mục đích bổ sung kiến thức hoặc trang bị thêm những kiến 16
  16. thức mới cho một bộ phận một hệ thống đã được thông qua việc đào tạo về chuyên nghành và đang thực hiện nhiệm vụ được giao liên quan đến các kiến thức cần được cập nhật tại các chương trình bồi dưỡng đòi hỏi việc bồi dưỡng phải mang tính chất linh động phù hợp đáp ứng kịp thời yêu cầu về mặt thời gian chất lượng trọng tâm trong công tác bồi dưỡng tạo sự gắn kết giữa người được bồi dưỡng và kiến thức được bồi dưỡng từ đó trang bị cho họ có đủ điều kiện, phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Kết quả của các khoá bồi dưỡng là người học nhận được những chứng chỉ kết quả khóa bồi dưỡng. Qua những luận giải ở trên, có thể đưa ra khái niệm: Bồi dưỡng là việc bổ sung kiến thức cho người đang thực hiện những công việc trong những lĩnh vực nhất định với mục đích cho họ có được kỹ năng và trình độ cao hơn để đáp ứng tốt hơn các yêu cầu, tiêu chuẩn của công việc. Theo quy định mới của Luật Cán bộ, công chức năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2019 thì khái niệm công chức được hiểu là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. 1.3. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng chấp hành viên thi hành án dân sự Theo quy định của Đảng và nhà nước cũng như cụ thể hóa tại Luật thi hành án dân sự (Điều 17 Luật thi hành án dân sự sủa đổi, bổ sung năm 2014) 17
  17. Chấp hành viên thi hành án dân sự trước hết là công chức. Đồng thời cũng là người được nhà nước giao nhiệm vụ thi hành những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật giữ vai trò trung tâm trong các hoạt động thi hành án dân sự. Theo Từ điển Luật học thì: Chấp hành viên thi hành án dân sự là công chức ngành tư pháp. Người được Nhà nước giao trách nhiệm tổ chức thi hành bản án, quyết định về dân sự của Toà án Việt Nam và bản án, quyết định về dân sự của Toà án nước ngoài đã được Toà án Việt Nam công nhận [2]. Theo quy định tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 thì: Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật đồng thời quy định Chấp hành viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp. Tuy nhiên, Chấp hành viên là chức danh gì và có đặc thù ra sao thì hiện nay đang có nhiều ý kiến khác nhau. Liên quan đến vấn đề này, đa số ý kiến cho rằng, Chấp hành viên là chức danh tư pháp, được pháp luật quy định nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng (tương tự như chức danh Kiểm sát viên và Thẩm phán). Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng Chấp hành viên là công chức hành chính - tư pháp vì xuất phát từ đặc thù của hoạt động thi hành án là hoạt động mang tính chất hành chính - tư pháp. Về vấn đề này qua nghiên cứu cho thấy, Chấp hành viên là một chức danh tư pháp, được pháp luật quy định nhiều nhiệm vụ, quyền hạn quan trọng. Bởi vì, khác với hoạt động của các cơ quan hành chính, hoạt động của cơ quan thi hành án phần lớn thông qua vai trò hoạt động của các cá nhân những người được Nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án là Chấp hành viên. Mỗi quyết định của CHV có liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên có liên quan, đồng thời liên quan trực tiếp đến hiệu lực của bản án, quyết định nhân danh Nhà nước của Toà án. Ngoài sự vô tư, khách quan của CHV, một trong những yêu cầu không thể thiếu đó là khi thực thi nhiệm vụ, CHV độc lập, tuân theo bản án, 18
  18. quyết định của Toà án và theo quy định của PL. Tính độc lập được hiểu là trong quá trình thi hành án, dựa vào niềm tin nội tâm của mình, CHV chỉ tuân theo PL và bản án, quyết định của Toà án, chịu trách nhiệm trước PL và được PL bảo vệ. Các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, công dân… nếu không được PL cho phép, không được can thiệp làm cho việc thi hành án không đúng với nội dung bản án, quyết định của Toà án hoặc làm chậm tiến độ thi hành án, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của các bên có liên quan. Báo cáo số 164/BC-UBTVQH12 ngày 22/10/2008 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 12 về việc giải trình tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Thi hành án dân sự cũng cho rằng: “Chấp hành viên là một chức danh tư pháp gắn với việc thực hiện nghiệp vụ chuyên môn về thi hành án dân sự, việc bổ nhiệm không theo nhiệm kỳ sẽ tạo ra sự yên tâm để Chấp hành viên làm tốt công tác thi hành án, điều này cũng không làm hạn chế đến việc xử lý kỷ luật nếu Chấp hành viên có vi phạm, hoặc miễn nhiệm nếu không đủ năng lực, điều kiện làm Chấp hành viên. Vì vậy, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng quy định việc bổ nhiệm Chấp hành viên thông qua thi tuyển và không có nhiệm kỳ là phù hợp với định hướng của Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ chính trị: “Nghiên cứu thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp. Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ bổ nhiệm không có kỳ hạn”. Chấp hành viên có 3 nghạch là Chấp hành viên sơ cấp. Chấp hành viên trung cấp, Chấp hành viên cao cấp. Việc bổ nhiệm Chấp hành viên thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ tư pháp, công tác đào tạo bồi dưỡng Chấp hành viên được cụ thể hóa tại Luật thi hành án dân sự và các văn bản hướng dẫn. Chấp hành viên là chức danh tư pháp, được nhà nước giao trách nhiệm thi hành các bản án, quyết định của Toà án, độc lập, tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CHVTHADS là việc tổ chức thực hiện hoạt động ĐTBD cho đội ngũ CHVTHADS, trong đó đào tạo là trang bị những kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ cần thiết cho CHVTHADS nhằm đáp ứng điều kiện tiêu chuẩn của ngạch bậc; bồi dưỡng là việc 19
  19. tổ chức thực hiện hoạt động bổ sung, cập nhật kiến thức mới hoặc rèn luyện thêm các kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ CHVTHADS nhằm giúp họ nâng cao năng lực trong thực hiện nhiệm vụ được giao. Như vậy đào tạo Chấp hành viên là việc Tổng cục Thi hành án, Bộ Tư pháp xây dựng chương trình kế hoạch, chọn lọc trên hệ thống thi hành án dân sự toàn quốc các cán bộ công chức đủ điều kiện về mặt trình độ, thời gian, năng lực tham gia lớp đào tạo Chấp hành viên (Sơ cấp, trung cấp, cao cấp) tại Học viện Tư pháp bằng hình thức tập trung có thời hạn tối thiểu từ 06 tháng trở lên. Sau khóa đào tạo người được đào tạo được trang bị những kiến thức cơ bản và đủ các điều kiện về mặt tiêu trí để tham gia thi tuyển vào các ngạch chấp hành viên theo quy định. Song song trong công tác đào tạo chuyên nghành hiện nay Bộ tư pháp, tổng cục thi hành án đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo thêm kiến thức pháp luật nói chung, và trang bị nhận thức lý luận chính trị cho đội ngũ chấp hành viên và cán bộ, công chức bằng các hình thức khuyến khích tham gia các khóa đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ và cao hơn cử cán bộ chủ chốt đủ điều kiện học các lớp cao cấp lý luận chính trị và dần mở rộng đến tác đối tượng trong nguồn quy hoạch đây được đánh giá là những bước tiến quan trọng trong công tác đào tạo để có đội ngũ cán bộ chấp hành viên mang tính chiến lược lau dài. Về công tác bồi dưỡng chấp hành viên được hiểu là việc xây dựng các chương trình để bổ trợ kiến thức pháp luật đạo đức nghề nghiệp nhằm đáp ứng một mục tiêu quan trọng đó là nâng cao kỹ năng thực thi nhiệm vụ, việc bồi dưỡng có thể mang tính toàn diện trên cả hệ thống cũng có thể mang tính chọn lọc từng vùng từng đơn vị với các chuyên đề phù hợp. Hiện nay công tác bồi dưỡng đã cơ bản được thực hieenj thường xuyên đúng với các mục tiêu và đối tượng nhắm đến nhưng chất lượng sau bồi dưỡng vẫn còn hạn chế bất cập cần được xem xét để có giải pháp phù hợp. 2. Đặc điểm của đào tạo, bồi dưỡng Chấp hành viên thi hành án dân sự 20
  20. Một là, ĐTBD đội ngũ CHVTHADS là việc tổ chức thực hiện hoạt động ĐTBD gắn liền với vị trí và nhiệm vụ của CHVTHADS và theo tiêu chuẩn của từng ngạch bậc CHVTHADS và từng lĩnh vực công tác. Bộ Tư pháp trên cơ sở của việc quy định chức năng nhiệm vụ cụ thể của CHVTHADS cần phải xác định năng lực cần thiết, từ đó thực hiện công tác tuyển dụng, bố trí, sử dụng đội ngũ CHVTHADS. Điều đó đòi hỏi hoạt động đào tạo phải xác định được nội dung, hình thức, mô hình và phương pháp ĐTBD phù hợp với từng ngạch CHVTHADS. Cụ thể là, đối với để thi nâng ngạch phải qua bồi dưỡng trung cấp lý luận chính trị; Đối với bồi dưỡng nghiệp vụ cho CHVTHADS, về nội dung, cần bồi dưỡng chuyên sâu về chuyên môn theo từng khâu nghiệp vụ. CHVTHADS thực hiện ở khâu công tác nghiệp vụ nào thì sẽ được bồi dưỡng nghiệp vụ ở khâu công tác đó, nhằm nâng cao chất lượng, kỹ năng thực nhiệm vụ theo hướng chuyên môn hoá. Hai là, ĐTBD đội ngũ CHVTHADS là việc ĐTBD kỹ năng hành nghề cho người làm nghề, nhưng là loại hình nghề nghiệp đặc thù, vì thế nội dung, phương pháp, chủ thể thực hiện việc ĐTBD cũng có những đòi hỏi khác biệt Nội dung ĐTBD không chỉ có trang bị, cập nhật kiến thức mà còn trang bị, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp, trong đó đề cao việc ĐTBD kỹ năng nghề nghiệp. Phương pháp ĐTBD đòi hỏi sự kết hợp linh hoạt giữa thuyết trình với các phương pháp có sự tham gia của người học, trong đó các phương pháp có sự tham gia của người học giữ vai trò chủ đạo. Chủ thể đào tạo là những giảng viên không chỉ là đội ngũ giảng viên cơ hữu của cơ sở ĐTBD mà bao gồm được sự tham gia của đội ngũ giảng viên kiêm chức là các CHVTHADS có kinh nghiệm, có chuyên môn cao, trong đó coi trọng phát triển đội ngũ giảng viên kiêm chức bên cạnh việc chăm lo bồi dưỡng nghiệp vụ thực tiễn cho đội ngũ giảng viên cơ hữu. Ba là, ĐTBD đội ngũ CHVTHADS gắn với quy hoạch, kế hoạch bố trí, sử dụng cán bộ, công chức của ngành thi hành án 21
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2