ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

CAO THỊ LỆ THỦY

NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH KHAI THÁC

TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

CAO THỊ LỆ THỦY

NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH KHAI THÁC

TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ

NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LƯU KHÁNH THƠ

Thái Nguyên – 2018

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu

trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều

trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

CAO THỊ LỆ THỦY

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn

Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,

Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực

tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.

Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng

dẫn PGS. TS.Lưu Khánh Thơ đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt

thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã

giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018

Tác giả luận văn

CAO THỊ LỆ THỦY

iii

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………..1

2. Lịch sử vấn đề…………………………… ………………………………..3

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu…………………………………………9

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu………………………………….....9

5. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………….....10

6. Đóng góp của luận văn…………………………………………………....10

7. Kết cấu luận văn……………………………………………………........10

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA THỂ LOẠI KỊCH VÀ HIỆN

TƯỢNG LƯU QUANG VŨ ĐỐI VỚI SÂN KHẤU KỊCH VIỆT NAM..11

1.1. Một số giới thuyết về thể loại kịch và sự xuất hiện, phát triển của thể loại

kịch ở Việt Nam……………………………………………………………..11

1.2. Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ – Hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch Việt

Nam…………………………………………………………………….19

1.3. Đóng góp nổi bật từ mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu

Quang Vũ……………………………………………………………………24

Tiểu kết chương 1:…………………………………………………………..27

CHƯƠNG 2: LOẠI HÌNH NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH KHAI

THÁC TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ………..28

2.1. Nhân vật nữ với những éo le, trắc trở trong tình yêu………………….29

2.2. Nhân vật nữ đứng trước những biến cố lớn trong cuộc đời……………33

2.3. Nhân vật nữ với những phẩm chất tâm hồn cao đẹp…………………..39

2.3.1. Tâm hồn trong sáng, lương thiện, trung thực…………………………...40

2.3.2. Sự chung thủy và đức hi sinh cao cả trong tình yêu……………………48

2.3.3. Sự đấu tranh để vươn tới những giá trị đích thực của tình yêu, cuộc

sống…………………………………………………………………………………....55

iv

Tiểu kết chương 2:………………………………………………………… .61

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG

MẢNG KỊCH KHAI THÁC TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG

VŨ………………………………………………………………...62

3.1. Khắc họa nhân vật thông qua xung đột kịch ………………………… 63

3.2. Khắc họa nhân vật thông qua hành động kịch………………………... 69

3.3. Khắc họa nhân vật thông qua ngôn ngữ……………………………… 73

Tiểu kết chương 3:…………………………………………………………..86

PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………………...87

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 90

v

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GS : Giáo sư

PGS : Phó giáo sư

TS : Tiến sỹ

TW : Trung ương

THCS : Trung học cơ sở

THPT : Trung học phổ thông

VHDG : Văn học dân gian

1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Lưu Quang Vũ là một tác giả lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam

nửa cuối thế kỉ XX. Thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến

chống Mỹ, Lưu Quang Vũ là con người hội tụ tài năng về nhiều mặt, và hầu

như ở lĩnh vực nào trong hoạt động nghệ thuật ông cũng đạt được những thành

tựu rất đáng ghi nhận. Ông là một nhà văn, nhà thơ và trên hết là một nhà viết

kịch tài năng. Trong lịch sử của nền sân khấu kịch nói Việt Nam, nhà viết kịch

Lưu Quang Vũ được biết đến như một hiện tượng hiếm có. Sau Lưu Quang Vũ,

sân khấu kịch dường như vẫn là khoảng trống chưa thể lấp đầy. Tác giả

Christian Hoche người Pháp đã từng nhận định: “Moliere ở Việt Nam tên là

Lưu Quang Vũ”[23,tr.162]. Mặc dù cuộc đời ngắn ngủi (1948-1988) và thời

gian dành cho sân khấu không nhiều, chỉ khoảng chưa đầy 10 năm nhưng ông

đã để lại một khối lượng tác phẩm trên 50 vở kịch, hầu hết được viết rất công

phu và đã được dựng, nhiều vở đạt huy chương. Những vở kịch của Lưu Quang

Vũ khi được trình diễn đã đem đến cho đời sống tinh thần văn hóa của nhân

dân cả nước thời điểm đó một bầu không khí tươi mới, phấn chấn, tin tưởng,

cởi mở, dân chủ. Cho đến nay, những tác phẩm của Lưu Quang Vũ vẫn tràn

đầy sức sống và nguyên giá trị trên sân khấu kịch và trong lòng người xem bởi

nó mang tính thời đại khi thể hiện những tâm tư, trăn trở về cuộc sống nhân

sinh. Năm 2000, ông đã được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về

Văn học Nghệ thuật. Đây là một sự đánh giá cao của Đảng và Nhà nước đối

với sự nghiệp văn học và nghệ thuật của ông. Chính vì vậy, việc tìm hiểu về

những sáng tác của Lưu Quang Vũ nói chung và kịch Lưu Quang Vũ nói riêng

là điều vô cùng cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.

1.2. Là một nghệ sỹ với năng khiếu bẩm sinh và khả năng cảm thụ nghệ thuật,

bên cạnh những vở kịch lấy đề tài từ lịch sử hay hiện đại thì sự xuất hiện của

những vở kịch lấy đề tài từ tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ cũng là biểu

2

hiện của một tài năng lớn trong nghệ thuật. Tìm hiểu về mảng kịch này, chúng

tôi được hiểu hơn về tầm vóc, suy nghĩ của một kịch tài năng biết trân trọng,

làm mới cái cũ, đem đến cho sân khấu kịch những giá trị sâu sắc hấp dẫn mới

mẻ, đúng như nhà phê bình nghiên cứu Lưu Khánh Thơ đã nhận xét: “Tài năng

của nhà viết kịch lại một lần nữa được khẳng định trong việc biến cổ tích, huyền

thoại thành chuyện của thời hiện đại, nêu lên cái muôn đời trong những cái bình

thường” [23,tr.169].

1.3. Sức lan tỏa từ những vở kịch và vị trí xuất sắc của Lưu Quang Vũ

trong nền văn học Việt Nam đã trở thành lí do xứng đáng để các nhà nghiên

cứu và các nhà giáo dục lựa chọn đưa tác phẩm của ông vào trong chương

trình giảng dạy THCS và THPT từ nhiều năm nay. Với trích đoạn của hai vở

kịch Tôi và chúng ta và Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ đã được

giới thiệu là nhà văn tiêu biểu cho thể loại kịch nói hiện đại Việt Nam. Đặc biệt

trích đoạn vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được khai thác từ cốt

truyện dân gian - một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của Lưu Quang

Vũ đã đưa vào giảng dạy chính thức ở THPT. Điều này chính là sự khẳng định

cho những giá trị nghệ thuật của kịch Lưu Quang Vũ nói chung và mảng kịch

khai thác truyện dân gian nói riêng. Tuy nhiên đến nay, nhìn chung kịch vẫn

chưa được tìm hiểu nhiều và sâu trong trường học, chưa có vị trí tương xứng

với giá trị đích thực của nó.

Xuất phát từ các lí do khách quan trên, cùng với lòng yêu mến, ngưỡng

mộ tài năng Lưu Quang Vũ, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu:“Nhân vật

nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ”.Qua nghiên

cứu đề tài, chúng tôi rất mong muốn góp phần tìm hiểu sâu hơn về thể loại được

coi là siêu đẳng trong văn học, tìm hiểu sâu sắc hơn về mảng kịch khai thác

truyện dân gian, từ đó lí giải thấu đáo đầy đủ đặc trưng và giá trị ý nghĩa những

đoạn trích các vở kịch của tác giả trong sách giáo khoa, phục vụ cho công tác

nghiên cứu cũng như giảng dạy trong nhà trường. Đồng thời qua đây góp phần

3

đánh giá vị trí và đóng góp lớn lao của tác giả Lưu Quang Vũ đối với thể loại

kịch nói riêng và nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Bởi Lưu Quang

Vũ là một tác giả lớn có tầm ảnh hưởng rộng lớn đối với diện mạo văn học và

đối với công chúng không chỉ hôm nay mà chắc chắn cả mai sau, tầm đón đợi

các vở kịch của Lưu Quang Vũ sẽ còn sức lan tỏa mạnh mẽ và mãnh liệt qua

chiều kích của thời gian.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Những công trình nghiên cứu, đánh giá chung về các tác phẩm của

Lưu Quang Vũ

Lưu Quang Vũ được biết đến là một tài năng đa dạng, ông khởi đầu sự

nghiệp với thơ và cuối cùng khẳng định tên tuổi sáng chói ở thể loại kịch.

Những năm tám mươi của thế kỉ XX, cùng với những tác phẩm của mình, Lưu

Quang Vũ đã gây sự chú ý lớn trong diễn đàn văn học. Sau sự ra đời của các

tập thơ, truyện ngắn và kịch (đặc biệt là sau ngày Lưu Quang Vũ mất đi) đã có

rất nhiều ý kiến đánh giá, nhiều bài viết, bài bình, nhiều công trình nghiên cứu

về các tác phẩm của Lưu Quang Vũ.

Ở giai đoạn đầu, nhiều các bài báo, các nhà phê bình viết về các tác phẩm

thơ của Lưu Quang Vũ của các nhà nghiên cứu như: Hoài Thanh với “Một cây

bút trẻ nhiều triển vọng”; Vũ Quần Phương với “Đọc thơ Lưu Quang Vũ”;

Vương Trí Nhàn với “ Những bài thơ viển vông cay đắng u buồn viết trong

những năm tháng chiến tranh”; Phạm Xuân Nguyên với “Tâm hồn trở gió”;

Lưu Khánh Thơ với “Tình yêu- đau xót và hi vọng”; Nguyễn Thị Minh Thái

với “Thơ tình Lưu Quang Vũ”; Vũ Quang Vinh với “Đọc Mây trắng của đời

tôi nhớ Lưu Quang Vũ”; Bích Thu với “Những bài thơ sống với thời gian”…

Nhìn chung về thơ, qua các bài viết các nhà nghiên cứu phê bình đều

thống nhất cho rằng Lưu Quang Vũ là một hồn thơ nhiều cảm xúc, mang một

4

tình yêu trong trẻo với quê hương đất nước, một cái tôi đam mê đắm đuối nhiều

khao khát mà cũng thật chân thành, độ lượng trong tình yêu.

Hai tập truyện ngắn của Lưu Quang Vũ là “Người kép đóng hổ” và “Mùa

hè đang đến” cũng thu hút nhiều nhà phê bình nghiên cứu. Tiêu biểu đó là các

bài viết: “Văn xuôi Lưu Quang Vũ- cầu nối giữa thơ và kịch” của Phong Lê;

“Truyện ngắn Lưu Quang Vũ” của Lê Minh Khuê; “Lưu Quang Vũ qua hai tập

truyện ngắn Người kép đóng hổ và Mùa hè đang đến” của Lê Dục Tú… Ở các

bài viết này các tác giả đã chỉ ra chất thơ cũng như hơi hướng kịch trong truyện

ngắn của Lưu Quang Vũ. Các bài viết đã cho thấy truyện ngắn của ông “thấm

đẫm những hồi ức, những xao động của một đời người. Truyện ngắn Vũ có

những nhân vật nhân hậu như chính tác giả của nó”[23,tr.137] và “…có nhiều

chuyện đã làm cho người đọc cảm động thực sự là thấy mình dường như phải

sống tốt hơn, có trách nhiệm hơn với con người và cuộc sống” [23,tr.140]

Đến thể loại kịch, với một số lượng tác phẩm lớn chỉ trong vòng gần

mười năm sáng tác, Lưu Quang Vũ đã tạo nên tiếng vang lớn cho sân khấu kịch

trường những năm 80 của thế kỉ XX. Sau hàng loạt các vở diễn gây tiếng vang

như Nàng Sita, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tôi và chúng ta, Lời thề thứ 9,

Nguồn sáng trong đời,... cũng đã tạo được sự chú ý cho công chúng và giới

nghiên cứu phê bình. Phải kể đến các bài viết như: Con đường sáng tạo của

một tài năng của Ngô Thảo; Kịch pháp Lưu Quang Vũ của G.S Phan Ngọc;

Phép ứng xử với cái chết trong kịch Lưu Quang Vũ (Phan Trọng Thưởng); Sự

khai thác mô-típ dân gian trong kịch Lưu Quang Vũ (Lưu Khánh Thơ);Kịch

Lưu Quang Vũ và những vấn đề của đời sống (Cao Minh)… Những ý kiến đánh

giá về kịch Lưu Quang Vũ đều có chung nhận xét: tác giả Lưu Quang Vũ là

một tài năng lao động nghệ thuật thực thụ, sức sáng tạo đặc biệt của “một

Moliere ở Việt Nam”, đề tài kịch của Lưu Quang Vũ rất đa dạng đặc biệt bắt

nhịp với cuộc sống mới, chất lượng kịch của Lưu Quang Vũ hấp dẫn lôi cuốn

ở cách tổ chức xung đột kịch, ở ngôn ngữ và nghệ thuật xây dựng nhân vật.

5

Lưu Quang Vũ đến với sân khấu đúng vào lúc sân khấu Việt Nam đang có

những đòi hỏi khẩn thiết. Đó là nhiệm vụ phản ánh những vấn đề nóng bỏng,

cấp thiết, nổi cộm lên trong đời sống xã hội và bối cảnh đổi mới của đất nước

sau chiến tranh. Giá trị lâu dài của tác phẩm của Lưu Quang Vũ chính là tính

nhân đạo cao cả và tính triết lý sâu sắc. Chính vì vậy, trên sân khấu cũng như

trong cuộc sống xã hội hiện nay, những nội dung mà kịch bản của tác giả Lưu

Quang Vũ đề cập đến vẫn vẹn nguyên giá trị. Khái quát về đời văn của Lưu

Quang Vũ, tác giả Lưu Khánh Thơ và Lý Hoài Thu với cuốn “Lưu Quang Vũ

về tác giả và tác phẩm” đã có một công trình mang tính tổng lược và hoàn

chỉnh về đường nghệ thuật của Lưu Quang Vũ từ một nhà thơ, nhà văn, nhà

phê bình đến khi trở thành một tác giả hàng đầu của sân khấu Việt Nam. Bài viết

đã chỉ rõ:“Lưu Quang Vũ có hai mươi năm vui buồn cùng thơ và mười năm

cuối đời song hành cùng kịch, nhưng trong mười năm ấy tài năng của Lưu

Quang Vũ đã tỏa sáng và tạo cho mình một phong cách một kịch pháp và trở

thành một hiện tượng nổi bật nhất của sân khấu Việt Nam thời kì đổi mới”

Những cuốn sách tổng hợp các công trình nghiên cứu về Lưu Quang Vũ

đã được xuất bản như cuốn Lưu Quang Vũ thơ và đời; Lưu Quang Vũ tài năng

và lao động nghệ thuật (Lưu Khánh Thơ); Lưu Quang Vũ về tác giả và tác

phẩm (Lưu Khánh Thơ – Lý Hoài Thu); Tác phẩm đạt giải thưởng Hồ Chí

Minh (do Lưu Khánh Thơ biên soạn các vở kịch của Lưu Quang Vũ)…

Ngoài ra còn có nhiều luận văn, luận án tiến sĩ, các bài nghiên cứu của

sinh viên chuyên ngành về các tác phẩm của Lưu Quang Vũ như: Lê Hương

Giang (2010) với Giá trị tư tưởng và nghệ thuật trong kịch Lưu Quang Vũ,

Nguyễn Hồng Yến (2014) với Liên văn bản trong kịch Lưu Quang Vũ, Tô Thị

Kim Thoa (2011) với Mảng kịch dựa trên tích truyện dân gian của Lưu Quang

Vũ, Lê Hoa (2010) với Thế giới nghệ thuật kịch của Lưu Quang Vũ, Phan Trọng

Thành (2008) với Những giá trị nội dung xã hội và nghệ thuật trong kịch Lưu

Quang Vũ….

6

Qua các công trình nghiên cứu kể trên có thể thấy các công trình nghiên

cứu về Lưu Quang Vũ khá phong phú về số lượng và hướng tiếp cận. Điều này

cho thấy sức thu hút cũng như sức sống mạnh mẽ của những tác phẩm Lưu

Quag Vũ nói chung và kịch nói riêng, đồng thời cũng gợi mở cho chúng tôi

hướng tiếp cận nghiên cứu mới mẻ của mình về mảng kịch khai thác truyện dân

gian của Lưu Quang Vũ.

2.2. Những công trình nghiên cứu về mảng kịch khai thác truyện dân gian

của Lưu Quang Vũ

Các nhà nghiên cứu tập trung vào hai đề tài chính trong kịch của Lưu

Quang Vũ là đề tài khai thác mô típ truyện cổ dân gian và đề tài hiện đại viết

về cuộc sống mới để đưa ra những nhận xét đánh giá về tài năng nghệ thuật,

cội nguồn sáng tạo nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Dù là ở đề tài nào, các tác

giả nghiên cứu đều có những đánh giá xác đáng, làm rõ thành công và đặc trưng

của mỗi vở. Trong giới hạn của đề tài này, chúng tôi chỉ đi tìm hiểu những bài

nghiên cứu về các vở kịch thuộc đề tài khai thác truyện dân gian để thấy được

sự cách tân của Lưu Quang Vũ khi tiếp thu văn học truyền thống. Có thể thấy

các nhà nghiên cứu đã dành nhiều sự quan tâm cho mảng kịch có số lượng ít

mà đầy thú vị này. Có những bài viết mang ý nghĩa đánh giá khái quát về mảng

kịch này và cả những bài biết về từng tác phẩm cụ thể. Trong số đó các bài viết

về tác phẩm kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt nhận được nhiều sự quan tâm

hơn cả.

Với Lưu Quang Vũ - một tài năng, một đời người (tác giả Vũ Hà - Ngô

Thảo), trong phần viết Con đường sáng tạo của một tài năng của Ngô Thảo,

tác giả đã chia kịch của Lưu Quang Vũ làm ba loại, bên cạnh mảng kịch dựa

cốt truyện văn học và do sáng tác thì mảng kịch dựa tích truyện dân gian tuy số

lượng ít nhưng lại chiếm vị trí nhất định trong thành công và sự nghiệp của tác

giả. "Riêng tôi cứ tin là rồi cái vở kịch mượn tích xưa nay (có nhiều thay đổi -

tất nhiên) rồi sẽ còn trên sân khấu một thời gian dài hơn” [26,tr.65] - đó là suy

7

ngẫm của Ngô Thảo về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Dù sao điều có

ý nghĩa nhất là tác giả đã phân loại kịch của Lưu Quang Vũ, tạo nên tính khoa

học, hệ thống trong quá trình nghiên cứu.

Tác giả Phan Trọng Thưởng khi tìm hiểu về mảng kịch này đã chỉ ra Phép

ứng xử với cái chết trong kịch Lưu Quang Vũ, đặc biệt là đến vở Hồn Trương

Ba, da hàng thịt, tác giả chỉ ra vấn đề sống - chết còn được Lưu Quang Vũ nâng

lên bình diện triết học - dựa trên nền cốt truyện mang đạo lý dân gian.

Tác giả Cao Minh trong Kịch Lưu Quang Vũ và những vấn đề của đời

sống đã nêu "Từ một truyện cổ dân gian mang tính triết lý cao, Lưu Quang Vũ

sáng tác vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Vở kịch đi thẳng vào người xem

với vấn đề muôn thuở của con người, cũng là vấn đề cấp bách của cuộc sống

hiện tại” [23,tr174-175]

Tác giả Phạm Thị Thành: "Anh cũng hay dùng các câu chuyện huyền

thoại, cổ tích để viết lên những tâm sự của con người hôm nay” [26,tr.251-252].

Phạm Vĩnh Cư gọi Hồn Trương Ba, da hàng thịt là bi hùng kịch, Lưu Quang

Vũ đã "đổ rượu mới vào bình cũ kể lại chuyện hài cổ như một bi kịch triết lý

thời nay với hai chiều kích đan thoa: chiều kích nhân sinh - xã hội và chiều kích

bản thể siêu hình”.

Các bài viết hầu hết tập trung làm rõ một số đặc điểm và giá trị của vở

kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt và một số vở kịch khác trong mảng kịch khai

thác truyện dân gian tuy nhiên còn mang tính chất rời rạc lẻ tẻ. Duy nhất cho

đến nay, PGS.TS Lưu Khánh Thơ trong bài viết Sự khai thác mô típ dân gian

trong kịch Lưu Quang Vũ đã có sự quan tâm đúng mức đến mảng kịch dựa trên

tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ với những luận điểm rõ ràng, cụ thể:

“Việc khai thác các mô típ dân gian, dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm

dấu ấn cá nhân và phong cách của mình đã tạo cho kịch Lưu Quang Vũ một

chiều sâu đáng kể. Nó tạo cho kịch của anh sự phong phú về đề tài, hấp dẫn ở

cốt truyện, lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Trong số kịch bản của Lưu

8

Quang Vũ, khối lượng những vở khai thác trực tiếp từ cốt truyện dân gian

không nhiều lắm, nhưng hầu hết những vở kịch đó đều đạt tới hiệu quả nghệ

thuật tương đối cao. Tiêu biểu nhất là vở “Hồn Trương Ba da hàng thịt” [8,166].

“Lời nói dối cuối cùng cũng là một vở kịch khai thác vốn cổ dân gian mà vẫn

giầu ý nghĩa hiện đại của Lưu Quang Vũ” [8,tr.168]. Vở kịch Ông vua hoá hổ

cũng được phân tích theo hệ thống của những tác phẩm thuộc mảng kịch dựa

trên tích truyện dân gian. Cuối cùng, PGS.TS Lưu Khánh Thơ kết luận: "Tài

năng của nhà viết kịch một lần nữa được khẳng định trong việc biến cổ tích,

huyền thoại thành chuyện của thời hiện đại, nêu lên cái muôn đời trong những

cái bình thường”[8,tr.169]. Trong Tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh,

tác giả Lưu Khánh Thơ cũng đã có những nhận xét về đóng góp của Lưu Quang

Vũ đối với nền văn học kịch Việt Nam và những lưu ý tới mảng kịch dựa trên

tích truyện dân gian, cụ thể là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt.

Cho đến gần đây đã có thêm một số luận văn, các bài nghiên cứu của sinh

viên chuyên ngành về mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ,

tuy nhiên mới dừng lại ở mức độ khái quát, đi vào tìm hiểu những vấn đề chung

nhất của mảng kịch. Đó là của tác giả Mai Thị Tâm với Mảng kịch dựa trên tích

truyện dân gian của Lưu Quang Vũ (2007); tác giả Tô Thị Kim Thoa với Mảng

kịch dựa trên tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ (2011).

Nhìn chung đối với mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang

Vũ thì còn rất nhiều vấn đề hầu như còn chưa được đi sâu tìm hiểu, còn rất

nhiều khía cạnh mang ý nghĩa giá trị sâu sắc chưa được khai phá nghiên cứu.

Đặc biệt qua khảo sát chúng tôi nhận thấy chưa có bài viết và công trình nghiên

cứu nào đi sâu tìm hiểu về nhân vật nữ trong mảng kịch này. Vì vậy với đề tài

“Nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ”

chúng tôi hi vọng sẽ khơi mở được những vấn đề còn mới mẻ hay đang dang

dở, qua đó góp phần đánh giá chiều sâu giá trị của kịch Lưu Quang Vũ. Song

phải khẳng định rằng, những đánh giá, nhận định ban đầu của các tác giả, các

9

nhà nghiên cứu đã tạo tiền đề, gợi ý quý báu cho người viết luận văn này; qua

đó góp phần tạo nên cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về kịch Lưu Quang Vũ

cũng như hiểu được sự cách tân sáng tạo của tác giả khi tiếp thu văn học dân

gian.

3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là nhân vật nữ trong mảng kịch

khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ qua 4 kịch bản: Lời nói dối cuối

cùng, Ông vua hóa hổ, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Linh hồn của đá.

3.2. Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn hướng tới mục tiêu làm rõ hình tượng nhân vật nữ được tác giả

xây dựng trong mảng kịch khai thác truyện dân gian. Sự tìm hiểu về hình tượng

nhân vật nữ có thể đem lại cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về quan niệm nhân

sinh của Lưu Quang Vũ về con người, về cuộc sống.

4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Làm rõ những vấn đề của thể loại kịch và sự đóng góp của Lưu Quang Vũ

đối với sân khấu kịch Việt Nam. Làm rõ đặc điểm nhận vật nữ và nghệ thuật xây

dựng nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ.

4.2. Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: Phương pháp

thống kê, phân loại, Phương pháp so sánh đối chiếu, Phương pháp hệ thống,

Phương pháp phân tích tổng hợp, Phương pháp nghiên cứu liên ngành.

5. Phạm vi nghiên cứu

10

Tìm hiểu về nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của

Lưu Quang Vũ, chúng tôi nghiên cứu 4 kịch bản: Lời nói dối cuối cùng, Ông

vua hóa hổ, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Linh hồn của đá.

6. Đóng góp của luận văn

Luận văn đi sâu vào tìm hiểu về nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác

truyện dân gian của Lưu Quang Vũ, qua đó góp phần tạo nên cái nhìn sâu sắc,

toàn diện hơn về kịch Lưu Quang Vũ cũng như hiểu được sự cách tân sáng tạo

của tác giả khi tiếp thu VHDG. Đó là cơ sở lí luận để cảm hiểu sâu sắc, giảng

dạy hiệu quả các tác phẩm kịch được đưa vào giảng dạy trong nhà trường như

vở Hồn Trương Ba da hàng thịt.

7. Kết cấu của luận văn

Luận văn của chúng tôi được triển khai thành 3 phần: Phần mở đầu, phần

nội dung và phần kết luận.

Phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề của thể loại kịch và hiện tượng Lưu Quang Vũ

đối với sân khấu kịch thời kì đổi mới

Chương 2: Loại hình nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân

gian của Lưu Quang Vũ

Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác

truyện dân gian của Lưu Quang Vũ

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1

11

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA THỂ LOẠI KỊCH VÀ HIỆN TƯỢNG LƯU

QUANG VŨ ĐỐI VỚI SÂN KHẤU KỊCH VIỆT NAM

1.1. Một số giới thuyết về thể loại kịch và sự xuất hiện, phát triển của kịch

ở Việt Nam

1.1.1. Một số giới thuyết về thể loại kịch

1.1.1.1 Khái niệm về thể loại

Theo Từ điển thuật ngữ văn học ở cấp độ loại hình thì kịch là một trong

ba phương thức tồn tại cơ bản của văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa

thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Nó vừa để diễn là chủ yếu lại vừa để đọc vì

kịch bản chính là phương diện văn học của kịch.

Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc

những xung đột mang tính nhân loại. Những xung đột ấy được thể hiện cụ thể

qua hành động kịch và ngôn ngữ kịch trong một cốt truyện chặt chẽ giàu kịch

tính trong những tình huống độc đáo.

Căn cứ vào nội dung kịch, có thể chia thành các thể loại: hài kịch, bi

kịch, bi hài kịch, chính kịch... Cũng có thể căn cứ vào nội dung của các đề tài

mà chia kịch thành: kịch cổ điển, kịch dân gian, kịch thần thoại, kịch hiện đại...

Cũng có cách phân chia khác dựa theo chính thời gian biểu diễn chia thành:

kịch ngắn, kịch dài.

Không nên đồng nhất kịch và kịch bản văn học. Nói đến kịch là nói đến

một loại hình của nghệ thuật sân khấu mang tính chất tổng hợp bao gồm nhiều

hoạt động của diễn viên, đạo diễn, hóa trang, ánh sáng, âm thanh... Kịch bản

văn học chỉ là một yếu tố, dù đó có thể là một trong những yếu tố đầu tiên và

quan trọng nhất của kịch. Kịch bản văn học là tác phẩm văn học, có đầy đủ đặc

điểm của nghệ thuật ngôn từ. Còn sân khấu thuộc nghệ thuật biểu diễn.

12

Kịch bản văn học viết ra là để biểu diễn nên cũng đậm chất sân khấu. Vì

thế khi xem xét kịch bản văn học một mặt phải xem nó như một tác phẩm nghệ

thuật, mặt khác không thể tách rời nó khỏi nghệ thuật sân khấu mới thấy hết

được những đặc trưng của nó.

Nhìn dưới cấp độ như một thể loại, kịch ra đời vào khoảng nửa sau thế

kỉ XVIII với các sáng tác của các nhà văn khai sáng ở Pháp và Đức như là

G.E.Letsing, Boomacse, Didoro….

1.1.1.2. Một số đặc trưng của thể loại kịch

- Xung đột kịch:

Kịch bắt đầu từ xung đột. Pha đê ép cho rằng: "Xung đột là cơ sở của

kịch". Hiểu theo nghĩa hẹp, xung đột trong tác phẩm kịch là sự phát triển cao

nhất sự mâu thuẫn của hai hay nhiều lực lượng đối lập thông qua một sự kiện

hay một diễn biến tâm lí cụ thể được thể hiện trong mỗi màn, mỗi hồi kịch. Có

thể có rất nhiều loại xung đột khác nhau. Có xung đột biểu hiện của sự đè nén,

giằng co, chống đối giữa các lực lượng, có xung đột được biểu hiện qua sự đấu

tranh nội tâm của một nhân vật, có xung đột là sự đấu trí căng thẳng và lí lẽ để

thuyết phục đối phương giữa hai lực lượng...Do tính chất sân khấu quy định

cho nên trong khi phản ánh hiện thực, tác giả kịch bản buộc phải bước vào

những mâu thuẫn trong cuộc sống đã phát triển đến chỗ xung đột, đòi hỏi phải

được giải quyết bằng cách này hay cách khác. Vì vậy, có thể nói xung đột là

đặc điểm cơ bản của kịch. Hégel cho rằng "tình thế giàu xung đột là đối

tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch".

Xung đột kịch cần phải phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của xã hội và

thời đại, nói cách khác là luôn mang tính lịch sử cụ thể. Ở những thời đại khác

nhau có những xung đột khác nhau. Ở thời cổ đại, đó là sự xung đột giữa thế

giới quan thần linh, tư tưởng định mệnh với khát vọng làm chủ thiên nhiên, làm

13

chủ bản thân của con người. Trong xã hội nô lệ, đó là xung đột giữa những

người nô lệ muốn đấu tranh giành lại tự do với bọn chủ nô. Trong xã hội phong

kiến, đó là xung đột giữa một bên là uy quyền của vua chúa, quan lại với người

dân bị áp bức và đòi được giải phóng. Trong thời kì hiện đại, các xung đột

thường xoay quanh những vấn đề cách mạng và phản cách mạng, cái thiện, cái

ác, cái mới, cái cũ, cái tốt, cái xấu...

Xung đột kịch do tính chất sân khấu quy định đồng thời xung đột làm

cho kịch có tính sân khấu. Sức hấp dẫn của một vở kịch là ở chỗ nhà văn phải

phát hiện, nêu ra và giải quyết các xung đột lớn nhỏ trong vở kịch. Các yếu tố

khác của kịch phải góp phần tô đậm xung đột và dẫn đến một kết cục sâu sắc,

gần gũi với những vấn đề của cuộc sống.

Xét một vài đặc điểm về xung đột kịch như vậy, có thể nói xung đột là

yếu tố quan trọng không thể thiếu trong kịch. “Giá trị tư tưởng nghệ thuật của

vở kịch phụ thuộc vào việc lựa chọn đúng đắn xung đột kịch và xung đột kịch

chỉ có thể trở thành cơ sở tốt đẹp của vở kịch khi nó nảy sinh ra như một sự

phản ánh độc đáo những mâu thuẫn điển hình của cuộc sống” [16,tr.20]

- Hành động kịch:

Hành động kịch cũng là một đặc trưng nổi bật của kịch bởi kịch là một

thể loại mang lại sự nhận thức thực tại thông qua yếu tố hành động. Xung đột

kịch được triển khai thông qua các hành động. Hành động là cơ sở cơ bản của

một tác phẩm kịch. Tuy nhiên không thể hiểu đơn giản hành động kịch chỉ là

lời nói cử chỉ, dáng điệu (ngôn ngữ cơ thể) của diễn viên.

Hành động kịch chính là sự thể hiện trực tiếp nội dung của xung động

kịch. Hành động kịch chính là cốt truyện được tổ chức một cách thống nhất và

chặt chẽ trong một khuôn khổ hoàn chỉnh của một tác phẩm nghệ thuật. Kịch

có cốt truyện chặt chẽ vừa đủ không có chỗ cho những vụn vặt, trữ tình ngoại

14

đề,…. Vì vậy, hành động kịch thường được tổ chức theo quan hệ nhân quả chặt

chẽ. Hành động này là kết quả của hành động trước và là nguyên nhân của hành

động sau.

Hành động kịch gắn chặt với nhân vật kịch, là trục chính để thể hiện tính

cách nhân vật. Hành động kịch thể hiện ý thức cũng như cảm xúc của nhân vật

qua đó thể hiên xung đột kịch. Hành động kịch có thể được chia thành hành

động bên trong và hành động bên ngoài. Hành động bên trong là những diễn

biến tâm lí, những suy nghĩ, tâm trạng thể hiện rõ nét đời sống nội tâm của nhân

vật. Hành động bên ngoài là những điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười… của

nhân vật kịch (do các diễn viên thể hiện trên sân khấu).

- Nhân vật kịch

Một vở kịch được diễn trên sân khấu, chỉ có nhân vật đi lại, nói năng,

hoạt động. Trong kịch bản văn học, ngoài nhân vật, còn có những lời chỉ dẫn

về cảnh vật, con người thường được in nghiêng được tác giả viết nhằm gợi ý

cho sự dàn dựng của nhà đạo diễn chứ không phải cho người xem. Vì vậy, có

thể nói trên sân khấu chỉ có nhân vật hành động. Tất cả mọi sự việc trong vở

kịch đều được bộc lộ thông qua nhân vật kịch.

Ðiểm khác nhau cơ bản giữa tác phẩm kịch với tác phẩm tự sự và kí là

kịch không có nhân vật người kể chuyện. Maxim Gorki cho rằng: "Kịch, bi

kịch, hài kịch là thể loại khó nhất trong văn học, khó là vì một vở kịch đòi hỏi

mỗi nhân vật trong vở kịch phải thể hiện tính cách bằng lời nói và hành động

không có lời mách bảo, gợi ý của tác giả. Các nhân vật kịch được hình thành là

do lời lẽ của họ và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi nghĩa là tác giả xây

dựng nhân vật bằng ngôn ngữ hội thoại chứ không phải bằng ngôn ngữ miêu

tả".

15

Tác phẩm kịch được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu, bị hạn chế

bởi không gian và thời gian nên số lượng nhân vật không thể quá nhiều như

trong các tác phẩm tự sự và cũng không được khắc họa tỉ mỉ, nhiều mặt. Do đó,

trong kịch tính cách nhân vật được tạo ấn tượng nổi bật và xác định nhằm gây

ấn tượng mãnh liệt và sâu sắc cho khán giả. Hiển nhiên sự nổi bật, tập trung đó

không có nghĩa là đơn giản, một chiều. Xoay quanh một nét tính cách khác,

vừa liên đới, vừa biến thái làm cho gương mặt của nhân vật sinh động và đa

dạng hơn.

Nhân vật của kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do

đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những xung đột đó, con người

bắt buộc phải hành động và vì vậy, con người không thể không đắn đo, suy nghĩ,

cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt... Đặc trưng này cũng được thể hiện trong các loại

văn học khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phổ biến nhất trong kịch.

Chính từ đặc điểm này, nhiều tác giả kịch đã dùng biện pháp lưỡng hóa nhân vật

nhằm biểu hiện cuộc đấu tranh nội tâm của chính nhân vật đó.

- Ngôn ngữ kịch:

Một phương tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch là ngôn ngữ.

Trong kịch không có nhân vật người kể chuyện nên không có ngôn ngữ người

kể chuyện. Vở kịch được diễn trên sân khấu chỉ có ngôn ngữ nhân vật. Có thể

nói đến 3 dạng ngôn ngữ nhân vật trong kịch: đối thoại, độc thoại và bàng thoại.

Ðối thoại là lời các nhân vật nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các

nhân vật. Ðây là dạng ngôn ngữ phổ biến nhất trong kịch. “Đối thoại là thể chất

và linh hồn kịch. Kịch là văn bản đối thoại, hoặc bản viết thành lời, hoặc lời

nói viết thành vă bản” [13,tr.314] . Các lời đối thoại trong kịch phải sắc sảo,

sinh động và có tác dụng hỗ trợ tương với nhau nhằm thể hiện kịch tính, “thúc

đẩy hành động, là những chuyển động, gặp gỡ nhau, bị cản trở, va chạm nhau,

tạo thành xung đột kịch” [13,tr.323]

16

Ðộc thoại là lời nhân vật tự nói với chính mình, tự giãi bày tâm tư tình

cảm của mình. Ðây là biện pháp quan trọng nhất nhằm biểu hiện nội tâm nhân

vật nhưng không phải là biện pháp duy nhất. Ðể biểu hiện nội tâm, bên cạnh

độc thoại, người ta có thể thay thế bằng những phút yên lặng, những tiếng đế..

Bàng thoại là lời nói riêng với khán giả: Có khi đang đối đáp với một

nhân vật khác, bỗng nhiên nhân vật tiến lên về phía khán giả nói vài câu để

giải thích một cảnh ngộ, một điều bí mật. Loại này rất hiếm, chỉ thấy trong loại

kịch tự sự như của Brết, nhất là những lời giáo đầu trong tuồng chèo ở ta”

[13,tr.410]

Về đặc điểm, ngôn ngữ kịch phải là ngôn ngữ mang “tính hành động,

tính khẩu ngữ, tính hàm súc, tính tổng hợp và phải phù hợp với tính cách của

nhân vật” [13,tr.410]. Trước hết, đó là những lời đối thoại thông thường trong

cuộc ssống, phải có tác dụng khắc họa tính cách, nghề nghiêp, tuổi tác, trình độ

văn hóa...của nhân vật. Nó mang sắc thái riêng của từng tình cách, do từ miệng

nhân vật nói ra, chứ không phải do tác giả. Ngôn ngữ trong kịch đòi hỏi phải

gắn liền mật thiết với động tác, điều này giúp người xem hiểu được những suy

nghĩ, tâm tư nhân vật.

Ngôn ngữ nhân vật kịch đòi hỏi người viết phải có một vốn hiểu biết

phong phú và sâu rộng về quần chúng, nắm được cách nói đa dạng của quần

chúng, điều này quan trọng đối với mọi nhà văn nói chung nhưng đặc biệt là

đối với người viết kịch.

1.1.2. Sự xuất hiện và phát triển của thể loại kịch ở Việt Nam

Ngay từ thuở bình minh của nền văn học Hi lạp - La mã cổ đại, kịch đã

xuất hiện và sớm trở thành một thể loại văn học thượng đẳng. Ở những giai

đoạn tiếp theo trong lịch sử châu Âu, kịch có một sức phát triển vượt trội và

rực rỡ, xuất hiện nhiều kịch gia lỗi lạc xứng tầm nhân loại. Đó là các tên tuổi

17

như:Corneill, Racine, Molier, Sechxpia… Ở Việt Nam, người ta biết đến kịch

như một thể loại văn học chính thức vào đầu thế kỉ XX.

Xuất hiện vào khoảng những năm 20 của thế kỉ XX cùng với tiến trình

hiện đại hóa văn học, thể loại kịch Việt Nam ghi nhận một số tên tuổi như tác

giả Vũ Đình Long với Chén thuốc độc, Tòa án lương tâm; Vi Huyền Đắc với

Ông Ký Cóp, Hai tối tân hôn, Kim tiền; Đoàn Phú Tứ với Mơ hoa, Những bức

thư tình, Ngã ba; Nguyễn Huy Tưởng với Vũ Như Tô… Lúc đầu chỉ các tác

phẩm dịch từ nước ngoài, sau đó là mô phỏng, phóng tác sau đó là sáng tác và

được công chúng đô thị tiếp nhận.

Kịch nói giai đoạn 1930 -1945 đã có những khởi sắc mới với các tác giả

tiêu biểu như Thế Lữ. Kịch giai đoạn này đã phản ánh được những mâu thuẫn

lớn trong đời sống xã hội lúc bấy giờ: sự đối kháng giữa cái mới và cái cũ, giữa

Tây học và Nho học, giữa tư tưởng đạo đức phong kiến với lối sống tự do đề

cao cái tôi cá nhân của cơn gió Âu hóa tràn vào nước ta.

Từ sau cách mạng tháng Tám 1945, kịch cũng như nhiều thể loại khác

của nền văn học dân tộc đã thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị phục vụ cuộc kháng

chiến chống Pháp của dân tộc. Các vở kịch tạo được tiếng vang thời kì này như:

Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hòa của Học Phi,

Lòng dân của Nguyễn Văn Xe… Phần lớn nội dung các vở kịch hướng về đời

sống kháng chiến và cách mạng của dân tộc.

Thời kì kháng chiến chống Mỹ, kịch đã có bước chuyển biến phát triển

mạnh cả về số lượng và chất lượng. Hòa chung với không khí đấu tranh chống

Mỹ của dân tộc, kịch thời kì này phản ánh hai vấn đề nóng hổi của đất nước lúc

bấy giờ đó là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh

giải phóng dân tộc ở miền Nam. Những vở kịch tiêu biểu ở giai đoạn này như

vở: Lập Xuân, Quê hương của Xuân Trình; Nổi gió, Đại đội trưởng của tôi, Tổ

quốc của Đào Hồng Cẩm, Đôi mắt của Vũ Dũng Minh Tiền tuyến gọi của Trần

18

Quán…

Sau 1975, chiến tranh kết thúc hòa bình lập lại, hiện thực cuộc sống có

nhiều biến đổi. Bước ra khỏi cuộc chiến tranh trường kì, dân tộc lại phải đối

mặt với rất nhiều khó khăn chồng chất. Hiện thực cuộc sống thay đổi cần cái

nhìn đa diện nhiều chiều và đời sống con người cá nhân cũng được đặt lên một

vị trí mới trong văn học. Văn học từ sau 1975 đặc biệt sau đổi mới đã có bước

chuyển mình, trong đó kịch không thể đứng ngoài dòng chảy chung.

Kịch giai đoạn này có bước phát triển nhảy vọt tạo nên một đời sống sân

khấu sôi động với nhiều thành tựu lớn đáng ghi nhận. Nhà nghiên cứu Vũ

Quang Vinh trong bài viết Vài nét về sự phát triển của kịch nói ba mươi năm

1954-1984 đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 1/1985 đã nhận xét “với

sự tăng tiến cả về số lượng và chất lượng các tiết mục, cũng như sự mạnh dạn

và phong phú trong những đổi mới, tìm tòi, sáng tạo, chúng ta vui mừng vì đã

có một nền kịch nghệ tương đối hoàn chỉnh”. Sân khấu kịch thời kì này diễn

ra sôi động, nhiều vở kịch gây tiếng vang, như hàng loạt các vở kịch của Lưu

Quang Vũ: Tôi và chúng ta, Lời thề thứ chín, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tất

Đạt với Đỉnh cao mơ ước, Xuân Trình với Mùa hè ở biển, Hoài Giao với Nhân

chứng và lịch sử…. Những vở kịch thời kì này đã phản ánh những vấn đề thời

sự nổi cộm của đời sống xã hội lúc bấy giờ. Những mâu thuẫn của chế độ quản

lí xã hội cũ kĩ với đời sống mới đòi hỏi sự đổi mới, những mâu thuẫn giữa cái

tốt-xấu nảy sinh trong xã hội thời hậu chiến… Các vấn đề được đặt ra cấp thiết

kịp thời đã mang đến cho người đọc người xem niềm tin vào cuộc sống đang

có quá nhiều biến động. Có thể khẳng định đây chính là thời kì vàng son của

sân khấu kịch Việt Nam.

Nhìn lại gần một thế kỉ phát triển của thể loại kịch ở Việt Nam, chúng

ta có thể thấy, tuy là một thể loại non trẻ hơn các thể loại khác nhưng kịch đã

hòa mình vào đời sống chung của dân tộc. Đi qua những thăng trầm biến thiên

19

của lịch sử dân tộc, kịch Việt Nam đã từng bước phát triển và trưởng thành và

đạt được nhiều thành tựu đặc sắc. Tuy còn nhiều hạn chế, thành quả cũng còn

khiêm tốn so vơi một số thể loại văn học khác nhưng kịch nói hiện đại đã khẳng

định được chỗ đứng của mình trong nền văn học dân tộc.

1.2. Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ – Hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch

Việt Nam

1.2.1. Tiểu sử

Tác giả Lưu Quang Vũ quê ở Đà Nẵng, sinh ngày 17/4/1984 tại Thiên

Cơ, Hạ Hòa, Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ) trong một gia đình gia giáo, yêu văn

học nghệ thuật. Cha ông, Lưu Quang Thuận, tác giả của một số vở kịch và hàng

loạt bài thơ từ trước cách mạng. Từ thủa bé, Lưu Quang Vũ đã sớm bộc lộ

những năng khiếu nghệ thuật và tư chất nghệ sĩ, từng 3 lần đoạt giải văn toàn

thành phố Hà Nội, mới 13 tuổi đã có truyện ngắn được in… Tuổi thơ Lưu

Quang Vũ được sống trong môi trường nghệ thuật và tham gia các hoạt động

nghệ thuật từ rất sớm.

Năm 1966, Lưu Quang Vũ vào bộ đội, được biên chế về quân chủng

phòng không không quân. Thời gian này Lưu Quang Vũ vẫn làm nhiều thơ,

viết truyện ngắn, tiểu phẩm. Có nhiều bài đăng trên các báo Nhân dân, Quân

đội nhân dân, Văn nghệ quân đội.

Năm 1970, Lưu Quang Vũ xuất ngũ, ông có gia đình riêng với vợ là diễn

viên Tố Uyên và con trai Lưu Minh Vũ. Tiếp sau đó là những năm tháng gian

nan vất vả trong cuộc đời ông: công việc bấp bênh, hạnh phúc riêng dang

dở…Trong hoàn cảnh khốn khó ấy, Lưu Quang Vũ vẫn không ngừng viết

truyện, làm thơ, sáng tác kịch. Năm 1973, ông lập gia đình với nữ sĩ Xuân

Quỳnh –một nhà thơ tài năng. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng cuộc

sống riêng của ông vẫn rất đầm ấm hạnh phúc – Nhà thơ Xuân Quỳnh dường

20

như là bến đỗ bình yên nhất sau những mất mát trong cuộc đời Lưu Quang Vũ.

Hạnh phúc nở hoa kết trái, họ sinh được người con trai Lưu Quỳnh Thơ.

Năm 1977, Lưu Quang Vũ làm biên tập ở Tạp chí Sân khấu với công

việc ổn định và phù hợp với khả năng của ông.

Ngày 29-8-1988, ông qua đời cùng vợ và con trai trong một tai nạn giao

thông, giữa lúc sự nghiệp đang ở đỉnh cao.

Lưu Quang Vũ ra đi để lại một khoảng trống vắng không gì bù đắp được

của đời sống sân khấu. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật,

bản thân có năng khiếu thiên bẩm, vượt lên bao thế sự thăng trầm của cuộc đời

riêng, Lưu Quang Vũ đã thực sự trở thành người nghệ sĩ lớn.

1.2.2. Con đường trở thành nhà viết kịch của Lưu Quang Vũ

Nhiều người trở thành tác giả sân khấu từ những xuất phát điểm khác

nhau như: người từ nhà báo, nhà văn, đạo diễn, diễn viên và các ngành nghề

khác. Lưu Quang Vũ trước khi trở thành nhà viết kịch ông là một nhà thơ và

một nhà văn có ít nhiều thành công. Có thể nói “Lưu Quang Vũ đã được chuẩn

bị một vốn liếng văn học và nghề nghiệp nhất định trước khi bước vào lĩnh vực

sân khấu” [23,tr.141]

1.2.2.1. Sự nghiệp thi ca là tiền đề cho chất trữ tình trong kịch của Lưu Quang

Trước khi xuất hiện trên sân khấu, Lưu Quang Vũ đã được mọi người biết

đến với tư cách là một nhà thơ trẻ có năng khiếu thiên bẩm. Giới phê bình văn

học, mà cụ thể là Hoài Thanh đã khẳng định “Lưu Quang Vũ là một cây bút trẻ

nhiều triển vọng” [23,tr.7]. Hoài Thanh đã sớm nhận ra một hồn thơ trong trẻo

rất hồn nhiên trong cảm xúc và cũng rất già dặn suy tư khi đọc những bài thơ

đầu tiên của ông. Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng thơ “là nơi lý thác nhiều

nhất”, “cốt cách thi sĩ vẫn là nét nổi trội nhất trong tâm hồn anh” [23,tr.33]. Sự

21

nghiệp thơ của ông bắt đầu nở rộ từ những năm 1970 trở đi, khi mà cuộc đời

ông gặp vô vàn khó khăn. Ông làm thơ như để bày tỏ những giãi bày những nỗi

niềm riêng, cả niềm vui nỗi buồn và cả những đớn đau đổ vỡ của cuộc đời. Lưu

Quang Vũ mất sớm nhưng cũng đã có hơn 20 năm sáng tác thơ, và cũng đã kịp

đặt tên cho 12 tập thơ, trong đó đã có nhiều tập hoàn chỉnh như: Cỏ tóc tiên,

Hương cây (in năm 1968), Mây trắng của đời tôi (in năm 1989), Cuốn sách xếp

lầm trang, Bầy ong trong đêm sâu (in năm 1993)…

Có nhiều công trình nghiên cứu về thơ Lưu Quang Vũ, hầu hết đều chỉ

rõ đặc trưng cơ bản của thơ ông đó là chất đắm đuối đam mê và nhiều khát

vọng. Như ta đã biết, kịch là sự kết hợp giữa nguyên lí sử thi và chủ thể độc lập

của thơ trữ tình. Cái Tôi trữ tình của Lưu Quang Vũ trong thơ chính là chủ thể

tự khẳng định mình bằng những khát vọng của cá nhân, sự bộc lộ nội tâm hoàn

toàn độc lập. Cái Tôi sử thi trong thơ Lưu Quang Vũ là bộc lộ tinh thần dân tộc

qua ý muốn chủ thể, mục đích cá nhân với hoàn cảnh bên ngoài và cản trở thực

tế, là sự cảm nhận hiện thực của chủ thể nghệ sĩ. Đây là tiền đề hết sức quan

trọng đối với con đường đi tới sân khấu kịch của Lưu Quang Vũ bởi vì trong

thơ của ông đã bộc lộ những cơ sở của những nguyên lí tạo nên kịch.

1.2.2.2. Truyện ngắn Lưu Quang Vũ- cầu nối từ thơ đến kịch

Truyện ngắn Lưu Quang Vũ phần nhiều là những câu chuyện kể nhẹ nhàng

về miền quê, về tuổi trẻ đầy mơ ước, khát vọng. Bên cạnh đó còn là những chân

dung của những con người hết sức bình thường trong cuộc sống. Vốn là một

nhà thơ nên có thể thấy truyện ngắn của ông cũng đẫm chất thơ. Mặc dù không

có được thành công đáng kể như ở hai thể loại kịch và thơ nhưng ông cũng có

được 3 tập truyện ngắn đáng kể như: Người kép đóng hổ, Mùa hè đang đến,

Một vùng mặt trận. Lê Minh Khuê cho rằng: “Truyện ngắn của anh khi đó là

có bản sắc riêng” [8,tr.133]. Mười năm sau chiến tranh, truyện ngắn của ông

xuất hiện “là tiếng nói của những người thường gặp, không to tát lên gân, ai

22

cũng có thể tìm thấy chút riêng của mình trong đó” [23,tr.133]. Điều đó có thể

nhận thấy sự chuyển mình của Lưu Quang Vũ trong các truyện ngắn cuộc sống

không chỉ là bức tranh hào hùng thơ mộng mà đã xuất hiện những khoảng tối

nhức nhối, bức xúc, những niềm riêng tư của con người đã được đề cập đến,

điều mà trong chiến tranh người ta gạt sang bên cạnh. Có thể nói truyện ngắn

của Lưu Quang Vũ là sự báo hiệu, là bước “tiền trạm” cho những vấn đề nóng

bỏng của xã hội mà ông sẽ thể hiện rõ nét thành hình trong các vở kịch sau này

của mình.

Tóm lại có thể thấy thơ là động lực, là cơ sở, còn truyện ngắn là sự bắt

đầu cho những vấn đề xã hội và khả năng khắc họa chân dung nhân vật mà sau

này làm bệ phóng cho ông bước vào kịch nói, nó là chất văn xuôi của kịch Lưu

Quang Vũ.

1.2.2.3. Kịch Lưu Quang Vũ- kết tinh tài năng

Năm 1987, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm biên tập viên ở Tạp chí sân khấu

và bến duyên với sân khấu kịch từ đây. Năm 1979, Lưu Quang Vũ hoàn thành

vở kịch đầu tay “Sống mãi tuổi mười bảy”. Vở kịch đầu tay này đã giành 5 giải

nhất khi tham gia Hội diễn sân khấu toàn quốc năm 1980. Năm 1981, vở kịch

“Cô gái đội mũ nồi xám” được dàn dựng và Lưu Quang Vũ trở thành cái tên

thực sự được công chúng chú ý trên sân khấu kịch. Tiếp đó, Lưu Quang Vũ

bằng tài năng và đam mê nghệ thuật đã cho ra đời nhiều tác phẩm kịch có giá

trị như: Người trong cõi nhớ (1982), Nguồn sángtrong đời (1984), Tôi và chúng

ta (1984), Hồn Trương Ba da hàng thịt (1984), Người tốt nhà số 5 (1984), Lời

nói dối cuối cùng (1984), Khoảnh khắc và vô tận (1986)…

Kịch của Lưu Quang Vũ phong phú nhiều đề tài: dã sử, dân gian, chiến

tranh, quân đội, đời sống… Kịch của ông mang tính thời sự nhạy bén, vừa có

tính khám phá sâu sắc, vừa có tính lâu dài. Mỗi vở kịch của ông đều chứa đựng

những triết lí sống của con người và thời đại, đánh thức ở con người lương tâm,

23

trách nhiệm và khả năng tự thanh lọc tâm hồn để vươn tới những điều tốt đẹp

hơn. Kịch của Lưu Quang Vũ ngoài sự phát hiện, xây dựng trên những nhân

vật mang dáng nét con người mới hôm nay và ngày mai, tác gải còn không ngần

ngại phê phán các kiểu nhân vật tiêu cực trong thực tế đời sống ở mọi tầng lớp,

thậm chí những dạng nhân vật và những vấn đề mà trước kia người ta né tránh

ngại đề cập đến.

Với 55 vở kịch được viết trong 10 năm, với 47 vở được đưa lên sàn diễn,

với 8 huy chương vàng, 2 huy chương bạc và nhiều giải thưởng khác thể hiện

sức làm việc bền bỉ phi thường của Lưu Quang Vũ cũng như vai trò vị trí của

ông trong nền sân khấu. Chính những đóng góp ấy mà khi nghiên cứu về ông,

một học giả người Pháp đã gọi ông là “Moliere ở Việt Nam tên là Lưu Quang

Vũ” [23,tr.162]. Hay như G.S Phan Ngọc nhận định “Lưu Quang Vũ là nhà viết

kịch lớn nhất thế kỉ này của Việt Nam, là một nhà văn hóa” và “có một kịch

pháp Lưu Quang Vũ”. Tác giả Cao Minh “Thông qua kịch của mình, Lưu

Quang Vũ đã góp phần quan trọng làm nên bộ mặt sân khấu thập kỉ tám mươi.

Và cất tiếng nói dũng cảm thức tỉnh cái tốt đẹp đang bị lấp phủ, cảnh tỉnh cái

xấu đang hoành hành, ngự trị trong cuộc sống đương đại”. Thời gian và sự yêu

mến của khán giả chính là thước đo rõ nhất giá trị của một tác phẩm nghệ thuật.

Những tác phẩm của Lưu Quang Vũ đã vượt qua được những thử thách khốc

liệt của thời gian để khẳng định chỗ đứng của mình.

1.3. Những đóng góp nổi bật từ mảng kịch khai thác truyện dân gian của

Lưu Quang Vũ

Lưu Quang Vũ là một tài năng nhiều mặt, ngay trong sân khấu kịch người

đọc người xem cũng sẽ thấy sự thành công đa dạng ở nhiều thể loại, đề tài. Theo

tác giả Ngô Thảo trong bài nghiên cứu “Con đường sáng tạo của một tài năng”

[23,tr.143], có thể chia những sáng tác kịch của ông thành ba loại:

24

Loại 1: Dựa vào một số tích cũ của văn học dân gian trong và ngoài nước

rồi viết lại như: Lời nói dối cuối cùng, Hồn Trương Ba da hàng thịt, nàng Sita,

Đam San, Ông vua hóa hổ, Linh hồn của đá…

Loại 2: Dựa vào một cốt truyện văn học để chuyển thành kịch như: Đôi

dòng sữa mẹ, Hẹn ngày trở lại, Chết cho điều chưa có, Muối mặn của đời em…

Loại 3: Hoàn toàn do sáng tác: Đây là phần chủ yếu và đề tài đều là hiện

đại.

Trong số đó, khối lượng những vở kịch khai thác từ cốt truyện dân gian

không nhiều, chiếm một phần nhỏ trong những sáng tác của ông nhưng có thể

khẳng định hầu hết những vở kịch này đều đạt tới hiệu quả tương đối cao. Nhà

nghiên cứu Lưu Khánh Thơ đã nhận xét: “Việc khai thác các mô típ dân gian,

dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm dấu ấn cá nhân và phong cách của mình

đã tạo cho kịch Lưu Quang Vũ một chiều sâu đáng kể. Nó tạo cho kịch của anh

sự phong phú về đề tài, hấp dẫn ở cốt truyện, lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng

nhân vật” [23,tr166]. Trong số những vở kịch khai thác từ cốt truyện dân gian

của Lưu Quang Vũ có nhiều tác phẩm xuất sắc, cho đến ngày nay vẫn còn

nguyên giá trị và được công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước.

Tiêu biểu như vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được ra mắt công chúng

năm 1984, giới phê bình nghiên cứu đánh giá đây là một trong những vở kịch

hay nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch lấy cốt từ câu chuyện dân gian, về tích

này sân khấu dân tộc đã nhiều người khai thác. Tuồng Trương Đồ Nhục đã

nhắc nhiều đến những câu chuyện vui hài hước do anh đồ tể gây ra. “Đến lượt

mình, Lưu Quang Vũ đọc từ trong cốt truyện dân gian xưa những ý tưởng mà

con người hiện đại cũng phải kính nể” [23,tr.144]. Một cốt truyện dân gian bình

thường quen thuộc vậy mà khi đưa lên sân khấu vở kịch đã không chỉ dừng lại

ở những giá trị ban đầu mà đặt ra những vấn đề mới mẻ, những bài học nhân

sinh sâu sắc. Những bi kịch và những rắc rối mà Trương Ba phải trải qua vì

25

sông vay mượn chắp vá bằng thân xác anh hàng thịt đã cho người đọc người

xem bài học muôn đời: Cuộc sống là sự hòa hợp giữa thể xác và linh hồn. Tạo

hóa sinh ra mỗi con người chỉ có một lần, cần phải biết gìn giữ nuôi dưỡng và

trân trọng nó. Cuộc sống này thật đáng quý với mỗi người, nhưng phải sống hài

hòa giữa phần hồn và phần xác, cuộc sống chỉ có giá trị khi “con người được

sống đúng là mình”. Sống vay mượn chắp vá sẽ tạo ra những xộc xệch mất cân

đối và đem lại bi kịch cho con người. Con người phải không ngừng đấu tranh

ngay cả với chính mình để vươn tới lẽ sống cao đẹp… Vở kịch Hồn Trương

Ba, da hàng thịt được công diễn nhiều lần trên sân khấu và đến nay vẫn còn

nguyên sức hút, hiện nay văn bản kịch này đã được đưa vào giảng dạy trong

nhà trường THPT, điều đó cho thấy ý nghĩa tư tưởng sâu sắc và giá trị lâu bền

của tác phẩm.

Vở kịch “Lời nói dối cuối cùng” cũng là một vở kịch gặt hái được nhiều

thành công của Lưu Quang Vũ, khai thác vốn cổ dân gian mà vẫn giàu ý nghĩa

hiện đại. Hình tượng chú Cuội với những lời nói dối truyền miệng trong dân

gian đã được tác gải xây dựng nên một hình tượng nhân vật sinh động, hấp dẫn.

Trong vở kịch, Cuội thông minh lém lỉnh nhanh ý đã làm được nhiều việc tốt

việc thiện để giúp đỡ mọi người, chỉ có điều những việc tốt ấy cũng như những

hành động có ý nghĩa đẹp đẽ ấy đều được thực hiện dựa trên những lời nói dối

vòng quanh không đúng sự thực. Kết cục những mong muốn và ý định tốt đẹp

mà Cuội mong muốn làm cho mọi người đã dẫn đến thất bại, những người được

Cuội giúp đều trở thành nạn nhân của những tình huống trớ trêu. Và ngay chính

Cuội cũng là nạn nhân bởi những lời nói dối của chính mình. Vở kịch kết thúc

để lại cho người đọc người xem những bài học chân lí sâu xa: Những điều tốt

đẹp chỉ thực sự có ích với con người khi nó được dựa trên nền tảng của sự trung

thực và lòng ngay thẳng. Điều tốt đẹp không thể đến từ những lời nói dối.

Ngoài hai vở kịch tiêu biểu kể trên, còn một số vở kịch khác lấy từ tích

26

truyện dân gian mà vẫn giàu giá trị hiện đại được bạn đọc đón nhận và để lại

cho người xem nhiều dư ba cảm xúc như: Ông vua hóa hổ, Linh hồn của đá,

Nàng Sita…

Như vậy có thể thấy những vở kịch sáng tác dựa trên cốt truyện dân gian

của Lưu Quang Vũ đã đem đến cho người đọc, người xem những vấn đề có

nghĩa sâu sắc mới mẻ, giúp mỗi người chúng ta có cái nhìn cuộc sống, nhìn lại

bản thân một cách đầy đủ sâu sắc hơn. “Tài năng của nhà viết kịch một lần nữa

được khẳng định trong việc biến cổ tích, huyền thoại thành chuyện của thời

hiện đại, nêu lên cái muôn đời trong những cái bình thường” [23,tr169]. Thành

công ở mảng kịch này góp phần làm nên tên tuổi của Lưu Quang Vũ trên sân

khấu kịch. Những ý tưởng tốt đẹp của ông cùng những kịch phẩm ông để lại

cho đời, những vở diễn đêm đêm còn đang sống trên sàn diễn của mọi thời đại

đã chứng minh một tài năng lớn, một tư tưởng lớn!

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1 chúng tôi tập trung giải quyết ba vấn đề chính như sau:

1. Kịch là thể loại văn học ra đời muộn hơn các thể loại khác, gồm những đặc

trưng cơ bản: Xung đột kịch, hành động kịch, nhân vật kịch và ngôn ngữ kịch.

Với những đặc trưng riêng như vậy cho nên kịch tuy ra đời sau nhưng có sức

hấp dẫn riêng và có sự kết hợp chặt chẽ với sân khấu. Kịch ở Việt Nam ra đời

vào khoảng những năm 20 của thế kỉ XX, và từ đó cho đến nay đã có những

thành tựu đáng kể và đóng góp lớn cho nền văn học dân tộc với nhiều tên tuổi

lớn và nhiều tác phẩm đặc sắc.

2. Lưu Quang Vũ là một con người tài năng về nhiều mặt. Trước khi đến với

27

sân khấu kịch, ông là một nhà thơ và nhà văn tài năng. Ông là người góp phần

làm nên diện mạo sân khấu kịch những năm 80 của thế kỉ XX, những tác phẩm

của ông cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.

3. Ở mảng kịch khai thác truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã đạt được những

thành công nhất định. Những câu chuyện dân gian quen thuộc nhưng lại có ý

nghĩa hiện đại mới mẻ giúp người đọc người xem có những nhận thức về bài

học nhân sinh quý báu trong cuộc sống.

CHƯƠNG 2

LOẠI HÌNH NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH KHAI THÁC

TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ

Nhân vật được coi là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, là yếu

tố tập trung giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm văn học. Trong tác phẩm

văn học kịch, do đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những xung

đột đó nhân vật bắt buộc phải hành động. Nhân vật kịch là nhân vật hành động,

qua hành động nhân vật bộc lộ tính cách của mình, vì vậy nhân vật thường rất

nổi bật về tính cách và chia thành nhiều tuyến rõ rệt. Một vở kịch muốn hay,

muốn thể hiện rõ tính xung đột thì nhân vật kịch phải có tích cách nổi bật (hoặc

28

tốt, hoặc xấu, hoặc anh hùng, hoặc đê hèn…). Mâu thuẫn xung đột kịch cũng

chính là mâu thuẫn xung đột của các tuyến nhân vật này.

Thế giới nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu

Quang Vũ hiện lên đa dạng và phong phú, sự đa dạng thể hiện ở chỗ người phụ

nữ trong tác phẩm với đủ mọi lứa tuổi: Từ những bé gái (cái Gái, cái Tâm..)

đến các cô gái trong độ tuổi yêu đương (Lụa, quận chúa Kim Hoa, cô Sim…)

đến những phụ nữ có chồng (Thanh, chị con dâu, hoàng hậu..) và những phụ

nữ đã có tuổi (vợ Trương Ba..). Trong các tác phẩm kịch khai thác từ truyện

dân gian này, tính cách số phận của họ được hiện lên rõ nét thông qua các hành

động để giải quyết mâu thuẫn xung đột kịch. Họ được đặt vào trong những tình

huống đầy mâu thuẫn, thậm chí đầy biến cố và bắt buộc phải có sự lựa chọn và

thể hiện đậm nét tính cách của mình. Mỗi người có những nét tính cách riêng

khác biệt nhưng nhìn chung họ đều là những nhân vật nữ có nhiều phẩm chất

tâm hồn cao đẹp, trong sáng, lương thiện trung thực, có sự hi sinh cao cả trong

tình yêu, cuộc sống. Người đọc sẽ cảm nhận được ở họ vẻ đẹp của người phụ

nữ Việt Nam truyền thống. Đối với nhân vật của mình, nhà viết kịch Lưu

Quang Vũ thể hiện tấm lòng sẻ chia cảm thông trước những bi kịch, những biến

cố đồng thời trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của họ.

2.1. Nhân vật nữ với những éo le, trắc trở trong tình yêu

Điều đẹp đẽ và kì diệu nhất trong cuộc sống chính là tình yêu – một tình

cảm sâu sắc nhất lãng mạn nhất và cũng chính là nguồn động viên tinh thần

mạnh mẽ nhất đối với bất kì ai. Một tình yêu tuyệt đối luôn là niềm khao khát

của tất cả phụ nữ. Nhà văn Võ Thị Hảo cho rằng: “Phụ nữ hay quan niệm tình

yêu là tất cả cuộc đời. Còn đàn ông thì không. Họ quan niệm tình yêu như nó

vốn có, chỉ là một phần cuộc đời. Vì thế phụ nữ thường dại khờ và bất hạnh

hơn”. Những nhận vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu

Quang Vũ phần lớn là những cô gái đã tìm được tình yêu, trái tim từng thổn

29

thức đập loạn nhịp khi đứng trước một chàng trai của đời mình. Tuy nhiên con

đường tình yêu của họ không phải êm ái dễ dàng trải đầy hoa hồng. Nói cách

khác, tình yêu đem đến cho họ sự ngọt ngào nhưng cũng nhiều éo le, trắc trở.

Thanh trong Linh hồn của đá là một cô gái đáng mơ ước của nhiều chàng

trai, một cô gái ở một ở một làng đá ven biển hiền hành chăm chỉ nết na. Thanh

gặp Vịnh trong một lần Vịnh và các bạn lính bị lạc đến xóm đá. Trong những

ngày chăm sóc vết thương cho Vịnh, nhìn vào mắt nhau cả hai dường như đã

có cảm giác thật quen thuộc. Trái tim Thanh đã dành trọn cho người lính ấy và

cũng nhận được sự đồng cảm. Nhưng số phận thách thức tình yêu của họ, bắt

Thanh phải chờ đợi. Vịnh là người lính cầm súng và dĩ nhiên sự chờ đợi của

Thanh sẽ là mỏi mòn bởi không biết trước ngày gặp lại. Suốt hai năm chờ đợi

rồi âu lo khi giặc giã đã yên, lính tráng ai còn sống đã lục đục trở về vậy mà

Thanh vẫn có tin tức của Vịnh. Cô kiên quyết từ chối lời cầu hôn của anh chàng

thợ mộc và anh chàng buôn sắt để trọn vẹn với lời hứa hẹn cùng Vịnh. Thanh

xuân tuổi trẻ của người con gái chỉ có một lần và trôi qua không chờ đợi ai, vậy

mà Thanh phải trải qua những năm tháng chờ đợi mỏi mòn không biết trước

ngày gặp gỡ.

Sự thủy chung chờ đợi của Thanh đã được đền đáp, Vịnh trở về sau lấm

láp bom đạn của chiến tranh, họ nên nghĩa vợ chồng. Với tình yêu đẹp, những

tưởng hạnh phúc sẽ ở bên họ mãi mãi. Nhưng số phận lại nghiệt ngã éo le thay:

“Em ngờ đâu anh ngờ đâu/ Biển xót xa, biển khổ đau/ Bởi vì ai bởi vì đâu/

Mười năm sống bên nhau/ Bỗng tan thành nước mắt/ Ngàn triệu sóng tan thành

biển mặn/ Để kể hoài kể mãi chuyện buồn đau” [46, tr.13]. Tình yêu của họ và

mười năm vợ chồng gắn bó ra hoa kết trái lại là bi kịch đau xót của cuộc đời.

Trong một lần chải tóc cho vợ cùng câu chuyện Thanh kể, Vịnh đã phát hiện ra

một sự thật nghiệt ngã, cay đắng: Thanh chính là người em gái ruột bao nhiêu

năm thất lạc của mình. Còn gì đau khổ, éo le hơn cho tình yêu của họ, số phận

30

trêu ngươi để họ yêu nhau và lấy nhầm nhau. Cái Tâm, con gái của họ lại là kết

quả của một tình yêu oan trái. Vịnh đau khổ không muốn Thanh biết sự thật

nên tìm mọi cách trốn tránh rồi một lần nữa rời xa Thanh. Nhưng lần ra đi này

là mãi mãi bởi anh không thể đối mặt với sự thật khủng khiếp này, ra đi để chôn

vùi một tình yêu trớ trêu, đau khổ. Và Thanh lại một lần nữa chờ đợi – sự chờ

đợi vô vọng mà mãi mãi không thể nào hiểu được nguyên nhân vì sao hơn

mười năm tình nghĩa vợ chồng gắn bó mặn nồng Vịnh lại ra đi bỏ lại vợ con.

Sự chờ đợi của Thanh hóa thành đá, linh hồn lặn vào trong đá lạnh. Bi kịch tình

yêu của Thanh và sự chờ đợi hóa đá gợi nhắc về câu chuyện cổ tích “Sự tích đá

vọng phu” trong dân gian. Nhân vật trung tâm là người phụ nữ chung thủy với

bi kịch tình yêu ngang trái éo le và sự chờ đợi mỏi mòn hóa đá với những nỗi

đau câm nín không nói được nên lời.

Trong vở kịch “Lời nói dối cuối cùng” có một số nhân vật nữ để lại nhiều

thiện cảm với người đọc, nhưng trước tình yêu họ cũng phải trải qua nhiều éo

le khó khăn ngang trái.

Lụa là một cô gái đẹp người đẹp nết, khéo léo chăm chỉ trong lao động

nhưng trong con đường tình duyên cô trở thành người hoàn toàn bị động, thậm

chí phải đối mặt với nhiều rắc rối do chính những người dành tình cảm cho

mình gây ra. Lụa chăm chỉ lao động nhưng vì món nợ của gia đình từ lúc cha

mất nên lão Chánh tổng đã o ép đến tịch thu nhà cửa, khiến cho cô gái dệt lụa

nổi tiếng khắp vùng không còn đường sống, nhắm mắt đưa chân suýt phải làm

vợ công tử Lãn. Một kẻ giàu có hống hách, tâm hồn thô kệch rỗng tuếch, tính

tình hung hăng. Lụa cũng là người trong mộng của Cuội – một người mặt mũi

sáng sủa có bản chất tốt nhưng lại chuyên bày trò với sự tinh quái và tính cách

dối trá. Cuội thổi sáo hay làm thơ giỏi, nói năng đi vào lòng người. Mỗi lần

đứng đằng sau bóng công tử Lãn để thổi sáo và nói những lời có cánh là mỗi

lần Cuội bày tỏ bằng tiếng lòng chân thật và sâu thẳm trong trái tim mình. Lụa

31

đã rung động vì điều ấy. Tuy nhiên cách làm của Cuội đã khiến cho cô Lụa

nhầm lẫn, đẩy Lụa đến đám cưới với công tử Lãn. Rồi Cuội bằng sự tinh quái,

tài nói dối đã cứu cô Lụa ra khỏi cuộc hôn nhân không mong muốn. Và cứ như

vậy, cho dù tình cảm của Cuội với cô Lụa là thật nhưng Cuội vẫn đưa Lụa vào

những rắc rối do chính sự dối trá của mình gây ra. Câu chuyện rắc rối trong

cung vua đã khiến Lụa phải quyết định rời bỏ Cuội vì không thể chấp nhận

được những điều dối trá do Cuội gây ra ngày càng nhiều, càng nghiêm trọng.

Những điều dối trá đó đã biến cô thành con rối một cách bị động. Như vậy, cho

dù được Cuội yêu mến và dành trọn tình cảm nhưng Lụa lại trở thành nạn nhân

của của chính tình yêu đó.

Quận chúa Kim Hoa – em gái của hoàng hậu đem lòng yêu mến Cuội khi

Cuội vào cung trong vai một danh y tài giỏi. Nhưng những gì Cuội làm và thể

hiện đều chỉ là một màn kịch không hơn không kém, để rồi tất cả bị lừa bịp và

quận chúa cũng không phải là một ngoại lệ. Đám cưới với Cuội mãi chỉ là một

giấc mơ rồi tan tành như mây khói khi màn kịch hạ xuống, Cuội cũng biến mất

cùng những lời nói dối.

Trong vở kịch còn có một nhân vật nữ cũng bị cuốn theo câu chuyện dối

trá của Cuội và gặp những éo le trong tình yêu. Đó là cô Sim – nữ tỳ của quận

chúa – một cô gái xinh đẹp ngây thơ đã đem lòng yêu thầm Nam trang tài nhân

mà không hề biết người đó chính là cô Lụa. Tình cảm chân thành thầm kín của

Sim với Nam trang tài nhân cũng là hậu quả của những chiêu trò dối trá do Cuội

gây ra.

Nhân vật Thảo trong “Ông vua hóa hổ” lại phải chịu những éo le, trắc

trở, bi kịch khác trong tình yêu. Thảo là người may mắn khi được cả hai chàng

trai Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không đem lòng yêu mến. Đạo Hạnh quắc

thước sôi nổi, thẳng thắn bộc trực, mang chí lớn. Minh Không- người bạn trai

thân thiết từ thời thơ ấu tuấn tú khôi ngô, trí dũng, tính tình điềm đạm. Cả hai

32

đều là những người trượng nghĩa anh hùng, cùng chung mối thù nhà nợ nước,

bỏ qua những hiểu lầm ban đầu, họ nắm tay nhau kết nghĩa anh em. Thảo vì

nghĩa lớn nước non, vì tình cảm dành cho cả hai người sâu nặng nên tự nguyện

đi theo Đạo Hạnh và Minh Không phất cờ dấy binh. Tuy nhiên, sự biến đã bắt

buộc nàng buộc phải chọn lựa đi cùng một trong hai người. Minh Không vì

không thể tiếp tục cảnh giết chóc hận thù vấy máu nên quyết định từ bỏ tất cả

để tìm một nơi heo hút lánh ẩn giũ sạch tội trần. Đạo Hạnh lại kiên quyết chiến

đấu đến tận cùng cho chí lớn cho dù phải gây tội ác, lưỡi gươm vấy máu. Bắt

buộc phải lựa chọn giữa hai người là điều vô cùng khó khăn với Thảo bởi cả

hai người nàng đều quý mến, không muốn rời bỏ ai. Quyết định ở lại cùng Đạo

Hạnh kiên quyết nhưng thật khó khăn đối với Thảo. Và quyết định này cũng mở

đầu cho cuộc đời đầy biến cố éo le bi kịch của Thảo sau này. Tình yêu thủy

chung sâu nặng và đầy hi sinh của Thảo đã khiến cô phải dùng chính máu, chính

mạng sống của mình để cứu Đạo Hạnh – chồng nàng khỏi thân xác hổ dữ. Thảo

là người phụ nữ thủy chung sống hết mình cho tình yêu nhưng cũng gặp nhiều

éo le ngang trái. Chính trên con đường tình yêu và hạnh phúc gia đình số phận

luôn buộc Thảo phải đứng trước những chọn lựa, thậm chí là những hi sinh cả

bản thân cho người mình yêu.

Tình yêu là tình cảm nguyên thủy nhất của con người, bất cứ ai khi đến

với nhân thế đều mong muốn một lần được nếm trải. Tình yêu có ngọt ngào và

cay đắng, có hạnh phúc và khổ đau, đó là đạo lý ở đời, không ai thoát khỏi vòng

quay của số phận. Ai đến với tình yêu cũng mong muốn nếm trải hương vị ngọt

ngào của nó, nhưng cũng không ít người gặp éo le ngang trái trong tình yêu.

Qua việc thể hiện bi kịch tình yêu của nhân vật nữ trong mảng kịch khai khác

truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về sự bất hạnh

ngang trái trong tình yêu của người phụ nữ. Khám phá con người với tấm lòng

cảm thông chia sẻ, Lưu Quang Vũ đã đi sâu vào cuộc đời của họ, để họ được

33

sống với những giây phút hạnh phúc tột cùng của tình yêu, để rồi sau đó là sự

trải nghiệm những bi kịch éo le ngang trái. Qua đây nhà viết kịch cho chúng ta

thấy: Không phải câu chuyện tình yêu nào cũng trải đầy hoa hồng hay kết thúc

ngọt ngào viên mãn như câu chuyện cổ tích. Hạnh phúc tình yêu không dễ nắm

bắt, đòi hỏi phải hi sinh thậm chí mất mát đau thương.

2.2. Nhân vật nữ đứng trước những biến cố lớn trong cuộc đời

Cuộc đời mỗi con người giống như một dòng sông uốn lượn. Trên thế

gian không có dòng sông nào thẳng tắp chảy ra biển. Số phận con người trôi

chảy qua nhiều bến bờ ghềnh thác, cuộc sống chẳng bao giờ dễ dàng với mỗi

chúng ta và chẳng bao giờ có con đường nào dẫn tới hạnh phúc mà không trải

qua những gian lao thử thách . Sống là một hành trình dài và rộng ở đó luôn có

hạnh phúc, niềm vui và cũng có những biến cố không thể biết trước như một

sự an bài định mệnh của số phận. Dòng sông ngay cả khi êm đềm tĩnh lặng

cũng có thể nổi sóng gió dữ dội, cuộc đời mỗi con người có thể đã có được

hạnh phúc bình yên nhưng có thể vẫn gặp nhiều biến cố phía trước.Đó là những

sự việc, sự kiện xảy đến bất ngờ ngoài sự mong đợi, dự tính của con người, làm

ảnh hưởng lớn lao tới cuộc đời và số phận của họ. Tìm hiểu thế giới nhân vật

nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của tác giả Lưu Quang Vũ, có

một điều dễ nhận thấy các nhân vật nữ chính trong tác phẩm thường phải trải

qua nhiều biến cố thăng trầm trong cuộc đời. Ngay cả khi vượt qua những éo

le trắc trở trong tình yêu có được hạnh phúc, họ vẫn phải đứng trước những

biến cố lớn. Thậm chí có những biến cố đẩy họ vào nghịch cảnh trái ngang

khiến họ rơi vào bi kịch, không có lối thoát.

Thanh trong Linh hồn của đá là một số phận đầy bi kịch. Tình yêu sắt

son và sự thủy chung đợi chờ của cô sau bao năm xa cách Vịnh những tưởng

sẽ được đền đáp bằng cuộc hôn nhân hạnh phúc. Những tưởng mười năm vợ

chồng êm đềm hạnh phúc sẽ là trái ngọt của một tình yêu đẹp của hai người.

34

Nhưng một biến cố dữ dội ập đến khiến cho số phận họ trở thành bi thảm. Tình

cờ biết được sự thật Thanh là người em gái thất lạc bao nhiêu năm, Vịnh như

chết lặng, anh không thể chịu nổi điều đau đớn này. Anh hét lên trong đau

khổ:“Giời ơi, sao lại có thể như thế được? Sao ông trời ghê gớm đến mức sắp

đặt ra những chuyện khủng khiếp dường này? Em gái tôi, vợ tôi là em gái tôi!

Khủng khiếp! Khủng khiếp! …Tôi mắc vào tội lỗi khủng khiếp! Sao trời lại

không giết tôi ngay?...Trời ơi! Có ai trên đời khổ như tôi, đáng chết như

tôi?”[46,tr.18]. Sự thật nghiệt ngã oan trái trong câu chuyện tình yêu của hai

người được tác giả Lưu Quang Vũ mượn từ tích truyện “Sự tích đá vọng phu”

trong dân gian đã từng khiến nhiều người rơi lệ. Đến Linh hồn của đá người

đọc một lần nữa xót xa cho bi kịch tình yêu của Thanh và Vịnh. Rõ ràng biến

cố kinh hoàng này khiến cho số phận họ thay đổi lớn lao. Vịnh đau khổ chạy

trốn sự thật, tìm quên trong men rượu, nhưng rượu cũng không khiến anh nguôi

quên vì nỗi đau khổ quá lớn. Anh bơ phờ đau khổ, và nhận ra không còn cách

nào khác là phải rời xa Thanh, rời xa cuộc hôn nhân ngang trái éo le này. Thanh

lại chờ đợi mỏi mòn, sự chờ đợi tuyệt vọng bởi Vịnh không bao giờ trở về. Sự

đợi chờ thủy chung đằng đẵng năm tháng khiến mẹ con nàng hóa thành đá- đá

vọng phu, như minh chứng cho một bi kịch tình yêu đau xót thấm tận đáy lòng:

“Em chờ anh, em chờ anh

Chuyện buồn đau trên biển xanh

Người đàn bà mong chồng

Đã hóa thành tượng đá

Sóng ngàn năm còn vỗ

Hòn vọng phu bên trời

Vẫn ngóng về biển cả xa xôi

Hồn vọng phu bên trời

35

Vẫn đợi chờ bên biển cả xa xôi” [46,tr 38]

Biến cố lớn lao của cuộc đời ập đến khiến Thanh hóa đá vọng phu đợi

chờ, còn đối với Thảo trong Ông vua hóa hổ biến cố cuộc đời cũng khiến cô

phải đánh đổi bằng mạng sống của mình để cứu chồng.

Từ một tráng sĩ, võ sư luyện tay cung, đường kiếm nơi xóm nhỏ ven

thành, vì nghĩa lớn nước non, người anh hùng áo vải Từ Đạo Hạnh đã dẫn dắt

nghĩa binh, khởi quân dựng luỹ xây thành, quét sạch lũ hôn quân vô đạo giúp

cho muôn dân thoát khỏi cảnh lầm than. Vì khao khát sức mạnh chiến thắng kẻ

thù, Từ Đạo Hạnh đã uống vũng nước xanh để có được sức mạnh muôn người

không địch nổi - sức mạnh của hổ - bất chấp lời nguyền sẽ bị biến thành hổ dữ.

Đổi lấy sức mạnh thì phải mang thân trả nợ, nên dù làm đến nghiệp đế vương,

Đạo Hạnh không thể thoát khỏi món nợ năm xưa. Đặc biệt quan điểm trị dân

hà khắc bằng hình phạt nhiều hơn nhân nghĩa đã nhanh chóng kiến Đạo Hạnh

không còn là chính mình. Khi Đạo Hạnh ngồi lên ngai vàng cũng là lúc lời

nguyền kia trở thành sự thật. Kinh hoàng nhìn xuống cơ thể mình đang dần hoá

thành hổ dữ với những lớp lông vằn vện, mặt vua biến dạng, mắt long lên, chân

tay mọc móng vuốt co quắp, Đạo Hạnh đau đớn, hoảng hốt, sợ hãi trong hình

hài hổ dữ mà trái tim vò xé nát tan, ân hận xót xa. Không còn đâu vị vua oai

phong, thay vào đó là hình hài hổ dữ đang cào xé thân mình, lăn lộn, cố chống

trọi lại sự biến dạng sang kiếp thú của chính thân thể mình, tiếng nói xen lẫn

tiếng gầm gào tuyệt vọng: “Gương mặt của ta đâu? Hình dáng của ta đâu/ Cho

ta được là ta/ Cho ta được trở lại chính mình” [47, tr.26]. Những ngày bình yên

đã hết, hạnh phúc chưa được bao lâu thì biến cố như một nỗi kinh hoàng này

ập đến với ngay chính bản thân Thảo. Không thể nhìn nhà vua bị đoạ đày, cô

Thảo - hoàng hậu đã lặn lội đường xa nguy khó để tìm phương thuốc lành chữa

bệnh cho vua thoát nạn đau đớn trong thân hình hổ hung dữ. Để cuối cùng Thảo

phải lấy máu của mình, mạng sống của mình đuổi hổ trong người Từ Đạo Hạnh.

36

Chỉ có tình thương, mạng sống, đó là máu của người thân yêu mới cứu được

Từ Đạo Hạnh nên người vợ hiền đã nguyện hy sinh thân mình để Đạo Hạnh

được làm người và máu từ thân Thảo đã ướt đẫm áo choàng mong cứu chồng

qua cơn nguy biến. Hình ảnh đọng lại ấn tượng khó quên nhất và cũng đẹp nhất

chính là lúc đức vua mang lốt hổ oằn mình trong nỗi đau tự thiêu đốt chính

mình bằng thứ dầu đỏ thẫm từ tấm áo choàng quấn trên lớp cọp đang bùng cháy

dữ dội để rũ sạch những con hổ con đang cố bấu víu, không muốn bứt ra khỏi

cơ thể vằn vện. Giữa tiếng gầm đau đớn dữ dội của loài thú thoát xác là tiếng

tụng kinh niệm Phật của Nguyễn Minh Không và ánh mắt chan chứa yêu

thương mong ngóng của Thảo với hi vọng Đạo Hạnh vượt qua tai họa. Từ trong

tro bụi lửa thiêu, Đạo Hạnh được làm người trở lại, xóa tan giấc mộng thống trị

bạo tàn của loài ác thú. Nơi dòng máu của người con gái dịu hiền đổ xuống,

những ngọn cỏ đã xanh trở lại. Thảo đã hoá thành cỏ biếc, cây cỏ yêu thương,

cỏ của lòng nhân ái.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm

1981, công diễn lần đầu tiên năm 1987, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và

ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một

vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con

người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng

vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của

Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba bị chết oan. Theo lời khuyên của “tiên

cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được

tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó

lại đưa Trương Ba vào một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú và người

khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất

đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Có thể nói Trương Ba đã chết một

cách vô lí, ai cũng biết cái chết của Trương Ba là do sự vô tâm và tắc trách của

37

Nam Tào. Nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế

Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch

cảnh vô lí hơn là linh hồn mình phải trú nhờ trong thể xác của kẻ khác. Do phải

sống nhờ thể xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số

nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay

thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn, chắp vá, tạm bợ và lệ

thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng

thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương

Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể. Đó là một

biến cố lớn không chỉ của riêng trong cuộc đời Trương Ba, đó cũng là biến cố

đối với những người thân trong gia đình ông: Vợ Trương Ba, chị con dâu, cái

Gái.

Biến cố dữ dội khiến vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ. Gặp nghịch cảnh

trái ngang bà không thể quen nổi chồng mình trong xác anh hàng thịt trẻ tuổi

mới chỉ ngoài ba mươi. Trước sự đổi thay của chồng, bà cũng không sao chịu

nổi, bà đau khổ vì bất lực: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm

vườn ngày xưa”[21, tr.411]. Nỗi đau hiện tại còn kinh khủng hơn giây phút bà

tiễn thân xác chồng khỏi thế gian. Bà càng khó xử hơn khi chị hàng thịt suốt

ngày sang đòi chồng. Buồn bã và đau khổ bà nhất quyết đòi bỏ đi, nhường

Trương Ba cho cô vợ anh hàng thịt. Với bà “đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng

được… còn hơn là thế này” [21,tr. 411]

Chị con dâu trong câu chuyện là người hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm

thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm,“khổ hơn

xưa nhiều lắm” [21,tr.414]. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như

sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành

lời nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên

trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày

38

thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi,

đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…” [21, tr.415]

Cái Gái- đứa cháu Trương Ba yêu mến đứng trước biến động lớn lao này

thì phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp

nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác

anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái với tâm hồn tính cách trẻ con giờ đây đã không

cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân “tôi không phải là cháu ông…

Ông nội tôi chết rồi” [21, tr.412].Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây

nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè

như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới

ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho

cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt

đền. Với nó,“Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”[21,tr.413]. Nỗi giận

dữ của cái Gái đã biến thành sự cự tuyệt xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác

lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”[21,tr.413].

Nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang

Vũ phần lớn là những nhân vật bi kịch. Cho dù được yêu thương ,tìm được tình

yêu đích thực và có lúc những tưởng hạnh phúc đã đến với họ nhưng những

biến cố cuộc đời lại không buông tha cho họ. Những biến cố ấy khiến số phận

họ thay đổi, thậm chí có nhân vật phải đối diện với cái chết, sự ra đi mãi mãi.

Tuy nhiên điều khiến người đọc trân trọng mến yêu họ đó là khi đứng trước

những biến cố, những ngang trái éo le của cuộc đời, họ đã thể hiện rõ những vẻ

đẹp phẩm chất tâm hồn, nhân cách của mình. Đó là một trong những giá trị

nhân văn chiều sâu của kịch Lưu Quang Vũ nói chung và kịch khai thác truyện

dân gian của Lưu Quang Vũ nói riêng.

2.3. Nhân vật nữ với những phẩm chất tâm hồn cao đẹp

39

Vichto Huygo – văn hào Pháp, từng ca ngợi về phụ nữ: “Bên cạnh ánh

sáng lung linh của các vì sao còn có ánh sáng êm dịu và huyền bí của tâm hồn

người phụ nữ”. Nói đến cái đẹp chắc không ai có thể phủ nhận phụ nữ chính là

một hình ảnh đẹp nhất mà mọi người luôn nghĩ đến đầu tiên. Ở đời nào cũng

vậy, vẻ đẹp của người phụ nữ trong đời thường luôn là hằng số bất biến ngàn

đời. Người phụ nữ Việt từ xưa đến nay luôn được trân trọng ngợi ca với tâm

hồn đôn hậu, bao dung vị tha, sự thủy chung son sắt, giàu đức hi sinh…Với

thiên chức làm mẹ, làm vợ, người phụ nữ là ngọn lửa tình thương ấm áp sưởi

ấm gia đình, sưởi ấm tâm hồn mỗi người chúng ta.Vẻ đẹp của người phụ nữ

Việt Nam in đậm dấu ấn trong thơ ca, nhạc, họa, điêu khắc… và mãi bất tử với

thời gian. Họ đã góp phần làm nên vẻ đẹp của văn hoá dân tộc. Có thể khẳng

định vẻ đẹp của người phụ nữ chính là vẻ đẹp bên trong tâm hồn họ, đó chính

là cách họ lắng nghe người khác và thể hiện tình yêu của mình.

Thế giới nhân vật kịch của Lưu Quang Vũ rộng lớn, từ những vở kịch

khai thác từ cổ tích, dân gian, từ lịch sử, dã sử hay kịch hiện đại. Tuy nhiên có

một điều dễ dàng nhận thấy là những nhân vật nữ phần lớn là những con người

vừa rất gần gũi đời thường vừa rất cao cả đáng trân trọng. Dù là nhân vật chính

hay nhân vật phụ, rất nhiều người phụ nữ được hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn

truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Trong mảng kịch khai thác từ cốt

truyện dân gian, như đã tìm hiểu ở trên, phần lớn nhân vật nữ là nhân vật bi

kịch. Họ thường gặp nhiều éo le trắc trở trong tình yêu, gặp nhiều biến cố lớn

trong cuộc đời. Tuy nhiên, trên hết người đọc vẫn thấy trong khó khăn hay

giông bão cuộc đời họ vẫn tỏa sáng tâm hồn cao đẹp. Cho dù đó là cô gái mới

lớn đang yêu, hay người phụ nữ đã có gia đình, người phụ nữ có tuổi hay những

bé gái chưa đến tuổi dậy thì, họ phần lớn là những người có tâm hồn trong sáng,

lương thiện, trung thực. Trong tình yêu, cho dù nó có đem lại cho họ đớn đau

mất mát bất hạnh thì họ vẫn ngời sáng tình cảm sắt son chung thủy và giàu đức

40

hi sinh, thậm chí phải hi sinh đánh đổi cả bằng cả cuộc đời. Họ luôn đấu tranh

để vươn tới những giá trị đích thực của tình yêu, cuộc sống để hoàn thiện nhân

cách và sống đúng với những giá trị bản thân. Vì vậy, đọng lại từ các vở kịch

người đọc xót xa đồng cảm với bi kịch của họ nhưng trên hết vẫn là trân trọng

và tự hào vẻ đẹp tâm hồn họ - tâm hồn những người phụ nữ Việt Nam nhân ái

bao dung vị tha.

2.3.1.Tâm hồn trong sáng, lương thiện, trung thực

Trung thực và lương thiện là bản tính và phẩm hạnh cao đẹp nhất và là

một yêu cầu không thể thiếu trong mỗi một con người. Con người không thể

chống lại cộng đồng và mọi người xung quanh bằng không trung thực, không

lương thiện của mình. Tùy thuộc vào nền tảng đạo đức, nền tảng văn hóa - giáo

dục; tùy thuộc vào nghị lực, bản lĩnh của từng người mà người ta trung thực,

lương thiện ở mức nào trong cái thang của giá trị nhân cách con người.

Bên cạnh đó, tâm hồn trong sáng là nền tảng để thấy sự thật và sống chân

thật.Tâm hồn bị hỗn loạn, mờ đục, thì chỉ còn quờ quạng trong bóng tối, không

còn biết đâu là thực đâu là hư. Nhân vật nữ trong các sáng tác kịch khai thác

cốt truyện dân gian phần lớn là những cô gái, những người phụ nữ có tâm hồn

trong sáng, lương thiện, trung thực.

Cô Lụa trong vở kịch Lời nói dối cuối cùng gây ấn tượng với người đọc,

người xem không chỉ bởi cô xinh đẹp, giỏi giang, có tài dệt lụa nổi tiếng khắp

vùng mà còn ở những phẩm chất tâm hồn cao đẹp đáng quý. Dù gia cảnh nghèo

khó, cha mất sớm, mẹ bệnh yếu, bị thiếu nợ Chánh tổng từ đám cưới cha mẹ

nhưng cô vẫn luôn giữ tâm hồn trong sáng ngay thẳng chính trực. Những lời

sáo rỗng khoe khoang của công tử Lãn chỉ khiến cô coi là những lời giễu cợt

tầm thường, cô không vì giàu sang mà xiêu lòng:

41

“- Lãn: Tôi là Hoàng Bá Lãn thường gọi là công tử Lãn con cụ Phủ Hoàng

Bá Đình… Nhà tôi ruộng cả ao liền mà tôi vẫn trơ thân cụ, chưa người sửa túi

nâng khăn… Thấy cô đẹp, tôi yêu cô, tôi mê cô..

- Lụa: Ra là ông…(từ kinh ngạc đến buồn cười) Người ta không tỏ tình

như thế công tử Lãn ạ.

- Lãn: Thế cô bảo phải tỏ tình thế nào?

- Lụa: Hay là ông định giễu cợt tôi? Tôi là kẻ nghèo khó nhưng không

phải là người giễu cợt được đâu. Tôi đang bận (bỏ vào)” [48,tr.4]

Chỉ khi nghe tiếng sáo mượt mà của Cuội cùng những lời yêu thương say

đắm từ tận cõi lòng, Lụa mới thực sự rung động. Cho dù núp dưới bóng công

tử Lãn để thổi sáo làm thơ nhưng đằng sau màn kịch ấy lại là tiếng lòng sâu xa

của Cuội nên anh rất nhập tâm. Lụa đã rung động từ tình cảm của Cuội chứ

không phải lớp vỏ bề ngoài của của công tử Lãn. Chính vì vậy có lúc Lụa phải

phân tâm, không hiểu sao một tên công tử nhà giàu, huênh hoang đần độn núp

dưới bóng Phú ông khiến cô khinh ghét lại có những lúc tâm hồn bay bổng đến

vậy.

Tuy nhiên, khi nhận ra Cuội với những trò bịp bợm giả dối, Lụa kiên

quyết không nhận sự giúp đỡ của Cuội bởi cô là người ngay thẳng không chấp

nhận những lời dối trá, dù có phải chấp nhận một mình thân gái giữa nơi

phường phố xa lạ:

“- Cuội: Cô đi đâu, nơi phường phố xa lạ này, không được cô Lụa ạ, cô

chưa thể bỏ thuyền tôi mà đi được. Cô sẽ sống bằng gì, còn bà cụ nữa,

không thể để bà cụ chết đói!

- Lụa: Đói no gì mặc tôi. Tôi có đôi bàn tay làm lụng, tôi sẽ sống bằng

đôi bàn tay làm lụng, tôi sẽ sống được, không cần đến thứ anh…

42

- Cuội: Này, kinh kì kẻ chợ không phải như quê cô đâu. Không có tiền,

lại thân gái bơ vơ, chỉ có chết. Cô có muốn làm nghề dệt như ở nhà cũng

phải có chút vốn liếng. Tôi sẽ giúp cô. Trước phải có ít tiền, ta sẽ kiếm…

- Lụa: Kiếm tiền bằng cách lừa bịp dối trá chứ gì? Không, tôi đi theo

Cuội thế đủ lắm rồi… Chào anh, tôi đưa mẹ tôi lên bờ” [48,tr.19]

Liên tục bị động vướng vào câu chuyện rắc rối của Cuội gây ra, bất đắc

dĩ phải lưu lạc lên kinh kì và một bước trở thành mệnh quan triều đình có thể

sống nhung lụa với những vàng lụa châu báu, nhưng Lụa vẫn kiên quyết không

chấp nhận và một mực khước từ. Bởi cô vẫn tỉnh táo nhận ra những điều có

được đều xuất phát từ sự dối trá của Cuội. Cô càng không thể chấp nhận danh

xưng Nam trang tài nhân một cách giả dối mà Cuội gắn cho mình. Lụa không

chấp nhận sống giả dối trong một cái vỏ bọc và hình hài không phải của chính

mình. Cuối cùng cô đã bộc bạch hết nỗi lòng mình và quyết định rời bỏ Cuội,

gỡ mình ra khỏi câu chuyện dối trá của Cuội:

“- Lụa: Không thể có được những điều tốt lành bằng những cách thức

xấu xa. Anh lừa bịp bọn ác bọn xấu, thật ra cũng là anh dựa vào chúng

nó. Sẽ không ai cần điều tốt lành có được bằng cách ấy. Đối với tôi, thế

là đủ rồi. Tôi đến đây lần cuối, để chào từ biệt anh. Cũng có lúc tôi thầm

quý mến anh đấy, nhưng giờ thì…Tiếp tục ở đây, rồi tôi cũng không còn

là tôi nữa mất thôi. Anh cứ việc ở lại với những điều gian dối của anh,

tôi đi…” [48,tr.51]

Những lời nói từ đáy lòng của Lụa cho thấy một cô gái ngay thẳng, lương

thiện trung thực, có nhân phẩm đáng quý. Đó cũng là ý nghĩa triết lí sâu sắc

mà tác giả Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm đến người đọc: Mọi ý định dù tốt đẹp

nhưng được xây dựng trên sự gian dối cũng không đem lại hạnh phúc mà phải

xây dựng dựa trên sự chân thực. Sự giả dối không bao giờ đem lại những điều

tốt đẹp. Nhân vật cô Lụa kiên quyết đấu tranh chống lại sự giả dối như một biểu

43

tượng về lòng trung thực cho con người trong đời sống. Chính sự trong sáng,

lương thiện và lòng trung thực của Lụa đã cảm hóa Cuội khiến Cuội nhận ra

mọi sai lầm của mình, từ bỏ cuộc sống nhung lụa, vinh hoa phú quý, cố gắng

thay đổi con người mình để sống một cuộc sống “không cần đến những điều

dối trá”:

“- Cuội: Lụa, tôi không thể ở lại một mình. Tôi không thể sống không có

Lụa, không thể sống với điều gian dối. Tôi biết em vẫn còn khinh ghét

tôi nhiều lắm, nhưng hãy cho tôi được đi cùng, chúng ta sẽ tìm đến một

nơi không cần đến những điều dối trá”[48, tr.54]

Nhân vật Lụa và Cuội đã gây ấn tượng mạnh đối với người đọc, người

xem để rồi kết thúc câu chuyện, phẩm chất của Lụa và sự ngộ ra bài học cuộc

sống của Cuội đã lắng đọng lại những bài học nhân sinh sâu sắc cho đến ngày

nay: Trong bất cứ thời đại nào, hoàn cảnh nào con người cũng cần sống trung

thực và tôn trọng sự thật. Trong cuộc đời, ai không dễ lạc lối, nhất là khi xã hội

có những rối ren, trắng đen khó rõ ràng, nhiều kẻ cơ hội mà “đục nước béo cò”.

Nhưng cũng không phải vũng bùn nào cũng có thể nhấn chìm con người, vẫn

còn đó những con người biết đúng sai, sống sạch, sống trong, sống ngay thẳng

chính trực như cô Lụa, như những dải lụa trắng mềm mại mà cô Lụa đã dệt ra

phơi nơi bờ sông.

Thảo trong Ông vua hóa hổ là một cô gái may mắn khi được cả hai chàng

trai tài cao, kiệt xuất yêu mến. Cả hai cùng dành tình cảm sâu nặng cho Thảo

và cả hai người Thảo đều yêu mến. Thảo buộc phải lựa chọn giữa Từ Đạo Hạnh

và Nguyễn Minh Không. Dẫu rất khó khăn, Thảo đã quyết định cùng đi con

đường với Từ Đạo Hạnh bởi nghĩ mình cần cho Từ Đạo Hạnh hơn:

“-Thảo: Minh Không, chàng buộc em phải chọn lựa ư? Cả hai người em

đều quý mến, Đạo Hạnh, con người mang chí lớn, có bao việc lớn phải

làm. Nguyễn Minh Không trí dũng, người bạn thời thơ ấu của em. Tấm

44

lòng Minh Không làm bằng thứ mềm yếu nhưng cũng là quý giá nhất

của con người: Tình yêu thương…Minh Không ạ, có lẽ… em sống

chàng… Mà hai người giống nhau thì lại chẳng giúp gì được nhau nhiều.

Giờ chàng định từ bỏ nghĩa quân, tìm nơi lánh ẩn, còn lại Đạo Hạnh. Em

linh cảm thấy… em cần cho Đạo Hạnh hơn… Em không giống anh ấy,

như vậy là em có thể giúp được chút bé mọn nào đó của lòng mình cho

việc hiểm nguy của anh ấy”[47,tr.14].

Sự lựa chọn của Thảo không chỉ bởi tình cảm dành cho Đạo Hạnh mà

trên hết ở lòng nhân ái, một lòng quyết tâm giúp đỡ Đạo Hạnh dọn sạch bọn

tiếm đoạt, đuổi giặc dữ về bên kia biên ải, mang lại bình yên cho nhân dân. Nếu

Đạo Hạnh sắt thép, dùng bạo lực để trị vì và thu phục lòng người thì Thảo lại

sống nhân ái lương thiện. Ngày tiếng trống khải hoàn rộn rã, Đạo Hạnh lên ngôi

trị vì, vì quyết tâm mời được Minh Không ra làm quan nên Đạo Hạnh đã phải

dùng đến cách bạo tàn nhất: Ra lệnh đốt rừng để buộc Minh Không phải xuất

hiện. Thảo đã ra sức can ngăn, đau xót trước hành động nông nổi của Đạo Hạnh:

“-Thảo: (nức nở) Nguyễn Minh Không… (với Hạnh) Chàng mời bạn

ra, mà lại mời bằng lửa. Chàng đã quen với lửa máu mất rồi. Lúc bình

yên mà chàng vẫn mang lửa ra để thu phục lòng người

-Đạo Hạnh: (ôm đầu): Ta đã làm gì?

-Thảo: Việc đầu tiên trước khi lên ngôi báu của chàng là thế sao

Cỏ cây sao hóa than tro

Chàng đem lửa dữ để thu phục lòng người

Từ nay chàng sống sao đây

Thương cho người khổ cho người, người ơi![47,tr20]

45

Ngay cả khi trở thành hoàng hậu, Thảo vẫn giữ phẩm chất của người phụ

nữ trong sáng lương thiện, cô luôn đề cao lối sống nhân nghĩa. Không ít lần,

Thảo thể hiện không tán thành sự hà khắc, trị nước bằng hình phạt nhiều hơn

nhân nghĩa của Đạo Hạnh:

“-Thảo: Nhưng thưa đức vua, bây giờ người đâu còn ngồi trên mình ngựa

đánh dẹp. Để non sông muôn thủa thái bình, giờ là lúc không thể chỉ

dùng gươm mà phải bằng nhân nghĩa lớn. Càng lên ngôi cao lòng nhân

càng phải lớn… Bệ hạ là nhà vua áo vải mà lâu nay phải sống quá xa

những người áo vải… Hãy nghe thiếp, bệ hạ hãy rời đây ra xóm mạc ít

ngày, xem người đánh cá trên sông, hái dâu trên núi nghĩ gì… Họ là gốc

của mọi nghĩa lớn” [47,tr.21]

Ngay cả khi phải hi sinh cho Đạo Hạnh, trước khi nhắm mắt, Thảo vẫn

dặn dò Đạo Hạnh cùng các con hãy sống bằng lòng nhân ái yêu thương con

người:

“-Thảo: Con của mẹ, các con sẽ lớn lên trên đời, hãy nhớ: Không dung

tha kẻ ác, nhưng hãy lấy yêu thương làm gốc rễ cuộc đời. Càng có sức

mạnh, càng ở ngôi cao, lòng nhân ái càng phải lớn…”[47,tr.53]

Lời nói cuối cùng của Thảo trong tác phẩm “hãy lấy yêu thương làm gốc

rễ cuộc đời” cũng là thông điệp mà vở kịch muốn gửi đến người đọc – Đó là

giá trị của cuộc sống con người với con người ở mọi thời đại.

Trong Hồn Trương Ba da hàng thịt, nhân vật nữ không nhiều và tuy

không giữ vị trí trung tâm của tác phẩm, nhưng họ đóng góp không nhỏ vào sự

thành công của cốt truyện. Dù độ tuổi, tính cách và hoàn cảnh sống khác nhau

nhưng nhìn chung họ đều là những con người lương thiện chất phác trung thực.

Vợ Trương Ba là người phụ nữ nông thôn yêu thương chồng con rất mực. Đó

là người vợ mà Trương Ba vô cùng yêu mến, trân trọng, người đã cùng Trương

46

Ba vượt qua bao khó khăn của cuộc sống. Đứng trước biến cố gia đình, khi

Trương Ba buộc phải mang hình hài, xác thịt của anh hàng thịt, bà không khỏi

thương xót cho chồng, tuy ngay chính mình cũng không giấu nổi những khổ

đau khi rơi vào hoàn cảnh đầy bi kịch.

Cái Gái trong câu chuyện là cô bé còn nhỏ tuổi ngây thơ, trong sáng nhưng

cũng rất giàu tình cảm. Cô bé đặc biệt dành tình cảm yêu quý cho ông nội. Lời

chị con dâu cho thấy điều đó: “Nó rất yêu thương ông nội. Đêm nào nó cũng

khóc thương ông. Nó cất giữ nâng niu từng chút kỉ niệm của ông: đôi guốc gỗ,

bó đóm thuốc lào, nhất là những cây thuốc trong vườn…” [21,tr.414]. Vì vậy

khi Trương Ba mang hình vóc anh hàng thịt thô lỗ, cộc cằn nó đã phản ứng rất

mạnh mẽ. Cô bé không hề giấu diếm nỗi đau khổ lẫn giận dữ của mình. Tâm

hồn tuổi thơ vốn trong sạch trung thực, không chấp nhận sự tầm thường dung

tục nên nó kiên quyết không chấp nhận người ông trong thể xác người hàng thịt

thô lỗ. Nó không cần giữ ý mà một mực khước từ tình thân, bộc lộ sự đau khổ

của mình, thâm chí nổi giận dữ biến thành hành động xua đuổi quyết liệt: “Ông

xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể cút đi” [21,tr.413]

Chị con dâu trong vở kịch là người phụ nữ sâu sắc, lương thiện, chín

chắn hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương và hiểu nỗi khổ của bố chồng

trong hoàn cảnh trớ trêu: “Con biết thày khổ hơn xưa nhiều

lắm”[21,tr.414].Nhưng nỗi buồn đau trước cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra

cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau. Chị đã phải thốt thành lời nỗi đau

đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng

thày ơi con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thày một đổi

khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc

chính con cũng không nhận ra thày nữa… Con càng thương thày, nhưng thày

ơi, làm sao, làm sao giữ được thày ở lại? hiền lành, vui vẻ, tốt lành như thày

của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thày ơi?”. [21,tr.415]. Như vậy, từ vợ

47

Trương Ba, chị con dâu đến cái Gái mặc dù rất yêu thương Trương Ba nhưng

họ không thể giấu nổi sự đau đớn khi Trương Ba ngày một tha hóa, thay đổi

trong thể xác người hàng thịt. Họ cũng như chính bản thân Trương Ba không

thể chấp nhận một con người mang tên hồn Trương Ba da hàng thịt, bên ngoài

một đằng bên trong một nẻo đầy mâu thuẫn. Từ tình cảm đến suy nghĩ và phản

ứng của họ góp phần làm nổi bật bi kịch của Trương Ba trong tác phẩm: Bi

kịch của con người không được sống là chính mình, không có sự thống nhất

giữa thể xác và linh hồn, không được sống trọn vẹn với những giá trị chân thực

mình vốn có.

Một tâm hồn trong sáng lương thiện trung thực là thước đo giá trị quan

trọng của một con người. Đặc biệt, đối với người phụ nữ đây là một phẩm chất

vô cùng cần thiết và đáng quý. Phải chăng vì vậy mà trong mảng kịch khai thác

từ tích truyện dân gian, nhân vật nữ hầu như cùng chung một tuyến, rất hiếm

hoi xuất hiện nhân vật nữ ở tuyến nhân vật phản diện. Có thể nhận thấy Lưu

Quang Vũ luôn đặt niềm tin và sự trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của những người

phụ nữ. Điều đó cho thấy, dù trong bất cứ hoàn cảnh ngang trái éo le của cuộc

đời, khởi nguyên của mọi vẻ đẹp con người vẫn là tâm hồn trong sáng, lương

thiện, trung thực của người phụ nữ.

2.3.2. Sự chung thủy và đức hi sinh cao cả trong tình yêu

Tình yêu là điều kì diệu của nhân loại. Tình yêu đem lại cho con người

những giá trị đẹp đẽ của cuộc sống. Tuy nhiên, tình yêu cũng luôn cần được bồi

đắp nuôi dưỡng từ phía hai người. “Tình yêu là một ông vua mà sự chung thủy là

chiếc vương miện” (Danh ngôn). Tình yêu sẽ không còn ý nghĩa nếu như thiếu đi

lòng chung thủy. Hay nói cách khác, sự chung thủy là phẩm chất đẹp đẽ và cần

thiết của một tình yêu đích thực. Sự son sắt một lòng một dạ trong tình yêu luôn

được ca ngợi ở mọi thời đại, được lưu truyền và giáo dục như một phẩm chất đạo

đức cần có ở mỗi con người. Phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay luôn được đề cao

48

ca ngợi ở sự chung thủy, đức hi sinh trong tình yêu. Họ sống trọn vẹn với tình yêu

và hạnh phúc gia đình, không điều gì có thể lay chuyển được:

-“Đôi ta như rượu với nem

Đang say ngây ngất, ai dèm chớ xa”

-“Mưa rơi gió tạt vô thành

Đôi ta chồng vợ, ai dỗ dành đừng xiêu”

Qua mọi thời kì, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp chung thủy

giàu đức hi sinh còn sáng mãi trong tâm hồn chúng ta như một niềm tự hào. Có

nhiều câu chuyện, tích chuyện ngợi ca về lòng chung thủy của người phụ nữ

Việt Nam như truyền thuyết về đá Vọng Phu, cổ tích Trầu cau… Dù các câu

chuyện trên chỉ mang tính dân gian truyền miệng nhưng cho thấy tình yêu son

sắt luôn là mối tình đẹp được người đời ngợi ca tôn vinh.

Như đã nói ở trên, trong các tác phẩm kịch của mình, tác giả Lưu Quang

Vũ luôn có một cái nhìn trìu mến đối với nhân vật nữ. Trong mảng kịch khai

thác từ tích truyện dân gian, nhiều nhân vật nữ mang vẻ đẹp tâm hồn tiêu biểu

cho người phụ nữ Việt Nam rất đáng tự hào. Họ không chỉ có tâm hồn trong

sáng, lương thiện, trung thực, họ còn chung thủy giàu đức hi sinh trong tình

yêu. Họ gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại ấn tượng tốt đẹp với người đọc về

những phẩm giá ấy, họ là Thanh trong Linh hồn của đá, Thảo trong Ông vua

hóa hổ, vợ Trương Ba trong Hồn Trương Ba da hàng thịt…

Lấy cảm hứng từ cốt truyện cổ tích “Hòn vọng phu”, tác giả Lưu Quang

Vũ đã dựng lại bi kịch tình yêu của nàng Tô Thị tên Thanh bồng con chờ chồng

hóa đá. Vở kịch Linh hồn của đá đã lấy đi nước mắt người đọc người xem bởi

bi kịch tình yêu đầy đau xót của Thanh - Vịnh, đồng thời đậm tô và khắc sâu vẻ

đẹp của tình yêu chung thủy sắt son của người phụ nữ. Thanh – nhân vật nữ

chính của truyện – một cô gái nghèo chăm chỉ ở xóm Đá đã đem lòng yêu người

49

lính tên Vịnh. Tình yêu mới chớm nở thì hoàn cảnh buộc họ phải xa cách. Tiếp

tục lên đường, Vịnh mang theo lời hẹn ước với Thanh, mong ngày trở về để kết

duyên cùng nàng. Chiếc vòng đá hoa cương Thanh trao cho Vịnh là một vật làm

tin quý giá với tâm nguyện: “Con gái nhà thợ đá, không nói lời không thật bao

giờ. Em sẽ chờ đợi. Dù một năm, hai năm, dù mười năm” [46, tr.8]. Đó là những

lời hẹn ước tự đáy lòng của người con gái:

“Em chờ anh. Em chờ anh

Vầng trăng khuyết, vầng trăng tròn

Đêm mưa rơi, ngày nắng lóa

Em chờ anh, em chờ anh

Giữa cát bay, bên sóng dữ

Mùa nước dâng, mùa gió trở

Lòng em như đá chẳng phai mòn

Em chờ anh, em chờ anh

Dù trăng tàn, dù biển cạn

Em chờ anh

Anh hãy trở về” [46, tr.8]

Tình yêu với Thanh cho dù mới chớm nở nhưng đã thực sự sâu đậm. Cho

dù trong xóm có nhiều chàng trai đến ngỏ ý nhưng cô kiên định từ chối. Trước

lời cầu hôn của anh Gụ và cả Chĩnh, cô kiên quyết sắt đá: “Ông im đi! Ai cho

phép ông nói những điều độc địa. Anh ấy sẽ về, chồng tôi sẽ về…”, “Tôi không

cần sắt, không cần gỗ. Tôi xin các anh hãy để tôi yên, để tôi yên. Anh ấy sẽ

về…”[46, tr.11-12]

50

Không gì có thể làm mờ nhạt tình yêu sắt son Thanh dành cho Vịnh. Thời

gian gần hai năm đã trôi qua, giặc dã đã yên, trai tráng ai còn sống đã lục tục

trở về, già Quỹ tỏ ý lo lắng cho sự chờ đợi vô vọng của con. Nhưng Thanh lòng

lim dạ đá giữ vững niềm tin ngày Vịnh trở về.

Sự chờ đợi thủy chung ấy đã được đền đáp, Vịnh trở về sau lấm láp bom

đạn chiến tranh. Họ nên nghĩa vợ chồng. Mười năm họ sống trong hạnh phúc

để rồi sự thật ngang trái đã xảy ra khi Vịnh tình cờ biết được người vợ mà mình

vô cùng yêu quý lại chính là người em gái ruột đã thất lạc bao nhiêu năm. Bi

kịch giằng xé trong tâm hồn khiến Vịnh đau đớn đến mức không thể chịu nổi.

Anh luôn tự trách mình “Tôi đã làm thể xác của em đau, giờ đây tôi lại xé nát

tâm hồn em bằng hành động nhơ nhớp” [46, tr.18]. Quyết chôn chặt bí mật để

không làm Thanh phải gục ngã và đau đớn, Vịnh đã bỏ đi khỏi xóm Đá không

một lời từ biệt. Một lần nữa Thanh chờ đợi đằng đẵng, mỏi mòn. Ngày ngày,

mẹ con Thanh đều ra bến đứng chờ mòn mỏi, mong một ngày chồng sẽ trở về

với tình yêu bền bỉ không phai mờ. Sự chờ đợi đến tuyệt vọng, hai mẹ con

Thanh hóa thành tượng đá: “Em chờ anh, em chờ anh… Để không bao giờ mất

đi, để còn chờ anh mãi, em hóa thành tảng đá bên biển xanh. Nhưng em không

chết, linh hồn em lặn vào trong đá lạnh. Anh có nhớ lời xưa ta vẫn nói: Mọi thứ

qua đi chỉ đá là còn lại. Để được làm người, em phải hóa thành tảng đá chờ

mong. Bao nỗi đau hóa đá trên đời. Đá là sự thật của người, sự thật lặng im

khong nói nên lời. Đá ở khắp nơi. Không phải chỉ em đâu, mỗi tảng đá trên cõi

thế gian này là một hồn người hóa đá, một linh hồn người đã đợi, đã chờ

mong…”[46, tr.40]

Bi kịch tình yêu của Thanh và Vịnh và câu chuyện Thanh ôm con chờ

chồng hóa đá mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Trên dải đất hình chữ S của chúng

ta, có bao dáng núi vọng phu, bao nhiêu người phụ nữ đã thủy chung chờ chồng

hóa đá. Hình ảnh mẹ bồng con đó đã biểu tượng cho đức tính thủy chung cao

51

đẹp của người phụ nữ Việt, hi sinh chịu đựng, một đời tận tụy, lo âu khổ cực

trăm chiều vì chồng con. Họ tự nguyện hi sinh không cầu được đền đáp bởi họ

sống nặng tình nặng nghĩa.

Nhân vật Thảo trong Ông vua hóa hổ lại chịu đựng bi kịch khác, nhưng

đứng trước những biến cố éo le của cuộc đời, ở cô vẫn bộc lộ vẻ đẹp của người

phụ nữ thủy chung son sắt, sự hi sinh quên mình cho chồng –Từ Đạo Hạnh.

Đạo Hạnh từ một tráng sĩ, võ sư luyện tay cung, đường kiếm nơi xóm nhỏ ven

thành, vì nghĩa lớn nước non, người anh hùng áo vải đã dẫn dắt nghĩa binh,

khởi quân dựng luỹ xây thành, quét sạch lũ hôn quân vô đạo giúp cho muôn

dân thoát khỏi cảnh lầm than.Vì khao khát sức mạnh chiến thắng kẻ thù, Từ

Đạo Hạnh đã uống vũng nước xanh để có được sức mạnh muôn người không

địch nổi - sức mạnh của hổ - bất chấp lời nguyền sẽ bị biến thành hổ dữ. Đổi

lấy sức mạnh thì phải mang thân trả nợ, nên dù làm đến nghiệp đế vương, Đạo

Hạnh không thể thoát khỏi món nợ năm xưa. Lúc chiến thắng khải hoàn, ngồi

trên cương vị hoàng đế là lúc lời nguyền hóa hổ thành hiện thực. Đạo Hạnh

kinh hoàng nhìn xuống cơ thể mình đang dần hoá thành hổ dữ với những lớp

lông vằn vện, mặt biến dạng, mắt long lên, chân tay co quắp. Niềm kinh hãi

truyền khắp châu thân, mỗi thớ thịt, đường gân quặn lên nhức nhối như sắp vỡ

tung, đầu lạnh buốt mà thân mình nóng rực. Đạo Hạnh rơi vào tình cảnh đau

đớn, hoảng hốt trong lốt hổ mà trái tim vò xé nát tan, ân hận xót xa. Không ai

còn nhận ra vị vua oai phong, thay vào đó là hình hài hổ dữ đang cào xé thân

mình, lăn lộn, cố chống trọi lại sự biến dạng sang kiếp thú của chính thân thể

mình, hai tay chống xuống đất như dáng hổ, tiếng nói xen lẫn tiếng gầm gào

tuyệt vọng. Tuy nhiên chịu đựng bi kịch đó đâu chỉ mình Đạo Hạnh mà còn cả

người vợ hiền đã cùng chàng đi qua bao gian khó cuộc đời. Những ngày bình

yên đã hết, nỗi kinh hoàng như giấc chiêm bao, không thể nhìn chồng bị đoạ

đày, Thảo đã lặn lội đường xa nguy khó để tìm phương thuốc lành chữa bệnh

52

cho vua thoát nạn đau đớn trong thân hình hổ dữ. Thảo không quản khó khăn

tìm đến người bạn năm xưa là Nguyễn Minh Không nơi núi thẳm, rừng sâu về

cứu người trên ngôi cao trong thân xác hùm beo đã không còn nói được tiếng

người. Thậm chí nàng nguyện sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình để cứu

chồng:

“Thảo:

- Làm người một mình ư? Để làm gì? Để cho ai? Và có thực sự mãi mãi

lánh xa tất cả được không? Có làm người thực sự được không, nếu dửng

dưng với mọi niềm đau khổ? Minh Không, xin chàng hãy cứu Từ Đạo

Hạnh, điều đang diễn ra còn khủng khiếp hơn cả cái chết…Xin chàng…

-“Dù thân này phải chết, để chàng được làm người, để ngọn cỏ trong

vườn xanh trở lại…” [47,tr.45-46]

Chỉ có tình thương, mạng sống, đó là máu của người thân yêu mới cứu

được Từ Đạo Hạnh nên người vợ hiền đã nguyện hy sinh thân mình để Đạo

Hạnh được làm người. Máu từ thân Thảo đã ướt đẫm áo choàng với mong muốn

cứu chồng qua cơn nguy biến. Giữa tiếng gầm đau đớn dữ dội của loài thú thoát

xác là tiếng tụng kinh niệm Phật của Nguyễn Minh Không và ánh mắt chan

chứa yêu thương mong ngóng của Thảo với hi vọng Đạo Hạnh vượt qua tai

họa. Từ trong tro bụi lửa thiêu, Đạo Hạnh được làm người trở lại, xóa tan giấc

mộng thống trị bạo tàn của loài ác thú. Nơi dòng máu của Thảo - người con gái

dịu hiền thủy chung giàu đức hi sinh đổ xuống, những ngọn cỏ đã xanh trở lại.

Nàng đã hoá thành cỏ biếc, cây cỏ yêu thương, cỏ của lòng nhân ái, của sự hi

sinh và sắt son:

“Em nguyện là lá cỏ

Cho người em yêu được trở lại làm người

Em làm cỏ không lời

53

Cho chàng là tiếng nói

Em làm cỏ lãng quên

Cho trí nhớ con người còn mãi

Không chịu chết dưới thẳm sâu đất tối

Em hóa thành sắc cỏ để yêu thương” [47, tr.53]

Nhân vật vợ Trương Ba trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt lại

bị đẩy vào sự éo le ngang trái đặc biệt. Người phụ nữ này tự dưng mất chồng

vì sự tắc trách của Nam Tào Bắc Đẩu. Tình cờ đốt nén hương được lên trời biết

chồng mình chết oan vì nhầm lẫn của Nam Tào Bắc Đẩu, đau đớn xót xa trước

cái chết vô lí của người chồng, bà đã một mực đòi Nam Tào Bắc Đẩu trả quyền

sống lại cho chồng mình:

- “Vợ Trương Ba: Chết! Các ông có biết chết là thế nào không? Các ông

đã phải mất người thân bao giờ chưa?

… Chao ôi, chồng tôi… Các ông bắt chồng tôi chết được thì các ông

cũng phải làm chồng tôi sống lại được! Trả chồng tôi đây! [21,tr.343]

Vở kịch còn gây kịch tính sau khi hồn Trương Ba sống lại nhập vào xác

anh hàng thịt dẫn tới “vụ tranh chấp” chồng của vợ Trương Ba với người vợ

anh hàng thịt. Cả hai bà đều không muốn chấp nhận cái chết của chồng, đều

mong muốn con người kia vừa được trả cho sống lại kia là chồng mình. Khi

hồn Trương Ba được sống “hợp pháp” trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở

nên rắc rối hơn. Ông Trương Ba- người chồng mà bà thương yêu rất mực nay

mang hình vóc của người hành thịt đã hoàn toàn thay đổi. Vợ Trương Ba không

thể đối diện với sự thật này, bà đau khổ: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông

Trương Ba làm vườn ngày xưa” [21,tr.411]. Người vợ của Trương Ba dù rất

mực yêu thương chồng, nhẫn nhịn, giàu lòng vị tha nhưng cuối cùng vẫn rơi

vào sự bế tắc. Nhưng trước sự đổi thay của chồng, không tìm thấy con người

Trương Ba trước kia, bà đau xót không sao chịu nổi. Nỗi đau hiện tại còn kinh

54

khủng hơn giây phút bà tiễn thân xác chồng khỏi thế gian.Cuối truyện Trương

Ba quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt, dành quyền sống cho cu Tỵ và

hình ảnh vợ Trương Ba hốt hoảng chạy loanh quanh tìm chồng, gọi tên chồng

trong vô vọng để lại nhiều cảm xúc dư âm cho người đọc, người xem.

Qua tìm hiểu về các nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác từ truyện dân

gian của Lưu Quang Vũ, chúng ta có thể thấy họ là những người tiêu biểu cho

vẻ đẹp tâm hồn rất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Đó là những người

phụ nữ thủy chung son sắt trước sau như một, thậm chí dám đánh đổi tất cả

để mong có một cuộc sống tốt đẹp hơn cho chồng cho con, dù sự hi sinh của họ

đôi khi không thể giúp họ có đươc một hạnh phúc trọn vẹn.

2.3.3. Sự đấu tranh để vươn tới những giá trị đích thực của tình yêu, cuộc

sống

Cuộc sống của con người muôn màu đa dạng, cũng có lúc không tránh

khỏi bị đè nặng bởi những đau khổ do tội lỗi và những điều xấu người

khác hoặc chính bản thân mình gây ra. Chúng ta không tránh khỏi có

những thời gian sống vơi đi niềm tin vào con người và cuộc đời, bi quan về

tương lai, số phận...Thế nhưng, bất chấp những cái xấu, cái ác luôn tồn tại trong

cuộc sống, con người chúng ta vẫn luôn có một khuynh hướng, một khát vọng

vươn tới những điều cao cả hơn so với cuộc sống hiện tại. Đời người phải là

một quá trình nỗ lực vươn lên không ngừng để tìm được những giá trị tình yêu

giá trị cuộc sống đích thực. Đó là sự đấu tranh với cái xấu tồn tại xung quanh

và cả cái xấu ngay trong chính mình để tìm được giá trị cao đẹp của cuộc sống.

Giá trị đích thực của tình yêu và hạnh phúc cuộc đời không tự nhiên đến, đó

không phải là một ân sủng mà một số phận có thể ban phát mà phụ thuộc vào

chính bản thân mỗi người. Người ta không trở nên hạnh phúc trong một đêm

mà phải trả giá bằng sự lao động cần mẫn, vươn lên ngày này qua ngày khác.

Mọi giá trị của cuộc sống để có được đòi hỏi phải có sự vươn lên sự đấu tranh

55

với những cái xấu xa dung tục tầm thường. Giá trị Chân -Thiện -Mỹ luôn là

một tiêu chuẩn tốt đẹp, cao quý và thánh thiện mà xã hội văn minh luôn đề cao

và ca ngợi. Nó được xem như “bộ luật tối cao của loài người”, là nền tảng lý

luận cơ bản nhất của cuộc sống con người và vươn tới,là phương châm chỉ đạo

cần phải có trong mọi hoạt động của con người. Trần Đức Thảo trong Một hành

trình (Paris 1992) viết: “Khi tự vấn mình, ý thức đòi hỏi cái Thiện trong hành

động, cái Chân trong tri thức, và cái Mỹ trong sự hoàn thành các quá trình

nghiệm sinh Văn phòng làm việc, qua đó ý thức biến thế giới tự nhiên thành

một nhân giới, xứng đáng với con người.” Như vậy những con người luôn có

ý thức đấu tranh với sự tầm thường để vươn tới những giá trị đích thực của của

cuộc sống là những con người có phẩm chất tâm hồn rất đáng quý. Có thể thấy

điều đó ở nhiều nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu

Quang Vũ.

Cô Lụa trong vở kịch Lời nói dối cuối cùng là một cô gái minh chứng

cho sự đấu tranh không khoan nhượng với những điều dối trá trong cuộc

sống.

Như bao cô gái bước vào tuổi cập kê, cô cũng từng có sự rung động trước

những lời nói chân thành và tiếng sáo của Cuội. Lúc đó cho dù Cuội núp dưới

bóng công tử Lãn nhưng những lời nói đó đều là lời từ tận đáy lòng nên đã lấy

được cảm tình từ cô Lụa. Tuy có dành tình cảm cho Cuội, nhưng cô Lụa vẫn

kiên quyết đấu tranh với sự dối trá của Cuội. Tuy Cuội bằng sự tinh quái, tài

nói dối đã cứu cô Lụa ra khỏi cuộc hôn nhân không mong muốn, nhưng Lụa

không vì thế mà chấp nhận những việc Cuội làm Cô kiên quyết không nhận sự

giúp đỡ của Cuội dù có phải chấp nhận một mình thân gái giữa nơi phường

phố xa lạ.

Sự đấu tranh mạnh mẽ của Lụa thể hiện rõ nét nhất ở phần cuối tác phẩm,

khi mà cô chủ động đến gặp Cuội nói hết nỗi lòng mình và quyết định từ bỏ

56

Cuội cùng những rắc rối do Cuội gây ra. Từ bỏ chức quan triều đình và cuộc

sống nhung lụa, cô không chấp nhận sống giả dối trong một cái vỏ bọc và hình

hài không phải của chính mình. Trong suốt tác phẩm, người đọc nhận thấy ở

Lụa không chỉ ở vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, mà còn khâm phục ở cô tính cách

ngay thẳng, luôn đấu tranh với những điều giả dối để tìm đến những giá trị chân

thực của cuộc sống. Đó là bài học nhân sinh sâu sắc: Sự trung thực và lòng tốt

của con người phải được xây dựng trên cơ sở của chữ “chân”, chứ không thể

dùng sự xảo biện, dối trá để đạt được những mục đích tốt đẹp.

Chính sự trong sáng, lương thiện và lòng trung thực của Lụa đã cảm hóa

Cuội khiến Cuội nhận ra mọi sai lầm của mình, từ bỏ cuộc sống nhung lụa, vinh

hoa phú quý, cố gắng thay đổi con người mình để sống một cuộc sống “không

cần đến những điều dối trá”. Rõ ràng trong hoàn cảnh này chữ Chân tỏa sáng

từ tâm hồn cô Lụa đã hướng con người đến chữ Thiện – cả hai đều là giá trị cao

đẹp trong đời sống con người.

Những giá trị Chân- Thiện - Mỹ luôn là đích hướng đến của con người

trong mỗi thời đại. Trong đó, con người sống với nhau không chỉ cần chân thực,

trung thực với nhau mà hơn hết cần phẩm chất lương thiện, tình yêu thương

con người và vạn vật. Nhân chi sơ tính bản thiện là đạo lí mở đầu trong cuốn

Tam Tự Kinh của Khổng Tử . Câu này có ý nghĩa là: Con người sinh ra bản

tính ban đầu vốn thiện và tốt lành, khi lớn lên, do ảnh hưởng của đời sống xã

hội mà tính tình trở nên thay đổi, tính ác có thể phát sinh, do đó cần phải luôn

được giáo dục, giữ gìn và rèn luyện cho đời sống lành mạnh thì tính lành mới

giữ được và phát triển, để tính dữ không có điều kiện nảy sinh. Như vậy phẩm

chất lương thiện là phẩm chất cô cùng đáng quý của con người, là cái con người

khi sinh ra đã có, và suốt đời phải đấu tranh để gìn giữ và phát triển nó. Và trên

thực tế lương thiện mới có hạnh phúc, lương thiện mới có thể chung sống với

nhau hòa bình vui vẻ, lương thiện mới có thể thoát khỏi cuộc tranh chấp không

57

có điểm dừng và tự hao phí sức lực, lương thiện mới có thể đạt được sức khỏe

lương thiện mới có thể làm thiên hạ thái bình, khắp nơi an vui. Trong vườn hoa

của cuộc đời, mỗi một hạt giống thiện niệm, đều một lòng vì người khác mà nở

ra quả chín ấm áp, không ai không cần lương thiện, cũng không ai không bị

lương thiện cảm hóa. Nhân vật Thảo trong Ông vua hóa hổ là một cô gái tỏa

sáng lòng nhân từ lương thiện. Máu của cô đã cảm hóa linh hồn và thể xác hổ

dữ trong Từ Đạo Hạnh. Nếu Đạo Hạnh sắt thép, dùng bạo lực để trị vì và thu

phục lòng người thì Thảo lại sống nhân ái lương thiện. Trở thành hoàng hậu

bên Từ Đạo Hạnh, Thảo không đồng tình, không tán thành sự hà khắc, trị nước

bằng hình phạt nhiều hơn nhân nghĩa của Đạo Hạnh:

- Thảo: Nhưng thưa đức vua, bây giờ người đâu còn ngồi trên mình ngựa

đánh dẹp. Để non sông muôn thủa thái bình, giờ là lúc không thể chỉ

dùng gươm mà phải bằng nhân nghĩa lớn. Càng lên ngôi cao lòng nhân

càng phải lớn…”

Không can tâm nhìn thấy chồng đang bị linh hồn và thể xác hổ dữ chế

ngự, Thảo đã quyết tâm lặn lội đường xa nguy khó để tìm phương thuốc lành

chữa bệnh cho Đạo Hạnh. Thậm chí nàng nguyện sẵn sàng đánh đổi mạng sống

của mình để cứu chồng: “Dù thân này phải chết, để chàng được làm người, để

ngọn cỏ trong vườn xanh trở lại…”

Kết thúc câu chuyện, Thảo đã hi sinh thân mình, lấy máu của mình để

cứu được Từ Đạo Hạnh trở lại làm người. Sự đấu tranh, nỗ lực của Thảo đã

được đền đáp, cứu được nhà vua Đạo Hạnh trở lại làm người. Trước khi nhắm

mắt, Thảo vẫn dặn dò Đạo Hạnh cùng các con hãy sống bằng lòng nhân ái,

hướng thiện: “Con của mẹ, các con sẽ lớn lên trên đời, hãy nhớ: Không dung

tha kẻ ác, nhưng hãy lấy yêu thương làm gốc rễ cuộc đời. Càng có sức mạnh,

càng ở ngôi cao, lòng nhân ái càng phải lớn…”. “Hãy lấy yêu thương làm gốc

58

rễ cuộc đời” cũng là thông điệp mà vở kịch muốn gửi đến người đọc – Đó là

giá trị cao đẹp giữa con người với con người ở mọi thời đại.

Các giá trị Chân ,Thiện, Mỹ - “bộ luật tối cao của loài người” được thể

hiện rất rõ nét trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ.

Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”,

nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong

gia đình và tự chán ghét chính mình. Hồn Trương Ba cảm thấy cuộc sống thật

bức bối trong “da” anh hàng thịt. Hồn muốn tách ra khỏi cái thân xác kềnh

càng, thô lỗ. Trong tình trạng ấy, nhà văn đã sáng tạo khi dựng lên đoạn đối

thoại giữa hồn và xác để rồi trước sự giễu cợt, mỉa mai của xác anh hàng thịt,

hồn Trương Ba càng trở nên đau khổ, bế tắc. Đặc biệt nhân tố đẩy Trương Ba

đến đỉnh điểm của bi kịch để buộc phải tìm lối thoát cho mình, đó chính là thái

độ và sự đau khổ những của người thân trong gia đình. Đó là những người thân

của ông: vợ, cái Gái và chị con dâu. Cho dù họ rất mực yêu thương Trương Ba

nhưng họ vẫn không thể giấu nổi nỗi đau khổ và không thể chấp nhận sự khập

khiễng của con người bên ngoài một đằng bên trong một nẻo. Vợ Trương Ba

buồn bã nhận ra rằng “ ông đâu còn là ông, đâu còn là Trương Ba làm vườn

ngày xưa”. Bà đau khổ chán nản, dứt áo đòi ra đi, với bà “đi đâu cũng được

còn hơn là như thế này”. Trương Ba yêu thương vợ thế nhưng khi nhập hồn

vào xác anh hàng thịt thì thân xác ấy lại cứ đưa ông về bên người vợ của anh

hàng thịt. Bà không chịu nổi cảnh người vợ hàng thịt hàng ngày sang đòi chồng.

Và hơn thế bà thì đã có tuổi, Trương Ba lại nhập vào xác một người trẻ tuổi, sự

khập khiễng này khiến cho bà cảm thấy thật khó xử. Chính vì thế mà vợ Trương

ba quyết ra đi để nhường ông lại cho vợ của anh hàng thịt. Cái Gái cũng một

mực không nhận đấy là ông nội mình, đứa cháu ấy khẳng định ông nội mình đã

chết, ông nội mình không thể có một “ bàn tay giết lợn”, một “bàn chân to như

cái xẻng” làm gãy tiệt cái chồi non, hay làm hỏng cái diều của cu Tý làm cho

nó dù đang ốm vẫn khóc lóc đòi bắt đền. Nó phản ứng gay gắt, quyết liệt, xua

59

đuổi, kiên quyết không chấp nhận ông với thân xác hiện tại. Chỉ có người con

dâu là người hiểu biết, chín chắn nhất là hiểu được tâm trạng, nỗi khổ của bố

chồng mình. Tuy vậy, chị vẫn không khỏi hoảng hốt, sợ hãi khi thấy bố chồng

mình ngày càng thay đổi, chị đã thốt lên rằng: “ …con sợ lắm bởi con cảm thấy

đau đớn, thấy mỗi ngày thầy một đổi dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc,

nhòa mờ dần đi…”. Trước tình cảnh và thái độ của những người thân, Trương

Ba nhận ra mình thực sự đã rơi vào bi kịch lớn, và không thể tiếp tục bi kịch

này thêm nữa. Cuối cùng Trương Ba đã quyết định chấp nhận cái chết thật sự

với thân xác của mình, trả lại thân xác cho anh hàng thịt. Kết thúc câu chuyện

Trương Ba chết nhưng hồn của Trương Ba thì vẫn ở đâu đó trong ngọn gió.

Người thân của ông khi ấy biết là ông đã về, mọi người lại yêu mến ông như

ngày nào. Từ bi kịch của Trương Ba, sự đấu tranh của những người thân và sự

ngộ ra của chính nhận vật Trương Ba đã đem lại cho vở kịch ý nghĩa triết lí

nhân sinh sâu sắc: Mỗi một người khi được sinh ra trong đời đều được tạo hóa

ban cho thể xác và linh hồn riêng. Thể xác và linh hồn là hai phần tuy khác

nhau nhưng hợp nhất với nhau và cùng nhau tồn tại hình thành nên con người.

Vì vậy hãy sống là chính mình, đừng bao giờ lừa dối bản thân hay người khác,

cũng đừng sống chia đôi mình ra để rồi lời nói, hành động không khớp với

nhau. Hãy là một cái tôi toàn vẹn. Không nên sống nhờ vả vào người khác. Bởi

tạo hoá sinh ra chúng ta, cuộc sống này là của chúng ta, vì vậy phải do chính ta

quyết định. Cuộc sống con người thật quý giá, nhưng được sống đúng là mình,

sống trọn vẹn những giá trị mình muốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Con

người phải luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân,

chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh

thần cao quý. Trương Ba và những người thân của ông đã luôn đấu tranh để

vươn tới những giá trị chân thực và cao cả của cuộc sống. “Tác phẩm chân

chính ko chấm dứt ở trang cuối cùng", vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt

60

khép lại nhưng triết lí sống thấm đẫm giá trị nhân văn, ngời sáng nhân cách cao

đẹp của con người sẽ mãi mãi lưu giữ trong lòng độc giả .

Qua những vở kịch khai thác từ truyện dân gian, nhà viết kịch Lưu Quang

Vũ đã cho người đọc thấy rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn khi có những đóng

góp của người phụ nữ - những người làm nên một nửa thế giới. Vì thế trong tác

phẩm của mình tác giả không chỉ thể hiện sự thấu hiểu, cảm thông chia sẻ với

những đớn đau bất hạnh ngang trái trong cuộc đời nhân vật mà còn thể hiện

niềm tin, sự khẳng định những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn người phụ nữ.

Trong hoàn cảnh nào, ở thời đại nào, vẻ đẹp tâm hồn của những người phụ nữ

Việt Nam cũng rất đáng được trân trọng, ngợi ca

Tiểu kết chương 2

Trong chương 2 chúng tôi tập trung làm rõ loại hình nhân vật nữ trong

mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ với những đặc điểm

sau:

1. Những nhận vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu

Quang Vũ phần lớn là những cô gái đã tìm được tình yêu. Tuy nhiên tình yêu

đem đến cho họ sự ngọt ngào nhưng cũng nhiều éo le, trắc trở. Qua việc thể

hiện bi kịch tình yêu của nhân vật nữ trong mảng kịch này, Lưu Quang Vũ đã

thể hiện cảm nhận sâu sắc và cảm thông chia sẻ về sự bất hạnh ngang trái trong

tình yêu của người phụ nữ.

2. Nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ

phần lớn là những nhân vật bi kịch. Cho dù được yêu thương, tìm được tình

yêu đích thực và có lúc những tưởng hạnh phúc đã đến với họ nhưng những

biến cố cuộc đời lại không buông tha cho họ. Những biến cố ấy khiến số phận

họ thay đổi, thậm chí có nhân vật phải đối diện với cái chết, sự ra đi mãi mãi.

61

3. Tuy nhiên điều khiến người đọc trân trọng mến yêu họ đó là trong khó khăn

hay giông bão cuộc đời họ vẫn tỏa sáng tâm hồn cao đẹp. Họ là những người

có tâm hồn trong sáng, lương thiện, trung thực. Trong tình yêu, họ là những

người phụ nữ sắt son chung thủy và giàu đức hi sinh. Họ luôn đấu tranh để

vươn tới những giá trị đích thực của tình yêu, cuộc sống để hoàn thiện nhân

cách và sống đúng với những giá trị bản thân. Đó là một trong những giá trị

nhân văn chiều sâu của kịch Lưu Quang Vũ nói chung và kịch khai thác truyện

dân gian của Lưu Quang Vũ nói riêng.

CHƯƠNG 3

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH

KHAI THÁC TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ

Nhân vật văn học là con đẻ tinh thần của người nghệ sĩ và là thành tố đặc

biệt quan trọng của mọi tác phẩm văn chương. Nhân vật với tư cách là một hình

tượng nghệ thuật là yếu tố trung tâm nhất của một tác phẩm ngôn từ. Xây dựng

nhân vật trong một tác phẩm văn học chính là việc miêu tả con người của nhà

văn. Văn học không thể thiếu nhân vật bởi nó chính là phương tiện để nhà văn

thể hiện nọi dung tư tưởng của mình. Nhân vật chính là người dẫn dắt người

đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định.

B.Brech nhận xét rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản

đơn là những bản dập của con người sống mà là những hình tượng được khắc

họa phù hợp với ý đồ tác giả”. Đó là phương diện quyết định phần lớn đến cốt

truyện, đến sự lựa chọn chi tiết, phương tiện ngôn ngữ và thậm chí là kết cấu

tác phẩm.

62

Điều góp phần không nhỏ làm nên thành công của các vở kịch Lưu Quang

Vũ nói chung và mảng kịch khai thác truyện dân gian nói riêng, đó là nghệ

thuật xây dựng nhân vật kịch. Tác giả Ngô Thảo đã từng nhận xét: “Có thể thấy

một biệt tài của Lưu Quang Vũ là xây dựng những nhân vật phụ có tính cách

có cá tính và rất sống”[23,tr.147]. Điều ấy cho thấy với Lưu Quang Vũ nhân

vật là một vấn đề được dụng công và chăm chút kĩ lưỡng. Nhân vật trong kịch

khác với nhân vật truyện vì dễ rơi vào một cảm giác giả, “kịch”, thiếu sống

động vì phải chuyển tải những tư tưởng nghệ thuật một cách khô cứng. Nhưng

nhân vật trong kịch của Lưu Quang Vũ lại tránh được điều này. Đặc biệt thế

giới nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của ông hiện lên

vừa thật chân thực vừa sinh động, phong phú. Có thể nhận thấy những đặc sắc

trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở mảng kịch này đó là nghệ thuật khắc họa

nhân vật thông qua xung đột kịch, qua hành động kịch và qua ngôn ngữ. Ba nét

đặc sắc nghệ thuật này giúp cho nhân vật nữ trong kịch của ông hiện lên sống

động, như bước ra từ cuộc đời, vừa truyền tải được những ý nghĩa, thông điệp

nhà văn muốn gửi gắm. Đúng như G.S Phan Ngọc đã nhận xét “có một kịch

pháp Lưu Quang Vũ”[23, tr.149].

3.1. Khắc họa nhân vật thông qua xung đột kịch

Pha-đê-ép cho rằng “xung đột là cơ sở của kịch”. Điều đó cho thấy đặc

trưng tiêu biểu của kịch là tạo dựng các xung đột kịch. Xung đột kịch chính là

hình thức hiện thực khách quan thông qua các mâu thuẫn. Những vấn đề của

đời sống được cô đọng, trưng cất ở các xung đột mà qua đó nhân vật tự thể hiện

rõ nhất tính cách, tâm hồn mình, chuyển tải được tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

Một vở kịch hấp dẫn là một vở kịch có xung đột ngày càng phát triển gay gắt

thể hiện sự đấu tranh giữa các khuynh hướng, giữa các nhân vật, hoặc bên trong

một nhân vật, được giải quyết một cách hợp lí thể hiện rõ tư tưởng chủ đề của

tác phẩm.

63

Xung đột kịch thường xảy ra ở ba hình thức:

Một là, xung đột xuất phát từ những nguyên nhân ở ngoài con người như

bệnh tật, thiên tai.

Hai là, xung đột giữa con người và quyền lợi hay với những quan hệ

mang tính ràng buộc như gia đình, tình bạn, tình yêu, đạo đức, phẩm giá, giai

cấp, tổ quốc.

Ba là, xung đột trong nội tâm, những xung đột lý tưởng xuất phát từ đấu

tranh nội tâm của bản thân nhân vật.

Kịch của Lưu Quang Vũ thường xảy ra ở hai hình thức xung đột chính,

đó là xung đột giữa con người với quyền lợi, với quan hệ mang tính ràng buộc

như gia đình, tình bạn, tình yêu, đạo đức, phẩm giá, giai cấp và xung đột nội

tâm. Ở các vở kịch của ông, con người thường xuất hiện với vai trò là chủ thể

cuộc sống cùng những đòi hỏi về quyền sống tốt đẹp hơn, quyền được yêu,

quyền được hạnh phúc và mong muốn vươn tới những giá trị cuộc sống cao

đẹp hơn.

Từ sự phân loại trên, có thể xếp các vở kịch khai thác truyện dân gian

của Lưu Quang Vũ vào các hình thức xung đột như sau:

+ Xung đột giữa cái tốt và cái xấu hay thiện và ác như vở: Hồn Trương

Ba, da hàng thịt, Lời nói dối cuối cùng, Ông vua hóa hổ

+ Xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh như vở: Linh hồn của đá.

Cùng trong những xung đột đó thì con người – nhân vật nữ trong kịch

của ông được thể hiện rõ nét, đầy đủ tính cách và phẩm chất. Dù xấu hay tốt họ

luôn trăn trở đấu tranh để bảo vệ chân lí, hoàn thiện mình, giữ gìn phẩm giá tốt

đẹp của mình.

64

Trước hết ở hình thức xung đột giữa cái tốt và cái xấu hay cái thiện và

cái ác, có thể thấy rõ nét ở 3 vở kịch: Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lời nói dối

cuối cùng và Ông vua hóa hổ.

Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt tác giả Lưu Quang Vũ rất

khéo léo xây dựng các xung đột lồng ghép, xung đột này là cơ sở để nảy sinh

và đưa đẩy xung đột khác đẩy nó đến cao trào, khiến cho vở kịch biến hóa, linh

hoạt và giàu kịch tính. Truyện có các xung đột: Có xung đột của hồn và xác

(xung đột trong nội tâm nhân vật Trương Ba), có xung đột giữa cái tốt và cái

xấu (giữa vợ Trương Ba, chị con dâu và cái Gái với Trương Ba trong hình hài

xác hàng thịt)… Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ bàn đến hình thức tổ

chức xung đột giữa cái tốt và cái xấu để nhân vật nữ trong truyện thể hiện rõ

tính cách cũng như phẩm chất của mình.

Khi Trương Ba mang thân xác anh hàng thịt đã gây ra rất nhiều rắc rối

cho chính Trương Ba và những người thân của ông. Hồn Trương Ba cao khiết

đã có sự đấu tranh quyết liệt với xác anh hàng thịt phàm phu tục tử. Qua màn

đối thoại này, Trương Ba đã đuối lí, đành chấp trở lại thân xác hàng thịt. Tuy

nhiên, điều khiến Trương Ba ý thức rõ hơn bi kịch mình đang vướng phải chính

là thái độ của những người thân với ông. Ở đây tác giả Lưu Quang Vũ đã xây

dựng xung đột mạnh mẽ quyết liệt của những người thân của Trương Ba với

con người Trương Ba hiện tại. Trước con người mang tên hồn Trương Ba, da

hàng thịt, với những biểu hiện bên ngoài thay đổi, họ phản ứng rất mạnh mẽ và

cảm thấy không thể chấp nhận được điều này. Cái xác hàng thịt đó đã làm thay

đổi con người của Trương Ba, làm cho hồn Trương Ba giờ đây không còn là

của Trương Ba trước kia nữa. Mang xác hàng thịt, hồn Trương Ba trở nên thô

vụng hơn (làm gãy cây trong vườn, gãy diều của cu Tị,...); hung hãn, bạo lực:

tát thằng con trai tóe máu mồm máu mũi, thậm chí run rẩy rung động trước vợ

người hàng thịt…. Vợ Trương Ba buồn bã nói:"ông đâu còn là ông, đâu còn là

65

ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”[21,tr.411], thậm chí bà muốn bỏ đi để

"ông được thảnh thơi... với cô vợ người hàng thịt"[21,tr.411]. Cái Gái phản ứng

mạnh mẽ, không nhận ông vì "ông nội đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy", nó

phủ nhận: “Ông nội tôi chết rồi. Nếu ông nội tôi hiện về được sẽ bóp cổ ông”

[21,tr.412] Nó còn rủa ông và xua đuổi: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ

tể, cút đi!" [21,tr.413]. Ngay cả chị con dâu, người thông cảm với hồn Trương

Ba hơn cả, cũng thấy lo lắng khi bố chồng "mỗi ngày một đổi khác dần, mất

mát dần"[21,tr.415]. Đây chính là điều đau đớn nhất của hồn Trương Ba, khiến

cho bi kịch của Trương Ba lớn hơn, làm mâu thuẫn đẩy tới cao trào.

Qua ba lượt đối thoại: đối thoại với vợ, Hồn Trương Ba đau khổ đến độ

thẫn thờ, đối thoại với cháu gái, đau khổ khổ đến độ run rẩy và đối thoại với

người con dâu, Hồn Trương Ba đau khổ lặng ngắt như tảng đá. Lưu Quang Vũ

rất tài khi diễn tả nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba ở mỗi đối tượng một khác.

Đó là bi kịch của Hồn Trương Ba càng bị đẩy lên tới đỉnh điểm. Những người

thân thiết nhất cũng không chấp nhận nổi tình trạng hai mảnh hồn, người bất

nhất của chồng, cha, ông mình. Họ kiên quyết đấu tranh không thể chấp nhận

những biểu hiện xấu xa trong con người Trương Ba. Xung đột kịch đến đây trở

thành xung đột giữa cái tốt và cái xấu, các nhân vật nữ trong truyện qua xung

đột này đã thể hiện rõ nét tính cách của mình. Họ đấu tranh và không chấp nhận

những điều xấu xa dung tục mà Trương Ba đang có. Xung đột này đã được đẩy

đến cao trào, và bắt buộc Trương Ba phải có sự lựa chọn để thoát khỏi bi kịch

của chính mình: trở về thân xác của mình, chấp nhận cái chết và trả lại thân xác

cho anh hàng thịt. Như vậy qua việc xây dựng mâu thuẫn đến xung đột kịch,

nhà văn đã để không chỉ Trương Ba mà các nhân vật nữ được bộc lộ tính cách

hành động của mình. Từ đó thể hiện ý nghĩa tư tưởng của truyện: cuộc sống

cần vươn đến sự hài hoà giữa thể xác và tinh thần, con người cần phải biết đấu

66

tranh chống lại nghịch cảnh, với chính bản thân mình, chống lại sự dung tục để

hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Là một nhà viết kịch giàu tâm huyết, Lưu Quang Vũ tin vào cái Thiện và

luôn luôn kêu gọi lòng tốt. Có thể thấy ông sử dụng lòng tốt như một động lực

của kịch, tức là lòng tốt là yếu tố để mở những nút thắt. Điều này được thể hiện

rất rõ trong Lời nói dối cuối cùng. Dựa trên những truyện có tính chất dân gian

đã từ lâu đời như truyên thằng Cuội, thằng Bờm và cả những bài đồng dao, Lưu

Quang Vũ đã xây dựng nên vở kịch vui này để lý giải về cái xấu và cái tốt, cụ

thể là sự dối trá và lòng trung thực. Xuất phát từ tình yêu đối với Lụa, Cuội đã

dùng trí thông minh của mình để cứu Lụa và trả thù bọn tham quan ô lại. Cuội

đã lầm tưởng rằng con người ta chỉ cần sống giàu sang đầy đủ ắt là sung sướng.

Những việc làm tốt bụng của Cuội đối với mọi người lúc đầu tưởng là tốt đẹp,

nhưng về sau chính Cuội lại phải hứng chịu hậu quả. Lụa là cô gái có tâm hồn

trong trắng, ngay thẳng, cô kiên quyết đấu tranh và một mực không chấp nhận

những điều dối trá Cuội làm, mặc dù đích đến của những hành động đó là tốt

đẹp. Khi nhận ra Cuội với những trò bịp bợm giả dối, Lụa kiên quyết không

nhận sự giúp đỡ của Cuội bởi cô là người ngay thẳng không chấp nhận những

lời dối trá, dù có phải chấp nhận một mình thân gái giữa nơi phường phố xa lạ.

Đỉnh điểm của những chuyện rắc rối của Cuội gây ra, Lụa phải lưu lạc lên kinh

kì và bất đắc dĩ trở thành mệnh quan triều đình với danh xưng Nam trang tài

nhân. Lụa không chấp nhận sống giả dối trong một cái vỏ bọc và hình hài không

phải của chính mình. Cuối cùng cô đã bộc bạch hết nỗi lòng mình và quyết định

rời bỏ Cuội, gỡ mình ra khỏi câu chuyện dối trá của Cuội. Xung đột của vở kịch

là xung đột quyết liệt của cái tốt với cái xấu, để qua đó các nhân vật bộc lộ rõ

nét tính cách và phẩm chất của mình. Nhân vật cô Lụa qua đó được nhà văn

gửi gắm tư tưởng của mình: Đấu tranh không khoan nhượng cho sự chân thật

trong cuộc sống, mọi ý định dù tốt đẹp nhưng được xây dựng trên sự giả dối

67

cũng không đem lại hạnh phúc mà phải xây dựng dựa trên lòng tin và sự chân

thực.

Xung đột kịch trong vở Ông vua hóa hổ không chỉ là xung đột giữa cái

tốt và cái xấu mà còn tồn tại xung đột giữa thiện - ác rất rõ nét. Hình ảnh Từ

Đạo Hạnh sau khi trở thành vua với sự cai trị hà khắc, bạo tàn, trị nước bằng

hình phạt nhiều hơn nhân nghĩa đã đi ngược lại với quyền lợi nhân dân và đạo

lí tình thương cần có của con người. Chất hổ dữ đã lấn chiếm và chế ngự Đạo

Hạnh đúng như lời nguyền năm xưa trong rừng sâu. Cũng thông qua xung đột

này, nhân vật nữ chính trong vở diễn đã được thể hiện rõ nét phẩm chất của

mình. Không can tâm nhìn thấy chồng đang bị linh hồn và thể xác hổ dữ chế

ngự, Thảo đã quyết tâm lặn lội đường xa nguy khó để tìm phương thuốc lành

chữa bệnh cho Đạo Hạnh. Thậm chí nàng nguyện sẵn sàng đánh đổi mạng sống

của mình để cứu chồng. Kết thúc câu chuyện, xung đột được giải quyết, Thảo

đã hi sinh thân mình, lấy máu của mình để cứu được Từ Đạo Hạnh trở lại làm

người. Mượn tích dân gian, xây dựng xung đột đầy kịch tính tác giả đã thông

qua Ông vua hoá hổ đặt ra lại là chuyện không bao giờ cũ, đó là: Tình yêu, sự

thù hận bạo tàn, sự thỏa hiệp trước cái xấu để đạt mục đích cá nhân, chất “hổ”

trong từng con người. Dù có bao nhiêu hoài bão, khát vọng cháy bỏng, nhưng

nếu cá nhân đó (hay dân tộc đó) vay mượn sức mạnh để đạt được tham vọng,

sẽ đánh mất bản ngã (tính nhân văn) cũng là đánh mất chính mình, trở thành

thú tính. Sức mạnh của con người (hay sức mạnh của một triều đại) chỉ có được

bằng chính sức mạnh của bản thân mỗi người (hay mỗi dân tộc). Sức mạnh ấy

chính là cái thật, là bản ngã, là sự nỗ lực thể hiện của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc,

không thể vay mượn. Chỉ có tình yêu thương và sống thật với chính mình mới

là gốc rễ cuộc đời.

Loại xung đột thứ hai là xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh có thể thấy

qua vở kịch Linh hồn của đá. Bi kịch tình yêu của Thanh và Vịnh đã lấy đi

68

nước mắt người đọc người xem, đồng thời đậm tô và khắc sâu vẻ đẹp của tình

yêu chung thủy sắt son của người phụ nữ. Xung đột kịch được đẩy đến cao trào

khi Vịnh tình cờ biết được người vợ mà mình vô cùng yêu quý lại chính là

người em gái ruột đã thất lạc bao nhiêu năm. Bi kịch giằng xé trong tâm hồn

khiến Vịnh đau đớn đến mức không thể chịu nổi. Quyết chôn chặt bí mật để

không làm Thanh phải gục ngã và đau đớn, Vịnh đã bỏ đi khỏi xóm Đá không

một lời từ biệt. Hoàn cảnh nghiệt ngã đẩy mỗi nhân vật vào bi kịch riêng. Nhưng

trong hoàn cảnh bi kịch ấy nhân vật của Lưu Quang Vũ đã được thể hiện phẩm

giá một cách rõ rệt. Thanh là người vợ tỏa sáng tình yêu chung thủy. Ngày

ngày, mẹ con Thanh đều ra bến đứng chờ mòn mỏi, mong một ngày chồng sẽ

trở về với tình yêu bền bỉ không phai mờ. Sự chờ đợi đến tuyệt vọng, hai mẹ

con Thanh hóa thành tượng đá. Bi kịch tình yêu của Thanh và câu chuyện

Thanh ôm con chờ chồng hóa đá mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Hình ảnh mẹ

bồng con đó đã biểu tượng cho đức tính thủy chung cao đẹp của người phụ nữ

Việt, hi sinh chịu đựng, một đời tận tụy, lo âu khổ cực trăm chiều vì chồng con.

Cuộc sống không chỉ có duy nhất một xung đột mà nó vốn chứa đựng rất

nhiều xung đột phức tạp. Kịch của Lưu Quang Vũ theo sát cuộc sống nên có

khi nhà văn miêu tả nhiều xung đột trong một kịch bản, cùng lúc có thể tồn tại

bên cạnh xung đột chính là xung đột phụ. Vì thế câu chuyện kịch không đơn

giản, nhiều xung đột chồng chéo, người xem được quan sát một mảng hiện thực

phức tạp, bộn bề. Nhưng điều dễ dàng nhận thấy đó là thông qua việc tạo dựng

xung đột đầy kịch tính, nhà văn đã để nhân vật của mình, trong số đó các nhân

vật nữ được bộc lộ rõ nét tính cách và vẻ đẹp tâm hồn mình.

3.2. Khắc họa nhân vật thông qua hành động kịch

Arixtôt từng quan niệm: “Kịch là hành động”. Kịch phản ánh cuộc sống

một cách cụ thể và trực tiếp qua hành động của nhân vật. Hành động là phương

thức thể hiện chủ yếu của kịch. Nhà viết kịch tư duy bằng hành động, tìm cách

69

sắp xếp trình tự các hành động kịch sao cho dễ hiểu và hợp lý. Ăng-ghen trong

thư gửi cho Minna Kaoxka có viết: “Khuynh hướng tư tưởng phải tự toát ra từ

tình huống và hành động, chứ không phải do tác giả nói toạc ra”[13,tr.44]. Tổ

chức hành động kịch là tổ chức những hình thức, những lớp đối thoại giữa các

nhân vật nhằm xây dựng tính cách nhân vật, miêu tả mâu thuẫn, giải quyết xung

đột, qua đó gửi gắm tư tưởng – tình cảm của tác giả.

Do đặc trưng thể loại, khi xem một nhân vật kịch, người ta thường lưu ý

đến hai mặt hành động bên ngoài và hành động bên trong của nhân vật đó. Hành

động bên trong được bộc lộ kín đáo qua hành động bên ngoài, qua lời nói, cử

chỉ, việc làm của nhân vật. Đồng thời khi quan sát những hành động bên ngoài,

người xem hiểu được những suy nghĩ, tính toán, cân nhắc, đấu tranh tư tưởng

kín đáo ở bên trong tâm hồn nhân vật. Điều hiển nhiên là hành động bên ngoài

và hành động bên trong của nhân vật luôn có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, phức

tạp và đa dạng. Có nhân vật thì suy nghĩ và hành động thống nhất với nhau, lại

có những nhân vật nghĩ một đằng làm một nẻo, tự mâu thuẫn với chính mình.

Đặt cá nhân con người vào trung tâm quan sát và thể hiện, nhà văn đã từ số

phận, tính cách, đường đời của họ mà soi chiếu trở lại lịch sử và xã hội để từ

đấy khơi mở những vấn đề triết lý nhân sinh.

Nhìn chung, trong mảng kịch khai thác truyện dân gian, để góp phần xây

dựng nhân vật nữ, Lưu Quang Vũ luôn triển khai tổ chức hành động kịch dựa

trên chất liệu hiện thực, lấy sự đa dạng của cuộc sống đời thường làm nền. Tác

giả chú ý lựa chọn kiểu kết cấu hành động kịch chặt chẽ, phù hợp, dẫn dắt hành

động kịch thống nhất tạo nên giá trị thẩm mỹ cho những kịch bản được sự đón

nhận nồng nhiệt từ phía khán giả. Thông qua hành động kịch, người xem hiểu

được nhân vật, từ đó hiểu được quan niệm của nhà viết kịch về con người, về

tình yêu, về hạnh phúc, về lẽ sống làm người.

70

Có thể thấy trước tiên ở nghệ thuật xây dựng kịch Lưu Quang Vũ việc

xây dựng hành động kịch hợp logic. Hành động từng lúc của nhân vật tương

ứng với những nhiệm vụ từng lúc mà nhân vật phải giải quyết. Hành động kịch

gắn với các mâu thuẫn xã hội và tính cách, thể hiện thành các hành động, biến

cố của nhân vật, tạo thành cơ sở của cốt truyện kịch. Trong Hồn Trương Ba, da

hàng thịt, Lưu Quang Vũ đã tạo được hành động kịch tập trung, logic, có sự

phối hợp nhịp nhàng giữa hành động bên ngoài và hành động bên trong. Hành

động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, thể hiện được sự phát triển

của tình huống kịch. Chẳng hạn như bà vợ Trương Ba là người phụ nữ hiền

lành, chất phác nhưng cũng dám cầm liềm lên Thiên đình đòi lại công bằng vì

chồng mình vô cớ mà chết. Dù tin tưởng chồng nhưng trước sự thay đổi của

Trương Ba thì bà dần thất vọng, khóc lóc và còn muốn bỏ đi thật xa. Chị con

dâu luôn thấu hiểu, thông cảm cho ba chồng nhưng cũng thốt ra tự đáy lòng sự

lo lắng khi nhận ra sự mất mát, lệch lạc, mờ dần của người ba chồng đáng kính.

Đặc biệt là cái Gái, trước đây yêu quý, thân thiết với ông nội bao nhiêu thì bây

giờ lại tỏ ra căm ghét, xua đuổi bấy nhiêu. Tất cả đều phù hợp với sự thay đổi

của hoàn cảnh một cách tự nhiên.

Bêlinxki nói: “Mọi hành động trong một kịch bản đều hướng về một mục

đích, một ý đồ”. Điều thứ hai có thể thấy ở các vở kịch khai thác truyện dân

gian đặc điểm chung là có kết cấu hành động kịch chặt chẽ, thống nhất trong

việc thể hiện chủ đề. Kịch của Lưu Quang Vũ không phải là một mớ hành động

vụn vặt, lẻ tẻ, không ăn nhập gì với nhau mà mọi hành động kịch đều xoay việc

phục vụ cho tư tưởng chủ đề. Bởi vì nếu tư tưởng cốt lõi của kịch bản chỉ được

phát biểu qua miệng một nhân vật thì người xem sẽ quên ngay tư tưởng đó.

Hành động kịch dù mang tính chất đúng hay sai, tốt hay xấu đều dẫn đến những

hành động phản xạ, phản ứng lại; quá trình đó diễn ra liên tiếp cho đến khi xung

đột chính được giải quyết. Phan Trọng Thưởng nhận xét rằng trong kịch của

71

Lưu Quang Vũ: “Mỗi người, mỗi hành vi đều được đặt vào hoàn cảnh thích

hợp để nhân vật tự bộc lộ” [14,tr.351]. Trong vở Lời nói dối cuối cùng, Cuội

cố gắng thực hiện một loạt mẹo lừa, mục đích là để giúp đỡ những con người

nhỏ bé bất hạnh. Nhưng vì Cuội hành động dối trá nên chẳng những không giúp

được người khác mà chính Cuội lại rơi vào bế tắc. Hành động của Cuội đã tạo

ra hành động phản ứng của Lụa - người con gái mà Cuội yêu thương nhất, cô

nghĩ nếu Cuội nói dối cả thế gian, ắt sẽ có một ngày nào đó, Cuội dối lừa cô.

Do đó, cô không thể chấp nhận những hành động dối trá triền miên của Cuội.

Lụa mong muốn một phương cách hành động trung thực hơn, để bản chất người

trung thực không bị tha hóa,để cuộc sống thực sự tốt đẹp và công bằng khi con

người không còn phải đối mặt với những điều dối trá. Khi biết Cuội muốn cứu

mình khỏi đám cưới với công tử Lãn –người mà cô khinh ghét thì cô đã đi theo

Cuội. Nhưng khi nhận ra những trò lừa bịp dối trá của Cuội, cô cũng cương

quyết ra đi từ bỏ Cuội và chốn phồn hoa kinh kì để trở về quê, chọn lối sống

giản dị nhưng chân thật, được là chính mình và sống bằng đôi bàn tay mình.

Thông qua các hành động của Lụa cho thấy cô là người cương quyết đấu tranh

cho sự thật và lòng trung thực. Cũng thông qua sự sắp xếp chuỗi hành động

xuyên suốt kịch bản, đặc biệt của cả nhân vật Cuội và Lụa, Lưu Quang Vũ

muốn khẳng định rằng mọi kiểu dối trá đều gây ra hậu quả khó lường; đồng

thời ông cũng chia sẻ với người xem một quan niệm về mục đích và phương

tiện hành động. Theo ông, con người không thể lấy mục đích để biện minh cho

phương tiện, mục đích càng cao quý thì phương tiện hành động càng phải

hướng tới tính chất chân, thiện, mỹ. Nêú không thì con người không bao giờ có

thể thực sự vươn tới điều cao cả, tốt đẹp. Lưu QuangVũ là vậy, đằng sau cái vẻ

giản dị của các lớp kịch, các hành động kịch thường gửi gắm một lớp ý nghĩa

sâu sắc.

72

Thứ ba, hành động kịch trong các vở kịch dân gian của Lưu Quang Vũ

không chỉ bộc lộ tính cách nhân vật mà còn cho thấy tác động của các sự kiện,

biến cố, của hoàn cảnh khách quan đến mỗi cá thể trong cuộc sống. Mỗi tính

cách đều là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử - xã hội cụ thể. Trong vở Ông

vua hóa hổ, khi Đạo Hạnh rơi vào tình cảnh đau đớn, hoảng hốt trong lốt hổ

mà trái tim vò xé nát tan, ân hận xót xa thì không ai còn nhận ra vị vua oai

phong lẫm liệt ngày nào. Mọi người run sợ và xa lánh, tuy nhiên Thảo vẫn kiên

nhẫn ở bên cạnh chồng động viên an ủi Đạo Hạnh. Tuy nhiên, không thể nhìn

chồng bị đoạ đày đau đớn trong lốt hổ dữ, Thảo đã lặn lội đường xa nguy khó

để tìm phương thuốc lành chữa bệnh chồng. Thảo không quản khó khăn tìm

đến người bạn năm xưa là Nguyễn Minh Không nơi núi thẳm, rừng sâu về cứu

người trên ngôi cao trong thân xác hùm beo đã không còn nói được tiếng người.

Thậm chí nàng nguyện sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình để cứu chồng.

Hoàn cảnh ngang trái éo le đã khiến Thảo trở thành người phụ nữ bản lĩnh,

hành động cương quyết, dũng cảm.

Như vậy có thể thấy rõ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của

Lưu Quang Vũ, tác giả đã xây dựng hành động kịch hiệu quả để thể hiện rõ nét

phẩm chất tính cách và số phận nhân vật, trong đó có nhân vật nữ. Từ đó, thể

hiện rõ tư tưởng chủ đề của vở kịch.

3.3. Khắc họa nhân vật thông qua ngôn ngữ

Văn học là tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, vì vậy ngôn ngữ đóng vai trò

quan trọng trong việc truyền tải nội dung cũng như cụ thể hóa hình thức một

tác phẩm văn chương. Đối với kịch thì ngôn ngữ lại càng quan trọng vì trong

tác phẩm kịch, ngôn ngữ người kể chuyện bị triệt tiêu chỉ còn lại ngôn ngữ

nhân vật, tất cả tính cách, nội tâm nhân vật được bộc lộ qua ngôn ngữ. “Văn

học kịch thể hiện hành động với một tính trực tiếp tối đa. Hành vi của các nhân

vật ở đây hiện ra không nhờ đến lời tác giả mà là được tái tạo bằng hình thức

73

phù hợp với nó: bằng độc thoại và đối thoại của bản thân các nhân vật

ấy”[34,tr.72].

Ngôn ngữ kịch có thể là lời đối thoại, độc thoại hoặc bàng thoại nhưng

đều là phương tiện để thể hiện hành động kịch, qua đó là sự phát triển của

xung đột và toàn bộ cấu trúc tác phẩm. Tuy nhiên, để khảo sát đầy đủ các khía

cạnh trong ngôn ngữ kịch của Lưu Quang Vũ trong việc xây dựng chân dung

nhân vật, người viết luận văn đã phân chia thành hai phần: ngôn ngữ đối thoại

và ngôn ngữ độc thoại, đây chỉ là sự phân chia có tính chất tương đối bởi mỗi

kịch bản dù ngắn hay dài vốn là một chỉnh thể nghệ thuật. Nhìn chung, kịch

Lưu Quang Vũ như một bản hoà tấu đa giọng, trong mảng kịch này có thể nhận

thấy một số đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ kịch Lưu Quang Vũ đó là:

- Ngôn ngữ giàu chất triết lí hàm súc

- Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày

- Ngôn ngữ mang tính hành động

3.3.1. Ngôn ngữ giàu chất triết lí, hàm súc

Lưu Quang Vũ là người nhập cuộc, ý thức công dân tích cực khiến ông

thường ưu tư về con người và thời cuộc. Cho nên ngôn ngữ trong kịch của ông

thường đậm chất triết luận - trữ tình. Đạo diễn, nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Đình

Nghi - người đã dựng tám kịch bản của anh, tâm sự rằng: “Cái hợp giữa tôi và

Vũ là khả năng tạo ra những tình huống đa nghiã cho tác phẩm khả năng gợi

mở, lay thức tâm hồn và trí tuệ khán giả.”[23,tr.247].

Chất triết lý toát lên từ lời thoại của một số nhân vật nhưng không phải bằng

giọng văn lên gân, thuyết giáo cao siêu mà ngược lại, rất tự nhiên, mộc mạc, dễ

hiểu. Thậm chí có lúc lời tâm sự bày tỏ quan niệm của tác giả về con người như

hoà nhuyễn vào trong lời thoại kịch.

74

Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt có thể thấy ngôn ngữ nhân

vật đậm chất triết lí. Các nhân vật dường như đều có thể trở thành người phát

ngôn rành rọt, thậm chí người đọc phải ngạc nhiên vì sao những người phụ nữ

lao động bình dân lại có thể nói có lí, có tình, sâu sắc và đầy triết lí như vậy:

- “Chị con dâu: Thày bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có

cái bên trong, nhưng thày ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn

thấy… Mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch

lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy

nữa…Con càng thương thày, nhưng thày ơi, làm sao, làm sao giữ được

thày ở lại hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thày của chúng con xưa kia? Làm

thế nào thày ơi?” [21,tr.415]

Trong vở kịch có nhiều đoạn đối thoại giàu ý nghĩa hàm ẩn đằng sau lớp nghĩa

tưởng như đã quá rõ ràng. Chẳng hạn như đoạn đối thoại giữa vợ Trương Ba

với các quan trên thiên đình:

- “Bắc Đẩu: …Bây giờ, việc đã lỡ rồi. Ông nhà có mất sớm thật, nhưng

thiết nghĩ: đằng nào cũng thế thôi, người dưới trần ai cũng một lần chết.

- Vợ Trương Ba: Chết! Các ông có biết chết là thế nào không?Các ông

đã phải mất người thân bao giờ chưa ?

- Bắc Đẩu: Quả là…chúng tôi là người cõi giời…Người cõi giời không

ai phải chết…

- Vợ Trương Ba: Cho nên các ông làm sao hiểu được chết là như thế nào?

Một người đang sống, đang làm lụng, cười nói vui buồn, hít thở khí trời,

nhìn ngắm cây cối, đang ấm cúng giữa vợ con, nhà cửa, bạn bè thân thích

bỗng đùng một cái không còn biết gì nữa, không nghe được bất kì lời nói

của ai, không làm thêm được bất cứ việc gì, không còn gì hết, câm lặng,

trống không, thân thể tan rữa trong đất lạnh tối tăm… Chao ôi, chồng

75

tôi…Các ông bắt chồng tôi chết được, thì các ông cũng phải làm chồng

tôi sống lại được! Trả chồng tôi đây!” [21,tr.343]

Bắc Đẩu, Nam Tào đều là quan nhà trời, chưa từng trải nghiệm cảm giác

mất mát khi người thân yêu của mình bị cái chết cướp đi nên không hiểu chút

gì về nỗi đau sinh ly tử biệt. Phải chăng qua lời thoại nhân vật ở đây,Lưu Quang

Vũ ngụ ý nói rằng khi người ta không cùng cảnh ngộ, không cùng giai cấp thì

thật khó mà có được sự đồng cảm với nhau. Cũng trong vở kịch này, con người

được miêu tả như một sinh thể tồn tại tất yếu vừa có phần hồn vừa có phần xác

theo quy luật của tạo hóa. Những dục vọng ghê gớm sẽ xô đẩy người ta vào

vũng lầy thấp kém nếu linh hồn thanh tao không đủ lực mạnh để giữ lại các giá

trị cao quý.

Trong lời thoại của vợ người hàng thịt – người phụ nữ nông thôn quê mùa cũng

thể hiện tính triết lí sâu sắc, những điều ngộ ra từ những điều đơn giản nhất

trong cuộc sống mà không phải ai cũng biết:

- Vợ người hàng thịt: Đúng! Không phải em ghét bỏ gì con người cũ của

chồng em. Em đã chịu ơn ông ấy, thuộc về ông ấy, than khóc khổ sở khi

ông ấy mất, nhưng chỉ từ khi ông tới, hay nói đúng hơn là từ khi hồn ông

nhập vào xác chồng em, em mới biết trước kia em thiếu những gì, em

mới biết bao lâu nay em chưa hề được sống lại thời con gái, nỗi sướng

vui… Em cảm tạ trời phật đã cho hồn ông nhập vào hình vóc quen thuộc

này! (cầm hai bàn tay hồn Trương Ba) Em không ao ước gì hơn nữa!

Người chồng toàn vẹn của em đây ! [21,tr.394]

Như vậy, những lời thoại đậm chất triết lí sâu sắc không chỉ góp phần

thể hiện tính cách, hoàn cảnh hay số phận nhân vật, nó còn khiến người đọc

phải trăn trở suy nghĩ về những chân lí bình dị nhất của cuộc sống.

76

Cô Lụa trong vở kịch Lời nói dối cuối cùng là một cô gái thôn quê bình

dị, với phẩm chất trong sáng trung thực thẳng thắn, mặc dù dành tình cảm cho

Cuội nhưng cô đã kiên quyết đấu tranh với những trò giả dối lừa bịp của Cuội.

Cô quyết định từ bỏ chốn kinh kì để trở về quê sống cuộc đời bình dị, những

lời nói của Lụa với Cuội ở cuối tác phẩm chính là thông điệp đầy tính triết lí

sâu sắc mà tác giả Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc qua vở kịch:

- “Lụa: Không Cuội, tôi biết: anh vẫn không phải kẻ gian dối lừa lọc, xưa

anh cũng là người trung hậu chất phác như Bờm. Nhưng anh đã chọn cho

mình con đường gian dối mưu mẹo. Mới đầu chỉ dối ít thôi để sống, rồi

quen đi, cứ dấn mãi vào, không khác được. Cái mặt nạ gian dối anh mang

mãi, nó trở thành gương mặt thật của anh, xấu xa, đáng ghét.

- Cuội: Nhưng Lụa phải biết tôi làm những việc như vậy để làm gì? Tôi

muốn mang lại điều tốt, điều lành cho người khác, dù có phải mưu mẹo

lừa lọc.

- Lụa: Không thể có được điều tốt lành bằng những cách thức xấu xa.

Anh lừa bịp bọn ác bọn xấu, thật ra cũng là anh dựa vào chúng nó. Sẽ

không ai cần điều tốt lành có được bằng cách ấy… Đối với tôi, thế là đủ

rồi. Tôi đến đây lần Cuối, để chảo từ biệt anh… Cũng có lúc tôi thầm

quý mến anh đấy, nhưng bây giừ thì… Tiếp tục ở đây, rồi tôi cũng sẽ

không còn là tôi nữa mất thôi. Anh cứ việc ở lại với những điều gian dối

của anh, tôi đi…[48,tr.50-51]

Những lời thoại đầy tính triết lí không chỉ làm sáng đẹp phẩm chất nhân

vật Lụa, nó còn mang thông điệp đến với mọi người, cho mọi thời đại: mọi ý

định dù tốt đẹp nhưng được xây dựng trên sự giả dối cũng không đem lại hạnh

phúc mà phải xây dựng dựa trên lòng tin và sự chân thực. Đằng sau những hình

tượng, câu thoại là tâm sự của Lưu Quang Vũ về một xã hội đòi hỏi sự trung

thực, chống lại tất cả dối trá và những điều làm con người không còn tin vào

77

cuộc sống. Tác phẩm làm cho mọi người nhận thức và thấy được cả những dối

trá, ví như cái yếu như bệnh thành tích, dối trá bằng cấp, chạy chọt chức quyền

làm xói mòn lòng tin trong xã hội ngày nay và cần phải loại bỏ ngay.

Nhân vật Thảo trong Ông vua hóa hổ giành được sự yêu mến và đồng

cảm của người đọc người xem bởi tấm lòng lương thiện nhân ái. Ngay cả khi

trở thành hoàng hậu, Thảo vẫn giữ phẩm chất của người phụ nữ trong sáng

lương thiện, cô luôn đề cao lối sống nhân nghĩa. Lời khuyên của Thảo với vua

Đạo Hạnh thể hiện triết lí sống cao đẹp, nhân văn cần có của con người, đặc

biệt càng cần thiết hơn với người ngồi trên ngôi cao:

- “Thảo: Nhưng thưa đức vua, bây giờ người đâu còn ngồi trên mình

ngựa đánh dẹp. Để non sông muôn thủa thái bình, giờ là lúc không thể

chỉ dùng gươm mà phải bằng nhân nghĩa lớn. Càng lên ngôi cao lòng

nhân càng phải lớn… Bệ hạ là nhà vua áo vải mà lâu nay phải sống quá

xa những người áo vải… Hãy nghe thiếp, bệ hạ hãy rời đây ra xóm mạc

ít ngày, xem người đánh cá trên sông, hái dâu trên núi nghĩ gì… Họ là

gốc của mọi nghĩa lớn” [47,tr.21]

Ngay cả khi phải hi sinh cho Đạo Hạnh, trước khi nhắm mắt, Thảo vẫn

dặn dò Đạo Hạnh cùng các con hãy sống bằng lòng nhân ái yêu thương con

người:

- “Thảo: Con của mẹ, các con sẽ lớn lên trên đời, hãy nhớ: Không dung

tha kẻ ác, nhưng hãy lấy yêu thương làm gốc rễ cuộc đời. Càng có sức

mạnh, càng ở ngôi cao, lòng nhân ái càng phải lớn…”[47,tr.53]

Lời nói cuối cùng của Thảo trong tác phẩm “hãy lấy yêu thương làm gốc

rễ cuộc đời” cũng là thông điệp mà vở kịch muốn gửi đến người đọc – Đó là

giá trị của cuộc sống con người với con người ở mọi thời đại.

3.3.2. Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày

78

Có những tác giả thành công ở thể loại truyện ngắn nhưng khi chuyển

sang viết kịch bản thì chưa tạo được tiếng vang. Chẳng hạn như Nguyễn Huy

Thiệp – tác giả của vở kịch “Còn lại tình yêu”. Theo Phạm Vĩnh Cư, vở kịch

đó không mấy thành công vì “quá nhiều chất từ chương hùng biện, hơi nhiều

những khuyến cáo khoa trương và ít những tính cách thực sự sống động, ít

những lời thoại tự nhiên mà thấm thía. Cái anh hùng và bi hùng trong hiện thực

chưa được ngòi bút người viết kịch tái tạo một cách nhuần nhuyễn”[3,tr.38].

Hoặc như vở “Ngôi nhà quỷ ám” của Nguyễn Khắc Phục, xem xong kịch,

Nguyễn Thị Minh Thái cho rằng kịch bản này “không có chất lượng văn học

và giả tạo về sự sống”[20,tr.311]. Nhưng trường hợp Lưu Quang Vũ thì có

khác, anh thường chọn kiểu cấu trúc lời thoại sao cho gọn gàng, vừa đủ ý, không

hoa mỹ văn vẻ mà hướng về lớp từ khẩu ngữ bình dân dùng trong sinh hoạt đời

thường. Hầu hết các nhân vật nữ trong các vở kịch khai thác truyện dân gian

của Lưu Quang Vũ đều được xây dựng gần gũi, như bước ra từ đời thường, ta

có thể bắt gặp ở bất kì đâu trong cuộc sống. Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da

hàng thịt các nhân vật nữ thường có những câu thoại gần gũi như lời ăn tiếng

nói hàng ngày của người lao động. Đoạn kịch vợ Trương Ba ấm ức lên thiên

đình đòi Nam Tào, Bắc Đẩu để cho Trương Ba sống lại đã thấy rõ điều đó:

- “Vợ Trương Ba: Các người bắt chồng tôi chết oan, các người phải làm

chồng tôi sống lại, kẻo không xong với tôi! [21,tr.342]

....

- Vợ Trương Ba: (Quát to) – Tôi không biết! Các người phải làm cho

chồng tôi sống lại! Tôi không để các người yên đâu! Giời gì mà bạc ác

thế. Bà sẽ phá tan cái cõi giời của chúng mày, bà băm vằm mặt chúng

mày ra! [21,tr.344]

Còn đây là đoạn kịch vợ người hàng thịt sang nhà Trương Ba đòi chồng:

79

- “Vợ người hàng thịt: Ông! Ông ơi! (Vẫy tay gọi hồn Trương Ba)

….

- Vợ người hàng thịt: Ông ơi, con lợn nó to nó phá chuồng xổng ra ngoài,

chạy lồng khắp vườn, một mình tôi không sao bắt được, ông sang giúp

tôi một tay!

- Vợ Trương Ba: Sao việc gì bà cũng chạy sang đây? Kệ thây con lợn

nhà bà!

- Vợ Trương Ba: Chồng tôi có phải đứa ở nhà bà đâu mà bà sai?

- Vợ người hàng thịt: Bà nói năng cho biết điều một chút. Tôi đã nhường

nhịn bà nhiều rồi! Ừ thì hồn chồng bà, nhưng thân là chồng tôi. Không nhờ

cậy chồng tôi thì chồng bà lấy gì mà đi lại, cười nói, ăn uống?

- Vợ Trương Ba: Dào ôi, không có hồn chồng tôi thì xác chồng bà đã rữa

nát ra dưới mồ rồi!” [21,tr.375-376-377]

Trong hai đoạn đối thoại trên, câu nào cũng ngắn gọn, được viết theo

kiểu câu khẩu ngữ, người nói hướng về phía người đang đối thoại, sử dụng

những từ ngữ thông dụng hàng ngày của người lao động, ví dụ như: “kẻo không

xong với tôi, Giời gì mà bạc ác thế. Bà sẽ phá tan cái cõi giời của chúng mày,

bà băm vằm mặt chúng mày ra, Kệ thây con lợn nhà bà!, Dào ôi”…

Đó là những lời thoại sử dụng nhiều khẩu ngữ trong đời sống hàng ngày

giản dị,mộc mạc. Lời thoại gần với cuộc sống, thật dung dị, tạo cho diễn viên

phong thái nói năng tự nhiên, dường như không phải họ đang trình diễn mà

đang “sống” cuộc đời của nhân vật. Nhân vật như đang nói chuyện bình thường,

không khiên cưỡng, không giả tạo. Cách xưng hô “tôi” với “bà” , “tôi” với

“ông” vốn rất dân dã thường được các cặp vợ chồng đã có tuổi dùng hàng ngày.

Toàn văn kịch bản Hồn Trương Ba da hàng thịt gồm 1874 câu thoại. Trong đó,

tác giả vận dụng tổng cộng là 89 thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Tỉ lệ vào khoảng

80

4,74%. Ngôn ngữ theo phong cách dân dã, sử dụng kiểu từ biến âm mang tính

địa phương như “trái nắng giở giời”,“đèn giời soi xét”,…Về ngữ pháp, rất nhiều

câu thoại là câu tỉnh lược dùng trong ngữ cảnh cho phép. Nhiều câu nói ngập

ngừng, ngắt quãng, hoặc kiểu câu nói bỏ lửng giữa chừng, trong tình huống

người nói muốn người nghe tích cực suy đoán để hiểu và tiếp tục cuộc đối thoại.

Tổng số những câu tỉnh lược và câu đơn đặc biệt trong Hồn Trương Ba da hàng

thịt là 521 câu, chiếm tỉ lệ 27,8 %. Những con số này chưa bao gồm các câu

đơn (chỉ gồm chủ ngữ và vị ngữ) hết sức ngắn gọn và cô đọng. Rất hiếm thấy

tác giả viết những câu văn dài hoặc lời thoại quá dài. Có thể nói, đến vở kịch

này, Lưu Quang Vũ đã rút ra được nhiều kinh nghiệm, ông biết để cho nhân vật

nói năng đúng lúc, đúng chỗ. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật đã được cá tính

hóa, giọng điệu tự nhiên, gọn gàng, trong sáng, dễ hiểu và giàu sức gợi khiến

cho người xem có cảm giác như họ đang được quan sát cuộc sống thực sinh

động ở ngay trước mắt.

Trong vở kịch Lời nói dối cuối cùng, những lời thoại của cô Lụa có những

lời thoại có tính chất triết lí, bên cạnh đó cũng có nhiều lời thoại sử dụng từ ngữ

thân quen, giản dị, là những lời ăn tiếng nói hằng ngày. Cảnh đối thoại công tử

Lãn tỏ tình với Lụa:

- “Lụa: Ông nói sao?

- Lãn: Vâng, tôi mê cô, tôi tỏ tình với cô, muốn lấy cô làm vợ. Lấy được

cô thì tôi thích lắm.

- Lụa: Ra là ông… Người ta không tỏ tình như thế ông công tử Lãn ạ.

- Lãn: Thế cô bảo phải tỏ tình thế nào?

- Lụa: Hay là ông định giễu cợt tôi? Tôi là kẻ nghèo khó, nhưng không

phải người ông giễu cợt được đâu. Tôi đang bận” [48,tr.4]

Trong hai đoạn đối thoại trên, từ ngữ sử dụng ở các lời thoại rất ngắn

gọn, bình dị phù hợp trong đối thoại trực tiếp. Hay ở cảnh bọn gia nhân nhà cụ

81

Chánh đến thu nhà đất, trong lời thoại của cô Lụa thể hiện thái độ cầu xin khẩn

thiết, nhưng cũng rất kiên quyết:

- “Lụa: Trời, xin hai cậu, tôi đưa thêm mấy cây lụa nữa, hai cậu nói cụ

Chánh thư cho ít hôm…

- Gã gia nhân: Úi dào! Mấy tấm lụa quê nhà cô, cụ Chánh lấy mà may

khố à? Biết điều mau lên, cuốn xéo đi, đừng để chúng tôi phải trói ném

ra đường…

- Luạ: Tôi lạy các cậu, mẹ tôi đang ốm…

- Gã gia nhân: Thôi đi! Biết điều thì xéo! Con mẹ mày đâu?

- Lụa: Không, các người không được…” [48,tr.12-13]

Có thể thấy nhiều nhân vật của Lưu Quang Vũ trong đó có nhân vật nữ

chỉ nói những điều họ cần thiết phải nói và chỉ nói lên ý nghĩ của chính họ.

Nhân vật hoàn toàn không phải là cái loa phát ngôn để những khi tác giả muốn

nói điều gì thì đặt lời nói đó vào miệng họ. Có lẽ vì thế mà người xem không

rơi vào cảm giác là mình đang bị nhân vật kịch giáo huấn, không cảm thấy nặng

nề, gượng ép. Điều đó làm cho các vở kịch khai thác từ tích truyện dân gian

của Lưu Quang Vũ không phải là bản sao chép y nguyên truyện xưa. Tác giả

mượn xưa nói nay, tổ chức những lớp thoại mang tính sáng tạo để thu hút công

chúng. Điều đó lí giải vì sao mảng kịch này lại thu hút sự chú ý của độc giả đến

vậy!

3.3.3. Ngôn ngữ mang tính hành động

“Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ để diễn xướng trong không gian sân khấu,

là ngôn ngữ có trù tính đến hiệu quả đối với công chúng, tức là dạng ngôn ngữ

mang tính sân khấu” [37,tr.740]. Diễn viên dựa vào lời thoại để biểu diễn, để

sống với vai diễn một cách sinh động. Ngôn ngữ mang tính sân khấu là ngôn

ngữ đi kèm với động tác diễn xuất của diễn viên; kết hợp với các cử chỉ, điệu

82

bộ, nét mặt, lời thoại của các nhân vật giúp người xem hiểu nhân vật đã làm gì,

đang làm gì và dự định sẽ làm gì.

Ngôn ngữ kịch Lưu Quang Vũ mang tính hành động, thể hiện hành động

và có tác dụng như hành động. Mỗi lời thoại vừa được phát ra, lập tức có một

phản hành động đáp lại, tuỳ theo mục đích cụ thể của từng nhân vật lúc đó. Lời

thoại cho người xem thấy các nhân vật liên tục tác động lẫn nhau, chuyển hướng

hành động và mức độ nông hay sâu của mâu thuẫn giữa họ. Bên này tấn công

bằng lời nói, bên kia chống đỡ và tấn công lại một cách mạnh mẽ hơn. Tuyến

hành động cứ thế tiếp tục cho đến khi cái nút kịch được mở ra. Sự giằng co giữa

các nhân vật đối lập diễn ra căng thẳng, buộc đối phương phải tích cực hành

động, tấn công rồi phản công, thuyết phục hoặc phủ nhận sự thuyết phục… Có

thể thấy điều này rất rõ trong Linh hồn của đá:

- “Thanh: Mình, mình đi đâu?

- Vịnh (bối rối) Đi có việc. Đừng đợi cơm tôi.

- Thanh: Anh Vịnh! Em biết anh đi đâu rồi? Cha bảo mấy bữa nay chiều

nào anh cũng ngồi ngoài quán mụ Lã uống rượu. Anh uống rượu say,

thâu đêm suốt sáng với đám lái buôn… Sao anh lại thế, chưa bao giờ anh

rượu như thế cả, tại sao anh Vịnh?

- Vịnh: Thanh, chẳng có chuyện gì… Tự dưng thích vậy thôi… Mà có lẽ

tôi là thằng chồng hư đốn. Thanh không nên để ý đến tôi nữa, đừng ở với

tôi nữa.

- Thanh: Nhưng mà… tại sao lại thế? Anh không thích gần em hay em

có lỗi gì để anh bỗng hắt hủi em? Em có lỗi gì để anh phải khổ?

- Vịnh: Không, tôi không thể nói… Em chẳng có lỗi gì, chỉ tại tôi thôi.

- Thanh: Nhất định phải có chuyện gì anh giấu em. Anh Vịnh, đừng đi

đâu nữa, ở nhà với em với con. Sao em bỗng sợ hãi như sắp xảy ra chuyện

gì ghê gớm. Ở nhà với em, mình (Định đến gần Vịnh)

83

- Vịnh: Không, không! Mặc tôi, mặc tôi mà…(như sợ hãi) Tôi van.. (chạy

vụt đi)

- Thanh: Anh Vịnh! (khóc)” [46,tr.23]

Trước những câu hỏi dồn dập đầy đau khổ của Thanh, Vịnh không thể

nói rõ cũng không thể đối mặt để giấu diếm sự thật ngang trái. Anh tìm mọi

cách trốn tránh sự thật, tránh mặt Thanh và con, tìm đến men rượu để mong

quên đi bi kịch nghiệt ngã. Thanh càng cố gắng níu giữ, tìm hiểu nguyên nhân

thì Vịnh càng tìm mọi cách trốn chạy. Và cuối cùng đỉnh điểm của bi kịch là

quyết định ra đi mãi mãi của Vịnh. Có thể thấy trong đoạn hội thoại, qua ngôn

ngữ nhân vật thể hiện rõ những suy nghĩ, sự đau khổ và tuyệt vọng. Nó góp

phần bộc lộ tâm trạng bên trong và hành động bên ngoài mà nhân vật thể hiện

một cách nhất quán, logic.

Trong vở Ông vua hóa hổ, khi Đạo Hạnh lên ngôi vua cũng là lúc lời

nguyền hóa hổ thành hiện thực. Không cam chịu đau đớn nhìn chồng quằn quại

trong lốt hổ dữ, Thảo đã có quyết định đầy kiên quyết, sắt đá:

- “Thảo: Không, ta cần vào. Giờ là lúc ta bình tĩnh lại rồi…Ta hiểu ta

phải làm gì. Không thể cứ ngồi đây chịu nhìn cảnh nhà vua bị đày

đọa…Cứu người bằng cách nào ta chưa biết nhưng ta phải tìm. Thứ thuốc

ấy chắc không có ở đây, nhưng ở một nơi nào đó trên đời này phải có…

Lê Dũng, hãy cho ta vào… Ta cần gặp đức vua trước khi đi..

- Lê Dũng: Hoàng hậu đi đâu?

- Thảo: Đi tìm cách trị bệnh cho đức vua, đi ra ngoài thành, ngòa dân dã,

đi bất cứ nơi hang cùng núi sâu nào để hỏi cách giải thoát nhà vua khỏi

lốt hổ.. Mọi việc ở đây cậy nhờ tay chú. Ta sẽ đưa hai con nhỏ cùng đi.

Nào Lê Dũng, hãy để ta cùng hoàng tử, công chúa vào. Đây là lệnh của ta

…..

84

- Thảo: Lạy chàng, em và các con đi. Chàng ở lại, hãy giữ gìn cẩn trọng.

Trong thân hổ, càng phải cố giữ sự sáng suốt của con người. Em đi.

[47,tr.31-32]

Mỗi một câu nói của Thảo là một quyết định, một hành động dứt khoát

và mạnh mẽ. Từ hành động cho các con vào thăm cha, đến hành động dứt khoát

ra đi tìm phương thuốc trị bệnh cho Đạo Hạnh đều được thể hiện rõ nét thông

qua những lời nói của Thảo. Từ suy nghĩ, lời nói, đến hành động thể hiện tình

yêu thủy chung son sắt và sự hi sinh lớn lao của cô dành cho chồng.

Ngôn ngữ có tính hành động trong kịch Lưu Quang Vũ nói chung và

mảng kịch khai thác truyện dân gian nói riêng là sự kế thừa truyền thống của

thể loại kịch và được gia cố thêm chất văn học nên tạo được sự lôi cuốn, hấp

dẫn người xem.

Nếu như trước đây, các tác giả kịch thường chú trọng vào việc xây dựng

cốt truyện với những xung đột cơ bản, chú trọng tạo dựng nên hình tượng nhân

vật có sức chuyển tải những ý nghĩa lớn lao, thì đến Lưu Quang Vũ và các tác

giả kịch hiện đại, họ đã làm khác. Ngôn ngữ không chỉ được coi là một phương

tiện hữu hiệu để phản ánh cuộc sống và con người mà còn trở thành đối tượng

của sự miêu tả. Hơn thế nữa, ngôn ngữ nhân vật dường như đã thoát ra khỏi

"vùng kiểm soát" của ngôn ngữ tác giả, không trở thành "cái loa" phát ngôn cho

ý thức của người sáng tạo, đồng thời không bị ràng buộc bởi những chủ đề tác

giả đã tiên liệu từ trước. Khán giả nhận thấy mỗi nhân vật dường như đã có một

đời sống riêng, ý thức riêng, độc lập với ý thức của người sáng tạo. Sự gia công

ngôn ngữ theo hướng này đã dẫn đến một kết quả là đã tạo dựng được những

hình tượng nhân vật có chiều sâu tâm hồn, và hơn thế nữa là đã đem đến cho

ngôn ngữ kịch một nội dung biểu đạt mới.

Như vậy ngôn ngữ của nhân vật ở đây đã thể hiện rõ nhất cho nét độc

đáo trong bút pháp nghệ thuật của kịch Lưu Quang Vũ. Vốn là người am hiểu

tâm lý nhân vật, ông đã thăm dò cái tâm hồn sâu thẳm của nó bằng cách để cho

85

các nhân vật đối thoại với nhau. Ông đã nắm bắt và khám phá ra cái động cơ

tình cảm tiềm tàng trong lời thoại của các nhân vật. Vì thế mà chủ đề hội thoại

trong các vở kịch của ông bao giờ cũng có nội dung tâm lý, luôn luôn chuyển

đổi từ nội dung này sang nội dung khác và không bị câu thúc bởi một ý thức

nào cả. Do đó, cách ứng xử của các nhân vật trong giao tiếp cũng không cuốn

hút vào trong lời nói, mà thường chìm vào trong sự nhận thức tâm lý. Ở đây

Lưu Quang Vũ trở thành "nhà tâm lý học giấu mặt" (Tuốcghênhép).

86

Tiểu kết chương 3

Trong chương 3 chúng tôi tập trung làm rõ nghệ thuật xây dựng nhân vật

nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ với những

đặc điểm sau:

1. Mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ thường xảy ra ở hai

hình thức xung đột chính, đó là xung đột giữa cái tốt và cái xấu hay thiện và

ác; Xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh. Thông qua việc tạo dựng xung đột

đầy kịch tính, nhà văn đã để nhân vật của mình, trong số đó các nhân vật nữ

được bộc lộ rõ nét tính cách và vẻ đẹp tâm hồn mình.

2. Để góp phần xây dựng nhân vật nữ, Lưu Quang Vũ luôn triển khai tổ chức

hành động kịch dựa trên chất liệu hiện thực, lấy sự đa dạng của cuộc sống đời

thường làm nền. Có thể thấy trước tiên ở nghệ thuật xây dựng kịch Lưu Quang

Vũ đó là việc xây dựng hành động kịch hợp logic. Điều thứ hai có thể thấy là

kết cấu hành động kịch chặt chẽ, thống nhất trong việc thể hiện chủ đề. Thứ ba,

hành động kịch không chỉ bộc lộ tính cách nhân vật mà còn cho thấy tác động

của các sự kiện, biến cố, của hoàn cảnh khách quan đến mỗi cá thể trong cuộc

sống.

3. Về ngôn ngữ kịch, nhìn chung kịch Lưu Quang Vũ như một bản hoà tấu đa

giọng, trong mảng kịch này có thể nhận thấy ba đặc điểm nổi bật đó là: Ngôn

ngữ giàu chất triết lí hàm súc, ngôn ngữ giản dị tự nhiên gần gũi với lời ăn

tiếng nói hàng ngày, ngôn ngữ mang tính hành động.

87

KẾT LUẬN

1. Trong những năm 80 (thế kỷ XX) bên cạnh các nhà viết kịch có tên tuổi và

dày dặn kinh nghiệm, Lưu Quang Vũ “trình làng muộn hơn nhưng lại nhanh

chóng chiếm được vị trí hàng đầu trên sân khấu”[28,tr.685]. Cùng với những

tác giả khác, Lưu Quang Vũ đã góp phần vực dậy thể loại văn học kịch. Dưới

ngòi bút của ông, kịch trở thành một phương tiện giao lưu tình cảm, tư tưởng,

thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của cả thời đại.Tác phẩm của ông giống như một

công trình xây dựng mà người thiết kế không chỉ có lòng ưu thời mẫn thế, ý

thức trách nhiệm mà còn có niềm say mê và công phu lớn.Tấm lòng chân thành

của Lưu Quang Vũ đối với con người đã kết tinh nên giá trị nhân văn bền vững

trong tác phẩm của ông. Ăn sâu trong các lớp kịch là cái nhìn đôn hậu, đầy cảm

thông, thái độ bênh vực cho người lao động và niềm tin bất diệt vào bản chất

cao khiết của họ. Những sáng tạo nghệ thuật của Lưu Quang Vũ là sự đóng góp

lớn lao cho nghệ thuật sáng tác kịch bản sân khấu nói riêng và nền sân khấu

Việt Nam nói chung.

2. Lưu Quang Vũ là một tài năng nhiều mặt, ngay trong sân khấu kịch người

đọc người xem cũng sẽ thấy sự thành công đa dạng ở nhiều thể loại, đề tài.

Trong số đó, khối lượng những vở kịch khai thác từ cốt truyện dân gian không

nhiều lắm, chiếm một phần nhỏ trong những sáng tác của ông nhưng có thể

khẳng định hầu hết những vở kịch này đều đạt tới hiệu quả tương đối cao, nhiều

tác phẩm xuất sắc, cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và được công diễn

nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Qua những vở kịch này Lưu Quang

Vũ đã đem đến cho người đọc, người xem những vấn đề có nghĩa sâu sắc mới

mẻ, giúp mỗi người chúng ta có cái nhìn cuộc sống, nhìn lại bản thân một cách

đầy đủ sâu sắc hơn. “Tài năng của nhà viết kịch một lần nữa được khẳng định

trong việc biến cổ tích, huyền thoại thành chuyện của thời hiện đại, nêu lên cái

muôn đời trong những cái bình thường” [8,tr.169].

88

3. Thế giới nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu

Quang Vũ hiện lên đa dạng và phong phú. Tính cách số phận của họ được hiện

lên rõ nét thông qua các hành động để giải quyết mâu thuẫn xung đột kịch. Họ

được đặt vào trong những tình huống đầy mâu thuẫn, thậm chí đầy biến cố và

bắt buộc phải có sự lựa chọn và thể hiện đậm nét tính cách của mình. Mỗi người

có những nét tính cách riêng khác biệt nhưng nhìn chung họ đều là những nhân

vật nữ có nhiều phẩm chất tâm hồn cao đẹp, trong sáng, lương thiện trung thực,

có sự hi sinh cao cả trong tình yêu, cuộc sống. Ở họ có vẻ đẹp phẩm chất tâm

hồn cao quý của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

4. Điều góp phần không nhỏ làm nên thành công của các vở kịch Lưu Quang

Vũ nói chung và mảng kịch khai thác truyện dân gian nói riêng, đó là nghệ thuật

xây dựng nhân vật kịch. Thế giới nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện

dân gian của ông hiện lên vừa thật chân thực vừa sinh động, phong phú. Có thể

nhận thấy những đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở mảng kịch này

đó là: nghệ thuật khắc họa nhân vật thông qua xung đột kịch, qua hành động kịch

và qua ngôn ngữ. Thông qua việc tạo dựng xung đột đầy kịch tính, nhà văn đã

để nhân vật của mình, trong số đó các nhân vật nữ được bộc lộ rõ nét tính cách

và vẻ đẹp tâm hồn mình. Thông qua hành động kịch, người xem hiểu được nhân

vật, từ đó hiểu được quan niệm của nhà viết kịch về con người, về tình yêu, về

hạnh phúc, về lẽ sống làm người. Có thể thấy trước tiên ở nghệ thuật xây dựng

kịch Lưu Quang Vũ việc xây dựng hành động kịch hợp logic. Thứ hai, kết cấu

hành động kịch chặt chẽ, thống nhất trong việc thể hiện chủ đề. Thứ ba, hành

động kịch trong các vở kịch dân gian của Lưu Quang Vũ không chỉ bộc lộ tính

cách nhân vật mà còn cho thấy tác động của các sự kiện, biến cố, của hoàn cảnh

khách quan đến mỗi cá thể trong cuộc sống. Nhìn chung, kịch Lưu Quang Vũ

như một bản hoà tấu đa giọng, trong mảng kịch này có thể nhận thấy một số đặc

điểm nổi bật của ngôn ngữ kịch Lưu Quang Vũ đó là ngôn ngữ giàu chất triết lí

89

hàm súc, lại có ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày

và đạt được tiêu chuẩn chung của kịch là ngôn ngữ mang tính hành động. Ba nét

đặc sắc nghệ thuật này giúp cho nhân vật nữ trong kịch của ông hiện lên sống

động, như bước ra từ cuộc đời, vừa truyền tải được những ý nghĩa, thông điệp

nhà văn muốn gửi gắm. Đặc sắc ở cả phương diện nội dung và nghệ thuật, điều

đó đã làm cho những vở kịch của Lưu Quang Vũ vẹn nguyên giá trị cho đến

ngày hôm nay.

90

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (1991), 150 thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội

2. Hoàng Chương (Chủ biên) (1996), Vấn đề văn học kịch, NXB Giáo dục,

Hà Nội

3. Phạm Vĩnh Cư (2001),Thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam thế kỷ XX,

Tạp chí văn học, Hà Nội.

4. Hồ Hà Diệp (1989),Về một mảng kịch của Lưu Quang Vũ”, Tạp chí Nghiên

cứu văn hoá nghệ thuật, Hà Nội

5. Hà Minh Đức (chủ biên)(1996), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội

6. Lê Thị Đức Hạnh (1999), Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam,

Nxb KHXH, Hà Nội

7. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương (1999),Lý luận văn học- Vấn đề

và suy nghĩ, Nxb Gíáo Dục,Hà Nội.

8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1991), Từ điển

thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội

9. Vũ Hải (1986), Những tác giả đạt huy chương vàng hội diễn sân khấu toàn

quốc,Tạp chí Sân khấu, Hà Nội.

10. Khraptrenko. M. B: Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học.

NXB Tác phẩm mới – 1978.

11. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương-học thuật Việt Nam hiện

đại, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

12. Nguyễn Văn Linh (1987), Những việc cần làm ngay, Báo Nhân dân (ngày

11- 6-1987), Hà Nội.

13. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

14. Nguyễn Đăng Mạnh(2005), Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và

phong cách, NXB Trẻ, Hồ Chí Minh

91

15. Nguyễn Nam (1969), Tìm hiểu nghệ thuật viết kịch, Vụ văn hóa quần

chúng xuất bản, Hà Nội.

16. V.I.Nhiephed (1972), Về xung đột kịch (Đặng Trần Cần và Đặng Ngọc

Long dịch), Hội nghệ sỹ sân khấu Việt Nam, Hà Nội

17. Pospelov. G. N: Dẫn luận nghiên cứu văn học- 2 tập, 1985, NXB Giáo

dục, Hà Nội

18. Đình Quang (2001), Kịch nói giai đoạn từ sau cách mạng tháng tám đến

nay, Tạp chí Văn học, (7)

19. Trần Quế (1988), Anh Lưu Quang Vũ, Tạp chí Sân khấu, Hà Nội

20. Nguyễn Thị Minh Thái (1999), Sân khấu và tôi, Nxb Sân khấu, Hà Nội.

21. Ngô Thảo,Tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh (2003),NXB Sân

khấu, Hà Nội.

22. Tất Thắng (1996), Diện mạo sân khấu, nghệ sĩ và tác phẩm, Nxb Sân

khấu, Hà Nội.

23. Lưu Khánh Thơ (2001), Lưu Quang Vũ tài năng và lao động nghệ thuật,

NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội

24. Lưu Khánh Thơ (2003- giới thiệu, tuyển chọn), Tác phẩm đạt giải thưởng

Hồ Chí Minh, (In lại 3 kịch bản của Lưu Quang Vũ), Nxb Sân khấu, Hà

Nội.

25. Nguyễn Phan Thọ (1985), Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp đợt II tại

thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí nghiên cứu nghệ thuật, Hà Nội

26. Lý Hoài Thu - Lưu Khánh Thơ (tuyển chọn) (2007),Lưu Quang Vũ về tác

giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội

27. Phan Trọng Thưởng (2001),Văn chương – Tiến trình , tác giả,tác phẩm,

Nxb KHXH, Hà Nội.

28. Phan Trọng Thưởng: Lưu Quang Vũ- những băn khoăn về lẽ sống, lẽ làm

người, Tạp chí Văn học tháng 5- 1989.

92

29. Lê Minh Thuý,Những đặc điểm trong kịch Lưu Quang Vũ,Tạp chí Những

vấn đề sân khấu (do Viện nghiên cứu sân khấu xuất bản 6/1991), Hà Nội.

30. Lưu Quang Vũ (1994), Tuyển tập kịch, Nxb Sân khấu, Hà Nội.

31. Lưu Quang Vũ (1984 ),Đường bay, Trường cao đẳng sân khấu điện ảnh

TPHCM, TPHCM.

32. Phong Vũ , Ngô Văn Phú, Nguyễn Phan Hách…( 1999 ), Nhà văn Việt

Nam thế kỷ XX, tập 3, Nxb Hội Nhà văn,Hà Nội.

33. Viện văn học (2001),Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Nxb

KHXH, Hà Nội.

34. Nhiều tác giả (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học,tập 2, (Trần Đình Sử,

Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch), Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

35. Nhiều tác giả (2002), Kịch Việt Nam chọn lọc (tập 5), NXB Sân khấu, Hà

Nội.

36. Nhiều tác giả (1989), Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh gửi lại, Nxb Hội văn

học nghệ thuật Đà Nẵng.

37. Nhiều tác giả (2004),Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế Giới,TPHCM.

38. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế Giới,TPHCM.

39. Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam (1984), Kỷ yếu đại hội sân khấu toàn

quốc lần II, Hà Nội.

40. Báo tin tức, 18/9/2016 , Lời nói dối cuối cùng: Điều tốt không thể đến từ

những lời nói dối.

41. Báo Sân khấu. com, 18/4/2018, Vở chèo Ông vua hóa hổ - Thông điệp của

sức mạnh và tình yêu thương.

42. Báo An ninh Hải Phòng, 13/11/1017 ,Rơi lệ với "Linh hồn của đá.

43. Phan Trọng Thành (2008), Những giá trị nội dung xã hội và nghệ thuật

trong kịch Lưu Quang Vũ, Luận án tiến sỹ, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt

Nam, Hà Nội.

44. Tô Thị Kim Thoa (2011), Mảng kịch dựa trên tích truyện dân gian của

93

Lưu Quang Vũ, Luận văn Thạc sĩ văn học, Đại học Khoa học Xã Hội và

Nhân văn, Hà Nội

45. Đàm Thu Trang (2009), Nhân vật nữ trong tác phẩm của Y Ban, Khóa

luận tốt nghiệp ĐH, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.

46. Tài liệu do gia đình tác giả cung cấp, kịch bản Linh hồn của đá

47. Tài liệu do gia đình tác giả cung cấp, kịch bản Ông vua hóa hổ

48. Tài liệu do gia đình tác giả cung cấp, kịch bản Lời nói dối cuối cùng