intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật của các nước đang phát triển và Việt Nam về chống bán phá giá

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:100

35
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề cơ bản về bán phá giá, chống bán phá giá và tình hình chống bán phá giá trên thế giới trong thời gian qua; từ đó đi sâu nghiên cứu pháp luật, thực trạng chống bán phá giá và các kinh nghiệm của các nước đang phát triển nói chung và một số quốc gia điển hình về chống bán phá giá trong nhóm các nước đang phát triển như Braxin, Ấn Độ, Trung Quốc và một số nước khu vực Đông Nam Á.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật của các nước đang phát triển và Việt Nam về chống bán phá giá

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ THỊ THÚY HẰNG PHÁP LUẬT CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ VIỆT NAM VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2012 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VÕ THỊ THÚY HẰNG PHÁP LUẬT CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ VIỆT NAM VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Chuyên ngành : Luật quốc tế Mã số : 60 38 60 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đoàn Năng HÀ NỘI - 2012 2
  3. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ MỞ ĐẦU 1 Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ CÁC QUY 5 ĐỊNH QUỐC TẾ VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 1.1. Khái quát chung về bán phá giá 5 1.1.1. Khái niệm bán phá giá 5 1.1.2. Lịch sử pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại 8 quốc tế 1.2. Vai trò của pháp luật chống bán phá giá 10 1.3 Quy định quốc tế về chống bán phá giá 13 1.3.1. Khái quát chung về Hiệp định chống bán phá giá của WTO 13 1.3.2. Các điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá theo WTO 15 1.3.3. Các biện pháp chống bán phá giá 19 1.3.4. Thời hạn áp dụng và thủ tục xem xét lại thuế chống bán 22 phá giá 1.4. Tình hình bán phá giá và chống bán phá giá trên thế giới 24 trong thời gian qua 3
  4. 1.4.1. Phân loại các quốc gia 24 1.4.2. Tổng quan tình hình bán phá giá và chống bán phá giá 26 1.4.3. Thực trạng chống bán phá giá ở các nước phát triển 29 1.4.4. Thực trạng chống bán phá giá ở các nước đang phát triển 30 Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT 33 MỘT SỐ NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 2.1. Pháp luật chống bán phá giá của Braxin 34 2.1.1. Nội dung quy định pháp luật về chống bán phá giá 35 2.1.2. Thực trạng chống bán phá giá của Braxin 38 2.2. Pháp luật chống bán phá giá của Ấn Độ 39 2.2.1. Nội dung quy định pháp luật về chống bán phá giá 39 2.2.2. Thực trạng chống bán phá giá của Ấn Độ 44 2.3. Pháp luật chống bán phá giá của Trung Quốc 47 2.3.1. Nội dung quy định pháp luật về chống bán phá giá 47 2.3.2. Thực trạng chống bán phá giá của Trung Quốc 51 2.4. Pháp luật chống bán phá giá của một số quốc gia ASEAN 54 2.4.1. Pháp luật chống bán phá giá của Indonesia 54 2.4.2. Pháp luật chống bán phá giá của Thái Lan 56 2.4.3. Pháp luật chống bán phá giá của Philippin 59 Chương 3: VẤN ĐỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA VIỆT NAM VÀ 62 MỘT SỐ GIẢI PHÁP 3.1. Vấn đề chống bán phá giá ở Việt Nam 62 3.1.1. Pháp luật chống bán phá giá của Việt Nam 62 3.1.2. Thực trạng bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam 70 4
  5. 3.1.3. Những vấn đề đặt ra trong công tác chống bán phá giá của 76 Việt Nam 3.2. Một số giải pháp chống bán phá giá của Việt Nam 78 3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về chống bán phá giá của 78 Việt Nam 3.2.2. Tăng cường quản lý thị trường, đấu tranh ngăn chặn tệ nạn 82 buôn lậu, chống gian lận thương mại 3.2.3. Phát huy vai trò của các Hiệp hội ngành hàng trong các cuộc 83 điều tra chống bán phá giá 3.2.4. Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp 86 KẾT LUẬN 87 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89 5
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADA : Hiệp định thực thi Điều VI của Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan 1994 (Hiệp định Chống bán phá giá của WTO) ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á CAMEX : Hội đồng thương mại Braxin DECOM : Ban tự vệ thương mại trực thuộc Ủy ban Ngoại thương Braxin DGAD : Ban về Chống bán phá giá và các Biện pháp tương tự của Bộ Thương mại Ấn Độ EU : Liên minh Châu Âu FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài GATT : Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan SECEX : Ủy ban Ngoại thương Braxin WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới 6
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Tình hình điều tra chống bán phá giá của Braxin 38 2.2 Tính toán giá trị thông thường trong các vụ kiện bán phá 41 giá do Ấn Độ tiến hành (1997-2003) 2.3 Các vụ điều tra chống bán phá giá do Ấn Độ tiến hành 45 giai đoạn 1995-2010 2.4 Các vụ điều tra bán phá giá do Ấn Độ tiến hành (phân 45 theo mặt hàng) giai đoạn 1995-2010 2.5 10 quốc gia là đối tượng kiện chống bán phá giá thường 46 xuyên nhất của Ấn Độ giai đoạn 1995-2010 2.6 Các vụ kiện chống bán phá giá hàng hóa Ấn Độ 47 2.7 Các vụ điều tra chống bán phá giá do Trung Quốc tiến 51 hành giai đoạn 1995-2010 2.8 Các vụ điều tra bán phá giá do Trung Quốc tiến hành 52 (phân theo mặt hàng), 1995-2010 2.9 Các vụ điều tra bán phá giá do Indonesia thực hiện giai 56 đoạn 1995 - 2010 7
  8. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ 1.1 Xu hướng điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá 27 trên thế giới 1.2 So sánh số lần áp dụng thuế chống bán phá giá giữa các 28 nước đang phát triển và phát triển 8
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng đã tạo ra các thách thức to lớn cho các quốc gia cùng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường thế giới. Các quốc gia này phải đối mặt với những khó khăn trong đẩy mạnh xuất khẩu do các nước nhập khẩu đã tận dụng những qui định mở để tạo ra những rào cản mới như chống bán phá giá, chống trợ cấp...để bảo hộ sản xuất trong nước. Kể từ khi Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập năm 1995 cho đến nay, công cụ chống bán phá giá ngày càng được áp dụng rộng rãi bởi nhiều quốc gia. Tuy nhiên, một nét mới của vấn đề này đó là các nước đang phát triển đang dần trở thành những nước áp dụng biện pháp chống bán phá giá nhiều nhất trên thế giới, hơn cả những quốc gia phát triển khác như Mỹ và Liên minh châu Âu (EU). Các nước này là đối tượng thường xuyên của điều tra bán phá giá nhưng cũng đồng thời áp dụng khá phổ biến biện pháp này đối với các quốc gia khác. Việt Nam cũng là một quốc gia đang phát triển và là thành viên của WTO. Việc mở cửa nền kinh tế, tham gia ngày càng tích cực vào thị trường khu vực và quốc tế đang đặt ra cho nền kinh tế Việt Nam nhiều vấn đề của thương mại quốc tế, trong đó có vấn đề bán phá giá. Việt Nam vừa có nguy cơ là đối tượng của hành vi bán phá giá của các nước xuất khẩu khác, đồng thời cũng có nguy cơ bị áp đặt các 9
  10. biện pháp chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu ra nước ngoài. Đặc biệt, việc mở rộng thị trường, giảm mạnh các hàng rào thuế quan và nhập khẩu tăng mạnh tạo thuận lợi cho việc hàng hóa nước ngoài ồ ạt vào thị trường Việt Nam. Điều này dễ dẫn đến xảy ra hiện tượng bán phá giá của hàng hóa nước ngoài. Để bảo vệ sản xuất trong nước và tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trong thương mại, chúng ta cần có những giải pháp, nghiên cứu cụ thể về vấn đề này. Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài "Pháp luật của các nước đang phát triển và Việt Nam về chống bán phá giá" để làm Luận văn Thạc sĩ Luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề chống bán phá giá đã thu hút được nhiều đối tượng nghiên cứu từ các Bộ ngành chủ chốt như Vụ Chính sách thương mại đa biên - Bộ Công thương với nghiên cứu "Cơ sở khoa học áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế" (2002) đã đi vào phân tích một số mô hình áp dụng thuế chống bán phá giá của một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra những kiến nghị cho việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam. Đề tài "Chủ động ứng phó với các vụ kiện chống bán phá giá trong thương mại quốc tế" (2005) của Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương, đã đi vào nghiên cứu kinh nghiệm đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá hàng hóa xuất khẩu của một số nước tiêu biểu trên thế giới, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp cho Việt Nam. Bên cạnh đó, nhiều nhà kinh tế và pháp lý cũng có những công trình đề cập đến lĩnh vực này: "Pháp luật chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" (Đoàn Trung Kiên, Đại học Luật Hà Nội, Luận văn Tiến sĩ, 2010), "Pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế về những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam" (Vũ Thị 10
  11. Phương Lan, Đại học Luật Hà Nội, Luận văn Tiến sĩ, 2011), "Thuế chống bán phá giá ở một số nước thành viên WTO và một số gợi ý cho Việt Nam" (Mai Quỳnh Phương, Khoa Luật, Luận văn Thạc sĩ, 2009), "Một số vấn đề cơ bản về pháp luật chống bán phá giá của WTO" (Trần Văn Hải, Khoa Luật, Luận văn Thạc sĩ, 2007),… và nhiều bài nghiên cứu trên các báo, tạp chí chuyên ngành. Các luận án, bài viết tập trung vào các vấn đề như nghiên cứu pháp luật chống bán phá giá của WTO, Hoa Kỳ, EU…, đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá từ nước ngoài, chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào thị trường nội địa Đối với luận văn này, trên cơ sở tham khảo một số tài liệu có liên quan, tác giả đã tiếp cận vấn đề một cách mới mẻ. Từ việc nghiên cứu pháp luật chống bán phá giá của các nước đang phát triển, có tình hình kinh tế, xã hội, pháp luật phần nào tương đồng với Việt Nam và đưa ra một số kinh nghiệm về chống bán phá giá cho nước ta. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ những vấn đề cơ bản về bán phá giá, chống bán phá giá và tình hình chống bán phá giá trên thế giới trong thời gian qua; từ đó đi sâu nghiên cứu pháp luật, thực trạng chống bán phá giá và các kinh nghiệm của các nước đang phát triển nói chung và một số quốc gia điển hình về chống bán phá giá trong nhóm các nước đang phát triển như Braxin, Ấn Độ, Trung Quốc và một số nước khu vực Đông Nam Á. Trên cơ sở đó, nghiên cứu vấn đề bán phá giá và chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu tại thị trường Việt Nam và học hỏi kinh nghiệm từ các nước đang phát triển, đưa ra những giải pháp đối với vấn đề này. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Các quy định chung về bán phá giá, chống bán phá giá và Hiệp định về Chống bán phá giá của WTO - cơ sở chung nhất cho mọi luật quốc gia liên 11
  12. quan tới chống bán phá giá. Pháp luật và tình hình chống bán phá giá của các nước đang phát triển (Braxin, Ấn Độ, Trung Quốc, một số nước Đông Nam Á) và Việt Nam. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích - tổng hợp, khái quát hóa, khảo sát thực tiễn và đặc biệt là phương pháp so sánh luật học để giải quyết các vấn đề mà nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài đặt ra. 6. Những đóng góp mới của luận văn Luận văn làm rõ hơn một số vấn đề chung về bán phá giá và chống bán phá giá; phân tích và làm sáng tỏ thêm quy định của WTO về chống bán phá giá, quy định pháp luật và thực trạng hoạt động chống bán phá giá ở một số nước đang phát triển điển hình như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và các nước ASEAN. Luận văn hệ thống hóa và làm sáng tỏ hơn các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chống bán phá giá, có sự đối chiếu, so sánh với các quy định về chống bán phá giá của WTO và một số nước đang phát triển điển hình. Từ đó, luận văn chỉ ra những hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá và đề xuất được một vài giải pháp có cơ sở khoa học và thực hiện nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam hiện hành về chống bán phá giá. 7. Kết cấu của luận văn 12
  13. Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về bán phá giá và các quy định quốc tế về chống bán phá giá. Chương 2: Thực trạng các quy định pháp luật của một số nước đang phát triển về chống bán phá giá. Chương 3: Vấn đề chống bán phá giá của Việt Nam và một số giải pháp. 13
  14. Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁN PHÁ GIÁ VÀ CÁC QUY ĐỊNH QUỐC TẾ VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BÁN PHÁ GIÁ 1.1.1. Khái niệm bán phá giá Định nghĩa theo góc độ ngôn ngữ: Từ trước đến nay, người ta thường hiểu một cách đơn giản, "bán phá giá" nghĩa là bán dưới giá thị trường. Ví dụ như tại một khu chợ các sạp hàng rau đều bán một bó rau muống với giá 8.000 đồng, tuy nhiên có một cửa hàng bán với giá 5.000 đồng, thì hành động đó bị coi là bán phá giá. Đối với thực trạng quan hệ thương mại quốc tế hiện nay, cách hiểu trên là không đúng. Từ điển tiếng Việt trực tuyến, phiên bản ngày 18/3/2004 của Trung tâm Từ điển học Việt Nam quy định: bán phá giá là việc bán ồ ạt hàng hóa với giá thấp hơn giá thị trường, thậm chí chịu lỗ, để tăng khả năng cạnh tranh và chiếm đoạt thị trường. Đại từ điển Trung Việt - do Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam - Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành năm 1999 quy định: bán phá giá là bán với giá thấp hơn giá chung của thị trường để nhằm cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường (trang 96) [Dẫn theo: 7, tr. 4]. Như vậy, các cách hiểu về bán phá giá như trên đều có đặc điểm chung là việc bán hàng hóa với giá thấp hơn giá thị trường. Tuy nhiên, theo cách hiểu thông thường bán phá giá là bán dưới giá thị trường thì khái niệm không quan tâm đến mục đích của việc bán phá giá là gì, có nhằm mục đích cạnh tranh, chiếm đoạt thị trường hay không. Vì vậy rất khó để xác định chính xác hành động đó có được coi là bán phá giá. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường, cứ giá nào có người mua thì người ta có quyền bán, hơn nữa có thể hàng hóa của họ là hàng hóa dư thừa, tồn kho, bị kém chất lượng, mất mốt 14
  15. hoặc có nhu cầu quay vòng vốn nhanh... nên cần phải bán dưới giá thị trường để tiêu thụ được hàng hóa. Tuy nhiên định nghĩa thuật ngữ bán phá giá của từ điển Tiếng Việt trực tuyến, hay Đại Từ điển Trung - Việt không chỉ quan tâm đến hiện tượng bán thấp hơn giá thị trường mà còn chú trọng đến cả mục đích của hành động bán dưới giá thị trường là để tăng khả năng cạnh tranh và chiếm đoạt thị trường. Như vậy theo các cách định nghĩa này, bán phá giá thực chất là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh, cần phải ngăn chặn và có biện pháp xử lý để duy trì sự ổn định của thị trường. Thuật ngữ bán phá giá trong Tiếng Anh được dịch ra là: "dumping". thuật ngữ này có nhiều nghĩa khác nhau, theo nghĩa thông thường "dumping" có nghĩa là vứt bỏ những thứ không thích (to get rit of something you do not want). còn nghĩa được dùng trong thương mại là "to get rit of goods by selling them at a very low price, often in another country", có nghĩa là bán tống một hàng hóa ở mức giá rất thấp, thường là bán ra nước khác (Từ điển Oxford Advanced Genie - xuất bản lần thứ 6 - Oxford University Press 2000) [Dẫn theo: 25, tr. 6-7]. Như vậy theo nghĩa chuyên ngành thì "dumping" được hiểu là bán phá giá và để xác định hành động bán phá giá người ta quan tâm đến mức giá bán và có sự so sánh giữa thị trường các nước khác nhau. Có thể thấy những cách hiểu thông thường của các ngôn ngữ khác nhau về thuật ngữ bán phá giá đều phản ánh không đầy đủ, nhưng đã nói lên phần nào đặc trưng của bán phá giá. đó là đặc trưng bán hàng ở một mức giá rất thấp, với mục tiêu nâng cao khả năng cạnh tranh và chiếm đoạt thị trường mà thông thường là ở thị trường nước ngoài. Định nghĩa theo góc độ pháp lý: Trong thương mại quốc tế, bán phá giá được hiểu là sự phân biệt giá cả giữa các thị trường quốc gia. Với cách hiểu này thì bán phá giá có thể xảy 15
  16. ra các tình huống khác nhau, có thể là: người sản xuất/người xuất khẩu bán hàng hóa của mình tại thị trường trong nước với giá thấp hơn giá bán hàng hóa đó ở thị trường nước ngoài; hoặc người sản xuất/người xuất khẩu bán hàng hóa đó ở thị trường trong nước với giá cao hơn giá bán hàng hóa đó ở nước ngoài; hoặc người sản xuất/người xuất khẩu bán hàng hóa của mình với các mức giá khác nhau ở các thị trường nước ngoài khác nhau. Như vậy, điểm mấu chốt của cách hiểu này là sự phân biệt giá cả của cùng một hàng hóa ở các thị trường quốc gia khác nhau, bất luận là cao hơn hay thấp hơn được tính ở mỗi thị trường quốc gia. Tuy nhiên, trong các tình huống có thể xảy ra như phân tích ở trên, thì thực tiễn hoạt động thương mại quốc tế đã chứng minh rằng chỉ có cách hiểu thứ hai đó là hàng hóa được bán ở thị trường trong nước với mức giá cao hơn giá bán hàng hóa đó ở nước ngoài thì mới có thể gây tổn hại đối với nước nhập khẩu, nhất là đối với các nhà sản xuất hàng hóa tương tự ở nước nhập khẩu. Do đó, hành động bán phá giá này mới cần phải ngăn chặn. Với cách tiếp cận này, bán phá giá có thể được hiểu như sau: Bán phá giá là sự phân biệt giá cả mang tính quốc tế, trong đó giá của một hàng hóa khi được bán tại thị trường của nước nhập khẩu với giá thấp hơn giá của hàng hóa đó được bán tại thị trường của nước xuất khẩu. Cách hiểu trên phù hợp với cách hiểu về bán phá giá của WTO. Theo Điều 2, Hiệp định thực thi Điều VI của GATT 1994 thì: Một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn giá trị hàng hóa thông thường của sản phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường [13]. 16
  17. Theo định nghĩa trên, bán phá giá là hành động mang sản phẩm của một nước sang bán ở nước khác với mức Giá xuất khẩu thấp hơn Giá trị thông thường của sản phẩm đó được bán trong nước. Ví dụ: người sản xuất vải ở Trung Quốc bán vải lụa ở thị trường Trung Quốc với giá 20 USD/m, nếu người đó xuất khẩu vải cùng loại sang thị trường Việt Nam và bán với giá 15 USD/m, thì người đó đã có hành động bán phá giá. 1.1.2. Lịch sử pháp luật về chống bán phá giá trong thương mại quốc tế Khái niệm "bán phá giá" trong thương mại quốc tế có một lịch sử lâu đời. Các công trình nghiên cứu về lịch sử thương mại quốc tế đã cho thấy ngay từ cuối thế kỷ XVI, các nhà sản xuất giấy ở Anh đã phàn nàn về hiện tượng những người nước ngoài đem bán giấy với mức giá chịu lỗ nhằm bóp nghẹt nền công nghiệp giấy của Anh. Đến thế kỷ XVII, các thương nhân Hà Lan cũng tiến hành những hoạt động bán hàng hóa với mức giá rất thấp nhằm xóa sổ các thương nhân Pháp ra khỏi vùng Baltic. Vào cuối thế kỷ XVIII, thậm chí các nhà sản xuất Anh quốc còn bị khiếu nại về việc bán giá sản phẩm quá thấp nhằm vùi dập nền công nghiệp sản xuất ở Mỹ. Trong những cuộc tranh luận tại Mỹ năm 1791, Alexander Halinton đã cảnh báo về các thủ pháp của các đối thủ cạnh tranh bán hạ giá tại các nước khác để nhằm mục tiêu chiếm lĩnh thị trường. "Những trường hợp bán phá giá của các nhà sản xuất Anh tại thị trường mới mẻ ở nước Mỹ đã được báo cáo. Cuộc tranh luận của công chúng về vấn đề này, cùng nhiều nỗ lực của ngành lập pháp nhằm đối phó với nó cũng được ghi nhận trong gần hết thế kỷ 19" [10, tr. 28]. Đầu thế kỷ 20, khi việc sử dụng thuế nhập khẩu để ngăn chặn hàng hóa bán phá giá tỏ rõ nhiều bất cập, các quốc gia mới bắt đầu ban hành luật riêng về chống bán phá giá. Canada là nước đầu tiên sửa đổi luật thuế nhập khẩu của mình để có một phần riêng quy định về thuế chống bán phá giá vào năm 1904 và trở thành nước đầu tiên trên thế giới ban hành luật chống bán phá giá. Mô 17
  18. hình pháp luật về chống bán phá giá của Canada nhằm trao quyền kiểm soát chống bán phá giá cho một vài cơ quan có thẩm quyền độc lập trong chính phủ, thường là các cơ quan cũng đồng thời chịu trách nhiệm kiểm soát thuế nhập khẩu và các loại thuế đặc biệt khác. Sau khi được ban hành, pháp luật về chống bán phá giá của Canada đã tỏ rõ tác dụng của nó trong việc bảo hộ các nhà sản xuất nội địa trước luồng hàng hóa giá rẻ từ nước ngoài tràn vào. Do vậy, pháp luật nước này đã nhanh chóng trở thành hình mẫu để các nước khác noi theo. Luật chống bán phá giá được ban hành tại Newzealand năm 1905, Australia năm 1906 và Nam Phi năm 1914. Nước Mỹ có Đạo luật chống bán phá giá năm 1916 và nước Anh có vào năm 1921. Hoạt động bán phá giá tự bản thân nó đã là hoạt động mang tính xuyên quốc gia. Các nước ngay lập tức đã thấy lợi ích của mình bị tác động bởi các hành vi bán phá giá và các biện pháp chống bán phá giá, cho dù đó là nước có doanh nghiệp bán phá giá ra nước khác hay bản thân nền kinh tế nước đó đang bị ảnh hưởng bởi hàng hóa bị bán phá giá. Chính vì vậy, cũng là điều dễ hiểu khi không lâu sau khi bán phá giá trở thành mối quan tâm của chính phủ một số nước thì nó đã trở thành mối quan tâm chung trên phạm vi quốc tế. Liên đoàn các quốc gia (The League of Nations), một trong những tổ chức quốc tế liên chính phủ đầu tiên trên thế giới đã ngay lập tức có sự quan tâm tới bán phá giá mặc dù đây là vấn đề không liên quan trực tiếp tới mục đích mà tổ chức này vẫn theo đuổi là chính trị và ngoại giao. Tuy vậy, những nỗ lực của tổ chức này đối với vấn đề bán phá giá cũng chỉ dừng lại ở việc chủ trì soạn thảo Biên bản ghi nhớ về bán phá giá (Memorandum on Dumping) không có giá trị ràng buộc thực sự về mặt pháp lí đối với các quốc gia thành viên [10, tr. 30]. Khi xây dựng Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT) năm 1947, một điều khoản đặc biệt về các trường hợp chống bán phá giá đã được soạn thảo. Điều VI của GATT cho phép các bên ký kết được sử dụng 18
  19. các sắc thuế chống bán phá giá để bù trừ mức phá giá của các hàng nhập khẩu, miễn là chứng minh được việc bán phá giá đang gây ra, hoặc đe doạ nhậpra thiệt hại vật chất cho các ngành công nghiệp nội địa có cạnh tranh. Cho đến nay, đây vẫn là luật quốc tế cốt lõi về việc bán phá giá. Tuy nhiên, một số quốc gia trong GATT nhận thấy rằng có một số nước đã áp dụng Luật chống phá giá để dựng lên những hàng rào thương mại mới, các thủ tục chống bán phá giá, những cách tính toán mức phá giá đã gây thiệt hại làm hạn chế và lệch lạc các dòng thương mại quốc tế. Tại vòng đàm phán Kennedy của GATT (1962 - 1967) các bên ký kết GATT đã thảo luận bộ luật chống bán phá giá, đặt ra một loạt các quy tắc về thủ tục và nguyên lý cho việc áp dụng những sắc thuế chống bán phá giá nhằm hạn chế các thủ tục và phương thức đánh thuế của những Chính phủ có thể gây tổn hại đến thương mại quốc tế. Tại vòng đàm phán Tokyo 1973, các bên ký kết GATT đã xây dựng một Luật chống bán phá giá mới, có hiệu lực từ năm 1979 thay thế cho Luật chống bán phá giá năm 1967, có 26 nước thành viên ký kết có hiệu lực hơn mọi Hiệp định trước đó về bán phá giá. Đến vòng đàm phán Urugoay 1994 về bán phá giá, dựa trên Luật chống bán phá giá trước đó các thành viên xây dựng "Hiệp định về việc thi hành điều VI của GATT năm 1994" điều chỉnh kỹ hơn các quy tắc chống bán phá giá và có hiệu lực hơn đối với mọi thành viên của WTO và là Hiệp định cưỡng bức thi hành. Hiệp định nêu cụ thể ba loại nghĩa vụ khống chế việc áp dụng các sắc thuế: Các quy tắc chi tiết về các sự kiện cấu thành việc "bán phá giá"; Các quy tắc chi tiết " yêu cầu về thiệt hại "; Các quy tắc chi tiết về những thủ tục theo đó các Chính phủ xác định và áp dụng các sắc thuế chống bán phá giá. 1.2. VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ Pháp luật chống bán phá giá đóng vai trò quan trọng trong việc chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa 19
  20. trong nước, bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng, góp phần chống lại sản phẩm nhập khẩu với giá rẻ. Trước hết, pháp luật chống bán phá giá là công cụ chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh nhằm duy trì một nền thương mại công bằng, bình đẳng. Cạnh tranh là quy luật tất yếu trong nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau để chiếm lĩnh thị trường, khách hàng nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. Mục đích tối đa hóa lợi nhuận đã tạo ra sức ép buộc họ phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của mình như vốn, nhân công, công nghệ… Như vậy dưới tác động của quy luật cạnh tranh cho phép nhà sản xuất có được những nguyên liệu, nhân công đầu vào đáp ứng đúng yêu cầu của sản xuất với giá cả cạnh tranh và hợp lý; có được trang thiết bị và công nghệ tiên tiến, người tiêu dùng được hưởng những sản phẩm tốt nhất với giá thấp nhất. Dưới góc độ kinh tế này, rõ ràng bán phá giá không phải bao giờ cũng gây ra những tác động tiêu cực và cần phải ngăn chặn nhưng WTO lại cho phép các quốc gia ngăn cấm điều này vì cho rằng bán phá giá là hành động cạnh tranh không lành mạnh, bóp méo hoạt động thương mại bình thường, gây tổn hại cho ngành sản xuất nội địa và quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng. Vì vậy, hầu hết các quốc gia đều ban hành pháp luật chống bán phá giá nhằm mục đích duy trì và bảo vệ một nền thương mại công bằng và bình đẳng. Thứ hai, pháp luật chống bán phá giá góp phần bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa cạnh tranh trong nước. Các sản phẩm nhập khẩu được bán phá giá có thể gây thiệt hại nghiêm trọng, thậm chí có thể bóp chết ngành sản xuất các sản phẩm cạnh tranh ở trong nước. Trước đây chỉ có ít quốc gia sử dụng luật chống bán phá giá, đó là Mỹ và EU. Tuy nhiên, kể từ cuối năm 1980, rất nhiều nước mà đặc biệt là các nước đang phát triển ở Châu Á và Châu Mỹ Latinh đã tăng cường ban hành 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2