intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam – Tổ chức và hoạt động

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:127

46
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu về vị trí, vai trò TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay và thực tiễn tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam từ khi hình thành đến nay, đặc biệt là từ khi triển khai Luật TGPL 2006. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa vị trí, vai trò của chính sách có ý nghĩa nhân văn này trong thời gian tới, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người được TGPL trong việc tiếp cận dịch vụ TGPL miễn phí và giúp cho việc quản lý nhà nước đối với hoạt động TGPL hiệu quả hơn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Trợ giúp pháp lý ở Việt Nam – Tổ chức và hoạt động

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH THỊ THANH TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM – TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. NGUYỄN ĐĂNG DUNG Hà Nội – 2015
  2. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN Trịnh Thị Thanh
  3. MỤC LỤC Trang bìa phụ Lời cam đoan Mục lục Từ viết tắt Trang MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1 Chương 1: VỊ TRÍ, VAI TRÒ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................................. 9 1.1. Vị trí, vai trò TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay .....................9 1.1.1. Vị trí, vai trò TGPL trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa10 1.1.2. Vị trí, vai trò TGPL trong bảo đảm quyền con người .....................................13 1.1.3. Vị trí, vai trò TGPL trong triển khai Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quyền bào chữa, nguyên tắc tranh tụng và công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính .........................................................................................14 1.1.4. Vị trí, vai trò TGPL trong công tác xóa đói giảm nghèo và chính sách an sinh xã hội .........................................................................................................................16 1.1.5. Vị trí, vai trò TGPL trong thị trường dịch vụ pháp lý.....................................16 1.1.6. Vị trí, vai trò TGPL trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và khắc phục hệ quả của mặt trái nền kinh tế thị trường ........................................................18 1.1.7. Vị trí, vai trò TGPL trong quá trình hội nhập thế giới một cách toàn diện….19 1.2. Khái niệm và đặc điểm TGPL ........................................................................21 1.2.1. Khái niệm TGPL .............................................................................................21 1.2.2. Đặc điểm TGPL ..............................................................................................25 1.3. Các loại hình TGPL .........................................................................................27 1.3.1. Loại hình TGPL chia theo người thực hiện ....................................................27 1.3.2. Loại hình TGPL chia theo hình thức hoạt động ..............................................29 1.3.3. Chia loại hình TGPL theo lĩnh vực hoạt động ................................................31
  4. 1.4. Tổ chức và hoạt động TGPL một số nước trên thế giới ...............................32 1.4.1. Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL .............................................................32 1.4.2. Quản lý nhà nước hoạt động TGPL ................................................................35 1.4.3. Người thực hiện TGPL....................................................................................37 1.4.4. Người được TGPL ..........................................................................................38 1.4.5. Lĩnh vực TGPL ...............................................................................................39 1.4.6. Hình thức TGPL ..............................................................................................40 1.4.7. Về chất lượng TGPL .......................................................................................41 1.4.8. Về kinh phí dành cho TGPL ...........................................................................42 Chương 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM .................................................................................................... 45 2.1. Khái quát tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam giai đoạn trước khi ban hành Luật TGPL .....................................................................................................45 2.1.1. Khái quát về tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam giai đoạn trước năm 1997 ...........................................................................................................................45 2.1.2. Khái quát tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2006 ...................................................................................................................48 2.2. Tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam từ khi ban hành Luật TGPL năm 2006 cho đến nay .....................................................................................................54 2.2.1. Thực trạng 08 năm triển khai Luật TGPL .......................................................55 2.2.2. Đánh giá chung về thực trạng tổ chức và hoạt động TGPL ............................70 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG TRỢ GIÚP PHÁP LÝ Ở VIỆT NAM.............................................................................. 87 3.1. Yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam ...........................87 3.1.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL để phù hợp với xu hướng phát triển TGPL trên thế giới ....................................................................................................87 3.1.2. Đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL để phù hợp với các chính sách của Đảng, Nhà nước. .......................................................................................................88
  5. 3.1.3. Công tác TGPL đang đặt trong bối cảnh có sự thay đổi về thể chế liên quan đến hoạt động TGPL .................................................................................................93 3.1.4. Đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu TGPL của người dân .................................................................................................95 3.1.5. Đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL để khắc phục những tồn tại, hạn chế thực tiễn triển khai công tác TGPL……………………………………………..….97 3.2. Các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam .................97 3.2.1. Nhóm giải pháp xây dựng, hoàn thiện thể chế ...........................................98 3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức TGPL .............................................................107 3.2.3. Nhóm giải pháp về hoạt động TGPL .........................................................112 KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 115 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................117
  6. TỪ VIẾT TẮT: Trợ giúp pháp lý: TGPL. Trợ giúp viên pháp lý: TGVPL. Cộng tác viên: CTV.
  7. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của Đề tài Ra đời vào những năm cuối thế kỷ XX, TGPL ở Việt Nam được biết đến như là một trong những chính sách xã hội rộng lớn thể hiện bản chất tốt đẹp của nền tư pháp nhân dân. TGPL không chỉ giúp cho người nghèo, đối tượng chính sách và những đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt được tiếp cận pháp luật, hỗ trợ họ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp mà còn góp phần xây dựng và hình thành lối sống và làm việc theo pháp luật. Đây cũng là một trong những hoạt động thể hiện đậm nét truyền thống, đạo lý tương thân, tương ái, đền ơn đáp nghĩa của dân tộc và phù hợp với yêu cầu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và xu thế phát triển của cộng đồng quốc tế. Trong những năm qua, có thể khẳng định rằng, hoạt động TGPL đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, có ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội. Trên thực tế đã hình thành hệ thống TGPL miễn phí với đội ngũ TGVPL, CTV đông đảo làm TGPL và sự hưởng ứng, tham gia của các cấp chính quyền, cơ quan, ban, ngành, tổ chức và nhân dân ở các địa phương. Một bộ phận đáng kể người nghèo, đối tượng chính sách đã có thêm địa chỉ tin cậy giúp đỡ để tiếp cận đến với công lý, qua đó có điều kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Điều này nói lên tính đúng đắn, kịp thời của việc triển khai thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và tăng cường trợ giúp về mặt pháp luật cho nhân dân nhằm hỗ trợ các đối tượng được hưởng bình đẳng trong việc tiếp cận pháp luật. Nhất là từ sau khi Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ 9 thông qua Luật TGPL (có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2007) đã tạo cơ sở pháp lý bền vững thúc đẩy công tác này phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu giúp đỡ pháp luật cho người dân. 1
  8. Sau 08 năm triển khai thi hành, đến nay, Luật TGPL và các văn bản pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động TGPL cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập dẫn đến hiệu quả công tác này chưa cao. Hơn nữa, với tư cách là một nhiệm vụ mới của ngành Tư pháp, công tác TGPL trên thực tế còn nhiều khó khăn, thách thức tồn tại. Hơn nữa, trước sự thay đổi của những yếu tố liên quan đến công tác này cũng đòi hỏi cần có sự nghiên cứu về tổ chức và hoạt động TGPL cho phù hợp với tình hình mới. Do đó đặt ra vấn đề trong giai đoạn tới là cần đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL bảo đảm tính bền vững trên cơ sở hoàn thiện thể chế về TGPL; đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống TGPL. Từ yêu cầu trên, tác giả lựa chọn việc nghiên cứu phương diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn về “TGPL ở Việt Nam – tổ chức và hoạt động” trước những điều kiện và tình hình mới nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới hệ thống chính trị, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và tìm ra những giải pháp thiết thực thúc đẩy sự phát triển của nhiệm vụ mang tính nhân văn cao cả này. 2. Tình hình nghiên cứu Có thể nói, trong các lĩnh vực pháp luật đang tồn tại hiện nay ở nước ta, TGPL là một lĩnh vực có bề dày hình thành và phát triển chưa lâu đời (năm 1997). Cho đến nay, đã có một số đề tài nghiên cứu tiến sĩ, thạc sĩ, đề tài khoa học cấp Bộ và bài báo, tạp chí, chuyên đề nghiên cứu về TGPL, cụ thể: - Đề tài khoa học cấp Bộ “Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL, phương hướng thực hiện trong điều kiện hiện nay” do Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện, tập trung nghiên cứu về cơ sở lý luận, mục đích, ý nghĩa của hoạt động TGPL; thực trạng tổ chức và hoạt động TGPL, từ 2
  9. đó đề xuất các phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động này trong thời gian tới. - Đề tài khoa học cấp Bộ “Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh TGPL” do Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện, tập trung nghiên cứ cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng Pháp lệnh TGPL thông qua việc phân tích, đánh giá, so sánh các vấn đề có liên quan đến việc thực hiện về pháp luât TGPL trong thời gian qua. - Luận án Tiến sĩ “Điều chỉnh pháp luật về TGPL ở Việt Nam trong điều kiện đổi mới” của tác giả Tạ Thị Minh Lý, tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý điều chỉnh pháp luật và điều chỉnh pháp luật về TGPL; thực trạng điều chỉnh pháp luật về TGPL và phương hướng hoàn thiện việc điều chỉnh pháp luật về TGPL về TGPL trong điều kiện đổi mới. - Luận văn Thạc sĩ “Hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL ở Việt Nam” của tác giả Vũ Hồng Tuyến, tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở pháp lý và thực tiễn về người thực hiện TGPL, từ đó có các giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về người thực hiện TGPL. - Luận văn Thạc sĩ “Bảo đảm quyền được TGPL” của tác giả Phan Thị Thu Hà, tập trung nghiên cứu việc thực hiện quyền TGPL của công dân do hệ thống TGPL của Nhà nước thực hiện và đề xuất một số giải pháp bảo đảm quyền này của công dân. - Luận văn Thạc sĩ “Phát triển TGPL ở cơ sở” của tác giả Đặng Thị Loan, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về TGPL tại cơ sở và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện, tăng cường hiệu quả phát huy tích cực của các phương thức này. - Luận văn Thạc sĩ “Hoạt động TGPL trong các chương trình giảm nghèo” của tác giả Lê Thị Thúy, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động TGPL trong các hoạt động giảm nghèo và đề xuất 3
  10. một số giải pháp nhằm thực hiện chính sách này có hiệu quả trong thời gian tới. - Luận văn Thạc sĩ “Các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL” của tác giả Nguyễn Bích Ngọc, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn về hoạt động TGPL, hiệu quả hoạt động TGPL ở Việt Nam và đề xuất các định hướng, nâng cao hiệu quả hoạt động TGPL trong thời gian tới. - Luận văn Tiến sĩ “Thực hiện pháp luật về TGPL trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Huỳnh Huyện, tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận thực hiện về TGPL trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, từ đó đưa ra các quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về TGPL trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. - Luận văn Thạc sĩ “Hoàn thiện pháp luật về TGPL ở Việt Nam” của tác giả Cù Thu Anh, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về pháp luật TGPL ở Việt Nam và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật TGPL trong thời gian tới. - Luận văn Thạc sĩ “Chất lượng hoạt động TGPL ở Việt Nam” của tác giả Phạm Quang Đại, tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng hoạt động TGPL, đánh giá thực trạng chất lượng hoạt động TGPL ở Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về TGPL, cơ chế quản lý chất lượng dịch vụ pháp lý miễn phí. - Luận văn Thạc sĩ “Pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Mận, tập trung nghiên cứu về các vấn đề lý luận và thực tiễn, thực trạng pháp luật điều chỉnh về Quỹ TGPL Việt Nam và tìm ra giải pháp, định hướng hoàn thiện pháp luật về Quỹ TGPL Việt Nam trong thời gian tới. 4
  11. Ngoài ra, còn rất nhiều Luận án thạc sĩ, tiến sĩ Luật học và các bài tạp chí đã nghiên cứu về tổ chức và hoạt động TGPL như Luận án tiến sĩ “Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với hoạt động TGPL ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Tùng; Luận văn thạc sĩ “Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Huỳnh Huyện; Luận văn Thạc sĩ “Chất lượng TGPL của Trung tâm TGPL tỉnh Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn Đức Trực; Luận văn thạc sĩ “Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo và đối tượng chính sách ở tỉnh Quảng Ninh” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy; Luận văn Thạc sĩ “Thực hiện pháp luật về TGPL cho người nghèo ở Việt Nam” của tác giả Vũ Thị Hoàng Hà.v.v. 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của luận văn là nghiên cứu về vị trí, vai trò TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay và thực tiễn tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam từ khi hình thành đến nay, đặc biệt là từ khi triển khai Luật TGPL 2006. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hơn nữa vị trí, vai trò của chính sách có ý nghĩa nhân văn này trong thời gian tới, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho người được TGPL trong việc tiếp cận dịch vụ TGPL miễn phí và giúp cho việc quản lý nhà nước đối với hoạt động TGPL hiệu quả hơn. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, trong quá trình nghiên cứu, Đề tài cần thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Làm rõ vị trí, vai trò của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Cụ thể, đề tài cần nghiên cứu về sự cần thiết của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay thông qua việc phân tích vị trí, vai trò của TGPL trong 5
  12. các khía cạnh lý luận và thực tiễn, đồng thời nghiên cứu khái niệm, đặc điểm của TGPL và các loại hình TGPL. - Nghiên cứu và tổng hợp theo vấn đề về tổ chức và hoạt động TGPL của một số nước trên thế giới có giá trị tham khảo và vận dụng trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam. - Phân tích, đánh giá về thực trạng tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam trước khi ban hành Luật TGPL và sau khi ban hành Luật TGPL. Mỗi giai đoạn làm rõ những mặt làm được, những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, bất cập và nguyên nhân. Đặc biệt, cần làm rõ những vấn đề cơ bản của tổ chức và hoạt động TGPL trong giai đoạn hiện nay làm cơ sở đề xuất những giải pháp ở phần sau. - Đề xuất các giải pháp đổi mới nhằm tăng cường hiệu quả tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam trong thời gian tới. 5. Phạm vi nghiên cứu Việc xác định phạm vi nghiên cứu là một phần quan trọng, mang tính chất định hướng để thực hiện Đề tài. Nhận thức được điều đó, ngay từ đầu, Đề tài lựa chọn xác định phạm vi nghiên cứu là một số vấn đề mang tính chất lý luận về TGPL trong và ngoài nước và thực tiễn về tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam qua 02 giai đoạn: Trước khi ban hành Luật TGPL (gồm hai thời điểm: trước năm 1997 và từ năm 1997 đến năm 2005) và đặc biệt là từ khi ban hành Luật TGPL năm 2006 đến nay, trong đó tập trung phân tích hạn chế, bất cập để đề ra những giải pháp về tổ chức và hoạt động TGPL nhằm đổi mới công tác này theo hướng phát triển ổn định, bền vững. 6. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động TGPL 6
  13. nói riêng. Các văn kiện của Đảng, Hiến pháp, Luật TGPL và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp luận của triết học Mác - Lê nin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê. Đồng thời, đề tài còn vận dụng một số kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến TGPL; những tài liệu về TGPL trong các giai đoạn trước và tư liệu thực tiễn đã được đúc kết để làm sâu sắc hơn những nội dung đưa ra. 7. Những đóng góp của đề tài Các công trình nghiên cứu về TGPL đã phân tích rất nhiều khía cạnh khác nhau của tổ chức và hoạt động TGPL như hiệu quả hoạt động TGPL; quản lý nhà nước về hoạt động TGPL; chất lượng hoạt động TGPL, TGPL tại cơ sở.... Tuy nhiên, qua gần 18 năm thành lập và phát triển, từ thực trạng tổ chức và hoạt động của hệ thống TGPL hiện nay đã đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu, tổng kết lý luận và thực tiễn, đồng thời tham khảo một số mô hình TGPL trên thế giới để từ đó đưa ra một số giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL trong thời gian tới. Đó là lý do tác giả chọn đề tài “TGPL ở Việt Nam – tổ chức và hoạt động” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học của mình. Những đóng góp của đề tài: - Làm sâu sắc hơn vị trí, vai trò của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam, giải quyết vấn đề vì sao cần tồn tại chế định TGPL ở Việt Nam; nghiên cứu khái niệm và đặc điểm TGPL, các loại hình TGPL, đồng thời cung cấp các thông tin mang giá trị tham khảo tổng hợp theo các vấn đề về tổ chức và hoạt động TGPL của một số nước trên thế giới. - Đi sâu phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động TGPL hiện nay ở Việt Nam; đánh giá những kết quả của công tác này trong mối tương quan với 7
  14. các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; tình hình kinh tế - xã hội của đất nước và đặc biệt là nhu cầu của các đối tượng thuộc diện được TGPL. - Đưa ra các giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm đổi mới công tác TGPL bảo đảm tổ chức và hoạt động TGPL hiệu quả, phát triển bền vững. 8. Bố cục luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu thành 03 chương sau đây: Chương 1: Vị trí, vai trò TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam. Chương 3: Các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động TGPL ở Việt Nam. 8
  15. Chương 1 VỊ TRÍ, VAI TRÒ TRỢ GIÚP PHÁP LÝ TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY 1. 1. Vị trí, vai trò TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay TGPL ở nước ta ra đời khá muộn so với lịch sử nền tư pháp Việt Nam. Hoạt động này được nghiên cứu từ năm 1995 và ra đời vào những năm cuối của thế kỷ XX (1997) trên nền tảng những thành tựu phát triển của những năm đầu đổi mới, sự kiểm nghiệm thành công của những định hướng đúng đắn được vạch ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và sự phát triển của dịch vụ pháp lý. Cùng với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; nhu cầu giúp đỡ pháp luật của nhân dân ngày một tăng đã trở thành động lực quan trọng mang tính quyết định thúc đẩy sự ra đời và phát triển của hoạt động TGPL. Cho đến nay, sau gần 18 năm hình thành và phát triển, công tác TGPL đã đạt được nhiều kết quả, khẳng định được vị trí và vai trò của mình trong giúp đỡ về mặt pháp luật cho đông đảo người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng khác, góp phần phát huy vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Có thể khẳng định vai trò và ý nghĩa của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay là hết sức cần thiết và quan trọng. TGPL thể hiện được bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tạo lập cơ chế bảo đảm công bằng xã hội, mọi công dân dù giàu hay nghèo đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tiếp cận dịch vụ pháp lý như nhau trong điều 9
  16. kiện phát triển nền kinh tế thị trường. TGPL là một trong những hình thức đưa chủ trương chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa và bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống nhằm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần hoàn thiện bộ máy Nhà nước, hoàn thiện pháp luật và nâng cao trách nhiệm công vụ, đồng thời TGPL góp phần thiết thực bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; nâng cao ý thức pháp luật và trình độ dân trí để người dân biết cách tự ứng xử phù hợp với các quy định pháp luật, góp phần lành mạnh hóa quan hệ xã hội, một phần củng cố lòng tin của người dân vào Nhà nước, pháp luật, góp phần ổn định chính trị, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế. Vị trí, vai trò của TGPL trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay được thể hiện qua các khía cạnh lý luận và thực tiễn sau: 1.1.1. Vị trí, vai trò TGPL trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Trong Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng, Nhà nước có trách nhiệm là xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật; tổ chức thực hiện pháp luật, phải quan tâm đến người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội bằng các chính sách pháp luật và các biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ cụ thể để đưa pháp luật đến với người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội và đưa họ vào đời sống nhà nước và pháp luật để pháp luật thực sự phản ánh ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lại càng phải quan tâm, chú trọng hơn nhằm tăng cường các biện pháp để bảo vệ quyền, lợi ích của nhóm dân cư này, hạn chế phân hóa giàu nghèo, bảo đảm công bằng xã hội, thực thi trên thực tế nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thể hiện tính ưu việt và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. 10
  17. Ngày nay nội dung “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” [33, Điều 2] có yêu cầu mới là Nhân dân không chỉ chủ yếu thực hiện quyền lực nhà nước thông qua dân chủ đại diện, mà còn từng bước thực hiện các hình thức dân chủ trực tiếp, đó sẽ là cơ sở, là tiêu chí để Nhân dân kiểm soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Vì vậy, chính Nhà nước phải là chủ thể chịu trách nhiệm chính trong bảo đảm cho người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội có được chính sách pháp luật bình đẳng, tạo điều kiện cho họ được hỗ trợ, giúp đỡ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp. Từ đó, đặt ra yêu cầu TGPL phải giúp người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội nâng cao năng lực, tự mình tham gia quyết định các công việc chung; kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật, bảo đảm để cho “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân” không những được ghi nhận trong Cương lĩnh, Hiến pháp và được thể chế trong các đạo luật mà còn phải được bảo đảm thực hiện trên thực tế, đến với mọi người, đặc biệt là người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương để cho quyền lực nhà nước thật sự là của Nhân dân, được Nhân dân ủy quyền cho Nhà nước mà không bị mất quyền, không bị lạm quyền. Vì vậy, TGPL cần phải tiếp tục được quan tâm và đẩy mạnh hơn nữa để đưa pháp luật đến với người nghèo, những người thuộc nhóm yếu thế để họ được thụ hưởng giá trị tiến bộ mà pháp luật mang lại. Chính vì vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi TGPL phải tồn tại và hướng đến mục tiêu nâng cao nhận thức pháp luật của người nghèo và các nhóm người thuộc nhóm yếu thế trong xã hội, giúp họ biết sử dụng pháp luật để bảo vệ và thực thi các quyền và thực hiện các nghĩa vụ trách nhiệm của công dân. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, TGPL gắn với quá trình giải quyết những vấn đề nảy sinh trong các mối quan hệ xã hội đã 11
  18. giúp nâng cao nhận thức pháp luật cho người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương trong xã hội. Đây là một quá trình giáo dục ý thức pháp luật đối với xã hội thông qua sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, xác định cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi chủ thể đối với Nhà nước và xã hội và các trước chủ thể khác, để từ đó họ nhận thấy được những hành vi được phép làm và những hành vi không được phép làm. Đặc biệt, thông qua những vụ việc cụ thể, TGPL đã giúp những nhóm người này nắm bắt được nội dung pháp luật và cách thức áp dụng để giải quyết các vấn đề cụ thể trong cuộc sống để các chủ thể này nắm được nội dung các văn bản pháp luật, hiểu và vận dụng, sử dụng pháp luật một cách chính xác, tích cực để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia các quan hệ xã hội. TGPL trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa còn giúp làm sáng tỏ nguyên tắc Hiến pháp “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật” [33, Điều 8], “mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” [33, Điều 16]. Thông qua hoạt động của mình, TGPL giúp người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội nhận thức được vị trí, vai trò của mình trước pháp luật; vị trí, vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội; các thiết chế bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính họ. TGPL trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có ý nghĩa quan trọng trong việc dần dần hình thành thói quen tuân thủ và chấp hành pháp luật, nghĩa là trong thói quen xử sự đó pháp luật đã thực sự trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của con người. Thói quen đó chỉ có thể đạt được do kết quả nhận thức sâu sắc của cá nhân về việc thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội khi tuân thủ pháp luật. Tóm lại, TGPL giúp người nghèo, người thuộc nhóm yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội thấy được pháp luật vừa là công cụ quản lý nhà nước vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Nó vừa là biện pháp tăng 12
  19. cường pháp chế xã hội chủ nghĩa vừa góp phần thực thi dân chủ xã hội chủ nghĩa. Có thể nói, TGPL là một trong những khâu làm hoàn chỉnh hơn vai trò của ngành Tư pháp từ việc xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật để đưa pháp luật vào đời sống xã hội có hiệu quả. 1.1.2. Vị trí, vai trò TGPL trong bảo đảm quyền con người Tuyên ngôn thế giới về quyền con người đã ghi nhận “Quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo pháp luật và quyền được bào chữa” [23, Điều 11); Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị ghi nhận “Mọi người đều bình đẳng trước các toà án, cơ quan tài phán và có quyền được hưởng một cách đầy đủ, bình đẳng quyền được bào chữa, ngay cả khi họ không có điều kiện chi trả” (24, Điều 14). Bên cạnh đó, các quyền con người, quyền công dân trong từng lĩnh vực được tiếp tục khẳng định trong nhiều công ước của Liên Hợp quốc như Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng, Tuyên bố Rio về Môi trường và phát triển và Công ước UNECE về tiếp cận thông tin môi trường... Ngày càng có nhiều điều ước, hiệp ước quốc tế, kế hoạch hành động, các tuyên bố quốc tế yêu cầu hoặc khuyến khích các quốc gia ban hành các đạo luật để bảo đảm quyền con người, quyền công dân... Việc Việt Nam là thành viên của nhiều Công ước quốc tế về quyền con người, đặt ra yêu cầu Nhà nước cần có trách nhiệm bảo đảm thực thi trên thực tế các quyền đó, hạn chế giàu nghèo, kiểm soát được các tiêu cực mới phát sinh. Nhà nước phải thể hiện vai trò của mình trong bảo đảm thực hiện trên thực tế các quyền con người, quyền công dân cho người nghèo và nhóm yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội để họ có điều kiện bình đẳng với các chủ thể khác trong tham gia đời sống xã hội và pháp luật. Nhà nước phải có trách nhiệm cung ứng các dịch vụ cơ bản, thiết yếu cho nhóm người này, đồng thời kiểm soát được chất lượng các dịch vụ này bảo đảm công bằng, bình đẳng với các đối tượng khác trong xã hội. 13
  20. Do đó, TGPL hình thành và phát triển nhằm góp phần thi hành dân chủ, giải phóng con người mọi áp bức, bất công, tôn trọng nhân quyền. Giải phóng con người khỏi mọi áp bức bất công, khơi dậy và phát huy tiềm năng con người, coi con người là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Đây là một chính sách góp phần bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của người nghèo, nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương không chỉ thực hiện trên thực tế quyền con người mà còn giúp họ thực hiện đầy đủ trên thực tế quyền và nghĩa vụ, giúp họ có điều kiện sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Bởi vì họ là nhóm đối tượng yếu thế, không có đủ năng lực, điều kiện nắm bắt, sử dụng pháp luật để thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình, vì thế, hơn ai hết, người nghèo, những đối tượng chính sách, đối tượng yếu thế khác trong xã hội phải được quan tâm, giúp đỡ. Có như vậy, mới phản ánh đúng đắn và đầy đủ bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, mới bảo đảm để tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, tạo lập công bằng, bình đẳng trên thực tế giữa các chủ thể. 1.1.3. Vị trí, vai trò TGPL trong triển khai Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quyền bào chữa, nguyên tắc tranh tụng và công cuộc cải cách tư pháp, cải cách hành chính Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi nhận: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” [33, Điều 31];“nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” [33, Điều 103] tức là phán quyết của Tòa án phải dựa trên kết quả tranh tụng, như vậy vai trò của người bào chữa trong phiên tòa ngày càng quan trọng, nếu không có người bào chữa tham gia thì không thể bảo đảm nguyên tắc tranh tụng và khó có phiên tòa công bằng. Như vậy, đội ngũ người bào chữa nói chung cần được tăng cường hơn nữa 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
11=>2