Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam
lượt xem 14
download
Mục tiêu nghiên cứu đề tài là cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về vai trò của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ khi giải quyết vụ việc dân sự, tác giả cũng phân tích các quy định của pháp luật nhằm hiểu rõ hơn các quy định đó.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Vai trò của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THÙY DƯƠNG VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT VŨ THÙY DƯƠNG VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số : 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Mạnh Thắng HÀ NỘI - 2020
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để cho tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn. NGƯỜI CAM ĐOAN Vũ Thùy Dương
- MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC 5 THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự 5 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư và nghề luật sư 5 1.1.2. Khái luận về tố tụng dân sự 11 1.1.3. Sự cần thiết tham gia và vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự 13 1.2. Khái luận về chứng cứ trong tố tụng dân sự 17 1.2.1. Khái niệm và các thuộc tính của chứng cứ 18 1.2.2. Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự 21 1.3. Thu thập chứng cứ và hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư 23 1.3.1. Khái luận về thu thập chứng cứ và vai trò của luật sư 23 1.3.2. Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư trong tố tụng dân sự 29 Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ VAI TRÒ 34 CỦA LUẬT SƯ TRONG THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 2.1. Tổng quan về vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng cứ 34 trong tố tụng dân sự 2.1.1. Các quy định chung về hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư 34 2.1.2. Hoạt động thu thập chứng cứ trước khi Tòa án thụ lý yêu cầu 36 2.1.3. Hoạt động thu thập chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử 42 2.1.4. Hoạt động thu thập chứng cứ tại tòa án 47
- 2.2. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về vai trò của luật 49 sư trong thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay 2.3. Những bất cập và nguyên nhân chủ yếu của pháp luật về vai 57 trò của luật sư trong tố tụng dân sự ở Việt Nam hiện nay Chương 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP 63 LUẬT VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VÀ VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN 3.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật 63 3.2. Kiến nghị tổ chức thực hiện 71 KẾT LUẬN 76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
- DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 2.1 Tổng hợp kinh phí Công ty TH đã bỏ ra khắc phục thiệt 56 hại do cơn bão số 1 năm 2016 gây ra
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu Trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, cải cách tư pháp luôn là vấn đề cấp thiết được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặc biệt là trong những giai đoạn gần đây, khi xu thế hội nhập kinh tế quốc tế càng đẩy mạnh thì cải cách tư pháp là nhu cầu khách quan để đáp ứng yêu cầu trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự đang ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp của từng loại vụ việc. Trong đó việc tăng cường vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng dân sự là điều hết sức cần thiết. Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, pháp luật tố tụng dân sự đã ghi nhận quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong quá trình tham gia tố tụng. Do vậy, việc thu thập chứng cứ là cơ sở để tòa án đưa ra kết luận khách quan và toàn diện về các tình tiết, sự kiện của vụ việc dân sự, căn cứ vào đó để có những bản án, quyết định đúng đắn phù hợp với thực tại khách quan. Ngày 25/11/2015, Bộ luật Tố tụng dân sự số 103/2015/QH13 (sau đây được gọi là Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015) được ban hành có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 với nhiều điểm mới cả về nội dung và hình thức đã khắc phục kịp thời những hạn chế còn tồn tại của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa đổi bổ sung năm 2011, đáp ứng tích cực yêu cầu cấp bách của công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập thế giới. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 với nội dung phong phú, bổ sung những quy định kịp thời, những điểm mới quan trọng thể hiện sự nhìn nhận, đánh giá khách quan, nắm bắt xu thế; trong đó vấn đề chứng cứ, nội dung về hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự và vai trò của luật sư là vấn đề được quan tâm sửa đổi với những điểm mới quan trọng giúp cho việc thu thập, sử dụng, đánh giá chứng cứ của các thẩm phán cũng như những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác, đặc biệt là vai trò của luật sư - một chức danh tư pháp giúp giải quyết 1
- đúng đắn, triệt để những vụ việc dân sự; góp phần đảm bảo và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; từ đó làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, đáp ứng lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước và pháp luật. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về các đương sự, tòa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ trong trường hợp đương sự không tự mình thu thập được tài liệu, chứng cứ và có đơn yêu cầu tòa án. Điều này đã giảm tải cho tòa án các công việc phải tiến hành khi giải quyết vụ việc dân sự, trả lại đúng bản chất dân sự và đảm bảo quyền định đoạt cho đương sự khi quy định nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về đương sự. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã cho thấy nhiều mặt hạn chế, khiến cho hoạt động thu thập chứng cứ của đương sự, luật sư không đạt được hiệu quả như mong muốn, cần thiết phải tiếp tục sửa đổi bổ sung cho phù hợp, kịp thời điều chỉnh các quan hệ xã hội. Đứng trước những yêu cầu cần thay đổi phù hợp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế hội nhập, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về chứng cứ, vai trò của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ, thực tiễn áp dụng các quy định để làm sáng tỏ về mặt khoa học và đưa ra những giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả trong áp dụng các quy định của pháp luật là rất cần thiết, không chỉ có ý nghĩa lý luận, thực tiễn mà còn có ý nghĩa pháp lý quan trọng. 2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu Mục đích: Mục tiêu nghiên cứu đề tài là cơ sở làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về 2
- vai trò của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ khi giải quyết vụ việc dân sự, tác giả cũng phân tích các quy định của pháp luật nhằm hiểu rõ hơn các quy định đó. Từ đó, tác giả nhận thức được vấn đề thu thập chứng cứ của đương sự, luật sư đồng thời chỉ ra những thiếu sót, những điểm chưa hợp lý của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn nhằm đề ra những kiến nghị và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự về hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư khi giải quyết vụ việc dân sự. Phạm vi nghiên cứu: Bài viết đi sâu nghiên cứu về hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư để giải quyết các vụ việc dân sự như: khái quát chung về chứng cứ, thu thập chứng cứ và các biện pháp luật sư áp dụng để thu thập chứng cứ và vai trò của luật sư trong thu thập chứng cứ, các văn bản pháp lý có liên quan đến tố tụng dân sự. Trên cơ sở đó đề ra giải pháp cơ bản nhằm làm hoàn thiện hơn hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài Để đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận văn phải giải quyết các vấn đề sau: Thứ nhất: Đưa ra các vấn đề lý luận về vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự. Thứ hai: Thực hiện vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự theo pháp luật Việt Nam hiện hành. Thứ ba: Đưa ra các giải pháp và kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự và tổ chức thực hiện. Luận văn nghiên cứu một cách hệ thống từ khái niệm, ý nghĩa, phạm vi, đối tượng, sự phát triển quy định về vai trò của luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự mang tính khái quát cao, không rườm rà nhưng vẫn làm bật lên bản chất, trọng tâm của vấn đề nghiên cứu. 3
- 4. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên quan điểm, quan niệm về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tôn trọng sự thật khách quan của sự vật hiện tượng, xem xét vấn đề một cách toàn diện; phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Sử dụng phương pháp nghiên cứu chuyên ngành, nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề dưới góc độ pháp luật như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh… Nhờ vậy, những vấn đề về chứng cứ, hoạt động thu thập chứng cứ và vai trò của Luật sư trong hoạt động thu thập chứng cứ được xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện, xác thực và có tính hệ thống. 5. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Nhận thức về vai trò của luật sư trong việc thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự. Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về vai trò của luật sư trong thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự. Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về vai trò của luật sư trong thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự. 4
- Chương 1 NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG VIỆC THU THẬP CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của luật sư và nghề luật sư 1.1.1.1. Khái niệm luật sư, nghề luật sư Ngày nay trong xu thế hội nhập và không ngừng phát triển, thuật ngữ luật sư đã trở nên quen thuộc, đội ngũ luật sư ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các quan hệ xã hội, khái niệm luật sư được các nhà nghiên cứu tiếp cận từ nhiều phương diện khác nhau. Khi nhắc đến luật sư thì có thể hiểu đó là một danh từ chỉ người, một chức danh tư pháp độc lập, hoạt động trong lĩnh vực pháp luật và cũng có thể hiểu luật sư là một nghề thuộc hệ thống ngành nghề quốc gia. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều quan niệm luật sư là một nghề và yêu cầu cần thiết đối với các luật sư là có kỹ năng hành nghề thành thục. Một luật sư cần thiết phải có nhiều kỹ năng như kỹ năng phán đoán, kỹ năng tư duy tổng quát, kỹ năng phân tích, kỹ năng tổng hợp, kỹ năng thuyết trình hùng biện, kỹ năng đặt câu hỏi hay kỹ năng đàm phán thương lượng. Hiện nay ở Việt Nam vẫn còn có những cách hiểu về khái niệm luật sư khác nhau, một số vẫn có sự nhầm lẫn giữa thuật ngữ "luật gia" và "luật sư". Nguyên nhân của hiện tượng này một mặt là do pháp luật nói chung và pháp luật về nghề luật sư nói riêng chưa được hoàn thiện, mặt khác do việc dịch các thuật ngữ có liên quan từ ngôn ngữ nước ngoài chưa được chính xác. Từ những giải thích của từ điển và qua các tài liệu pháp lý có thể hiểu luật gia là các chuyên gia pháp lý, am hiểu các kiến thức pháp luật và làm việc trong các lĩnh vực pháp lý. Ngoài ra có thể hiểu luật gia là tên gọi chung đại diện cho một tầng lớp trí thức am hiểu và hành nghề pháp luật nhưng không có tiêu chuẩn cụ thể. Họ có thể tốt nghiệp hoặc không tốt nghiệp các cấp độ đào tạo 5
- chính quy về luật nhưng sau một quá trình trau dồi, tích lũy kinh nghiệm họ đã đạt được sự am hiểu sâu sắc về một hay một số lĩnh vực pháp lý nhất định. Khác với "luật gia", luật sư phải là người có trình độ pháp luật theo tiêu chuẩn quy định và có kỹ năng hành nghề được cơ quan tổ chức có thẩm quyền công nhận hoặc cấp chứng chỉ hành nghề để hành nghề chuyên nghiệp, thực hiện cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Trong mối tương quan nhất định, luật sư là một chuyên gia pháp luật, nhưng các luật gia nói chung ngoài bộ phận luật sư còn có rất nhiều bộ phận khác như thẩm phán, kiểm sát viên, chuyên gia pháp chế, các giảng viên luật, các cử nhân luật, các chuyên viên tư vấn pháp luật… Luật sư ở Việt Nam đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài bắt đầu từ thời kỳ Pháp thuộc. Sau khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời đã có các quy định về luật sư và tổ chức đoàn thể luật sư. Pháp lệnh tổ chức Luật sư năm 1987 ra đời nhưng không đưa ra định nghĩa về luật sư mà chỉ quy định muốn làm luật sư thì phải có đủ các điều kiện theo quy định và gia nhập một Đoàn Luật sư. Đến Pháp lệnh Luật sư năm 2001 khái niệm luật sư mới được đặt ra, theo đó luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề luật sư: "Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của Pháp lệnh này và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác nhau theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật" [39, Điều 1]. Người muốn hành nghề luật sư phải gia nhập Đoàn Luật sư và có Chứng chỉ hành nghề Luật sư "Người muốn được hành nghề luật sư phải gia nhập một Đoàn luật sư và có Chứng chỉ hành nghề luật sư" [39, Điều 7]. Tuy nhiên quy định về tiêu chuẩn hành nghề luật sư trong Pháp lệnh Luật sư năm 2001 chủ yếu đưa ra cách hiểu thuật ngữ chứ không khái quát thành khái niệm. Đến Luật Luật sư năm 2006, khái niệm luật sư được hoàn thiện hơn, "Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ 6
- chức (sau đây gọi chung là khách hàng)" [20, Điều 2]. Quy định tiêu chuẩn luật sư là một điểm mới trong khái niệm luật sư của Luật Luật sư năm 2006, "Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề Luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề Luật sư, có sức khỏe bảo đảm hành nghề Luật sư thì có thể trở thành Luật sư" [20, Điều 10]. Những điều kiện này xuất phát từ tính chất đặc thù của nghề luật sư là một nghề đòi hỏi có trình độ hiểu biết pháp luật sâu rộng, kỹ năng nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức và sự tích lũy kinh nghiệm thông qua thực tế. Về điều kiện hành nghề luật sư, "Muốn hành nghề Luật sư phải có chứng chỉ hành nghề Luật sư và gia nhập một Đoàn Luật sư" [20, Điều 11]. Như vậy, có thể đưa ra khái niệm về luật sư như sau: luật sư là người có năng lực chuyên môn trong lĩnh vực pháp lý, có đạo đức nghề nghiệp, được cấp Chứng chỉ hành nghề Luật sư và Thẻ Luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý trong phạm vi yêu cầu của khách hàng theo quy định của pháp luật và quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Theo Luật sư Phan Trung Hoài, nghề luật sư được khái quát hóa và định nghĩa như sau: "Nghề luật sư là một nghề luật, trong đó các luật sư bằng kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động tư vấn pháp lý và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần tích cực bảo vệ pháp chế và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa" [9]. Với quan điểm này, tác giả cho rằng nghề với tính chất là một nghề nghiệp và luật sư là những người đủ điều kiện hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật về luật sư. Theo Từ điển tiếng Việt, nghề là "công việc chuyên làm theo sự phân công của xã hội" hoặc hiểu theo nghĩa thứ hai là "thành thạo trong một công việc nào đó". Tác giả quan niệm nghề luật sư là 7
- một nghề độc lập, tức là độc lập trong hành nghề, độc lập thực hiện các công việc và chỉ tuân theo pháp luật và quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Tính độc lập của luật sư trong hoạt động hành nghề không có nghĩa là tự tách hoạt động của mình ra khỏi khuôn khổ của các hoạt động tố tụng khác, tính độc lập đó cũng không thể đồng nghĩa với sự cô lập mà nó hòa quyện trong trật tự của một nền pháp chế thống nhất. Cũng có cách hiểu cho rằng nghề luật sư như một nghề tự do, tuy nhiên cách hiểu này sẽ không hoàn toàn phản ánh đầy đủ bản chất và đặc trưng của nghề nghiệp này. Luật sư hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật và cùng với việc được cấp chứng chỉ hành nghề, phải đăng ký hoạt động trong một tổ chức hành nghề luật sư nhất định và sinh hoạt trong một tổ chức xã hội nghề nghiệp nhất định nơi địa phương mình cư ngụ. Trong luật thực định của một số nước, luật sư được coi là một chủ thể độc lập trong hoạt động tư pháp, nhưng họ quan niệm tính chất của nghề nghiệp là tự do. Nói tới tính chất là nói tới thuộc tính cơ bản của một sự vật, trong trường hợp này, luật sư là chủ thể độc lập trong hoạt động tư pháp, là người áp dụng và truyền bá pháp luật của Nhà nước. Tính chất độc lập được coi là thuộc tính của nghề nghiệp luật sư, còn nói tới tự do là nói tới phương thức hành nghề tự do của luật sư, như có thời gian và không gian hoạt động tự do, có quyền tự do lựa chọn khách hàng, không bị những hạn chế, bó buộc. Theo Tiến sĩ Lê Mai Anh - Nguyên Phó Giám đốc Học viện Tư pháp, nghề luật sư được hiểu là: "Nghề luật sư là một trong số nghề luật trong đó tổ chức hành nghề và luật sư hành nghề cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng một cách độc lập và chuyên nghiệp" [1]. Với cách hiểu trên những từ khóa về nghề luật sư đã được nêu lên, giúp người đọc nắm được những nội dung cơ bản về nghề luật sư. Theo đó, nghề luật sư trước hết là một nghề luật, có sự tự do trong nghề nghiệp, sự tự do này là tự do trong phương thức hành nghề, cung cấp dịch vụ pháp lý cho 8
- khách hàng một cách độc lập; nghề luật sư cũng là một nghề thuộc một ngành dịch vụ nhưng là một ngành dịch vụ đặc biệt bởi đặc trưng của nó là ngành nghề "kinh doanh chất xám", giúp chống bất công xã hội, tạo niềm tin vào công lý, pháp luật. Luật sư bằng kiến thức pháp luật, kinh nghiệm tích lũy của mình cung cấp các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng và quy định của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.1.1.2. Đặc điểm của luật sư và nghề luật sư - Tiêu chuẩn luật sư Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng nghề nghiệp của cá nhân luật sư. Nói cách khác phẩm chất và năng lực cá nhân của luật sư là yếu tố quyết định trong nghề luật sư. Người muốn hành nghề luật sư phải được công nhận là luật sư. Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định về tiêu chuẩn để được công nhận luật sư và được cấp chứng chỉ hành nghề bao gồm: Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, Có phẩm chất đạo đức tốt, Có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, Có sức khỏe bảo đảm hành nghề luật sư. - Khóa đào tạo nghề luật sư Để nâng cao chất lượng của luật sư, đảm bảo năng lực pháp lý, ngoài tiêu chuẩn về bằng cử nhân luật còn phải qua một khóa đào tạo nghề luật sư. Thời gian của khóa đào tạo nghề luật sư theo quy định của các nước là không giống nhau. Singapore quy định thời gian đào tạo là 5 tháng, trong khi đó Pháp quy định thời gian của khóa đào tạo nghề luật sư là 12 tháng, còn Nhật quy định thời gian của khóa đào tạo là 18 tháng và Đức là 2 năm [38, tr. 11]. 9
- Theo quy định tại Điều 12 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 thời gian của khóa đào tạo nghề luật sư là mười hai tháng, tập trung chủ yếu vào việc đào tạo kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp luật sư, sau khi hoàn thành chương trình đào tạo nghề luật sư, cơ sở đào tạo nghề luật sư cấp Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư. Trong một số trường hợp theo quy định tại Điều 13 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 thì một số người được miễn đào tạo nghề luật sư: Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật; tiến sỹ luật; đã là thẩm tra viên cao cấp ngành Tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành Kiểm sát; chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật; Đã là thẩm tra viên chính ngành Tòa án, kiểm tra viên chính ngành Kiểm sát; chuyên viên chính, nghiên cứu viên chính, giảng viên chính trong lĩnh vực pháp luật. - Tập sự hành nghề luật sư Thời gian tập sự của các nước quy định khác nhau. Một số quốc gia đòi hỏi thời gian tập sự là 2 năm (như Hy Lạp, Bỉ, Italian, Anh…), một số quốc gia khác lại chỉ quy định thời gian tập sự là 12 tháng như Thái Lan và có nước như Singapore thì chỉ đòi hỏi thời gian tập sự là 6 tháng. Về nơi tập sự hành nghề của luật sư, hầu hết các nước đều có quy định luật sư phải tập sự tại văn phòng, công ty luật (Singapore, Thái Lan, Đức, Nhật bản…). Bên cạnh việc tập sự tại các hãng luật, một số nước còn quy định cho Luật sư có thể tập sự tại Tòa án, Viện công tố (như Đức, Thụy sĩ…) [38, tr. 11]. Điều 14 Luật Luật sư năm 2006 sửa đổi bổ sung năm 2012 quy định về tập sự hành nghề luật sư, theo đó sau khi được cấp Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư hoặc trong trường hợp được miễn đào tạo nghề luật sư được tập sự hành nghề tại tổ chức hành nghề luật sư thì thời gian tập sự hành nghề luật sư là 12 (mười hai) tháng được tính từ ngày đăng ký tập sự tại Đoàn luật sư. 10
- - Kỳ thi công nhận luật sư Kỳ thi công nhận luật sư tập trung vào kiểm tra về đạo đức nghề nghiệp và kỹ năng hành nghề của luật sư, đây là điều kiện bắt buộc để đánh giá khả năng hành nghề của một luật sư. Khi đã hoàn thành thời gian tập sự theo quy định, người tập sự hành nghề luật sư được tham dự kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư, khi đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư sẽ được Hội đồng kiểm tra cấp Giấy chứng nhận kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Sau đó, người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư có hồ sơ đề nghị cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư gửi Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư. - Hành nghề luật sư Sau khi có Chứng chỉ hành nghề luật sư, cấp Thẻ Luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư, luật sư có thể lựa chọn một hình thức hành nghề được pháp luật quy định. Trên thế giới hiện nay chủ yếu có hai hình thức tổ chức hành nghề luật sư là văn phòng luật sư và công ty luật hợp danh để đảm bảo tính chịu trách nhiệm vô hạn đối với hoạt động của nghề luật sư. Tại Việt Nam, hình thức công ty luật trách nhiệm hữu hạn vẫn được chấp nhận. Ngoài ra luật sư có thể làm thuê cho khách hàng không chuyên môn hay còn gọi là luật sư nội bộ, tức là người chủ thuê luật sư cũng đồng thời là khách hàng duy nhất của luật sư đó, luật sư không có khách hàng riêng nào khác. 1.1.2. Khái luận về tố tụng dân sự Tố tụng dân sự là trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, các vụ án dân sự tại tòa án; trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Hoạt động tố tụng dân sự được thực hiện bởi hai loại chủ thể khác nhau, đó là người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Nếu thiếu một trong hai loại chủ thể nêu trên thì sẽ không hình thành quan hệ tố tụng. Luật tố tụng dân sự Việt Nam là một ngành luật trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm hệ thống các 11
- quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án và những người tham gia tố tụng phát sinh trong tố tụng dân sự nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự một cách nhanh chóng, đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của Nhà nước. Đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự là những quan hệ nảy sinh giữa các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đó là các quan hệ giữa tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và các chủ thể khác như người làm chứng, người giám định, người phiên dịch… nảy sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự có đặc điểm chỉ phát sinh trong tố tụng, việc thực hiện mục đích của tố tụng là động lực thiết lập các quan hệ. Ngoài ra, ở các quan hệ thuộc đối tượng điều chỉnh của luật tố tụng dân sự không có sự bình đẳng giữa các chủ thể, địa vị pháp lý của các chủ thể trong tố tụng dân sự khác nhau. Trong đó, tòa án, cơ quan thi hành án là các chủ thể có vai trò quyết định đối với quá trình giải quyết vụ việc dân sự và tổ chức thi hành án dân sự. Phương pháp điều chỉnh của luật tố tụng dân sự: Luật tố tụng dân sự sử dụng hai phương pháp điều chỉnh là phương pháp mệnh lệnh và định đoạt. Phương pháp mệnh lệnh thể hiện trong mối quan hệ giữa tòa án, viện kiểm sát, cơ quan thi hành với các chủ thể khác; các quyết định của tòa án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án có giá trị bắt buộc các chủ thể tố tụng khác thực hiện nếu không sẽ bị cưỡng chế thực hiện. Phương pháp định đoạt thể hiện ở chỗ các đương sự được tự quyết định việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước tòa án. Khi quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp các đương sự tự quyết định việc khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự, các đương sự vẫn có thể thương lượng, dàn xếp, thỏa thuận giải quyết 12
- những vấn đề tranh chấp, rút yêu cầu, rút đơn khởi kiện, tự thi hành án hay không yêu cầu thi hành án nữa. 1.1.3. Sự cần thiết tham gia và vai trò của luật sư trong tố tụng dân sự Luật sư và nghề luật sư đã ra đời và phát triển từ rất lâu khoảng thế kỷ XII tại Đức, Pháp, tuy nhiên ở những nước mà mối quan hệ giữa con người với con người bị chi phối, ảnh hưởng nhiều bởi tâm linh thì nghề luật sư chậm phát triển hơn. Ví dụ như ở các nước Hồi giáo nghề luật sư ít phát triển, thậm chí không có nghề luật sư bởi người Hồi giáo phục tùng ý chí của đấng Allah, người duy nhất có quyền phán xử điều đúng, sai. Đạo Hồi chính là những lời răn dạy, những giáo lý về đạo đức cũng như những quy tắc của cuộc sống mà con người phải theo. Nghề luật sư được coi trọng và phát triển tại các nước dân chủ, phát triển. Để đảm bảo công lý các bên khi tham gia tố tụng đều có sự giúp đỡ từ phía những nhà chuyên nghiệp là luật sư, thậm chí, yêu cầu có luật sư còn là điều kiện tiên quyết khi các bên tham gia tố tụng. Theo quan điểm của luật sư phương Tây thì luật sư khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho khách hàng, cho cá nhân, phải đặt quyền lợi của cá nhân cao hơn hoặc bằng quyền lợi của cộng đồng xã hội. Nhiệm vụ của luật sư là góp phần bảo vệ pháp quyền bằng việc hướng dẫn cho khách hàng hiểu đúng quy định và tinh thần của pháp luật, thi hành, phục vụ công lý, bảo vệ những quyền và lợi ích của công dân đã được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư với tư cách là người có kiến thức sâu rộng về pháp luật có chức năng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, tham gia tích cực trong việc bảo vệ pháp quyền là phương tiện hữu hiệu bảo đảm tốt nhất cho quyền và lợi ích của các cá nhân, tổ chức mà chủ yếu được diễn ra thông qua hai hình thức cơ bản là tư vấn pháp luật và tranh tụng tại tòa… Đối với công dân, luật sư giúp công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, nâng cao dân trí và nhận 13
- thức pháp luật. Đối với các tổ chức kinh tế, luật sư đóng vai trò cố vấn pháp luật, chỉ ra môi trường pháp luật an toàn cho các hoạt động kinh doanh, đầu tư và giải quyết tranh chấp khi luật sư bằng kinh nghiệm, kiến thức, uy tín của mình tham gia vào quá trình tố tụng, góp phần hỗ trợ cho hoạt động tài phán được khách quan toàn diện và bảo đảm nguyên tắc công bằng. Nghề luật sư là nghề luật tiêu biểu nhất, nghề luật sư thể hiện đầy đủ nhất những đặc trưng của nghề luật. Ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên môn thì yêu cầu về việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề nghiệp, đây là nét đặc thù riêng của nghề luật sư có tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề nhất là kỹ năng tranh tụng của luật sư. Xét về tính chất, có thể hiểu nghề luật sư có ba tính chất cơ bản như sau: Thứ nhất, tính chất trợ giúp: Luật sư hỗ trợ tối đa để khách hàng đưa ra yêu cầu và thực hiện tốt nhất các yêu cầu của khách hàng. Với vai trò đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng, luật sư giúp đỡ, bênh vực cho những người mà quyền và lợi ích hợp pháp này bị xâm phạm. Do đó, tính chất trợ giúp thể hiện hoạt động của nghề luật sư không chỉ là trách nhiệm, là việc thực hiện dịch vụ pháp lý mà còn thể hiện tư cách đạo đức của luật sư. Thứ hai, tính chất hướng dẫn: luật sư còn đóng vai trò là người hướng dẫn cho khách hàng tuân thủ quy trình, nội dung và cách giải quyết vấn đề pháp lý của khách hàng. Bên cạnh đó luật sư giúp khách hàng hiểu đúng tinh thần và nội dung những quy định của pháp luật cũng như tục lệ và bản sắc văn hóa của dân tộc; biết cách tìm kiếm, thu thập và sử dụng chứng cứ để trước hết tự mình thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước pháp luật. Thứ ba, tính chất phản biện: tính chất phản biện trong hoạt động của luật sư là dựa trên sự hiểu biết sâu rộng về pháp lý và đạo lý để đưa ra những biện luận nhằm phản bác lại lý lẽ, ý kiến quan điểm của người khác. Luật sư giúp khách hàng nhìn nhận vấn đề theo nhiều góc độ để bảo vệ công lý và lợi 14
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 211 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn