Luận văn thạc sĩ Luật học: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay
lượt xem 22
download
Đề tài có mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay, trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn thạc sĩ Luật học: Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ HƯƠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH HÀ NỘI - NĂM 2016
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ … HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA NGUYỄN THỊ HƯƠNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH Ở TỈNH VĨNH PHÚC HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính Mã số: 60.38.01.02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS-TS VŨ TRỌNG HÁCH HÀ NỘI - NĂM 2016
- MẪU 1 TRANG BÌA CHÍNH MẪU 2 TRANG PHỤ BÌA CHÍNH
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong khoa học pháp lý, vấn đề vi phạm pháp luật có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng phong phú. Việc nghiên cứu thấu đáo vấn đề vi phạm pháp luật sẽ giúp nâng cao nhận thức, ý thức pháp luật, góp phần kiểm soát xã hội tốt, phát hiện nhanh, nhận diện đúng bản chất và xử lý chính xác các vi phạm pháp luật, tìm ra phương cách hữu hiệu điều chỉnh xã hội và định hướng việc thực thi pháp luật đạt hiệu quả. Ba mươi năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đổi mới mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp cách mạng to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Nhìn tổng thể, qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng còn nhiều vấn đề lớn, khó khăn, phức tạp cần phải tập trung giải quyết, khắc phục. Một trong những khó khăn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của xã hội là tình trạng vi phạm pháp luật hiện nay đặc biệt trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình (BLGĐ) đang ngày một gia tăng, làm ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của xã hội. Ngày nay, bạo lực gia đình là vấn đề mang tính toàn cầu, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả cho con người. BLGĐ đang trở thành vấn đề phổ biến, là biểu hiện của các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ, giữa người lớn và trẻ em trên toàn thế giới, là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới danh dự, nhân phẩm, sức khỏe, tính mạng của con người, làm suy giảm chất lượng cuộc sống nói chung. BLGĐ đã và đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng trong xã hội, là lực cản trên con đường xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại. Vì vậy, trong nhiều năm qua, sự gia tăng và mức độ nghiêm trọng của BLGĐ là mối quan tâm của nhiều quốc gia và các tổ chức quốc tế, đặc biệt, tổ chức Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về các quyền dân sự và chính trị; Công ước về quyền trẻ em; Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ (CEDAW)… đã thể hiện sự quan tâm chung của cả cộng đồng quốc tế trong 1
- vấn đề bình đẳng giới và phòng, chống BLGĐ. Bước sang thế kỷ XXI, bạo lực gia đình không giảm mà vẫn tiếp tục lan rộng, trở thành vấn đề nghiêm trọng và phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Bạo lực gia đình đang trở thành vấn đề phổ biến có quy mô của một đại dịch và là một biểu hiện của các mối quan hệ bất bình đẳng giữa nam và nữ trên toàn thế giới. Bạo lực gia đình đã và đang là một trở ngại lớn đối với sự bình đẳng, là sự vi phạm thô bạo các quyền con người. Chính tính nguy hiểm và tác hại của bạo lực gia đình mà vấn đề bạo lực gia đình tại Việt Nam đã được Luật hoá, được đặt dưới sự kiểm soát của pháp luật. Bạo lực gia đình là vi phạm pháp luật. Ở nước ta, thúc đẩy bình đẳng giới, tôn trọng và bảo đảm quyền con người chống lại mọi hành vi bạo lực là quan điểm nhất quán của nhà nước Việt Nam. Việt Nam đã phê chuẩn và tham gia nhiều công ước liên liên quan đến phòng, chống bao lực, cụ thể như phê chuẩn Công ước CEDAW vào ngày 17/12/1982, phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em….Vấn đề phòng, chống BLGĐ cũng được thể hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật, theo đó đều coi BLGĐ là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người, cụ thể như: Luật Hôn nhân và gia đình; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Bộ luật Dân sự; Bộ luật Tố tụng dân sự; Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật Bình đẳng giới; đặc biệt là Luật Phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 21/11/2007, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008. Những văn bản pháp luật nêu trên và các văn bản hướng dẫn thi hành là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tổ chức thực hiện pháp luật và xử lý các hành vi BLGĐ. Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình đã để lại nhiều hậu quả xấu cho xã hội, trước hết là vi phạm đến quyền con người, danh dự, nhân phẩm và tính mạng của mỗi cá nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn làm xói mòn đạo đức, mất tính dân chủ xã hội và ảnh hưởng xấu đến thế hệ tương lai. Kết quả nghiên cứu cho thấy ở nhiều gia đình, thế hệ con đã lặp lại hành vi bạo lực gia đình mà khi còn nhỏ chúng đã được chứng kiến. Bạo lực gia đình đang là nguy cơ gây tan vỡ và suy giảm sự bền vững của gia đình Việt nam. Ngoài hậu quả về xã hội, đạo đức và sự bền vững gia đình, vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình còn gây ra những hậu quả về kinh tế như chi phí chăm sóc và phục hồi sức khoẻ nạn nhân, chi phí điều tra, truy tố, xét xử cùng nhiều chi phí gián tiếp khác liên quan đến tình trạng bệnh tật, mất khả năng tham gia lao động sản xuất của nạn nhân. 2
- Nhiều vụ án thương tâm liên quan đến bạo lực gia đình đã xảy ra và số lượng tăng lên từng ngày, gây hậu qủa nhức nhối cho xã hội và đặt ra cho xã hội một lời giải đáp cần phải làm gì trước thực trạng vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình. Điều này đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách, pháp luật và các nhà thực thi pháp luật cùng các cơ quan có thẩm quyền cần có một cơ chế và biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mọi người, giúp họ thoát khỏi bạo lực đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các chủ thể vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình, tạo ổn định và phát triển cho xã hội. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp giúp phòng, chống bạo lực gia đình, loại bỏ vi phạm pháp luật về bạo lực gia đình trong xã hội, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đề tài "Vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay" đã được tác giả lựa chọn làm đề tại luận văn thạc sỹ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mới mẻ, mà là hiện tượng xã hội có tính lịch sử và tương đối phổ biến trên thế giới. Bạo lực gia đình là vấn đề thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả trong và ngoài nước. Một số công trình nghiên cứu được công bố về vấn đề này, cụ thể như: “Luật Phòng, chống bạo lực gia đình của một số nước trên thế giới” do Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội XI biên soạn; “Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc phòng chống bạo lực gia đình” của Nguyễn Thị Ngọc Bích, Đại học Luật Hà Nội; “Tìm hiểu và thực hiện Luật Phòng, chống bạo lực gia đình” của Phạm Văn Dũng, Nguyễn Đình Thơ;“Bàn về ranh giới giữa xử lý hình sự và xử lý hành chính các hành vi bạo lực gia đình ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Lan Chi, Viện Nhà nước và Pháp luật; “Phòng chống BLGĐ đối với phụ nữ ở nước ta hiện nay - Thực trạng vấn đề và giải pháp” của Viện nghiên cứu Quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia HCM 2008; “Nhận thức và thái độ của cộng đồng đối với BLGĐ- đề xuất giải pháp” của TS. Nguyễn Thế Hùng, Phó chủ nhiệm Ủy ban Dân số - Gia đình- Trẻ em Hà Nội và PGS.TS. Nguyễn Trí Dũng, Phó Viện Trưởng Viện Xã hội học và Tâm lý lãnh đạo, quản lý Học viện Chính trị Quốc gia HCM; “Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình” của tác giả Nguyễn Ngọc Điện; “Pháp luật quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình đối với phụ nữ” của tác giả Trần Thị Hòe; “Tính hợp lý, khả thi của một số biện pháp xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia đình” của tác giả Phan Thị Lan Hương; “Bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em - thực trạng và nguyên nhân” của Ngô Thị Hường, Đại học Luật Hà Nội;“Tổng quan về bạo lực và 3
- pháp luật phòng, chống bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em” của Nguyễn Thị Kim Phụng…. Ngoài ra, còn nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các Luận văn, đề tài đã được nghiệm thu liên quan đến vấn đề BLGĐ. Nhìn chung, các công trình nêu trên đã phân tích, đánh giá vấn đề BLGĐ dưới nhiều góc độ khác nhau, Tuy nhiên nghiên cứu một cách có hệ thống vấn đề phòng, chống bạo lực gia đình dưới góc độ pháp lý - vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc đến nay hầu như chưa có. Trong khi đó, tình trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình diễn ra ngày càng nhiều với tính chất và mức độ nguy hiểm ngày càng tăng, ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Vì vậy, đề tài nghiên cứu này không có sự trùng lắp với những công trình nghiên cứu đã được công bố, các kết quả nghiên cứu trước đó chỉ có giá trị tham khảo khi tác giả nghiên cứu đề tài này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích Đề tài có mục đích nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay, trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận văn đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phòng chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc. 3.2. Nhiệm vụ Để đảm bảo mục đích nêu trên trên, luận văn xác định các nhiệm vụ chính sau: - Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật và vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình. Trên cơ sở lý luận về vi phạm pháp luật, các yêu cầu của hành vi hợp pháp trong việc phòng, chống bạo lực gia đình, luận văn có nhiệm vụ chỉ ra được các đặc điểm của vi phạm pháp luật trong phòng, chống bạo lực gia đình; nội dung vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình ở Vĩnh Phúc hiện nay. - Nghiên cứu đánh giá thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình trên cơ sở phân tích và đánh giá tình hình vi phạm pháp luật, làm rõ các hành vi vi phạm pháp luật cơ bản trong phòng, chống bạo lực gia đình trong những năm qua để có một bức tranh về thực trạng vi phạm pháp luật một cách cơ bản nhất trong phòng, chống bạo lực gia đình. Từ đó, phân tích các nguyên nhân khách quan và chủ quan của thực trạng trên làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp khắc phục vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. 4
- - Nghiên cứu đưa ra các giải pháp hợp lý, toàn diện, khả thi trong phòng, chống vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình góp phần hạn chế tiến tới đẩy lùi hiện tượng vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong xã hội. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu như đã trình bày ở trên, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu là các hành vi trái pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình, việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý trên cơ sở lý luận chung về Nhà nước, pháp luật và pháp luật thực định. 4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình trong phạm vi tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2008 đến nay. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng và Nhà nước, pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở những phương pháp nghiên cứu cụ thể: thống kê, tổng hợp, diễn giải, phân tích, so sánh để phân tích và làm rõ các vấn đề khoa học cần nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu - Về mặt lý luận, những vấn đề được nghiên cứu trong luận văn góp phần làm phong phú thêm những vấn đề lý luận về pháp luật phòng chống BLGĐ, đóng góp vào việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống BLGĐ ở nước ta hiện nay. - Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thay đổi phần nào nhận thức của người dân về vấn đề BLGĐ, bên cạnh đó, những giải pháp được đề xuất vận dụng vào thực tiễn sẽ nâng cao hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống BLGĐ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc và có thể là kinh nghiệm thực tiễn để tham khảo, áp dụng cho những địa phương khác trên cả nước, đồng thời luận văn cũng là tài liệu tham khảo cho những người quan tâm nghiên cứu về những vấn đề vi phạm pháp luật phòng, chống BLGĐ. 5
- 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Chương 2: Thực trạng vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2009 đến nay. Chương 3: Phương hướng và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình ở tỉnh Vĩnh Phúc. 6
- Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH 1.1. Pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình 1.1.1. Khái niệm về bạo lực gia đình Bạo lực gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007 quy định bạo lực gia đình là "Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên khác trong gia đình" [29, tr.1]. Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức thu nhỏ của xã hội nên bạo lực gia đình có thể coi là hình thức thu nhỏ của bạo lực xã hội với nhiều dạng thức khác nhau. Xét về hình thức, có thể chia bạo lực gia đình thành các hình thức chủ yếu sau: - Bạo lực về thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên gia đình, làm tổn thương tới sức khỏe, tính mạng của họ. - Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn thương tới danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình - Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về kinh tế của thành viên gia đình (quyền sở hữu tài sản, quyền tự do lao động…) - Bạo lực về tình dục: là bất kỳ hành vi nào mang tính chất cưỡng ép trong các quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép sinh con. Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi khác nhau. Hiểu một cách thông dụng thì bạo lực gia đình là một thuật ngữ dùng để chỉ các hành vi bạo lực giữa các thành viên trong cùng một gia đình. Đây là hiện tượng một hay nhiều thành viên dùng quyền lực và bạo lực trong cả một quá trình để thực hiện hành vi làm cho người khác đau đớn về thể xác, bị khủng hoàng về tinh thần và bị bế tắc về mặt xã hội nhằm khuất phục, khống 7
- chế và kiểm soát người đó. Bạo lực gia đình xảy ra ở mọi quốc gia, nền văn hóa, tôn giáo không ngoại lệ giàu nghèo và trình độ học vấn cao hay thấp. Như vậy, dù được định nghĩa với nhiều cách khác nhau nhưng khi xem xét bạo lực gia đình, ta có thể thấy các đặc điểm: + Thứ nhất, bạo lực gia đình là hành vi bạo lực xảy ra giữa các thành viên trong gia đình tức là chủ thể có hành vi bạo lực gia đình (người gây ra bạo lực gia đình) phải là thành viên trong gia đình và nạn nhân của bạo lực gia đình là một trong những thành viên còn lại của gia đình đó. + Thứ hai, bạo lực gia đình được thực hiện bởi lỗi cố ý chứ không thể là lỗi vô ý. + Thứ ba, bạo lực gia đình là hành vi gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình. Bạo lực gia đình đang là vấn đề được dư luận xã hội quan tâm sâu sắc. Bạo lực gia đình không phải là vấn đề mang tính địa phương, vùng miền mà là một vấn đề toàn cầu, ở đâu cũng có, từ các nước nghèo, nước đang phát triển cho đến nước giàu có, phát triển mạnh về kinh tế và xã hội. Mọi gia đình thuộc mọi tầng lớp của xã hội đều có thể gặp phải tệ nạn này. Đối tượng của các hành vi bạo lực gia đình có thể là bất kỳ ai trong đó có cả nam giới nhưng thường là những thành viên yếu đuối, dễ bị tổn thương và trong hầu hết các trường hợp là phụ nữ, người già và trẻ em. Bạo lực gia đình đều ảnh hưởng lâu dài đến sức khoẻ, tâm lý, tình cảm của mỗi cá nhân. Đặc biệt đối với trẻ em, bạo lực còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự hình thành nhân cách, hạn chế những cơ hội để trẻ em có một cuộc sống bình thường và nhất là tương lai của các em sau này. 1.1.2. Phòng, chống bạo lực gia đình a) Khái niệm phòng bạo lực gia đình Phòng bạo lực gia đình nhằm mục đích tìm ra được những biện pháp tác động và quy luật phát sinh, tồn tại và phát triển của bạo bực gia đình, đồng thời khắc phục được nguyên nhân và điều kiện xuất hiện bạo lực gia đình. 8
- Phòng bạo lực gia đình và sự cần thiết của phòng bạo lực gia đình là để bảo vệ, duy trì trật sự và công bằng xã hội, góp phần bảo vệ các lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội. Bạo lực gia đình phát sinh, tồn tại là do những nguyên nhân và điều kiện khác nhau, song chúng ta hoàn toàn có khả năng tiến hành phòng ngừa và ngăn chặn hàng vi bạo lực gia đình khi nó chưa xảy ra. Trong ngành tư pháp: Xét xử là tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn. Quan điểm này thể hiện phương châm rất quan trọng là lấy giáo dục, phòng ngừa là chính, phòng ngừa tốt cũng chính là chống bạo lực gia đình tốt. Yêu cầu là phải phòng bạo lực gia đình ngay từ lúc đầu, làm cho bạo lực gia đình ít xảy ra hơn và tiến tới không xảy ra bạo lực gia đình hay xử lý bạo lực gia đình chỉ là hãn hữu, là việc làm bất đắc dĩ. Do đó, phòng bạo lực gia đình cần lấy việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là quan trọng, hàng đầu. Thực hiện tư tưởng phòng ngừa này thì phòng bạo lực gia đình được coi là nhiệm vụ chung của các cấp, các ngành và toàn xã hội. b) Khái niệm chống bạo lực gia đình Khi bạo lực gia đình đã tiến triển lên mức độ trầm trọng hơn, tần suất cũng như cường độ mạnh hơn, hoặc ở vào tình thế nguy hiểm thì nạn nhân thường nhờ cậy các tổ chức đoàn thể, chính quyền, công an, với huy vọng là các tổ chức này gây áp lực và có biện pháp hữu hiệu cũng như mong muốn chống lại bạo lực gia đình. Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa giải phù hợp với truyền thống văn hóa, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình thường mang tính khép kín, với các thành viên gia đình cũng như những người xung quanh, việc trong gia đình thì người ngoài ít có cơ hội xen vào. Vì thế, những vụ việc bạo hành gia đình thường khó phát hiện, khi bị phát hiện cũng khó xử lý bởi tâm lý e ngại 9
- của nạn nhân và cả những người biết chuyện, và thậm chí nếu xử lý rồi thì khả năng tái diễn cũng rất cao vì để tìm ra biện pháp ngăn chặn phù hợp là không dễ. Các quy định pháp luật khó vươn tới từng gia đình, bởi nhận thức của người dân về vấn đề này còn hạn chế, sự can thiệp giữa các thành viên gia đình. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa giải trong vấn đề này là rất quan trọng, góp phần định hướng hành vi của mỗi người, nạn nhân được trang bị kiến thức để tự bảo vệ; người có thể có hành vi bạo lực thì nhận thức được tính chất, hậu quả của hành vi để tự kiềm chế tốt hơn; những người xung quanh biết được trách nhiệm tham gia phòng chống bạo lực gia đình và có ứng xử phù hợp. Pháp luật luôn hướng tới việc ngăn chặn các hành vi phạm tội trước khi xảy ra để giữ gìn trật tự, tránh những tổn thất cho cộng đồng và xã hội. Riêng trong lĩnh vực chống bạo lực gia đình thì việc phòng ngừa càng có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì hành vi bạo lực nếu xảy ra thì ít nhiều đã gây ra những tổn thương nhất định cho các thành viên trong gia đình, làn xấu đi mối liên kết và tình cảm gia đình, và việc hàn gắn là không dễ; nếu hành vi bị phát hiện và xử ký theo pháp luật thì quan hệ gia đình có thể sẽ chuyển biến xấu hơn nữa. Vì vậy, cần phải lấy phòng ngừa là chính trong hoạt động chống bạo lực gia đình. Bên cạnh đó, hành vi bạo lực càng kéo dài thì càng gây ra nhiều tổn thương cho nạn nhân, tổn hại tới mối quan hệ gia đình. Điều này sẽ được hạn chế rất nhiều nếu hành vi bị phát hiện và xử lý kịp thời. Do đó, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong chống bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình từ lâu đã không còn là vấn đề của mỗi gia đình mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định xã hội, do đó việc chống bạo lực gia đình là trách nhiệm chung của cộng đồng chứ không chỉ là của nhà nước và những người có liên quan. Việc chống bạo lực gia đình vốn gặp nhiều khó khăn khi triển khai trên thực tế, do không có nhiều chủ thể tích cực tham gia công tác này vì nhận thức không đúng tầm quan trọng, ý nghĩa của nó. Điều 10
- đó một lần nữa khẳng định tầm quan trọng cũng như sự cần thiết của việc phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng động, cơ quan, tổ chức trong việc phòng chống bạo lực gia đình. c) Khái niệm phòng, chống bạo lực gia đình Phòng chống bạo lực gia đình là hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, cá nhân và gia đình trong việc phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi bạo lực gia đình; xử lý các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình. Công tác phòng, chống bạo lực gia đình của nước ta hiện nay chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều yếu tố trong đó yếu tố về nhận thức, kinh tế và pháp luật là cơ bản nhất. - Yếu tố nhận thức: Ảnh hưởng của nền văn hóa phong kiến với những quan niệm mang đậm màu sắc định kiến giới nằm ngay trong truyền thống văn hóa, phong tục tập quán, chuẩn mực đạo đức với tư tưởng trọng nam khinh nữ, chồng chúa vợ tôi. Suy nghĩ sai lầm đó đã củng cố niềm tin rằng đàn ông có quyền dạy dỗ vợ của họ thông qua các hành động có tính bạo lực. Họ cũng tự cho mình có vai trò trụ cột gia đình, có quyền định đoạt mọi việc, có thể mắng chửi vợ con một vài câu là bình thường, nhiều bậc cha mẹ tự cho mình quyền được mắng chửi con cái. Họ luôn có tư tưởng cam chịu, vì sợ vạch áo cho người xem lưng, hay sợ hàng xóm, bạn bè chê cười. - Yếu tố về kinh tế: Khó khăn về kinh tế là một trong những nguyên nhân có thể dẫn tới bạo lực gia đình. Khó khăn về kinh tế thường tạo ra các áp lực, căng thẳng, bế tắc đối với các thành viên gia đình. Do khó khăn về kinh tế nên các cặp vợ chồng rất dễ xung đột, cãi cọ người này đổ lỗi cho người khác làm nảy sinh bạo lực. Những bất hòa nhỏ thường ngày trở nên càng nghiêm trọng trong bối cảnh kinh tế khó khăn làm cho con người không còn bình tĩnh để ứng xử một cách khôn ngoan và dễ dẫn đến bạo lực gia đình. - Yếu tố luật pháp: Sự thiếu hiểu biết pháp luật của người bị bạo lực làm cho họ không tự bảo vệ được chính bản thân mình, không đấu tranh vì lẽ phải. Mặt khác, việc thực thi pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình trong 11
- thực tiễn chưa nghiêm, chưa hiệu quả, chưa đủ mạnh, chưa đủ răn đe đối với những người có hành vi bạo lực gia đình. Ảnh hưởng của yếu tố nhận thức, kinh tế và pháp luật dẫn đến việc phòng, chống bạo lực gia đình trong thực tế hiện nay hầu như chưa có hiệu quả. Do đó, cơ quan quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình cần quan tâm và chú trọng đến những yếu tố trên trong quá trình xây dựng và thực thi văn bản pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. 1.1.3. Nội dung của pháp luật phòng chống bạo lực gia đình Trong hệ thống pháp luật về phòng chống bạo lực gia đình, Hiến pháp là văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất. Điều 26 Hiến pháp năm 2013 quy định “Nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới”. Điều 20 “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Điều 36 “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau” [26]. Cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp; nội dung phòng, chống bạo lực gia đình được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác. Tiêu biểu là những quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 là một trong những văn bản đó. Bộ luật Hình sự là căn cứ để xác định hành vi bạo lực gia đình nào là hành vi phạm tội. Điều 130, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ: "người nào dùng vũ lực hoặc có hành vi nghiêm trọng khác cản trở phụ nữ tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, xã hội, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến một năm" [27]. Ngoài ra, Bộ luật hình sự Việt Nam đã hình sự hoá nhiều hành vi bạo lực gia đình, quy định thành nhiều tội phạm liên quan đến bạo lực gia đình. Tuy nhiên, những điều luật đó mới chỉ quy 12
- định gián tiếp về hành vi bạo lực gia đình, chưa có nhiều quy định trực tiếp về phòng, chống bạo lực gia đình. Cùng với Bộ luật Hình sự, Luật Tổ chức Chính phủ cũng quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ: "Chỉ đạo và tổ chức thực hiện chính sách xây dựng gia đình Việt Nam bình đẳng, ấm no, hạnh phúc; bảo đảm quyền bình đẳng nam, nữ về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình; bảo vệ, chăm sóc sức khỏe người mẹ và trẻ em; có biện pháp ngăn ngừa và chống mọi hành vi bạo lực, xúc phạm nhân phẩm đối với phụ nữ và trẻ em". [31]. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 là một trong những văn bản pháp luật quan trọng trong việc xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam còn là phương tiện hữu hiệu trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Luật đã có nhiều điều khoản quy định trực tiếp và gián tiếp đến việc phòng, chống bạo lực gia đình. Tại khoản 2, điều 5, Luật Hôn nhân và gia đình quy định: Cấm Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo; Cấm Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn; cấm người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ; cấm kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng; cấm yêu sách của cải trong kết hôn; cấm cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn; cấm thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính; Bạo lực gia đình; Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và 13
- gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi [30]. Như vậy, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 cũng như các văn bản pháp luật kể trên đã có nhiều quy phạm pháp luật nhằm phòng, chống bạo lực gia đình. Tuy nhiên, xét một cách tổng quát, những quy định đó vẫn còn sơ sài, tản mạn ở nhiều văn bản khác nhau, thiếu tính cụ thể và chưa có những quy định pháp lý đặc thù. Để khắc phục những hạn chế của hệ thống pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình đồng thời nhằm đạt được hiệu quả cao hơn nữa trong việc phòng, chống bạo lực gia đình, hạn chế tiến tới đẩy lùi bạo lực gia đình, tạo nên một cuộc cách mạng thực sự trong phòng, chống bạo lực gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã được Quốc hội khoá XII nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua ngày 21 tháng 11 năm 2007 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2008. Luật phòng, chống bạo lực gia đình gồm 6 chương và 46 điều. Đây là văn bản pháp lý đầu tiên quy định một cách trực tiếp, cụ thể về hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 đã điều chỉnh một cách có hệ thống các hành vi bạo lực gia đình để trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình. Luật phòng, chống bạo lực gia đình quy định về phạm vi điều chỉnh; định nghĩa về bạo lực gia đình, xác định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình; nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình; nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình; quyền và nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình; chính sách của Nhà nước, hợp tác quốc tế về phòng, chống bạo lực gia đình và những hành vi bị nghiêm cấm. Về phạm vi điều chỉnh được quy định tại điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình: "Luật này quy định về phòng ngừa bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình; trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình và xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình". Như vậy phạm vi điều chỉnh của Luật khá rộng. Luật điều chỉnh nhiều vấn đề, quy định về tất cả hành vi bạo lực của các 14
- thành viên trong gia đình kể cả đối với gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng, các phương thức phòng, chống bạo lực gia đình, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân bạo lực gia đình đồng thời xác định trách nhiệm của toàn xã hội đối với vấn đề này và quy định về xử lý vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Lần đầu tiên, bạo lực gia đình được quy định trong văn bản pháp luật Việt Nam. Theo đó, hành vi bạo lực gia đình trước hết phải là hành vi cố ý chứ không thể là hành vi vô ý. Thứ hai, người thực hiện hành vi bạo lực chính là một trong những thành viên trong gia đình (các chủ thể ngoài gia đình bị loại trừ). Thứ ba, hành vi bạo lực gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình ngoài việc định nghĩa về bạo lực gia đình còn quy định cụ thể các hành vi bạo lực gia đình: Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc có hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng; Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm; Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng; Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau; Cưỡng ép quan hệ tình dục; Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên trong gia đình; Cưỡng ép thành viên trong gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ thuộc về tài chính; Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở. [29]. Các hành vi bạo lực trên cũng được áp dụng đối với thành viên gia đình của vợ, chồng đã ly hôn hoặc nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng. Khi chủ thể là thành viên trong gia đình mà có những hành vi trên đối với một trong những thành viên trong gia đình thì bị coi là 15
- hành vi bạo lực gia đình đồng thời là hành vi vi phạm pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan thực thi pháp luật, các cá nhân cũng như toàn xã hội nhận thức và xác định và hiểu rõ hơn về các hành vi bạo lực gia đình, khắc phục được tình trạng chưa có và chưa hiểu rõ quy định về hành vi bạo lực gia đình, tránh được quan niệm của một số người, bạo lực gia đình là chồng đánh vợ hoặc vợ đánh chồng, có nghĩa là phải có "đánh đập", còn "chửi mắng, lăng mạ, cô lập, xua đuổi, hay cưỡng ép..." thì không phải là hành vi bạo lực gia đình hay một số người thì cho rằng hành vi đánh vợ hay chồng là chuyện bình thường xảy ra trong cuộc sống, vì vậy, không phải là hành vi bạo lực gia đình và như vậy, không phải là vi phạm pháp luật. Cũng như các đạo luật khác, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình Việt Nam cũng quy định "nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia đình" điều 3, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 1. Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. 2. Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật. 3. Nạn nhân bạo lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ. 4. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình [29]. Như vậy, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã đưa ra các nguyên tắc rất cơ bản trong phòng, chống bạo lực gia đình. Bạo lực gia đình đang là một căn bệnh nguy hiểm trong xã hội, là vấn đề toàn cầu, gây ảnh hưởng đến tính mạng, danh dự, sức khỏe, nhân phẩm của người phụ nữ trong gia đình. Do vậy, để ngăn chặn đẩy lùi bạo lực gia đình thì nguyên tắc phòng ngừa là chính được đặt lên hàng đầu; hành vi bạo lực gia đình phải nhanh chóng được phát hiện để bảo vệ, giúp đỡ nạn nhân đồng thời xử lý nghiêm minh đối với người 16
- có hành vi bạo hành; mỗi cá nhân và cả xã hội phải có trách nhiệm trong việc phòng, chống bạo lực gia đình. Nội dung của các nguyên tắc này được thể hiện xuyên suốt toàn bộ 46 điều luật, thể hiện tính nhân đạo của nhà nước ta đồng thời xác định trách nhiệm của mỗi cá nhân và toàn xã hội trong chiến dịch đẩy lùi và xoá bỏ nạn bạo hành gia đình, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật Việt Nam. Bên cạnh việc quy định các hành vi bạo lực gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình còn quy định các hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình điều 8, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình. Điều này cho chúng ta thấy, ngoài các chủ thể thực hiện hành vi bạo lực gia đình đối với thành viên trong gia đình mình còn có các chủ thể khác ngoài gia đình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực gia đình. Điều này giúp ta phân biệt chủ thể của bạo lực gia đình với chủ thể vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình. Luật Phòng chống bạo lực gia đình quy định các biện pháp như: quy định về thông tin, tuyên truyền về phòng, chống bạo lực gia đình; hoà giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình; tư vấn, góp ý, phê bình trong cộng đồng dân cư về phòng ngừa bạo lực gia đình từ điều 9 đến điều 17. Có thể thấy rằng, phòng ngừa là một biện pháp rất quan trọng và có tác dụng lớn trong việc ngăn chặn và đẩy lùi bạo lực gia đình. Nếu như thực hiện phòng ngừa tốt, bạo lực gia đình sẽ xảy ra ít hơn rất nhiều. Để ngăn ngừa và xử lý có hiệu quả về bạo lực gia đình, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình chú trọng tới các giải pháp giáo dục tại cộng đồng bởi vì khi ý thức và kiến thức của các cá nhân trong xã hội về pháp luật hôn nhân và gia đình; về pháp luật phòng, chống bạo lực gia đình được nâng cao sẽ là điều kiện quan trọng nhất để tránh được bạo lực gia đình xảy ra. Luật còn chú trọng tới việc phát huy hết khả năng và vai trò của gia đình, dòng họ; bạo lực gia đình cần được phát hiện và xử lý sớm từ mâu thuẫn xích mích nhỏ, không để phát sinh thành mâu thuẫn lớn gây bạo lực gia đình. Việc xử lý xích mích mâu thuẫn nhỏ thông qua các biện pháp hoà giải cơ sở. Tuỳ theo từng sự việc mà việc hoà giải do 17
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản ở Việt Nam
25 p | 311 | 69
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay
26 p | 527 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020
78 p | 212 | 47
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
78 p | 172 | 45
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hợp đồng tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại Việt Nam
20 p | 235 | 29
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Xây dựng ý thức pháp luật của cán bộ, chiến sĩ lực lượng công an nhân dân Việt Nam
15 p | 350 | 27
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Người bị tạm giữ trong tố tụng hình sự
102 p | 63 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng
86 p | 113 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về mua bán nhà ở xã hội, từ thực tiễn tại thành phố Hồ Chí Minh
83 p | 98 | 19
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về đấu giá quyền sử dụng đất, qua thực tiễn ở tỉnh Quảng Bình
26 p | 113 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Thực hiện pháp luật về thanh niên từ thực tiễn thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
83 p | 110 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Hợp đồng mua bán thiết bị y tế trong pháp luật Việt Nam hiện nay
90 p | 80 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật Việt Nam về hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán trong mối quan hệ với vấn đề bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư
32 p | 246 | 14
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật hình sự Việt Nam về tội gây rối trật tự công cộng và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
17 p | 153 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật học: Cấm kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000
119 p | 64 | 10
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh doanh - qua thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị
31 p | 106 | 9
-
Tóm tắt luận văn Thạc sĩ luật học: Pháp luật về quản lý và sử dụng vốn ODA và thực tiễn tại Thanh tra Chính phủ
13 p | 264 | 7
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Luật học: Pháp luật bảo vệ tài nguyên rừng - qua thực tiễn Quảng Bình
30 p | 85 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn