intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của người sử dụng

Chia sẻ: Cỏ Xanh | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:96

36
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự do người dùng Internet thực hiện, mô hình điều chỉnh pháp luật về vấn đề này ở các nước phát triển, chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam và đề xuất giải pháp hoàn thiện.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của người sử dụng

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT MAI THANH LONG TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA NHÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ INTERNET ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC Hà Nội - 2020
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT MAI THANH LONG TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA NHÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ INTERNET ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số : 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Bích Thảo Hà Nội - 2020
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Mai Thanh Long
  4. MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ............................................................................................................1 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA NHÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ INTERNET ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG ............................................................9 1.1. Khái quát về nhà cung cấp dịch vụ Internet ................................................9 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nhà cung cấp dịch vụ Internet..........................9 1.1.2. Phân loại nhà cung cấp dịch vụ Internet ................................................15 1.2. Khái niệm, đặc điểm trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng ......................18 1.2.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng ..........................................18 1.2.2. Đặc điểm trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng ................................................22 1.3. Cơ sở quy định trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng ..........................................28 1.4. Các mô hình pháp luật điều chỉnh trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet trên thế giới .....................................................................................30 1.4.1. Mô hình Hoa Kỳ .....................................................................................32 1.4.2. Mô hình châu Âu ....................................................................................35 Kết luận Chƣơng 1 ...........................................................................................41 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA NHÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ INTERNET ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN. .............................................................................................44 2.1. Thực trạng xâm phạm quyền dân sự trên Internet ở Việt Nam .................44
  5. 2.2. Các quy định chung của Bộ luật dân sự về bảo vệ quyền dân sự và trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng ..............................................................50 2.3. Các quy định của pháp luật chuyên ngành liên quan đến trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng ............................................................................................................54 2.4. Quy định của điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam là thành viên .....................61 2.5. Đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam về trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet ..........................................................................................64 2.5.1. Sự cần thiết hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng ở Việt Nam .......................................................................................................64 2.5.2. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung khái niệm về nhà cung cấp dịch vụ Internet ... ..........................................................................................................................69 2.5.3. Bổ sung quy định về trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại gián tiếp và quy định các trƣờng hợp miễn trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet ..............72 Kết luận Chƣơng 2 ..........................................................................................78 KẾT LUẬN ......................................................................................................81 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................86
  6. Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt BLDS Bộ luật dân sự BLHS Bộ luật hình sự BTTH Bồi thƣờng thiệt hại BTTHNHĐ Bồi thƣờng thiệt hại ngoài hợp đồng ISP Nhà cung cấp dịch vụ Internet (Internet Servive Provider) CPTPP Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dƣơng (Comprehensive and Progressive Agreement for Trans - Pacific Partnership) ECD Chỉ thị Châu Âu về Thƣơng mại điện tử 2000/31/EC CDA Đạo luật về Thông tin truyền thông Hoa Kỳ DMCA Đạo luật bản quyền kỹ thuật số Hoa Kỳ
  7. Danh mục hình ảnh, mẫu biểu Thống kê số lƣợng ngƣời sử dụng truyền thông di động, Hình 1 Internet và sử dụng mạng xã hội (Nguồn: Digital Việt Nam 2020) Các nhà cung cấp dịch vụ Internet Hình 2 (Nguồn: Tổng quan về Internet, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân) Hình 3 Mô hình cung cấp dịch vụ kết nối Internet
  8. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu Internet là mạng thông tin toàn cầu, đƣợc hình thành trên cơ sở kết nối các máy tính, các website, trang thông tin điện tử trên khắp hành tinh. Sự ra đời và phát triển của Internet kết nối toàn cầu mở ra kỉ nguyên mới cho truyền thông và phát triển của loài ngƣời. Sự ra đời của Internet đồng thời là sự phát triển nhanh chóng của các tiến bộ kỹ thuật, khoa học công nghệ trong lĩnh vực truyền dẫn, kết nối, thiết bị có khả năng kết nối Internet. Tại Việt Nam, kể từ thời điểm đƣợc cung cấp bởi nhà cung cấp dịch vụ Internet đầu tiên là Công ty cổ phần Netnam vào năm 1994, Internet đã không ngừng phát triển trong nƣớc, hơn thế thế nữa còn vƣơn ra tầm khu vực nhƣ trƣờng hợp của Tổng công ty viễn thông Quân đội Viettel. Theo báo cáo thống kê tại Báo cáo Digital Việt Nam 2020 (đƣợc Tổ chức “We Are Social” khảo sát tại 42 quốc gia) tính đến tháng 01 năm 2020 tại Việt Nam đang có 68,17 triệu ngƣời đang sử dụng dịch vụ Internet đạt mức 70% trên tổng dân số là 96,90 triệu ngƣời và hiện có 65 triệu ngƣời (chiếm 67% tổng dân số) hiện đang sử dụng các phƣơng tiện truyền thông xã hội để giải trí, liên hệ bạn bè, chia sẻ khoảnh khắc, mẹo vặt cuộc sống và kể cả quảng cáo bán hàng. Hình 1: Báo cáo thống kê sử dụng Internet tại Việt Nam Từ những con số thống kê trên và nhiều thông tin liên quan đến việc sử dụng Internet hiện nay, cũng nhƣ các thông tin về những sự kiện, những nội dung phát 1
  9. sinh trên môi trƣờng số hóa những năm qua, cho thấy Internet đang đóng vai trò rất quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống con ngƣời từ việc giải trí, thỏa mãn nhu cầu cá nhân đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức, cá nhân và sự hình thành mô hình bán hàng trực tuyến, kiếm tiền online (Make Money Online - MMO), ... đang phát triển mạnh mẽ, đa dạng. Internet hiện nay là một trong những yếu tố cần thiết của cuộc sống xã hội hiện đại, nhờ có Internet mà con ngƣời có một trải nghiệm sống động, phong phú, đồng thời Internet trở thành một công cụ để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể, cung cấp khả năng tạo ra môi trƣờng thực tế ảo. Thông qua Internet cá nhân có thể sống trong cuộc sống của họ; có thể làm việc, giao tiếp xã hội với ngƣời khác thông qua các phƣơng triện kỹ thuật, ứng dụng đƣợc cung cấp trên Internet; cá nhân, tổ chức đƣợc cung cấp các không gian trao đổi trực tuyến và điều này đã mang lại sự tiết kiệm chi phí, công sức, nhƣng hiệu quả đem lại là vô cùng to lớn. Bên cạnh đó, sự phát triển của Internet mạnh mẽ đến mức nhu cầu đƣợc sử dụng Internet đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối với nhiều ngƣời và họ không thể một ngày không có Internet, đối với các doanh nghiệp mà cao hơn là một quốc gia, việc không có Internet hoặc đƣờng truyền Internet bị ảnh hƣởng có thể để lại các thiệt hại về kinh tế rất nặng nề. Tuy nhiên, vẫn có sự hai mặt của quá trình sử dụng Internet, bên cạnh các mặt tích cực tác động đến đời sống của cá nhân, doanh nghiệp hay nền kinh tế của một quốc gia thì Internet cũng đi kèm các mặt trái không thể ngăn chặn đƣợc, gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến an ninh, đời sống kinh tế của một quốc gia, sự phát triển của doanh nghiệp và cả sự an toàn cá nhân. Để mọi ngƣời có thể khai thác và sử dụng các dịch vụ Internet, cần có các nhà cung cấp dịch vụ trung gian, có thể đƣợc liệt kê nhƣ sau: Thứ nhất, là nhà cung cấp dịch vụ Internet (Internet Service Provider - viết tắt là ISP). ISP chuyên cung cấp các giải pháp kết nối mạng, quyền truy cập Internet và các dịch vụ nhƣ Email, Web, FTP, Telnet, Chat, … cho các đơn vị tổ chức hay các cá nhân ngƣời dùng có nhu cầu về truy nhập và sử dụng các dịch vụ trên Internet, và để có thể truy nhập và sử dụng các dịch vụ Internet thì ngƣời sử dụng phải đăng ký với nhà cung cấp dịch vụ này. Tuy nhiên, các ISP thƣờng phải thuê đƣờng và cổng của một nhà cung cấp 2
  10. dịch vụ đƣờng truyền (IAP) để kết nối với Internet. Hiện tại ở Việt Nam có 18 ISP đăng ký cung cấp dịch vụ. Thứ hại, là nhà cung cấp đƣờng truyền để kết nối với Internet (Internet Access Provider - IAP hay còn đƣợc gọi là Internet Exchange Provider - IXP). Thông qua IAP ngƣời sử dụng đƣợc trực tiếp kết nối với Internet, bên cạnh đó IAP có thể thực hiện cả chức năng của ISP nhƣng ngƣợc lại thì không thể và một IAP thƣờng phục vụ cho nhiều ISP khác. Tại Việt Nam có 7 IAP, bao gồm: Tập đoàn Bƣu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Công ty đầu tƣ phát triển công nghệ FPT, Tổng công ty viễn thông quân đội (Viettel), Công ty thông tin viễn thông điện lực (ETC), Công ty cổ phần dịch vụ Bƣu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT), Công ty cổ phần viễn thông Hà Nội (HANOITELECOM), Công ty truyền thông đa phƣơng tiện (VTC). Thứ ba, là ISP dùng riêng, ISP dùng riêng đƣợc cung cấp đầy đủ dịch vụ Internet, điểm khác duy nhất giữa ISP và ISP dùng riêng là việc ISP dùng riêng không cung cấp dịch vụ Internet với mục đích kinh doanh. Đây là loại hình dịch vụ Internet của các cơ quan hành chính, các trƣờng đại học hay viện nghiên cứu. Thứ tư, là nhà cung cấp dịch vụ nội dung thông tin Internet (Internet Content Provider - ICP). ICP cung cấp các thông tin về: kinh tế, giáo dục, thể thao, chính trị, quân sự (thƣờng xuyên cập nhật thông tin mới theo định kỳ) đƣa lên mạng. Thứ năm, là nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng Internet (Online Service Provider - OSP). OSP cung cấp các dịch vụ trên cơ sở ứng dụng Internet (OSP) nhƣ: Mua bán qua mạng, giao dịch ngân hàng, tƣ vấn, đào tạo, ... Trong phạm vi hẹp của đề tài nghiên cứu các vấn đề liên quan đến trách nhiệm của một loại hình chủ thể cung cấp dịch vụ trung gian trên Internet, đó là ISP (nhà cung cấp dịch vụ Internet). Theo đó các ISP có quyền kinh doanh thông qua các hợp đồng cung cấp dịch vụ Internet cho các tổ chức và các cá nhân. Ngoài việc cung cấp truy cập Internet, các ISP cũng có thể cung cấp các gói phần mềm (nhƣ trình duyệt), tài khoản E-mail, và trang Web cá nhân hoặc trang chủ thông tin, tùy theo nhu cầu của ngƣời dùng. Các ISP có thể lƣu trữ các trang Web cho các doanh nghiệp và cũng có thể tự xây dựng các trang Web, và các ISP đƣợc kết nối với nhau 3
  11. thông qua các điểm truy cập mạng, các thiết bị mạng công cộng trên đƣờng trục Internet. Tại Việt Nam, theo số liệu báo cáo tại “Sách trắng” năm 2019 của Bộ Thông tin và truyền thông đã thống kê đến 31 tháng 12 năm 2018 cho thấy số doanh nghiệp đang cung cấp dịch vụ truy nhập Internet băng rộng cố định là 58 đơn vị. Mặc dù ISP có tốc độ phát triển rất nhanh chóng, nhƣng khi đề cập đến trách nhiệm của ISP thì đây là đang là một khoảng trống trong hệ thống pháp luật nƣớc ta. Điều này thể hiện ngay từ khái niệm về ISP trong hệ thống luật. Khác với định nghĩa trong luật của một số quốc gia trên thế giới và trong các hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam tham gia nhƣ Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dƣơng (CPTPP), theo pháp luật Việt Nam, ISP chỉ đơn thuần là một tổ chức cung cấp khả năng truy nhập Internet hoặc có vai trò trung chuyển lƣu lƣợng Internet, không bao gồm doanh nghiệp có vai trò lƣu trữ hay cung cấp các công cụ định vị thông tin cho ngƣời dùng. Hệ thống pháp luật Việt Nam từ trƣớc đến nay đều ghi nhận ISP thuần túy có vai trò nhƣ một “ngƣời vận chuyển” thông tin mà không phải là “ngƣời điều hành” hay “ngƣời biên tập”. Các doanh nghiệp này chỉ đơn thuần làm nhiệm vụ trung gian chuyển tải thông tin theo yêu cầu của ngƣời gửi đến ngƣời nhận, và thƣờng không bị áp trách nhiệm phải thực thi việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trƣờng mạng. Thực tế hiện nay các qui định về trách nhiệm của ISP chủ yếu liên quan đến vấn đề quyền tác giả, có thể thấy rằng không có một quy định cụ thể nào để ràng buộc trách nhiệm của các ISP đối với các hành vi xâm phạm quyền dân sự nói chung của ngƣời sử dụng Internet trong môi trƣờng kỹ thuật số. Với cơ chế pháp lý nhƣ trên, hiện các ISP ở Việt Nam chỉ đƣợc tổ chức hoạt động phù hợp với vai trò ngƣời trung gian, hầu nhƣ không chịu trách nhiệm về nội dung thông tin và hành vi của ngƣời sử dụng. Hay nói cách khác, ở nƣớc ta hiện nay chƣa quy định rõ ràng, đầy đủ về trách nhiệm của ISP đối với các hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng. Đây là điểm hạn chế, chƣa bắt kịp với pháp luật của các nƣớc phát triển. 4
  12. Những hạn chế, bất cập trong qui định của pháp luật có thể sẽ khiến Việt Nam gặp nhiều khó khăn, thách thức khi gia nhập các hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới khi mà cơ chế luật áp nhiều trách nhiệm lên ISP và nghiêng về bảo hộ chủ thể quyền tác giả hơn so với cả ISP lẫn ngƣời sử dụng Internet. Liên quan đến nội dung trách nhiệm của ISP đã có một số chuyên đề khoa học, bài viết trên tạp chí khoa học pháp lý, các bài viết chuyên khảo hoặc đề tài của một số cuộc hội thảo đã đề cập một cách trực tiếp hoặc lồng ghép vào những nội dung liên quan đến trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ, có thể kể đến nhƣ: Luận văn thạc sĩ ĐHQGHN: “Vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý”, Đặng Thị Thu Trang; năm 2012; “Quyền bí mật đời tư theo quy định của pháp luật dân sự: Cần được hướng dẫn”, ThS Lê Văn Sua, Tạp chí Luật sƣ Việt Nam số 5/2016; “Quyền riêng tư trên thế giới và ở Việt Nam”, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Đăng Duy, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN năm 2017; Sách tham khảo: “Phạm vi và giới hạn của tự do Internet”, PGS.TS Nguyễn Thị Quế Anh, PGS.TS Vũ Công Giao, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, năm 2018; “Trách nhiệm pháp lí của nhà cung cấp dịch vụ trung gian với vi phạm quyền tác giả trên Internet”, Ngô Trọng Quân - Trần Phƣơng Anh, Tạp chí Luật học số 01 năm 2019. Các nghiên cứu đã phân tích đánh giá các nội dung liên quan đến quyền riêng tƣ, quyền bí mật thông tin, quyền tác giả, …, nhƣng vấn đề trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet, đặc biệt là trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng thì chƣa đƣợc đề cập, nghiên cứu một cách sâu sắc. Vì những lý do ở trên, tác giả lựa chọn đề tài:"Trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của người sử dụng" làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ luật học với mong muốn góp phần phát hiện những hạn chế của quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet, cũng nhƣ những khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình thực thi ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam về trách nhiệm pháp lý của nhà 5
  13. cung cấp dịch vụ Internet, từ đó bảo vệ tốt hơn các quyền dân sự của cá nhân, tổ chức trong kỷ nguyên số. 2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự do ngƣời dùng Internet thực hiện, mô hình điều chỉnh pháp luật về vấn đề này ở các nƣớc phát triển, chỉ ra những bất cập, hạn chế của pháp luật Việt Nam và đề xuất giải pháp hoàn thiện. Trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với các hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng là một lĩnh vực tƣơng đối rộng, phức tạp và là một vấn đề mới, thuộc phạm vi điều chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ chuyên ngành Luật dân sự và tố tụng dân sự, tác giả tập trung nghiên cứu về trách nhiệm dân sự của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng đƣợc pháp luật Việt Nam quy định. Giới hạn khảo sát của luận văn là các quy định về trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet tại Việt Nam đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của các chủ thể khác do chính những ngƣời sử dụng Internet thực hiện khi họ tham gia vào các hoạt động trên Internet, trong đó, luận văn tập trung vào những hành vi xâm phạm quyền dân sự phổ biến hiện nay nhƣ xâm phạm quyền riêng tƣ; xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của ngƣời khác trên môi trƣờng mạng; xâm phạm quyền tác giả. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Để có thể đạt đƣợc mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận văn phải giải quyết các vấn đề sau: Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về trách nhiệm pháp lý (dân sự) của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng nhƣ khái niệm, đặc điểm, cơ sở hình thành trách nhiệm, các mô hình pháp luật điều chỉnh vấn đề trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet. 6
  14. Thứ hai, phân tích, đánh giá các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng trong tƣơng quan so sánh với các quy định trong điều ƣớc quốc tế và pháp luật một số quốc gia khác. Thứ ba, nêu và phân tích thực tiễn thi hành các quy định pháp luật Việt Nam về trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng, chỉ ra những bất cập, hạn chế. Trên cơ sở đó phân tích nguyên nhân của thực trạng trên và đƣa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn đã sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau: Phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và đƣờng lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam. Phương pháp phân tích, tổng hợp: Những phƣơng pháp này đƣợc sử dụng phổ biến trong việc làm rõ các quy định của pháp luật về trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng. Phương pháp luật học so sánh: Những phƣơng pháp này đƣợc ngƣời viết vận dụng để đƣa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện hành có hợp lý hay không trong mối tƣơng quan so với quy định của điều ƣớc quốc tế có liên quan hoặc pháp luật của các nƣớc khác… Phương pháp quy nạp, phương pháp diễn dịch: Đƣợc vận dụng để triển khai có hiệu quả các vấn đề liên quan đến trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng, đặc biệt là các kiến nghị hoàn thiện. Cụ thể nhƣ trên cở sở đƣa ra những kiến nghị mang tính khái quát, súc tích ngƣời viết dùng phƣơng pháp diễn dịch để làm rõ nội dung của kiến nghị. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 7
  15. Kết quả đạt đƣợc của luận văn góp phần làm sáng tỏ lý luận về trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng. Cụ thể: củng cố, bổ sung lý luận về khái niệm và đƣa ra những tiêu chí cơ bản nhất để xác định trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng, phân tích thực trạng điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề này, chỉ ra những bất cập của pháp luật và đƣa ra phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật tại Việt Nam. Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện pháp luật là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tƣơng ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với các cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật ở Việt Nam. 6. Cơ cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các ký hiệu viết tắt, nội dung chính của luận văn gồm 2 chƣơng, cụ thể: Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về trách nhiệm pháp lý của nhà cung cấp dịch vụ Internet đối với hành vi xâm phạm quyền dân sự của ngƣời sử dụng và đề xuất hoàn thiện. 8
  16. CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CỦA NHÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ INTERNET ĐỐI VỚI HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN DÂN SỰ CỦA NGƢỜI SỬ DỤNG 1.1. Khái quát về nhà cung cấp dịch vụ Internet 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của nhà cung cấp dịch vụ Internet Internet đã mang lại một cuộc cách mạng truyền thông, nó cho phép mọi ngƣời có nhiều cơ hội để giao tiếp với nhau mà không có rào cản địa lý. Khi số lƣợng ngƣời dùng của nó tăng theo cấp số nhân, Internet biến đổi toàn bộ bức tranh của phổ giao tiếp, văn hóa, chính trị và pháp lý. Với một hệ thống thông tin rộng mở, phổ biến mang tính quy mô toàn cầu, môi trƣờng Internet đáp ứng đƣợc nhiều nhu cầu khác nhau của con ngƣời, kéo theo đó thì việc xuất hiện hoặc phát triển những phƣơng thức, cách thức tiếp cận để khai thác tài nguyên trên môi trƣờng Internet ngày càng đa dạng, trong đó có thể đề cập đến các dịch vụ chính đƣợc sử dụng nhƣ dịch vụ kết nối Internet (Internet Service Provider - viết tắt là ISP), dịch vụ cung cấp đƣờng truyền để kết nối với Internet (Internet Access Provide - IAP) và dịch vụ ứng dụng Internet (Online Service Provider - OSP). Các dịch vụ này đƣợc cung cấp bởi các công ty, chủ thể trung gian đƣợc gọi là nhà cung cấp dịch vụ trung gian (Internet Intermediary), trong nghiên cứu này tác giả lựa chọn loại hình ISP để phân tích và nghiên cứu. Hình 2: Các nhà cung cấp dịch vụ Internet 9
  17. Với xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu sử dụng Internet ngày càng tăng cao, để đáp ứng đƣợc nhu cầu này, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet đã hình thành và phát triển với nhiều hình thức khác nhau, đa dạng hóa các loại hình dịch vụ, có những thay đổi tƣ duy cũng nhƣ cách thức tổ chức điều hành hoạt động, phát triển nền tảng dịch vụ, hoàn thiện các nền tảng ứng dụng dịch vụ chức năng của mình để đáp ứng thị hiếu ngƣời sử dụng. Để đáp ứng đƣợc nhu cầu của ngƣời sử dụng trên môi trƣờng Internet, ISP ra đời với những chức năng cơ bản nhƣ điều hành, điểm trung chuyển, lƣu trữ thông tin dữ liệu... Có thể hiểu ISP là nơi cung cấp đến ngƣời sử dụng khả năng truy cập Internet và nếu một cá nhân hay tổ chức không đăng ký dịch vụ thì không thể kết nối đƣợc mạng Internet. Thông qua các nền tảng dịch vụ khai thác trên môi trƣờng Internet của ISP mà ngƣời sử dụng đã đƣợc cung cấp các nền tảng ứng dụng dịch vụ khai thác Internet rộng mở hơn, không bó hẹp chỉ trong một số trang web đặc định mà thay vào đó là ngƣời sử dụng đƣợc cung cấp các nền tảng dịch vụ đa dạng, phong phú hơn trên môi trƣờng Internet, có thể kể đến là các trang web (website) nhƣ: Blog, Youtube, các trang mạng xã hội nhƣ Facebook, Instargram, Twitter, ... Cách nhận diện chung nhất hiện nay khi đề cập đến một ISP đƣợc hiểu là một công ty cung cấp một cổng vào Internet có thể bao gồm mọi thứ từ việc cho phép ngƣời sử dụng thiết lập liên lạc với mạng đến các dịch vụ cụ thể hơn nhƣ e-mail, lƣu trữ dữ liệu, công cụ tìm kiếm hoặc các trang web sử dụng cho từng mục đích khác nhau (đấu giá, mua bán, trao đổi, …). Một cách hiểu khác thƣờng thấy, ISP đƣợc định nghĩa là nhà cung cấp bất kỳ loại dịch vụ nào trên Internet, bao gồm các mạng xã hội và ngang hàng (P2P) của nền tảng chia sẻ [40]. Khi có nhu cầu sử dụng Internet thì tổ chức, cá nhân phải đăng ký với những nhà cung cấp dịch vụ Internet để đƣợc cung cấp đƣờng dẫn kết nối, hiện nay những công ty viễn thông, công ty kinh doanh dịch vụ truyền hình cáp thƣờng thực hiện chức năng này. ISP là thuật ngữ dùng cho các công ty có thể cung cấp quyền truy cập sử dụng Internet thông qua các thiết bị điện tử viễn thông, phổ biến đƣợc sử dụng 10
  18. hiện nay nhƣ máy tính, điện thoại di động thông minh. ISP có thể là một công ty, một tổ chức cung cấp cho những cá nhân hoặc những công ty khác quyền truy cập Internet cũng nhƣ các dịch vụ liên quan nhƣ Web, lƣu trữ ảo, hệ thống quản trị (Server). Một số ISP phổ biến trên thế giới thƣờng đƣợc nhắc đến nhƣ AT&T WorldNet, IBM Global Network, MCI, Netcom, UUNet và PSINet, còn tại Việt Nam hiện nay có thể kể đến một số ISP thông dụng nhƣ Tập đoàn Bƣu chính viễn thông Việt Nam (VNPT), Công ty cổ phần truyền thông (FPT), Tổng công ty viễn thông Quân đội (Viettel), … Hình 3: Mô hình cung cấp dịch vụ kết nối Internet Tại một số khu vực, quốc gia đều có những quy định riêng về ISP trên cơ sở đặc điểm phát triển trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ Internet của mình. Tại Tây Ban Nha, Hiệp hội quản lý ngƣời biểu diễn (AISGE) đƣa ra cách nhận diện chung đối với những nhà cung cấp dịch vụ khi đề cập đến bất kỳ cá nhân hoặc pháp nhân nào cung cấp dịch vụ trực tuyến trong ngành công nghiệp thông tin [26], trong cách nhận diện này nhà cung cấp nội dung là những ngƣời cung cấp thông tin cho ngƣời dùng Internet. Tại Liên bang Nga, ISP đƣợc hiểu là các công ty cung cấp cho khách hàng của họ quyền truy cập Internet và các dịch vụ liên quan đến Internet khác nhƣ Email và lƣu trữ (bao gồm cả máy chủ và máy chủ ảo), đối với hầu hết các dịch vụ thì về bản chất của ISP đƣợc coi là chỉ là trung 11
  19. gian truyền dữ liệu từ ngƣời dùng Internet này sang ngƣời dùng khác hoặc tạo cơ hội cho ngƣời dùng tìm kiếm và trao đổi dữ liệu, nhƣ việc điều hành bảng tin và diễn đàn [41]. Trong một nghiên cứu khác đã đƣa ra định nghĩa về ISP nhƣ là công ty cung cấp kết nối và dịch vụ Internet cho các cá nhân và tổ chức. Ngoài việc cung cấp quyền truy cập vào Internet, các ISP cũng có thể cung cấp các gói phần mềm (nhƣ trình duyệt, lƣu trữ dữ liệu, tài khoản email và trang web cá nhân hoặc trang chủ); ISP có thể lƣu trữ các trang web cho doanh nghiệp và cũng có thể tự xây dựng các trang web cung cấp nền tảng ứng dụng theo nhu cầu của tổ chức, cá nhân; và các ISP đều đƣợc kết nối với nhau thông qua các điểm truy cập mạng, các cơ sở mạng công cộng trên đƣờng trục Internet [36]. Chỉ thị Thƣơng mại điện tử của Châu Âu 2000/31/EC (viết tắt là Chỉ thị ECD) đã đƣa ra một chế độ liên quan đến trách nhiệm của chủ thể trung gian cung cấp dịch vụ Internet, đồng thời đã khái quát về ISP là bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào thực hiện việc cung cấp dịch vụ “xã hội thông tin” [29]. Trong đó, “xã hội thông tin” là một thuật ngữ thƣờng đƣợc sử dụng để chỉ một xã hội sử dụng, sáng tạo, phân phối, thao túng và tích hợp thông tin nhƣ là một hoạt động kinh tế, chính trị và văn hóa quan trọng, với động lực chính là công nghệ thông tin và truyền thông, dẫn đến sự tăng trƣởng thông tin nhanh chóng và làm thay đổi mọi khía cạnh của tổ chức xã hội, và chủ thể chính trong hoạt động này thƣờng đƣợc xem là những ngƣời dùng máy tính hoặc thậm chí là công dân kỹ thuật số - những ngƣời sử dụng Internet thƣờng xuyên và hiệu quả. Tuy nhiên để có một khái niệm thể hiện đầy đủ, rõ ràng nội dung bản chất của thuật ngữ “xã hội thông tin” đến nay vẫn đang còn nhiều tranh luận, ý kiến khác nhau. Trong giới hạn nghiên cứu cho thấy ISP tham gia vào hoạt động xử lý và lƣu trữ thông tin, dữ liệu dựa trên bất kỳ nền tảng giao tiếp điện tử nào mà mình sử dụng và đƣợc trả thù lao từ hoạt động này, hay nói cách khác là một hoạt động kinh tế mà ISP thực hiện [25, tr 43-45]. Để đạt điều kiện đƣợc xem là một ISP cần phải xem xét nền tảng nào mà một ISP cung cấp có mục đích liên quan đến dịch vụ liên quan xã hội thông tin. Cụ thể hơn, Chỉ thị ECD cũng đã chỉ rõ ISP là bất kỳ dịch 12
  20. vụ nào đƣợc cung cấp và nhận thù lao từ dịch vụ đó, mà ở khoảng cách xa và bằng thiết bị điện tử để xử lý và lƣu trữ dữ liệu và theo yêu cầu riêng của ngƣời nhận dịch vụ mà một ISP cung cấp. Một số dịch vụ đƣợc đề cập đến trong Chỉ thị ECD bao gồm việc cung cấp dịch vụ truy cập (Access/Mere conduit), cung cấp bộ nhớ đệm (Caching) và cung cấp dịch vụ lƣu trữ (Hosting). Điều quan trọng là phần định nghĩa liên quan đến việc ISP có khoản doanh thu từ các hoạt động cung cấp dịch vụ của mình phải thỏa mãn điều kiện là dịch vụ đƣợc cung cấp rộng rãi tạo thành một phần của hoạt động kinh tế (Ví dụ: dịch vụ có thể đƣợc cung cấp miễn phí, nhƣng ISP có thể kiếm tiền từ việc cung cấp dịch vụ bằng cách liên kết quảng cáo đến trang). Trong đó tiêu chí về khoảng cách là một vấn đề quan trọng đƣợc đặt ra, cần phải thỏa mãn điều kiện là ISP và ngƣời sử dụng không có mặt ở cùng một nơi, và những yêu cầu về giao tiếp, truy cập khai thác thông tin, dữ liệu Internet đƣợc thực hiện thông qua các thiết bị điện tử mà ISP sử dụng để cung cấp dịch vụ trên nền tảng ứng dụng của mình. Dựa vào thiết bị điện tử nhƣ một phƣơng tiện để ISP phân phối thông tin, dữ liệu trên của thông tin sẽ mở rộng trên một khu vực không xác định đƣợc, miễn là có truy cập Internet. Đạo luật bản quyền kỹ thuật số của Hoa Kỳ (Digital Millennium Copyright Act, viết tắt là Đạo luật DMCA) cũng đã đƣa ra định nghĩa về một nhà cung cấp dịch vụ cho ngƣời sử dụng qua việc cung cấp truyền tải, định tuyến hoặc cung cấp các kết nối cho truyền thông trực tuyến kỹ thuật số, giữa các nhà cung cấp hoặc giữa các điểm đƣợc chỉ định bởi ngƣời sử dụng; tài nguyên dữ liệu do ngƣời sử dụng lựa chọn, mà nhà cung cấp không sửa đổi nội dung của dữ liệu nhƣ đã gửi hoặc nhận; và một nhà cung cấp dịch vụ trực tuyến hoặc truy cập mạng hoặc nhà điều hành các cơ sở. [30] Đối với Việt Nam, theo quy định của pháp luật hiện nay định nghĩa hay một khái niệm rõ ràng về ISP vẫn chƣa đƣợc thống nhất trong cách nhận diện, cũng nhƣ chƣa thể hiện hết các chức năng của một ISP. Khái niệm về ISP mà pháp luật Việt Nam hiện có đƣợc thể hiện tại Khoản 2 Điều 3 của Thông tƣ liên 13
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0