intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

Chia sẻ: Huyền Phạm | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:84

73
lượt xem
9
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, đánh giá thực trạng các quy định hiện hành và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

  1. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- TÂN HƯƠNG HUÊ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG KINH DOANH BẢO HIỂM NHÂN THỌ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội, năm 2021
  2. VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------- TÂN HƯƠNG HUÊ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM NHÂN THỌ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. NGUYỄN VĂN CƯƠNG Hà Nội, năm 2021
  3. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) vừa là một hình thức chuyển giao rủi ro, vừa là một hình thức đầu tư tài chính. Mục tiêu của BHNT là đảm bảo khả năng chi trả các chi phí tài chính của người thụ hưởng khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm (NĐBH). Trong quan hệ BHNT, do hạn chế về trình độ chuyên môn và khả năng đàm phán trực tiếp với doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH), người mua bảo hiểm thường ở vị thế bất lợi hơn trong việc thỏa thuận dẫn đến nguy cơ từ chối chi trả bảo hiểm. Vì vậy, các quy định của pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng (người mua BHNT) trở thành yếu tố quan trọng chi phối đến hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, một số quy định của pháp luật về hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT) đã không còn phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và xu thế phát triển chung của thế giới. Điều này vừa là rào cản cho sự phát triển của thị trường kinh doanh BHNT, vừa không bảo đảm được quyền lợi chính đáng của người mua BHNT hoặc người thụ hưởng bảo hiểm. Luật kinh doanh bảo hiểm (KDBH) đã được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 09/12/2000 (sửa đổi bổ sung năm 2010 và năm 2019) đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng pháp luật điều chỉnh lĩnh vực KDBH trong đó có giao dịch BHNT. Hiện nay, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng (NTD) chưa quy định người mua các sản phẩm BHNT là NTD thực thụ dẫn đến việc bảo vệ quyền lợi cho họ gặp nhiều bất cập, rất khó khăn khi giải quyết các tranh chấp hoặc vi phạm xảy ra. Từ thực tiễn phát sinh, kết quả giải quyết các tranh chấp về BHNT và kết quả nghiên cứu về thực trạng trên, có thể thấy các nguyên nhân chính ảnh hưởng đến quyền lợi của NĐBH đó là hệ thống pháp luật về KDBH, quy định về bảo vệ quyền lợi người tham gia bảo hiểm còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, bất cập. Việc nghiên cứu và đưa ra các giải pháp hoàn thiện các quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) khi tham gia BHNT là vô cùng cần thiết, có 1
  4. ý nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài nghiên cứu “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai ” làm luận văn tốt nghiệp cấp học thạc sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, một số công trình nghiên cứu cấp trường, cấp bộ và các báo cáo chuyên sâu, chi tiết về BHNT như các yếu tố chi phối đến pháp luật kinh doanh BHNT; đánh giá nội dung pháp luật về kinh doanh BHNT, bao gồm những ưu điểm và hạn chế của các quy định hiện hành. Việc đánh giá được thực hiện chi tiết theo cấu trúc của từng bộ phận pháp luật nhằm phát hiện những bất cập, hạn chế cơ bản của các quy định pháp luật hiện hành; xây dựng các giải pháp hoàn thiện pháp luật hiện hành về kinh doanh BHNT nhằm thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường KDBH, đáp ứng quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đơn cử một số công trình nghiên cứu như: Năm 2001, Nhà xuất bản Thống kê cho tái bản lần thứ nhất cuốn “Một số điều cần biết về pháp lý trong Kinh doanh Bảo hiểm” của GS.TSKH. Trương Mộc Lâm và Lưu Nguyên Khánh. Trong lần tái bản này, cuốn sách đã bước đầu đề cập những nguyên tắc pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và đây có thể coi là cuốn sách đầu tiên của Việt Nam về vấn đề này. Luận án tiến sỹ “Pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Vũ Hải, trường Đại học Luật, Hà Nội năm 2014, Luận án tập trung nghiên cứu những quan điểm hiện hành và từ đó xây dựng nội dung lý luận về pháp luật kinh doanh; Đánh giá nội dung pháp luật về kinh doanh BHNT, bao gồm những ưu điểm và hạn chế của các quy định hiện hành. Việc đánh giá được thực hiện chi tiết theo cấu trúc của từng bộ phận pháp luật nhằm phát hiện những bất cập, hạn chế cơ bản của các quy định pháp luật hiện hành; Xây dựng các giải pháp hoàn thiện pháp luật hiện hành về kinh doanh BHNT; Là công trình chuyên khảo xây dựng hệ thống lý luận về pháp luật kinh doanh BHNT cũng như đánh giá tương đối toàn diện thực trạng pháp luật hiện hành điều chỉnh lĩnh vực này. 2
  5. Đề tài Bảo hiểm Nhân thọ theo pháp luật Việt Nam của tác giả Trịnh Thị Bích Thủy, luận văn thạc sỹ nghành luật năm 2014. Luận văn là một trong những công trình nghiên cứu chuyên sâu về BHNT theo pháp luật Việt Nam, làm tài liệu tham khảo rất quý giá cho những công trình nghiên cứu tiếp theo và trong hoạt động giảng dạy. Bên cạnh đó, những ý kiến đóng góp tích cực của Luận văn cũng góp phần giải quyết những bất cập hiện tại liên quan đến vấn đề BHNT. Đồng thời Luận văn cũng tác động đến những nhà làm luật trong việc ban hành quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp trong BHNT. Ngoài ra, qua những tranh chấp được phân tích trong luận văn cũng phần nào góp phần cung cấp những tri thức quý giá cho những người tham gia ký kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Ngoài ra, còn có một số công trình nghiên cứu liên quan cũng có nhiều đề xuất, kiến nghị đáng chú ý đã được công bố, như: Tác giả Phí Thị Quỳnh Nga (2006) trong bài báo “Những bất cập của điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong Luật kinh doanh bảo hiểm” cho rằng một số quy định của Luật Kinh doanh bảo hiểm cần được sửa đổi vì chưa bao quát được hết các trường hợp cần điều chỉnh [54] Tác giả PGS, TS. Hoàng Trần Hậu và ThS. Nguyễn Tiến Hùng (2013) trong “Giám sát an toàn tài chính đối với các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam” đề xuất giải pháp khắc phục sự khác biệt giữa Chuẩn mực kế toán số 19 và quy định về trích lập dự phòng nghiệp vụ theo Thông tư 125/2012/TT-BTC. Tác giả Võ Trí Thành & Lê Xuân Sang (2013) trong tác phẩm “Giám sát hệ thống tài chính: Chỉ tiêu và mô hình định lượng” có đề xuất về xây dựng mô hình giám sát hợp nhất từ nay đến năm 2020. Tuy nhiên, các tác giả chưa đề xuất cụ thể các bước thực hiện mục tiêu này. Qua rà soát, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT hiện nay là rất ít. Phần lớn các công trình nghiên cứu chỉ đề cập đến pháp luật KDBH, về vấn đề quản lý, kinh doanh của các DNBH, số ít các công trình nghiên cứu, các bài viết về vấn đề BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT cũng chỉ đề cập khái quát. 3
  6. Việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT là cần thiết để đảm bảo lợi ích cho các bên khi tham gia bảo hiểm và góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường KDBH trong nước. Từ đó cho thấy việc nghiên cứu đề tài "Bảo vệ quyền lợi NTD trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật Việt Nam hiện nay, thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đồng Nai" là rất cần thiết. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ cơ sở lý luận pháp luật BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT, đánh giá thực trạng các quy định hiện hành và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là: - Làm rõ một số khía cạnh lý luận pháp luật về BVQLNTD như: Khái niệm người tham gia bảo hiểm, quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, cấu trúc pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT. - Đánh giá thực trạng pháp luật hiện hành về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT tại Đồng Nai (thực tiễn áp dụng pháp luật của doanh nghiệp BHNT; cơ quan giám sát, quản lý; cơ quan giải quyết tranh chấp...) - Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật để BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Hệ thống quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh mối quan hệ giữa người tham gia BHNT và doanh nghiệp kinh doanh BHNT kể từ khi có Bộ Luật Dân sự năm 2015; Luật KDBH năm 2000, sửa đổi, bổ sung năm 2010 và năm 2019; Luật BVQLNTD năm 2010. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Căn cứ trên các dữ liệu thu thập từ các công trình nghiên cứu, bài viết, số liệu thống kê, tài liệu tham khảo, các báo cáo pháp luật hiện hành về 4
  7. BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT, tình hình thực tiễn tại tỉnh Đồng Nai được công bố gần đây. Luận văn chỉ đề cập và nghiên cứu các quy định pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT ở Việt Nam hiện nay, thực tiễn áp dụng tại tỉnh Đồng Nai và không nghiên cứu các hình thức KDBH khác. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin dựa trên các quy định pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Phương pháp phân tích tổng hợp được dùng để phân tích, lập luận và tổng hợp những vấn đề lý luận về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT. Phương pháp so sánh pháp luật được dùng để so sánh quy phạm pháp luật về BVQLNTD dùng trong lĩnh vực BHNT so với các nước phát triển và đang phát triển. Phương pháp thống kê được dùng để thống kê, thu thập dữ liệu báo cáo thực tế ở địa phương để đánh giá hiệu quả thực hiện về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Nội dung Luận văn này là nghiên cứu chuyên sâu về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT ở trình độ thạc sỹ. Kết quả nghiên cứu (sau khi được Hội đồng thông qua) sẽ làm tài liệu tham khảo cho đối tượng có nhu cầu, tìm hiểu về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT dưới góc độ khoa học pháp lý. Luận văn là công trình nghiên cứu hệ thống lý luận pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT và đánh giá thực tiễn thi hành các quy định đó tại tỉnh Đồng Nai, từ đó có những giải pháp phù hợp, mang tính khả thi, hạn chế phát sinh các tranh chấp, vi phạm nhằm BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm có phần mở đầu, nội dung, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung của luận văn có 3 chương, cụ thể như sau: 5
  8. Chương 1: Những vấn đề lý luận pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ và thực tiễn thi hành tại tỉnh Đồng Nai. Chương 3: Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ. 6
  9. Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM NHÂN THỌ 1.1. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ 1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ Người tiêu dùng (NTD) là người mua hàng hoá, dịch vụ để trực tiếp sử dụng hoặc sở hữu. Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) là kinh doanh dịch vụ tài chính, theo đó, người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là người cần được pháp luật bảo hộ. Pháp luật của các nước về lĩnh vực KDBH không có định nghĩa riêng về quyền lợi của người được bảo hiểm (NĐBH). Do đó quyền lợi của NĐBH có thể được nhận diện qua suy luận từ quyền lợi của NTD hưởng dịch vụ của nhà kinh doanh. Người tiêu dùng trong lĩnh vực BHNT có thể là bên mua bảo hiểm (BMBH), NĐBH hoặc người thụ hưởng. Từ phân tích trên ta có thể kết luận rằng quyền lợi của NTD trong lĩnh vực BHNT chính là quyền lợi của BMBH, NĐBH hoặc người thụ hưởng. Bên mua bảo hiểm (BMBH) được hiểu là NTD theo đúng định nghĩa về NTD hiện hành. 1.1.2. Khái niệm và sự cần thiết bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) trong lĩnh vực BHNT gắn liền với ý tưởng về quyền NTD và với sự thành lập của các tổ chức BVQLNTD giúp NTD lựa chọn tốt hơn trên thị trường và trợ giúp họ bảo vệ quyền lợi. Một số tổ chức thúc đẩy việc bảo vệ NTD bao gồm các tổ chức chính phủ và các tổ chức kinh doanh tự điều chỉnh như các tổ chức và cơ quan bảo vệ NTD, các cán bộ thanh tra, ở Mỹ có Uỷ ban Thương mại Liên bang và các Văn phòng kinh doanh tốt hơn (Better Business Bureau) ở Mỹ và Canada... Ngoài ra, lợi ích của NTD còn được bảo vệ bằng cách thúc đẩy thương mại, cạnh tranh lành mạnh, công bằng và minh bạch thông tin trên thị trường để 7
  10. phục vụ NTD, phù hợp với hiệu quả kinh tế, tuy nhiên chủ đề này lại được đề cập trong Luật Cạnh tranh. Về mặt pháp lý, NTD được bảo vệ qua các quy định pháp luật trong đó có Luật BVQLNTD, bao gồm những quy định nhằm bảo vệ quyền lợi của NTD. Ví dụ: Pháp luật có thể yêu cầu doanh nghiệp công bố thông tin về các sản phẩm liên quan tới an toàn, sức khoẻ của cộng đồng. Luật pháp được thiết kế như là các quy định để ngăn chặn các doanh nghiệp có các hoạt động gian lận hoặc có các hoạt động không công bằng do giành được nhiều lợi thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh, giúp bảo vệ, bổ sung cho những người dễ bị tổn thương nhất trong xã hội. Bảo vệ NTD cũng có thể được thực hiện thông qua các tổ chức phi chính phủ và cá nhân như là hoạt động của NTD. Bản chất của BHNT là cách thức dự phòng tài chính an toàn cho tương lai với mục đích thay thế nguồn thu nhập khi người tham gia gặp rủi ro bất trắc (quyền lợi BHNT). Chính vì thế BHNT có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống con người, nó không chỉ giúp ổn định cuộc sống khi rủi ro bất ngờ xảy ra mà còn là cách thức chia sẻ rủi ro trong cộng đồng bằng cách lấy số đông bù số ít. 1.1.3. Các hình thức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ - Người tiêu dùng (NTD) tự bảo vệ mình trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Người tiêu dùng phải ý thức, nhận thức đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong việc đàm phán, thương lượng, ký kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT). Ngoài ra, NTD cần hiểu rõ quy định về các quyền của mình, cần có kiến thức, tự tìm hiểu thêm để am hiểu về sản phẩm mà mình sẽ mua và có năng lực để đối phó với các tranh chấp có thể xảy ra trước, trong hoặc sau quá trình thực hiện HĐBHNT. Trong quan hệ với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (DNBHNT), hơn ai hết, NTD chính là người hiểu về nhu cầu của chính bản thân mình khi quyết định tham gia vào các giao dịch, họ có quyền lựa chọn sản phẩm phù hợp với nhu cầu và năng lực tài chính của mình hay yêu cầu được cung cấp thêm thông 8
  11. tin hoặc thay đổi, bổ sung, hủy bỏ các điều khoản giao dịch và quyết định tham gia hoặc không tham gia HĐBHNT. Như vậy, NTD cần chủ động tự bảo vệ mình trước khi cần đến sự trợ giúp của các cơ quan chức năng hoặc của pháp luật. - Được bảo vệ thông qua pháp luật Nhà nước Đây là một trong các quy định về quyền con người, với chức năng của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người được thực thi trên thực tế. Trách nhiệm bảo vệ NTD sẽ do Nhà nước đảm nhận, để BVQLNTD, pháp luật và thực thi pháp luật trong lĩnh vực BHNT là công cụ để nhà nước bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tham gia bảo hiểm, duy trì trật tự, ổn định xã hội. - Được bảo vệ thông qua các tổ chức xã hội Để bảo vệ những quyền lợi hợp pháp và chính đáng của bản thân, người tiêu dùng có thể liên hệ với các tổ chức xã hội tham gia BVQLNTD. Vai trò của các tổ chức xã hội này đã được xã hội hóa trong Luật Bảo vệ NTD năm 2010 và Nghị định số 99/2011/NĐ-CP. Các tổ chức xã hội này sẽ hướng dẫn, giúp đỡ và tư vấn cho NTD khi được yêu cầu, đại diện cho NTD khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện khi lợi ích NTD bị xâm hại. - Được bảo vệ thông qua Cục quản lý, giám sát bảo hiểm Nhiệm vụ BVQLNTD trong BHNT thuộc trách nhiệm chủ yếu của Cục quản lý, giám sát bảo hiểm. Đây là cơ quan thuộc Bộ tài chính, có chức năng thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực KDBH; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động KDBH; thực hiện chức năng BVQLNTD thông qua những hoạt động như: xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực KDBH; giải quyết khiếu nại, tố cáo; kiểm tra và giám sát hoạt động của DNBH; tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ để cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của DNBH; tổ chức thực hiện, tuyên truyền về bảo hiểm; phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các văn bản pháp luật về KDBH v.v. - Được bảo vệ thông qua hoạt động tài phán 9
  12. Các tranh chấp phát sinh từ giao kết HĐBHNT thường xuất phát từ hành vi vi phạm hợp đồng của một bên hoặc cả hai bên với lỗi cố ý hoặc vô ý làm trái các điều, khoản trong hợp đồng. Trong trường hợp NTD thấy mình bị xâm hại về quyền lợi chính đáng thì có quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại hoặc tòa án, các phán quyết có giá trị bắt buộc các bên phải thi hành. 1.1.4 Những vấn đề chung về bảo hiểm nhân thọ Khái niệm bảo hiểm nhân thọ Bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là sản phẩm của các doanh nghiệp kinh doanh bảo BHNT nhằm bảo vệ con người trước những rủi ro liên quan đến sức khỏe, thân thể, tính mạng. Đơn giản là người tham gia thỏa thuận và ký kết HĐBHNT với công ty bảo hiểm về việc sẽ đóng đúng những khoản phí đều đặn vào quỹ dự trữ tài chính do công ty bảo hiểm quản lý để được chi trả số tiền nhất định khi không may gặp rủi ro hoặc đến thời điểm đáo hạn. Theo Khoản 1, Điều 12, Luật KDBH: Hợp đồng bảo hiểm là sự thoả thuận giữa BMBH và DNBH, BMBH phải đóng phí bảo hiểm, khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, DNBH phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho NĐBH. Đặc điểm bảo hiểm nhân thọ BHNT là một loại nghiệp vụ bảo hiểm cho NĐBH sống hoặc chết. Chính vì vậy mà BHNT mang những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe con người không xác định được giá trị. Thứ hai, sự kiện bảo hiểm không hoàn toàn gắn liền với rủi ro. Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan mà theo đó, khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì DNBHNT phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho NĐBH. Thứ ba, chỉ DNBHNT mới được cung cấp. BHNT là bảo hiểm con người, đây là thuộc tính cơ bản nhất của BHNT mà các loại bảo hiểm khác không có. Ví dụ: bạn tham gia bảo hiểm tính mạng, sức khỏe thì bạn phải đóng phí khi tham gia bảo hiểm. Trong khoản thời gian tham gia bảo hiểm nếu bạn gặp rủi 10
  13. ro như tai nạn thì bạn sẽ được bên bảo hiểm chi trả các chi phí phát sinh trong việc gặp rủi ro này. Thứ tư, đây là loại hợp đồng dài hạn và thường mang tính tiết kiệm. Khái niệm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH nhằm mục đích sinh lợi trên cơ sở chấp nhận rủi ro của BMBH; KDBH chính là nghiệp vụ bảo hiểm mà theo đó, KDBH chính là việc thực hiện các hoạt động nghiệp vụ bảo hiểm bao gồm khai thác bảo hiểm, lưu giữ hồ sơ và giải quyết bồi thường, hoặc bao gồm việc thiết kế sản phẩm, định phí, lập dự phòng và phân phối sản phẩm bảo hiểm. BHNT là sản phẩm của các DNBH nhằm bảo vệ con người trước những rủi ro liên quan đến sức khỏe, thân thể, tính mạng. Đơn giản là người tham gia thỏa thuận và ký kết hợp đồng bảo hiểm với DNBH về việc sẽ đóng đúng những khoản phí đều đặn vào quỹ dự trữ tài chính do DNBH quản lý để được chi trả số tiền nhất định khi không may gặp rủi ro hoặc đến thời điểm đáo hạn. Chính vì thế BHNT có ý nghĩa to lớn đối với cuộc sống con người, nó không chỉ giúp ổn định cuộc sống khi rủi ro bất ngờ xảy ra mà còn là cách thức chia sẻ rủi ro trong cộng đồng bằng cách lấy số đông bù số ít. 1.2. Pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ Những vấn đề chung pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT gồm: Pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT; đặc điểm pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT; vai trò và vị trí của pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT trong hệ thống pháp luật được phân tích chi tiết như sau: 1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ Luận văn đưa ra khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD) trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ (BHNT) là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận đảm bảo thực hiện, điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa bên mua bảo hiểm (BMBH) với doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của BMBH. 11
  14. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 9 Luật KDBH năm 2000, sửa đổi năm 2010 và năm 2019 thì quyền lợi được bảo hiểm là: “quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm”. Theo đó, xét dưới góc độ BHNT thì quyền lợi bảo hiểm trong BHNT là “quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm”. “Cấp dưỡng” được định nghĩa tại Khoản 24, Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng là nội dung quan trọng của pháp luật hôn nhân và gia đình: nghĩa vụ nuôi dưỡng được xác lập giữa cha mẹ (cả cha mẹ ruột, cha mẹ nuôi, cha dượng, mẹ kế) với con cái (cả con ruột, con nuôi, con riêng của vợ hoặc con riêng của chồng) và ngược lại, giữa ông bà đối với cháu và ngược lại, giữa cô, dì, chú, bác ruột với cháu. Ngoài nghĩa vụ được pháp luật hôn nhân và gia đình xác lập, không còn tồn tại bất kỳ quy định pháp luật nào khác về quyền hoặc nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng. Do đó, căn cứ để xác lập quyền hoặc nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng là quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Cách hiểu này là rất hẹp so với thực tiễn. Bởi vì, ngoài mối quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng được xác lập theo quan hệ hôn nhân, huyết thống thì còn tồn tại các mối quan hệ nuôi dưỡng, cấp dưỡng khác như: quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn, quan hệ cấp dưỡng của người phạm tội đối với những người mà người bị hại phải nuôi dưỡng nếu người bị hại còn sống… Theo quy định của khoản 3 Điều 9 Luật KDBH, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng phải gắn với đối tượng được bảo hiểm. Khoản 1, Điều 31 Luật Luật KDBH quy định: “Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm con người là tuổi thọ, tính mạng, sức khoẻ và tai nạn con người”. Như vậy, có thể hiểu, quyền lợi bảo hiểm trong BHNT là quyền hoặc nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng của BMBH đối với NĐBH phát sinh liên quan đến tuổi thọ, sức khỏe hoặc tính mạng của NĐBH. Pháp luật KDBH Việt Nam không bảo hiểm cho những yêu tố khác thuộc về con người như nghề nghiệp, bộ phận cơ thể người,… Ví dụ, pháp luật bảo hiểm Việt Nam không cho phép một cá nhân mua bảo hiểm cho giọng hát của nghề ca sĩ, hoặc đôi chân của cầu thủ bóng đá. Người mua bảo hiểm chỉ có thể 12
  15. mua bảo hiểm cho cầu thủ bóng đá với sản phẩm bảo hiểm sức khỏe, sinh kỳ hoặc tử kỳ. Theo đó, cầu thủ bóng đá chỉ được bảo hiểm cho tổn thất về sức khỏe khi bị gãy chân chứ không được bảo hiểm cho tổn thất về thu nhập, chi trả tài chính cho cuộc sống khi phải giải nghệ vì gãy chân. Từ những phân tích nêu trên có thể đưa ra khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm trong BHNT như sau: Quyền lợi có thể được bảo hiểm trong BHNT là quyền hoặc nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng giữa của người mua bảo hiểm với NĐBH gắn liền về tính mạng, tuổi thọ, sức khỏe và tai nạn con người. 1.2.2. Đặc điểm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ Về phương pháp luận, pháp luật BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT là một bộ phận của pháp Luật KDBH và trong quan hệ KDBH, ngoài lợi ích chung của nhà nước, của xã hội thì còn có quan hệ lợi ích trực tiếp giữa DNBH và NTD. Vì vậy, nền tảng của pháp luật về BVQLNTD xác định cần làm rõ những tư tưởng mang tính nguyên tắc: Thứ nhất, pháp luật phải thực hiện đúng chức năng công cụ của công quyền với đúng nghĩa là sự bảo đảm của nhà nước trong một trật tự xã hội, trong đó các chủ thể bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, nội dung là sự phản ánh nhu cầu của xã hội và pháp luật phải bảo đảm cân bằng lợi ích giữa quyền tự do kinh doanh của DNBHNT với QLNTD. Nếu pháp luật chỉ chú trọng đến QLNTD thì có thể dẫn tới tình trạng hạn chế quyền tự do kinh doanh của DNBHNT và ngược lại, nếu tuyệt đối hóa quyền tự do kinh doanh của DNBHNT thì sẽ dẫn đến tình trạng quyền lợi của NĐBH không được bảo đảm. Bảo đảm quyền tự do kinh doanh của DNBHNT với việc bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro kinh doanh là hai vấn đề cần phải giải quyết đối với loại doanh nghiệp này, vì đây là chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao. Thứ hai, về phía NĐBH, pháp luật phải đảm bảo các quyền sau: - Quyền được bình đẳng trong giao kết và thực hiện HĐBHNT. Tuy nhiên thực tế cho thấy, đối với quan hệ BHNT, người tham gia bảo hiểm thường là cá nhân, là bên yếu thế hơn so với DNBHNT khi giao kết và thực hiện hợp đồng. 13
  16. - Quyền được hướng dẫn, giải thích chi tiết để hiểu đúng và đầy đủ nhất các nội dung của HĐBHNT. Hoạt động kinh doanh BHNT gồm các tác nghiệp mang tính kỹ thuật kinh tế cao, đòi hỏi người mua bảo hiểm phải có kiến thức hoặc hiểu biết tối thiểu về bảo hiểm. Nếu không, người mua bảo hiểm có thể sẽ thực hiện không đúng nội dung đã thỏa thuận, dẫn đến bất lợi, hoặc có thể không được trả tiền bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. - Quyền được trả tiền bảo hiểm theo đúng nội dung đã thỏa thuận. Đây là quyền lợi quan trọng nhất, vì nó là mục đích chính của BMBH. - Ngoài ra BMBH còn có các quyền như quyền được lựa chọn, được lắng nghe, được khiếu nại, được an toàn và được đền bù. Thứ ba, pháp luật về BVQLNTD đảm bảo ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong mối quan hệ với NTD; có chế tài, xử lý đủ sức răn đe, loại bỏ những bất cập vốn có, huy động được sự tham gia của toàn xã hội trong việc bảo vệ NTD. Chính vì lẻ đó, pháp luật BVQLNTD cần chứa các yếu tố cân bằng lợi ích giữa DNBHNT và NTD cũng như lợi ích của xã hội, tạo nên môi trường kinh doanh lành mạnh, bền vững; thông qua hoạt động bảo vệ NTD nhằm nâng cao trách nhiệm của DNBHNT với NTD, đảm bảo trật tự công, đảm bảo các quyền lợi của doanh nghiệp, tránh tình trạng NTD lợi dụng chính sách để trục lợi bảo hiểm, gây thiệt hại cho DNBHNT. Như vậy pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT cần có là tổng hợp các quy định về tư cách pháp lý, về quyền và nghĩa vụ của các bên giao kết HĐBHNT, về cơ chế kiểm soát, giám sát đối với hoạt động KDBH nhằm mục tiêu bảo đảm NTD được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm theo HĐBHNT hoặc theo quy định của pháp luật. 1.2.3. Vai trò và vị trí của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ trong hệ thống pháp luật Người tiêu dùng (NTD) trong quan hệ giao dịch với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (DNBHNT) luôn ở vị thế yếu hơn, không cân xứng. Vì thế, vai trò của pháp luật BVQLNTD nên là công cụ để đảm bảo hiệu chỉnh, khắc phục vị thế bất cân xứng trong mối quan hệ giữa NTD và DNBHNT. 14
  17. Pháp luật BVQLNTD tại Việt Nam trước đó có quy định tại Pháp lệnh BVQLNTD có hiệu lực từ 01/10/1999. Pháp lệnh đã điều chỉnh việc bảo vệ quyền lợi của người tham gia BHNT trong thời gian này với những ghi nhận rõ ràng về quyền và trách nhiệm của NTD, trách nhiệm của các cơ quan chính quyền cũng như của các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Sau đó, pháp luật BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT tiếp tục được quy định tại các văn bản pháp luật khác nhau như Luật KDBH năm 2000 (sửa đổi, bổ sung năm 2010 và năm 2019), Luật BVQLNTD năm 2010, Bộ luật dân sự năm 2015 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Những văn bản này đã và đang có tác động trực tiếp, tích cực đến nền kinh tế, xã hội, đến nhận thức của các DNBHNT và bản thân NTD trong giao kết HĐBHNT nói riêng và trong vấn đề BVQLNTD nói chung. 1.2.4. Cấu trúc nội dung pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ Pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT đã trở thành một lĩnh vực pháp luật độc lập, có vị trí nhất định trong hệ thống pháp luật Việt Nam, góp phần tạo nên một môi trường kinh doanh công bằng, pháp quyền và hiện đại. Cấu trúc pháp luật BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT có thể được nhận diện từ nhiều góc độ khác nhau với những mục tiêu khác nhau. Theo NAIC (National Association of Insurance Commissioners) Hiệp hội quốc gia các Ủy ban bảo hiểm Hoa Kỳ thì mục tiêu của pháp luật KDBH là để bảo vệ NTD, bảo đảm những cam kết của DNBHNT phải được thực hiện đúng. Nội dung pháp luật BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT bao gồm các quy định về cấp phép cho DNBHNT, dịch vụ bảo hiểm; quy định về quy chế tài chính; quy định về sản phẩm bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT), trách nhiệm của người bán sản phẩm; quy định về bồi thường, về giải quyết tranh chấp giữa NTD và doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ (DNBHNT). Để phân tích cấu trúc pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tham BHNT, cần làm rõ từ “cái gốc” của hiện tượng xã hội, đó là các quan hệ phát sinh từ hoạt động kinh doanh BHNT. Theo đó, pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tham gia BHNT cần điều chỉnh những nhóm quan hệ xã hội sau: 15
  18. Thứ nhất, pháp luật cần điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội định hình tư cách chủ thể của các bên trong HĐBHNT nhằm xác định địa vị pháp lý của NTD, của DNBHNT với những quyền và nghĩa vụ phù hợp với chức năng của nó trong mối tương quan với các chủ thể khác của nền kinh tế. Với năng lực chủ thể được pháp luật quy định, DNBH kinh doanh BHNT sẽ có cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động kinh doanh với tư cách là một chủ thể độc lập bao gồm những quy định: Thành lập và hoạt động của DNBHNT; quy định về cơ cấu, tổ chức cùng với những quyền và nghĩa vụ của DNBHNT khi hoạt động, trong đó quyền và nghĩa vụ khi thực hiện hoạt động kinh doanh BHNT là những quy định quan trọng, đặc trưng nhất. Thứ hai, pháp luật cần điều chỉnh nhóm quan hệ HĐBHNT giữa DNBHNT với người mua BHNT. DNBHNT với tư cách chủ thể kinh doanh sản phẩm BHNT, sẽ tiến hành “phân phối” các sản phẩm của mình thông qua một giao dịch HĐBHNT. Do sản phẩm BHNT là dịch vụ, không giống như những sản phẩm hàng hóa nên trong HĐBHNT cần phải mô tả rõ ràng và cụ thể về nội dung dịch vụ đó với những quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng. Vì thế, pháp luật điều chỉnh về HĐBHNT được xem như một bộ phận pháp luật quan trọng đối với việc BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT. Thứ ba, pháp luật cần điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội là các cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc giám sát, giải quyết tranh chấp và xử lý các vi phạm khi có khiếu nại, tố cáo của người tham gia bảo hiểm hoặc DNBHNT với mục đích là BVQLNTD. Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ với tư cách là một chủ thể kinh doanh, chịu sự giám sát của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định. Quan hệ pháp luật phát sinh giữa cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền với DNBHNT chủ yếu là quan hệ pháp luật hành chính, dựa trên nguyên tắc mệnh lệnh giữa một bên là chủ thể quản lý và một bên là chủ thể chịu quản lý, bao gồm các nội dung: Xác định những quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể khác có thẩm quyền trong hoạt động giám sát; xác định những nghĩa vụ mà DNBHNT cần phải tuân thủ và thực hiện để đảm bảo sự minh bạch, công bằng 16
  19. trên thị trường bảo hiểm tự do cạnh tranh và đảm bảo nguyên tắc bảo vệ người tham gia bảo hiểm. Nội dung pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT cụ thể như sau: 1.2.4.1. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên - Quyền và nghĩa vụ của người tham gia BHNT Điều 8 của Luật BVQLNTD năm 2010 quy định về tám quyền của NTD như sau: (1) quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản; (2) quyền được an toàn; (3) quyền được thông tin; (4) quyền được lắng nghe; (5) quyền được lựa chọn; (6) quyền được giáo dục, đào tạo và tiêu dùng; (7) quyền được khiếu nại và bồi thường; (8) quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững. Người tiêu dùng có bốn nghĩa vụ sau: (1) biết phê bình; (2) có ý thức cộng đồng và xã hội; (3) hành động; (4) hiểu biết về tiêu dùng và môi trường. Ngoài các quyền và nghĩa vụ nêu trên, theo Điều 18 Luật KDBH, người tham gia bảo hiểm còn có các quyền và nghĩa vụ như sau: Bên mua bảo hiểm có quyền: Lựa chọn DNBH hoạt động tại Việt Nam để mua bảo hiểm; Yêu cầu DNBH giải thích các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm; Đơn phương đình chỉ thực hiện HĐBHNT theo quy định tại Khoản 3 Điều 19, Khoản 1 Điều 20 của Luật KDBH: “Yêu cầu DNBH trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho NĐBH theo thỏa thuận trong HĐBHNT khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; chuyển nhượng HĐBH theo thỏa thuận trong HĐBHNT hoặc theo quy định của pháp luật; và các quyền khác theo quy định của pháp luật”. Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ: Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thỏa thuận trong HĐBH; kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến HĐBH theo yêu cầu của DNBH; thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh thêm trách nhiệm của DNBH trong quá trình thực hiện HĐBH theo yêu cầu của DNBH; thông báo cho DNBH về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm theo thỏa thuận trong HĐBHNT; áp dụng các biện pháp đề phòng, 17
  20. hạn chế tổn thất theo quy định của Luật KDBH và các quy định khác của pháp luật có liên quan; và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. - Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ: Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền: thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong HĐBHNT; yêu cầu BMBH cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện HĐBHNT; đơn phương đình chỉ thực hiện HĐBH theo quy định tại Khoản 2 Điều19, Khoản 2 Điều 20, Khoản 2 Điều 35 và Khoản 3 Điều 50 của Luật KDBH; từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi thường cho NĐBH trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thỏa thuận trong HĐBHNT; yêu cầu BMBH áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định và các quy định khác của pháp luật có liên quan; các quyền khác theo quy định của pháp luật. Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ: giải thích cho BMBH về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm; quyền, nghĩa vụ của BMBH; cấp cho BMBH giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi giao kết HĐBHNT; trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho NĐBH khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; giải thích bằng văn bản lý do từ chối chi trả bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường; và các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của hai bên cần minh bạch thông tin khi giao kết HĐBHNT là để đảm bảo cho HĐBHNT có hiệu lực pháp. DNBHNT có nghĩa vụ bảo đảm cho BMBH thực sự hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp đồng, giúp cho BMBH có thể lường trước được những khó khăn, rủi ro có thể gặp phải khi giao kết và thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, DNBHNT phải công bố thông tin chung về hoạt động kinh doanh và quản lý doanh nghiệp; tình hình tài chính cũng như mức độ rủi ro và giải pháp quản lý rủi ro ... trước cơ quan giám sát và công chúng. Cũng như phía DNBHNT, bên mua bảo hiểm cũng phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin đầy đủ và rõ ràng cho DNBHNT biết nhằm bảo vệ quyền lợi cho chính mình. Người tham gia bảo hiểm hay NTD trong lĩnh vực BHNT có cả NĐBH và người thụ hưởng, tuy nhiên hiện nay chưa có quy định nào đề cập về vấn đề này. 18
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2