intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004

Chia sẻ: Trí Mẫn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:95

26
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ những vấn đề lý luận; nội dung các quy định của BLTTDS về VKSND tham gia TTDS; việc thực hiện chúng trong thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các quy định của BLTTDS về VKSND tham gia TTDS, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004

  1. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẰNG VIỆN KIỂM SÁT THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2004 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2014 1
  2. ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN THỊ HẰNG VIỆN KIỂM SÁT THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2004 Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình HÀ NỘI - 2014 2
  3. Lêi cam ®oan T«i xin cam ®oan ®©y lµ c«ng tr×nh nghiªn cøu khoa häc cña riªng t«i. C¸c sè liÖu, vÝ dô vµ trÝch dÉn trong luËn v¨n ®¶m b¶o ®é tin cËy, chÝnh x¸c vµ trung thùc. Nh÷ng kÕt luËn khoa häc cña luËn v¨n ch-a tõng ®-îc ai c«ng bè trong bÊt kú c«ng tr×nh nµo kh¸c. T¸c gi¶ luËn v¨n NguyÔn ThÞ H»ng 3
  4. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt Danh mục các bảng MỞ ĐẦU 1 Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUY ĐỊNH VIỆN KIỂM SÁT 6 THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc Viện kiểm sát tham 6 gia tố tụng dân sự 1.1.1. Khái niệm việc Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự 6 1.1.2. Đặc điểm của việc Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự 8 1.1.3. Ý nghĩa của việc Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự 11 1.2. Cơ sở của việc pháp luật quy định Viện kiểm sát tham gia tố 13 tụng dân sự 1.2.1. Cơ sở lý luận của việc pháp luật quy định Viện kiểm sát tham 13 gia tố tụng dân sự 1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật quy định Viện kiểm sát 15 tham tố tụng dân sự 1.3. Sơ lược sự hình thành và phát triển các quy định của pháp 18 luật Việt Nam từ năm 1945 đến nay về việc tham gia tố tụng dân sự của Viện kiểm sát 1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960 18 1.3.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1989 20 4
  5. 1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004 21 1.3.4. Giai đoạn từ năm 2004 đến năm nay 23 Chương 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG 27 DÂN SỰ VIỆT NAM NĂM 2004 VỀ VIỆN KIỂM SÁT THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ 2.1. Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải 27 quyết các vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm 2.1.1. Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải 27 quyết các vụ án dân sự theo thủ tục sơ thẩm 2.1.2. Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải 34 quyết việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm 2.2. Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải 36 quyết vụ việc dân sự theo thủ tục phúc thẩm 2.2.1. Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải 36 quyết vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm 2.2.2. Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải 44 quyết việc dân sự theo thủ tục phúc thẩm 2.3. Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự trong thủ tục giám đốc 45 thẩm, tái thẩm 2.3.1. Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự trong thủ tục giám đốc 46 thẩm, tái thẩm bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự 2.3.2. Viện kiểm sát tham gia tố tụng trong thủ tục giám đốc thẩm, 49 tái thẩm quyết định giải quyết việc dân sự Chương 3: THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT THAM GIA TỐ TỤNG 52 DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2004 VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Thực tiễn Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy 52 định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 5
  6. 3.1.1. Khái quát thực tiễn Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự 52 theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 3.1.2. Những hạn chế, vướng mắc trong việc Viện kiểm sát tham 56 gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 3.2. Các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả Viện kiểm sát tham 70 gia tố tụng dân sự 3.2.1. Những kiến nghị về hoàn thiện pháp luật 70 3.2.2. Những kiến nghị về thực hiện pháp luật 77 KẾT LUẬN 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 84 6
  7. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự KSV : Kiểm sát viên TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTDS : Tố tụng dân sự VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao 7
  8. DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu Tên bảng Trang bảng 3.1 Thống kê kết quả công tác kiểm sát thụ lý của VKSND 53 thành phố Hà Nội trong hai năm 2011, 2012 3.2 Thống kê kết quả công tác kiểm sát tại phiên tòa, phiên họp 54 của VKSND thành phố Hà Nội trong hai năm 2011, 2012 3.3 Thống kê kết quả công tác kiểm sát bản án, quyết định 55 của VKSND thành phố Hà Nội đạt được trong hai năm 2011, 2012 8
  9. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta không ngừng đổi mới, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để góp phần thực hiện được các mục tiêu đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng hiện nay của Nhà nước ta là phải hoàn thiện hệ thống pháp luật, đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính, cải cách tư pháp nhằm đảm bảo cho các cơ quan nhà nước nói chung và các cơ quan tư pháp nói riêng hoạt động hiệu quả. Trong lĩnh vực tư pháp, ngày 02/01/2002, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 08-NQ/TW) đã chỉ rõ: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp" [6]. Ngày 15 tháng 6 năm 2004, tại Kỳ hợp thứ 5 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI đã thông qua Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS). Đây là BLTTDS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có quy định các vấn đề vai trò, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) trong tố tụng dân sự (TTDS). Bộ luật này điều chỉnh theo hướng hạn chế thẩm quyền tham gia TTDS của VKSND, đề cao nguyên tắc quyền tự quyết định của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy vậy, qua thực hiện Bộ luật này cho thấy trong điều kiện hệ thống pháp luật Việt Nam còn bất cập, người dân còn gặp khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đội ngũ cán bộ xét xử và đội ngũ Luật sư cũng chưa đáp ứng được yêu 9
  10. cầu v.v... thì việc hạn chế việc tham gia TTDS của VKSND lại không phù hợp. Đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho việc vi phạm pháp luật trong giải quyết các vụ việc dân sự vẫn xảy ra. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 49-NQ/TW) nêu rõ: Nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều thách thức. Tình hình phạm tội diễn biến phức tạp, với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu kiện hành chính, các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện và tranh chấp có yếu tố nước ngoài có chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn. Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với các cơ quan tư pháp ngày càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm [8]. Xuất phát từ thực tiễn trên, ngày 29 tháng 3 năm 2011 tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS đã sửa đổi, bổ sung các quy định về việc VKSND tham gia tố tụng dân sự. Mặc dù Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS đã sửa đổi nhiều quy định của BLTTDS về việc tham gia TTDS của VKSND cho hợp lý hơn, khoa học hơn nhưng thực tiễn áp dụng những năm qua cho thấy vẫn còn có sự bất cập, cần sự tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện. Với những lý do nêu trên, học viên đã chọn đề tài "Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam năm 2004" nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những năm gần đây việc tham gia TTDS của VKSND đã được một số nhà khoa học luật quan tâm nghiên cứu. Có nhiều công trình nghiên cứu về 10
  11. việc tham gia TTDS của VKSND đã được công bố như đề tài cấp Bộ "Vị trí vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự" do Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) thực hiện năm 2008; bài "Nhận thức đúng thẩm quyề n và trách nhiệ m củ a Việ n kiể m sát nhân dân trong Bộ luậ t tố tụ ng dân sự" của Tiến sĩ Khuất Văn Nga đăng trên Thông tin Khoa học kiểm sát năm 2004; bài "Quy định về tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự của Viện kiểm sát nhân dân và hướng sửa đổi, bổ sung theo dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự" của Tiến sĩ Hoàng Thị Quỳnh Chi, đăng trên Thông tin Khoa học kiểm sát năm 2010; bài "Nghiên cứu các chủ trương của Đảng về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự và sự thể chế hóa trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam qua các thời kỳ" của Tiến sĩ Nguyễn Quốc Việt, đăng trên Thông tin Khoa học kiểm sát năm 2010 v.v...Ngoài ra còn một số bài viết đề cập đến vị trí, vai trò của VKSND trong TTDS đăng trên Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án, Tạp chí Kiểm sát, Thông tin khoa học pháp lý như "Bàn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự" của tác giả Hoàng Yến đăng trên Báo Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh 2012; "Nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004" của tác giả Hồ Quốc Thái đăng trên Thông tin khoa học kiểm sát năm 2010; "Nghiên cứu về vai trò của cơ quan công tố/kiểm sát trong tố tụng dân sự một số nước trên thế giới - Những bài học cho việc xác định vị trí vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự Việt Nam" của Phạm Hoàng Diệu Linh đăng trên Thông tin khoa học kiểm sát năm 2010; "Kiểm sát các hoạt động tư pháp của ngành kiểm sát nhân dân là yêu cầu tất yếu của xã hội xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa" của tác giả Võ Huy Triết đăng trên Tạp chí kiểm sát năm 2012... Mặc dù các công trình nghiên cứu đã công bố có đề cấp đến việc tham gia TTDS của VKSND nhưng việc nghiên cứu chủ yếu mới đi vào làm rõ vai 11
  12. trò của VKSND trong TTDS mà chưa đi sâu vào từng khía cạnh, phạm vi riêng biệt của việc tham gia TTDS của VKSND. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu việc tham gia TTDS của VKSND vẫn là cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài Mục đích của việc nghiên cứu là làm rõ những vấn đề lý luận; nội dung các quy định của BLTTDS về VKSND tham gia TTDS; việc thực hiện chúng trong thực tiễn và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả các quy định của BLTTDS về VKSND tham gia TTDS, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay. Để thực hiện mục đích trên, việc nghiên cứu có nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu những vấn đề lý luận về VKSND tham gia TTDS như khái niệm, đặc điểm và vai trò của VKSND. - Phân tích làm rõ nội dung các quy định của pháp luật về VKSND tham gia TTDS. - Khảo sát thực tiễn hoạt động của VKSND tham gia TTDS, tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của VKSND tham gia TTDS. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về VKSND tham gia TTDS, các quy định của BLTTDS về VKSND tham gia TTDS và thực tiễn tham gia TTDS của VKSND. Ngoài ra, có nghiên cứu các quy định của các văn bản pháp luật liên quan về VKSND tham gia TTDS để đối chiếu tham khảo như các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS, Luật Tổ chức VKSND và các văn bản hướng dẫn thi hành BLTTDS v.v... Trong khuôn khổ đề tài luận văn thạc sĩ luật học, việc nghiên cứu giới hạn trong những vấn đề lý luận cơ bản về việc tham gia TTDS của VKSND như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở tham gia TTDS của VKSND, các quy định của 12
  13. BLTTDS về việc tham gia TTDS của VKSND và thực tiễn thực hiện chúng trong những năm gần đây ở Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Hà Nội. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài Việc nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước về cải cách tư pháp, xây dựng pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ngoài ra việc nghiên cứu còn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học như phương pháp phân tích, phân tích, phương pháp so sánh sánh, chứng minh tổng hợp... 6. Tính mới và những đóng góp của việc nghiên cứu đề tài - Làm rõ một số vấn đề lý luận về VKSND tham gia TTDS. Đánh giá được thực trạng các quy định của BLTTDS về VKSND tham gia TTDS. - Chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong thực hiện các quy định của BLTTDS về VKSND tham gia TTDS. - Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và thực hiện các quy định của pháp luật về VKSND tham gia TTDS. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận của quy định Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự. Chương 2: Nội dung các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự. Chương 3: Thực tiễn Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự và kiến nghị. 13
  14. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUY ĐỊNH VIỆN KIỂM SÁT THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC VIỆN KIỂM SÁT THAM GIA TỐ TỤNG DÂN SỰ 1.1.1. Khái niệm việc Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự Xã hội là hệ thống các quan hệ đa dạng và phức tạp và chủ thể khi tham gia vào các quan hệ xã hội phải thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Một chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật sẽ xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Do đó, để duy trì trật tự xã hội Nhà nước thiết lập cơ chế pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Khi có tranh chấp phát sinh, chủ thể có quyền, lợi ích bị xâm phạm có thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Khi đó, Tòa án sẽ tiến hành những hành vi nhất định để giải quyết một tranh chấp dân sự. Theo quy định tại Điều 1 BLTTDS thì TTDS bao gồm khởi kiện, hòa giải, xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và thi hành án. Từ đó có thể hiểu "tố tụng dân sự" là quá trình bao gồm các hoạt động của Tòa án và VKSND trong việc giải quyết các vụ việc dân sự. Nếu như luật tố tụng hình sự bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự thì luật tố tụng dân sự bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong TTDS để đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự đúng đắn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của nhà nước. Ở Việt Nam, hệ thống VKSND ra đời từ năm 1960, xuất phát từ nhu cầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi pháp luật phải được chấp 14
  15. hành nghiêm chỉnh và thống nhất, vì lẽ trên phải tổ chức ra VKSND nhằm giữ vững pháp chế Xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Ngay từ ngày đầu mới thành lập, chức năng cơ bản nhất của VKSND đã được xác định trong Luật tổ chức VKSND năm 1960 là "kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất" [17]. Đến nay, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã xác định rõ vị trí, chức năng của VKSND tại chương VIII, từ Điều 107 đến 109. Theo đó: Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất [26]. Trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, việc tham gia TTDS của VKSND nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tố tụng đảm bảo cho tính pháp chế của các phán quyết của Tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và các thành viên trong xã hội. Các hoạt động cụ thể của VKSND trong TTDS bao gồm kiểm sát thông báo thụ lý vụ việc của Tòa án, kiểm sát hoạt động giải quyết vụ án dân sự, việc dân sự của Tòa án, kiểm sát bản án, quyết định dân sự của Tòa án và kháng nghị các bản án, quyết định dân sự của Tòa án. Điều 39 BLTTDS quy định, cùng với Tòa án, VKSND là một cơ quan tiến hành tố tụng, Kiểm sát viên (KSV) là người tiến hành tố tụng. Nhưng khác với Tòa án, VKSND tham gia giải quyết vụ việc dân sự nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. VKSND tham gia kiểm sát hoạt động TTDS thể hiện cụ thể ở nhiệm vụ, quyền hạn của KSV và của Viện trưởng VKSND được quy định tại các Điều 44 và 45 BLTTDS. Theo quy định tại Điều 45 BLTTDS, khi được phân công thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động TTDS, KSV có những nhiệm vụ, 15
  16. quyền hạn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự của Tòa án, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng, kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án, tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của Bộ luật này và phát biểu ý kiến của VKSND về việc giải quyết vụ việc dân sự. Theo quy định tại Điều 44 BLTTDS, Viện trưởng VKSND có những nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động TTDS, quyết định phân công KSV thực hiện kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng, tham gia phiên tòa xét xử vụ án dân sự, phiên họp giải quyết việc dân sự theo quy định của BLTTDS, kiểm tra hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng của KSV, quyết định thay đổi KSV và kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của BLTTDS. Từ những phân tích trên có thể rút ra kết luận: Việc VKSND tham gia TTDS là việ c VKSND kiể m sát việ c tuân theo pháp luậ t đ ố i vớ i các hoạ t đ ộ ng tố tụng giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án và các hoạt động tham gia tố tụng củ a nhữ ng ngư ờ i tham gia tố tụ ng nhằ m đ ả m bả o cho pháp luậ t đ ư ợ c thi hành nghiêm chỉ nh và thố ng nhấ t trong quá trình giả i quyế t vụ việ c dân sự tạ i Tòa án. 1.1.2. Đặc điểm của việc Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự Theo quy định tại khoản 1 Điều 39 BLTTDS thì cơ quan tiến hành tố tụng gồm TAND và VKSND. Tòa án là cơ quan xét xử, nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc dân sự. Trong quá trình tiến hành các hoạt động tố tụng TAND phải thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Cùng là cơ quan tiến hành tố tụng nhưng 16
  17. hoạt động của VKSND hoàn toàn khác. VKSND thực hiện việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng theo quy định của BLTTDS. Việc tham gia TTDS của VKSND có những đặc điểm sau: Thứ nhất, phải khẳng định việc VKS tham gia TTDS đã được ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và là một nguyên tắc cơ bản của TTDS. Ngay từ Hiến pháp 1960, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ghi nhận về chế định VKSND. Tuy vị trí chức năng của VKSND trải qua các thời kỳ của Hiến pháp 1960, 1980, 1992 và mới nhất là Hiến pháp năm 2013 có nhiều thay đổi, nhưng về cơ bản đều ghi nhận VKSND có "nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân" [26]. Hiến pháp năm 2013 dành các Điều từ 107 đến 109 quy định về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và mô hình VKSND trong đó xác định chức năng của VKSND là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Nếu như Hiến pháp ghi nhận một trong hai chức năng cơ bản của VKSND là kiểm sát hoạt động tư pháp thì BLTTDS cụ thể hóa điều này thành nguyên tắc Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự quy định tại Điều 21. Theo đó, "Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vu việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật" [23]. Với việc quy định kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS là một nguyên tắc cơ bản của BLTTDS cho thấy tầm quan trọng, vai trò của VKSND trong TTDS. Đây là tư tưởng pháp lý cơ bản, xuyên suốt trong quá 17
  18. trình xây dựng và thực hiện BLTTDS. Việc vi phạm nguyên tắc được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến hậu quả là vụ việc phải được xem xét lại, ngay cả khi bản án, quyết định đó đã có hiệu lực pháp luật. Thứ hai, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS là hoạt động TTDS do cơ quan duy nhất là VKSND tiến hành. Theo quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức VKSND thì VKSND là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, VKSND thực hiện quyền lực nhà nước, trực tiếp tham gia giám sát các hoạt động tư pháp, góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm trật tự xã hội. VKSND thực hiện chức năng kiểm sát của mình thông qua việc nhận các thông báo, quyết định, bản án của Tòa án và các văn bản có liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự, kiểm sát hoạt động của Tòa án trong khi tiến hành tố tụng, kiểm sát hoạt động tố tụng của nguyên đơn, bị đơn, ngươi có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan... Pháp luật quy định về nhiều cơ chế giám sát các hoạt động TTDS nhưng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS thì chỉ có duy nhất cơ quan VKSND mới có đủ thẩm quyền, được giao đủ công cụ pháp lý thực hiện. Cụ thể BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định VKSND có quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị (Điều 21 BLTTDS), kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, giải quyết việc dân sự của Tòa án, Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng, kiểm sát các bản án, quyết định của Tòa án, tham gia phiên tòa, phiên họp (Điều 45 BLTTDS), tiến hành thu thập chứng cứ {Điều 4 Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-VKSTC-TANDTC ngày 01/8/2012 của VKSNDTC và Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) về hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự (sau đây gọi tắt là Thông tư liên tịch số 04/2012)}. 18
  19. Thứ ba, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS phải tuân theo những quy định của pháp luật về trình tự và thủ tục. Vì hoạt động kiểm sát của VKSND nhằm mục đích bảo đảm hoạt động của Tòa án, hoạt động của đương sự và những người tham gia tố tụng khác phải tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa nên hoạt động kiểm sát của VKSND không nằm ngoài pháp luật, phải tuân thủ quy định của pháp luật. Trước đây, khi BLTTDS chưa được ban hành thì VKSND được tham gia các phiên tòa dân sự. Từ khi BLTTDS được ban hành, pháp luật đã hạn chế sự tham gia phiên tòa của VKSND trong các vụ án dân sự nên theo Điều 21 BLTTDS thì VKSND chỉ tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà VKSND kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án. Đến nay, khi Nhà nước ban hành Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS quyền tham gia phiên tòa, phiên họp của VKSND đã được mở rộng hơn, cụ thể: 1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật. 2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần. 3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm [23]. Tuy vậy, dù pháp luật quy định như thế nào thì trong hoạt động kiểm sát của mình, VKSND vẫn phải tuân theo các quy định đó. Hoạt động kiểm sát của VKSND vừa mang tính giám sát, vừa thể hiện sự đảm bảo cho hoạt 19
  20. động tố tụng diễn ra đúng quy định của pháp luật, vừa hỗ trợ việc giải quyết vụ việc dân sự được nhanh chóng và đúng luật. 1.1.3. Ý nghĩa của việc Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự Trước hết phải khẳng định việc tham gia tố tụng của VKSND trong TTDS đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật. Đây là mục đích được xác định ngay từ ngày đầu khi thành lập cơ quan kiểm sát và vai trò này luôn được khẳng định qua các lần sửa đổi, bổ sung luật. Trong hệ thống bộ máy nhà nước, VKSND có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật cho thấy tầm quan trọng của VKSND trong đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân, đảm bảo pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và thống nhất. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và VKS có nhiệm vụ giám sát việc thực thi pháp luật của cơ quan tư pháp, đảm bảo pháp luật được tôn trọng trong các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng và của những người tham gia tố tụng. "Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật" [23, Điều 21]. Bên cạnh đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật, việc tham gia TTDS của VKSND còn góp phần phát hiện, hạn chế những tiêu cực, sai sót trong hoạt động tố tụng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng trong giải quyết các vụ việc dân sự. BLTTDS quy định thẩm phán và hội thẩm nhân dân khi xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, bên cạnh đó là quy định quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự. Muốn đảm bảo được những điều đó thì nhất thiết phải có sự kiểm sát của VKSND, bởi hoạt động tố tụng của người tiến hành tố tụng do nhiều nguyên nhân khác nhau có thể không được khách quan. Và nhiều khi vì lý do lịch sử để lại, không phải người tiến hành tố tụng nào cũng nhận thức vấn đề giống nhau, do đó cần sự 20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2