Luận văn Thạc sĩ Luật học: Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
lượt xem 2
download
Luận văn nghiên cứu về thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó, đề xuất các giải pháp cụ thể, thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM QUANG MẪN PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2021
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM QUANG MẪN PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm Mã số : 8.38.01.05 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG HÀ NỘI, năm 2021
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không trùng lặp, không sao chép bất kỳ công trình nghiên cứu nào; những tài liệu, số liệu, dẫn chứng sử dụng trong Luận văn là trung thực và chính xác. Tôi xin chịu trách nhiệm về nội dung cam đoan trên./. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Phạm Quang Mẫn
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY .....................................................................8 1.1. Khái niệm tái phạm tội về ma túy ........................................................................8 1.2. Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy ....................................................16 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .........................31 2.1. Thực tiễn cơ sở phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng....................................................................................................31 2.2. Kết quả đạt được trong phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ............................................................................................. 38 2.3. Hạn chế, yếu kém trong phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .......................................................................................51 2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................59 CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN TỚI .....................................................................................64 3.1. Dự báo tình hình và các yêu cầu phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .........................................................................64 3.2. Tăng cường phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .............................................................................................................67 KẾT LUẬN ..............................................................................................................80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC
- DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ANCT : An ninh chính trị ANTQ : An ninh Tổ quốc ANTT : An ninh trật tự ANQG : An ninh quốc gia BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CAND : Công an nhân dân CSCN : Cộng sản chủ nghĩa CSĐTTP : Cảnh sát Điều tra tội phạm CS QLHC : Cảnh sát Quản lý hành chính CS THSHS & HTTP : Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp HĐND : Hội đồng nhân dân NXB : Nhà xuất bản TNHS : Trách nhiệm hình sự TTATXH : Trật tự an toàn xã hội TTXH : Trật tự xã hội VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VPHC : Vi phạm hành chính UBND : Ủy ban nhân dân XHCN : Xã hội chủ nghĩa XDPT & QLBVDP : Xây dựng phong trào và quản lý bảo vệ dân phố
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thành phố Đà Nẵng là đô thị trung tâm của miền Trung, có vị trí chiến lược về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển vượt bậc về kinh tế so với các đô thị khác trong khu vực, thành phố Đà Nẵng cũng được đánh giá là điểm đến an toàn, “thành phố đáng sống” cho du lịch, học tập, làm việc. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế - xã hội, tình hình tội phạm và tệ nạn ma túy ở thành phố Đà Nẵng cũng diễn biến phức tạp. Theo thống kê của Ban chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TU của Thành ủy Đà Nẵng [50], trong 5 năm từ 2016 đến 2020, các lực lượng chuyên trách phòng chống ma túy đã phát hiện, bắt giữ 1.119 vụ/1.586 đối tượng phạm tội về ma túy; thu giữ 79,5kg ma túy, 3 súng, 3 lựu đạn, 18 ô tô, 388 xe máy, 884 điện thoại, 3 tỷ đồng cùng nhiều tang vật khác. Trong đó, đã triệt phá nhiều đường dây vận chuyển, mua bán ma túy với số lượng lớn vào thành phố, đã khởi tố xét xử 1.119 vụ/1.586 bị can, nhiều hơn 476 vụ/671 đối tượng (tăng 117%), 65,1kg ma túy (tăng 452%) so với giai đoạn 2010 - 2015. Qua các đợt ra quân kiểm tra, Công an thành phố Đà Nẵng đã phát hiện 14.904 trường hợp sử dụng trái phép chất ma túy, nhiều hơn 9.970 trường hợp (tăng 202%) so với giai đoạn 2010 - 2015. Trong đó, số tái nghiện chiếm 20,7%; số nghiện mới chiếm 11,2%; số mới phát hiện chiếm 54% và số ngoại tỉnh chiếm 14,1%. Thành phố Đà Nẵng đã tổ chức cai nghiện bắt buộc cho 3.791 lượt người, có 884 lượt người đi cai nghiện tự nguyện; có 56/56 xã, phường thành lập Tổ cai nghiện ma túy. Tuy nhiên theo Thành ủy Đà Nẵng đánh giá, công tác phòng chống ma túy trên thực tế vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Cụ thể: Việc phòng, chống ma túy chủ yếu giao cho lực lượng Công an nên kết quả chưa cao; công tác cai nghiện tại gia đình, cộng đồng chưa được quan tâm đúng mức nên số người cai nghiện còn hạn chế, chưa hiệu quả; công tác quản lý sau cai nghiện còn nhiều khó khăn. Đặc biệt, tỷ lệ tái phạm tội và tái nghiện ma túy còn khá cao. 1
- Tái phạm tội và tái nghiện ma túy là chỉ số quan trọng đánh giá hiệu quả công tác phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy nói chung, cần nghiên cứu, đánh giá về tình hình tái phạm tội, tái nghiện ma túy trên cơ sở khoa học chuyên ngành. Muốn phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy có hiệu quả thì cần nhận thức đúng đắn, sâu sắc về khái niệm, mục đích, ý nghĩa, cơ sở, chủ thể, nội dung, biện pháp của phòng ngừa tái phạm tội để xác định thực trạng tình hình tái phạm tội về ma túy tại địa phương. Từ đó, xây dựng các giải pháp phòng ngừa một cách hiệu quả. Đây là cơ sở quan trọng để xét xử các vụ án một cách chính xác; đồng thời, cũng là cơ sở đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo hiệu quả đối với người phạm tội về ma túy cũng như phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy. Việc nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng một cách toàn diện, sâu sắc cần xuất phát từ các vấn đề lý luận về phòng ngừa tái phạm tội nói chung để đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy gắn với các yếu tố tự nhiên - kinh tế - xã hội cụ thể, đánh giá đúng các kết quả và xác định rõ các hạn chế, yếu kém trong hoạt động này. Từ đó, tìm ra nguyên nhân của hạn chế, yếu kém để xây dựng các giải pháp tăng cường hiệu quả phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Việc này là cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận vừa có tính thực tiễn. Vì vậy, đề tài “Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” đã được tác giả chọn làm Luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Phòng ngừa tái phạm tội và tái phạm tội về ma túy ở nước ta hiện nay đang là vấn đề cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Trong thời gian qua, đã có một số công trình khoa học và bài viết liên quan đến phòng ngừa tái phạm tội và phòng ngừa tội phạm về ma túy như: * Các công trình, bài viết từ cách tiếp cận của Tội phạm học - Lê Tuấn Anh (2019) “Phòng ngừa tái phạm tội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm, Học viện Khoa học xã hội. 2
- - Đào Công Chức (2020) “Hoạt động của lực lượng Công an cơ sở các tỉnh, thành phố phía Nam trong phòng ngừa tội phạm do người nghiện ma túy thực hiện”, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm, Đại học Cảnh sát nhân dân. - Võ Như Huy (2019) “Phòng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam tại Tây Nguyên”, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm, Học viện Khoa học xã hội. - Lê Tuấn Anh (2017) “Trao đổi một số vấn đề về phòng ngừa tái phạm tội”, “Nguyên nhân, điều kiện, biện pháp và một số giải pháp phòng ngừa tái phạm tội”, Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, số tháng 1, 3/2017. * Các công trình, bài viết từ cách tiếp cận của khoa học Luật hình sự - Đinh Thị Hường (2014) “Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của thành phố Hải Phòng”, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hình sự, Đại học Quốc gia Hà Nội. - Nguyễn Văn Bường (2016) “Hoàn thiện pháp luật về án treo - cần tính tới các nhân tố làm cho người bị kết án tái phạm hoặc phạm tội mới”, Tạp chí Nghề luật, Học viện Tư pháp, số tháng 3/2016. - Phan Duy Chiến - Bùi Duy Võ (2018) “Tòa ma túy và nghiên cứu về khả năng áp dụng tại Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, VKSND tối cao, số 24/2018. - Trương Đức Thuận (2018) “Một số giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Học viện Khoa học xã hội, số 6-2018. - Võ Thị Kim Oanh - Trịnh Duy Thuyên (2018) “Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự về tái hòa nhập cộng đồng”, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, số 08(120)/2018. * Các công trình từ cách tiếp cận của một số chuyên ngành khác - Võ Thùy Linh (2016) “Thực hiện chính sách phòng, chống ma túy từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội. 3
- - Nguyễn Thành Long (2019) “Quản lý nhà nước đối với người sau cai nghiện ma túy từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Học viện Khoa học xã hội. - Nguyễn Văn Huy (2019) “Ứng xử của cộng đồng đối với người sau cai nghiện ma túy (nghiên cứu tại quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh)”, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Xã hội học, Học viện Khoa học xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của những công trình, bài viết nói trên, tác giả nhận thấy: Một là, các công trình, bài viết nói trên đã nghiên cứu về tình tình tái phạm tội của những người chấp hành xong án phạt tù và hoạt động phòng ngừa của các lực lượng chức năng ở địa bàn cơ sở (đặc biệt là lực lượng Công an). Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra: Thực tế, người sau khi chấp hành xong án phạt tù, người hoàn thành cai nghiện ma túy trở về địa phương tái phạm tội, tái nghiện chiếm tỷ lệ cao. Vấn đề tái hoà nhập cộng đồng còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ, chưa hiệu quả trong việc tiếp nhận, quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù, người hoàn thành cai nghiện trở về địa phương. Hai là, các công trình, bài viết đã nêu rõ nguyên nhân tái phạm tội của những người sau khi chấp hành xong án phạt tù không chỉ ở những thiếu sót của bản thân những người đó, gia đình, xã hội mà ngay cả thiếu sót trong công tác giáo dục ở các trại giam, cơ sở cai nghiện. Vì vậy, khi phạm nhân đang chấp hành án cần phải cảm hóa, giáo dục, giúp họ nhận ra lỗi lầm để tự giác cải tạo. Ba là, hầu hết các tác giả đều có quan điểm chung về phòng ngừa tái phạm tội cần phải phối hợp các chủ thể phòng ngừa với nhau, thông qua đó phát động toàn dân tham gia phong trào bảo vệ ANCT và TTATXH tạo điều kiện cho người từng phạm tội sửa chữa lỗi lầm, không tái phạm tội. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Vì thế, đây là luận văn hoàn toàn mới và không trùng lặp với bất kỳ công trình khoa học nào trước đây cũng như hiện nay. 4
- 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó, đề xuất các giải pháp cụ thể, thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục tiêu trên, luận văn tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy: Khái niệm tái phạm tội; khái niệm tình hình tái phạm tội; đặc trưng của phòng ngừa tình hình tái phạm tội; các cơ sở, nội dung, chủ thể, biện pháp phòng ngừa tình hình tái phạm tội. Thứ hai, đánh giá tình hình tái phạm tội, thực trạng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Thứ ba, dự báo tình hình tái phạm tội về ma túy, hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian tới. Từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tái phạm tội nói chung và lý luận về phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy nói riêng; thực tiễn phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ Tội phạm học trong phạm vi chuyên ngành “Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm”. - Về thời gian: Luận văn sử dụng số liệu nghiên cứu trong phạm vi 5 năm từ năm 2016 đến năm 2020. 5
- - Về địa bàn: Luận văn nghiên cứu hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. - Về tội danh: Luận văn nghiên cứu tình hình tái phạm tội về ma túy quy định tại Chương XVII (từ Điều 192 đến Điều 201) BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 và Chương XX (từ Điều 247 đến Điều 259) BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên lý của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng; quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề tội phạm và tái phạm tội trong xã hội, vấn đề đấu tranh phòng, chống tái phạm tội; các tri thức khoa học của Tội phạm học, Pháp luật hình sự, khoa học Điều tra hình sự (trong đó, tri thức của Tội phạm học là chủ yếu). 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của Tội phạm học, cụ thể như sau: Phương pháp thống kê; phương pháp mô tả bằng bảng, biểu; phương pháp so sánh, quy nạp, diễn dịch; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp nghiên cứu bản án; phương pháp nghiên cứu điển hình; phương pháp phỏng vấn chuyên gia. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn lý luận Tội phạm học về phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Dựa trên kết quả nghiên cứu của luận văn, những người làm công tác pháp luật có thể tham khảo, vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân, góp phần đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ ANTQ” trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 6
- Luận văn có thể sử dụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy; nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng tham khảo cho hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm các tội phạm khác và phòng ngừa tình hình tái phạm tội nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó, góp phần thực hiện có hiệu quả “Chiến lược phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định hướng đến năm 2030 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” theo Quyết định số 5393/QĐ-UBND ngày 10/8/2016 của UBND thành phố Đà Nẵng [57]. Ngoài ra, luận văn còn có thể được sử dụng như một nguồn tài liệu tham khảo cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận chương, kết luận, bảng chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tái phạm tội. Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. 7
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY 1.1. Khái niệm tái phạm tội về ma túy 1.1.1. Khái niệm tái phạm tội 1.1.1.1. Khái niệm tái phạm tội Trong khoa học pháp lý và hệ thống văn bản pháp luật ở Việt Nam, thuật ngữ “tái phạm tội” xuất hiện khá ít. Một khái niệm khác gần gũi với nó là “tái phạm” được sử dụng phổ biến hơn. Vì vậy, trước khi xem xét thuật ngữ “tái phạm tội”, chúng ta cần hiểu rõ về “tái phạm”. Trong các nghiên cứu quốc tế, từ “tái phạm” xuất hiện tương đối nhiều, cụ thể: Trong tiếng Nga, “повторять ошибку” nghĩa là “tái phạm sai lầm”; trong tiếng Pháp “récidive” và tiếng Anh “recidivism” có nguồn gốc từ cùng một từ trong tiếng Latin là “recidivus” nghĩa là “xâm phạm lại”; trong tiếng Trung Quốc “累犯” (lěifàn) nghĩa là “nhiều lần phạm tội” hàm chứa từ “lũy” (累, lěi) nghĩa là “liên tục, nhiều lần” và từ “phạm” (犯, fàn) nghĩa là “xâm phạm” [63, tr.338, 733]. Như vậy trong nhiều trường hợp, thuật ngữ “tái phạm” bao hàm nghĩa “tái phạm tội” chứ không phân biệt cụ thể. Điển hình cho sự không phân biệt cụ thể này là: Trong khi TS. G.V. Đa-Scốp nhận định “Tái phạm là một khái niệm pháp lý và rất có ý nghĩa trong tội phạm học… Tái phạm là phạm tội từ hai lần trở lên - kẻ tái phạm là kẻ phạm tội mới trong khi án tích về tội cũ chưa được xóa bỏ” [48, tr.77] thì nhà Tội phạm học người Mỹ Michael D. Maltz lại cho rằng “Người tái phạm là người sau khi mãn hạn tù (vì đã thực hiện một tội phạm) không hoàn lương mà thay vào đó họ lặp lại lối ứng xử cũ và tiếp tục phạm tội” [38, tr.54]. Trong những nghiên cứu ở Việt Nam, thuật ngữ “tái phạm” cũng xuất hiện thường xuyên, chẳng hạn như: Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học “tái phạm” nghĩa là “phạm lại tội cũ, sai lầm cũ” [64, tr.885]; theo từ điển Việt Nam của tác giả Thanh Nghị thì “tái phạm” nghĩa là “phạm tội lần nữa” [29, tr.1165]; 8
- còn theo từ điển Hán Việt của tác giả Đào Duy Anh thì “tái phạm” nghĩa là “phạm tội lần thứ hai” [1, tr.225]. Ngoài ra, “tái phạm” còn được nhiều ngành luật trong hệ thống pháp luật Việt Nam điều chỉnh. Với mỗi ngành luật, quy định về “tái phạm” cũng có điểm khác nhau, cụ thể: Khoản 3 Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật…”. Khoản 5 Điều 2 Luật Xử lý VPHC năm 2012 quy định: “Tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị xử lý VPHC nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý VPHC… mà lại thực hiện hành vi VPHC đã bị xử lý”. Khoản 1 Điều 49 BLHS 1999 quy định: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”. Khoản 1 Điều 53 BLHS 2015 quy định: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”. Mặc dù thuật ngữ “tái phạm” theo quy định của các ngành luật nêu trên đã thể hiện “sự lặp lại của hành vi” với những dấu hiệu khác nhau nhưng việc định nghĩa “tái phạm vi phạm” dưới góc độ pháp luật lao động, hành chính, hình sự là không đồng nhất với khái niệm “tái phạm tội” trong Tội phạm học. TS. Vũ Đức Trung có quan điểm: “Hoàn toàn có nội dung của tái phạm được quy định tại Điều 49 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Việc sử dụng cụm từ tái phạm tội nhằm phân biệt với tái phạm vi phạm pháp luật khác” [51, tr.18]. Theo tác giả, quan điểm này chưa nêu đúng bản chất của “tái phạm tội” mà chỉ đề cập đến một khía cạnh nhỏ nhất của nó là phân biệt tái phạm tội với tái phạm vi phạm pháp luật. Điều này khiến người đọc nhầm lẫn khái niệm “tái phạm tội” trong Tội phạm học với khái niệm “tái phạm” trong Luật hình sự. TS. Lê Tuấn Anh cho rằng: “Tái phạm tội là trường hợp đã bị kết án về một tội mà lại phạm tội mới” [2, tr.36]. Tác giả thống nhất với khái niệm này vì mặc dù ngắn gọn nhưng lại khá chính xác khi nêu được bản chất của “tái phạm tội” chính là trường hợp một chủ thể đã bị kết án 9
- bằng một bản án có hiệu lực pháp luật, lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới, không kể đó là tội gì cũng như không kể chủ thể đã được xóa án tích hay chưa. 1.1.1.2. Bản chất của tái phạm tội Tái phạm tội về bản chất là tiếp tục phạm tội, sau khi đã có bản án có hiệu lực pháp luật. Tái phạm tội thể hiện tính xu hướng coi thường pháp luật, coi thường các giá trị đạo đức, thể hiện bản chất khó có thể giáo dục, cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội. Thời điểm người phạm tội tiếp tục phạm tội có thể ngay sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật, cũng có thể rất lâu sau khi thi hành xong bản án (thậm chí đã xóa án tích) tùy thuộc vào từng nguyên nhân, điều kiện cụ thể. Mặc dù xóa án tích là quy định thể hiện tính nhân văn của Nhà nước đối với những người đã bị kết án hình sự, giúp họ làm lại cuộc đời và hòa nhập với cộng đồng. Tuy nhiên, việc xóa án tích chỉ làm “trong sạch” về lý lịch tư pháp của người phạm tội chứ không làm triệt tiêu những nguyên nhân, điều kiện cụ thể dẫn đến việc tái phạm tội. Việc người phạm tội được xóa án tích không loại trừ khả năng người đó sẽ không tiếp tục phạm tội trong tương lai. Nghiên cứu những trường hợp tái phạm tội vì vậy sẽ giúp cho việc làm rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng này để có thể đề ra những biện pháp hữu hiệu nhất nhằm phòng ngừa khả năng tái phạm tội. Không thể coi một người là tái phạm tội nếu trước đó, người này chưa từng phạm tội. Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều 13 BLTTHS 2015 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Theo đó, một người chỉ bị coi là phạm tội khi đã có bản án có hiệu lực pháp luật. Như vậy, “tái phạm tội” chỉ xảy ra khi một người đã từng thực hiện một hành vi phạm tội, đã bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật mà lại tiếp tục thực hiện một hành vi phạm tội khác. Để làm rõ hơn khái niệm tái phạm tội, cần xem xét một số trường hợp sau: - Trường hợp người được miễn trách nhiệm hình sự sau đó lại phạm tội Miễn TNHS là trường hợp người đã thực hiện tội phạm nhưng do đáp ứng 10
- các điều kiện nhất định mà không phải chịu hậu quả của việc thực hiện tội phạm đó. BLHS 2015 quy định các trường hợp miễn TNHS tại Điều 16, Điều 29, khoản 2 Điều 91, khoản 4 Điều 110, khoản 4 Điều 247, đoạn 2 khoản 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365 và khoản 2 Điều 390. Bản chất pháp lý của miễn TNHS là chế định nhân đạo được áp dụng đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS nhưng do người này có các điều kiện nhất định nên được miễn TNHS. Ví dụ: Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc khi có quyết định đại xá thì người đã thực hiện hành vi phạm tội được miễn TNHS (quy định tại khoản 1 Điều 29 BLHS 2015). Miễn TNHS chỉ áp dụng cho người mà hành vi của họ đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Bản chất của miễn TNHS là miễn các hậu quả pháp lý bất lợi cho một người đã thực hiện hành vi phạm tội khi có đầy đủ các điều kiện theo quy định. Như vậy, về nguyên tắc, người được miễn TNHS là người đã 1 lần thực hiện hành vi phạm tội. Theo quy định hiện hành của BLTTHS 2015 thì thẩm quyền áp dụng miễn TNHS do Cơ quan điều tra (với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát), Viện kiểm sát và Tòa án quyết định trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Như vậy, nếu việc miễn TNHS do Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát tiến hành (trong giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố), người được miễn TNHS không bị tuyên bằng bản án của Tòa. Trường hợp này, người được miễn TNHS không được coi là tái phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội 1 lần nữa. Nếu việc miễn TNHS do Tòa án thực hiện trong giai đoạn xét xử (bị tuyên án nhưng miễn TNHS) thì người được miễn TNHS được coi là tái phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội 1 lần nữa. Nhận thức như vậy vẫn chưa thật hợp lý, vì như trên đã nói, miễn TNHS chỉ áp dụng cho người đã thực hiện hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, căn cứ vào Hiến pháp và BLTTHS thì một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án có hiệu lực pháp luật. - Trường hợp người được miễn hình phạt sau đó lại phạm tội Điều 59 BLHS 2015 quy định: “Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn TNHS”. Bản chất 11
- pháp lý của miễn hình phạt là chế định nhân đạo được áp dụng đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS và bị xử phạt bằng bản án của Tòa án nhưng do người này có các điều kiện nhất định nên được miễn hình phạt (quy định tại Điều 59 BLHS). Người được miễn hình phạt vì vậy là người đã từng một lần thực hiện hành vi phạm tội và khi họ lại thực hiện hành vi phạm tội thì được coi là tái phạm tội. 1.1.1.3. Phân biệt tái phạm tội với tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội nhiều lần, phạm nhiều tội - Phân biệt tái phạm tội với tái phạm, tái phạm nguy hiểm Điều 53 BLHS 2015 quy định: “1) Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. 2) Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.” “Tái phạm tội” giống “tái phạm” và “tái phạm nguy hiểm” ở chỗ: Đều là người đã bị kết án mà lại thực hiện hành vi phạm tội đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, “tái phạm tội” khác “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” ở 2 điểm sau: Thứ nhất, trường hợp được coi là “tái phạm tội” là trường hợp đã bị kết án lại tiếp tục phạm tội không phân biệt đã được xóa án tích hay chưa được xóa án tích; còn trường hợp “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội mới. Thứ hai, về hành vi phạm tội mới: Trường hợp “tái phạm tội” không phân biệt hành vi phạm tội mới với lỗi cố ý hay vô ý, thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng hay tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; còn trường hợp “tái phạm” đòi hỏi hành vi phạm tội mới phải là tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng với lỗi vô ý; “tái phạm nguy hiểm” đòi hỏi đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại 12
- thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý. Điều này cho thấy sự khác biệt giữa khái niệm “tái phạm tội” với khái niệm “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” trong BLHS chính là: “Tái phạm tội” chỉ quan tâm tới số lần phạm tội mà không cần quan tâm đến yếu tố án tích, lỗi và loại tội phạm mà chủ thể đã thực hiện sau khi đã có bản án có hiệu lực pháp luật về một tội phạm đã thực hiện. Khái niệm “tái phạm tội” trong Tội phạm học rộng hơn và bao hàm các trường hợp của “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm”. - Phân biệt tái phạm tội với phạm tội nhiều lần Theo BLHS 1999, “phạm tội nhiều lần” được xác định là một trong những tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS (phần chung) và là tình tiết định khung tăng nặng của 48 điều luật ở phần các tội phạm cụ thể (khi không là tình tiết tăng nặng TNHS - khoản 2 Điều 48). Tuy nhiên, BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) không còn quy định tình tiết “phạm tội nhiều lần” mà sửa thành “phạm tội 2 lần trở lên” và được xác định là một trong những tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS (khi không là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt - khoản 2 Điều 52), tình tiết định khung tăng nặng tại 80 điều luật cụ thể ở phần các tội phạm (trong đó có 2 điều luật quy định “phạm tội 2 lần trở lên” là tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 3 Điều 337, Điều 382). Qua so sánh, tác giả nhận thấy phần lớn các điều luật của BLHS 1999 có quy định “phạm tội nhiều lần” là tình tiết định khung tăng nặng vẫn được giữ nguyên trong BLHS 2015, tuy nhiên có sự thay đổi thuật ngữ “phạm tội nhiều lần” bằng thuật ngữ “phạm tội 2 lần trở lên” và ghi rõ trong điều luật. Tóm lại, “phạm tội 2 lần trở lên” được xác định: 1) Là tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại phần chung của BLHS. 2) Là tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại một số điều luật cụ thể trong phần các tội phạm của BLHS. 3) Chỉ khi phạm tội nhiều lần hoặc phạm tội 2 lần trở lên không được quy định là tình tiết định khung tăng nặng trong điều luật cụ thể thì mới được xác định là tình tiết tăng nặng TNHS. 13
- Với đặc trưng trên, có thể thấy giữa “phạm tội nhiều lần” (BLHS 1999), “phạm tội 2 lần trở lên” (BLHS 2015) với “tái phạm tội” giống ở chỗ chủ thể đã nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, có nghĩa là chủ thể đó đã phạm tội từ 2 lần trở lên mà mỗi lần hành vi đều thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, “phạm tội nhiều lần” khác “tái phạm tội” ở 2 điểm: Thứ nhất, hành vi của chủ thể có đầy đủ các dấu hiệu của 2 tội phạm trở lên mà những tội ấy quy định tại cùng 1 điều hoặc 1 khoản của điều luật. Còn tái phạm tội thì hành vi phạm tội sau này có thể là hành vi phạm vào 1 tội quy định tại cùng 1 điều luật hoặc phạm 1 tội mới khác với tội đã phạm trước đó; Thứ hai, “phạm tội nhiều lần” khác tái phạm tội là người thực hiện hành vi phạm tội ở lần thứ nhất chưa bị xử lý bằng 1 bản án đã có hiệu lực pháp luật. Còn “tái phạm tội” tuy cũng nhiều lần phạm tội, nhưng lần phạm tội đầu tiên đã bị kết án bằng 1 bản án có hiệu lực pháp luật. - Phân biệt tái phạm tội với phạm nhiều tội “Phạm nhiều tội” là khái niệm của Pháp luật hình sự có liên quan trực tiếp đến vấn đề quyết định hình phạt. Phạm nhiều tội là trường hợp (chủ thể) có nhiều hành vi phạm tội độc lập hoặc chỉ thực hiện một hành vi phạm tội nhưng hành vi đó thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau (phạm nhiều tội khác nhau). BLHS 1985 đã quy định rõ cách quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội nhưng lại không có quy định cụ thể về trường hợp phạm nhiều tội. BLHS 1999, BLHS 2015 cũng không có quy định này. Từ thực tế xét xử, phạm nhiều tội có 2 trường hợp: 1) Người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội khác nhau và mỗi hành vi này cấu thành một tội riêng. Những hành vi phạm tội này có thể có mối liên quan với nhau hoặc không. Ví dụ: Thủ kho có hành vi tham ô tài sản, sau đó lại đốt kho để che giấu hành vi tham ô của mình (phạm tội huỷ hoại tài sản). 2) Người phạm tội có một hành vi phạm tội nhưng hành vi này lại cấu thành nhiều tội khác nhau. Ví dụ: Hành vi dùng vũ lực cố ý tước đoạt tính mạng của chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản sẽ cấu thành 2 tội khác nhau: Tội giết người và Tội cướp tài sản. Cũng có trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau nhưng bị xử lý theo tội danh của một điều luật, gồm: 1) Một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác 14
- nhau mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) nếu các tội phạm đó không bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu TNHS về hành vi phạm tội theo điều luật có quy định tội nặng hơn. 2) Một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) nếu các tội phạm đó bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu TNHS về hành vi phạm tội được thực hiện đầu tiên theo tội danh tương ứng (quy định tại Thông tư liên tịch số 08-2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC- BTP). Những trường hợp này không được coi là “phạm nhiều tội”. Như vậy so với “tái phạm tội”, “phạm nhiều tội” khác ở chỗ trường hợp phạm nhiều tội, chủ thể tội phạm chỉ thực hiện “1 lần” đã cấu thành nhiều tội và người phạm tội chưa bị xét xử, chưa bị kết án về tội nào trong số các tội trên, còn “tái phạm tội” là trường hợp người phạm tội đã bị xét xử về 1 tội phạm bằng 1 bản án đã có hiệu lực pháp luật mà còn tiếp tục phạm tội “lần thứ 2”. 1.1.2. Tái phạm tội về ma túy - Khái niệm tội phạm về ma túy Tội phạm về ma túy các hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy được quy định trong BLHS tại Chương XX, từ Điều 247 đến Điều 259. Tội phạm về ma tuý bao gồm nhiều loại hành vi phạm tội khác nhau nhưng đều có chung 2 đặc điểm cơ bản: 1) Tính nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm về ma tuý thể hiện ở sự đe dọa nghiêm trọng đến sức khoẻ và sự phát triển bình thường của con người cũng như đến hạnh phúc gia đình và trật tự công cộng nói chung; 2) Các tội phạm về ma tuý đều có chung đối tượng là các chất ma tuý (hoặc liên quan đến các chất ma tuý). Đó là các chất có khả năng gây nghiện cao cho người sử dụng làm cho người nghiện không chỉ bị lệ thuộc vào chất đó mà còn làm cho họ bị tổn hại về nhiều mặt và thậm chí còn có thể đẩy họ vào con đường phạm tội để có tiền thoả mãn cơn nghiện. 15
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 314 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 217 | 48
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 174 | 46
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 239 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 83 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 157 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 265 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn