intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội giao cấu với trẻ em theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:98

36
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu mà chúng tôi mong muốn đạt được là phân tích bao quát về toàn bộ lịch sử lập pháp của tội danh này trong pháp luật Việt Nam qua đó rút ra sự kế thừa, phát triển của việc pháp điển hóa điều luật này qua các thời kỳ lịch sử; bên cạnh đó chúng tôi cũng phân tích chuyên sâu những dấu hiệu pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội giao cấu với trẻ em theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ BÍCH HẠNH TéI GIAO CÊU VíI TRÎ EM TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2015
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ THỊ BÍCH HẠNH TéI GIAO CÊU VíI TRÎ EM TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRƯƠNG QUANG VINH HÀ NỘI - 2015
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lê Thị Bích Hạnh
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ........6 1.1. Khái niệm tội giao cấu với trẻ em ...................................................... 6 1.2. Lịch sử lập pháp về tội giao cấu với trẻ em trong pháp luật hình sự Việt Nam ........................................................................... 15 1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước pháp điển hóa lần thứ nhất- Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 1985.... 15 1.2.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 1986 .............................. 18 1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 cho đến trước khi ban hành Bộ luật Hình sự 1999 ......................................... 21 1.2.4. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật Hình sự 1999 đến nay ................ 22 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM........................... 24 2.1. Dấu hiệu pháp lý của tội giao cấu với trẻ em ............................... 24 2.1.1. Khách thể của tội giao cấu với trẻ em .............................................. 24 2.1.2. Mặt khách quan của tội giao cấu với trẻ em ..................................... 27 2.1.3. Chủ thể của tội giao cấu với trẻ em .................................................. 32 2.1.4. Mặt chủ quan của tội giao cấu với trẻ em ......................................... 34 2.2. Đường lối xử lý đối với người phạm tội giao cấu với trẻ em ....... 42 2.2.1. Đường lối xử lý đối với người phạm tội giao cấu với trẻ em theo quy định tại Khoản 1 Điều 115 ........................................................ 42
  5. 2.2.2. Đường lối xử lý đối với người phạm tội giao cấu với trẻ em theo quy định tại Khoản 2 Điều 115 ........................................................ 45 2.2.3. Đường lối xử lý đối với người phạm tội giao cấu với trẻ em theo quy định tại Khoản 3 Điều 115 ........................................................ 49 2.3. Phân biệt tội giao cấu với trẻ em với các tội xâm phạm tình dục trẻ em khác .............................................................................. 50 2.3.1. Tội hiếp dâm trẻ em ......................................................................... 51 2.3.2. Tội Cưỡng dâm trẻ em ..................................................................... 55 2.3.3. Tội dâm ô đối với trẻ em .................................................................. 60 Chương 3: MỘT SỐ BẤT CẬP VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ CŨNG NHƯ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ĐỐI VỚI TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ EM ............ 68 3.1. Một số bất cập về lý luận và thực tiễn áp dụng đối với tội giao cấu với trẻ em ......................................................................... 68 3.1.1. Một số bất cập về lý luận ................................................................. 68 3.1.2. Một số bất cập về thực tiễn áp dụng đối với tội giao cấu với trẻ em ...... 73 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự và nâng cao hiệu quả áp dụng đối với tội Giao cấu với trẻ em........................................................................................ 83 3.2.1. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự đối với tội giao cấu với trẻ em ..................................................... 83 3.2.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội giao cấu với trẻ em ..................................................... 85 KẾT LUẬN ................................................................................................. 89 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 90
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự CQĐT: Cơ quan điều tra ĐH: Đại học HĐXX: Hội đồng xét xử TAND: Tòa án nhân dân THCS: Trung học cơ sở TNHS: Trách nhiệm hình sự TPHCM: Thành phố Hồ Chí Minh VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo vệ trẻ em luôn luôn là trách nhiệm hàng đầu của cả xã hội. Tư tưởng đó cũng xuyên suốt trong hệ thống pháp luật Hình sự nước ta từ trước tới nay thể hiện ở việc coi trẻ em là khách thể cần được bảo vệ đặc biệt mà nếu bị xâm phạm đến thì hình phạt dành cho chủ thể tội phạm là nghiêm khắc hơn rất nhiều so với tội phạm có khách thể là người đã thành niên. Tuy nhiên hiện nay có một thực trạng đáng lo ngại là sự gia tăng của tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trên cả nước. Đặc biệt là trên địa bàn thành phố Hà Nội, tuy là khu vực thành thị có dân trí cao so với mặt bằng của cả nước nhưng lại là nơi mà tội phạm xâm hại tình dục đang có chiều hướng gia tăng về số lượng và nghiêm trọng về tính chất vụ việc. Trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi sẽ đi sâu nghiên cứu tội giao cấu với trẻ em trên toàn quốc song song với việc đi sâu phân tích địa bàn thành phố Hà Nội. Tội giao cấu với trẻ em được quy định tại Điều 115 - Bộ luật Hình sự 1999, thuộc chương XII – các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Điểm khác biệt của tội giao cấu với trẻ em so với các tội xâm phạm tình dục khác được quy định trong cùng chương này là hành vi giao cấu được sự thuận tình từ phía bị hại. Như vậy có thể hiểu các nhà lập pháp quy định điều luật này nhằm bảo vệ người bị hại là trẻ em khi các em còn chưa phát triển đầy đủ về tâm sinh lý để quyết định về hành vi tình dục của mình. Cũng chính vì đặc trưng trên của tội danh này mà trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án giao cấu với trẻ em còn nhiều vướng mắc. Nhiều vụ án giao cấu với trẻ em rất khó chứng minh trên thực tế cũng như có những vụ án trong quá trình tố tụng đã phải đình chỉ hoặc thay đổi tội danh do những biến chuyển xuất phát từ chính lời khai của các bên đương sự, do sự xung đột kết quả giám định… 1
  8. Chính vì những nguyên nhân trên, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam” bằng cách phân tích sâu những dấu hiệu pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử tội giao cấu với trẻ em, trên cơ sở đó tìm ra những vấn đề còn vướng mắc, bất cập cả về lý luận và thực tiễn, để từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự về tội giao cấu với trẻ em và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với loại tội phạm này trên thực tế. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người là nhóm tội phạm được quan tâm nghiên cứu rất nhiều vì đây là nhóm tội gây nguy hại cao cho xã hội, nó xâm hại trực tiếp đến con người là khách thể được pháp luật hình sự đặc biệt bảo vệ. Vì vậy cho tới nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nhóm tội danh này như: công trình khoa học “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm danh dự của con người” do tác giả Trần Văn Luyện biên soạn (2000, Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội); đề tài “Tìm hiểu các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người” của hai tác giả Bùi Anh Tuấn và Hồ Thị Nệ; (2010, Tìm hiểu các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự con người, NXB Phụ nữ, Hà Nội) các bài viết đăng trên tạp chí Luật học: “Một số điểm mới trong chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật hình sự năm 1999” của tác giả Lê Đăng Doanh (Tạp chí Luật học số 4/2000); “ Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm danh dự của con người – so sánh Bộ luật hình sự năm 1999 và Bộ luật hình sự năm 1985” của giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Ngọc Hòa (Tạp chí Luật học số 1/2001); Luận văn thạc sỹ của tác giả Trần Thùy Chi trường Đại học Luật Hà 2
  9. Nội năm 2011 “Tội giao cấu với trẻ em theo quy định của Bộ luật hình sự hiện hành” cũng đã nghiên cứu một cách khá toàn diện và cơ bản về tội Giao cấu với trẻ em theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999. 3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích nghiên cứu Trước tình hình tăng lên nhanh chóng về số lượng và diễn biến phức tạp về tính chất của các vụ án liên quan đến nhóm tội phạm xâm hại tình dục trẻ em trong đó đặc biệt là tội Giao cấu với trẻ em trong mấy năm gần đây, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Tội giao cấu với trẻ em trong luật hình sự Việt Nam”. Mục đích nghiên cứu mà chúng tôi mong muốn đạt được là phân tích bao quát về toàn bộ lịch sử lập pháp của tội danh này trong pháp luật Việt Nam qua đó rút ra sự kế thừa, phát triển của việc pháp điển hóa điều luật này qua các thời kỳ lịch sử; bên cạnh đó chúng tôi cũng phân tích chuyên sâu những dấu hiệu pháp lý cũng như thực tiễn áp dụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi phát hiện ra những quan điểm còn mâu thuẫn, chưa thống nhất cả trên phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về tội danh này từ đó đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự về tội giao cấu với trẻ em. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ thực tiễn công việc cùng với việc nghiên cứu, tham khảo các thông tin, tài liệu trên báo chí và các phương tiện truyền thông khác, tôi nhận thấy tình hình tội giao cấu với trẻ em đang diễn biến phức tạp. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số vấn đề bất cập trong công tác điều tra, truy tố và xét xử đối với tội danh này. Vì vậy với những nghiên cứu và kết quả thu thập được, chúng tôi hy vọng làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với tội giao cấu với trẻ em. Trên cơ sở phân tích một số vụ án điển hình, chúng tôi tìm ra những điểm bất cập và vướng mắc xuất phát từ các quy định của Bộ luật hình sự từ đó 3
  10. đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tội giao cấu với trẻ em theo điều 115 Bộ luật hình sự. Đồng thời, chúng tôi cũng đưa ra một số giải pháp cho công tác phòng ngừa và xử lý tội phạm này. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi nghiên cứu tội giao cấu với trẻ em dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự, trong đó đi sâu nghiên cứu các vấn đề: Khái niệm và lịch sử lập pháp của nước ta về tội giao cấu với trẻ em; các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của tội giao cấu với trẻ em được thể hiện trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm; đường lối xử lý đối với người phạm tội giao cấu với trẻ em theo pháp luật hiện hành. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng nghiên cứu một số vụ án giao cấu với trẻ em trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm minh họa cho các vấn đề được đưa ra đồng thời phân tích những vướng mắc trong quá trình tố tụng của các vụ án từ giai đoạn điều tra, truy tố đến xét xử. Từ đó, đề xuất những vấn đề cần điều chỉnh nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật Việt Nam về tội giao cấu với trẻ em. 4. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác – Lê nin, đồng thời chúng tôi cũng sử dụng những phương pháp nghiên cứu truyền thống như phân tích, so sánh, thống kê xã hội học kết hợp với tâm lý học và giải phẫu học nhằm làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu. Người viết cũng sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu với các quy định về vấn đề tương tự trong pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới, từ đó phân tích, tổng hợp và đưa ra kiến nghị để hoàn thiện những quy định của Bộ luật hình sự đối với tội giao cấu với trẻ em. 5. Những điểm mới và đóng góp của luận văn - Phân tích chuyên sâu về khái niệm “trẻ em”, đưa ra các quan điểm trong và ngoài nước về khái niệm này. 4
  11. - Phân tích chuyên sâu về khái niệm “giao cấu”, đưa ra các quan điểm trong và ngoài nước về khái niệm này và những bất cập trong luật hình sự Việt Nam liên quan đến khái niệm này. - Nêu và phân tích một số quan điểm về mặt “lỗi” trong cấu thành tội phạm tội Giao cấu với trẻ em theo Điều 115 Bộ luật hình sự. - Phân tích những bất cập còn tồn tại về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến tội Giao cấu với trẻ em theo Điều 115 Bộ luật hình sự. - Kiến nghị giải pháp hoàn thiện thiện quy định của pháp luật hình sự cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng đối với tội giao cấu với trẻ em. 6. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, luận văn bao gồm ba chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội giao cấu với trẻ em. Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về tội giao cấu với trẻ em. Chương 3: Một số bất cập về lý luận, thực tiễn áp dụng và giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng đối với tội giao cấu với trẻ em. 5
  12. Chương 1 MỘT SỐ VẦN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI GIAO CẤU VỚI TRẺ 1.1. Khái niệm tội giao cấu với trẻ em Trong lịch sử lập pháp của Việt Nam cũng như trên thế giới, tội giao cấu với trẻ em là loại tội được quy định từ rất sớm. Tuy nhiên tại mỗi thời kỳ các quy định cụ thể về loại tội này là khác nhau. Trước hết cần làm rõ về khái niệm “trẻ em”. Trong pháp luật quốc tế, độ tuổi trẻ em được hiểu tương đối thống nhất là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, trong các Công ước quốc tế như Tuyên bố của Hội quốc liên về quyền trẻ em năm 1924, Tuyên bố của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1959, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1968, Công ước 138 của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 1976 về tuổi tối thiểu được làm việc, Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989… đã khẳng định việc áp dụng độ tuổi trẻ em của mỗi quốc gia có thể khác nhau, tùy thuộc tình hình thực tế của của mỗi nước có thể áp dụng về độ tuổi trẻ em trong nội luật. Ở Việt Nam, pháp luật quy định về độ tuổi trẻ em chính thức được đề cập trong một văn bản pháp quy sau khi Ủy ban thường vụ quốc hội ban hành Pháp lệnh về Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 14 tháng 11 năm 1979, trong đó quy định: “Trẻ em nói trong Pháp lệnh này gồm các em từ mới sinh đến 15 tuổi” (Điều 1). Đến năm 1991, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được ban hành tại Điều 1 đã nâng độ tuổi trẻ em lên đến dưới 16 tuổi: “Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam dưới mười sáu tuổi” [19]. Độ tuổi này cũng được khẳng định lại tại Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ban hành năm 2004. Như vậy trong pháp luật chuyên ngành, Việt Nam thừa nhận độ tuổi trẻ em được xã hội, pháp luật bảo vệ và chăm sóc là những công dân dưới 16 tuổi. Mặc dù quy định độ tuổi thấp hơn so với Công 6
  13. ước quốc tế nhưng quy định về độ tuổi trẻ em của nước ta vẫn được coi là phù hợp với quy định mở của Công ước. Bên cạnh văn bản luật chuyên ngành, trong hệ thống pháp luật Việt Nam còn có nhiều ngành luật khác cũng đề cập tới vấn đề trẻ em như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Thanh niên, Luật Quốc tịch, Luật Giáo dục, Luật Phổ cập giáo dục tiểu học… Tuy nhiên mỗi ngành luật đều tiếp cận khái niệm trẻ em ở một khía cạnh khác nhau. Đặc biệt, một số văn bản luật đã có các chế định quy định về quyền tự định đoạt của trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên đối với các vấn đề liên quan trực tiếp tới mình như: nhận nuôi con nuôi; thay đổi họ, tên của con nuôi; quyết định ở với cha hay mẹ trong trường hợp cha mẹ ly hôn…(Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Trẻ em từ đủ 15 tuổi trở lên có thể tự mình quản lý tài sản riêng hoặc nhờ cha mẹ quản lý (Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Trẻ em từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được lấy ý kiến bằng văn bản khi thay đổi quốc tịch (Luật Quốc tịch năm 1998)… Trong thực tế có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau khi xem xét, giải quyết những vấn đề liên quan đến quyền và bổn phận của trẻ em. Người ta thường sử dụng cụm từ “trẻ em”, “trẻ con” hay “trẻ thơ” để chỉ những người ở một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của con người. Ở góc độ khoa học, trẻ em được định nghĩa tùy theo góc độ tiếp cận của từng khoa học cụ thể. Trong triết học, trẻ em được xem xét trong mối quan hệ biện chứng với sự phát triển xã hội nên ở mọi thời đại, tương lai của quốc gia, dân tộc đều tùy thuộc vào việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Đối với chuyên ngành xã hội học, trẻ em được xác định là người có vị thế, vai trò xã hội khác với người lớn, do đó cần được toàn xã hội quan tâm, tạo điều kiện sinh thành, nuôi dưỡng, bảo vệ và chăm sóc để trẻ em phát triển tốt nhất. Trong tâm lý học, khái niệm trẻ em được dùng để chỉ giai đoạn đầu của sự phát triển tâm 7
  14. lý, nhân cách con người. Dưới khía cạnh pháp lý, khái niệm trẻ em thường được tiếp cận theo độ tuổi. Điều này có nghĩa là một cá nhân có thể được coi là người lớn hay trẻ em phụ thuộc vào tuổi của người đó tại thời điểm xác định. Theo từ điển bách khoa Wikipedia thì trẻ em là một con người phát triển ở giai đoạn từ lúc sinh ra cho đến tuổi dậy thì. Mặc dù còn nhiều cách gọi tên hay vận dụng khác nhau nhưng tổng hợp lại chúng ta có thể thống nhất khái niệm về trẻ em như sau: Trẻ em là một thuật ngữ nhằm chỉ một nhóm xã hội thuộc về một độ tuổi nhất định trong giai đoạn đầu của sự phát triển con người. Từ cách tiếp cận này, chúng ta có thể hiểu khái niệm về độ tuổi của trẻ em là con người trong khoảng thời từ khi được sinh ra cho đến năm 16 tuổi (theo pháp luật Việt Nam) hoặc năm 18 tuổi (theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em của Liên hiệp quốc). Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 không đưa ra định nghĩa về trẻ em một cách cụ thể mà lại mô tả ngay trong các điều luật về độ tuổi của trẻ em. Ví dụ: Tội Hiếp dâm trẻ em quy định “Người nào hiếp dâm trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm” [18, Điều 112], tội Cưỡng dâm trẻ em quy định “người nào cưỡng dâm trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm” [18, Điều 114]. Bộ luật hình sự Việt Nam cũng quy định về tội giao cấu với trẻ em - Điều 115 “Người nào giao cấu với trẻ em từ đủ mười ba tuổi đến dưới mười sáu tuổi”. Như vậy, “trẻ em” được quy định ở trong các điều luật trên là người dưới mười sáu tuổi và trẻ em là đối tượng của tội “Giao cấu với trẻ em” là người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi. Có người hiểu rằng trẻ em theo các điều luật trên là người từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi.Cách hiểu như vậy là chưa xác đáng bởi trẻ em từ đủ 13 đến dưới 16 là đối tượng của tội phạm được quy định tại các điều luật trên không đồng nghĩa với khái niệm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam nói chung. Có sự tách biệt giữa trẻ em từ 8
  15. đủ 13 đến dưới 16 tuổi với trẻ em dưới 13 tuổi bởi đối tượng trẻ em dưới 13 tuổi được xác định về sinh học và xã hội học là lứa tuổi hết sức non nớt và cần sự bảo về đặc biệt từ xã hội. Do vậy, đối với các tội phạm xâm phạm đến trẻ em dưới 13 tuổi pháp luật sẽ điều chỉnh trong những quy phạm riêng, với sức răn đe đặc biệt. Ví dụ tại khoản 4 Điều 112 quy định “Mọi trường hợp giao cấu với trẻ em chưa đủ 13 tuổi là phạm tội hiếp dâm trẻ em và người phạm tội bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Vậy việc giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi cho dù nhận được sự đồng tình từ phía nạn nhân thì vẫn bị coi là “hiếp dâm”, nó khác với việc giao cấu thuận tình với trẻ em từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi được quy định tại điều 115 “Giao cấu với trẻ em”. Khái niệm trẻ em và khái niệm người chưa thành niên cũng cần được phân biệt rõ, tránh cách hiểu đồng nhất cũng như cách hiểu tách bạch khiên cưỡng đối với hai khái niệm này. Khi nghiên cứu vấn đề này, ta cần phân biệt rõ người chưa thành niên và trẻ em khác nhau như thế nào. Người chưa thành niên là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên. Tham khảo thêm các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành niên gồm: Công ước về Quyền trẻ em (United Nations Convention on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20-11-1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp luật với người chưa thành niên (United Nations Standard Minimum Rules for the Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) ngày 29-11-1985; Hướng dẫn của Liên hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (United Nations Guidelines for the Prevention of Juvenile delinquency/ Riyadh Guidelines) ngày 14-12- 1990. Theo quan niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người 9
  16. chưa thành niên (Juvenile) là người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên. Tại điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn” [8]. Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được xác định thống nhất trong Hiến Pháp năm 1992, Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Tất cả các văn bản pháp luật đó đều quy định tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi và quy định riêng những chế định pháp luật đối với người chưa thành niên trong từng lĩnh vực cụ thể. Cụ thể, Tại Điều 68 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật…” [18]. Như vậy, độ tuổi của người chưa thành niên là dưới 18 tuổi còn trẻ em là dưới 16 tuổi. Hai khái niệm “Trẻ em” và “người chưa thành niên” có sự giao thoa với nhau, trong đó, khái niệm “người chưa thành niên” rộng hơn khái niệm “trẻ em”. Khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên. Như vậy, có thể khái quát về khái niệm “Người chưa thành niên”: là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Thứ hai, về chủ thể của tội giao cấu với trẻ em. Dựa vào khái niệm “trẻ 10
  17. em” và người chưa thành niên” như đã phân tích ở trên thì “người đã thành niên” là người đủ 18 tuổi trở lên. Nhưng người đã thành niên có phải là chủ thể của tội giao cấu với trẻ em không? Câu trả lời là không phải người đã thành niên nào cũng là chủ thể của tội giao cấu với trẻ em được vì người này còn phải thỏa mãn những quy định của Bộ luật hình sự, theo đó người đã thành niên nhưng phải không thuộc các trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 13 - Bộ luật hình sự là: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình”. Vậy, năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng của một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và điều khiển được hành vi ấy. Nếu một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng họ không nhận thức được hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội hoặc nhận thức được nhưng không điều khiển được hành vi đó là người không có năng lực trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại khoản 1 điều 13 Bộ luật hình sự, thì tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là tình trạng của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Tiêu chuẩn (dấu hiệu) để xác định một người không có năng lực trách nhiệm hình sự là mắc bệnh (tiêu chuẩn y học) và tâm lý (mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển). Cả hai dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, cái này là tiền đề của cái kia và ngược lại. Một người vì mắc bệnh nên mất khả năng điều khiển và bị mất khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh. Theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Bộ luật Hình sự thì người bị mắc bệnh là bệnh tâm thần hoặc bệnh khác. Cho đến nay chưa có giải thích chính thức nào về trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại điều 13 bộ luật hình 11
  18. sự. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa nhận một người không có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ mắc một trong các bệnh sau: bệnh tâm thần kinh niên, bệnh loạn thần, bệnh si ngốc, các bệnh gây rối loạn tinh thần tạm thời. Thực tiễn xét xử cho thấy có trường hợp một người bị mắc bệnh tâm thần nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự bởi vì khi thực hiện hành vi phạm tội họ không mắc bệnh. Pháp luật nước ta cũng như một số nước trên thế giới đều quy định: chỉ người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng họ đang bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức thì mới không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự). Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần tới mức làm mất khả năng nhận thức hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra mới được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu bệnh của họ chưa tới mức làm mất khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình thì tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, họ phải chịu toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm hình sự. Luật hình sự nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới không loại trừ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội do say rượu hoặc do dùng chất kích thích mạnh khác. Bởi vì họ là người có năng lực trách nhiệm hình sự và khi họ uống rượu hoặc sử dụng chất kích thích là tự họ đặt mình vào tình trạng “ say” nên đó chính là lỗi của họ. Say rượu là một hiện tượng không bình thường trong xã hội, là một thói xấu trong sinh hoạt, việc bắt người say rượu phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội do họ gây ra còn là biểu thị thái độ nghiêm khắc của xã hội đối với tệ nạn say rượu. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử, ở nước ta không thừa nhận tình trạng say rượu dù đó là say rượu bệnh lý cũng không được loại trừ trách nhiệm hình sự. ở một số nước, trong đó có các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ coi trường hợp say rượu bệnh lý được loại trừ trách nhiệm hình sự. Người phạm tội cũng được loại trừ trách nhiệm hình sự nếu khi thực 12
  19. hiện hành vi phạm tội họ mắc một bệnh nào đó và bệnh đó đã làm mất khả năng điều khiển hành vi của mình. Đây là trường hợp người phạm tội vẫn nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vì bị bệnh nên họ không điều khiển được hành vi của mình theo ý muốn nên đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Thông thường những người ở trong tình trạng này là trường hợp theo quy định của pháp luật buộc họ phải hành động, nhưng vì bị bệnh nên họ không thể hành động theo ý muốn nên đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Một người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thực hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình phải được hội đồng giám định pháp y kết luận, nhưng nguyên nhân làm cho người bị mắc bệnh lại rất đa dạng. ở nước ta do hậu quả của nhiều cuộc chiến tranh để lại cho nên những người mắc bệnh tâm thần còn do hậu quả của chiến tranh như: bị thương, bị nhiễm chất độc màu da cam, bị sốt rét ác tính hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thực hoặc khả năng điều khiển hành vi. Như vậy, người phạm tội - chủ thể của tội giao cấu với trẻ em phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự. Thứ ba, ta cần làm rõ về hành vi giao cấu. Có một số định nghĩa khác nhau về giao cấu được phổ biến trong các sách từ điển hiện nay ở nước ta: Giao cấu là từ Hán Việt, được Đào Duy Anh định nghĩa là âm và dương giao hợp với nhau = trai gái làm tính giao với nhau (relations sexuelles). Lê Văn Đức định nghĩa giao hợp = giao cấu và giao cấu là ăn nằm, đi lại, lấy nhau giữa một nam một nữ hay một đực một cái. Nguyễn Kim Thản định nghĩa giao cấu là giao nhau giữa bộ phận sinh dục ngoài của giống đực và của giống cái (ở động vật). Giao hợp là giao cấu (chỉ nói về người). Theo Đại từ điển tiếng Việt thì giao cấu là “cùng thực hiện chức năng sinh sản” [28]. Theo Bản tổng kết 329/HS2 ngày 11/5/1967 của Tòa án nhân dân tối cao thì khái niệm về thuật ngữ “Giao cấu” hiện nay vẫn được hiểu là “sự cọ sát dương vật vào 13
  20. bộ phận sinh dục người phụ nữ…”. Tức là, chủ thể phạm tội giao cấu chỉ có thể thuộc giới tính nam và nạn nhân thuộc giới tính nữ. Điều này đối với thực tiễn hiện nay nên chăng cần có phạm vi rộng hơn. Bởi, thực tế trong xã hội phát triển, hiện đại hôm nay, sự xuất hiện tràn lan của “sex toys” (đồ chơi tình dục: với những công cụ, thiết bị, đồ vật được sản xuất có kết cấu giống bộ phận sinh dục nam hoặc nữ nhằm kích thích khoái cảm về tình dục), thuốc kích dục, quan hệ đồng giới (đồng giới nam hoặc đồng giới nữ)...khiến cho việc quan điểm như nói trên trở nên không bao quát được hết phạm vi của tội danh này, dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Vụ việc sau đây là một ví dụ cho sự bối rối của cơ quan chức năng khi gặp phải vấn đề này trên thực tế: Anh T. là Việt kiều (28 tuổi) có quan hệ quen biết với cháu H. là trẻ em chưa đủ 16 tuổi. Hai bên cũng đã nhắn tin qua lại và có nảy sinh tình cảm yêu đương. Ngày 2-8, Cảnh sát Quản lý hành chính Công an TP C. tiến hành kiểm tra hành chính một khách sạn trong thành phố phát hiện anh T. và cháu H. đang ở chung phòng trong khách sạn. T. khai nhận trong khi ở chung phòng cả hai đã ba lần “quan hệ”. Ngay sau đó T. bị tạm giữ hình sự để điều tra hành vi dâm ô đối với trẻ em. Trong quá trình điều tra, xuất hiện một tình tiết mới đó là: T. là đối tượng chuyển giới, không có bộ phận sinh dục nam. Việc chuyển giới của T. cũng đã được chính quyền nơi T. sinh sống cho phép và công nhận đương sự là đàn ông trên giấy tờ nhân thân. T. cũng khẳng định không có bộ phận sinh dục nam mà đó chỉ là đồ giả làm bằng silicon. Cơ quan điều tra cũng trưng cầu giám định pháp y về tình dục đối với T. Kết luận của Trung tâm pháp y cho rằng: “T. là nữ giới đã phẫu thuật chuyển giới tính nhưng bộ phận sinh dục vẫn là nữ nên không thể quan hệ tình dục với nữ được”. Trong vụ án này, cháu H. và gia đình cháu không có đơn yêu cầu khởi tố T. Căn cứ vào những tình tiết trên cơ quan điều tra đã ra quyết định không khởi tố T. do chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
10=>1