Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân của chính quyền cấp xã từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
lượt xem 11
download
Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực trạng pháp luật, thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, luận văn đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tiếp công dân trong giai đoạn tới.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân của chính quyền cấp xã từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THÀNH LẠI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THÀNH LẠI THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN MINH PHÚ HÀ NỘI, năm 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn “Thực hiện pháp luật về tiếp công dân của chính quyền cấp xã từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng” là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Đà Nẵng, ngày tháng năm 2020 Tác giả luận văn Nguyễn Thành Lại
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TIẾP CÔNG DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ ........................................... 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã ...................................................................................................................... 6 1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và hình thức thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã.......................................................................................... 11 1.3. Điều kiện bảo đảm việc thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã .......................................................................................................................... 35 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TIẾP CÔNG DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TẠI QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.................................................................................... 40 2.1. Thực trạng các quy định về pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã .. 40 2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ.................................................................................................................. 42 2.3. Đánh giá chung về thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ ......................................................................................................... 52 CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TIẾP CÔNG DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TẠI QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................ 61 3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ .................................................................................................... 61 3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ................................................................................................ 65 KẾT LUẬN .......................................................................................................... 78 TÀI LIỆU THAM KHẢO
- DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Từ viết tắt Nghĩa đầy đủ 1 CNH-HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa 2 HĐND Hội đồng nhân dân 3 UBND Ủy ban nhân dân 4 KN Khiếu nại 5 CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 6 BTCD Ban tiếp công dân 7 MTTQ Mặt trận tổ quốc 8 UBKT Ủy ban kiểm tra
- DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ Số hiệu Tên bảng, hình Trang bảng, hình Trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức tham gia tiếp 2.1 công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các phường trên 44 đian bàn quận Cẩm Lệ năm 2019 1.1 Quy trình tiếp người khiếu nại 36 1.2 Quy trình tiếp người tố cáo 37 1.3 Quy trình tiếp người kiến nghị, phản ánh 38
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm phát huy quyền dân chủ của nhân dân, gắn với việc xây dựng bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ CNH-HĐH và hội nhập quốc tế. Những năm gần đây cùng với quá trình CNH, HĐH thì quá trình đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh chóng, từ đó làm nảy sinh những vấn đề bức xúc trong đời sống nhân dân đòi hỏi phải được giải quyết. Trong quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa người dân bị thu hồi đất để chuyển giao cho Nhà nước, cho doanh nghiệp mà không kiếm được kế sinh nhai, dẫn đến tình trạng thiếu việc làm; Môi trường tự nhiên bị ô nhiễm nghiêm trọng, các giá trị của văn hóa truyền thống, văn hóa cộng đồng ngày càng bị mai một,… thay vào đó là vấn đề tai - tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Tất cả những vấn đề đó là nguyên nhân dẫn đến một thực trạng đó là tình hình khiếu nại, tố cáo của người dân ngày càng nhiều, có xu hướng phức tạp. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác công tác này, trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản về công tác tiếp công dân như: Nghị định 89/CP ngày 07/8/1997 ban hành kèm theo Quy chế tổ chức tiếp công dân; Luật Khiếu nại, Tố cáo năm 1998; Quyết định số 858/QĐ-TTg ngày 14/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án đổi mới công tác tiếp công dân; Luật Khiếu nại năm 2011; Luật Tố cáo năm 2011; Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại; Nghị định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Tố cáo…Mặc dù được quy định nhiều trong các văn bản, nhưng những quy định về công tác tiếp công dân còn rải rác, chưa cụ thể, chưa thống nhất và còn nhiều bất cập, hạn chế trên thực tế. Điều này, phần nào càng làm cho tình hình khiếu nại, tố cáo diễn biến phức tạp trong thời gian qua, tình trạng khiếu kiện đông người vượt cấp tiếp tục gia tăng, phát sinh nhiều điểm nóng gâymất ổn định xã hội. Phần lớn những khiếu kiện của công dân liên quan đến đất đai: giải phóng mặt bằng, đền bù, đòi lại đất cũ, tranh chấp đất hoặc liên quan đến việc giải quyết các chính sách chế độ về nhà ở, chế độ trợ cấp xã hội, tố cáo cán bộ lợi dụng chức quyền tham nhũng… 1
- Trước tình hình thực tiễn trên, đồng thời xuất phát từ quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta, xét thấy cần phải đổi mới công tác tiếp công dân trong lĩnh vực khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh để nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân, giảm bớt khiếu kiện phức tạp kéo dài, đảm bảo trật tự ổn định xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ngày 25 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6 khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Luật Tiếp công dân năm 2013. Luật Tiếp công dân năm 2013 ra đời có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra nhiều yêu cầu mới trong tổ chức và hoạt động của công tác tiếp công dân trong giai đoạn hiện nay. Bản thân là công chức nhà nước, hiện đang công tác tại Văn phòng HĐND và UBND phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, là cơ quan tham mưu cho UBND phường trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân. Môi trường công việc thường xuyên phải tiếp xúc với công dân, với các quy định của pháp luật liên quan đến công tác này, nên bản thân nhận thấy tổ chức và hoạt động tiếp công dân hiện nay của phường Hòa Thọ Đông nói riêng, quận Cẩm Lệ nói chung đang gặp những khó khăn, thách thức nhất định và cần có những giải pháp lâu dài. Với những lý do trên, việc chọn đề tài: “ Thực hiện pháp luật về tiếp công dân của chính quyền cấp xã từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp là rất cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận và vừa có ý nghĩa thực tiễn, góp phần đưa những giải pháp nhỏ bé nhằm đổi mới công tác tiếp công dân của chính quyền cấp xã, phường trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng nói riêng và công tác tiếp công dân trên cả nước nói chung. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đã có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật tiếp công dân, về thực tiễn hoạt động công tác tiếp công dân nói chung trên cả nước, làm cơ sở lý luận và nguồn tham khảo cho đề tài, cụ thể: - Tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tình hình mới, Thanh tra Chính phủ, Nxb Hà Nội, 2006. Cuốn sách trình bày một số vấnđề đặt ra đối với công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong 2
- tình hình mới; Kinh nghiệm thực tiễn của các ngành, các địa phương trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; - Thực hiện pháp luật về tiếp công dân của UBND các cấp từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng của thạc sỹ Nguyễn Thị Hằng, 2015, làm rõ cơ sở lý luận vềtiếp công dân trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và thực hiện pháp luật về tiếp công dân của UBND thành phố Đà Nẵng; - Đề tài khoa học cấp Bộ của Thạc sỹ Bùi Mạnh Cường, 2013, Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân. Đề tài nêu rõ thực trạng về tiếpcông dân và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân trong những năm vừa qua và đưa ra những giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân trong thời gian tới ở nước ta; - “Quy trình tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo trong các cơ quan của Quốc hội ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Tuyết Trinh. - “Cải cách thủ tục hành chính trong tiếp dân, giải quyết KN, tố cáo”(Chủ nhiệm- đồng chí Lê Đình Đấu- Vụ trưởng vụ xét khiếu tố), mục đích là nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các công trình nghiên cứu trên ở các mức độ khác nhau đều có đề cập vấn đề tiếp công dân nói chung nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể và trực tiếp đến vấn đề tiếp công dân của chính quyền cấp xã, phường tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Các đề tài, bài biết, tham luận mới chỉ đề cập đến những vấn đề riêng hoặc ở một số khía cạnh nhất định, rời rạc đến pháp luật về tiếp công dân và bất cập, khó khăn trong quá trình thực hiện pháp luật về tiếp công dân của các cơ quan, đơn vị. Vì vậy, vấn đề “Thực hiện pháp luật về tiếp công dân của chính quyền cấp xã từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng” là vấn đề cần được nghiên cứu. Đó cũng chính là một trong những lý do tác giả chọn vấn đề này làm đề tài luận văn cao học Luật của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực trạng pháp luật, thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, 3
- luận văn đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tiếp công dân trong giai đoạn tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ: Một là, hệ thống hóa và phân tích một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nội dung, các điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã. Hai là, khảo sát và đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Ba là, xác định quan điểm và đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung làm rõ việc thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Về nội dung: Hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã được nghiên cứu trong luận văn này được giới hạn trong việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh với UBND cấp xã trong việc thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ở quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Về không gian: quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Về thời gian: số liệu thực tiễn được thu thập từ năm 2015 đến năm 2019. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động tiếp công dân nói chung và tiếp công dân của UBND cấp xã nói riêng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể đó là: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khảo sát, đánh giá thực tiễn, phân tích, tổng hợp, logic, chứng minh, so sánh, hệ thống hóa. 4
- 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và pháp lý về thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã; đánh giá thực trạng tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả và bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Các phương hướng, giải pháp được đề ra trong luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp công dân trên cả nước nói chung và tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng nói riêng. 7. Kết cấu của luận văn. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu thành 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã; Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng; Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảmthực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. 5
- CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TIẾP CÔNG DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã 1.1.1. Quan niệm về chính quyền cấp xã Ở nước ta, theo quy định của pháp luật thực định, chính quyền địa phương được tổ chức thành 3 cấp: tỉnh, huyện và xã. Ngoài ra, còn bao gồm đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Tuy nhiên, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt này chưa được thành lập trên thực tế mà mới chỉ là quy định pháp lý có tính chất định hướng, tạo hành lang. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay thể hiện sự phân công, phân cấp giữa các cấp chính quyền, trong từng phạm vi nhất định, mỗi cấp chính quyền có sự độc lập, tự chủ về ngân sách và thẩm quyền quản lý theo luật định. Tuy nhiên, xem xét với tính cách hệ thống, giữa các cấp chính quyền vẫn tồn tại tính thứ bậc tương đối chặt chẽ, thể hiện ở chỗ tính hiệu lực bắt buộc của các quyết định quản lý của cấp trên đối với cấp dưới, sự phê chuẩn của cấp trên đối với tổ chức bộ máy của cấp dưới, tỷ lệ phân cấp ngân sách giữa cấp trên với cấp dưới… Điều này được lý giải là để đảm bảo tính thống nhất, không thể phân chia của quyền lực nhà nước. Theo cách hiểu như vậy, chính quyền xã là chính quyền địa phương cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền ở Việt Nam. Chính quyền xã là hệ thống các cơ quan nhà nước được thành lập ở cấp xã, thực thi quyền lực nhà nước trong phạm vi quản lý nhà nước cấp xã; bao gồm HĐND xã và UBND xã. Chính quyền cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, gắn với đơn vị hành chính có quy mô nhỏ nhất (trong tương quan với đơn vị hành chính cấp trên trực tiếp), tiếp xúc trực tiếp với đòi hỏi của công dân và những gì công dân mong muốn từ nhà nước, là mắt xích cuối cùng và cơ bản nhất của sợi dây liên kết giữa chính quyền và dân chúng. Bởi vậy, chú trọng vào năng lực của chính quyền xã là một trong những ưu tiên cần được xem xét trong cải cách cách hành chính nhằm tạo ra những hiệu quả trực tiếp nhất, gắn với lợi ích cụ thể của công dân. 6
- Cấp xã là một cấp trong hệ thống 3 cấp chính quyền địa phương ở Việt Nam. Với tính cách là một cấp chính quyền địa phương, theo quy định của Hiến pháp, cũng như các cấp chính quyền địa phương khác, chính quyền cấp xã bao gồm: Hội đồng nhân dân (HĐND) và UBND (UBND) là bộ máy quản lý, điều hành công việc nhà nước trong phạm vi xã, phường, thị trấn. Theo các quy định trong các văn bản pháp lý ở nước ta, thuật ngữ “cấp xã” được sử dụng chung cho 3 loại đơn vị hành chính là xã, phường, thị trấn. Do vậy, cả ba thuật ngữ “chính quyền xã”, “chính quyền phường” và “chính quyền thị trấn” đều có thể được gọi chung là “chính quyền cấp xã”. Cách phân chia chính quyền này xuất phát từ đặc thù của từng địa bàn quản lý giữa đô thị và nông thôn. Chính quyền xã được hiểu là chính quyền địa phương được thành lập ở xã, tức địa bàn nông thôn; chính quyền thị trấn được hiểu là chính quyền địa phương được lập ở thị trấn, chính quyền phường được hiểu là chính quyền địa phương được thành lập ở các phường, tức địa bàn đô thị. Như vậy, chính quyền xã được hiểu là chính quyền địa phương ở xã, là hệ thống các cơ quan nhà nước được thành lập ở địa bàn các xã, thực thi quyền lực nhà nước trong phạm vi quản lý nhà nước ở xã; bao gồm hai hệ thống cơ quan: một là, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, tức HĐND xã và hai là, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, tức UBND xã. Theo Điều 113 của Hiến pháp năm 2013 và Điều 6 Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 quy định: HĐND gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Điều 119 Hiến pháp năm 2013 và Điều 8 Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 quy định: UBND do HĐND cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương, HĐND cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. 1.1.2. Khái niệm hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã Trước khi có Luật tiếp công dân năm 2013, thuật ngữ tiếp công dân đã thường xuyên xuất hiện trong đời sống hàng ngày, trong hoạt động quản lý của nhà 7
- nước và trong các văn bản pháp luật, được hiểu rằng đó là một hoạt động của quản lý nhà nước, xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong tiếp công dân, trình tự, thủ tục tiến hành tiếp công dân...Tuy nhiên chưa có một khái niệm chính thức về tiếp công dân trong bất kỳ văn bản nào. Luật tiếp công dân năm 2013 khái niệm: “Tiếp công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật” [21]. Như vậy, tiếp công dân là hoạt động cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận thông tin từ người dân thông qua ba hoạt động đó là: khiếu nại; tố cáo; kiến nghị, phản ánh. Trên cơ sở khái niệm tiếp công dân và chính quyền cấp xã, trong phạm vi luận văn, tác giả đề xuất khái niệm tiếp công dân của chính quyền cấp xã là việc các đơn vị, ban, ngành của chính quyền cấp xã có thẩm quyền theo quy định đón tiếp nhân dân để lắng nghe, tiếp nhận các ý kiến của nhân dân ; giải thích, hướng dẫn nhân dân về việc thực hiện các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. 1.1.3. Đặc điểm hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã Hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã có những đặc điểm sau: Thứ nhất, tiếp công dân là hoạt động được thực hiện bởi chủ thể mang quyền lực nhà nước, theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Đặc điểm này nhằm xác định trách nhiệm của nhà nước, cụ thể là trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, đồng thời cũng nhằm hạn chế sự né tránh, đùn đẩy hay lạm quyền, tùy tiện trong công tác tiếp dân. Thứ hai, tiếp công dân là hoạt động có mục đích thể hiện bản chất của nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Thứ ba, tiếp công dân là hoạt động đa dạng, phức tạp: Khác với hoạt động tiếp xúc giữa công dân với cơ quan nhà nước để giải quyết các công việc cụ thể thông thường diễn ra liên tục hàng ngày liên quan đến quản lý nhà nước trên các lĩnh vực theo thủ tục nhất định. Hoạt động tiếp công dân bao gồm tiếp công dân khiếu nại, tiếp công dân tố cáo, tiếp công dân kiến nghị, phản ánh, trong mỗi trường hợp thì việc tiếp 8
- xúc giữa nhà nước và công dân cũng được thực hiện một cách linh hoạt, đa dạng, phong phú tùy theo tính chất phức tạp của từng vụ việc, theo từng nội dung. 1.1.4. Vai trò của hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã Tiếp công dân là việc làm không thể thiếu trong hoạt động quản lí trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và hoạt động quản lí hành chính nhà nước nói riêng, nhờ hoạt động này mà chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước được thực hiện hiệu quả, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được giải quyết nhanh chóng, góp phần giúp xây dựng và tổ chức chính quyền vững mạnh hơn. Thực hiện pháp luật với tính cách là một nhu cầu, một phạm vi hoạt động xã hội, có mối liên hệ với thực tiễn xã hội, phản ánh đặc điểm của các quan hệ xã hội mà pháp luật có nhiệm vụ điều chỉnh [36]. Thực hiện tốt pháp luật về tiếp công dân chắc chắn sẽ tăng cường kỷ cương hành chính, trách nhiệm công vụ, dẫn đến những thay đổi tích cực về thái độ, lề lối, tác phong tiếp công dân của cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân; tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Vai trò của thực hiện pháp luật về tiếp công dân được nhìn nhận trên các khía cạnh sau: 1.1.4.1. Nhìn từ mối quan hệ giữa pháp luật và thực hiện pháp luật về tiếp công dân Nếu như xây dựng và ban hành pháp luật về tiếp công dân là một quá trình lao động quyền lực, trong đó chủ thể chính là các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ v.v.) với sự tham gia của các tổ chức, các cá nhân công dân (trong quá trình tham gia ý kiến v.v.), thì thực hiện pháp luật về tiếp công dân là một quá trình rộng hơn nhiều, nếu xét theo phạm vi hoạt động, theo số lượng các chủ thể tham gia các hoạt động đó và đặc biệt là tính phức tạp cũng cao hơn bởi tính chất các quan hệ xã hội đa dạng hơn [38]. Pháp luật về tiếp công dân là sự ghi nhận về mặt pháp lí trách nhiệm của nhà nước với xã hội và cá nhân công dân thông qua hoạt động tiếp công dân. Làm tốt việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân sẽ góp phần huy động sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào hoạt động quản lí của nhà nước, quản lí xã hội, tạo động lực thúc đẩy hoàn thiện công tác quản lí nhà nước nói chung và quản lí hành chính nói riêng. 9
- 1.1.4.2. Nhìn từ mối quan hệ giữa thực hiện pháp luật về tiếp công dân với bảo đảm quyền dân chủ của người dân Đảm bảo, bảo vệ quyền dân chủ của công dân là một mục tiêu phát triển căn bản đã được Đảng và nhà nước Việt Nam khẳng định, quyền dân chủ được quy định trong pháp luật quốc gia, trở thành ý chí chung của toàn xã hội, được xã hội tuân thủ và được pháp luật bảo vệ. Pháp luật về tiếp công dân ghi nhận các giá trị của con người và trở thành phương tiện để các thành viên của xã hội có điều kiện để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Thực hiện pháp luật về tiếp công dân có vai trò bảo đảm cho các quyền dân chủ hiến định của người dân được thực thi trên thực tế. Quyền dân chủ của công dân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm; quyền con người, quyền công dân không phải là những quyền được trao, nhà nước không ban phát các quyền cho con người, cho công dân mà Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định nhà nước có trách nhiệm “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”. Thông qua việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, quyền dân chủ của người dân được phát huy hiệu quả. Việc thực hiện pháp luật ở mỗi người có nhiều sự khác nhau, tần suất thực hiện pháp luật theo đó sẽ dao động khác nhau, phụ thuộc vào các yếu tố xã hội, dân chủ trong cuộc sống hiện đại [21]. Việc ý thức cao hơn về nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi công dân với nhà nước giúp công dân khéo léo sử dụng quyền dân chủ của mình phản ứng lại các hành vi, quyết định của cơ quan nhà nước trái với quy định của pháp luật hoặc không hợp lí, hợp tình. 1.1.4.3. Nhìn từ mối quan hệ giữa thực hiện pháp luật về tiếp công dân với thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo Thực hiện pháp luật về tiếp công dân tạo tiền đề, cơ sở, là bước đầu của việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của công dân. Trên thực tế, chủ yếu người dân đến các trụ sở tiếp dân là để khiếu nại, tố cáo. Tiếp công dân gắn với quy trình xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; đồng thời, quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của công dân khi đến khiếu nại, tố cáo tại trụ sở tiếp công dân bởi đây là khâu đầu tiên trong chu trình giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với người dân. Qua hoạt động này, người dân có quyền trình bày quan điểm của mình với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thể hiện quyền dân chủ của nhân dân tham gia vào quá trình quản lí 10
- nhà nước, tăng cường kiểm tra, giám sát của người dân, đấu tranh với biểu hiện tiêu cực trong hoạt động quản lí hành chính của các cơ quan nhà nước. Cần chú ý đúng mức với việc gắn việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân với việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân vì đây là mục đích chính của việc tiếp công dân, cũng là mục đích chính của người dân khi đến trụ sở tiếp dân, tránh tình trạng chỉ tập trung vào giải quyết vấn đề đón tiếp, lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của công dân. 1.1.4.4. Nhìn từ mối quan hệ giữa thực hiện pháp luật về tiếp công dân với phổ biến, giáo dục pháp luật về tiếp công dân Không phải ngẫu nhiên mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra chủ trương phấn đấu xây dựng những quy định pháp luật có khả năng điều chỉnh trực tiếp, áp dụng trực tiếp, đi thẳng vào cuộc sống. Vì vậy, trong quá trình thực hiện pháp luật, đề cao việc giáo dục ý thức chính trị, ý thức pháp luật là việc làm vô cùng cần thiết và cần đến bộ máy và các cơ chế tuyên truyền, giáo dục pháp luật, phổ biến pháp luật, cưỡng chế thi hành pháp luật. Đặc biệt, cần tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện pháp luật; tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo một cách sâu rộng cho mọi tầng lớp nhân dân và cán bộ công chức để nhận thức rõ về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực này, đồng thời cũng để cán bộ, công chức nhận thức đúng đắn trách nhiệm của mình. Thực hiện pháp luật về tiếp công dân đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật tiếp công dân và các lĩnh vực pháp luật có liên quan, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân. 1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, quy trình và hình thức thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã 1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã Có nhiều hình thức hoạt động khác nhau để các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền tiếp nhận yêu cầu, kiến nghị, khiếu tố từ nhân dân như: (i) tiếp xúc cử tri (là việc đại biểu dân cử gặp gỡ, trao đổi với cử tri nhằm mục đích nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của các cử tri) của đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; (ii) tiếp cận thông tin (là việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin), phản ánh qua các trang thông tin điện tử của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; (iii) tiếp nhận thông tin, phản ánh từ các phương tiện thông tin đại chúng và (iv) tiếp công dân. 11
- Tiếp nói chung được hiểu là hoạt động giao tiếp, đón tiếp các đối tượng nhất định; tiếp nhận những thứ từ chủ thể khác, nơi khác chuyển đến, ví dụ như: tiếp đón đoàn đại biểu nước ngoài, tiếp khách đến thăm cơ quan đơn vị, tiếp nhận hồ sơ, tiếp nhận hàng hoá, tiếp nhận đơn thư... Trong đó, việc tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo, hoặc ý kiến kiến nghị, phản ánh của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và các chủ thể khác có trách nhiệm thường gắn liền với hoạt động tiếp công dân. Trong chế độ dân chủ, địa vị cao nhất là dân, nhân dân là người chủ. Nhân dân có quyền chủ động đến cơ quan nhà nước gặp gỡ, tiếp xúc với cán bộ, công chức để giao tiếp, thể hiện tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, thái độ hay để đưa ra các yêu cầu, kiến nghị, phản ánh về bất cứ vấn đề gì liên quan đến lợi ích của nhân dân, công việc của nhà nước và tinh thần, trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, công chức mà nhân dân quan tâm. Do vậy, tiếp công dân là yêu cầu bắt buộc, là trách nhiệm của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Tiếp công dân một mặt thể hiện ý thức tôn trọng nhân dân, quyền của nhân dân từ phía bộ máy công quyền, một mặt cũng là thể hiện quyền của nhân dân-cội nguồn, gốc rễ của quyền lực nhà nước. Hay nói cách khác, tiếp công dân là biểu hiện của dân chủ, là hình thức biểu hiện trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân với nhà nước, qua đó thể hiện sự quan tâm của Đảng và nhà nước đối với nhân dân cũng như thể hiện gián tiếp việc thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với nhà nước. Bên cạnh đó, tiếp công dân là công cụ bảo vệ và khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; nhờ đó mà nhà nước nắm rõ được ý chí, nguyện vọng của công dân, cơ quan, tổ chức; kịp thời đề ra các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nên việc này luôn được Đảng và nhà nước ta hết sức đề cao và coi trọng. [7, tr.23]. Khái niệm “tiếp công dân” có thể được hiểu là việc mặt đối mặt một cách trực tiếp giữa bên tiếp (cán bộ tiếp công dân) và bên được tiếp (công dân đến trụ sở tiếp công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh) gặp gỡ để lắng nghe hoặc tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân, cơ quan, tổ chức, đơn vị; khác với việc tiếp nhận đơn thư gửi qua bưu điện khi mà mọi sự việc khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đều được trình bày bằng chữ viết hay những ý kiến phản 12
- ánh được trình bày gián tiếp bằng lời nói qua điện thoại; hoặc thông tin trên các trang mạng trực tuyến, mạng xã hội. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của tiếp công dân, cũng từ đây đặt ra các yêu cầu về tinh thần, thái độ làm việc, ý thức trách nhiệm của cả bên tiếp công dân và bên được tiếp trong hoạt động tiếp công dân. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh” [7, tr.32]. Thực vậy, quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua các quyền lập pháp, hành pháp và quyền tư pháp. Mặc dù các quyền này được đặt trong cơ chế kiểm tra, giám sát nhưng quá trình thực thi quyền khó tránh khỏi sự xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Trong đó, quyền hành pháp được thực hiện thông qua hoạt động chấp hành, điều hành, hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách quốc gia. Trong mối quan hệ giữa các chủ thể được giao thẩm quyền quản lí hành chính (gồm hệ thống cơ quan hành chính và nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân khác, trải rộng từ trung ương đến địa phương thông qua cơ chế phân cấp quản lí của nhà nước cho các đơn vị hành chính lãnh thổ tương ứng: tỉnh, huyện, xã và các đơn vị hành chính tương đương) và đối tượng chịu sự quản lí, các chủ thể được giao thẩm quyền quản lí có thể xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thông qua việc ban hành các quyết định hoặc thực hiện hành vi bất hợp pháp, bất hợp lí. Bên cạnh đó, tại nhiều cơ quan nhà nước, nhiều ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân chưa được tiếp nhận, xem xét thấu đáo; công tác quản lí hành chính nhà nước chưa thực sự được coi trọng đúng mức. Người dân thường ở vị trí yếu thế, cần được bảo vệ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng viết: “Cán bộ ta nhiều người ‘cúc cung tận tụy’ hết sức trung thành với nhiệm vụ, với Chính phủ với quốc dân, nhưng cũng có những người hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng hoặc là độc hành, độc đoán, hoặc dĩ công dinh tư” [7, tr.23], khi nắm được quyền hành trong tay hay lạm dụng. Trong chế độ dân chủ đòi hỏi người dân phải được chống lại, phản ứng lại với sự xâm phạm đó, cụ thể là phản ứng đối với các quyết định, hành vi trái pháp luật được thực hiện trong quá trình thực thi quyền của cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các yếu tố dân chủ trong xã hội ngày càng phát triển, gắn liền với với đó là việc mở rộng và bảo đảm tốt hơn các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; chế độ dân chủ phải ghi nhận một quyền 13
- riêng cho người dân để phản ứng lại sự vi phạm này- đó là quyền khiếu nại, tố cáo hành chính, kiến nghị, phản ánh. Hoạt động tiếp công dân là hoạt động quan trọng, là khâu đầu tiên trong chu trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với người dân. Khoản 1 Điều 2 Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định: Tiếp công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm tiếp công dân để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật [25]; tiếp công dân là công tác quan trọng từ trung ương đến cơ sở, gồm: hoạt động tiếp công dân thường xuyên, tiếp công dân định kì và tiếp công dân đột xuất. Luật tiếp công dân năm 2013 có hiệu lực ngày 01/7/2014 và Nghị định số 64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiếp công dân, Thông tư số 06/2014/TT-TTCP ngày 31 tháng 10 năm 2014 quy định về quy trình tiếp công dân là những cơ sở pháp lí quan trọng quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác tiếp công dân; quy định về quyền và nghĩa vụ của nhân dân khi thực hiện quyền trong thực hiện pháp luật về tiếp công dân. Pháp luật về tiếp công dân cần được quan niệm là một lĩnh vực pháp luật độc lập (tương đối) so với pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung. Bởi pháp luật về khiếu nại tố cáo quy định việc tiếp công dân nhằm mục đích tiếp nhận khiếu nại, tố cáo nhưng trên thực tế, khi đến trụ sở tiếp công dân, người khiếu nại, tố cáo vẫn có thể khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị, phản ánh mọi hoạt động liên quan đến mọi lĩnh vực trong đời sống. Tiếp công dân là kênh giao tiếp đặc biệt để lắng nghe người dân góp ý, hiến kế, phản hồi về công tác điều hành quản lí của bộ máy hành chính; pháp luật về khiếu nại, tố cáo quy định tiếp công dân để nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo chỉ là một nội dung của pháp luật về tiếp công dân nói chung. Tiếp công dân, tiếp nhận, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh là một hoạt động liên quan trực tiếp đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân, được xem như những bước đầu tiên trong việc giải quyết những thắc mắc liên quan đến quyền khiếu 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 99 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 112 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 81 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 65 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn