intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xử lý tài sản thế chấp trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng qua thực tiễn xét xử tại Cà Mau

Chia sẻ: Cẩn Ngôn | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:94

40
lượt xem
8
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp hiện hành về xử lý tài sản thế chấp, khi bên vay mất khả năng thanh toán các khoản nợ cho ngân hàng, ngân hàng căn cứ vào hợp đồng cùng với các quy định của pháp luật để tiến hành xử lý tài sản thế chấp mà thu hồi nợ. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung chi tiết.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật học: Xử lý tài sản thế chấp trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng qua thực tiễn xét xử tại Cà Mau

  1. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM HỨA MINH HẢI XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP TRONG CÁC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI CÀ MAU LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
  2. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM HỨA MINH HẢI XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP TRONG CÁC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG QUA THỰC TIỄN XÉT XỬ TẠI CÀ MAU Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số: 60380107 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ VĂN HƯNG TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017
  3. LỜI CAM ĐOAN Tôi tên: Hứa Minh Hải mã số học viên: 7701250489A, là học viên lớp LOP_K25_MBL_CaMau; Khóa K25-2 chuyên ngành Luật kinh tế, Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh, là tác giả của Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài “Xử lý tài sản thế chấp trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng qua thực tiễn xét xử tại Cà Mau” (Sau đây gọi tắt là “Luận văn”). Tôi xin cam đoan tất cả các nội dung được trình bày trong Luận văn này là kết quả nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học. Trong Luận văn có sử dụng, trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thông tin này đều được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thông tin được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực. Học viên thực hiện Hứa Minh Hải
  4. MỤC LỤC TRANG PHỤ BÌA LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1 Chương 1: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ......7 1.1. Khái niệm về thế chấp tài sản và tài sản thế chấp ................................................. 7 1.1.1. Khái niệm về thế chấp tài sản .............................................................................. 7 1.1.2. Về tài sản thế chấp ............................................................................................... 8 1.2. Một số điểm mới của chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ .............................. 11 1.3. Hệ quả pháp lý của việc thế chấp tài sản theo quy định hiện hành ................... 17 1.4. Những quy định hiện hành về xử lý tài sản thế chấp .......................................... 23 1.4.1. Nguyên tắc xử lý tài sản thế chấp ...................................................................... 23 1.4.2. Các trường hợp xử lý tài sản thế chấp ............................................................... 25 1.4.3. Điều kiện xử lý tài sản thế chấp ......................................................................... 26 1.4.4. Các phương thức xử lý tài sản thế chấp ............................................................. 33 1.4.5. Thủ tục xử lý tài sản thế chấp .......................................................................... 455 Chương 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG Ở TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU .......................................................................................................477 2.1. Thực tiễn xử lý tài sản thế chấp trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng trong thời gian 05 năm trở lại đây của Toà án nhân dân Cà Mau .................................... 477 2.2. Những vướng mắc thường gặp qua thực tiễn giải quyết tại Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau ....................................................................................................... 488 2.2.1. Những vướng mắc, bất cập từ vấn đề của pháp luật .................................... 488 2.2.2. Về trình độ, năng lực của Thẩm phán Tòa án .............................................. 522 2.2.3. Về trách nhiệm của tổ chức tín dụng ........................................................... 555 2.2.4. Về quy trình giải quyết tranh chấp ............................................................... 577 2.2.5. Những vướng mắc trong hoạt động xử lý tài sản thế chấp .......................... 588 2.2.6. Về thế chấp hoặc bảo lãnh tài sản liên quan đến hộ gia đình ........................... 644 2.3. Nhận xét, đánh giá chung ..................................................................................... 666 2.3.1. Những mặt đạt được .................................................................................... 666 2.3.2. Những mặt còn khó khăn, hạn chế .............................................................. 677
  5. Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP TRONG CÁC TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ..700 3.1. Thống nhất các quy định của pháp luật và hướng dẫn của Tòa án về xử lý tài sản thế chấp .................................................................................................................. 700 3.1.1. Sự hoàn thiện của hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan. ..................... 700 3.1.1.1. Về Bộ luật và Luật: ................................................................................... 731 3.1.1.2. Về các văn bản dưới Luật: ........................................................................ 733 3.1.1.3. Về thực hiện chế định thế chấp tài sản và bảo lãnh .................................. 766 3.1.1.4. Về duy trì sự hiện hữu của tài sản thế chấp trong tầm kiểm soát ............. 777 3.1.1.5. Về XLTSTC mà không cần sự hợp tác của bên thế chấp ......................... 777 3.1.2. Về thủ tục tố tụng............................................................................................. 800 3.2. Các đề xuất khác ................................................................................................... 800 KẾT LUẬN ............................................................................................................855 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
  6. DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT BLDS Bộ luật Dân sự BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự LTHADS Luật Thi hành án dân sự LDN Luật Doanh nghiệp LĐĐ Luật đất đai LNO Luật nhà ở LCC Luật Công chứng LNHNN Luật Ngân hàng Nhà nước LCTCTD Luật các tổ chức tín dụng LPS Luật phá sản LXLVPHC Luật xử lý vi phạm hành chính NĐ Nghị định NQ Nghị quyết TCTD Tổ chức tín dụng NHTM Ngân hàng thương mại HĐTD Hợp đồng tín dụng HĐTC Hợp đồng thế chấp HĐTCTS Hợp đồng thế chấp tài sản TSBĐ Tài sản bảo đảm TSTC Tài sản thế chấp XLTSBĐ Xử lý tài sản bảo đảm XLTSTC Xử lý tài sản thế chấp UBND Ủy ban nhân dân. TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao HĐTP Hội đồng Thẩm phán TNHH Trách nhiệm hữu hạn CTTNHH Công ty trách nhiệm hữu hạn TNHHMTV Trách nhiệm hữu hạn một thành viên NHNN&PTNT Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần DNTN Doanh nghiệp tư nhân
  7. 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Nước ta đang trong giai đoạn đổi mới trong mọi lĩnh vực như về kinh tế, chính trị, xã hội và các lĩnh vực khác. Việc mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế theo chủ trương của Đảng và Nhà nước đã góp phần tạo nên những bước tiến đáng kể vào công cuộc cải tiến nước nhà, mở ra nhiều cơ hội mới và cũng đặt ra những thách thức to lớn trong mọi lĩnh vực, hoạt động của doanh nghiệp, cũng như trong hoạt động tín dụng ngân hàng, một lĩnh vực hết sức nhạy cảm. Khi xã hội ngày càng phát triển thì các quan hệ dân sự, kinh doanh, thương mại cũng sẽ phát triển theo, những tranh chấp xảy ra là điều không tránh khỏi, số lượng các tranh chấp trong dân sự, kinh doanh, thương mại nói chung và tranh chấp trong các hợp đồng tín dụng nói riêng ngày càng tăng với mức độ ngày càng phức tạp, nhưng lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp nào vừa đảm bảo có lợi cho thương nhân vừa duy trì được mối quan hệ làm ăn là việc mà các bên kinh doanh cần quan tâm, lựa chọn. Tổ chức tín dụng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán…, phục vụ cho việc phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, nhu cầu sinh hoạt và sản xuất của cá nhân. Nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây luôn đạt tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời với mức độ tăng trưởng đó nhu cầu vốn cần thiết cho nền kinh tế là rất lớn. Thực tế cho thấy hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam năng lực tài chính còn hạn chế và hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu dựa trên nguồn vốn vay ngân hàng. Một số các doanh nghiệp có năng lực tài chính ở mức khá nhưng vẫn sử dụng vốn tín dụng ngân hàng như là đòn bẩy tài chính để phát triển kinh doanh. Từ đó, có thể khẳng định tín dụng ngân hàng trong giai đoạn hiện nay đã và đang còn tiếp tục là một kênh cung cấp vốn quan trọng cho nền kinh tế và cho doanh nghiệp. Với vai trò là trung gian tài chính, hoạt động của các ngân hàng luôn đứng trước nguy cơ rủi ro mà chủ yếu là nguy cơ mất vốn, chính vì thế giải pháp cứu cánh hiện nay cho các ngân hàng là hầu hết người vay bắt buộc phải có tài sản thế chấp nếu muốn sử dụng vốn vay. Bên cạnh những thành công và kết quả đạt được thì Ngành ngân hàng hiện nay đã và đang phải đối phó với nhiều khó khăn, một trong những khó khăn đó chính là việc thu hồi các khoản nợ xấu cần phải xử lý. Tốc độ xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ nhìn chung là rất chậm. Có thể nhận thấy rằng, tỷ lệ nợ xấu càng cao thì độ rủi ro cho hệ thống ngân hàng càng lớn, điều không thể phủ nhận là hậu quả
  8. 2 rủi ro tín dụng xảy ra sẽ rất nguy kịch vì nó mang tính chất dây chuyền, gây tác hại nghiêm trọng đến không chỉ bản thân ngân hàng, mà còn gây thiệt hại ở mức độ sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế, kéo theo sự bất ổn về chính trị và xã hội. Khi ngân hàng gặp rủi ro từ các khoản nợ khó đòi của các doanh nghiệp sẽ dẫn đến nhiều doanh nghiệp phá sản, còn phía ngân hàng thì khoản nợ thua lỗ cũng tăng lên làm xoáy mòn nền kinh tế. Nếu rủi ro xảy ra vượt quá giới hạn cho phép sẽ đẩy các ngân hàng đứng trước bờ vực của sự phá sản, hệ thống ngân cũng bị khủng hoảng. Như vậy, nguyên nhân thu hồi nợ của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn là từ đâu? Phải chăng nó có nguồn gốc sâu xa từ việc xử lý tài sản thế chấp còn gặp nhiều vướng mắc? Mặc dù có khá nhiều văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề xử lý tài sản thế chấp đã được ban hành như: Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng Dân sự 2004 (sửa đổi bổ sung 2011), Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Công chứng, Luật Đất đai, Luật nhà ở và các văn bản hướng dẫn thi hành…, tạo ra khung pháp lý quan trọng, bước đầu giúp các ngân hàng cải thiện tình hình nợ xấu, nợ quá hạn; tạo đà cho hoạt động cho vay của các TCTD phát triển, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Song, những tồn tại, vướng mắc từ thực tiễn áp dụng các quy định về xử lý tài sản thế chấp là không thể phủ nhận. Do vậy, việc tìm ra giải pháp xử lý tài sản thế chấp luôn mang tính cấp thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với hệ thống ngân hàng nói riêng và nền kinh tế cả nước nói chung. Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau trong thời gian qua, việc xử lý tài sản thế chấp trong các tranh chấp HĐTD diễn ra với số lượng vụ việc nhiều, tính chất ngày càng phức tạp. Thực tế này cần phải có một giải pháp căn cơ, lâu dài và triệt để nhằm hạn chế các tranh chấp HĐTD phát sinh, thúc đẩy quá trình giải quyết tranh chấp kịp thời, giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên. Làm được điều này sẽ có ý nghĩa to lớn cho hoạt động tín dụng ngân hàng ngày càng phát triển đúng hướng, lành mạnh, an toàn, bảo vệ lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia. Trước tình hình đó, cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến việc giải quyết tranh chấp HĐTD và xử lý tài sản thế chấp nhằm tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho quá trình giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực này, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn trên, người viết đã đi sâu nghiên cứu “Xử lý tài sản thế chấp trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng
  9. 3 qua thực tiễn xét xử tại Cà Mau”, với mong muốn nghiên cứu những quy định cơ bản của pháp luật Việt Nam về vấn đề xử lý tài sản thế chấp trong các tranh chấp HĐTD bằng con đường Tòa án tại Cà Mau nhằm tìm ra được nguyên nhân của vấn đề, từ đó biết được thực trạng của việc xử lý tài sản thế chấp hiện nay ở nước ta và cuối cùng là đưa những kiến nghị để hoàn thiện hơn nữa pháp luật và các giải pháp khác về xử lý tài sản thế chấp bằng con đường Tòa án hiện nay. 2. Tình hình và câu hỏi nghiên cứu 2.1. Tình hình nghiên cứu Xử lý tài sản thế chấp là một đề tài không mới nhưng cũng chưa bao giờ hết nóng, đặc biệt hiện nay nước ta đang trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, các doanh nghiệp lần lượt được thành lập nhiều hơn, đồng thời nhu cầu vay vốn cũng sẽ nhiều hơn, nó vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn đối với các tổ chức tín dụng. Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích việc áp dụng pháp luật, những quy định cơ bản của pháp luật Việt Nam về XLTSTC phát sinh từ HĐTD bằng con đường Tòa án, qua thực tiễn xét xử tại Cà Mau, có sự đánh giá hệ thống pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này, đưa ra đề xuất, kiến nghị cho phù hợp tình hình thực tế. Bên cạnh đó, việc đánh giá thực trạng để đưa ra các giải pháp XLTSTC phát sinh từ HĐTD, qua đó, các Tòa án tại các địa phương có thể nghiên cứu, rút kinh nghiệm cho việc xét xử tại địa phương mình. Vì vậy, việc đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp XLTSTC phát sinh từ HĐTD là rất cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn trong việc góp phần mang lại hiệu lực pháp luật trong việc thực thi pháp luật ở nước ta. 2.2. Câu hỏi nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ đặt ra là cần trả lời các câu hỏi dưới đây, cụ thể như sau: 2.2.1. Tìm hiểu quy định của pháp luật hiện hành về thế chấp tài sản và xử lý tài sản thế chấp trong hợp đồng tín dụng như thế nào? Nghiên cứu làm rõ khái niệm về thế chấp tài sản và tài sản dùng để thế chấp. Nghiên cứu các quy định của pháp luật có liên quan đến tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp. Các trường hợp, điều kiện, phương thức, nguyên tắc, thủ tục xử lý tài sản thế chấp. 2.2.2. Đánh giá thực trạng về vấn đề xử lý tài sản thế chấp trong hợp đồng tín dụng ở thành phố Cà Mau thời gian qua như thế nào?
  10. 4 Nghiên cứu thực trạng về cơ cấu tổ chức, trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp HĐTD, thực tiễn XLTSTC trong tranh chấp HĐTD, nhận xét, đánh giá qua thực tiễn xét xử tranh chấp HĐTD tại Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau. Đánh giá những mặt tồn tại, hạn chế để đề xuất giải pháp khắc phục trong thời gian tới. 2.2.3. Để hoàn thiện công tác xử lý tài sản thế chấp trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng thì cần có những giải pháp nào? Qua việc tìm ra những mặt tồn tại, hạn chế, đề ra những kiến nghị đối với hệ thống pháp luật và đề xuất các giải pháp hoàn thiện công tác XLTSTC trong các tranh chấp HĐTD trên cơ sở lý luận và thực tiễn đánh giá. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp hiện hành về xử lý tài sản thế chấp, khi bên vay mất khả năng thanh toán các khoản nợ cho ngân hàng, ngân hàng căn cứ vào hợp đồng cùng với các quy định của pháp luật để tiến hành xử lý tài sản thế chấp mà thu hồi nợ. Luận văn cũng nêu lên thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý tài sản thế chấp đảm bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng trong giai đoạn hiện nay, từ đó sẽ làm rõ những thuận lợi cũng như là những khó khăn của các ngân hàng khi áp dụng pháp luật, những quy định tiến bộ, bên cạnh đó là những bất cập, vướng mắc của pháp luật hiện hành. Đồng thời, người viết sẽ so sánh những điểm mới trong Bộ luật Dân sự 2015 với Bộ luật Dân sự năm 2005 để từ đó biết được những hạn chế của Bộ luật Dân sự 2005 có được khắc phục trong Bộ luật Dân sự 2015 hay chưa. Qua những phân tích đó, người viết đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản thế chấp bảo đảm tiền vay. Mục đích cụ thể của luận văn: - Hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận về xử lý tài sản thế chấp tiền vay trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng qua thực tiễn công tác xét xử. - Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về xử lý tài sản thế chấp tiền vay, những thuận lợi cũng như khó khăn trong quá trình xử lý tài sản thế chấp tiền vay trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng qua thực tiễn xét xử tại Cà Mau. - Đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa pháp luật về xử lý tài sản thế chấp tiền vay trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng, những kiến nghị này được dựa trên thực trạng mà người viết đã nghiên cứu, đồng thời người viết cũng đưa ra những kiến nghị khác nhằm tăng cường việc xử lý tài sản thế chấp của các ngân hàng có hiệu quả hơn.
  11. 5 3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến việc xử lý tài sản thế chấp trong các tranh chấp hợp đồng tín dụng ngân hàng qua công tác xét xử của Tòa án. Phạm vi nghiên cứu: Có thể nói, xử lý tài sản thế chấp là một lĩnh vực khá rộng, vì thế, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, người viết tập trung nghiên cứu xử lý tài sản thế chấp tiền vay của các tổ chức tín dụng, tức là người viết xoáy sâu vào các quy định của pháp luật như về khái niệm, nguyên tắc xử lý tài sản thế chấp, thực trạng về pháp luật xử lý tài sản thế chấp cũng như tình hình việc xử lý tài sản thế chấp tiền vay của các tổ chức tín dụng trong giai đoạn hiện nay như thế nào, nó có những thuận lợi, khó khăn gì khi áp dụng pháp luật vào thực tiễn, về hoàn thiện pháp luật xử lý tài sản thế chấp và các kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý tài sản thế chấp của tổ chức tín dụng ở Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu Như nhiều công trình khoa học pháp lý khác, đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như quán triệt quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp cơ bản khác như: Phương pháp phân tích, bình luận những quy định pháp luật về xử lý tài sản thế chấp tiền vay của các tổ chức tín dụng nhằm phát hiện những bất cập, vướng mắc và đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó, luận văn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu những văn bản hết hiệu lực với văn bản hiện hành để thấy được những tiến bộ và hạn chế của pháp luật; đồng thời, so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật nước ngoài từ đó rút kinh nghiệm cho Việt Nam. Luận văn tham khảo từ nguồn sách báo có liên quan như sách chuyên khảo, giáo trình, các tạp chí chuyên ngành, … Và phương pháp tổng hợp, sử dụng các trang website để tìm kiếm tài liệu và thực tiễn pháp luật. 5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài Có không ít các đề tài nghiên cứu về xử lý tài sản thế chấp trong các tranh chấp HĐTD, nhưng luận văn là tài liệu nghiên cứu chuyên sâu về XLTSTC. Luận văn có những đóng góp mới như sau: - Làm sáng tỏ về mặt lý luận đối với các quy định pháp luật về XLTSTC và đặc biệt là đưa ra các khái niệm khoa học liên quan đến XLTSTC;
  12. 6 - Đánh giá thực trạng XLTSTC trong HĐTD qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau; - Chỉ ra những mặt tồn tại, hạn chế, đề ra những kiến nghị đối với hệ thống pháp luật về XLTSTC trong HĐTD của nước ta và đề xuất giải pháp trong công tác XLTSTC trong các tranh chấp HĐTD.
  13. 7 Chương 1: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THẾ CHẤP TÀI SẢN VÀ XỬ LÝ TÀI SẢN THẾ CHẤP TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG 1.1. Khái niệm về thế chấp tài sản và tài sản thế chấp 1.1.1. Khái niệm về thế chấp tài sản Không thể phủ nhận rằng, thế chấp tài sản là biện pháp bảo đảm có rất nhiều ưu thế so với các biện pháp bảo đảm khác, xét từ góc độ tính tiện dụng cho các bên liên quan (bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm). Vì lẽ đó, các TCTD và khách hàng vay trong quan hệ vay vốn thường ưu tiên lựa chọn biện pháp bảo đảm này. Tuy nhiên, để xử lý tốt mối quan hệ lợi ích giữa các bên trong hợp đồng thế chấp tài sản, điều rất quan trọng là phải nhận diện đúng đặc trưng pháp lý của mỗi loại hợp đồng này và mối quan hệ về hiệu lực giữa chúng với nhau; góp phần làm rõ cơ sở lý luận cho việc ứng dụng và thực thi pháp luật về thế chấp tài sản trong quan hệ vay vốn tại tổ chức tín dụng. Theo quy định tại Điều 317 BLDS 2015, thì “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp)”. TSTC do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thoả thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp. Xét về phương diện học thuật, ngoài những đặc điểm mang tính bản chất của hợp đồng thế chấp nói chung, hợp đồng TCTS trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng còn có những đặc trưng pháp lý sau đây: Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng TCTS bảo đảm tiền vay luôn có một bên là tổ chức tín dụng – với tư cách là bên nhận thế chấp (bên có quyền đòi nợ theo hợp đồng tín dụng). Ngoài ra, chủ thể thứ hai là bên thế chấp và chủ thể này có thể chính là bên vay hoặc người thứ ba có TSTC cho TCTD. Do chủ thể nhận thế chấp là TCTD nên việc phòng tránh rủi ro tín dụng cho chủ thể này là vấn đề hết sức quan trọng, được pháp luật quan tâm đặc biệt vì mục tiêu giữ vững an toàn của hệ thống ngân hàng và đảm bảo lợi ích quốc gia. Thứ hai, nghĩa vụ được bảo đảm bằng hợp đồng thế chấp thường là nghĩa vụ hoàn trả tiền vay theo HĐTD giữa TCTD với khách hàng vay vốn. Nghĩa vụ này phát sinh từ HĐTD, bao gồm nợ gốc, nợ lãi, các khoản phí, tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.
  14. 8 Thực tế cho thấy, do nghĩa vụ hoàn trả tiền vay trong HĐTD thường có giá trị lớn và có tính rủi ro cao nên hầu hết các TCTD khi cho vay đều mong muốn sử dụng biện pháp bảo đảm tiền vay để phòng tránh rủi ro cho các khoản tín dụng đã cung cấp. Chính vì vậy, các hợp đồng thế chấp hiện nay được giao kết chủ yếu là nhằm bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay phát sinh từ các HĐTD giữa TCTD với khách hàng. Thực tế đó, càng chứng tỏ vai trò của các BPBĐ tiền vay nói chung và biện pháp thế chấp tài sản nói riêng đối với yêu cầu bảo đảm quyền chủ nợ cho các TCTD trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Thứ ba, trong quan hệ cho vay giữa TCTD với khách hàng, do TCTD rất coi trọng vai trò tác dụng của các BPBĐ nghĩa vụ trả nợ tiền vay nên hợp đồng bảo đảm nói chung và HĐTC nói riêng thường được các bên (TCTD và bên bảo đảm) giao kết thành một hợp đồng riêng, tách khỏi HĐTD, với nhiều điều khoản chi tiết và rất cụ thể. Điều này là cần thiết, vì việc giao kết một HĐTC riêng rẽ với HĐTD sẽ tạo điều kiện cho các bên có cơ hội thỏa thuận chi tiết, cụ thể và đầy đủ hơn về các điều khoản của hợp đồng bảo đảm tiền vay. Trên cơ sở đó, giúp cho việc thực hiện hợp đồng bảo đảm và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo đảm tiền vay cũng dễ dàng, thuận lợi hơn. 1.1.2. Về tài sản thế chấp Tài sản thế chấp là tài sản phải thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu. Trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Trường hợp thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ gắn với tài sản đó thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Trường hợp thế chấp quyền sử dụng đất mà tài sản gắn liền với đất thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp thì tài sản gắn liền với đất cũng thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì bên nhận thế chấp phải thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp. Tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm trực tiếp cho bên nhận thế chấp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Trường hợp bên nhận thế chấp không thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp thì tổ chức bảo hiểm chi trả tiền bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm và bên thế chấp có nghĩa vụ thanh toán cho bên nhận thế chấp.
  15. 9 Căn cứ khoản 8 Điều 7 Luật doanh nghiệp 2014 có quy định về quyền của doanh nghiệp như sau: “Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của doanh nghiệp”. Theo quy định của điều luật này thì công ty có quyền dùng tài sản để đảm bảo cho nghĩa vụ thanh toán nợ và các nghĩa vụ khác của công ty. Tuy nhiên, không phải tài sản nào thuộc quyền sở hữu của công ty đều có thể dùng làm tài sản thế chấp. Trừ một số trường hợp ngoại lệ nhất định thì chỉ có tài sản được phép giao dịch (chuyển nhượng) mới có thể dùng làm tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp cũng là một dạng của tài sản bảo đảm nên cần có ba điều kiện sau: (1) Phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm (trừ các trường hợp ngoại lệ); (2) Là tài sản không cấm giao dịch; (3) Là tài sản xác định được. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành chưa có quy định rõ ràng về thời điểm nào tài sản thế chấp cần đáp ứng ba điều kiện như trên. Trên thực tế, bên thế chấp và bên nhận thế chấp có thể thỏa thuận là ba điều kiện trên cần được đáp ứng tại một số thời điểm nhất định quan trọng đối với bên nhận thế chấp mà không nhất thiết cần đúng phải mọi thời điểm. * Phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp Tại khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 có quy định: “Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu”. Như vậy, trừ trường hợp cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu, tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm. Điều 158 BLDS 2015 quy định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của luật”. Công ty là bên bảo đảm phải có đầy đủ quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Trong đó, quyền định đoạt sẽ cho phép bên bảo đảm dùng tài sản để thế chấp hoặc cầm cố cho bên nhận bảo đảm đồng thời cho phép việc chuyển nhượng TSBĐ sang người mua hay bên nhận bảo đảm trong trường hợp XLTSBĐ. Một số trường hợp ngoại lệ không cần đáp ứng ba điều kiện trên thường xảy ra trên thực tế đó là: Quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên, tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp nhà nước. Các tài sản này vẫn có quyền thế chấp trong một số trường hợp cụ thể hay có sự chấp thuận của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. * Là tài sản không cấm giao dịch Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/12/2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
  16. 10 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là NĐ 11 và NĐ 163) có quy định: “Tài sản bảo đảm là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai mà pháp luật không cấm giao dịch”. Như vậy, tài sản phải “không cấm giao dịch” mới có thể là sử dụng làm TSTC. Việc XLTSTC có thể dẫn đến việc chuyển nhượng TSTC nên “không cấm giao dịch” là một điều kiện phù hợp đối với TSTC. Trên thực tế, một số loại tài sản thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp nhưng bị cấm chuyển nhượng và không được sử dụng làm TSTC trừ khi có các chấp thuận cho việc chuyển nhượng. Các tài sản này thường bao gồm các loại sau: (1) Tài sản bị hạn chế chuyển nhượng theo quy định của pháp luật và Điều lệ công ty (ví dụ như cổ phần của cổ đông sáng lập bị hạn chế chuyển nhượng trong thời hạn 03 năm kể từ ngày công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng); (2) Tài sản bị hạn chế chuyển nhượng theo quy định của Luật phá sản 2014; (3) Tài sản bị cưỡng chế thi hành án; (4) Tài sản bị quốc hữu hóa. * Là tài sản xác định được Khoản 2 Điều 295 BLDS 2015 quy định: “Tài sản bảo đảm có thể được mô tả chung, nhưng phải xác định được”. Điều kiện này yêu cầu TSTC phải là tài sản tồn tại trên thực tế và cho dù được mô tả chung thì vẫn phải xác định được. Đây là điều kiện rất cần thiết trong trường hợp khi TSTC là tài sản được mô tả chung và không có chi tiết cụ thể mô tả (ví dụ như tài sản thế chấp là hàng hóa, vật tư hoặc số dư trong tài khoản – vì các loại tài sản này thay đổi hàng ngày và không thể mô tả chi tiết cụ thể) và tài sản hình thành trong tương lai. Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 NĐ 163 thì “Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã tồn tại vào thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm”. Như vậy, tiêu chí duy nhất để xác định tài sản hình thành trong tương lai là thời điểm tài sản đó thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp. Trong trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai thì khi bên thế chấp có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản thế chấp, bên nhận thế chấp có các quyền đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản đó. Đối với tài sản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu mà bên thế chấp chưa
  17. 11 đăng ký thì bên nhận thế chấp vẫn có quyền xử lý tài sản thế chấp khi đến hạn xử lý (Điều 8 NĐ 163). 1.2. Một số điểm mới của chế định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ BLDS 2015 đã có một số nội dung quy định mới về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Nhìn chung, nội dung phần bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đã tiệm cận tốt hơn với thông lệ quốc tế và cơ bản giải quyết được những vướng mắc, khó khăn trong thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng bảo đảm. Có thể nói, những tiếp cận mới của Bộ luật này về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ có sự ảnh hưởng và tác động mang tính chất chi phối đến cơ chế điều chỉnh pháp luật và nhận thức pháp luật trong lĩnh vực giao dịch bảo đảm và đăng ký biện pháp bảo đảm, đó là: - Lần đầu tiên ghi nhận và thể hiện được một số giá trị cốt lõi của lý thuyết vật quyền1 khi điều chỉnh quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong sự hài hòa hóa với lý thuyết trái quyền. BLDS 2005 tiếp cận biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dựa trên nền tảng của lý thuyết trái quyền. Thực tiễn cho thấy, cách tiếp cận quan hệ bảo đảm thuần túy theo lý thuyết trái quyền chưa thể giải quyết được triệt để những vướng mắc phát sinh trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm. Theo quy định của BLDS 2005, thì giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại khoản 1 Điều 318 chính là căn cứ để bên nhận bảo đảm thực thi quyền XLTSBĐ (Điều 336, Điều 355, Điều 721). Đây chính là yếu tố trái quyền của quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Cách tiếp cận này luận giải được cơ sở để bên nhận bảo đảm có quyền và thực thi quyền xử lý đối với TSBĐ đó chính là hợp đồng bảo đảm. Bởi TSBĐ vốn dĩ không thuộc quyền sở hữu của bên nhận bảo đảm, do đó, việc thi thi quyền XLTSBĐ phải dựa trên thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo đảm đã giao kết2. Tuy nhiên, điểm yếu của cách tiếp cận thuần túy trái quyền này ở chỗ, quyền XLTSBĐ của bên nhận bảo đảm đối với TSBĐ chỉ được thực hiện thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm đã giao kết. Hay nói cách khác, quyền XLTSBĐ của bên nhận bảo đảm được thực thi trong sự phụ thuộc vào ý chí của bên bảo đảm. Bên nhận bảo đảm không có quyền “trực tiếp” mang 1 Xem lý thuyết vật quyền của Nguyễn Ngọc Điện, tạp chí nghiên cứu lập pháp số 02 trang 39 - 46 2 Vũ Thị Hồng Yến, “Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành”. Tính chất trái quyền của BPBĐ được thể hiện thông qua các hợp đồng bảo đảm (hợp đồng thỏa thuận về các BPBĐ), còn tính chất vật quyền của BPBĐ được thể hiện ở quyền “trực tiếp và ngay tức khắc” của bên nhận bảo đảm đối với TSBĐ (chủ yếu thể hiện ở biện pháp cầm cố và thế chấp tài sản).
  18. 12 tính chất “chi phối” và “ngay tức khắc” đối với TSBĐ. Trường hợp bên bảo đảm không thực hiện nghĩa vụ đã cam kết thì bên nhận bảo đảm chỉ có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết (Điều 721). Cách tiếp cận này làm cho thủ tục XLTSBĐ phụ thuộc quá nhiều vào ý chí của bên bảo đảm. Trong khi đó, XLTSBĐ dẫn đến sự dịch chuyển quyền sở hữu tài sản từ bên bảo đảm sang người mua hoặc bên nhận bảo đảm trong trường hợp bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm. Do vậy, bên bảo đảm thường có thái độ thiếu thiện chí, thậm chí là bất hợp tác, chây ỳ trong việc chuyển giao TSBĐ cho bên nhận bảo đảm để xử lý. Thực tế này đã làm cho bên nhận bảo đảm trở thành bên có “vị thế yếu” đối với TSBĐ, mà lẽ ra theo quy định của pháp luật và hợp đồng bảo đảm đã giao kết, họ có toàn quyền xử lý để thu hồi nợ khi bên có nghĩa vụ vi phạm nghĩa vụ đã thỏa thuận. Để khắc phục những khiếm khuyết này, BLDS 2015 bước đầu đã ghi nhận và thể hiện được một số nội dung của vật quyền bảo đảm để tăng cường tính chủ động của bên nhận bảo đảm trong việc XLTSBĐ. Cụ thể, quy định quyền truy đòi tài sản bảo đảm và quyền ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm đối với TSBĐ trong trường hợp biện pháp bảo đảm đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba. Theo quy định tại khoản 2 Điều 297 của BLDS 2015 thì khi BPBĐ phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm được quyền truy đòi TSBĐ và được quyền thanh toán theo quy định tại Điều 308 của Bộ luật này và luật khác có liên quan. Việc bổ sung quy định về quyền truy đòi TSBĐ và quyền được ưu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm thể hiện sự hài hòa hóa yếu tố vật quyền trong quan hệ trái quyền khi điều chỉnh quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. - Tăng cường quyền tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận, tự chịu tách nhiệm của các bên tham gia giao dịch bảo đảm theo tinh thần và nguyên tắc của Hiến pháp 2013, đồng thời đã đơn giản hóa thủ tục giao kết, thực hiện hợp đồng bảo đảm. Theo đó, các bên trong các giao dịch dân sự nói chung cũng như các bên tham gia giao dịch bảo đảm nói riêng theo tinh thần và nguyên tắc của Hiến pháp 2013, chẳng hạn, tại khoản 2 Điều 3 của BLDS 2015 khẳng định: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của
  19. 13 luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng”. Bên cạnh đó, BLDS 2015 cũng đã đơn giản hóa thủ tục giao kết, thực hiện hợp đồng bảo đảm nhằm tạo thuận lợi tối đa cho các bên tham gia quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, như cho phép các bên chỉ cần tiến hành thỏa thuận, giao kết một lần về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hình thành trong tương lai. Khi nghĩa vụ trong tương lai được hình thành, các bên không phải xác lập lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó, bao gồm cả việc ký kết lại hợp đồng bảo đảm, công chứng, đăng ký biện pháp bảo đảm (khoản 2 Điều 294). - Bổ sung hai biện pháp bảo đảm mới dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển nội dung các quy định của BLDS 2005 và bản chất “bảo đảm thực hiện nghĩa vụ” của các biện pháp, đó là: cầm giữ tài sản và bảo lưu quyền sở hữu. Theo quy định tại Điều 292 BLDS 2015 thì có 09 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ lần lượt bao gồm: Cầm cố tài sản; thế chấp tài sản; đặt cọc; ký cược; ký quỹ; bảo lưu quyền sở hữu; bảo lãnh; tín chấp và cầm giữ tài sản. Với việc sắp xếp các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ theo thứ tự như vậy là nhằm phân loại các nhóm BPBĐ thực hiện nghĩa vụ thành hai nhóm lớn, đó là: Nhóm BPBĐ được xác lập theo thỏa thuận gồm: Cầm cố tài sản; thế chấp tài sản; đặt cọc; ký cược; ký quỹ; bảo lưu quyền sở hữu; bảo lãnh; tín chấp và nhóm BPBĐ được xác lập theo quy định của luật là cầm giữ tài sản. Trong nhóm BPBĐ được xác lập theo thỏa thuận có 02 nhóm với tính chất bảo đảm hoàn toàn khác nhau, đó là: Nhóm BPBĐ bằng tài sản (hay còn gọi là nhóm BPBĐ đối vật) bao gồm: Cầm cố tài sản; thế chấp tài sản; đặt cọc; ký cược; ký quỹ; bảo lưu quyền sở hữu và nhóm BPBĐ không bằng tài sản (hay còn gọi là nhóm BPBĐ đối nhân) bao gồm: Bảo lãnh và tín chấp. Việc phân định các nhóm BPBĐ này không chỉ có ý nghĩa về mặt nghiên cứu mà còn cho thấy cách tiếp cận khoa học của Bộ luật khi xây dựng phần nội dung về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Bởi lẽ, mỗi BPBĐ có những tính chất, đặc điểm và vai trò khác nhau trong việc thúc đẩy tiếp cận tín dụng có bảo đảm của nền kinh tế, do đó, về mặt tư duy pháp lý cần phải phân định rõ để từ đó xây dựng và thiết lập cơ chế điều chỉnh phù hợp với đặc tính của từng biện pháp. - Hoàn thiện cơ chế (phương thức) làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của BPBĐ. BLDS 2005 chưa quy định cụ thể về các phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của BPBD. Tại khoản 3 Điều 323 chỉ
  20. 14 mới quy định: “Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký”. BLDS 2015 đã hoàn thiện phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của BPBĐ, đó là: Nắm giữ (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm và đăng ký biện pháp bảo đảm (Điều 297). Việc bổ sung nắm giữ là phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của BPBĐ, độc lập và bình đẳng với phương thức đăng ký là phù hợp và thống nhất với nguyên tắc bảo vệ “tình trạng hòa bình” của việc chiếm hữu thực tế. Theo đó, về nguyên tắc chủ thể nào đang nắm giữ trực tiếp tài sản thì được suy đoán là chủ thể có quyền đối với tài sản nắm giữ (khoản 1, khoản 2 Điều 184 BLDS 2015). Quan điểm này tiếp cận vào quan hệ bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thể hiện ở việc tình trạng nắm giữ tài sản bảo đảm cũng được xem là căn cứ xác định BPBĐ đã phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba, bình đẳng với phương thức đăng ký và bên nhận bảo đảm đang nắm giữ TSBĐ hoàn toàn bình đẳng với bên nhận bảo đảm trong BPBĐ được đăng ký trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ, đặc biệt là quyền thanh toán theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng với người thứ ba trong trường hợp một tài sản được dùng để thực hiện nhiều nghĩa vụ (Điều 308 BLDS 2015). - Thay đổi cách tiếp cận về đăng ký BPBĐ, tạo tiền đề và nền tảng pháp lý quan trọng cho việc hoàn thiện pháp luật về đăng ký BPBĐ và đổi mới hệ thống đăng ký. Theo BLDS 2005 tiếp cận đăng ký giao dịch bảo đảm dưới giác độ là nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng thế chấp (khoản 2 Điều 350, khoản 2 Điều 717, khoản 1 Điều 719), thì BLDS 2015 đã đổi mới về căn bản cách tiếp cận về đăng ký BPBĐ, từ đăng ký là “nghĩa vụ” của công dân sang đăng ký là “quyền” của công dân (khoản 4 Điều 323). Việc quy định này có ý nghĩa và tác động rất lớn đối với công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế đăng ký BPBĐ cũng như thực tiễn vận hành hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm của nước nhà, cụ thể: Khi nhìn nhận đăng ký BPBĐ với tư cách là quyền dân sự của người dân, thì cơ chế pháp lý điều chỉnh sẽ phải hết sức mềm dẻo, linh hoạt, những quy định cản trở người dân thực thi quyền sẽ phải bị loại bỏ, thay bằng những quy định hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc thực hiện quyền của mình, góp phần phát huy dân chủ, bảo vệ và bảo đảm hơn nữa quyền của công dân trong lĩnh vực đăng ký BPBĐ 3. 3 Nguyễn Quang Hương Trà, Tiếp cận đăng ký giao dịch bảo đảm dưới giác độ quyền công dân theo Hiến pháp 2013, Tạp chí dân chủ và pháp luật số 3, 2015.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2