intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

Chia sẻ: Tri Hành | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:75

38
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn phân tích, làm rõ thêm cơ sở lý luận về pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân trên cơ sở hệ thống hóa quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và quy định của Nhà nước ta; phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây, qua đó rút ra những hạn chế cần khắc phục và tìm ra những nguyên nhân hạn chế đó.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN KIM TÂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI , năm 2020
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN KIM TÂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số : 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC PGS.TS. Lê Văn Long HÀ NỘI, năm 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của Luận văn chưa từng được công bố trong các công trình khác. Hà Nội, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn
  4. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NVQS Nghĩa vụ quân sự XHCN Xã hội chủ nghĩa ANQP An ninh quốc phòng LLVT Lực lượng vũ trang BVTQ Bảo vệ tổ quốc QPTD Quốc phòng toàn dân UBND Ủy ban nhân dân HĐND Hội đồng nhân dân AHLĐ Anh hùng lao động ĐCSVN Đảng cộng sản Việt Nam ANTQ An ninh tổ quốc TNHS Trách nhiệm hình sự VPHC Vi phạm hành chính
  5. MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ ............................. 10 1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân ................................................................................................................... 10 1.2. Vai trò của thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân ............ 15 1.3 Nội dung thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân ................ 19 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân .......................................................................................................... 25 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN TẠI QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...................................................................................................... 31 2.1. Các yếu tố đặc thù của quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ảnh hưởng đến nghĩa vụ quân sự của công dân .................................................................. 31 2.2. Thực trạng qui định pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân .............. 34 2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ............................................................................ 39 2.4. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ....................................................... 45 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...................................... 49 3.1. Quan điểm đảm bảo thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân ................................................................................................................... 49 3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân ........................................................................................................... 53 3.3. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự đối với nhà nước ................................................................................................................ 63
  6. KẾT LUẬN .................................................................................................... 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong bối cảnh quốc tế và khu vực ngày nay đã có nhiều thay đổi, tuy nhiên, Việt Nam vẫn đứng trước nhiều nguy cơ đe dọa về độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ... Ngày nay, những nguy cơ, thách thức cũ vẫn còn đó thì lại có thêm những nguy cơ, thách thức mới. Đó là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và hạnh phúc của nhân dân. Gắn liền với nguy cơ, thách thức đó là phương thức chống phá của các thế lực thù địch, đó là chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Về kỹ thuật, đó là việc các thế lực thù địch sử dụng internet, mạng xã hội làm phương thức chống phá mới. Ứng phó với tình hình đó, đường lối, chính sách quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta đã có những điểm mới. Văn kiện Đại hội XII của Đảng ta xác định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền”… Chính sách và chiến lược quốc phòng của Đảng ta là “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh”; “Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước”. Đảng và Nhà nước ta cũng đã công khai hóa chính sách quốc phòng của Nhà nước ta. Đó là: “Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình. Việt Nam chủ 1
  8. trương từng bước hiện đại hóa quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng chỉ nhằm duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ. Việt Nam chủ trương không tham gia các tổ chức liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để chống lại nước khác”. Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi) năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua là sự thể chế hóa Hiến pháp 2013 quy định: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân” (Điều 15); “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng” (Điều 16). Luật Nghĩa vụ quân sự quy định nghĩa vụ quân sự là “Nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân;… Công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định của luật này” (Điều 4). Luật Nghĩa vụ quân sự nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc - chế độ trong tình hình mới. Về mặt lý luận cũng như thực tế, thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự không làm tăng quân số tuyệt đối, không nhằm chạy đua vũ trang… mà chỉ nhằm luân chuyển nhân lực từ dân sự sang quân sự và ngược lại (đó là những đợt ra quân theo định kỳ hằng năm). Thực tế cho thấy, ngay trong thời chiến, Quân đội ta vẫn dành một lực lượng nhất định tham gia sản xuất (phục vụ quốc phòng và dân sinh)… Hiện nay, không ít đơn vị quân đội đang làm đồng thời cả hai nhiệm vụ: kinh tế và quốc phòng, như một số đơn vị quân đội làm kinh tế, tự đáp ứng một phần nhu cầu, giảm thiểu gánh nặng ngân sách cho Nhà nước. Hoặc các bệnh viện quân đội vừa là một cơ sở y tế trong hệ thống y tế quốc gia, vừa làm nhiệm vụ 2
  9. sẵn sàng phục vụ cứu chữa trong thời chiến. Trong thời bình, ở những bệnh viện này, không chỉ cán bộ, chiến sĩ quân đội được chữa trị mà còn có cả những bệnh nhân dân sự… nhất là những bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo. Trên lĩnh vực phòng chống thiên tai, quân đội luôn là lực lượng nòng cốt và có không ít cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ cứu hộ - cứu nạn, giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai trên khắp mọi miền Tổ quốc. Thực tế cho thấy, trong những năm qua, các thế lực thù địch thường lợi dụng những vấn đề kinh tế - xã hội khó khăn như: ô nhiễm môi trường, những sơ hở trong quản lý kinh tế - dịch vụ công… để kích động người dân chống lại chính quyền. Hành vi “bất tuân dân sự” - là kịch bản trong đó, những phần tử cầm đầu tập hợp lực lượng, tụ tập đông người, biểu tình gây rối… từng bước đi đến bạo loạn, lật đổ chế độ xã hội, chuyển hóa xã hội hiện hữu sang con đường tư bản chủ nghĩa, lệ thuộc vào ngoại bang. Vì vậy, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị tư tưởng ngày càng quyết liệt. Trên mặt trận ấy, các cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam lại là một trong những lực lượng tiên phong... Mục tiêu của cách mạng Việt Nam ngày nay là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều kiện và tiền đề để thực hiện mục tiêu đó là giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và ổn định xã hội. Thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự là góp phần đưa dân tộc ta đi đến mục tiêu đó. Tuy nhiên, trên thực tiễn vẫn có ý kiến “phản biện” rằng: “Thời bình sao phải tuyển nhiều lính như thời chiến?”; “Sao không tập trung vào phát triển kinh tế, chống tham nhũng?”, nếu không nói là một luận điệu chính trị xấu độc thì cũng thể hiện sự hiểu biết ấu trĩ về nhiệm vụ của lực lượng vũ trang nói chung, của Quân đội ta nói riêng trong thời bình. Thậm chí tại một số địa phương trong thời gian gần đây, tỉ lệ thanh niên không chấp hành pháp 3
  10. luật nghĩa vụ có chiều hướng gia tăng; tuy nhiên, việc xử lý còn chậm, thiếu tính giáo dục và răn đe, nhiều trường hợp thể hiện sự lúng túng, thậm chí bế tắc trong khâu xử lý hình sự. Thực trạng này có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan: do trình độ và năng lực của một số cán bộ Ban chỉ huy quân sự phường còn hạn chế nên thiếu chặt chẽ, quy trình còn thiếu nhưng không thể khắc phục được. Sự hạn chế này dẫn đến tuy hành vi vi phạm (chống lệnh nhập ngũ) đã được quy định trong Bộ luật Hình sự nhưng thiếu sót, thiếu chặt chẽ trong khâu lập thủ tục nên không thể xử lý được; có trường hợp hồ sơ tương đối chặt chẽ nhưng hành vi vi phạm chưa được quy định trong Bộ luật Hình sự dẫn đến tình trạng lúng túng, hay nói đúng hơn là bế tắc trong quá trình xử lý về hình sự, nhất là đối với các trường hợp không chấp hành lệnh gọi khám sức khỏe. Việc quyết định xử phạt vi phạm hành chính nói chung, đối với hành vi không chấp hành lệnh gọi khám sức khỏe nói riêng, chủ thể xử phạt là chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn chưa thực hiện đúng nguyên tắc về xử phạt (tính chất, mức độ; hậu quả và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ) từ đó nảy sinh tình trạng cào bằng, trung bình trong xử phạt. Ngoài ra, quy định về xử phạt, trong đó có mức xử phạt vi phạm pháp luật nghĩa vụ quân sự đã khá lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu phòng, chống vi phạm pháp luật. Dễ nhận thấy, sở dĩ các trường hợp bị xử phạt dù nặng hay nhẹ; dù xử phạt ở mức cao nhất hay trung bình của khung xử phạt cũng không nảy sinh tình trạng khiếu nại quyết định xử phạt… Cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật nghĩa vụ quân sự của công dân có ý nghĩa chính trị sâu sắc, nó thể hiện lòng yêu nước, trách nhiệm của công dân với Tổ quốc mình; đồng thời thể hiện ý chí quyết tâm chống lại mọi thủ đoạn của thế lực thù địch nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn cũng như phù hợp với yêu cầu thực tiễn công tác, tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật 4
  11. về nghĩa vụ quân sự của công dân từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng” là thực sự cần thiết về cả mặt lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Về thực hiện NVQS của thanh niên còn có nhiều bài viết đề cập. Bài Hà Nội tiễn 1.900 thanh niên lên đường nhập ngũ (15/2/2014) của Hà Trang và Nguyễn Khánh, đăng trên Báo điện tử Tuổi trẻ. Các tác giả đã phản ánh trung thực sự nhiệt huyết của thanh niên Hà Nội, hăng hái lên đường làm nhiệm vụ xây dựng và BVTQ. Hòa vào không khí đó là những giọt nước mắt, cái nắm tay chặt chẽ của người thân gia đình tiễn đưa con em và niềm vui của của bố mẹ khi có con nhập ngũ: “Thực sự rất thương con vì đang trong vòng tay gia đình mà phải đi ra tự lập hoàn toàn, nhưng cũng rất là mừng vì cháu nhận thức được cái nghĩa vụ nó phải đi vì Tổ quốc”. Bài Hàng ngàn thanh niên các địa phương phấn khởi nhập ngũ (19/2/2014) của Vinh Quang, Quang Sáng và cộng tác viên Trúc Giang, đăng trên Báo điện tử VOV. Bài viết đã phản ánh rõ số lượng và chất lượng nhập ngũ của các thanh niên ở thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng, như: Trong tổng số 2.570 thanh niên lên đường thực hiện NVQS ở thành phố Hồ Chí Minh, có 113 đảng viên tình nguyện nhập ngũ, 25% thanh niên có trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp; Lâm Đồng, trong tổng số 500 thanh niên lên đường thực hiện NVQS, khoảng trên 90% thanh niên có đơn tình nguyện xin nhập ngũ và số đảng viên, cán bộ công chức được gọi đi nhập ngũ so với mọi năm cao hơn 12%; Bình Thuận, trong 700 thanh niên trúng tuyển NVQS, có 24 đảng viên trẻ, 58 thanh niên đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học và 54 thanh niên là dân tộc ít người. Bên cạnh đó, bài Cán bộ, công chức cũng phải nhập ngũ như con em nông dân, trích đăng tờ trình dự án luật NVQS (sửa đổi) của Đại tướng Phùng Quang Thanh trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trên Báo điện tử Dân trí lại cho thấy tình hình đối tượng nhập ngũ trong cả nước. Hiện nay, công dân đã 5
  12. có việc làm, có trình độ học vấn cao, có chuyên môn kỹ thuật và con em cán bộ, công chức, các gia đình có điều kiện kinh tế thực hiện NVQS chưa nhiều, chỉ chiếm 4,94% và có xu hướng giảm. Con em nông dân, người chưa có việc làm nhập ngũ chiếm số đông, trên 80% và có xu hướng tăng. Cho nên, theo Đại tướng Phùng Quang Thanh, phải tuyển cán bộ là công chức, viên chức, đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp vào phục vụ trong quân đội; tránh để như hiện nay số nhập ngũ có tới 90% con em nông dân, còn số có điều kiện học hành cơ bản, làm cán bộ công chức trong hệ thống chính trị gần như không tuyển. Hiện nay, hướng nghiên cứu về thực hiện NVQS của thanh niên hầu như chưa có, nhưng thông qua các tư liệu, bài viết được đăng tải trên các website của thế giới, Việt Nam và các văn bản pháp luật trong nước đã được công bố, có thể thấy rằng, các tư liệu, bài viết đó có những giá trị tham khảo nhất định. Bởi vì, pháp luật thực hiện NVQS của thanh niên các nước trên thế giới, dù có nhiều đặc điểm khác Việt Nam về đối tượng, độ tuổi, thời gian nhập ngũ, nhưng đều cho thấy, để xây dựng và BVTQ, việc thực hiện NVQS của thanh niên là cần thiết với mọi quốc gia. Do đó, tư liệu về thực hiện NVQS của thanh niên các nước trên thế giới sẽ giúp bổ sung các hình thức, biện pháp phù hợp nhằm phát huy tốt nhất công tác tuyển chọn, gọi thanh niên nhập ngũ ở Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ: 6
  13. - Phân tích, làm rõ thêm cơ sở lý luận về pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân trên cơ sở hệ thống hóa quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và quy định của Nhà nước ta. - Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây, qua đó rút ra những hạn chế cần khắc phục và tìm ra những nguyên nhân hạn chế đó. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ năm 2016 - 2018. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về nghĩa vụ quân sự của thanh niên. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau: Luận văn sử dụng các nghiên cứu định tính và định lượng để thu thập và xử lý thông tin qua đó trình bày và phân tích các thông tin, dữ liệu. Các bước cụ thể như sau: 7
  14. - Một là thu thập thông tin Nguồn dữ liệu thứ cấp: Thu thập thông tin từ nguồn đã có sẵn, đây là những dữ liệu đã qua tổng hợp và xử lý gồm sách, báo, tạp chí chuyên ngành, các văn bản luật, nghị định, thông tư của Quốc hội, chính phủ, các bộ ngành về thực hiện nghĩa vụ quân sự; các báo cáo đánh giá tình hình thực hiện về công tác thực hiện tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ, các chính sách đào tạo nghề cho công dân hoàn thành NVQS …của quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Các dữ liệu từ nguồn này vừa là cơ sở lý luận, vừa mang tính thời sự. Nguồn dữ liệu sơ cấp: Điều tra thu thập thông tin từ các UBND cấp xã, quận thông qua quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp, phỏng vấn trực tiếp, điều tra để thu nhận thông tin. - Hai là xử lý phân tích dữ liệu: Các dữ liệu thu thập được sẽ được kiểm tra, sàng lọc, sau đó sử dụng công cụ word, excel để tiến hành thống kê, phân tích. Bên cạnh đó, tiến hành xử lý số liệu bằng cách sử dụng sơ đồ, bảng biểu... để phân tích, tổng hợp và đánh giá. - Ba là trình bày, diễn giải và phân tích dữ liệu: Kết quả nghiên cứu sẽ được trình bày dưới dạng bảng, biểu đồ, đồ thị thống kê. Tác giả tiến hành diễn giải và phân tích kết quả khảo sát căn cứ vào các quy định pháp lý về thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận văn vận dụng lý luận, pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng để đánh giá việc thực hiện pháp luật NVQS; từ đó chỉ ra những bất cập, tồn tại trong quá trình thực hiện pháp luật NVQS, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật NVQS của công dân. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn 8
  15. Đề xuất được các giải pháp thiết thực, hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân trong thời gian tới của quận Cẩm Lệ nói riêng và cả nước nói chung. 7. Kết cấu của luận văn Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật của thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự. Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quận sự của công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. 9
  16. CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân 1.1.1. Khái niệm pháp luật thực hiện nghĩa vụ quân sự Thực hiện NVQS là quy định bắt buộc với hầu hết các quốc gia trên thế giới hiện nay. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và dân số mà các nước quy định độ tuổi nhập ngũ cho công dân của nước mình; hoặc quy định nhập ngũ bắt buộc hay nhập ngũ tự nguyện, theo hợp đồng, thậm chí quy định nhập ngũ bắt buộc đối với cả nữ giới (ở Israel, tất cả thanh niên nam, nữ học xong trung học đều phải vào quân ngũ). Tình hình thực hiện NVQS của một số nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy, trong xây dựng và BVTQ ở mỗi quốc gia cần thiết phải thực hiện NVQS đối với thanh niên. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân”. Quy định trên, khẳng định mọi công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú đều phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và nhằm thể chế quy định của Hiến pháp năm 2013: “Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự”, Luật nghĩa vụ quân sự đã quy định: “Nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm phục vụ tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của Quân đội nhân dân Việt Nam. Luật NVQS là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ; tạo điều kiện cho nhân dân làm tròn NVQS và tham gia xây dựng nền QPTD. Luật NVQS góp phần quan trọng vào xây dựng Quân 10
  17. đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và tăng cường QPTD, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới. Luật NVQS có các quy định về đối tượng, thời gian thực hiện NVQS; trách nhiệm, nghĩa vụ của thanh niên trong thời gian tại ngũ; vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng trong thực hiện NVQS; quy định miễn, tạm hoãn gọi nhập ngũ. Luật NVQS đang hiện hành quy định, công dân nam từ đủ 18 tuổi đến hết 25 tuổi, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, nơi cư trú có nhiệm vụ tại ngũ trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Thời gian phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan và binh sĩ trong thời bình, với lục quân là 24 tháng, với các binh chủng kỹ thuật là 24 tháng [2, trg7]. Trong thời gian tại ngũ, thanh niên phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; Gương mẫu chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ của quân đội; Ra sức học tập chính trị, quân sự, rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ luật và thể lực, không ngừng nâng cao bản lĩnh chiến đấu,… [2, trg14]. Luật NVQS cũng quy định vai trò của các cơ quan trong hệ thống chính trị các cấp, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình, Hội đồng NVQS xã, phường, thị trấn trong việc thực hiện NVQS của thanh niên. Trong đó có quy định, gia đình có trách nhiệm động viên, giáo dục và tạo điều kiện cho công dân làm tròn NVQS [2, trg16]. Ngoài ra, các văn bản hiện hành còn có các quy định về đối tượng được miễn, tạm hoãn gọi nhập ngũ. Nghị định Chính phủ, số 38/2007/NĐ-CP, ngày 15 tháng 3 năm 2007 quy định những công dân được miễn gọi nhập ngũ trong thời bình: Con của liệt sĩ, con của thương binh hạng 1, con của bệnh binh hạng 1; Một người anh trai hoặc em trai của liệt sĩ; Một con trai của thương binh hạng 2; Cán bộ, viên chức, công chức, thanh niên xung phong, thanh 11
  18. niên tình nguyện, trí thức trẻ tình nguyện đã phục vụ từ hai mươi bốn tháng trở lên và công dân được tạm hoãn gọi nhập ngũ: Công dân có anh, chị hoặc em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ và học viên là hạ sĩ quan, binh sĩ đang học tập tại các trường quân đội, trường ngoài quân đội theo kế hoạch của Bộ Quốc phòng; Công dân đang học tập tại các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân theo hình thức giáo dục chính quy tập trung (Trường trung học phổ thông, trường phổ thông có nhiều cấp học, trường phổ thông dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường chuyên, trường năng khiếu, dự bị đại học; v.v...) [13]. Qua những phân tích trên, có thể hiểu pháp luật về thực hiện NVQS là hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận thể hiện ý chí của nhà nước nhằm đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ quận sự của công dân trên cơ sở giáo dục thiết phục và cưỡng chế. 1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về NVQS Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước không chỉ không ngừng xây dựng, hoàn thiện pháp luật mà còn có trách nhiệm tổ chức thực hiện pháp luật, kịp thời phát hiện, đấu tranh phòng ngừa và xử lý các hành vi vi phạm để pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất. Các quy phạm pháp luật muốn đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả điều chỉnh thì phải gắn với các quan hệ xã hội, với chủ thể, được thực hiện qua hoạt động có mục đích của chủ thể. Hơn nữa, đó còn là một yếu tố, giai đoạn không thể thiếu của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Sau khi được ban hành, để phát huy vai trò, pháp luật phải được các chủ thể tiếp nhận, tôn trọng và tự giác thực hiện. Vì thế, thực hiện pháp luật là quá trình các chủ thể khi gặp phải tình huống, sự kiện mà quy phạm pháp luật đã dự liệu, từ nhận thức, chuyển hóa sáng tạo chúng vào tình huống cụ thể đó bằng hành vi thực tế, hợp pháp của mình. Ngoài ra, thực hiện pháp luật còn là nghĩa vụ của tất cả cơ quan, tổ 12
  19. chức, cá nhân và được tiến hành bằng nhiều hình thức với quy trình khác nhau. Thực hiện pháp luật về NVQS bao gồm nhiều biện pháp tác động trong một quá trình nên có tính liên tục, thường xuyên. Việc thực hiện pháp luật về NVQS được xem là bộ phận quan trọng trong tổng thể các biện pháp thúc đẩy trên các lĩnh vực gắn với bảo đảm nghĩa vụ công dân, hướng đến xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thực hiện pháp luật về NVQS giúp chủ thể - công dân - tiếp cận pháp luật, nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của họ trong xã hội. Do thuộc tính điều chỉnh và bắt buộc chung của pháp luật, nên thực hiện pháp luật về NVQS đối với nước ta là nghĩa vụ và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó trước hết và chủ yếu thuộc về Nhà nước mà đại diện là cơ quan, đội ngũ cán bộ, công chức - người làm công tác tham mưu, hoạch định chính sách cán bộ. Các chủ thể này phải là tấm gương sáng trong tuân thủ, chấp hành và áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, sáng tạo. Nhà nước có trách nhiệm thiết lập các thể chế, thiết chế hỗ trợ công dân thực hiện pháp luật; giúp họ tiếp cận pháp luật, sử dụng các thiết chế hỗ trợ trong thực hiện các chính sách NVQS. Như vậy, có thể hiểu thực hiện pháp luật về NVQS là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật NVQS đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Hay nói cách khác, thực hiện pháp luật về NVQS là hoạt động thực tiễn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được tiến hành theo những hình thức pháp lý nhất định, có mối liên hệ và quy định lẫn nhau trong một cơ chế phù hợp với điều kiện của từng giai đoạn lịch sử, nhằm hiện thực hóa các yêu cầu, nội dung của quy phạm pháp luật về NVQS, bảo đảm cho việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân được thiết lập và duy trì trong đời sống xã hội và gia đình. 1.1.3. Đặc điểm của thực hiện pháp luật nghĩa vụ quân sự 13
  20. - Đặc điểm về chủ thể thực hiện: Chủ thể thực hiện pháp luật về Nghĩa vụ quân sự mang tính đa dạng và phong phú. Cụ thể: Các cơ quan nhà nước: đây là chủ thể đặc biệt vì trong quá trình thực hiện, cơ quan nhà nước phải thể hiện là chủ thể mang tính quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước thực hiện trách nhiệm quản lý xã hội, đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ quân sự được tổ chức thực hiện trên một phạm vi rộng lớn là toàn quốc. Bên cạnh đó, khác với các việc đảm bảo việc thực hiện pháp luật khác, việc thực hiện pháp luật nghĩa vụ quân sự còn do cơ quan các cơ quan có vị trí, chức năng đặc biệt thực hiện, đó là: Ban chỉ huy quân sự cấp xã; Ban chỉ huy quân sự cấp huyện; Hội đồng nghĩa vụ quân sự các cấp. Ban chỉ huy quân sự cấp xã: Ban chỉ huy quân sự cấp xã được quy định: Tham mưu cho cấp ủy Đảng, Ủy ban nhân dân cấp xã lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự ở cơ sở; đăng ký, quản lý công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ, công dân nam trong độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ; tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ, quản lý lực lượng dự bị động viên theo quy định của pháp luật... Hội đồng NVQS các cấp là cơ quan tham mưu giúp UBND cùng cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai nhiệm vụ tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ. - Đặc điểm về phạm vi pháp luật nghĩa vụ quân sự. Phạm vi thực hiện pháp luật về NVQS là môi trường và những giới hạn không gian, địa lý để các chủ thể tiến hành các hoạt động thực hiện pháp luật về NVQS. Để có được phạm vi thực hiện pháp luật về NVQS đòi hỏi nhà nước phải quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện pháp luật về NVQS; chế độ và trách nhiệm pháp lý của các chủ thể trong thực hiện về pháp luật về NVQS mang tính chất về an ninh quốc phòng. - Đặc điểm về nội dung thực hiện pháp luật nghĩa vụ quân sự: 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2