Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng)
lượt xem 10
download
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và thực trạng tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng)
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ HẠNH TéI LõA §¶O CHIÕM §O¹T TµI S¶N TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu xÐt xö ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGÔ THỊ HẠNH TéI LõA §¶O CHIÕM §O¹T TµI S¶N TRONG LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (Trªn c¬ së sè liÖu xÐt xö ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng) Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC CHÍ HÀ NỘI - 2016
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN NGÔ THỊ HẠNH
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN .................................................................. 7 1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam ............................................................................... 7 1.2. Sự cần thiết của việc quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong đấu tranh xử lý, phòng chống tội phạm ....................... 12 1.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam ...... 18 1.3.1. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến..................................................................................... 18 1.3.2. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ từ 1945 đến trước 1985 ................................................................. 20 1.3.3. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam thời kỳ từ 1985 đến trước 1999 ................................................................. 26 Chương 2: ĐẶC ĐIỂM PHÁP LÝ CỦA TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN THEO BỘ LUẬT TỐ HÌNH SỰ 1999 ............. 29 2.1. Khách thể và đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ........................................................................................ 29 2.1.1. Khách thể ........................................................................................... 29 2.1.2. Đối tượng tác động của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản .................... 32
- 2.2. Mặt khách quan của tội phạm ........................................................ 34 2.2.1. Dấu hiệu hành vi nguy hiểm cho xã hội ............................................ 36 2.2.2. Hậu quả của tội phạm ........................................................................ 42 2.2.3. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm .......... 47 2.3. Chủ thể của tội phạm....................................................................... 47 2.4. Mặt chủ quan của tội phạm ............................................................ 50 2.4.1. Dấu hiệu lỗi ........................................................................................ 50 2.4.2. Dấu hiệu động cơ, mục đích phạm tội ............................................... 51 2.5. Hình phạt và các biện pháp tư pháp .............................................. 52 2.5.1. Hình phạt............................................................................................ 52 2.5.2. Các biện pháp tư pháp ....................................................................... 58 2.6. Phân biệt Tội lừa đảo với một số tội phạm khác .......................... 59 2.6.1. Phân biệt Tội lừa đảo đoạt tài sản với Tội trộm cắp tài sản .............. 59 2.6.2. Phân biệt Tội lừa đảo đoạt tài sản với cướp tài sản ........................... 60 2.6.3. Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với Tội tham ô tài sản...... 63 2.6.4. Phân biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ................................................................... 63 Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT.......... 66 3.1. Thực trạng tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng...................................................................................... 66 3.1.1. Một số Đặc điểm về vị trí địa lý và kinh tế xã hội của Đà Nẵng ảnh hưởng tới tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ..................... 66 3.1.2. Tình hình tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ 2011 đến 2015 .............. 68 3.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự ......................................................... 76 KẾT LUẬN .................................................................................................... 81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83
- DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ Luật hình sự HĐTP: Hội đồng thẩm phán TANDTC: Tòa án nhân dân tối cao TNHH: Trách nhiệm hữu hạn TP: Thành phố UBND: Ủy ban nhân dân
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang Bảng 2.1: Tình hình xét xử tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2011-2015 69 Bảng 2.2: Hình phạt được áp dụng đối với bị cáo phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản từ năm 2011 - 2015 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng 70 Bảng 2.3: Cơ cấu độ tuổi người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 75
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tài sản và quyền sở hữu về tài sản là một trong những quyền quan trọng, thân thiết nhất của con người và luôn chiếm được sự quan tâm đặc biệt của các nhà lập pháp của bất kỳ quốc gia nào. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam luôn khẳng định sở hữu là một quyền thiêng liêng được nhà nước bảo hộ chống lại mọi hành vi xâm hại. Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định: 1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. 2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ. 3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường [23, Điều 32]. Luật hình sự với vai trò bảo vệ, đã qui định hệ thống các tội xâm phạm sở hữu, trong đó có Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh, xử lý và phòng ngừa loại tội phạm này. Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 qui định cấu thành của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với đặc điểm sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác, đồng thời cũng qui định các loại, mức hình phạt áp dụng đối với người phạm tội. Trên cơ sở qui định này tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong quá trình tố tụng quyết vụ án một cách chính xác, khách quan công bằng và có hiệu quả. Thực tiễn đấu tranh, xử lý tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lừa 1
- đảo nói riêng cho thấy tính phức tạp, gia tăng, gây thiệt hại lớn cho tài sản của nhà nước và tài sản của công dân, ảnh hưởng đến trật tự chung của xã hội. Trong giai đoạn nền kinh tế đất nước đang phát triển theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý và chính sách pháp luật không phải lúc nào cũng ngay lập tức phù hợp với thực trạng nền kinh tế, do đó tình hình tội phạm có nhiều chuyển biến, đặc biệt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đã được thực hiện với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn, có nhiều vụ án chiếm đoạt hàng ngàn tỷ đồng của nhà nước, có nhiều trường hợp lợi dụng những việc giao kết hợp đồng đầu tư, hợp đồng vay vốn hoặc sử dụng công nghệ khoa học tiên tiến về tin học để làm thẻ tín dụng giả, tìm kiếm mật mã số tài khoản của người khác để rút tiền qua ngân hàng hoặc qua ngân hàng điện tử (ATM)… nhằm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bộ Luật hình sự do nhà nước ban hành quy định các hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm và quy định chế tài tương ứng nhằm trừng trị và giáo dục đối với những người phạm tội và cũng như răn đe phòng ngừa chung đối với toàn xã hội nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích của mọi tổ chức và lợi ích của công dân, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong từng điều luật cụ thể các nhà làm luật chỉ có thể quy định các dấu hiệu đặc trưng cơ bản nhất của một cấu thành tội phạm, trong thực tế tội phạm xảy ra với muôn hình muôn vẻ, vô cùng đa dạng và phức tạp, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cũng vậy, chỉ được quy định trong Bộ Luật hình sự bởi những dấu hiệu đặc trưng nhất. Do đó, việc nghiên cứu làm rõ nội dung pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và thực trạng và các biện pháp đấu tranh phòng ngừa thích hợp là điều quan trọng nhất, nhằm góp phần áp dụng pháp luật một cách đúng đắn khi xử lý người phạm tội, từng bước ngăn chặn, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng trong xã hội và trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 2
- Với lý do nêu trên, để khắc phục tình trạng này, học viên quyết định lựa chọn đề tài: “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Viê ̣t Na m (trên cơ sở số liệu xét xử địa bàn thành phố Đà Nẵng)” để làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu Để thực hiện được đề tài này, tác giả luận văn đã tham khảo các giáo trình, bài viết chuyên sâu cũng như các sách chuyên khảo, bình luận khoa học về luật hình sự, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của nhiều tác giả như: Uông Chu Lưu (chủ biên, 2004), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam 1999 (Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Mai Văn Bộ (2010), “Chương XIV: Các tội xâm phạm sở hữu” trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, (phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Đức Mai (chủ biên, 2010), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Đinh Văn Quế (2006), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm, Tập II), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Nguyễn Tiến Dũng (2014), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu nghiên cứu thực tiễn tại tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội... Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã nghiên cứu rất sâu sắc về các dấu hiệu pháp lý của loại tội phạm này, tuy nhiên chưa có công trình khoa học nào đề cập đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong mối liên hệ với một địa bàn cụ thể là thành phố Đà Nẵng, nhất là trong bối cảnh Đà Nẵng là đô thị đang phát triển nhanh về mọi mặt, đặc biệt sự di chuyển tội phạm của các tỉnh thành khác nhập cư vào thành phố Đà Nẵng và các cả tội 3
- phạm quốc tế đã và đang làm tăng tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Luận văn nghiên cứu về thực trạng và diễn biến của loại tội phạm này ở thành phố Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, đưa ra các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm một cách hữu hiệu, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm giảm bớt những thiệt hại xảy ra, đem lại sự tin tưởng vào pháp luật cho mọi người dân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài - Mục đích của đề tài: trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự và thực trạng tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để đưa ra các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này. - Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình thực hiện đề tài tác giả đặt ra cho mình các nhiệm vụ sau đây: a) Làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999. b) Phân tích thực tiễn xét xử loại tội phạm này tại địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 để thấy được các yếu tố tác động làm ảnh hưởng đến tình hình tội phạm này. c) Phân tích làm sáng tỏ tình hình, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015 trên cơ sở gắn với các đặc điểm cụ thể của thành phố Đà Nẵng. d) Đưa ra những kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự liên quan đến tội danh này. 4
- 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài - Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, phân tích tình hình và diễn biến của tội phạm để rút ra những điểm thành công cũng như thiếu sót trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, phân tích, nguyên nhân và điều kiện cũng như các giải pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm này. - Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu trong phạm vi những vấn đề liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản dưới góc độ luật hình sự trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 5. Cơ sở phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả còn dựa trên các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực trong đó có lĩnh vực đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Khi viết đề tài tác giả có sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự và tội phạm học như: phương pháp thống kê hình sự, phương pháp phân tích và so sánh, phương pháp tổng hợp. Ngoài ra, còn một số phương pháp khác cũng được áp dụng như: phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp chuyên gia... 6. Kết quả nghiên cứu và những đóng góp mới của đề tài Trong phạm vi của đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. - Về mặt lý luận: đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học pháp lý hình sự. 5
- - Về mặt thực tiễn: những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói riêng. Ngoài ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các lực lượng tham gia phòng, chống loại tội phạm này không những ở thành phố Đà Nẵng mà còn có thể áp dụng trên địa bàn tỉnh, thành phố khác có điều kiện tương tự. - Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và các giải pháp đấu tranh phòng, chống hiệu quả đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Chương 2: Đặc điểm pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự 1999. Chương 3: Thực trạng xét xử tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật. 6
- Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN 1.1. Khái niệm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam Khái niệm tội phạm được hình thành trong quá trình phát triển, hoàn thiện luật hình sự Việt Nam, khái niệm này được ra đời lần đầu tiên trong Bộ luật hình sự 1985 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được thông qua kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VII, ngày 27/06/1985). Khái niệm này đã phản ánh một cách khá đầy đủ các quy định về tội phạm và xác định cụ thể hành vi nào là tội phạm. Đến ngày 21/12/1999 tại kỳ họp thứ 6 khóa X Quốc hội đã thông qua Bộ luật hình sự mới sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật này đã sửa đổi khái niệm về “Tội phạm” để phù hợp với hoàn cảnh thực tế, Bộ luật hình sự 1999 được thông qua, trên cơ sở kế thừa và phát huy những nguyên tắc, chế định hình sự pháp luật của nước ta. Điều 8 BLHS 1999 quy định định nghĩa tội phạm như sau: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” Trên cơ sở khái niệm tội phạm, Bộ luật hình sự 1999 qui định các nhóm tội phạm ở phần “Các tội phạm” trong đó có các tội xâm phạm sở hữu. 7
- Khoa học hình sự đã đưa ra khái niệm chung đối với các tội xâm phạm sở hữu như sau: “Các tội xâm phạm sở hữu là hành vi của người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân” 5, tr. 181. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một trong các tội xâm phạm sở hữu, vì vậy khái niệm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải thỏa mãn khái niệm chung của các tội xâm phạm sở hữu, đồng thời phải thỏa mãn các các dấu hiệu đặc thù nói riêng. Căn cứ vào quy định tại Khoản 1 Điều 139 của Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản có những đặc điểm sau: Thứ nhất, lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi xâm hại đến quyền sở hữu của người khác, thể hiện tính nguy hiểm cao cho xã hội cần được hình sự hóa là tội phạm trong luật hình sự. Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi là dấu hiệu cơ bản nói lên bản chất chính trị, xã hội của tội phạm, dấu hiệu này được coi là dấu hiệu nội dung quyết định những dấu hiệu khác của tội phạm. Một hành vi sở dĩ bị quy định trong luật hình sự là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự vì nó có tính nguy hiểm cho xã hội do đã gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Tầm quan trọng của quan hệ xã hội do tính chất của quan hệ đó trong các thang giá trị xã hội do giai cấp thống trị thiết lập. Do đó, tính chất của quan hệ xã hội có thể bị thay đội ở những xã hội khác nhau hoặc ngay trong một chế độ xã hội nhưng ở những thời kỳ khác nhau thì tính chất của quan hệ xã hội cũng có thể thay đổi. Điều đó đòi hỏi nhà làm luật khi xem xét tính chất quan trọng của quan hệ xã hội để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phải dựa trên hoàn cảnh lịch sử cụ thể, xuất phát từ lợi ích giai cấp, trên lập trường giai cấp. Tuy nhiên, tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm hại không thể là yếu tố duy nhất phản ánh mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của hành 8
- vi mà chỉ khi được kết hợp với những yếu tố khác nó mới phản ánh hành vi là nguy hiểm đã đến mức coi là tội phạm và cần phải xử lý bằng chế tài hình sự hay không. Tính nguy hiểm cho xã hội được phản ánh ở hai đại lượng: tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi. Tính chất của hành vi là đặc tính về "chất" của thiệt hại, được xác định căn cứ vào tính chất của quan hệ xã hội bị thiệt hại, quan hệ xã hội càng quan trọng thì tính chất của thiệt hại càng nghiêm trọng. Mức độ của thiệt hại là đặc tính về "lượng" của thiệt hại, tùy theo từng loại thiệt hại mà mức độ đó được biểu hiện khác nhau. Vì vậy, tính chất và mức độ của thiệt hại là một căn cứ để đánh giá tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, khi kết hợp với các căn cứ khác nó phản ánh một hành vi là nguy hiểm "đáng kể" hay "không đáng kể" cho xã hội, tạo cơ sở để nhà làm luật tội phạm hóa và phi tội phạm hóa. Trên cơ sở tiếp cận này, Bộ luật hình sự 1999 qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do nó đã xâm hại đến sở hữu của nhà nước, tập thể, cá nhân là quan hệ xã hội được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Khi thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, không những xâm hại đến sở hữu mà còn xâm hại đến sự phát triển của các hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, cũng như xâm hại đến trật tự an toàn xã hội… Vì vậy, việc qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác trong luật hình sự là cần thiết, góp phần bảo vệ sở hữu nhà nước, sở hữu của tập thể là cá nhân thông qua đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế và trật tự an toàn xã hội. Thứ hai, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nằm trong nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, do đó nó cũng có hành vi chiếm đoạt như những tội chiếm đoạt khác. Điểm khác biệt là ở chỗ, hành vi chiếm đoạt trong tội lừa đảo được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối là cho chủ sở hữu nhầm tưởng tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội. Chiếm đoạt còn được hiểu là "chiếm của người khác bằng cách dựa vào quyền hành, sức mạnh vũ lực" 36, tr. 1483. 9
- Dưới góc độ pháp luật hình sự "chiếm đoạt tài sản" là hành vi cố ý chuyển dịch trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của chủ tài sản thành tài sản của mình 31, tr. 366, hoặc "hành vi cố ý chuyển biến một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình hoặc của một nhóm người hoặc cho người khác mà mình quan tâm" 31, tr. 366. Hành vi chiếm đoạt tài sản có đặc điểm sau đây: a. Xét về mặt khách quan, hành vi chiếm đoạt là hành vi làm cho chủ tài sản (người là chủ sở hữu tài sản hoặc người có quyền quản lý tài sản) mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trái pháp luật tài sản đó. Như vậy, chiếm đoạt xét về mặt thực tế là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó, quá trình này xét về mặt pháp lý không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tế thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu. Hành vi chiếm đoạt được thể hiện dưới những dạng hành vi cụ thể khác nhau tùy thuộc vào mối quan hệ cụ thể giữa người chiếm đoạt với tài sản chiếm đoạt cũng như vào hình thức chiếm đoạt cụ thể. b.Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi phải có đặc điểm là còn nằm trong sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ tài sản. Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự chiếm hữu, sự quản lý, kiểm soát của chủ tài sản (bị thất lạc) thì không còn là đối tượng của hành vi chiếm đoạt. Chỉ khi tài sản còn đang do chủ tài sản chiếm hữu thì mới có thể nói đến hành vi chiếm đoạt, mới nói đến hành vi làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản. c. Xét về mặt chủ quan, chiếm đoạt là hành vi được người phạm tội thực hiện có chủ đích nên lỗi của người có hành vi chiếm đoạt là lỗi cố ý trực tiếp. Người thực hiện hành vi chiếm đoạt biết tài sản chiếm đoạt là tài sản đang có người quản lý nhưng vẫn mong muốn biến tài sản đó thành tài sản 10
- của mình. Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc tài sản không có người quản lý đều không phải là trường hợp có hành vi chiếm đoạt. Như vậy, hành vi chiếm đoạt tài sản được coi là bắt đầu khi người phạm tội bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng chiếm hữu của chủ tài sản, để tạo khả năng đó cho mình. Khi người phạm tội đã làm chủ được tài sản chiếm đoạt thì lúc đó hành vi chiếm đoạt được coi là đã hoàn thành, người phạm tội coi là đã chiếm đoạt được tài sản. Dấu hiệu chiếm đoạt có thể là mục đích chiếm đoạt, là hành vi chiếm đoạt hoặc là chiếm đoạt được. Việc chiếm đoạt tài sản của người khác ở tội lừa đảo được thực hiện bằng thủ đoạn gian dối, là dấu hiệu để phân biệt với các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt khác. Thủ đoạn gian dối, theo định nghĩa của giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội thì: “Gian dối chiếm đoạt tài sản là việc người phạm tội đưa ra những thông tin không đúng sự thật là cho chủ sở hữu hoặc người quan lý nhầm tưởng, tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội” 8, tr. 271. Thứ ba, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý. Tội phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và mặt chủ quan, nếu mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài thì mặt chủ quan là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội, hai bộ phận này của yếu tố tội phạm có quan hệ mật thiết với nhau, luôn gắn bó với nhau. Hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội luôn được thể hiện thông qua những biểu hiện bên ngoài của tội phạm, do vậy, muốn nhận thức biết được mặt chủ quan của tội phạm phải thông qua một quá trình nhận thức theo một phương pháp biện chứng. Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của sự xâm hại nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự - lỗi, tức là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó. 11
- Theo Điều 9 Bộ luật hình sự, lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra. Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Theo qui định này thì Tội lừa đào chiếm đoạt tài sản được thực hiện bởi lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi phạm tội và có thái độ mong muốn chiếm đoạt được tài sản của người khác. Từ những phân tích này, trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những điểm hợp lý trong khái niệm về tội phạm của Bộ luật hình sự 1999 và những vấn đề đã được thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm nghiệm, có thể đưa ra định nghĩa khoa học về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác bằng thủ đoạn gian dối, cung cấp thông tin sai sự thật làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản nhầm tưởng tự nguyện trao tài sản cho người phạm tội. 1.2. Sự cần thiết của việc quy định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong đấu tranh xử lý, phòng chống tội phạm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm mang tính “truyền thống”, nó hiện diện trong luật hình sự của các quốc gia, trong mọi thời kỳ lịch sử. Ở nước ta, trước khi ra đời Bộ luật hình sự 1985 (Bộ luật hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã có tội phạm này trong các văn bản luật đơn hành như: Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản; Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng công dân năm 1970… 12
- Điều đó cho thấy, việc qui định Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là cần thiết và tất yếu trong đấu tranh, xử lý, phòng ngừa tội phạm bảo vệ quyền sở hữu về tài sản của nhà nước, tổ chức và cá nhân. Sự cần thiết đó thể hiện trên các khía cạnh sau: a. Việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm cơ sở để xác định mức giới hạn phải chịu trách nhiệm hình sự với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nói chung, để phòng chống các tội phạm thì cũng phải dựa vào khái niệm cơ bản tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, trên cơ sở quy định dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khác với tội phạm khác hoặc các dấu hiệu pháp lý của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ đó, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm mới định hướng về ban hành thể chế, chính sách, tuyên truyền giáo dục trong xã hội ngày càng rõ nét đối với tội phạm lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Qua đó giúp cho xã hội có những biện pháp nhằm kiểm soát, quản lý quyền sở hữu tài sản tốt hơn. Đồng thời việc quy định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, ngoài dấu hiệu gian dối, giá trị tài sản chiếm đoạt phải đạt mức thấp nhất là hai triệu đồng đến năm mươi triệu đồng hoặc từ dưới hai triệu đồng nhưng gây hiệu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội danh này. Trách nhiệm hình sự là một nội dung thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân người phạm tội, mà ở đó Nhà nước thể hiện sự phản ứng có tính chất phủ định của mình đối với hành vi phạm tội và người phạm tội. Trong hoạt động quản lý, Nhà nước không những tạo lập sự cân bằng, điều tiết xã hội, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và các vấn đề xã hội đồng thời thông qua các qui định của luật hình sự nhà nước thực hiện chức năng bảo vệ các quan hệ xã hội thống trị, trong đó có quan hệ sở hữu. 13
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 314 | 69
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 217 | 48
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 174 | 46
-
Luận văn thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trƣờng trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 202 | 34
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 238 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 114 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 100 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 115 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 113 | 15
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 247 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 83 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 157 | 13
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 107 | 10
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 66 | 10
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 265 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn