intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng)

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:91

31
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề pháp lý, TNHS đối với người phạm tội. Phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử tội tổ chức đánh bạc của TAND các cấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015, từ đó chỉ ra một số hạn chế, vướng mắc và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS về tội tổ chức đánh bạc và các tội phạm khác có liên quan.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng)

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ HỒNG NAM TéI Tæ CHøC §¸NH B¹C THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng) LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2016
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT LÊ HỒNG NAM TéI Tæ CHøC §¸NH B¹C THEO LUËT H×NH Sù VIÖT NAM (trªn c¬ së sè liÖu thùc tiÔn ®Þa bµn thµnh phè §µ N½ng) Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 60 38 01 04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT HÀ NỘI - 2016
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Lê Hồng Nam
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng Danh mục các biểu đồ Danh mục từ viết tắt MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...................................... 9 1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc và sự cần thiết của việc quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam .............................. 9 1.1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam .............. 9 1.1.2. Sự cần thiết của việc quy định tội tổ chức đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam ................................................................................ 14 1.2. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam quy định về tội tổ chức đánh bạc............................... 15 1.2.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa Bộ luật hình sự năm 1985 ............................................ 15 1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay ........... 21 1.3. Quy định về tội tổ chức đánh bạc trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới .................................................................. 27 1.3.1. Bộ luật hình sự Nhật Bản .................................................................... 27 1.3.2. Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển ............................................. 29 1.3.3. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.................................. 30 Chương 2: QUY ĐỊNH VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ................................... 32 2.1. Quy định của luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc ...... 32
  5. 2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự .............................................................. 32 2.1.2. Hình phạt ............................................................................................. 36 2.2. Thực tiễn xét xử tội tổ chức đánh bạc trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .............................................................................................. 42 2.2.1. Tình hình xét xử .................................................................................. 43 2.2.2. Một số hạn chế và vướng mắc trong hoạt động xét xử đối với tội tổ chức đánh bạc.................................................................................. 51 2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế và vướng mắc trong xét xử tội tổ chức đánh bạc trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................... 57 Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC ...................60 3.1. Sự cần thiết về việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc ............................................................................................. 60 3.2. Kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về tội tổ chức đánh bạc và các tội phạm khác có kiên quan ........................ 62 3.2.1. Nhận xét .............................................................................................. 62 3.2.2. Nội dung hoàn thiện ............................................................................ 64 3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc và các tội phạm khác có liên quan ......................................................................................... 68 3.3.1. Giải pháp về tổ chức bộ máy .............................................................. 68 3.3.2. Giải pháp về chuyên môn nghiệp vụ................................................... 69 3.3.3. Giải pháp kinh tế - xã hội .................................................................... 71 3.3.4. Giải pháp về văn hóa - giáo dục.......................................................... 73 3.3.5. Một số giải pháp khác ......................................................................... 74 KẾT LUẬN .................................................................................................... 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79
  6. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS: Bộ luật hình sự BLTTHS: Bộ luật tố tụng hình sự ĐTD: Định tội danh PLHS: Pháp luật hình sự TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
  7. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng Bảng 2.1: Tổng số vụ án, tổng số bị cáo đưa ra xét xử về tội tổ chức đánh bạc trên tổng số vụ án, tổng số bị cáo đưa ra xét xử và trong mối tương quan với các tội về xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trong thời gian từ năm 2011 - 2015 44 Bảng 2.2: Số vụ án, số bị cáo về tội tổ chức đánh bạc trên tổng số vụ án, số bị cáo trong nhóm các tội về cờ bạc 46 Bảng 2.3: Phân tích hình phạt áp dụng đối với bị cáo phạm tội tổ chức đánh bạc từ năm 2011 - 2015 48 Bảng 2.4: Phân tích đặc điểm nhân thân đối với bị cáo phạm tội tổ chức đánh bạc từ năm 2011 - 2015 49
  8. DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu Tên biểu đồ Trang biểu đồ Biểu đồ 2.1: Biểu thị sự tăng, giảm về tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ 2011 - 2015 thông qua số vụ và số bị cáo 45 Biểu đồ 2.2: Biểu thị về tình hình tội phạm tổ chức đánh bạc trong nhóm các tội phạm về cờ bạc 46
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, văn hoá, giáo dục, khoa học và công nghệ lớn của khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Đà Nẵng hiện là một trong 15 đô thị loại 1, đồng thời là một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam. Trong những năm gần đây, Đà Nẵng đã tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và được coi là “Thành phố đáng sống” của Việt Nam. Trong quá trình phát triển của thành phố, cùng với việc xây dựng các khu công nghiệp, bệnh viện, trường học… đã kéo theo một lượng không nhỏ dân cư từ các tỉnh thành khác đến sinh sống, làm việc và học tập làm cho tình hình an ninh trật tự trên địa bàn ngày càng diễn biến phức tạp; việc giải tỏa quy hoạch chỉnh trang đô thị được diễn ra ở nhiều nơi đã làm cho số lượng người dân có đất bị thu hồi khá lớn, dẫn đến tình trạng mất công ăn việc làm nhưng chính quyền thành phố chưa có những định hướng trong việc chuyển đối ngành nghề, tạo công ăn việc làm để ổn định cuộc sống cho nhân dân. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho tình hình tội phạm gia tăng trong những năm qua trên địa bàn thành phố. Là một thành phố trẻ đang trên đà phát triển, bên cạnh việc tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, xây dựng con người Đà Nẵng có nếp sống văn hóa - văn minh, Đà Nẵng cũng rất quan tâm đến công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung mà đặc biệt là các tội phạm liên quan đến cờ bạc, tội tổ chức đánh bạc nói riêng. Qua nghiên cứu thực tiễn, tình hình tội phạm về tổ chức đánh bạc trong những năm qua trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tuy không gia tăng mạnh về số lượng, nhưng về phương thức tổ chức, quy mộ hoạt động của tội phạm này thì diễn biến ngày một phức tạp, 1
  10. thể hiện trên các phương diện như: phương thức tổ chức đánh bạc ngày một tinh vi, đa dạng với một hệ thống chân rết rộng khắp; địa bàn hoạt động được mở rộng và kể cả việc cấu kết với nước ngoài để tổ chức đánh bạc; lợi nhuận bất chính của các đối tượng này thu về là khổng lồ. Những vấn đề này đã làm ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế, ảnh hưởng đến tình hình chính trị, văn hóa, trật tự an toàn xã hội của thành phố và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Theo số liệu thống kê của TAND thành phố Đà Nẵng trong thời gian gần đây (tính từ năm 2011 đến năm 2015) TAND cấp quận, huyện của thành phố Đà Nẵng đã xét xử sơ thẩm 2.759 vụ án hình sự với 4.793 bị cáo, trong đó số vụ án về các tội liên quan đến cờ bạc là 125 vụ, với 514 bị cáo, số tiền dùng để đánh bạc lên đến hàng trăm tỷ đồng. Riêng đối với tội tổ chức đánh bạc, các cơ quan chức năng đã đưa ra xét xử 42 / 2.759 vụ chiếm 1,52%, với 129 / 4.793 bị cáo chiếm 4,77% trong tổng số các vụ án, bị cáo đưa ra xét xử trong thời gian 05 năm qua. Nguyên nhân của tình hình trên, một phần là do các yếu tố khách quan, như tác động của những vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế; sự xuống cấp về đạo đức xã hội, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, làm ăn chụp giật,... nhưng chủ yếu vẫn là do những hạn chế, yếu kém trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, nhất là phòng ngừa xã hội. Cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức ở một số ngành, địa phương chưa thực sự quan tâm chỉ đạo toàn diện công tác phòng, chống tội phạm, vì vậy, nhiệm vụ phòng, chống tội phạm chưa được đưa vào chương trình, kế hoạch phát triển theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước. Nhiều cấp, nhiều ngành còn đứng ngoài cuộc hoặc chỉ tham gia một cách hình thức, chiếu lệ, đối phó. Tổ chức bộ máy, phân công, phân cấp ở các cơ quan bảo vệ pháp luật và chuyên trách còn bất cập, dẫn đến chồng 2
  11. chéo, trùng lặp. Năng lực tham mưu, quản lý và tổ chức thực hiện cũng như tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, kiên quyết tấn công tội phạm của một bộ phận cán bộ cơ quan bảo vệ pháp luật, chiến sĩ lực lượng chuyên trách còn hạn chế, yếu kém, sa sút. Điều kiện hậu cần - kỹ thuật bảo đảm cho công tác phòng, chống tội phạm còn nhiều khó khăn, hạn chế. Chính sách đãi ngộ đối với lực lượng trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm còn chưa phù hợp [39] Trước những thực trạng đó, việc nghiên cứu các quy định của PLHS hiện hành về tội tổ chức đánh bạc dưới góc độ thực tiễn tại một địa phương nhất định, không những có ý nghĩa sâu sắc về mặt lý luận mà còn cả về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật, để từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật đối với loại tội phạm này. Nhận thức được điều đó, tôi chọn đề tài: “Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng)” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Trong quá trình làm luận văn, tôi đã tham khảo, nghiên cứu một số tài liệu là những giáo trình, sách chuyên khảo, những luận văn đã được công bố và tập trung ở ba nhóm chủ yếu như sau: a/ GS. TSKH. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình sự (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; GS. TSKH. Lê Cảm (2007), Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; GS. TSKH. Lê Cảm, PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (2011), Định tội danh: Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập thực hành, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; PGS. TS. Trịnh Quốc Toản (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc Gia Hà 3
  12. Nội, Hà Nội; Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2006), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; GS. TSKH. Đào Trí Úc (1994), Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Trịnh Tiến Việt (2013), Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, Hà Nội... b/ Các luận văn: Vũ Thị Phương Lan (2014), Định tội danh tội đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Trịnh Công Thương (2015), Các tội liên quan đến cờ bạc theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Vũ Thị Len (2015), Tội đánh bạc và tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội - Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. c/ GS. TS. Nguyễn Xuân Yêm, TS. Phan Đình Khánh, Nguyễn Thị Kim Liên (2003), Mại dâm, ma túy, cờ bạc, tội phạm thời hiện đại, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; ThS. Đinh Văn Quế (2000), Thực tiễn xét xử và pháp luật hình sự, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng; ThS. Đinh Văn Quế, một số vần đề về phạm tội có tổ chức - Cổng thông tin điện tử Tòa án nhân dân tối cao; Dương Thanh Hiền - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Nam, Thành lập Tòa án khu vực: Nhìn từ thực tiễn; Trần Minh Tơn - Viện chiến lược và khoa học công nghệ Bộ công an (2014), Quan điểm và giải pháp chiến lược phòng, chống tội phạm thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Lê Văn Hưng - Tạp chí 4
  13. Tòa án nhân dân (số 14/2005), Những vướng mắc khi áp dụng Điều 248, 249 Bộ luật hình sự 1999. Ngoài ra, tôi cũng đã tham khảo một số bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, nhận thấy các tác giả thường nghiên cứu một cách tổng quát các vấn đề pháp lý ở phạm vi rộng hoặc chỉ tập trung nghiên cứu một vài khía cạnh có liên quan đến nhóm các tội về cờ bạc. Hầu hết chưa nghiên cứu sâu về tội tổ chức đánh bạc một cách đầy đủ, toàn diện, có tính hệ thống từ lý luận đến thực tiễn áp dụng pháp luật. Đồng thời, qua nghiên cứu BLHS năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10, ngày 27 tháng 11 năm 2015 (có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016) thay thế cho BLHS năm 1999, nhận thấy đã có những sửa đổi, bổ sung quy định về tội tổ chức đánh bạc để khắc phục những hạn chế của BLHS năm 1999, tuy nhiên vẫn còn những diểm quy định chưa được chặt chẽ làm cho việc ĐTD, quyết định hình phạt, việc phân hóa TNHS đối với tội phạm chưa cao, hình phạt chưa đủ sức răng đe, giáo dục đối với tội phạm. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để góp phần hoàn thiện các quy định của BLHS hiện hành và BLHS năm 2015 quy định về tội phạm này vẫn có ý nghĩa rất lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống về những vấn đề pháp lý, TNHS đối với người phạm tội. Phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử tội tổ chức đánh bạc của TAND các cấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2015, từ đó chỉ ra một số hạn chế, vướng mắc và đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS về tội tổ chức đánh bạc và các tội phạm khác có liên quan. 5
  14. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau: - Nghiên cứu một số vấn đề chung về tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam - Quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. - Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng). 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu dưới góc độ pháp lý hình sự và thực tiễn xét xử tội tổ chức đánh bạc trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trong thời gian 05 năm từ 2011 đến 2015. 5. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, định hướng của Đảng về chính sách hình sự. Quan điểm, đường lối xử lý tội phạm nói chung, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng nói riêng và những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành. 6
  15. 5.2. Các phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu dựa trên những bản án, quyết định, số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của TAND các cấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng để phân tích và luận giải các vấn đề tương ứng được nghiên cứu. 6. Ý nghĩa của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện về mặt lý luận đối với tội tổ chức đánh bạc trong khoa học luật hình sự Việt Nam, cụ thể: - Đưa ra khái niệm về tội tổ chức đánh bạc. - Phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam quy định về tội tổ chức đánh bạc từ năm 1945 đến nay. So sánh với quy định của luật hình sự một số nước trên thế giới quy định về tội phạm này. - Nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của tội tổ chức đánh bạc. - Phân tích thực tiến xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015, chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam đối với tội tổ chức đánh bạc và các tội phạm liên quan về đánh bạc. 6.2. Ý nghia thực tiễn Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng, Tòa án các cấp trong việc ĐTD, giải quyết vụ án hình sự được khách quan, có căn cứ pháp luật. Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện PLHS Việt Nam liên quan đến ĐTD đối với tội tổ chức đánh bạc và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Đặc biệt, luận văn còn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên cao học và 7
  16. nghiên cứu sinh chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự tại các cơ sở đào tạo luật trên cả nước. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm ba chương, cụ thể: Chương 1: Một số vấn đề chung về tội tổ chức đánh bạc theo luật hình sự Việt Nam Chương 2: Quy định về tội tổ chức đánh bạc trong BLHS Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của BLHS Việt Nam về tội tổ chức đánh bạc. 8
  17. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc và sự cần thiết của việc quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam 1.1.1. Khái niệm tội tổ chức đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam “Tội phạm là một hiện tượng xã hội - pháp lý gắn liền với sự ra đời của nhà nước và pháp luật, cũng như với sự xuất hiện của sỡ hữu tư nhân và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng” [3, tr. 287]. Vì vậy, để bảo về đặc quyền của mình, Nhà nước sẽ quy định những hành vi nguy hiểm nào bị xem là tội phạm và áp dụng TNHS đối với người thực hiện hành vi đó, Điều 8 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định tội phạm như sau: Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa [1, Điều 8]. Với định nghĩa này, tội phạm được các nhà làm luật đề cập đến có bốn đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản: Là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực TNHS thực hiện, có lỗi và trái với PLHS. Đối với tội tổ chức đánh bạc, do xuất phát đều là các hành vi thuộc về tệ nạn cờ bạc, có những điểm chung nhất định, hành vi được mô tả trong các 9
  18. tội này gắn bó chặt chẽ với nhau (hành vi khách quan của tội tổ chức đánh bạc mang tính chất hỗ trợ, tạo điều kiện cho hành vi đánh bạc). Xét trong mối quan hệ với nhóm tội, một tội cụ thể trong nhóm tội đóng vai trò cái riêng, cái cụ thể, nhóm tội đóng vai trò cái chung, cái khái quát. Nghiên cứu cái riêng phải qua cái chung, nghiên cứu cái cụ thể phải đặt trong cái khái quát. Do vậy, để nghiên cứu khái niệm tội tổ chức đánh bạc nhất thiết phải đặt nó trong nhóm các tội đánh bạc. Theo từ điển luật học: “Đánh bạc là (hành vi) tham gia vào trò chơi được tổ chức bất hợp pháp mà sự được (hoặc thua) kèm theo việc được (hoặc mất) lợi ích vật chất đáng kể (tiền, hiện vật hoặc các hình thức tài sản khác)” [44, tr. 227] Trải qua các thời kỳ, các cơ quan lập pháp nước ta vẫn chưa đi đến thống nhất trong việc đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh các tội phạm liên quan đến cờ bạc nói chung và tội phạm tổ chức đánh bạc nói riêng, bởi vì các hành vi về cờ bạc, tổ chức đánh bạc đều là các hiện tượng xã hội, nên nó phát sinh trong các điều kiện xã hội nhất định, và sẽ tiêu vong trong những điều kiện xã hội nhất định khác. Ở vào các giai đoạn khác nhau của xã hội, nó có những phát triển và biểu hiện khác nhau, xem xét ở góc độ pháp lý hình sự, trong mỗi giai đoạn lịch sử nước ta, các khái niệm này được đề cập ở các phạm vi khác nhau, tương ứng với điều kiện, nhận thức và cũng nhằm đáp ứng các mục tiêu khác nhau tương ứng trong từng giai đoạn mà nhà nước đặt ra cho hệ thống luật. Với khái niệm về các hành vi cờ bạc được quy định tại Sắc lệnh 168/SL ngày 14 tháng 4 năm 1948, văn bản PLHS đầu tiên của nhà nước ta được các nhà làm luật ghi nhận như sau: Tất cả các trò chơi cờ bạc, dù là có tính cách may rủi hay là có thể dùng trí khôn để tính nước mà được thua bằng tiền, đều coi 10
  19. là tội đánh bạc; Những cuộc đánh đố nhau bằng tiền, những cuộc xổ số bằng tiền hay bằng đồ mà không có nhà chức trách có thẩm quyền cho phép trước cũng đều bị phạt như tội đánh bạc. Những người nào tổ chức một cuộc đánh bài, đánh bạc, một trò chơi kể trong Điều 1 không cứ ở một nơi nào, đều bị phạt tù từ hai năm đến năm năm và phạt bạc từ 10.000đ đến 100.000đ. Những người nào giúp một người khác tổ chức những cuộc nói trên, những người chủ nhà trí tình mà để người ta đánh bài đánh bạc trong nhà mình, không cứ là có thu lợi hay không, những người quản trị, người làm cái, người lấy hồ, đều bị phạt như người tổ chức [36, tr. 496]. Quy định này “hành vi tổ chức đánh bạc được áp dụng đối với người tổ chức ra đám bạc và những người giúp sức để tổ chức ra đám bạc”, phạm vi chủ thể phạm tội tổ chức đánh bạc ở đây là rất rộng, bởi chỉ cần “tổ chức một cuộc đánh bài, đánh bạc, một trò chơi” là đủ yếu tố để cấu thành tội phạm, không nhất thiết phải đạt đến một định lượng, một mức độ nguy hiểm nhất định đối với xã hội. Theo Bản tổng kết số 9-NCPL ngày 08 tháng 01 năm 1968 của TAND tối cao, khái niệm về các hành vi về liên quan đánh bạc được nêu ra như sau: Hành vi đánh bạc: “Là hành vi chơi có được thua bằng tiền mặt hay không dùng tiền mặt, nhưng thanh toán với nhau bằng tiền, tuy nhiên phải có động cơ mục đích sát phạt nhau” [36, tr. 498]. Hành vi tổ chức, chứa gá cờ bạc: “Là gây ra vụ đánh bạc, lôi cuốn người khác vào vòng phạm pháp để vụ lợi” [36, tr. 498]. Khái niệm này đã nêu lên được hành vi khách quan của tội phạm, là những hành vi rủ rê, lôi cuốn người khác tham gia đánh bạc và động cơ vụ lợi là dấu hiệu bắt buộc trong mặt chủ quan của tội phạm, nếu không có yếu tố vụ lợi thì không bị xem là tội phạm. 11
  20. Sau khi pháp điển hóa BLHS năm 1985, quy đinh về các hành vi liên quan đến đánh bạc đã được phân hóa cụ thể hơn bằng việc xác định ba tội phạm trong nhóm này, gồm: đánh bạc, tổ chức đánh bạc và gá bạc. Tội tổ chức đánh bạc được quy định “Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thì bị phạt…” điều luật quy định một cách chung chung, chưa thể hiện rõ các dấu hiệu cơ bản của tội phạm. Còn theo BLHS năm 1999, Điều 249 quy định tội tổ chức đánh bạc như sau: Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép với quy mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến ba trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm [1, Điều 249]. Với quy định này, hành vi tổ chức đánh bạc được khái niệm “Là hành vi chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, cưỡng bức, đe dọa người khác tham gia trò chơi có được thua bằng tiền hoặc tài sản dưới bất kỳ hình thức nào” [26, tr. 211]. Hay nói cách khác, hành vi tổ chức đánh bạc là hành vi của chủ thể nhằm rủ rê, lôi kéo các chủ thể khác thực hiện hành vi đánh bạc trái phép, ở đây động cơ vụ lợi không còn là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành đối với tội phạm và tội phạm có cấu thành về mặt hình thức đó là phải có “quy mô lớn hoặc…”. Có thể thấy rằng, về kỹ thuật lập pháp điều luật đã quy định chặt chẽ hơn, tuy nhiên vẫn chưa khái quát đầy đủ các đặc điểm cơ bản trong cấu thành tội phạm mà PLHS đã quy định. Khi nghiên cứu về khái niệm tội phạm, theo GS.TSKH. Lê Cảm: Khái niệm tội phạm phải bao hàm đầy đủ năm đặc điểm (dấu hiệu) trên cả ba bình diện khách quan, pháp lý và chủ quan. Bình diện khách quan (nội dung) - tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội(1); Bình diện pháp lý (hình 12
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2