ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
CAO THỊ LỆ THỦY
NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH KHAI THÁC
TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Thái Nguyên – 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
CAO THỊ LỆ THỦY
NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH KHAI THÁC
TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LƯU KHÁNH THƠ
Thái Nguyên – 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
CAO THỊ LỆ THỦY
ii
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn
Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn học,
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực
tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn PGS. TS.Lưu Khánh Thơ đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt
thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn
CAO THỊ LỆ THỦY
iii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………..1
2. Lịch sử vấn đề…………………………… ………………………………..3
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu…………………………………………9
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu………………………………….....9
5. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………….....10
6. Đóng góp của luận văn…………………………………………………....10
7. Kết cấu luận văn……………………………………………………........10
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA THỂ LOẠI KỊCH VÀ HIỆN
TƯỢNG LƯU QUANG VŨ ĐỐI VỚI SÂN KHẤU KỊCH VIỆT NAM..11
1.1. Một số giới thuyết về thể loại kịch và sự xuất hiện, phát triển của thể loại
kịch ở Việt Nam……………………………………………………………..11
1.2. Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ – Hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch Việt
Nam…………………………………………………………………….19
1.3. Đóng góp nổi bật từ mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu
Quang Vũ……………………………………………………………………24
Tiểu kết chương 1:…………………………………………………………..27
CHƯƠNG 2: LOẠI HÌNH NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH KHAI
THÁC TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ………..28
2.1. Nhân vật nữ với những éo le, trắc trở trong tình yêu………………….29
2.2. Nhân vật nữ đứng trước những biến cố lớn trong cuộc đời……………33
2.3. Nhân vật nữ với những phẩm chất tâm hồn cao đẹp…………………..39
2.3.1. Tâm hồn trong sáng, lương thiện, trung thực…………………………...40
2.3.2. Sự chung thủy và đức hi sinh cao cả trong tình yêu……………………48
2.3.3. Sự đấu tranh để vươn tới những giá trị đích thực của tình yêu, cuộc
sống…………………………………………………………………………………....55
iv
Tiểu kết chương 2:………………………………………………………… .61
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG
MẢNG KỊCH KHAI THÁC TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG
VŨ………………………………………………………………...62
3.1. Khắc họa nhân vật thông qua xung đột kịch ………………………… 63
3.2. Khắc họa nhân vật thông qua hành động kịch………………………... 69
3.3. Khắc họa nhân vật thông qua ngôn ngữ……………………………… 73
Tiểu kết chương 3:…………………………………………………………..86
PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………………...87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 90
v
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GS : Giáo sư
PGS : Phó giáo sư
TS : Tiến sỹ
TW : Trung ương
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
VHDG : Văn học dân gian
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lưu Quang Vũ là một tác giả lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam
nửa cuối thế kỉ XX. Thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến
chống Mỹ, Lưu Quang Vũ là con người hội tụ tài năng về nhiều mặt, và hầu
như ở lĩnh vực nào trong hoạt động nghệ thuật ông cũng đạt được những thành
tựu rất đáng ghi nhận. Ông là một nhà văn, nhà thơ và trên hết là một nhà viết
kịch tài năng. Trong lịch sử của nền sân khấu kịch nói Việt Nam, nhà viết kịch
Lưu Quang Vũ được biết đến như một hiện tượng hiếm có. Sau Lưu Quang Vũ,
sân khấu kịch dường như vẫn là khoảng trống chưa thể lấp đầy. Tác giả
Christian Hoche người Pháp đã từng nhận định: “Moliere ở Việt Nam tên là
Lưu Quang Vũ”[23,tr.162]. Mặc dù cuộc đời ngắn ngủi (1948-1988) và thời
gian dành cho sân khấu không nhiều, chỉ khoảng chưa đầy 10 năm nhưng ông
đã để lại một khối lượng tác phẩm trên 50 vở kịch, hầu hết được viết rất công
phu và đã được dựng, nhiều vở đạt huy chương. Những vở kịch của Lưu Quang
Vũ khi được trình diễn đã đem đến cho đời sống tinh thần văn hóa của nhân
dân cả nước thời điểm đó một bầu không khí tươi mới, phấn chấn, tin tưởng,
cởi mở, dân chủ. Cho đến nay, những tác phẩm của Lưu Quang Vũ vẫn tràn
đầy sức sống và nguyên giá trị trên sân khấu kịch và trong lòng người xem bởi
nó mang tính thời đại khi thể hiện những tâm tư, trăn trở về cuộc sống nhân
sinh. Năm 2000, ông đã được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về
Văn học Nghệ thuật. Đây là một sự đánh giá cao của Đảng và Nhà nước đối
với sự nghiệp văn học và nghệ thuật của ông. Chính vì vậy, việc tìm hiểu về
những sáng tác của Lưu Quang Vũ nói chung và kịch Lưu Quang Vũ nói riêng
là điều vô cùng cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
1.2. Là một nghệ sỹ với năng khiếu bẩm sinh và khả năng cảm thụ nghệ thuật,
bên cạnh những vở kịch lấy đề tài từ lịch sử hay hiện đại thì sự xuất hiện của
những vở kịch lấy đề tài từ tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ cũng là biểu
2
hiện của một tài năng lớn trong nghệ thuật. Tìm hiểu về mảng kịch này, chúng
tôi được hiểu hơn về tầm vóc, suy nghĩ của một kịch tài năng biết trân trọng,
làm mới cái cũ, đem đến cho sân khấu kịch những giá trị sâu sắc hấp dẫn mới
mẻ, đúng như nhà phê bình nghiên cứu Lưu Khánh Thơ đã nhận xét: “Tài năng
của nhà viết kịch lại một lần nữa được khẳng định trong việc biến cổ tích, huyền
thoại thành chuyện của thời hiện đại, nêu lên cái muôn đời trong những cái bình
thường” [23,tr.169].
1.3. Sức lan tỏa từ những vở kịch và vị trí xuất sắc của Lưu Quang Vũ
trong nền văn học Việt Nam đã trở thành lí do xứng đáng để các nhà nghiên
cứu và các nhà giáo dục lựa chọn đưa tác phẩm của ông vào trong chương
trình giảng dạy THCS và THPT từ nhiều năm nay. Với trích đoạn của hai vở
kịch Tôi và chúng ta và Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ đã được
giới thiệu là nhà văn tiêu biểu cho thể loại kịch nói hiện đại Việt Nam. Đặc biệt
trích đoạn vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được khai thác từ cốt
truyện dân gian - một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi của Lưu Quang
Vũ đã đưa vào giảng dạy chính thức ở THPT. Điều này chính là sự khẳng định
cho những giá trị nghệ thuật của kịch Lưu Quang Vũ nói chung và mảng kịch
khai thác truyện dân gian nói riêng. Tuy nhiên đến nay, nhìn chung kịch vẫn
chưa được tìm hiểu nhiều và sâu trong trường học, chưa có vị trí tương xứng
với giá trị đích thực của nó.
Xuất phát từ các lí do khách quan trên, cùng với lòng yêu mến, ngưỡng
mộ tài năng Lưu Quang Vũ, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu:“Nhân vật
nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ”.Qua nghiên
cứu đề tài, chúng tôi rất mong muốn góp phần tìm hiểu sâu hơn về thể loại được
coi là siêu đẳng trong văn học, tìm hiểu sâu sắc hơn về mảng kịch khai thác
truyện dân gian, từ đó lí giải thấu đáo đầy đủ đặc trưng và giá trị ý nghĩa những
đoạn trích các vở kịch của tác giả trong sách giáo khoa, phục vụ cho công tác
nghiên cứu cũng như giảng dạy trong nhà trường. Đồng thời qua đây góp phần
3
đánh giá vị trí và đóng góp lớn lao của tác giả Lưu Quang Vũ đối với thể loại
kịch nói riêng và nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Bởi Lưu Quang
Vũ là một tác giả lớn có tầm ảnh hưởng rộng lớn đối với diện mạo văn học và
đối với công chúng không chỉ hôm nay mà chắc chắn cả mai sau, tầm đón đợi
các vở kịch của Lưu Quang Vũ sẽ còn sức lan tỏa mạnh mẽ và mãnh liệt qua
chiều kích của thời gian.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu, đánh giá chung về các tác phẩm của
Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ được biết đến là một tài năng đa dạng, ông khởi đầu sự
nghiệp với thơ và cuối cùng khẳng định tên tuổi sáng chói ở thể loại kịch.
Những năm tám mươi của thế kỉ XX, cùng với những tác phẩm của mình, Lưu
Quang Vũ đã gây sự chú ý lớn trong diễn đàn văn học. Sau sự ra đời của các
tập thơ, truyện ngắn và kịch (đặc biệt là sau ngày Lưu Quang Vũ mất đi) đã có
rất nhiều ý kiến đánh giá, nhiều bài viết, bài bình, nhiều công trình nghiên cứu
về các tác phẩm của Lưu Quang Vũ.
Ở giai đoạn đầu, nhiều các bài báo, các nhà phê bình viết về các tác phẩm
thơ của Lưu Quang Vũ của các nhà nghiên cứu như: Hoài Thanh với “Một cây
bút trẻ nhiều triển vọng”; Vũ Quần Phương với “Đọc thơ Lưu Quang Vũ”;
Vương Trí Nhàn với “ Những bài thơ viển vông cay đắng u buồn viết trong
những năm tháng chiến tranh”; Phạm Xuân Nguyên với “Tâm hồn trở gió”;
Lưu Khánh Thơ với “Tình yêu- đau xót và hi vọng”; Nguyễn Thị Minh Thái
với “Thơ tình Lưu Quang Vũ”; Vũ Quang Vinh với “Đọc Mây trắng của đời
tôi nhớ Lưu Quang Vũ”; Bích Thu với “Những bài thơ sống với thời gian”…
Nhìn chung về thơ, qua các bài viết các nhà nghiên cứu phê bình đều
thống nhất cho rằng Lưu Quang Vũ là một hồn thơ nhiều cảm xúc, mang một
4
tình yêu trong trẻo với quê hương đất nước, một cái tôi đam mê đắm đuối nhiều
khao khát mà cũng thật chân thành, độ lượng trong tình yêu.
Hai tập truyện ngắn của Lưu Quang Vũ là “Người kép đóng hổ” và “Mùa
hè đang đến” cũng thu hút nhiều nhà phê bình nghiên cứu. Tiêu biểu đó là các
bài viết: “Văn xuôi Lưu Quang Vũ- cầu nối giữa thơ và kịch” của Phong Lê;
“Truyện ngắn Lưu Quang Vũ” của Lê Minh Khuê; “Lưu Quang Vũ qua hai tập
truyện ngắn Người kép đóng hổ và Mùa hè đang đến” của Lê Dục Tú… Ở các
bài viết này các tác giả đã chỉ ra chất thơ cũng như hơi hướng kịch trong truyện
ngắn của Lưu Quang Vũ. Các bài viết đã cho thấy truyện ngắn của ông “thấm
đẫm những hồi ức, những xao động của một đời người. Truyện ngắn Vũ có
những nhân vật nhân hậu như chính tác giả của nó”[23,tr.137] và “…có nhiều
chuyện đã làm cho người đọc cảm động thực sự là thấy mình dường như phải
sống tốt hơn, có trách nhiệm hơn với con người và cuộc sống” [23,tr.140]
Đến thể loại kịch, với một số lượng tác phẩm lớn chỉ trong vòng gần
mười năm sáng tác, Lưu Quang Vũ đã tạo nên tiếng vang lớn cho sân khấu kịch
trường những năm 80 của thế kỉ XX. Sau hàng loạt các vở diễn gây tiếng vang
như Nàng Sita, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tôi và chúng ta, Lời thề thứ 9,
Nguồn sáng trong đời,... cũng đã tạo được sự chú ý cho công chúng và giới
nghiên cứu phê bình. Phải kể đến các bài viết như: Con đường sáng tạo của
một tài năng của Ngô Thảo; Kịch pháp Lưu Quang Vũ của G.S Phan Ngọc;
Phép ứng xử với cái chết trong kịch Lưu Quang Vũ (Phan Trọng Thưởng); Sự
khai thác mô-típ dân gian trong kịch Lưu Quang Vũ (Lưu Khánh Thơ);Kịch
Lưu Quang Vũ và những vấn đề của đời sống (Cao Minh)… Những ý kiến đánh
giá về kịch Lưu Quang Vũ đều có chung nhận xét: tác giả Lưu Quang Vũ là
một tài năng lao động nghệ thuật thực thụ, sức sáng tạo đặc biệt của “một
Moliere ở Việt Nam”, đề tài kịch của Lưu Quang Vũ rất đa dạng đặc biệt bắt
nhịp với cuộc sống mới, chất lượng kịch của Lưu Quang Vũ hấp dẫn lôi cuốn
ở cách tổ chức xung đột kịch, ở ngôn ngữ và nghệ thuật xây dựng nhân vật.
5
Lưu Quang Vũ đến với sân khấu đúng vào lúc sân khấu Việt Nam đang có
những đòi hỏi khẩn thiết. Đó là nhiệm vụ phản ánh những vấn đề nóng bỏng,
cấp thiết, nổi cộm lên trong đời sống xã hội và bối cảnh đổi mới của đất nước
sau chiến tranh. Giá trị lâu dài của tác phẩm của Lưu Quang Vũ chính là tính
nhân đạo cao cả và tính triết lý sâu sắc. Chính vì vậy, trên sân khấu cũng như
trong cuộc sống xã hội hiện nay, những nội dung mà kịch bản của tác giả Lưu
Quang Vũ đề cập đến vẫn vẹn nguyên giá trị. Khái quát về đời văn của Lưu
Quang Vũ, tác giả Lưu Khánh Thơ và Lý Hoài Thu với cuốn “Lưu Quang Vũ
về tác giả và tác phẩm” đã có một công trình mang tính tổng lược và hoàn
chỉnh về đường nghệ thuật của Lưu Quang Vũ từ một nhà thơ, nhà văn, nhà
phê bình đến khi trở thành một tác giả hàng đầu của sân khấu Việt Nam. Bài viết
đã chỉ rõ:“Lưu Quang Vũ có hai mươi năm vui buồn cùng thơ và mười năm
cuối đời song hành cùng kịch, nhưng trong mười năm ấy tài năng của Lưu
Quang Vũ đã tỏa sáng và tạo cho mình một phong cách một kịch pháp và trở
thành một hiện tượng nổi bật nhất của sân khấu Việt Nam thời kì đổi mới”
Những cuốn sách tổng hợp các công trình nghiên cứu về Lưu Quang Vũ
đã được xuất bản như cuốn Lưu Quang Vũ thơ và đời; Lưu Quang Vũ tài năng
và lao động nghệ thuật (Lưu Khánh Thơ); Lưu Quang Vũ về tác giả và tác
phẩm (Lưu Khánh Thơ – Lý Hoài Thu); Tác phẩm đạt giải thưởng Hồ Chí
Minh (do Lưu Khánh Thơ biên soạn các vở kịch của Lưu Quang Vũ)…
Ngoài ra còn có nhiều luận văn, luận án tiến sĩ, các bài nghiên cứu của
sinh viên chuyên ngành về các tác phẩm của Lưu Quang Vũ như: Lê Hương
Giang (2010) với Giá trị tư tưởng và nghệ thuật trong kịch Lưu Quang Vũ,
Nguyễn Hồng Yến (2014) với Liên văn bản trong kịch Lưu Quang Vũ, Tô Thị
Kim Thoa (2011) với Mảng kịch dựa trên tích truyện dân gian của Lưu Quang
Vũ, Lê Hoa (2010) với Thế giới nghệ thuật kịch của Lưu Quang Vũ, Phan Trọng
Thành (2008) với Những giá trị nội dung xã hội và nghệ thuật trong kịch Lưu
Quang Vũ….
6
Qua các công trình nghiên cứu kể trên có thể thấy các công trình nghiên
cứu về Lưu Quang Vũ khá phong phú về số lượng và hướng tiếp cận. Điều này
cho thấy sức thu hút cũng như sức sống mạnh mẽ của những tác phẩm Lưu
Quag Vũ nói chung và kịch nói riêng, đồng thời cũng gợi mở cho chúng tôi
hướng tiếp cận nghiên cứu mới mẻ của mình về mảng kịch khai thác truyện dân
gian của Lưu Quang Vũ.
2.2. Những công trình nghiên cứu về mảng kịch khai thác truyện dân gian
của Lưu Quang Vũ
Các nhà nghiên cứu tập trung vào hai đề tài chính trong kịch của Lưu
Quang Vũ là đề tài khai thác mô típ truyện cổ dân gian và đề tài hiện đại viết
về cuộc sống mới để đưa ra những nhận xét đánh giá về tài năng nghệ thuật,
cội nguồn sáng tạo nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Dù là ở đề tài nào, các tác
giả nghiên cứu đều có những đánh giá xác đáng, làm rõ thành công và đặc trưng
của mỗi vở. Trong giới hạn của đề tài này, chúng tôi chỉ đi tìm hiểu những bài
nghiên cứu về các vở kịch thuộc đề tài khai thác truyện dân gian để thấy được
sự cách tân của Lưu Quang Vũ khi tiếp thu văn học truyền thống. Có thể thấy
các nhà nghiên cứu đã dành nhiều sự quan tâm cho mảng kịch có số lượng ít
mà đầy thú vị này. Có những bài viết mang ý nghĩa đánh giá khái quát về mảng
kịch này và cả những bài biết về từng tác phẩm cụ thể. Trong số đó các bài viết
về tác phẩm kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt nhận được nhiều sự quan tâm
hơn cả.
Với Lưu Quang Vũ - một tài năng, một đời người (tác giả Vũ Hà - Ngô
Thảo), trong phần viết Con đường sáng tạo của một tài năng của Ngô Thảo,
tác giả đã chia kịch của Lưu Quang Vũ làm ba loại, bên cạnh mảng kịch dựa
cốt truyện văn học và do sáng tác thì mảng kịch dựa tích truyện dân gian tuy số
lượng ít nhưng lại chiếm vị trí nhất định trong thành công và sự nghiệp của tác
giả. "Riêng tôi cứ tin là rồi cái vở kịch mượn tích xưa nay (có nhiều thay đổi -
tất nhiên) rồi sẽ còn trên sân khấu một thời gian dài hơn” [26,tr.65] - đó là suy
7
ngẫm của Ngô Thảo về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Dù sao điều có
ý nghĩa nhất là tác giả đã phân loại kịch của Lưu Quang Vũ, tạo nên tính khoa
học, hệ thống trong quá trình nghiên cứu.
Tác giả Phan Trọng Thưởng khi tìm hiểu về mảng kịch này đã chỉ ra Phép
ứng xử với cái chết trong kịch Lưu Quang Vũ, đặc biệt là đến vở Hồn Trương
Ba, da hàng thịt, tác giả chỉ ra vấn đề sống - chết còn được Lưu Quang Vũ nâng
lên bình diện triết học - dựa trên nền cốt truyện mang đạo lý dân gian.
Tác giả Cao Minh trong Kịch Lưu Quang Vũ và những vấn đề của đời
sống đã nêu "Từ một truyện cổ dân gian mang tính triết lý cao, Lưu Quang Vũ
sáng tác vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Vở kịch đi thẳng vào người xem
với vấn đề muôn thuở của con người, cũng là vấn đề cấp bách của cuộc sống
hiện tại” [23,tr174-175]
Tác giả Phạm Thị Thành: "Anh cũng hay dùng các câu chuyện huyền
thoại, cổ tích để viết lên những tâm sự của con người hôm nay” [26,tr.251-252].
Phạm Vĩnh Cư gọi Hồn Trương Ba, da hàng thịt là bi hùng kịch, Lưu Quang
Vũ đã "đổ rượu mới vào bình cũ kể lại chuyện hài cổ như một bi kịch triết lý
thời nay với hai chiều kích đan thoa: chiều kích nhân sinh - xã hội và chiều kích
bản thể siêu hình”.
Các bài viết hầu hết tập trung làm rõ một số đặc điểm và giá trị của vở
kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt và một số vở kịch khác trong mảng kịch khai
thác truyện dân gian tuy nhiên còn mang tính chất rời rạc lẻ tẻ. Duy nhất cho
đến nay, PGS.TS Lưu Khánh Thơ trong bài viết Sự khai thác mô típ dân gian
trong kịch Lưu Quang Vũ đã có sự quan tâm đúng mức đến mảng kịch dựa trên
tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ với những luận điểm rõ ràng, cụ thể:
“Việc khai thác các mô típ dân gian, dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm
dấu ấn cá nhân và phong cách của mình đã tạo cho kịch Lưu Quang Vũ một
chiều sâu đáng kể. Nó tạo cho kịch của anh sự phong phú về đề tài, hấp dẫn ở
cốt truyện, lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Trong số kịch bản của Lưu
8
Quang Vũ, khối lượng những vở khai thác trực tiếp từ cốt truyện dân gian
không nhiều lắm, nhưng hầu hết những vở kịch đó đều đạt tới hiệu quả nghệ
thuật tương đối cao. Tiêu biểu nhất là vở “Hồn Trương Ba da hàng thịt” [8,166].
“Lời nói dối cuối cùng cũng là một vở kịch khai thác vốn cổ dân gian mà vẫn
giầu ý nghĩa hiện đại của Lưu Quang Vũ” [8,tr.168]. Vở kịch Ông vua hoá hổ
cũng được phân tích theo hệ thống của những tác phẩm thuộc mảng kịch dựa
trên tích truyện dân gian. Cuối cùng, PGS.TS Lưu Khánh Thơ kết luận: "Tài
năng của nhà viết kịch một lần nữa được khẳng định trong việc biến cổ tích,
huyền thoại thành chuyện của thời hiện đại, nêu lên cái muôn đời trong những
cái bình thường”[8,tr.169]. Trong Tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh,
tác giả Lưu Khánh Thơ cũng đã có những nhận xét về đóng góp của Lưu Quang
Vũ đối với nền văn học kịch Việt Nam và những lưu ý tới mảng kịch dựa trên
tích truyện dân gian, cụ thể là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
Cho đến gần đây đã có thêm một số luận văn, các bài nghiên cứu của sinh
viên chuyên ngành về mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ,
tuy nhiên mới dừng lại ở mức độ khái quát, đi vào tìm hiểu những vấn đề chung
nhất của mảng kịch. Đó là của tác giả Mai Thị Tâm với Mảng kịch dựa trên tích
truyện dân gian của Lưu Quang Vũ (2007); tác giả Tô Thị Kim Thoa với Mảng
kịch dựa trên tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ (2011).
Nhìn chung đối với mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang
Vũ thì còn rất nhiều vấn đề hầu như còn chưa được đi sâu tìm hiểu, còn rất
nhiều khía cạnh mang ý nghĩa giá trị sâu sắc chưa được khai phá nghiên cứu.
Đặc biệt qua khảo sát chúng tôi nhận thấy chưa có bài viết và công trình nghiên
cứu nào đi sâu tìm hiểu về nhân vật nữ trong mảng kịch này. Vì vậy với đề tài
“Nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ”
chúng tôi hi vọng sẽ khơi mở được những vấn đề còn mới mẻ hay đang dang
dở, qua đó góp phần đánh giá chiều sâu giá trị của kịch Lưu Quang Vũ. Song
phải khẳng định rằng, những đánh giá, nhận định ban đầu của các tác giả, các
9
nhà nghiên cứu đã tạo tiền đề, gợi ý quý báu cho người viết luận văn này; qua
đó góp phần tạo nên cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về kịch Lưu Quang Vũ
cũng như hiểu được sự cách tân sáng tạo của tác giả khi tiếp thu văn học dân
gian.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là nhân vật nữ trong mảng kịch
khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ qua 4 kịch bản: Lời nói dối cuối
cùng, Ông vua hóa hổ, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Linh hồn của đá.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn hướng tới mục tiêu làm rõ hình tượng nhân vật nữ được tác giả
xây dựng trong mảng kịch khai thác truyện dân gian. Sự tìm hiểu về hình tượng
nhân vật nữ có thể đem lại cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về quan niệm nhân
sinh của Lưu Quang Vũ về con người, về cuộc sống.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ những vấn đề của thể loại kịch và sự đóng góp của Lưu Quang Vũ
đối với sân khấu kịch Việt Nam. Làm rõ đặc điểm nhận vật nữ và nghệ thuật xây
dựng nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: Phương pháp
thống kê, phân loại, Phương pháp so sánh đối chiếu, Phương pháp hệ thống,
Phương pháp phân tích tổng hợp, Phương pháp nghiên cứu liên ngành.
5. Phạm vi nghiên cứu
10
Tìm hiểu về nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của
Lưu Quang Vũ, chúng tôi nghiên cứu 4 kịch bản: Lời nói dối cuối cùng, Ông
vua hóa hổ, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Linh hồn của đá.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đi sâu vào tìm hiểu về nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác
truyện dân gian của Lưu Quang Vũ, qua đó góp phần tạo nên cái nhìn sâu sắc,
toàn diện hơn về kịch Lưu Quang Vũ cũng như hiểu được sự cách tân sáng tạo
của tác giả khi tiếp thu VHDG. Đó là cơ sở lí luận để cảm hiểu sâu sắc, giảng
dạy hiệu quả các tác phẩm kịch được đưa vào giảng dạy trong nhà trường như
vở Hồn Trương Ba da hàng thịt.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn của chúng tôi được triển khai thành 3 phần: Phần mở đầu, phần
nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề của thể loại kịch và hiện tượng Lưu Quang Vũ
đối với sân khấu kịch thời kì đổi mới
Chương 2: Loại hình nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân
gian của Lưu Quang Vũ
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác
truyện dân gian của Lưu Quang Vũ
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
11
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA THỂ LOẠI KỊCH VÀ HIỆN TƯỢNG LƯU
QUANG VŨ ĐỐI VỚI SÂN KHẤU KỊCH VIỆT NAM
1.1. Một số giới thuyết về thể loại kịch và sự xuất hiện, phát triển của kịch
ở Việt Nam
1.1.1. Một số giới thuyết về thể loại kịch
1.1.1.1 Khái niệm về thể loại
Theo Từ điển thuật ngữ văn học ở cấp độ loại hình thì kịch là một trong
ba phương thức tồn tại cơ bản của văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa
thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Nó vừa để diễn là chủ yếu lại vừa để đọc vì
kịch bản chính là phương diện văn học của kịch.
Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc
những xung đột mang tính nhân loại. Những xung đột ấy được thể hiện cụ thể
qua hành động kịch và ngôn ngữ kịch trong một cốt truyện chặt chẽ giàu kịch
tính trong những tình huống độc đáo.
Căn cứ vào nội dung kịch, có thể chia thành các thể loại: hài kịch, bi
kịch, bi hài kịch, chính kịch... Cũng có thể căn cứ vào nội dung của các đề tài
mà chia kịch thành: kịch cổ điển, kịch dân gian, kịch thần thoại, kịch hiện đại...
Cũng có cách phân chia khác dựa theo chính thời gian biểu diễn chia thành:
kịch ngắn, kịch dài.
Không nên đồng nhất kịch và kịch bản văn học. Nói đến kịch là nói đến
một loại hình của nghệ thuật sân khấu mang tính chất tổng hợp bao gồm nhiều
hoạt động của diễn viên, đạo diễn, hóa trang, ánh sáng, âm thanh... Kịch bản
văn học chỉ là một yếu tố, dù đó có thể là một trong những yếu tố đầu tiên và
quan trọng nhất của kịch. Kịch bản văn học là tác phẩm văn học, có đầy đủ đặc
điểm của nghệ thuật ngôn từ. Còn sân khấu thuộc nghệ thuật biểu diễn.
12
Kịch bản văn học viết ra là để biểu diễn nên cũng đậm chất sân khấu. Vì
thế khi xem xét kịch bản văn học một mặt phải xem nó như một tác phẩm nghệ
thuật, mặt khác không thể tách rời nó khỏi nghệ thuật sân khấu mới thấy hết
được những đặc trưng của nó.
Nhìn dưới cấp độ như một thể loại, kịch ra đời vào khoảng nửa sau thế
kỉ XVIII với các sáng tác của các nhà văn khai sáng ở Pháp và Đức như là
G.E.Letsing, Boomacse, Didoro….
1.1.1.2. Một số đặc trưng của thể loại kịch
- Xung đột kịch:
Kịch bắt đầu từ xung đột. Pha đê ép cho rằng: "Xung đột là cơ sở của
kịch". Hiểu theo nghĩa hẹp, xung đột trong tác phẩm kịch là sự phát triển cao
nhất sự mâu thuẫn của hai hay nhiều lực lượng đối lập thông qua một sự kiện
hay một diễn biến tâm lí cụ thể được thể hiện trong mỗi màn, mỗi hồi kịch. Có
thể có rất nhiều loại xung đột khác nhau. Có xung đột biểu hiện của sự đè nén,
giằng co, chống đối giữa các lực lượng, có xung đột được biểu hiện qua sự đấu
tranh nội tâm của một nhân vật, có xung đột là sự đấu trí căng thẳng và lí lẽ để
thuyết phục đối phương giữa hai lực lượng...Do tính chất sân khấu quy định
cho nên trong khi phản ánh hiện thực, tác giả kịch bản buộc phải bước vào
những mâu thuẫn trong cuộc sống đã phát triển đến chỗ xung đột, đòi hỏi phải
được giải quyết bằng cách này hay cách khác. Vì vậy, có thể nói xung đột là
đặc điểm cơ bản của kịch. Hégel cho rằng "tình thế giàu xung đột là đối
tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch".
Xung đột kịch cần phải phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của xã hội và
thời đại, nói cách khác là luôn mang tính lịch sử cụ thể. Ở những thời đại khác
nhau có những xung đột khác nhau. Ở thời cổ đại, đó là sự xung đột giữa thế
giới quan thần linh, tư tưởng định mệnh với khát vọng làm chủ thiên nhiên, làm
13
chủ bản thân của con người. Trong xã hội nô lệ, đó là xung đột giữa những
người nô lệ muốn đấu tranh giành lại tự do với bọn chủ nô. Trong xã hội phong
kiến, đó là xung đột giữa một bên là uy quyền của vua chúa, quan lại với người
dân bị áp bức và đòi được giải phóng. Trong thời kì hiện đại, các xung đột
thường xoay quanh những vấn đề cách mạng và phản cách mạng, cái thiện, cái
ác, cái mới, cái cũ, cái tốt, cái xấu...
Xung đột kịch do tính chất sân khấu quy định đồng thời xung đột làm
cho kịch có tính sân khấu. Sức hấp dẫn của một vở kịch là ở chỗ nhà văn phải
phát hiện, nêu ra và giải quyết các xung đột lớn nhỏ trong vở kịch. Các yếu tố
khác của kịch phải góp phần tô đậm xung đột và dẫn đến một kết cục sâu sắc,
gần gũi với những vấn đề của cuộc sống.
Xét một vài đặc điểm về xung đột kịch như vậy, có thể nói xung đột là
yếu tố quan trọng không thể thiếu trong kịch. “Giá trị tư tưởng nghệ thuật của
vở kịch phụ thuộc vào việc lựa chọn đúng đắn xung đột kịch và xung đột kịch
chỉ có thể trở thành cơ sở tốt đẹp của vở kịch khi nó nảy sinh ra như một sự
phản ánh độc đáo những mâu thuẫn điển hình của cuộc sống” [16,tr.20]
- Hành động kịch:
Hành động kịch cũng là một đặc trưng nổi bật của kịch bởi kịch là một
thể loại mang lại sự nhận thức thực tại thông qua yếu tố hành động. Xung đột
kịch được triển khai thông qua các hành động. Hành động là cơ sở cơ bản của
một tác phẩm kịch. Tuy nhiên không thể hiểu đơn giản hành động kịch chỉ là
lời nói cử chỉ, dáng điệu (ngôn ngữ cơ thể) của diễn viên.
Hành động kịch chính là sự thể hiện trực tiếp nội dung của xung động
kịch. Hành động kịch chính là cốt truyện được tổ chức một cách thống nhất và
chặt chẽ trong một khuôn khổ hoàn chỉnh của một tác phẩm nghệ thuật. Kịch
có cốt truyện chặt chẽ vừa đủ không có chỗ cho những vụn vặt, trữ tình ngoại
14
đề,…. Vì vậy, hành động kịch thường được tổ chức theo quan hệ nhân quả chặt
chẽ. Hành động này là kết quả của hành động trước và là nguyên nhân của hành
động sau.
Hành động kịch gắn chặt với nhân vật kịch, là trục chính để thể hiện tính
cách nhân vật. Hành động kịch thể hiện ý thức cũng như cảm xúc của nhân vật
qua đó thể hiên xung đột kịch. Hành động kịch có thể được chia thành hành
động bên trong và hành động bên ngoài. Hành động bên trong là những diễn
biến tâm lí, những suy nghĩ, tâm trạng thể hiện rõ nét đời sống nội tâm của nhân
vật. Hành động bên ngoài là những điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nụ cười… của
nhân vật kịch (do các diễn viên thể hiện trên sân khấu).
- Nhân vật kịch
Một vở kịch được diễn trên sân khấu, chỉ có nhân vật đi lại, nói năng,
hoạt động. Trong kịch bản văn học, ngoài nhân vật, còn có những lời chỉ dẫn
về cảnh vật, con người thường được in nghiêng được tác giả viết nhằm gợi ý
cho sự dàn dựng của nhà đạo diễn chứ không phải cho người xem. Vì vậy, có
thể nói trên sân khấu chỉ có nhân vật hành động. Tất cả mọi sự việc trong vở
kịch đều được bộc lộ thông qua nhân vật kịch.
Ðiểm khác nhau cơ bản giữa tác phẩm kịch với tác phẩm tự sự và kí là
kịch không có nhân vật người kể chuyện. Maxim Gorki cho rằng: "Kịch, bi
kịch, hài kịch là thể loại khó nhất trong văn học, khó là vì một vở kịch đòi hỏi
mỗi nhân vật trong vở kịch phải thể hiện tính cách bằng lời nói và hành động
không có lời mách bảo, gợi ý của tác giả. Các nhân vật kịch được hình thành là
do lời lẽ của họ và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ ấy mà thôi nghĩa là tác giả xây
dựng nhân vật bằng ngôn ngữ hội thoại chứ không phải bằng ngôn ngữ miêu
tả".
15
Tác phẩm kịch được viết ra chủ yếu là để diễn trên sân khấu, bị hạn chế
bởi không gian và thời gian nên số lượng nhân vật không thể quá nhiều như
trong các tác phẩm tự sự và cũng không được khắc họa tỉ mỉ, nhiều mặt. Do đó,
trong kịch tính cách nhân vật được tạo ấn tượng nổi bật và xác định nhằm gây
ấn tượng mãnh liệt và sâu sắc cho khán giả. Hiển nhiên sự nổi bật, tập trung đó
không có nghĩa là đơn giản, một chiều. Xoay quanh một nét tính cách khác,
vừa liên đới, vừa biến thái làm cho gương mặt của nhân vật sinh động và đa
dạng hơn.
Nhân vật của kịch thường chứa đựng những cuộc đấu tranh nội tâm. Do
đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những xung đột đó, con người
bắt buộc phải hành động và vì vậy, con người không thể không đắn đo, suy nghĩ,
cân nhắc, băn khoăn, dằn vặt... Đặc trưng này cũng được thể hiện trong các loại
văn học khác nhưng rõ ràng được thể hiện tập trung và phổ biến nhất trong kịch.
Chính từ đặc điểm này, nhiều tác giả kịch đã dùng biện pháp lưỡng hóa nhân vật
nhằm biểu hiện cuộc đấu tranh nội tâm của chính nhân vật đó.
- Ngôn ngữ kịch:
Một phương tiện rất quan trọng để bộc lộ hành động kịch là ngôn ngữ.
Trong kịch không có nhân vật người kể chuyện nên không có ngôn ngữ người
kể chuyện. Vở kịch được diễn trên sân khấu chỉ có ngôn ngữ nhân vật. Có thể
nói đến 3 dạng ngôn ngữ nhân vật trong kịch: đối thoại, độc thoại và bàng thoại.
Ðối thoại là lời các nhân vật nói với nhau, là lời đối đáp qua lại giữa các
nhân vật. Ðây là dạng ngôn ngữ phổ biến nhất trong kịch. “Đối thoại là thể chất
và linh hồn kịch. Kịch là văn bản đối thoại, hoặc bản viết thành lời, hoặc lời
nói viết thành vă bản” [13,tr.314] . Các lời đối thoại trong kịch phải sắc sảo,
sinh động và có tác dụng hỗ trợ tương với nhau nhằm thể hiện kịch tính, “thúc
đẩy hành động, là những chuyển động, gặp gỡ nhau, bị cản trở, va chạm nhau,
tạo thành xung đột kịch” [13,tr.323]
16
Ðộc thoại là lời nhân vật tự nói với chính mình, tự giãi bày tâm tư tình
cảm của mình. Ðây là biện pháp quan trọng nhất nhằm biểu hiện nội tâm nhân
vật nhưng không phải là biện pháp duy nhất. Ðể biểu hiện nội tâm, bên cạnh
độc thoại, người ta có thể thay thế bằng những phút yên lặng, những tiếng đế..
Bàng thoại là lời nói riêng với khán giả: Có khi đang đối đáp với một
nhân vật khác, bỗng nhiên nhân vật tiến lên về phía khán giả nói vài câu để
giải thích một cảnh ngộ, một điều bí mật. Loại này rất hiếm, chỉ thấy trong loại
kịch tự sự như của Brết, nhất là những lời giáo đầu trong tuồng chèo ở ta”
[13,tr.410]
Về đặc điểm, ngôn ngữ kịch phải là ngôn ngữ mang “tính hành động,
tính khẩu ngữ, tính hàm súc, tính tổng hợp và phải phù hợp với tính cách của
nhân vật” [13,tr.410]. Trước hết, đó là những lời đối thoại thông thường trong
cuộc ssống, phải có tác dụng khắc họa tính cách, nghề nghiêp, tuổi tác, trình độ
văn hóa...của nhân vật. Nó mang sắc thái riêng của từng tình cách, do từ miệng
nhân vật nói ra, chứ không phải do tác giả. Ngôn ngữ trong kịch đòi hỏi phải
gắn liền mật thiết với động tác, điều này giúp người xem hiểu được những suy
nghĩ, tâm tư nhân vật.
Ngôn ngữ nhân vật kịch đòi hỏi người viết phải có một vốn hiểu biết
phong phú và sâu rộng về quần chúng, nắm được cách nói đa dạng của quần
chúng, điều này quan trọng đối với mọi nhà văn nói chung nhưng đặc biệt là
đối với người viết kịch.
1.1.2. Sự xuất hiện và phát triển của thể loại kịch ở Việt Nam
Ngay từ thuở bình minh của nền văn học Hi lạp - La mã cổ đại, kịch đã
xuất hiện và sớm trở thành một thể loại văn học thượng đẳng. Ở những giai
đoạn tiếp theo trong lịch sử châu Âu, kịch có một sức phát triển vượt trội và
rực rỡ, xuất hiện nhiều kịch gia lỗi lạc xứng tầm nhân loại. Đó là các tên tuổi
17
như:Corneill, Racine, Molier, Sechxpia… Ở Việt Nam, người ta biết đến kịch
như một thể loại văn học chính thức vào đầu thế kỉ XX.
Xuất hiện vào khoảng những năm 20 của thế kỉ XX cùng với tiến trình
hiện đại hóa văn học, thể loại kịch Việt Nam ghi nhận một số tên tuổi như tác
giả Vũ Đình Long với Chén thuốc độc, Tòa án lương tâm; Vi Huyền Đắc với
Ông Ký Cóp, Hai tối tân hôn, Kim tiền; Đoàn Phú Tứ với Mơ hoa, Những bức
thư tình, Ngã ba; Nguyễn Huy Tưởng với Vũ Như Tô… Lúc đầu chỉ các tác
phẩm dịch từ nước ngoài, sau đó là mô phỏng, phóng tác sau đó là sáng tác và
được công chúng đô thị tiếp nhận.
Kịch nói giai đoạn 1930 -1945 đã có những khởi sắc mới với các tác giả
tiêu biểu như Thế Lữ. Kịch giai đoạn này đã phản ánh được những mâu thuẫn
lớn trong đời sống xã hội lúc bấy giờ: sự đối kháng giữa cái mới và cái cũ, giữa
Tây học và Nho học, giữa tư tưởng đạo đức phong kiến với lối sống tự do đề
cao cái tôi cá nhân của cơn gió Âu hóa tràn vào nước ta.
Từ sau cách mạng tháng Tám 1945, kịch cũng như nhiều thể loại khác
của nền văn học dân tộc đã thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị phục vụ cuộc kháng
chiến chống Pháp của dân tộc. Các vở kịch tạo được tiếng vang thời kì này như:
Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng, Chị Hòa của Học Phi,
Lòng dân của Nguyễn Văn Xe… Phần lớn nội dung các vở kịch hướng về đời
sống kháng chiến và cách mạng của dân tộc.
Thời kì kháng chiến chống Mỹ, kịch đã có bước chuyển biến phát triển
mạnh cả về số lượng và chất lượng. Hòa chung với không khí đấu tranh chống
Mỹ của dân tộc, kịch thời kì này phản ánh hai vấn đề nóng hổi của đất nước lúc
bấy giờ đó là công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh
giải phóng dân tộc ở miền Nam. Những vở kịch tiêu biểu ở giai đoạn này như
vở: Lập Xuân, Quê hương của Xuân Trình; Nổi gió, Đại đội trưởng của tôi, Tổ
quốc của Đào Hồng Cẩm, Đôi mắt của Vũ Dũng Minh Tiền tuyến gọi của Trần
18
Quán…
Sau 1975, chiến tranh kết thúc hòa bình lập lại, hiện thực cuộc sống có
nhiều biến đổi. Bước ra khỏi cuộc chiến tranh trường kì, dân tộc lại phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn chồng chất. Hiện thực cuộc sống thay đổi cần cái
nhìn đa diện nhiều chiều và đời sống con người cá nhân cũng được đặt lên một
vị trí mới trong văn học. Văn học từ sau 1975 đặc biệt sau đổi mới đã có bước
chuyển mình, trong đó kịch không thể đứng ngoài dòng chảy chung.
Kịch giai đoạn này có bước phát triển nhảy vọt tạo nên một đời sống sân
khấu sôi động với nhiều thành tựu lớn đáng ghi nhận. Nhà nghiên cứu Vũ
Quang Vinh trong bài viết Vài nét về sự phát triển của kịch nói ba mươi năm
1954-1984 đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học số 1/1985 đã nhận xét “với
sự tăng tiến cả về số lượng và chất lượng các tiết mục, cũng như sự mạnh dạn
và phong phú trong những đổi mới, tìm tòi, sáng tạo, chúng ta vui mừng vì đã
có một nền kịch nghệ tương đối hoàn chỉnh”. Sân khấu kịch thời kì này diễn
ra sôi động, nhiều vở kịch gây tiếng vang, như hàng loạt các vở kịch của Lưu
Quang Vũ: Tôi và chúng ta, Lời thề thứ chín, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tất
Đạt với Đỉnh cao mơ ước, Xuân Trình với Mùa hè ở biển, Hoài Giao với Nhân
chứng và lịch sử…. Những vở kịch thời kì này đã phản ánh những vấn đề thời
sự nổi cộm của đời sống xã hội lúc bấy giờ. Những mâu thuẫn của chế độ quản
lí xã hội cũ kĩ với đời sống mới đòi hỏi sự đổi mới, những mâu thuẫn giữa cái
tốt-xấu nảy sinh trong xã hội thời hậu chiến… Các vấn đề được đặt ra cấp thiết
kịp thời đã mang đến cho người đọc người xem niềm tin vào cuộc sống đang
có quá nhiều biến động. Có thể khẳng định đây chính là thời kì vàng son của
sân khấu kịch Việt Nam.
Nhìn lại gần một thế kỉ phát triển của thể loại kịch ở Việt Nam, chúng
ta có thể thấy, tuy là một thể loại non trẻ hơn các thể loại khác nhưng kịch đã
hòa mình vào đời sống chung của dân tộc. Đi qua những thăng trầm biến thiên
19
của lịch sử dân tộc, kịch Việt Nam đã từng bước phát triển và trưởng thành và
đạt được nhiều thành tựu đặc sắc. Tuy còn nhiều hạn chế, thành quả cũng còn
khiêm tốn so vơi một số thể loại văn học khác nhưng kịch nói hiện đại đã khẳng
định được chỗ đứng của mình trong nền văn học dân tộc.
1.2. Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ – Hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch
Việt Nam
1.2.1. Tiểu sử
Tác giả Lưu Quang Vũ quê ở Đà Nẵng, sinh ngày 17/4/1984 tại Thiên
Cơ, Hạ Hòa, Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ) trong một gia đình gia giáo, yêu văn
học nghệ thuật. Cha ông, Lưu Quang Thuận, tác giả của một số vở kịch và hàng
loạt bài thơ từ trước cách mạng. Từ thủa bé, Lưu Quang Vũ đã sớm bộc lộ
những năng khiếu nghệ thuật và tư chất nghệ sĩ, từng 3 lần đoạt giải văn toàn
thành phố Hà Nội, mới 13 tuổi đã có truyện ngắn được in… Tuổi thơ Lưu
Quang Vũ được sống trong môi trường nghệ thuật và tham gia các hoạt động
nghệ thuật từ rất sớm.
Năm 1966, Lưu Quang Vũ vào bộ đội, được biên chế về quân chủng
phòng không không quân. Thời gian này Lưu Quang Vũ vẫn làm nhiều thơ,
viết truyện ngắn, tiểu phẩm. Có nhiều bài đăng trên các báo Nhân dân, Quân
đội nhân dân, Văn nghệ quân đội.
Năm 1970, Lưu Quang Vũ xuất ngũ, ông có gia đình riêng với vợ là diễn
viên Tố Uyên và con trai Lưu Minh Vũ. Tiếp sau đó là những năm tháng gian
nan vất vả trong cuộc đời ông: công việc bấp bênh, hạnh phúc riêng dang
dở…Trong hoàn cảnh khốn khó ấy, Lưu Quang Vũ vẫn không ngừng viết
truyện, làm thơ, sáng tác kịch. Năm 1973, ông lập gia đình với nữ sĩ Xuân
Quỳnh –một nhà thơ tài năng. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn nhưng cuộc
sống riêng của ông vẫn rất đầm ấm hạnh phúc – Nhà thơ Xuân Quỳnh dường
20
như là bến đỗ bình yên nhất sau những mất mát trong cuộc đời Lưu Quang Vũ.
Hạnh phúc nở hoa kết trái, họ sinh được người con trai Lưu Quỳnh Thơ.
Năm 1977, Lưu Quang Vũ làm biên tập ở Tạp chí Sân khấu với công
việc ổn định và phù hợp với khả năng của ông.
Ngày 29-8-1988, ông qua đời cùng vợ và con trai trong một tai nạn giao
thông, giữa lúc sự nghiệp đang ở đỉnh cao.
Lưu Quang Vũ ra đi để lại một khoảng trống vắng không gì bù đắp được
của đời sống sân khấu. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống nghệ thuật,
bản thân có năng khiếu thiên bẩm, vượt lên bao thế sự thăng trầm của cuộc đời
riêng, Lưu Quang Vũ đã thực sự trở thành người nghệ sĩ lớn.
1.2.2. Con đường trở thành nhà viết kịch của Lưu Quang Vũ
Nhiều người trở thành tác giả sân khấu từ những xuất phát điểm khác
nhau như: người từ nhà báo, nhà văn, đạo diễn, diễn viên và các ngành nghề
khác. Lưu Quang Vũ trước khi trở thành nhà viết kịch ông là một nhà thơ và
một nhà văn có ít nhiều thành công. Có thể nói “Lưu Quang Vũ đã được chuẩn
bị một vốn liếng văn học và nghề nghiệp nhất định trước khi bước vào lĩnh vực
sân khấu” [23,tr.141]
1.2.2.1. Sự nghiệp thi ca là tiền đề cho chất trữ tình trong kịch của Lưu Quang
Vũ
Trước khi xuất hiện trên sân khấu, Lưu Quang Vũ đã được mọi người biết
đến với tư cách là một nhà thơ trẻ có năng khiếu thiên bẩm. Giới phê bình văn
học, mà cụ thể là Hoài Thanh đã khẳng định “Lưu Quang Vũ là một cây bút trẻ
nhiều triển vọng” [23,tr.7]. Hoài Thanh đã sớm nhận ra một hồn thơ trong trẻo
rất hồn nhiên trong cảm xúc và cũng rất già dặn suy tư khi đọc những bài thơ
đầu tiên của ông. Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng thơ “là nơi lý thác nhiều
nhất”, “cốt cách thi sĩ vẫn là nét nổi trội nhất trong tâm hồn anh” [23,tr.33]. Sự
21
nghiệp thơ của ông bắt đầu nở rộ từ những năm 1970 trở đi, khi mà cuộc đời
ông gặp vô vàn khó khăn. Ông làm thơ như để bày tỏ những giãi bày những nỗi
niềm riêng, cả niềm vui nỗi buồn và cả những đớn đau đổ vỡ của cuộc đời. Lưu
Quang Vũ mất sớm nhưng cũng đã có hơn 20 năm sáng tác thơ, và cũng đã kịp
đặt tên cho 12 tập thơ, trong đó đã có nhiều tập hoàn chỉnh như: Cỏ tóc tiên,
Hương cây (in năm 1968), Mây trắng của đời tôi (in năm 1989), Cuốn sách xếp
lầm trang, Bầy ong trong đêm sâu (in năm 1993)…
Có nhiều công trình nghiên cứu về thơ Lưu Quang Vũ, hầu hết đều chỉ
rõ đặc trưng cơ bản của thơ ông đó là chất đắm đuối đam mê và nhiều khát
vọng. Như ta đã biết, kịch là sự kết hợp giữa nguyên lí sử thi và chủ thể độc lập
của thơ trữ tình. Cái Tôi trữ tình của Lưu Quang Vũ trong thơ chính là chủ thể
tự khẳng định mình bằng những khát vọng của cá nhân, sự bộc lộ nội tâm hoàn
toàn độc lập. Cái Tôi sử thi trong thơ Lưu Quang Vũ là bộc lộ tinh thần dân tộc
qua ý muốn chủ thể, mục đích cá nhân với hoàn cảnh bên ngoài và cản trở thực
tế, là sự cảm nhận hiện thực của chủ thể nghệ sĩ. Đây là tiền đề hết sức quan
trọng đối với con đường đi tới sân khấu kịch của Lưu Quang Vũ bởi vì trong
thơ của ông đã bộc lộ những cơ sở của những nguyên lí tạo nên kịch.
1.2.2.2. Truyện ngắn Lưu Quang Vũ- cầu nối từ thơ đến kịch
Truyện ngắn Lưu Quang Vũ phần nhiều là những câu chuyện kể nhẹ nhàng
về miền quê, về tuổi trẻ đầy mơ ước, khát vọng. Bên cạnh đó còn là những chân
dung của những con người hết sức bình thường trong cuộc sống. Vốn là một
nhà thơ nên có thể thấy truyện ngắn của ông cũng đẫm chất thơ. Mặc dù không
có được thành công đáng kể như ở hai thể loại kịch và thơ nhưng ông cũng có
được 3 tập truyện ngắn đáng kể như: Người kép đóng hổ, Mùa hè đang đến,
Một vùng mặt trận. Lê Minh Khuê cho rằng: “Truyện ngắn của anh khi đó là
có bản sắc riêng” [8,tr.133]. Mười năm sau chiến tranh, truyện ngắn của ông
xuất hiện “là tiếng nói của những người thường gặp, không to tát lên gân, ai
22
cũng có thể tìm thấy chút riêng của mình trong đó” [23,tr.133]. Điều đó có thể
nhận thấy sự chuyển mình của Lưu Quang Vũ trong các truyện ngắn cuộc sống
không chỉ là bức tranh hào hùng thơ mộng mà đã xuất hiện những khoảng tối
nhức nhối, bức xúc, những niềm riêng tư của con người đã được đề cập đến,
điều mà trong chiến tranh người ta gạt sang bên cạnh. Có thể nói truyện ngắn
của Lưu Quang Vũ là sự báo hiệu, là bước “tiền trạm” cho những vấn đề nóng
bỏng của xã hội mà ông sẽ thể hiện rõ nét thành hình trong các vở kịch sau này
của mình.
Tóm lại có thể thấy thơ là động lực, là cơ sở, còn truyện ngắn là sự bắt
đầu cho những vấn đề xã hội và khả năng khắc họa chân dung nhân vật mà sau
này làm bệ phóng cho ông bước vào kịch nói, nó là chất văn xuôi của kịch Lưu
Quang Vũ.
1.2.2.3. Kịch Lưu Quang Vũ- kết tinh tài năng
Năm 1987, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm biên tập viên ở Tạp chí sân khấu
và bến duyên với sân khấu kịch từ đây. Năm 1979, Lưu Quang Vũ hoàn thành
vở kịch đầu tay “Sống mãi tuổi mười bảy”. Vở kịch đầu tay này đã giành 5 giải
nhất khi tham gia Hội diễn sân khấu toàn quốc năm 1980. Năm 1981, vở kịch
“Cô gái đội mũ nồi xám” được dàn dựng và Lưu Quang Vũ trở thành cái tên
thực sự được công chúng chú ý trên sân khấu kịch. Tiếp đó, Lưu Quang Vũ
bằng tài năng và đam mê nghệ thuật đã cho ra đời nhiều tác phẩm kịch có giá
trị như: Người trong cõi nhớ (1982), Nguồn sángtrong đời (1984), Tôi và chúng
ta (1984), Hồn Trương Ba da hàng thịt (1984), Người tốt nhà số 5 (1984), Lời
nói dối cuối cùng (1984), Khoảnh khắc và vô tận (1986)…
Kịch của Lưu Quang Vũ phong phú nhiều đề tài: dã sử, dân gian, chiến
tranh, quân đội, đời sống… Kịch của ông mang tính thời sự nhạy bén, vừa có
tính khám phá sâu sắc, vừa có tính lâu dài. Mỗi vở kịch của ông đều chứa đựng
những triết lí sống của con người và thời đại, đánh thức ở con người lương tâm,
23
trách nhiệm và khả năng tự thanh lọc tâm hồn để vươn tới những điều tốt đẹp
hơn. Kịch của Lưu Quang Vũ ngoài sự phát hiện, xây dựng trên những nhân
vật mang dáng nét con người mới hôm nay và ngày mai, tác gải còn không ngần
ngại phê phán các kiểu nhân vật tiêu cực trong thực tế đời sống ở mọi tầng lớp,
thậm chí những dạng nhân vật và những vấn đề mà trước kia người ta né tránh
ngại đề cập đến.
Với 55 vở kịch được viết trong 10 năm, với 47 vở được đưa lên sàn diễn,
với 8 huy chương vàng, 2 huy chương bạc và nhiều giải thưởng khác thể hiện
sức làm việc bền bỉ phi thường của Lưu Quang Vũ cũng như vai trò vị trí của
ông trong nền sân khấu. Chính những đóng góp ấy mà khi nghiên cứu về ông,
một học giả người Pháp đã gọi ông là “Moliere ở Việt Nam tên là Lưu Quang
Vũ” [23,tr.162]. Hay như G.S Phan Ngọc nhận định “Lưu Quang Vũ là nhà viết
kịch lớn nhất thế kỉ này của Việt Nam, là một nhà văn hóa” và “có một kịch
pháp Lưu Quang Vũ”. Tác giả Cao Minh “Thông qua kịch của mình, Lưu
Quang Vũ đã góp phần quan trọng làm nên bộ mặt sân khấu thập kỉ tám mươi.
Và cất tiếng nói dũng cảm thức tỉnh cái tốt đẹp đang bị lấp phủ, cảnh tỉnh cái
xấu đang hoành hành, ngự trị trong cuộc sống đương đại”. Thời gian và sự yêu
mến của khán giả chính là thước đo rõ nhất giá trị của một tác phẩm nghệ thuật.
Những tác phẩm của Lưu Quang Vũ đã vượt qua được những thử thách khốc
liệt của thời gian để khẳng định chỗ đứng của mình.
1.3. Những đóng góp nổi bật từ mảng kịch khai thác truyện dân gian của
Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ là một tài năng nhiều mặt, ngay trong sân khấu kịch người
đọc người xem cũng sẽ thấy sự thành công đa dạng ở nhiều thể loại, đề tài. Theo
tác giả Ngô Thảo trong bài nghiên cứu “Con đường sáng tạo của một tài năng”
[23,tr.143], có thể chia những sáng tác kịch của ông thành ba loại:
24
Loại 1: Dựa vào một số tích cũ của văn học dân gian trong và ngoài nước
rồi viết lại như: Lời nói dối cuối cùng, Hồn Trương Ba da hàng thịt, nàng Sita,
Đam San, Ông vua hóa hổ, Linh hồn của đá…
Loại 2: Dựa vào một cốt truyện văn học để chuyển thành kịch như: Đôi
dòng sữa mẹ, Hẹn ngày trở lại, Chết cho điều chưa có, Muối mặn của đời em…
Loại 3: Hoàn toàn do sáng tác: Đây là phần chủ yếu và đề tài đều là hiện
đại.
Trong số đó, khối lượng những vở kịch khai thác từ cốt truyện dân gian
không nhiều, chiếm một phần nhỏ trong những sáng tác của ông nhưng có thể
khẳng định hầu hết những vở kịch này đều đạt tới hiệu quả tương đối cao. Nhà
nghiên cứu Lưu Khánh Thơ đã nhận xét: “Việc khai thác các mô típ dân gian,
dựa vào đó để viết kịch bản mang đậm dấu ấn cá nhân và phong cách của mình
đã tạo cho kịch Lưu Quang Vũ một chiều sâu đáng kể. Nó tạo cho kịch của anh
sự phong phú về đề tài, hấp dẫn ở cốt truyện, lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng
nhân vật” [23,tr166]. Trong số những vở kịch khai thác từ cốt truyện dân gian
của Lưu Quang Vũ có nhiều tác phẩm xuất sắc, cho đến ngày nay vẫn còn
nguyên giá trị và được công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước.
Tiêu biểu như vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được ra mắt công chúng
năm 1984, giới phê bình nghiên cứu đánh giá đây là một trong những vở kịch
hay nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch lấy cốt từ câu chuyện dân gian, về tích
này sân khấu dân tộc đã nhiều người khai thác. Tuồng Trương Đồ Nhục đã
nhắc nhiều đến những câu chuyện vui hài hước do anh đồ tể gây ra. “Đến lượt
mình, Lưu Quang Vũ đọc từ trong cốt truyện dân gian xưa những ý tưởng mà
con người hiện đại cũng phải kính nể” [23,tr.144]. Một cốt truyện dân gian bình
thường quen thuộc vậy mà khi đưa lên sân khấu vở kịch đã không chỉ dừng lại
ở những giá trị ban đầu mà đặt ra những vấn đề mới mẻ, những bài học nhân
sinh sâu sắc. Những bi kịch và những rắc rối mà Trương Ba phải trải qua vì
25
sông vay mượn chắp vá bằng thân xác anh hàng thịt đã cho người đọc người
xem bài học muôn đời: Cuộc sống là sự hòa hợp giữa thể xác và linh hồn. Tạo
hóa sinh ra mỗi con người chỉ có một lần, cần phải biết gìn giữ nuôi dưỡng và
trân trọng nó. Cuộc sống này thật đáng quý với mỗi người, nhưng phải sống hài
hòa giữa phần hồn và phần xác, cuộc sống chỉ có giá trị khi “con người được
sống đúng là mình”. Sống vay mượn chắp vá sẽ tạo ra những xộc xệch mất cân
đối và đem lại bi kịch cho con người. Con người phải không ngừng đấu tranh
ngay cả với chính mình để vươn tới lẽ sống cao đẹp… Vở kịch Hồn Trương
Ba, da hàng thịt được công diễn nhiều lần trên sân khấu và đến nay vẫn còn
nguyên sức hút, hiện nay văn bản kịch này đã được đưa vào giảng dạy trong
nhà trường THPT, điều đó cho thấy ý nghĩa tư tưởng sâu sắc và giá trị lâu bền
của tác phẩm.
Vở kịch “Lời nói dối cuối cùng” cũng là một vở kịch gặt hái được nhiều
thành công của Lưu Quang Vũ, khai thác vốn cổ dân gian mà vẫn giàu ý nghĩa
hiện đại. Hình tượng chú Cuội với những lời nói dối truyền miệng trong dân
gian đã được tác gải xây dựng nên một hình tượng nhân vật sinh động, hấp dẫn.
Trong vở kịch, Cuội thông minh lém lỉnh nhanh ý đã làm được nhiều việc tốt
việc thiện để giúp đỡ mọi người, chỉ có điều những việc tốt ấy cũng như những
hành động có ý nghĩa đẹp đẽ ấy đều được thực hiện dựa trên những lời nói dối
vòng quanh không đúng sự thực. Kết cục những mong muốn và ý định tốt đẹp
mà Cuội mong muốn làm cho mọi người đã dẫn đến thất bại, những người được
Cuội giúp đều trở thành nạn nhân của những tình huống trớ trêu. Và ngay chính
Cuội cũng là nạn nhân bởi những lời nói dối của chính mình. Vở kịch kết thúc
để lại cho người đọc người xem những bài học chân lí sâu xa: Những điều tốt
đẹp chỉ thực sự có ích với con người khi nó được dựa trên nền tảng của sự trung
thực và lòng ngay thẳng. Điều tốt đẹp không thể đến từ những lời nói dối.
Ngoài hai vở kịch tiêu biểu kể trên, còn một số vở kịch khác lấy từ tích
26
truyện dân gian mà vẫn giàu giá trị hiện đại được bạn đọc đón nhận và để lại
cho người xem nhiều dư ba cảm xúc như: Ông vua hóa hổ, Linh hồn của đá,
Nàng Sita…
Như vậy có thể thấy những vở kịch sáng tác dựa trên cốt truyện dân gian
của Lưu Quang Vũ đã đem đến cho người đọc, người xem những vấn đề có
nghĩa sâu sắc mới mẻ, giúp mỗi người chúng ta có cái nhìn cuộc sống, nhìn lại
bản thân một cách đầy đủ sâu sắc hơn. “Tài năng của nhà viết kịch một lần nữa
được khẳng định trong việc biến cổ tích, huyền thoại thành chuyện của thời
hiện đại, nêu lên cái muôn đời trong những cái bình thường” [23,tr169]. Thành
công ở mảng kịch này góp phần làm nên tên tuổi của Lưu Quang Vũ trên sân
khấu kịch. Những ý tưởng tốt đẹp của ông cùng những kịch phẩm ông để lại
cho đời, những vở diễn đêm đêm còn đang sống trên sàn diễn của mọi thời đại
đã chứng minh một tài năng lớn, một tư tưởng lớn!
Tiểu kết chương 1
Trong chương 1 chúng tôi tập trung giải quyết ba vấn đề chính như sau:
1. Kịch là thể loại văn học ra đời muộn hơn các thể loại khác, gồm những đặc
trưng cơ bản: Xung đột kịch, hành động kịch, nhân vật kịch và ngôn ngữ kịch.
Với những đặc trưng riêng như vậy cho nên kịch tuy ra đời sau nhưng có sức
hấp dẫn riêng và có sự kết hợp chặt chẽ với sân khấu. Kịch ở Việt Nam ra đời
vào khoảng những năm 20 của thế kỉ XX, và từ đó cho đến nay đã có những
thành tựu đáng kể và đóng góp lớn cho nền văn học dân tộc với nhiều tên tuổi
lớn và nhiều tác phẩm đặc sắc.
2. Lưu Quang Vũ là một con người tài năng về nhiều mặt. Trước khi đến với
27
sân khấu kịch, ông là một nhà thơ và nhà văn tài năng. Ông là người góp phần
làm nên diện mạo sân khấu kịch những năm 80 của thế kỉ XX, những tác phẩm
của ông cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
3. Ở mảng kịch khai thác truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã đạt được những
thành công nhất định. Những câu chuyện dân gian quen thuộc nhưng lại có ý
nghĩa hiện đại mới mẻ giúp người đọc người xem có những nhận thức về bài
học nhân sinh quý báu trong cuộc sống.
CHƯƠNG 2
LOẠI HÌNH NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH KHAI THÁC
TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ
Nhân vật được coi là yếu tố cơ bản nhất trong tác phẩm văn học, là yếu
tố tập trung giá trị tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm văn học. Trong tác phẩm
văn học kịch, do đặc trưng của kịch là xung đột nên khi đứng trước những xung
đột đó nhân vật bắt buộc phải hành động. Nhân vật kịch là nhân vật hành động,
qua hành động nhân vật bộc lộ tính cách của mình, vì vậy nhân vật thường rất
nổi bật về tính cách và chia thành nhiều tuyến rõ rệt. Một vở kịch muốn hay,
muốn thể hiện rõ tính xung đột thì nhân vật kịch phải có tích cách nổi bật (hoặc
28
tốt, hoặc xấu, hoặc anh hùng, hoặc đê hèn…). Mâu thuẫn xung đột kịch cũng
chính là mâu thuẫn xung đột của các tuyến nhân vật này.
Thế giới nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu
Quang Vũ hiện lên đa dạng và phong phú, sự đa dạng thể hiện ở chỗ người phụ
nữ trong tác phẩm với đủ mọi lứa tuổi: Từ những bé gái (cái Gái, cái Tâm..)
đến các cô gái trong độ tuổi yêu đương (Lụa, quận chúa Kim Hoa, cô Sim…)
đến những phụ nữ có chồng (Thanh, chị con dâu, hoàng hậu..) và những phụ
nữ đã có tuổi (vợ Trương Ba..). Trong các tác phẩm kịch khai thác từ truyện
dân gian này, tính cách số phận của họ được hiện lên rõ nét thông qua các hành
động để giải quyết mâu thuẫn xung đột kịch. Họ được đặt vào trong những tình
huống đầy mâu thuẫn, thậm chí đầy biến cố và bắt buộc phải có sự lựa chọn và
thể hiện đậm nét tính cách của mình. Mỗi người có những nét tính cách riêng
khác biệt nhưng nhìn chung họ đều là những nhân vật nữ có nhiều phẩm chất
tâm hồn cao đẹp, trong sáng, lương thiện trung thực, có sự hi sinh cao cả trong
tình yêu, cuộc sống. Người đọc sẽ cảm nhận được ở họ vẻ đẹp của người phụ
nữ Việt Nam truyền thống. Đối với nhân vật của mình, nhà viết kịch Lưu
Quang Vũ thể hiện tấm lòng sẻ chia cảm thông trước những bi kịch, những biến
cố đồng thời trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của họ.
2.1. Nhân vật nữ với những éo le, trắc trở trong tình yêu
Điều đẹp đẽ và kì diệu nhất trong cuộc sống chính là tình yêu – một tình
cảm sâu sắc nhất lãng mạn nhất và cũng chính là nguồn động viên tinh thần
mạnh mẽ nhất đối với bất kì ai. Một tình yêu tuyệt đối luôn là niềm khao khát
của tất cả phụ nữ. Nhà văn Võ Thị Hảo cho rằng: “Phụ nữ hay quan niệm tình
yêu là tất cả cuộc đời. Còn đàn ông thì không. Họ quan niệm tình yêu như nó
vốn có, chỉ là một phần cuộc đời. Vì thế phụ nữ thường dại khờ và bất hạnh
hơn”. Những nhận vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu
Quang Vũ phần lớn là những cô gái đã tìm được tình yêu, trái tim từng thổn
29
thức đập loạn nhịp khi đứng trước một chàng trai của đời mình. Tuy nhiên con
đường tình yêu của họ không phải êm ái dễ dàng trải đầy hoa hồng. Nói cách
khác, tình yêu đem đến cho họ sự ngọt ngào nhưng cũng nhiều éo le, trắc trở.
Thanh trong Linh hồn của đá là một cô gái đáng mơ ước của nhiều chàng
trai, một cô gái ở một ở một làng đá ven biển hiền hành chăm chỉ nết na. Thanh
gặp Vịnh trong một lần Vịnh và các bạn lính bị lạc đến xóm đá. Trong những
ngày chăm sóc vết thương cho Vịnh, nhìn vào mắt nhau cả hai dường như đã
có cảm giác thật quen thuộc. Trái tim Thanh đã dành trọn cho người lính ấy và
cũng nhận được sự đồng cảm. Nhưng số phận thách thức tình yêu của họ, bắt
Thanh phải chờ đợi. Vịnh là người lính cầm súng và dĩ nhiên sự chờ đợi của
Thanh sẽ là mỏi mòn bởi không biết trước ngày gặp lại. Suốt hai năm chờ đợi
rồi âu lo khi giặc giã đã yên, lính tráng ai còn sống đã lục đục trở về vậy mà
Thanh vẫn có tin tức của Vịnh. Cô kiên quyết từ chối lời cầu hôn của anh chàng
thợ mộc và anh chàng buôn sắt để trọn vẹn với lời hứa hẹn cùng Vịnh. Thanh
xuân tuổi trẻ của người con gái chỉ có một lần và trôi qua không chờ đợi ai, vậy
mà Thanh phải trải qua những năm tháng chờ đợi mỏi mòn không biết trước
ngày gặp gỡ.
Sự thủy chung chờ đợi của Thanh đã được đền đáp, Vịnh trở về sau lấm
láp bom đạn của chiến tranh, họ nên nghĩa vợ chồng. Với tình yêu đẹp, những
tưởng hạnh phúc sẽ ở bên họ mãi mãi. Nhưng số phận lại nghiệt ngã éo le thay:
“Em ngờ đâu anh ngờ đâu/ Biển xót xa, biển khổ đau/ Bởi vì ai bởi vì đâu/
Mười năm sống bên nhau/ Bỗng tan thành nước mắt/ Ngàn triệu sóng tan thành
biển mặn/ Để kể hoài kể mãi chuyện buồn đau” [46, tr.13]. Tình yêu của họ và
mười năm vợ chồng gắn bó ra hoa kết trái lại là bi kịch đau xót của cuộc đời.
Trong một lần chải tóc cho vợ cùng câu chuyện Thanh kể, Vịnh đã phát hiện ra
một sự thật nghiệt ngã, cay đắng: Thanh chính là người em gái ruột bao nhiêu
năm thất lạc của mình. Còn gì đau khổ, éo le hơn cho tình yêu của họ, số phận
30
trêu ngươi để họ yêu nhau và lấy nhầm nhau. Cái Tâm, con gái của họ lại là kết
quả của một tình yêu oan trái. Vịnh đau khổ không muốn Thanh biết sự thật
nên tìm mọi cách trốn tránh rồi một lần nữa rời xa Thanh. Nhưng lần ra đi này
là mãi mãi bởi anh không thể đối mặt với sự thật khủng khiếp này, ra đi để chôn
vùi một tình yêu trớ trêu, đau khổ. Và Thanh lại một lần nữa chờ đợi – sự chờ
đợi vô vọng mà mãi mãi không thể nào hiểu được nguyên nhân vì sao hơn
mười năm tình nghĩa vợ chồng gắn bó mặn nồng Vịnh lại ra đi bỏ lại vợ con.
Sự chờ đợi của Thanh hóa thành đá, linh hồn lặn vào trong đá lạnh. Bi kịch tình
yêu của Thanh và sự chờ đợi hóa đá gợi nhắc về câu chuyện cổ tích “Sự tích đá
vọng phu” trong dân gian. Nhân vật trung tâm là người phụ nữ chung thủy với
bi kịch tình yêu ngang trái éo le và sự chờ đợi mỏi mòn hóa đá với những nỗi
đau câm nín không nói được nên lời.
Trong vở kịch “Lời nói dối cuối cùng” có một số nhân vật nữ để lại nhiều
thiện cảm với người đọc, nhưng trước tình yêu họ cũng phải trải qua nhiều éo
le khó khăn ngang trái.
Lụa là một cô gái đẹp người đẹp nết, khéo léo chăm chỉ trong lao động
nhưng trong con đường tình duyên cô trở thành người hoàn toàn bị động, thậm
chí phải đối mặt với nhiều rắc rối do chính những người dành tình cảm cho
mình gây ra. Lụa chăm chỉ lao động nhưng vì món nợ của gia đình từ lúc cha
mất nên lão Chánh tổng đã o ép đến tịch thu nhà cửa, khiến cho cô gái dệt lụa
nổi tiếng khắp vùng không còn đường sống, nhắm mắt đưa chân suýt phải làm
vợ công tử Lãn. Một kẻ giàu có hống hách, tâm hồn thô kệch rỗng tuếch, tính
tình hung hăng. Lụa cũng là người trong mộng của Cuội – một người mặt mũi
sáng sủa có bản chất tốt nhưng lại chuyên bày trò với sự tinh quái và tính cách
dối trá. Cuội thổi sáo hay làm thơ giỏi, nói năng đi vào lòng người. Mỗi lần
đứng đằng sau bóng công tử Lãn để thổi sáo và nói những lời có cánh là mỗi
lần Cuội bày tỏ bằng tiếng lòng chân thật và sâu thẳm trong trái tim mình. Lụa
31
đã rung động vì điều ấy. Tuy nhiên cách làm của Cuội đã khiến cho cô Lụa
nhầm lẫn, đẩy Lụa đến đám cưới với công tử Lãn. Rồi Cuội bằng sự tinh quái,
tài nói dối đã cứu cô Lụa ra khỏi cuộc hôn nhân không mong muốn. Và cứ như
vậy, cho dù tình cảm của Cuội với cô Lụa là thật nhưng Cuội vẫn đưa Lụa vào
những rắc rối do chính sự dối trá của mình gây ra. Câu chuyện rắc rối trong
cung vua đã khiến Lụa phải quyết định rời bỏ Cuội vì không thể chấp nhận
được những điều dối trá do Cuội gây ra ngày càng nhiều, càng nghiêm trọng.
Những điều dối trá đó đã biến cô thành con rối một cách bị động. Như vậy, cho
dù được Cuội yêu mến và dành trọn tình cảm nhưng Lụa lại trở thành nạn nhân
của của chính tình yêu đó.
Quận chúa Kim Hoa – em gái của hoàng hậu đem lòng yêu mến Cuội khi
Cuội vào cung trong vai một danh y tài giỏi. Nhưng những gì Cuội làm và thể
hiện đều chỉ là một màn kịch không hơn không kém, để rồi tất cả bị lừa bịp và
quận chúa cũng không phải là một ngoại lệ. Đám cưới với Cuội mãi chỉ là một
giấc mơ rồi tan tành như mây khói khi màn kịch hạ xuống, Cuội cũng biến mất
cùng những lời nói dối.
Trong vở kịch còn có một nhân vật nữ cũng bị cuốn theo câu chuyện dối
trá của Cuội và gặp những éo le trong tình yêu. Đó là cô Sim – nữ tỳ của quận
chúa – một cô gái xinh đẹp ngây thơ đã đem lòng yêu thầm Nam trang tài nhân
mà không hề biết người đó chính là cô Lụa. Tình cảm chân thành thầm kín của
Sim với Nam trang tài nhân cũng là hậu quả của những chiêu trò dối trá do Cuội
gây ra.
Nhân vật Thảo trong “Ông vua hóa hổ” lại phải chịu những éo le, trắc
trở, bi kịch khác trong tình yêu. Thảo là người may mắn khi được cả hai chàng
trai Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không đem lòng yêu mến. Đạo Hạnh quắc
thước sôi nổi, thẳng thắn bộc trực, mang chí lớn. Minh Không- người bạn trai
thân thiết từ thời thơ ấu tuấn tú khôi ngô, trí dũng, tính tình điềm đạm. Cả hai
32
đều là những người trượng nghĩa anh hùng, cùng chung mối thù nhà nợ nước,
bỏ qua những hiểu lầm ban đầu, họ nắm tay nhau kết nghĩa anh em. Thảo vì
nghĩa lớn nước non, vì tình cảm dành cho cả hai người sâu nặng nên tự nguyện
đi theo Đạo Hạnh và Minh Không phất cờ dấy binh. Tuy nhiên, sự biến đã bắt
buộc nàng buộc phải chọn lựa đi cùng một trong hai người. Minh Không vì
không thể tiếp tục cảnh giết chóc hận thù vấy máu nên quyết định từ bỏ tất cả
để tìm một nơi heo hút lánh ẩn giũ sạch tội trần. Đạo Hạnh lại kiên quyết chiến
đấu đến tận cùng cho chí lớn cho dù phải gây tội ác, lưỡi gươm vấy máu. Bắt
buộc phải lựa chọn giữa hai người là điều vô cùng khó khăn với Thảo bởi cả
hai người nàng đều quý mến, không muốn rời bỏ ai. Quyết định ở lại cùng Đạo
Hạnh kiên quyết nhưng thật khó khăn đối với Thảo. Và quyết định này cũng mở
đầu cho cuộc đời đầy biến cố éo le bi kịch của Thảo sau này. Tình yêu thủy
chung sâu nặng và đầy hi sinh của Thảo đã khiến cô phải dùng chính máu, chính
mạng sống của mình để cứu Đạo Hạnh – chồng nàng khỏi thân xác hổ dữ. Thảo
là người phụ nữ thủy chung sống hết mình cho tình yêu nhưng cũng gặp nhiều
éo le ngang trái. Chính trên con đường tình yêu và hạnh phúc gia đình số phận
luôn buộc Thảo phải đứng trước những chọn lựa, thậm chí là những hi sinh cả
bản thân cho người mình yêu.
Tình yêu là tình cảm nguyên thủy nhất của con người, bất cứ ai khi đến
với nhân thế đều mong muốn một lần được nếm trải. Tình yêu có ngọt ngào và
cay đắng, có hạnh phúc và khổ đau, đó là đạo lý ở đời, không ai thoát khỏi vòng
quay của số phận. Ai đến với tình yêu cũng mong muốn nếm trải hương vị ngọt
ngào của nó, nhưng cũng không ít người gặp éo le ngang trái trong tình yêu.
Qua việc thể hiện bi kịch tình yêu của nhân vật nữ trong mảng kịch khai khác
truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về sự bất hạnh
ngang trái trong tình yêu của người phụ nữ. Khám phá con người với tấm lòng
cảm thông chia sẻ, Lưu Quang Vũ đã đi sâu vào cuộc đời của họ, để họ được
33
sống với những giây phút hạnh phúc tột cùng của tình yêu, để rồi sau đó là sự
trải nghiệm những bi kịch éo le ngang trái. Qua đây nhà viết kịch cho chúng ta
thấy: Không phải câu chuyện tình yêu nào cũng trải đầy hoa hồng hay kết thúc
ngọt ngào viên mãn như câu chuyện cổ tích. Hạnh phúc tình yêu không dễ nắm
bắt, đòi hỏi phải hi sinh thậm chí mất mát đau thương.
2.2. Nhân vật nữ đứng trước những biến cố lớn trong cuộc đời
Cuộc đời mỗi con người giống như một dòng sông uốn lượn. Trên thế
gian không có dòng sông nào thẳng tắp chảy ra biển. Số phận con người trôi
chảy qua nhiều bến bờ ghềnh thác, cuộc sống chẳng bao giờ dễ dàng với mỗi
chúng ta và chẳng bao giờ có con đường nào dẫn tới hạnh phúc mà không trải
qua những gian lao thử thách . Sống là một hành trình dài và rộng ở đó luôn có
hạnh phúc, niềm vui và cũng có những biến cố không thể biết trước như một
sự an bài định mệnh của số phận. Dòng sông ngay cả khi êm đềm tĩnh lặng
cũng có thể nổi sóng gió dữ dội, cuộc đời mỗi con người có thể đã có được
hạnh phúc bình yên nhưng có thể vẫn gặp nhiều biến cố phía trước.Đó là những
sự việc, sự kiện xảy đến bất ngờ ngoài sự mong đợi, dự tính của con người, làm
ảnh hưởng lớn lao tới cuộc đời và số phận của họ. Tìm hiểu thế giới nhân vật
nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của tác giả Lưu Quang Vũ, có
một điều dễ nhận thấy các nhân vật nữ chính trong tác phẩm thường phải trải
qua nhiều biến cố thăng trầm trong cuộc đời. Ngay cả khi vượt qua những éo
le trắc trở trong tình yêu có được hạnh phúc, họ vẫn phải đứng trước những
biến cố lớn. Thậm chí có những biến cố đẩy họ vào nghịch cảnh trái ngang
khiến họ rơi vào bi kịch, không có lối thoát.
Thanh trong Linh hồn của đá là một số phận đầy bi kịch. Tình yêu sắt
son và sự thủy chung đợi chờ của cô sau bao năm xa cách Vịnh những tưởng
sẽ được đền đáp bằng cuộc hôn nhân hạnh phúc. Những tưởng mười năm vợ
chồng êm đềm hạnh phúc sẽ là trái ngọt của một tình yêu đẹp của hai người.
34
Nhưng một biến cố dữ dội ập đến khiến cho số phận họ trở thành bi thảm. Tình
cờ biết được sự thật Thanh là người em gái thất lạc bao nhiêu năm, Vịnh như
chết lặng, anh không thể chịu nổi điều đau đớn này. Anh hét lên trong đau
khổ:“Giời ơi, sao lại có thể như thế được? Sao ông trời ghê gớm đến mức sắp
đặt ra những chuyện khủng khiếp dường này? Em gái tôi, vợ tôi là em gái tôi!
Khủng khiếp! Khủng khiếp! …Tôi mắc vào tội lỗi khủng khiếp! Sao trời lại
không giết tôi ngay?...Trời ơi! Có ai trên đời khổ như tôi, đáng chết như
tôi?”[46,tr.18]. Sự thật nghiệt ngã oan trái trong câu chuyện tình yêu của hai
người được tác giả Lưu Quang Vũ mượn từ tích truyện “Sự tích đá vọng phu”
trong dân gian đã từng khiến nhiều người rơi lệ. Đến Linh hồn của đá người
đọc một lần nữa xót xa cho bi kịch tình yêu của Thanh và Vịnh. Rõ ràng biến
cố kinh hoàng này khiến cho số phận họ thay đổi lớn lao. Vịnh đau khổ chạy
trốn sự thật, tìm quên trong men rượu, nhưng rượu cũng không khiến anh nguôi
quên vì nỗi đau khổ quá lớn. Anh bơ phờ đau khổ, và nhận ra không còn cách
nào khác là phải rời xa Thanh, rời xa cuộc hôn nhân ngang trái éo le này. Thanh
lại chờ đợi mỏi mòn, sự chờ đợi tuyệt vọng bởi Vịnh không bao giờ trở về. Sự
đợi chờ thủy chung đằng đẵng năm tháng khiến mẹ con nàng hóa thành đá- đá
vọng phu, như minh chứng cho một bi kịch tình yêu đau xót thấm tận đáy lòng:
“Em chờ anh, em chờ anh
Chuyện buồn đau trên biển xanh
Người đàn bà mong chồng
Đã hóa thành tượng đá
Sóng ngàn năm còn vỗ
Hòn vọng phu bên trời
Vẫn ngóng về biển cả xa xôi
Hồn vọng phu bên trời
35
Vẫn đợi chờ bên biển cả xa xôi” [46,tr 38]
Biến cố lớn lao của cuộc đời ập đến khiến Thanh hóa đá vọng phu đợi
chờ, còn đối với Thảo trong Ông vua hóa hổ biến cố cuộc đời cũng khiến cô
phải đánh đổi bằng mạng sống của mình để cứu chồng.
Từ một tráng sĩ, võ sư luyện tay cung, đường kiếm nơi xóm nhỏ ven
thành, vì nghĩa lớn nước non, người anh hùng áo vải Từ Đạo Hạnh đã dẫn dắt
nghĩa binh, khởi quân dựng luỹ xây thành, quét sạch lũ hôn quân vô đạo giúp
cho muôn dân thoát khỏi cảnh lầm than. Vì khao khát sức mạnh chiến thắng kẻ
thù, Từ Đạo Hạnh đã uống vũng nước xanh để có được sức mạnh muôn người
không địch nổi - sức mạnh của hổ - bất chấp lời nguyền sẽ bị biến thành hổ dữ.
Đổi lấy sức mạnh thì phải mang thân trả nợ, nên dù làm đến nghiệp đế vương,
Đạo Hạnh không thể thoát khỏi món nợ năm xưa. Đặc biệt quan điểm trị dân
hà khắc bằng hình phạt nhiều hơn nhân nghĩa đã nhanh chóng kiến Đạo Hạnh
không còn là chính mình. Khi Đạo Hạnh ngồi lên ngai vàng cũng là lúc lời
nguyền kia trở thành sự thật. Kinh hoàng nhìn xuống cơ thể mình đang dần hoá
thành hổ dữ với những lớp lông vằn vện, mặt vua biến dạng, mắt long lên, chân
tay mọc móng vuốt co quắp, Đạo Hạnh đau đớn, hoảng hốt, sợ hãi trong hình
hài hổ dữ mà trái tim vò xé nát tan, ân hận xót xa. Không còn đâu vị vua oai
phong, thay vào đó là hình hài hổ dữ đang cào xé thân mình, lăn lộn, cố chống
trọi lại sự biến dạng sang kiếp thú của chính thân thể mình, tiếng nói xen lẫn
tiếng gầm gào tuyệt vọng: “Gương mặt của ta đâu? Hình dáng của ta đâu/ Cho
ta được là ta/ Cho ta được trở lại chính mình” [47, tr.26]. Những ngày bình yên
đã hết, hạnh phúc chưa được bao lâu thì biến cố như một nỗi kinh hoàng này
ập đến với ngay chính bản thân Thảo. Không thể nhìn nhà vua bị đoạ đày, cô
Thảo - hoàng hậu đã lặn lội đường xa nguy khó để tìm phương thuốc lành chữa
bệnh cho vua thoát nạn đau đớn trong thân hình hổ hung dữ. Để cuối cùng Thảo
phải lấy máu của mình, mạng sống của mình đuổi hổ trong người Từ Đạo Hạnh.
36
Chỉ có tình thương, mạng sống, đó là máu của người thân yêu mới cứu được
Từ Đạo Hạnh nên người vợ hiền đã nguyện hy sinh thân mình để Đạo Hạnh
được làm người và máu từ thân Thảo đã ướt đẫm áo choàng mong cứu chồng
qua cơn nguy biến. Hình ảnh đọng lại ấn tượng khó quên nhất và cũng đẹp nhất
chính là lúc đức vua mang lốt hổ oằn mình trong nỗi đau tự thiêu đốt chính
mình bằng thứ dầu đỏ thẫm từ tấm áo choàng quấn trên lớp cọp đang bùng cháy
dữ dội để rũ sạch những con hổ con đang cố bấu víu, không muốn bứt ra khỏi
cơ thể vằn vện. Giữa tiếng gầm đau đớn dữ dội của loài thú thoát xác là tiếng
tụng kinh niệm Phật của Nguyễn Minh Không và ánh mắt chan chứa yêu
thương mong ngóng của Thảo với hi vọng Đạo Hạnh vượt qua tai họa. Từ trong
tro bụi lửa thiêu, Đạo Hạnh được làm người trở lại, xóa tan giấc mộng thống trị
bạo tàn của loài ác thú. Nơi dòng máu của người con gái dịu hiền đổ xuống,
những ngọn cỏ đã xanh trở lại. Thảo đã hoá thành cỏ biếc, cây cỏ yêu thương,
cỏ của lòng nhân ái.
Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm
1981, công diễn lần đầu tiên năm 1987, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và
ngoài nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một
vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con
người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng
vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của
Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba bị chết oan. Theo lời khuyên của “tiên
cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được
tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó
lại đưa Trương Ba vào một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú và người
khác. Do phải sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất
đi bản chất trong sạch, ngay thẳng của mình. Có thể nói Trương Ba đã chết một
cách vô lí, ai cũng biết cái chết của Trương Ba là do sự vô tâm và tắc trách của
37
Nam Tào. Nhưng sự sửa sai của Nam Tào và Bắc Đẩu theo lời khuyên của Đế
Thích nhằm trả lại công bằng cho Trương Ba lại đẩy Trương Ba vào một nghịch
cảnh vô lí hơn là linh hồn mình phải trú nhờ trong thể xác của kẻ khác. Do phải
sống nhờ thể xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba đành phải chiều theo một số
nhu cầu hiển nhiên của xác thịt. Linh hồn nhân hậu, trong sạch, bản tính ngay
thẳng của Trương Ba xưa kia, nay vì phải sống mượn, chắp vá, tạm bợ và lệ
thuộc nên chẳng những đã không sai khiến được xác thịt thô phàm của anh hàng
thịt mà trái lại còn bị cái xác thịt ấy điều khiển. Đáng sợ hơn, linh hồn Trương
Ba dần dần bị nhiễm độc bởi cái tầm thường của xác thịt anh đồ tể. Đó là một
biến cố lớn không chỉ của riêng trong cuộc đời Trương Ba, đó cũng là biến cố
đối với những người thân trong gia đình ông: Vợ Trương Ba, chị con dâu, cái
Gái.
Biến cố dữ dội khiến vợ Trương Ba buồn bã, đau khổ. Gặp nghịch cảnh
trái ngang bà không thể quen nổi chồng mình trong xác anh hàng thịt trẻ tuổi
mới chỉ ngoài ba mươi. Trước sự đổi thay của chồng, bà cũng không sao chịu
nổi, bà đau khổ vì bất lực: “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm
vườn ngày xưa”[21, tr.411]. Nỗi đau hiện tại còn kinh khủng hơn giây phút bà
tiễn thân xác chồng khỏi thế gian. Bà càng khó xử hơn khi chị hàng thịt suốt
ngày sang đòi chồng. Buồn bã và đau khổ bà nhất quyết đòi bỏ đi, nhường
Trương Ba cho cô vợ anh hàng thịt. Với bà “đi cấy thuê làm mướn ở đâu cũng
được… còn hơn là thế này” [21,tr. 411]
Chị con dâu trong câu chuyện là người hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm
thấy thương bố chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ông khổ lắm,“khổ hơn
xưa nhiều lắm” [21,tr.414]. Nhưng nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như
sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau, chị đã thốt thành
lời nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên
trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày
38
thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi,
đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…” [21, tr.415]
Cái Gái- đứa cháu Trương Ba yêu mến đứng trước biến động lớn lao này
thì phản ứng quyết liệt và dữ dội. Tâm hồn tuổi thơ vốn trong sạch, không chấp
nhận sự tầm thường, dung tục nên không chấp nhận người ông trong thể xác
anh hàng thịt thô lỗ. Cái Gái với tâm hồn tính cách trẻ con giờ đây đã không
cần phải giữ ý. Nó một mực khước từ tình thân “tôi không phải là cháu ông…
Ông nội tôi chết rồi” [21, tr.412].Cái Gái yêu quý ông nó bao nhiêu thì giờ đây
nó không thể chấp nhận cái con người có “bàn tay giết lợn”, bàn chân “to bè
như cái xẻng” đã làm “gãy tiệt cái chồi non”, “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới
ươm” trong mảnh vườn của ông nội nó. Nó hận ông vì ông chữa cái diều cho
cu Tị mà làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt
đền. Với nó,“Ông nội đời nào thô lỗ, phũ phàng như vậy”[21,tr.413]. Nỗi giận
dữ của cái Gái đã biến thành sự cự tuyệt xua đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác
lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”[21,tr.413].
Nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang
Vũ phần lớn là những nhân vật bi kịch. Cho dù được yêu thương ,tìm được tình
yêu đích thực và có lúc những tưởng hạnh phúc đã đến với họ nhưng những
biến cố cuộc đời lại không buông tha cho họ. Những biến cố ấy khiến số phận
họ thay đổi, thậm chí có nhân vật phải đối diện với cái chết, sự ra đi mãi mãi.
Tuy nhiên điều khiến người đọc trân trọng mến yêu họ đó là khi đứng trước
những biến cố, những ngang trái éo le của cuộc đời, họ đã thể hiện rõ những vẻ
đẹp phẩm chất tâm hồn, nhân cách của mình. Đó là một trong những giá trị
nhân văn chiều sâu của kịch Lưu Quang Vũ nói chung và kịch khai thác truyện
dân gian của Lưu Quang Vũ nói riêng.
2.3. Nhân vật nữ với những phẩm chất tâm hồn cao đẹp
39
Vichto Huygo – văn hào Pháp, từng ca ngợi về phụ nữ: “Bên cạnh ánh
sáng lung linh của các vì sao còn có ánh sáng êm dịu và huyền bí của tâm hồn
người phụ nữ”. Nói đến cái đẹp chắc không ai có thể phủ nhận phụ nữ chính là
một hình ảnh đẹp nhất mà mọi người luôn nghĩ đến đầu tiên. Ở đời nào cũng
vậy, vẻ đẹp của người phụ nữ trong đời thường luôn là hằng số bất biến ngàn
đời. Người phụ nữ Việt từ xưa đến nay luôn được trân trọng ngợi ca với tâm
hồn đôn hậu, bao dung vị tha, sự thủy chung son sắt, giàu đức hi sinh…Với
thiên chức làm mẹ, làm vợ, người phụ nữ là ngọn lửa tình thương ấm áp sưởi
ấm gia đình, sưởi ấm tâm hồn mỗi người chúng ta.Vẻ đẹp của người phụ nữ
Việt Nam in đậm dấu ấn trong thơ ca, nhạc, họa, điêu khắc… và mãi bất tử với
thời gian. Họ đã góp phần làm nên vẻ đẹp của văn hoá dân tộc. Có thể khẳng
định vẻ đẹp của người phụ nữ chính là vẻ đẹp bên trong tâm hồn họ, đó chính
là cách họ lắng nghe người khác và thể hiện tình yêu của mình.
Thế giới nhân vật kịch của Lưu Quang Vũ rộng lớn, từ những vở kịch
khai thác từ cổ tích, dân gian, từ lịch sử, dã sử hay kịch hiện đại. Tuy nhiên có
một điều dễ dàng nhận thấy là những nhân vật nữ phần lớn là những con người
vừa rất gần gũi đời thường vừa rất cao cả đáng trân trọng. Dù là nhân vật chính
hay nhân vật phụ, rất nhiều người phụ nữ được hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Trong mảng kịch khai thác từ cốt
truyện dân gian, như đã tìm hiểu ở trên, phần lớn nhân vật nữ là nhân vật bi
kịch. Họ thường gặp nhiều éo le trắc trở trong tình yêu, gặp nhiều biến cố lớn
trong cuộc đời. Tuy nhiên, trên hết người đọc vẫn thấy trong khó khăn hay
giông bão cuộc đời họ vẫn tỏa sáng tâm hồn cao đẹp. Cho dù đó là cô gái mới
lớn đang yêu, hay người phụ nữ đã có gia đình, người phụ nữ có tuổi hay những
bé gái chưa đến tuổi dậy thì, họ phần lớn là những người có tâm hồn trong sáng,
lương thiện, trung thực. Trong tình yêu, cho dù nó có đem lại cho họ đớn đau
mất mát bất hạnh thì họ vẫn ngời sáng tình cảm sắt son chung thủy và giàu đức
40
hi sinh, thậm chí phải hi sinh đánh đổi cả bằng cả cuộc đời. Họ luôn đấu tranh
để vươn tới những giá trị đích thực của tình yêu, cuộc sống để hoàn thiện nhân
cách và sống đúng với những giá trị bản thân. Vì vậy, đọng lại từ các vở kịch
người đọc xót xa đồng cảm với bi kịch của họ nhưng trên hết vẫn là trân trọng
và tự hào vẻ đẹp tâm hồn họ - tâm hồn những người phụ nữ Việt Nam nhân ái
bao dung vị tha.
2.3.1.Tâm hồn trong sáng, lương thiện, trung thực
Trung thực và lương thiện là bản tính và phẩm hạnh cao đẹp nhất và là
một yêu cầu không thể thiếu trong mỗi một con người. Con người không thể
chống lại cộng đồng và mọi người xung quanh bằng không trung thực, không
lương thiện của mình. Tùy thuộc vào nền tảng đạo đức, nền tảng văn hóa - giáo
dục; tùy thuộc vào nghị lực, bản lĩnh của từng người mà người ta trung thực,
lương thiện ở mức nào trong cái thang của giá trị nhân cách con người.
Bên cạnh đó, tâm hồn trong sáng là nền tảng để thấy sự thật và sống chân
thật.Tâm hồn bị hỗn loạn, mờ đục, thì chỉ còn quờ quạng trong bóng tối, không
còn biết đâu là thực đâu là hư. Nhân vật nữ trong các sáng tác kịch khai thác
cốt truyện dân gian phần lớn là những cô gái, những người phụ nữ có tâm hồn
trong sáng, lương thiện, trung thực.
Cô Lụa trong vở kịch Lời nói dối cuối cùng gây ấn tượng với người đọc,
người xem không chỉ bởi cô xinh đẹp, giỏi giang, có tài dệt lụa nổi tiếng khắp
vùng mà còn ở những phẩm chất tâm hồn cao đẹp đáng quý. Dù gia cảnh nghèo
khó, cha mất sớm, mẹ bệnh yếu, bị thiếu nợ Chánh tổng từ đám cưới cha mẹ
nhưng cô vẫn luôn giữ tâm hồn trong sáng ngay thẳng chính trực. Những lời
sáo rỗng khoe khoang của công tử Lãn chỉ khiến cô coi là những lời giễu cợt
tầm thường, cô không vì giàu sang mà xiêu lòng:
41
“- Lãn: Tôi là Hoàng Bá Lãn thường gọi là công tử Lãn con cụ Phủ Hoàng
Bá Đình… Nhà tôi ruộng cả ao liền mà tôi vẫn trơ thân cụ, chưa người sửa túi
nâng khăn… Thấy cô đẹp, tôi yêu cô, tôi mê cô..
- Lụa: Ra là ông…(từ kinh ngạc đến buồn cười) Người ta không tỏ tình
như thế công tử Lãn ạ.
- Lãn: Thế cô bảo phải tỏ tình thế nào?
- Lụa: Hay là ông định giễu cợt tôi? Tôi là kẻ nghèo khó nhưng không
phải là người giễu cợt được đâu. Tôi đang bận (bỏ vào)” [48,tr.4]
Chỉ khi nghe tiếng sáo mượt mà của Cuội cùng những lời yêu thương say
đắm từ tận cõi lòng, Lụa mới thực sự rung động. Cho dù núp dưới bóng công
tử Lãn để thổi sáo làm thơ nhưng đằng sau màn kịch ấy lại là tiếng lòng sâu xa
của Cuội nên anh rất nhập tâm. Lụa đã rung động từ tình cảm của Cuội chứ
không phải lớp vỏ bề ngoài của của công tử Lãn. Chính vì vậy có lúc Lụa phải
phân tâm, không hiểu sao một tên công tử nhà giàu, huênh hoang đần độn núp
dưới bóng Phú ông khiến cô khinh ghét lại có những lúc tâm hồn bay bổng đến
vậy.
Tuy nhiên, khi nhận ra Cuội với những trò bịp bợm giả dối, Lụa kiên
quyết không nhận sự giúp đỡ của Cuội bởi cô là người ngay thẳng không chấp
nhận những lời dối trá, dù có phải chấp nhận một mình thân gái giữa nơi
phường phố xa lạ:
“- Cuội: Cô đi đâu, nơi phường phố xa lạ này, không được cô Lụa ạ, cô
chưa thể bỏ thuyền tôi mà đi được. Cô sẽ sống bằng gì, còn bà cụ nữa,
không thể để bà cụ chết đói!
- Lụa: Đói no gì mặc tôi. Tôi có đôi bàn tay làm lụng, tôi sẽ sống bằng
đôi bàn tay làm lụng, tôi sẽ sống được, không cần đến thứ anh…
42
- Cuội: Này, kinh kì kẻ chợ không phải như quê cô đâu. Không có tiền,
lại thân gái bơ vơ, chỉ có chết. Cô có muốn làm nghề dệt như ở nhà cũng
phải có chút vốn liếng. Tôi sẽ giúp cô. Trước phải có ít tiền, ta sẽ kiếm…
- Lụa: Kiếm tiền bằng cách lừa bịp dối trá chứ gì? Không, tôi đi theo
Cuội thế đủ lắm rồi… Chào anh, tôi đưa mẹ tôi lên bờ” [48,tr.19]
Liên tục bị động vướng vào câu chuyện rắc rối của Cuội gây ra, bất đắc
dĩ phải lưu lạc lên kinh kì và một bước trở thành mệnh quan triều đình có thể
sống nhung lụa với những vàng lụa châu báu, nhưng Lụa vẫn kiên quyết không
chấp nhận và một mực khước từ. Bởi cô vẫn tỉnh táo nhận ra những điều có
được đều xuất phát từ sự dối trá của Cuội. Cô càng không thể chấp nhận danh
xưng Nam trang tài nhân một cách giả dối mà Cuội gắn cho mình. Lụa không
chấp nhận sống giả dối trong một cái vỏ bọc và hình hài không phải của chính
mình. Cuối cùng cô đã bộc bạch hết nỗi lòng mình và quyết định rời bỏ Cuội,
gỡ mình ra khỏi câu chuyện dối trá của Cuội:
“- Lụa: Không thể có được những điều tốt lành bằng những cách thức
xấu xa. Anh lừa bịp bọn ác bọn xấu, thật ra cũng là anh dựa vào chúng
nó. Sẽ không ai cần điều tốt lành có được bằng cách ấy. Đối với tôi, thế
là đủ rồi. Tôi đến đây lần cuối, để chào từ biệt anh. Cũng có lúc tôi thầm
quý mến anh đấy, nhưng giờ thì…Tiếp tục ở đây, rồi tôi cũng không còn
là tôi nữa mất thôi. Anh cứ việc ở lại với những điều gian dối của anh,
tôi đi…” [48,tr.51]
Những lời nói từ đáy lòng của Lụa cho thấy một cô gái ngay thẳng, lương
thiện trung thực, có nhân phẩm đáng quý. Đó cũng là ý nghĩa triết lí sâu sắc
mà tác giả Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm đến người đọc: Mọi ý định dù tốt đẹp
nhưng được xây dựng trên sự gian dối cũng không đem lại hạnh phúc mà phải
xây dựng dựa trên sự chân thực. Sự giả dối không bao giờ đem lại những điều
tốt đẹp. Nhân vật cô Lụa kiên quyết đấu tranh chống lại sự giả dối như một biểu
43
tượng về lòng trung thực cho con người trong đời sống. Chính sự trong sáng,
lương thiện và lòng trung thực của Lụa đã cảm hóa Cuội khiến Cuội nhận ra
mọi sai lầm của mình, từ bỏ cuộc sống nhung lụa, vinh hoa phú quý, cố gắng
thay đổi con người mình để sống một cuộc sống “không cần đến những điều
dối trá”:
“- Cuội: Lụa, tôi không thể ở lại một mình. Tôi không thể sống không có
Lụa, không thể sống với điều gian dối. Tôi biết em vẫn còn khinh ghét
tôi nhiều lắm, nhưng hãy cho tôi được đi cùng, chúng ta sẽ tìm đến một
nơi không cần đến những điều dối trá”[48, tr.54]
Nhân vật Lụa và Cuội đã gây ấn tượng mạnh đối với người đọc, người
xem để rồi kết thúc câu chuyện, phẩm chất của Lụa và sự ngộ ra bài học cuộc
sống của Cuội đã lắng đọng lại những bài học nhân sinh sâu sắc cho đến ngày
nay: Trong bất cứ thời đại nào, hoàn cảnh nào con người cũng cần sống trung
thực và tôn trọng sự thật. Trong cuộc đời, ai không dễ lạc lối, nhất là khi xã hội
có những rối ren, trắng đen khó rõ ràng, nhiều kẻ cơ hội mà “đục nước béo cò”.
Nhưng cũng không phải vũng bùn nào cũng có thể nhấn chìm con người, vẫn
còn đó những con người biết đúng sai, sống sạch, sống trong, sống ngay thẳng
chính trực như cô Lụa, như những dải lụa trắng mềm mại mà cô Lụa đã dệt ra
phơi nơi bờ sông.
Thảo trong Ông vua hóa hổ là một cô gái may mắn khi được cả hai chàng
trai tài cao, kiệt xuất yêu mến. Cả hai cùng dành tình cảm sâu nặng cho Thảo
và cả hai người Thảo đều yêu mến. Thảo buộc phải lựa chọn giữa Từ Đạo Hạnh
và Nguyễn Minh Không. Dẫu rất khó khăn, Thảo đã quyết định cùng đi con
đường với Từ Đạo Hạnh bởi nghĩ mình cần cho Từ Đạo Hạnh hơn:
“-Thảo: Minh Không, chàng buộc em phải chọn lựa ư? Cả hai người em
đều quý mến, Đạo Hạnh, con người mang chí lớn, có bao việc lớn phải
làm. Nguyễn Minh Không trí dũng, người bạn thời thơ ấu của em. Tấm
44
lòng Minh Không làm bằng thứ mềm yếu nhưng cũng là quý giá nhất
của con người: Tình yêu thương…Minh Không ạ, có lẽ… em sống
chàng… Mà hai người giống nhau thì lại chẳng giúp gì được nhau nhiều.
Giờ chàng định từ bỏ nghĩa quân, tìm nơi lánh ẩn, còn lại Đạo Hạnh. Em
linh cảm thấy… em cần cho Đạo Hạnh hơn… Em không giống anh ấy,
như vậy là em có thể giúp được chút bé mọn nào đó của lòng mình cho
việc hiểm nguy của anh ấy”[47,tr.14].
Sự lựa chọn của Thảo không chỉ bởi tình cảm dành cho Đạo Hạnh mà
trên hết ở lòng nhân ái, một lòng quyết tâm giúp đỡ Đạo Hạnh dọn sạch bọn
tiếm đoạt, đuổi giặc dữ về bên kia biên ải, mang lại bình yên cho nhân dân. Nếu
Đạo Hạnh sắt thép, dùng bạo lực để trị vì và thu phục lòng người thì Thảo lại
sống nhân ái lương thiện. Ngày tiếng trống khải hoàn rộn rã, Đạo Hạnh lên ngôi
trị vì, vì quyết tâm mời được Minh Không ra làm quan nên Đạo Hạnh đã phải
dùng đến cách bạo tàn nhất: Ra lệnh đốt rừng để buộc Minh Không phải xuất
hiện. Thảo đã ra sức can ngăn, đau xót trước hành động nông nổi của Đạo Hạnh:
“-Thảo: (nức nở) Nguyễn Minh Không… (với Hạnh) Chàng mời bạn
ra, mà lại mời bằng lửa. Chàng đã quen với lửa máu mất rồi. Lúc bình
yên mà chàng vẫn mang lửa ra để thu phục lòng người
-Đạo Hạnh: (ôm đầu): Ta đã làm gì?
-Thảo: Việc đầu tiên trước khi lên ngôi báu của chàng là thế sao
Cỏ cây sao hóa than tro
Chàng đem lửa dữ để thu phục lòng người
Từ nay chàng sống sao đây
Thương cho người khổ cho người, người ơi![47,tr20]
45
Ngay cả khi trở thành hoàng hậu, Thảo vẫn giữ phẩm chất của người phụ
nữ trong sáng lương thiện, cô luôn đề cao lối sống nhân nghĩa. Không ít lần,
Thảo thể hiện không tán thành sự hà khắc, trị nước bằng hình phạt nhiều hơn
nhân nghĩa của Đạo Hạnh:
“-Thảo: Nhưng thưa đức vua, bây giờ người đâu còn ngồi trên mình ngựa
đánh dẹp. Để non sông muôn thủa thái bình, giờ là lúc không thể chỉ
dùng gươm mà phải bằng nhân nghĩa lớn. Càng lên ngôi cao lòng nhân
càng phải lớn… Bệ hạ là nhà vua áo vải mà lâu nay phải sống quá xa
những người áo vải… Hãy nghe thiếp, bệ hạ hãy rời đây ra xóm mạc ít
ngày, xem người đánh cá trên sông, hái dâu trên núi nghĩ gì… Họ là gốc
của mọi nghĩa lớn” [47,tr.21]
Ngay cả khi phải hi sinh cho Đạo Hạnh, trước khi nhắm mắt, Thảo vẫn
dặn dò Đạo Hạnh cùng các con hãy sống bằng lòng nhân ái yêu thương con
người:
“-Thảo: Con của mẹ, các con sẽ lớn lên trên đời, hãy nhớ: Không dung
tha kẻ ác, nhưng hãy lấy yêu thương làm gốc rễ cuộc đời. Càng có sức
mạnh, càng ở ngôi cao, lòng nhân ái càng phải lớn…”[47,tr.53]
Lời nói cuối cùng của Thảo trong tác phẩm “hãy lấy yêu thương làm gốc
rễ cuộc đời” cũng là thông điệp mà vở kịch muốn gửi đến người đọc – Đó là
giá trị của cuộc sống con người với con người ở mọi thời đại.
Trong Hồn Trương Ba da hàng thịt, nhân vật nữ không nhiều và tuy
không giữ vị trí trung tâm của tác phẩm, nhưng họ đóng góp không nhỏ vào sự
thành công của cốt truyện. Dù độ tuổi, tính cách và hoàn cảnh sống khác nhau
nhưng nhìn chung họ đều là những con người lương thiện chất phác trung thực.
Vợ Trương Ba là người phụ nữ nông thôn yêu thương chồng con rất mực. Đó
là người vợ mà Trương Ba vô cùng yêu mến, trân trọng, người đã cùng Trương
46
Ba vượt qua bao khó khăn của cuộc sống. Đứng trước biến cố gia đình, khi
Trương Ba buộc phải mang hình hài, xác thịt của anh hàng thịt, bà không khỏi
thương xót cho chồng, tuy ngay chính mình cũng không giấu nổi những khổ
đau khi rơi vào hoàn cảnh đầy bi kịch.
Cái Gái trong câu chuyện là cô bé còn nhỏ tuổi ngây thơ, trong sáng nhưng
cũng rất giàu tình cảm. Cô bé đặc biệt dành tình cảm yêu quý cho ông nội. Lời
chị con dâu cho thấy điều đó: “Nó rất yêu thương ông nội. Đêm nào nó cũng
khóc thương ông. Nó cất giữ nâng niu từng chút kỉ niệm của ông: đôi guốc gỗ,
bó đóm thuốc lào, nhất là những cây thuốc trong vườn…” [21,tr.414]. Vì vậy
khi Trương Ba mang hình vóc anh hàng thịt thô lỗ, cộc cằn nó đã phản ứng rất
mạnh mẽ. Cô bé không hề giấu diếm nỗi đau khổ lẫn giận dữ của mình. Tâm
hồn tuổi thơ vốn trong sạch trung thực, không chấp nhận sự tầm thường dung
tục nên nó kiên quyết không chấp nhận người ông trong thể xác người hàng thịt
thô lỗ. Nó không cần giữ ý mà một mực khước từ tình thân, bộc lộ sự đau khổ
của mình, thâm chí nổi giận dữ biến thành hành động xua đuổi quyết liệt: “Ông
xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể cút đi” [21,tr.413]
Chị con dâu trong vở kịch là người phụ nữ sâu sắc, lương thiện, chín
chắn hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương và hiểu nỗi khổ của bố chồng
trong hoàn cảnh trớ trêu: “Con biết thày khổ hơn xưa nhiều
lắm”[21,tr.414].Nhưng nỗi buồn đau trước cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra
cả” khiến chị không thể bấm bụng mà đau. Chị đã phải thốt thành lời nỗi đau
đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng
thày ơi con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thày một đổi
khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc
chính con cũng không nhận ra thày nữa… Con càng thương thày, nhưng thày
ơi, làm sao, làm sao giữ được thày ở lại? hiền lành, vui vẻ, tốt lành như thày
của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thày ơi?”. [21,tr.415]. Như vậy, từ vợ
47
Trương Ba, chị con dâu đến cái Gái mặc dù rất yêu thương Trương Ba nhưng
họ không thể giấu nổi sự đau đớn khi Trương Ba ngày một tha hóa, thay đổi
trong thể xác người hàng thịt. Họ cũng như chính bản thân Trương Ba không
thể chấp nhận một con người mang tên hồn Trương Ba da hàng thịt, bên ngoài
một đằng bên trong một nẻo đầy mâu thuẫn. Từ tình cảm đến suy nghĩ và phản
ứng của họ góp phần làm nổi bật bi kịch của Trương Ba trong tác phẩm: Bi
kịch của con người không được sống là chính mình, không có sự thống nhất
giữa thể xác và linh hồn, không được sống trọn vẹn với những giá trị chân thực
mình vốn có.
Một tâm hồn trong sáng lương thiện trung thực là thước đo giá trị quan
trọng của một con người. Đặc biệt, đối với người phụ nữ đây là một phẩm chất
vô cùng cần thiết và đáng quý. Phải chăng vì vậy mà trong mảng kịch khai thác
từ tích truyện dân gian, nhân vật nữ hầu như cùng chung một tuyến, rất hiếm
hoi xuất hiện nhân vật nữ ở tuyến nhân vật phản diện. Có thể nhận thấy Lưu
Quang Vũ luôn đặt niềm tin và sự trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của những người
phụ nữ. Điều đó cho thấy, dù trong bất cứ hoàn cảnh ngang trái éo le của cuộc
đời, khởi nguyên của mọi vẻ đẹp con người vẫn là tâm hồn trong sáng, lương
thiện, trung thực của người phụ nữ.
2.3.2. Sự chung thủy và đức hi sinh cao cả trong tình yêu
Tình yêu là điều kì diệu của nhân loại. Tình yêu đem lại cho con người
những giá trị đẹp đẽ của cuộc sống. Tuy nhiên, tình yêu cũng luôn cần được bồi
đắp nuôi dưỡng từ phía hai người. “Tình yêu là một ông vua mà sự chung thủy là
chiếc vương miện” (Danh ngôn). Tình yêu sẽ không còn ý nghĩa nếu như thiếu đi
lòng chung thủy. Hay nói cách khác, sự chung thủy là phẩm chất đẹp đẽ và cần
thiết của một tình yêu đích thực. Sự son sắt một lòng một dạ trong tình yêu luôn
được ca ngợi ở mọi thời đại, được lưu truyền và giáo dục như một phẩm chất đạo
đức cần có ở mỗi con người. Phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay luôn được đề cao
48
ca ngợi ở sự chung thủy, đức hi sinh trong tình yêu. Họ sống trọn vẹn với tình yêu
và hạnh phúc gia đình, không điều gì có thể lay chuyển được:
-“Đôi ta như rượu với nem
Đang say ngây ngất, ai dèm chớ xa”
-“Mưa rơi gió tạt vô thành
Đôi ta chồng vợ, ai dỗ dành đừng xiêu”
Qua mọi thời kì, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp chung thủy
giàu đức hi sinh còn sáng mãi trong tâm hồn chúng ta như một niềm tự hào. Có
nhiều câu chuyện, tích chuyện ngợi ca về lòng chung thủy của người phụ nữ
Việt Nam như truyền thuyết về đá Vọng Phu, cổ tích Trầu cau… Dù các câu
chuyện trên chỉ mang tính dân gian truyền miệng nhưng cho thấy tình yêu son
sắt luôn là mối tình đẹp được người đời ngợi ca tôn vinh.
Như đã nói ở trên, trong các tác phẩm kịch của mình, tác giả Lưu Quang
Vũ luôn có một cái nhìn trìu mến đối với nhân vật nữ. Trong mảng kịch khai
thác từ tích truyện dân gian, nhiều nhân vật nữ mang vẻ đẹp tâm hồn tiêu biểu
cho người phụ nữ Việt Nam rất đáng tự hào. Họ không chỉ có tâm hồn trong
sáng, lương thiện, trung thực, họ còn chung thủy giàu đức hi sinh trong tình
yêu. Họ gây ấn tượng mạnh mẽ và để lại ấn tượng tốt đẹp với người đọc về
những phẩm giá ấy, họ là Thanh trong Linh hồn của đá, Thảo trong Ông vua
hóa hổ, vợ Trương Ba trong Hồn Trương Ba da hàng thịt…
Lấy cảm hứng từ cốt truyện cổ tích “Hòn vọng phu”, tác giả Lưu Quang
Vũ đã dựng lại bi kịch tình yêu của nàng Tô Thị tên Thanh bồng con chờ chồng
hóa đá. Vở kịch Linh hồn của đá đã lấy đi nước mắt người đọc người xem bởi
bi kịch tình yêu đầy đau xót của Thanh - Vịnh, đồng thời đậm tô và khắc sâu vẻ
đẹp của tình yêu chung thủy sắt son của người phụ nữ. Thanh – nhân vật nữ
chính của truyện – một cô gái nghèo chăm chỉ ở xóm Đá đã đem lòng yêu người
49
lính tên Vịnh. Tình yêu mới chớm nở thì hoàn cảnh buộc họ phải xa cách. Tiếp
tục lên đường, Vịnh mang theo lời hẹn ước với Thanh, mong ngày trở về để kết
duyên cùng nàng. Chiếc vòng đá hoa cương Thanh trao cho Vịnh là một vật làm
tin quý giá với tâm nguyện: “Con gái nhà thợ đá, không nói lời không thật bao
giờ. Em sẽ chờ đợi. Dù một năm, hai năm, dù mười năm” [46, tr.8]. Đó là những
lời hẹn ước tự đáy lòng của người con gái:
“Em chờ anh. Em chờ anh
Vầng trăng khuyết, vầng trăng tròn
Đêm mưa rơi, ngày nắng lóa
Em chờ anh, em chờ anh
Giữa cát bay, bên sóng dữ
Mùa nước dâng, mùa gió trở
Lòng em như đá chẳng phai mòn
Em chờ anh, em chờ anh
Dù trăng tàn, dù biển cạn
Em chờ anh
Anh hãy trở về” [46, tr.8]
Tình yêu với Thanh cho dù mới chớm nở nhưng đã thực sự sâu đậm. Cho
dù trong xóm có nhiều chàng trai đến ngỏ ý nhưng cô kiên định từ chối. Trước
lời cầu hôn của anh Gụ và cả Chĩnh, cô kiên quyết sắt đá: “Ông im đi! Ai cho
phép ông nói những điều độc địa. Anh ấy sẽ về, chồng tôi sẽ về…”, “Tôi không
cần sắt, không cần gỗ. Tôi xin các anh hãy để tôi yên, để tôi yên. Anh ấy sẽ
về…”[46, tr.11-12]
50
Không gì có thể làm mờ nhạt tình yêu sắt son Thanh dành cho Vịnh. Thời
gian gần hai năm đã trôi qua, giặc dã đã yên, trai tráng ai còn sống đã lục tục
trở về, già Quỹ tỏ ý lo lắng cho sự chờ đợi vô vọng của con. Nhưng Thanh lòng
lim dạ đá giữ vững niềm tin ngày Vịnh trở về.
Sự chờ đợi thủy chung ấy đã được đền đáp, Vịnh trở về sau lấm láp bom
đạn chiến tranh. Họ nên nghĩa vợ chồng. Mười năm họ sống trong hạnh phúc
để rồi sự thật ngang trái đã xảy ra khi Vịnh tình cờ biết được người vợ mà mình
vô cùng yêu quý lại chính là người em gái ruột đã thất lạc bao nhiêu năm. Bi
kịch giằng xé trong tâm hồn khiến Vịnh đau đớn đến mức không thể chịu nổi.
Anh luôn tự trách mình “Tôi đã làm thể xác của em đau, giờ đây tôi lại xé nát
tâm hồn em bằng hành động nhơ nhớp” [46, tr.18]. Quyết chôn chặt bí mật để
không làm Thanh phải gục ngã và đau đớn, Vịnh đã bỏ đi khỏi xóm Đá không
một lời từ biệt. Một lần nữa Thanh chờ đợi đằng đẵng, mỏi mòn. Ngày ngày,
mẹ con Thanh đều ra bến đứng chờ mòn mỏi, mong một ngày chồng sẽ trở về
với tình yêu bền bỉ không phai mờ. Sự chờ đợi đến tuyệt vọng, hai mẹ con
Thanh hóa thành tượng đá: “Em chờ anh, em chờ anh… Để không bao giờ mất
đi, để còn chờ anh mãi, em hóa thành tảng đá bên biển xanh. Nhưng em không
chết, linh hồn em lặn vào trong đá lạnh. Anh có nhớ lời xưa ta vẫn nói: Mọi thứ
qua đi chỉ đá là còn lại. Để được làm người, em phải hóa thành tảng đá chờ
mong. Bao nỗi đau hóa đá trên đời. Đá là sự thật của người, sự thật lặng im
khong nói nên lời. Đá ở khắp nơi. Không phải chỉ em đâu, mỗi tảng đá trên cõi
thế gian này là một hồn người hóa đá, một linh hồn người đã đợi, đã chờ
mong…”[46, tr.40]
Bi kịch tình yêu của Thanh và Vịnh và câu chuyện Thanh ôm con chờ
chồng hóa đá mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Trên dải đất hình chữ S của chúng
ta, có bao dáng núi vọng phu, bao nhiêu người phụ nữ đã thủy chung chờ chồng
hóa đá. Hình ảnh mẹ bồng con đó đã biểu tượng cho đức tính thủy chung cao
51
đẹp của người phụ nữ Việt, hi sinh chịu đựng, một đời tận tụy, lo âu khổ cực
trăm chiều vì chồng con. Họ tự nguyện hi sinh không cầu được đền đáp bởi họ
sống nặng tình nặng nghĩa.
Nhân vật Thảo trong Ông vua hóa hổ lại chịu đựng bi kịch khác, nhưng
đứng trước những biến cố éo le của cuộc đời, ở cô vẫn bộc lộ vẻ đẹp của người
phụ nữ thủy chung son sắt, sự hi sinh quên mình cho chồng –Từ Đạo Hạnh.
Đạo Hạnh từ một tráng sĩ, võ sư luyện tay cung, đường kiếm nơi xóm nhỏ ven
thành, vì nghĩa lớn nước non, người anh hùng áo vải đã dẫn dắt nghĩa binh,
khởi quân dựng luỹ xây thành, quét sạch lũ hôn quân vô đạo giúp cho muôn
dân thoát khỏi cảnh lầm than.Vì khao khát sức mạnh chiến thắng kẻ thù, Từ
Đạo Hạnh đã uống vũng nước xanh để có được sức mạnh muôn người không
địch nổi - sức mạnh của hổ - bất chấp lời nguyền sẽ bị biến thành hổ dữ. Đổi
lấy sức mạnh thì phải mang thân trả nợ, nên dù làm đến nghiệp đế vương, Đạo
Hạnh không thể thoát khỏi món nợ năm xưa. Lúc chiến thắng khải hoàn, ngồi
trên cương vị hoàng đế là lúc lời nguyền hóa hổ thành hiện thực. Đạo Hạnh
kinh hoàng nhìn xuống cơ thể mình đang dần hoá thành hổ dữ với những lớp
lông vằn vện, mặt biến dạng, mắt long lên, chân tay co quắp. Niềm kinh hãi
truyền khắp châu thân, mỗi thớ thịt, đường gân quặn lên nhức nhối như sắp vỡ
tung, đầu lạnh buốt mà thân mình nóng rực. Đạo Hạnh rơi vào tình cảnh đau
đớn, hoảng hốt trong lốt hổ mà trái tim vò xé nát tan, ân hận xót xa. Không ai
còn nhận ra vị vua oai phong, thay vào đó là hình hài hổ dữ đang cào xé thân
mình, lăn lộn, cố chống trọi lại sự biến dạng sang kiếp thú của chính thân thể
mình, hai tay chống xuống đất như dáng hổ, tiếng nói xen lẫn tiếng gầm gào
tuyệt vọng. Tuy nhiên chịu đựng bi kịch đó đâu chỉ mình Đạo Hạnh mà còn cả
người vợ hiền đã cùng chàng đi qua bao gian khó cuộc đời. Những ngày bình
yên đã hết, nỗi kinh hoàng như giấc chiêm bao, không thể nhìn chồng bị đoạ
đày, Thảo đã lặn lội đường xa nguy khó để tìm phương thuốc lành chữa bệnh
52
cho vua thoát nạn đau đớn trong thân hình hổ dữ. Thảo không quản khó khăn
tìm đến người bạn năm xưa là Nguyễn Minh Không nơi núi thẳm, rừng sâu về
cứu người trên ngôi cao trong thân xác hùm beo đã không còn nói được tiếng
người. Thậm chí nàng nguyện sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình để cứu
chồng:
“Thảo:
- Làm người một mình ư? Để làm gì? Để cho ai? Và có thực sự mãi mãi
lánh xa tất cả được không? Có làm người thực sự được không, nếu dửng
dưng với mọi niềm đau khổ? Minh Không, xin chàng hãy cứu Từ Đạo
Hạnh, điều đang diễn ra còn khủng khiếp hơn cả cái chết…Xin chàng…
-“Dù thân này phải chết, để chàng được làm người, để ngọn cỏ trong
vườn xanh trở lại…” [47,tr.45-46]
Chỉ có tình thương, mạng sống, đó là máu của người thân yêu mới cứu
được Từ Đạo Hạnh nên người vợ hiền đã nguyện hy sinh thân mình để Đạo
Hạnh được làm người. Máu từ thân Thảo đã ướt đẫm áo choàng với mong muốn
cứu chồng qua cơn nguy biến. Giữa tiếng gầm đau đớn dữ dội của loài thú thoát
xác là tiếng tụng kinh niệm Phật của Nguyễn Minh Không và ánh mắt chan
chứa yêu thương mong ngóng của Thảo với hi vọng Đạo Hạnh vượt qua tai
họa. Từ trong tro bụi lửa thiêu, Đạo Hạnh được làm người trở lại, xóa tan giấc
mộng thống trị bạo tàn của loài ác thú. Nơi dòng máu của Thảo - người con gái
dịu hiền thủy chung giàu đức hi sinh đổ xuống, những ngọn cỏ đã xanh trở lại.
Nàng đã hoá thành cỏ biếc, cây cỏ yêu thương, cỏ của lòng nhân ái, của sự hi
sinh và sắt son:
“Em nguyện là lá cỏ
Cho người em yêu được trở lại làm người
Em làm cỏ không lời
53
Cho chàng là tiếng nói
Em làm cỏ lãng quên
Cho trí nhớ con người còn mãi
Không chịu chết dưới thẳm sâu đất tối
Em hóa thành sắc cỏ để yêu thương” [47, tr.53]
Nhân vật vợ Trương Ba trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt lại
bị đẩy vào sự éo le ngang trái đặc biệt. Người phụ nữ này tự dưng mất chồng
vì sự tắc trách của Nam Tào Bắc Đẩu. Tình cờ đốt nén hương được lên trời biết
chồng mình chết oan vì nhầm lẫn của Nam Tào Bắc Đẩu, đau đớn xót xa trước
cái chết vô lí của người chồng, bà đã một mực đòi Nam Tào Bắc Đẩu trả quyền
sống lại cho chồng mình:
- “Vợ Trương Ba: Chết! Các ông có biết chết là thế nào không? Các ông
đã phải mất người thân bao giờ chưa?
… Chao ôi, chồng tôi… Các ông bắt chồng tôi chết được thì các ông
cũng phải làm chồng tôi sống lại được! Trả chồng tôi đây! [21,tr.343]
Vở kịch còn gây kịch tính sau khi hồn Trương Ba sống lại nhập vào xác
anh hàng thịt dẫn tới “vụ tranh chấp” chồng của vợ Trương Ba với người vợ
anh hàng thịt. Cả hai bà đều không muốn chấp nhận cái chết của chồng, đều
mong muốn con người kia vừa được trả cho sống lại kia là chồng mình. Khi
hồn Trương Ba được sống “hợp pháp” trong xác anh hàng thịt, mọi sự càng trở
nên rắc rối hơn. Ông Trương Ba- người chồng mà bà thương yêu rất mực nay
mang hình vóc của người hành thịt đã hoàn toàn thay đổi. Vợ Trương Ba không
thể đối diện với sự thật này, bà đau khổ: “ông đâu còn là ông, đâu còn là ông
Trương Ba làm vườn ngày xưa” [21,tr.411]. Người vợ của Trương Ba dù rất
mực yêu thương chồng, nhẫn nhịn, giàu lòng vị tha nhưng cuối cùng vẫn rơi
vào sự bế tắc. Nhưng trước sự đổi thay của chồng, không tìm thấy con người
Trương Ba trước kia, bà đau xót không sao chịu nổi. Nỗi đau hiện tại còn kinh
54
khủng hơn giây phút bà tiễn thân xác chồng khỏi thế gian.Cuối truyện Trương
Ba quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt, dành quyền sống cho cu Tỵ và
hình ảnh vợ Trương Ba hốt hoảng chạy loanh quanh tìm chồng, gọi tên chồng
trong vô vọng để lại nhiều cảm xúc dư âm cho người đọc, người xem.
Qua tìm hiểu về các nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác từ truyện dân
gian của Lưu Quang Vũ, chúng ta có thể thấy họ là những người tiêu biểu cho
vẻ đẹp tâm hồn rất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam. Đó là những người
phụ nữ thủy chung son sắt trước sau như một, thậm chí dám đánh đổi tất cả
để mong có một cuộc sống tốt đẹp hơn cho chồng cho con, dù sự hi sinh của họ
đôi khi không thể giúp họ có đươc một hạnh phúc trọn vẹn.
2.3.3. Sự đấu tranh để vươn tới những giá trị đích thực của tình yêu, cuộc
sống
Cuộc sống của con người muôn màu đa dạng, cũng có lúc không tránh
khỏi bị đè nặng bởi những đau khổ do tội lỗi và những điều xấu người
khác hoặc chính bản thân mình gây ra. Chúng ta không tránh khỏi có
những thời gian sống vơi đi niềm tin vào con người và cuộc đời, bi quan về
tương lai, số phận...Thế nhưng, bất chấp những cái xấu, cái ác luôn tồn tại trong
cuộc sống, con người chúng ta vẫn luôn có một khuynh hướng, một khát vọng
vươn tới những điều cao cả hơn so với cuộc sống hiện tại. Đời người phải là
một quá trình nỗ lực vươn lên không ngừng để tìm được những giá trị tình yêu
giá trị cuộc sống đích thực. Đó là sự đấu tranh với cái xấu tồn tại xung quanh
và cả cái xấu ngay trong chính mình để tìm được giá trị cao đẹp của cuộc sống.
Giá trị đích thực của tình yêu và hạnh phúc cuộc đời không tự nhiên đến, đó
không phải là một ân sủng mà một số phận có thể ban phát mà phụ thuộc vào
chính bản thân mỗi người. Người ta không trở nên hạnh phúc trong một đêm
mà phải trả giá bằng sự lao động cần mẫn, vươn lên ngày này qua ngày khác.
Mọi giá trị của cuộc sống để có được đòi hỏi phải có sự vươn lên sự đấu tranh
55
với những cái xấu xa dung tục tầm thường. Giá trị Chân -Thiện -Mỹ luôn là
một tiêu chuẩn tốt đẹp, cao quý và thánh thiện mà xã hội văn minh luôn đề cao
và ca ngợi. Nó được xem như “bộ luật tối cao của loài người”, là nền tảng lý
luận cơ bản nhất của cuộc sống con người và vươn tới,là phương châm chỉ đạo
cần phải có trong mọi hoạt động của con người. Trần Đức Thảo trong Một hành
trình (Paris 1992) viết: “Khi tự vấn mình, ý thức đòi hỏi cái Thiện trong hành
động, cái Chân trong tri thức, và cái Mỹ trong sự hoàn thành các quá trình
nghiệm sinh Văn phòng làm việc, qua đó ý thức biến thế giới tự nhiên thành
một nhân giới, xứng đáng với con người.” Như vậy những con người luôn có
ý thức đấu tranh với sự tầm thường để vươn tới những giá trị đích thực của của
cuộc sống là những con người có phẩm chất tâm hồn rất đáng quý. Có thể thấy
điều đó ở nhiều nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu
Quang Vũ.
Cô Lụa trong vở kịch Lời nói dối cuối cùng là một cô gái minh chứng
cho sự đấu tranh không khoan nhượng với những điều dối trá trong cuộc
sống.
Như bao cô gái bước vào tuổi cập kê, cô cũng từng có sự rung động trước
những lời nói chân thành và tiếng sáo của Cuội. Lúc đó cho dù Cuội núp dưới
bóng công tử Lãn nhưng những lời nói đó đều là lời từ tận đáy lòng nên đã lấy
được cảm tình từ cô Lụa. Tuy có dành tình cảm cho Cuội, nhưng cô Lụa vẫn
kiên quyết đấu tranh với sự dối trá của Cuội. Tuy Cuội bằng sự tinh quái, tài
nói dối đã cứu cô Lụa ra khỏi cuộc hôn nhân không mong muốn, nhưng Lụa
không vì thế mà chấp nhận những việc Cuội làm Cô kiên quyết không nhận sự
giúp đỡ của Cuội dù có phải chấp nhận một mình thân gái giữa nơi phường
phố xa lạ.
Sự đấu tranh mạnh mẽ của Lụa thể hiện rõ nét nhất ở phần cuối tác phẩm,
khi mà cô chủ động đến gặp Cuội nói hết nỗi lòng mình và quyết định từ bỏ
56
Cuội cùng những rắc rối do Cuội gây ra. Từ bỏ chức quan triều đình và cuộc
sống nhung lụa, cô không chấp nhận sống giả dối trong một cái vỏ bọc và hình
hài không phải của chính mình. Trong suốt tác phẩm, người đọc nhận thấy ở
Lụa không chỉ ở vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, mà còn khâm phục ở cô tính cách
ngay thẳng, luôn đấu tranh với những điều giả dối để tìm đến những giá trị chân
thực của cuộc sống. Đó là bài học nhân sinh sâu sắc: Sự trung thực và lòng tốt
của con người phải được xây dựng trên cơ sở của chữ “chân”, chứ không thể
dùng sự xảo biện, dối trá để đạt được những mục đích tốt đẹp.
Chính sự trong sáng, lương thiện và lòng trung thực của Lụa đã cảm hóa
Cuội khiến Cuội nhận ra mọi sai lầm của mình, từ bỏ cuộc sống nhung lụa, vinh
hoa phú quý, cố gắng thay đổi con người mình để sống một cuộc sống “không
cần đến những điều dối trá”. Rõ ràng trong hoàn cảnh này chữ Chân tỏa sáng
từ tâm hồn cô Lụa đã hướng con người đến chữ Thiện – cả hai đều là giá trị cao
đẹp trong đời sống con người.
Những giá trị Chân- Thiện - Mỹ luôn là đích hướng đến của con người
trong mỗi thời đại. Trong đó, con người sống với nhau không chỉ cần chân thực,
trung thực với nhau mà hơn hết cần phẩm chất lương thiện, tình yêu thương
con người và vạn vật. Nhân chi sơ tính bản thiện là đạo lí mở đầu trong cuốn
Tam Tự Kinh của Khổng Tử . Câu này có ý nghĩa là: Con người sinh ra bản
tính ban đầu vốn thiện và tốt lành, khi lớn lên, do ảnh hưởng của đời sống xã
hội mà tính tình trở nên thay đổi, tính ác có thể phát sinh, do đó cần phải luôn
được giáo dục, giữ gìn và rèn luyện cho đời sống lành mạnh thì tính lành mới
giữ được và phát triển, để tính dữ không có điều kiện nảy sinh. Như vậy phẩm
chất lương thiện là phẩm chất cô cùng đáng quý của con người, là cái con người
khi sinh ra đã có, và suốt đời phải đấu tranh để gìn giữ và phát triển nó. Và trên
thực tế lương thiện mới có hạnh phúc, lương thiện mới có thể chung sống với
nhau hòa bình vui vẻ, lương thiện mới có thể thoát khỏi cuộc tranh chấp không
57
có điểm dừng và tự hao phí sức lực, lương thiện mới có thể đạt được sức khỏe
lương thiện mới có thể làm thiên hạ thái bình, khắp nơi an vui. Trong vườn hoa
của cuộc đời, mỗi một hạt giống thiện niệm, đều một lòng vì người khác mà nở
ra quả chín ấm áp, không ai không cần lương thiện, cũng không ai không bị
lương thiện cảm hóa. Nhân vật Thảo trong Ông vua hóa hổ là một cô gái tỏa
sáng lòng nhân từ lương thiện. Máu của cô đã cảm hóa linh hồn và thể xác hổ
dữ trong Từ Đạo Hạnh. Nếu Đạo Hạnh sắt thép, dùng bạo lực để trị vì và thu
phục lòng người thì Thảo lại sống nhân ái lương thiện. Trở thành hoàng hậu
bên Từ Đạo Hạnh, Thảo không đồng tình, không tán thành sự hà khắc, trị nước
bằng hình phạt nhiều hơn nhân nghĩa của Đạo Hạnh:
- Thảo: Nhưng thưa đức vua, bây giờ người đâu còn ngồi trên mình ngựa
đánh dẹp. Để non sông muôn thủa thái bình, giờ là lúc không thể chỉ
dùng gươm mà phải bằng nhân nghĩa lớn. Càng lên ngôi cao lòng nhân
càng phải lớn…”
Không can tâm nhìn thấy chồng đang bị linh hồn và thể xác hổ dữ chế
ngự, Thảo đã quyết tâm lặn lội đường xa nguy khó để tìm phương thuốc lành
chữa bệnh cho Đạo Hạnh. Thậm chí nàng nguyện sẵn sàng đánh đổi mạng sống
của mình để cứu chồng: “Dù thân này phải chết, để chàng được làm người, để
ngọn cỏ trong vườn xanh trở lại…”
Kết thúc câu chuyện, Thảo đã hi sinh thân mình, lấy máu của mình để
cứu được Từ Đạo Hạnh trở lại làm người. Sự đấu tranh, nỗ lực của Thảo đã
được đền đáp, cứu được nhà vua Đạo Hạnh trở lại làm người. Trước khi nhắm
mắt, Thảo vẫn dặn dò Đạo Hạnh cùng các con hãy sống bằng lòng nhân ái,
hướng thiện: “Con của mẹ, các con sẽ lớn lên trên đời, hãy nhớ: Không dung
tha kẻ ác, nhưng hãy lấy yêu thương làm gốc rễ cuộc đời. Càng có sức mạnh,
càng ở ngôi cao, lòng nhân ái càng phải lớn…”. “Hãy lấy yêu thương làm gốc
58
rễ cuộc đời” cũng là thông điệp mà vở kịch muốn gửi đến người đọc – Đó là
giá trị cao đẹp giữa con người với con người ở mọi thời đại.
Các giá trị Chân ,Thiện, Mỹ - “bộ luật tối cao của loài người” được thể
hiện rất rõ nét trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ.
Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”,
nhân vật hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, người thân trong
gia đình và tự chán ghét chính mình. Hồn Trương Ba cảm thấy cuộc sống thật
bức bối trong “da” anh hàng thịt. Hồn muốn tách ra khỏi cái thân xác kềnh
càng, thô lỗ. Trong tình trạng ấy, nhà văn đã sáng tạo khi dựng lên đoạn đối
thoại giữa hồn và xác để rồi trước sự giễu cợt, mỉa mai của xác anh hàng thịt,
hồn Trương Ba càng trở nên đau khổ, bế tắc. Đặc biệt nhân tố đẩy Trương Ba
đến đỉnh điểm của bi kịch để buộc phải tìm lối thoát cho mình, đó chính là thái
độ và sự đau khổ những của người thân trong gia đình. Đó là những người thân
của ông: vợ, cái Gái và chị con dâu. Cho dù họ rất mực yêu thương Trương Ba
nhưng họ vẫn không thể giấu nổi nỗi đau khổ và không thể chấp nhận sự khập
khiễng của con người bên ngoài một đằng bên trong một nẻo. Vợ Trương Ba
buồn bã nhận ra rằng “ ông đâu còn là ông, đâu còn là Trương Ba làm vườn
ngày xưa”. Bà đau khổ chán nản, dứt áo đòi ra đi, với bà “đi đâu cũng được
còn hơn là như thế này”. Trương Ba yêu thương vợ thế nhưng khi nhập hồn
vào xác anh hàng thịt thì thân xác ấy lại cứ đưa ông về bên người vợ của anh
hàng thịt. Bà không chịu nổi cảnh người vợ hàng thịt hàng ngày sang đòi chồng.
Và hơn thế bà thì đã có tuổi, Trương Ba lại nhập vào xác một người trẻ tuổi, sự
khập khiễng này khiến cho bà cảm thấy thật khó xử. Chính vì thế mà vợ Trương
ba quyết ra đi để nhường ông lại cho vợ của anh hàng thịt. Cái Gái cũng một
mực không nhận đấy là ông nội mình, đứa cháu ấy khẳng định ông nội mình đã
chết, ông nội mình không thể có một “ bàn tay giết lợn”, một “bàn chân to như
cái xẻng” làm gãy tiệt cái chồi non, hay làm hỏng cái diều của cu Tý làm cho
nó dù đang ốm vẫn khóc lóc đòi bắt đền. Nó phản ứng gay gắt, quyết liệt, xua
59
đuổi, kiên quyết không chấp nhận ông với thân xác hiện tại. Chỉ có người con
dâu là người hiểu biết, chín chắn nhất là hiểu được tâm trạng, nỗi khổ của bố
chồng mình. Tuy vậy, chị vẫn không khỏi hoảng hốt, sợ hãi khi thấy bố chồng
mình ngày càng thay đổi, chị đã thốt lên rằng: “ …con sợ lắm bởi con cảm thấy
đau đớn, thấy mỗi ngày thầy một đổi dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc,
nhòa mờ dần đi…”. Trước tình cảnh và thái độ của những người thân, Trương
Ba nhận ra mình thực sự đã rơi vào bi kịch lớn, và không thể tiếp tục bi kịch
này thêm nữa. Cuối cùng Trương Ba đã quyết định chấp nhận cái chết thật sự
với thân xác của mình, trả lại thân xác cho anh hàng thịt. Kết thúc câu chuyện
Trương Ba chết nhưng hồn của Trương Ba thì vẫn ở đâu đó trong ngọn gió.
Người thân của ông khi ấy biết là ông đã về, mọi người lại yêu mến ông như
ngày nào. Từ bi kịch của Trương Ba, sự đấu tranh của những người thân và sự
ngộ ra của chính nhận vật Trương Ba đã đem lại cho vở kịch ý nghĩa triết lí
nhân sinh sâu sắc: Mỗi một người khi được sinh ra trong đời đều được tạo hóa
ban cho thể xác và linh hồn riêng. Thể xác và linh hồn là hai phần tuy khác
nhau nhưng hợp nhất với nhau và cùng nhau tồn tại hình thành nên con người.
Vì vậy hãy sống là chính mình, đừng bao giờ lừa dối bản thân hay người khác,
cũng đừng sống chia đôi mình ra để rồi lời nói, hành động không khớp với
nhau. Hãy là một cái tôi toàn vẹn. Không nên sống nhờ vả vào người khác. Bởi
tạo hoá sinh ra chúng ta, cuộc sống này là của chúng ta, vì vậy phải do chính ta
quyết định. Cuộc sống con người thật quý giá, nhưng được sống đúng là mình,
sống trọn vẹn những giá trị mình muốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Con
người phải luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân,
chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh
thần cao quý. Trương Ba và những người thân của ông đã luôn đấu tranh để
vươn tới những giá trị chân thực và cao cả của cuộc sống. “Tác phẩm chân
chính ko chấm dứt ở trang cuối cùng", vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt
60
khép lại nhưng triết lí sống thấm đẫm giá trị nhân văn, ngời sáng nhân cách cao
đẹp của con người sẽ mãi mãi lưu giữ trong lòng độc giả .
Qua những vở kịch khai thác từ truyện dân gian, nhà viết kịch Lưu Quang
Vũ đã cho người đọc thấy rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn khi có những đóng
góp của người phụ nữ - những người làm nên một nửa thế giới. Vì thế trong tác
phẩm của mình tác giả không chỉ thể hiện sự thấu hiểu, cảm thông chia sẻ với
những đớn đau bất hạnh ngang trái trong cuộc đời nhân vật mà còn thể hiện
niềm tin, sự khẳng định những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn người phụ nữ.
Trong hoàn cảnh nào, ở thời đại nào, vẻ đẹp tâm hồn của những người phụ nữ
Việt Nam cũng rất đáng được trân trọng, ngợi ca
Tiểu kết chương 2
Trong chương 2 chúng tôi tập trung làm rõ loại hình nhân vật nữ trong
mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ với những đặc điểm
sau:
1. Những nhận vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu
Quang Vũ phần lớn là những cô gái đã tìm được tình yêu. Tuy nhiên tình yêu
đem đến cho họ sự ngọt ngào nhưng cũng nhiều éo le, trắc trở. Qua việc thể
hiện bi kịch tình yêu của nhân vật nữ trong mảng kịch này, Lưu Quang Vũ đã
thể hiện cảm nhận sâu sắc và cảm thông chia sẻ về sự bất hạnh ngang trái trong
tình yêu của người phụ nữ.
2. Nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ
phần lớn là những nhân vật bi kịch. Cho dù được yêu thương, tìm được tình
yêu đích thực và có lúc những tưởng hạnh phúc đã đến với họ nhưng những
biến cố cuộc đời lại không buông tha cho họ. Những biến cố ấy khiến số phận
họ thay đổi, thậm chí có nhân vật phải đối diện với cái chết, sự ra đi mãi mãi.
61
3. Tuy nhiên điều khiến người đọc trân trọng mến yêu họ đó là trong khó khăn
hay giông bão cuộc đời họ vẫn tỏa sáng tâm hồn cao đẹp. Họ là những người
có tâm hồn trong sáng, lương thiện, trung thực. Trong tình yêu, họ là những
người phụ nữ sắt son chung thủy và giàu đức hi sinh. Họ luôn đấu tranh để
vươn tới những giá trị đích thực của tình yêu, cuộc sống để hoàn thiện nhân
cách và sống đúng với những giá trị bản thân. Đó là một trong những giá trị
nhân văn chiều sâu của kịch Lưu Quang Vũ nói chung và kịch khai thác truyện
dân gian của Lưu Quang Vũ nói riêng.
CHƯƠNG 3
NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH
KHAI THÁC TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ
Nhân vật văn học là con đẻ tinh thần của người nghệ sĩ và là thành tố đặc
biệt quan trọng của mọi tác phẩm văn chương. Nhân vật với tư cách là một hình
tượng nghệ thuật là yếu tố trung tâm nhất của một tác phẩm ngôn từ. Xây dựng
nhân vật trong một tác phẩm văn học chính là việc miêu tả con người của nhà
văn. Văn học không thể thiếu nhân vật bởi nó chính là phương tiện để nhà văn
thể hiện nọi dung tư tưởng của mình. Nhân vật chính là người dẫn dắt người
đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kì lịch sử nhất định.
B.Brech nhận xét rằng: “Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản
đơn là những bản dập của con người sống mà là những hình tượng được khắc
họa phù hợp với ý đồ tác giả”. Đó là phương diện quyết định phần lớn đến cốt
truyện, đến sự lựa chọn chi tiết, phương tiện ngôn ngữ và thậm chí là kết cấu
tác phẩm.
62
Điều góp phần không nhỏ làm nên thành công của các vở kịch Lưu Quang
Vũ nói chung và mảng kịch khai thác truyện dân gian nói riêng, đó là nghệ
thuật xây dựng nhân vật kịch. Tác giả Ngô Thảo đã từng nhận xét: “Có thể thấy
một biệt tài của Lưu Quang Vũ là xây dựng những nhân vật phụ có tính cách
có cá tính và rất sống”[23,tr.147]. Điều ấy cho thấy với Lưu Quang Vũ nhân
vật là một vấn đề được dụng công và chăm chút kĩ lưỡng. Nhân vật trong kịch
khác với nhân vật truyện vì dễ rơi vào một cảm giác giả, “kịch”, thiếu sống
động vì phải chuyển tải những tư tưởng nghệ thuật một cách khô cứng. Nhưng
nhân vật trong kịch của Lưu Quang Vũ lại tránh được điều này. Đặc biệt thế
giới nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của ông hiện lên
vừa thật chân thực vừa sinh động, phong phú. Có thể nhận thấy những đặc sắc
trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở mảng kịch này đó là nghệ thuật khắc họa
nhân vật thông qua xung đột kịch, qua hành động kịch và qua ngôn ngữ. Ba nét
đặc sắc nghệ thuật này giúp cho nhân vật nữ trong kịch của ông hiện lên sống
động, như bước ra từ cuộc đời, vừa truyền tải được những ý nghĩa, thông điệp
nhà văn muốn gửi gắm. Đúng như G.S Phan Ngọc đã nhận xét “có một kịch
pháp Lưu Quang Vũ”[23, tr.149].
3.1. Khắc họa nhân vật thông qua xung đột kịch
Pha-đê-ép cho rằng “xung đột là cơ sở của kịch”. Điều đó cho thấy đặc
trưng tiêu biểu của kịch là tạo dựng các xung đột kịch. Xung đột kịch chính là
hình thức hiện thực khách quan thông qua các mâu thuẫn. Những vấn đề của
đời sống được cô đọng, trưng cất ở các xung đột mà qua đó nhân vật tự thể hiện
rõ nhất tính cách, tâm hồn mình, chuyển tải được tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Một vở kịch hấp dẫn là một vở kịch có xung đột ngày càng phát triển gay gắt
thể hiện sự đấu tranh giữa các khuynh hướng, giữa các nhân vật, hoặc bên trong
một nhân vật, được giải quyết một cách hợp lí thể hiện rõ tư tưởng chủ đề của
tác phẩm.
63
Xung đột kịch thường xảy ra ở ba hình thức:
Một là, xung đột xuất phát từ những nguyên nhân ở ngoài con người như
bệnh tật, thiên tai.
Hai là, xung đột giữa con người và quyền lợi hay với những quan hệ
mang tính ràng buộc như gia đình, tình bạn, tình yêu, đạo đức, phẩm giá, giai
cấp, tổ quốc.
Ba là, xung đột trong nội tâm, những xung đột lý tưởng xuất phát từ đấu
tranh nội tâm của bản thân nhân vật.
Kịch của Lưu Quang Vũ thường xảy ra ở hai hình thức xung đột chính,
đó là xung đột giữa con người với quyền lợi, với quan hệ mang tính ràng buộc
như gia đình, tình bạn, tình yêu, đạo đức, phẩm giá, giai cấp và xung đột nội
tâm. Ở các vở kịch của ông, con người thường xuất hiện với vai trò là chủ thể
cuộc sống cùng những đòi hỏi về quyền sống tốt đẹp hơn, quyền được yêu,
quyền được hạnh phúc và mong muốn vươn tới những giá trị cuộc sống cao
đẹp hơn.
Từ sự phân loại trên, có thể xếp các vở kịch khai thác truyện dân gian
của Lưu Quang Vũ vào các hình thức xung đột như sau:
+ Xung đột giữa cái tốt và cái xấu hay thiện và ác như vở: Hồn Trương
Ba, da hàng thịt, Lời nói dối cuối cùng, Ông vua hóa hổ
+ Xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh như vở: Linh hồn của đá.
Cùng trong những xung đột đó thì con người – nhân vật nữ trong kịch
của ông được thể hiện rõ nét, đầy đủ tính cách và phẩm chất. Dù xấu hay tốt họ
luôn trăn trở đấu tranh để bảo vệ chân lí, hoàn thiện mình, giữ gìn phẩm giá tốt
đẹp của mình.
64
Trước hết ở hình thức xung đột giữa cái tốt và cái xấu hay cái thiện và
cái ác, có thể thấy rõ nét ở 3 vở kịch: Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lời nói dối
cuối cùng và Ông vua hóa hổ.
Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt tác giả Lưu Quang Vũ rất
khéo léo xây dựng các xung đột lồng ghép, xung đột này là cơ sở để nảy sinh
và đưa đẩy xung đột khác đẩy nó đến cao trào, khiến cho vở kịch biến hóa, linh
hoạt và giàu kịch tính. Truyện có các xung đột: Có xung đột của hồn và xác
(xung đột trong nội tâm nhân vật Trương Ba), có xung đột giữa cái tốt và cái
xấu (giữa vợ Trương Ba, chị con dâu và cái Gái với Trương Ba trong hình hài
xác hàng thịt)… Trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi chỉ bàn đến hình thức tổ
chức xung đột giữa cái tốt và cái xấu để nhân vật nữ trong truyện thể hiện rõ
tính cách cũng như phẩm chất của mình.
Khi Trương Ba mang thân xác anh hàng thịt đã gây ra rất nhiều rắc rối
cho chính Trương Ba và những người thân của ông. Hồn Trương Ba cao khiết
đã có sự đấu tranh quyết liệt với xác anh hàng thịt phàm phu tục tử. Qua màn
đối thoại này, Trương Ba đã đuối lí, đành chấp trở lại thân xác hàng thịt. Tuy
nhiên, điều khiến Trương Ba ý thức rõ hơn bi kịch mình đang vướng phải chính
là thái độ của những người thân với ông. Ở đây tác giả Lưu Quang Vũ đã xây
dựng xung đột mạnh mẽ quyết liệt của những người thân của Trương Ba với
con người Trương Ba hiện tại. Trước con người mang tên hồn Trương Ba, da
hàng thịt, với những biểu hiện bên ngoài thay đổi, họ phản ứng rất mạnh mẽ và
cảm thấy không thể chấp nhận được điều này. Cái xác hàng thịt đó đã làm thay
đổi con người của Trương Ba, làm cho hồn Trương Ba giờ đây không còn là
của Trương Ba trước kia nữa. Mang xác hàng thịt, hồn Trương Ba trở nên thô
vụng hơn (làm gãy cây trong vườn, gãy diều của cu Tị,...); hung hãn, bạo lực:
tát thằng con trai tóe máu mồm máu mũi, thậm chí run rẩy rung động trước vợ
người hàng thịt…. Vợ Trương Ba buồn bã nói:"ông đâu còn là ông, đâu còn là
65
ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”[21,tr.411], thậm chí bà muốn bỏ đi để
"ông được thảnh thơi... với cô vợ người hàng thịt"[21,tr.411]. Cái Gái phản ứng
mạnh mẽ, không nhận ông vì "ông nội đời nào thô lỗ phũ phàng như vậy", nó
phủ nhận: “Ông nội tôi chết rồi. Nếu ông nội tôi hiện về được sẽ bóp cổ ông”
[21,tr.412] Nó còn rủa ông và xua đuổi: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ
tể, cút đi!" [21,tr.413]. Ngay cả chị con dâu, người thông cảm với hồn Trương
Ba hơn cả, cũng thấy lo lắng khi bố chồng "mỗi ngày một đổi khác dần, mất
mát dần"[21,tr.415]. Đây chính là điều đau đớn nhất của hồn Trương Ba, khiến
cho bi kịch của Trương Ba lớn hơn, làm mâu thuẫn đẩy tới cao trào.
Qua ba lượt đối thoại: đối thoại với vợ, Hồn Trương Ba đau khổ đến độ
thẫn thờ, đối thoại với cháu gái, đau khổ khổ đến độ run rẩy và đối thoại với
người con dâu, Hồn Trương Ba đau khổ lặng ngắt như tảng đá. Lưu Quang Vũ
rất tài khi diễn tả nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba ở mỗi đối tượng một khác.
Đó là bi kịch của Hồn Trương Ba càng bị đẩy lên tới đỉnh điểm. Những người
thân thiết nhất cũng không chấp nhận nổi tình trạng hai mảnh hồn, người bất
nhất của chồng, cha, ông mình. Họ kiên quyết đấu tranh không thể chấp nhận
những biểu hiện xấu xa trong con người Trương Ba. Xung đột kịch đến đây trở
thành xung đột giữa cái tốt và cái xấu, các nhân vật nữ trong truyện qua xung
đột này đã thể hiện rõ nét tính cách của mình. Họ đấu tranh và không chấp nhận
những điều xấu xa dung tục mà Trương Ba đang có. Xung đột này đã được đẩy
đến cao trào, và bắt buộc Trương Ba phải có sự lựa chọn để thoát khỏi bi kịch
của chính mình: trở về thân xác của mình, chấp nhận cái chết và trả lại thân xác
cho anh hàng thịt. Như vậy qua việc xây dựng mâu thuẫn đến xung đột kịch,
nhà văn đã để không chỉ Trương Ba mà các nhân vật nữ được bộc lộ tính cách
hành động của mình. Từ đó thể hiện ý nghĩa tư tưởng của truyện: cuộc sống
cần vươn đến sự hài hoà giữa thể xác và tinh thần, con người cần phải biết đấu
66
tranh chống lại nghịch cảnh, với chính bản thân mình, chống lại sự dung tục để
hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
Là một nhà viết kịch giàu tâm huyết, Lưu Quang Vũ tin vào cái Thiện và
luôn luôn kêu gọi lòng tốt. Có thể thấy ông sử dụng lòng tốt như một động lực
của kịch, tức là lòng tốt là yếu tố để mở những nút thắt. Điều này được thể hiện
rất rõ trong Lời nói dối cuối cùng. Dựa trên những truyện có tính chất dân gian
đã từ lâu đời như truyên thằng Cuội, thằng Bờm và cả những bài đồng dao, Lưu
Quang Vũ đã xây dựng nên vở kịch vui này để lý giải về cái xấu và cái tốt, cụ
thể là sự dối trá và lòng trung thực. Xuất phát từ tình yêu đối với Lụa, Cuội đã
dùng trí thông minh của mình để cứu Lụa và trả thù bọn tham quan ô lại. Cuội
đã lầm tưởng rằng con người ta chỉ cần sống giàu sang đầy đủ ắt là sung sướng.
Những việc làm tốt bụng của Cuội đối với mọi người lúc đầu tưởng là tốt đẹp,
nhưng về sau chính Cuội lại phải hứng chịu hậu quả. Lụa là cô gái có tâm hồn
trong trắng, ngay thẳng, cô kiên quyết đấu tranh và một mực không chấp nhận
những điều dối trá Cuội làm, mặc dù đích đến của những hành động đó là tốt
đẹp. Khi nhận ra Cuội với những trò bịp bợm giả dối, Lụa kiên quyết không
nhận sự giúp đỡ của Cuội bởi cô là người ngay thẳng không chấp nhận những
lời dối trá, dù có phải chấp nhận một mình thân gái giữa nơi phường phố xa lạ.
Đỉnh điểm của những chuyện rắc rối của Cuội gây ra, Lụa phải lưu lạc lên kinh
kì và bất đắc dĩ trở thành mệnh quan triều đình với danh xưng Nam trang tài
nhân. Lụa không chấp nhận sống giả dối trong một cái vỏ bọc và hình hài không
phải của chính mình. Cuối cùng cô đã bộc bạch hết nỗi lòng mình và quyết định
rời bỏ Cuội, gỡ mình ra khỏi câu chuyện dối trá của Cuội. Xung đột của vở kịch
là xung đột quyết liệt của cái tốt với cái xấu, để qua đó các nhân vật bộc lộ rõ
nét tính cách và phẩm chất của mình. Nhân vật cô Lụa qua đó được nhà văn
gửi gắm tư tưởng của mình: Đấu tranh không khoan nhượng cho sự chân thật
trong cuộc sống, mọi ý định dù tốt đẹp nhưng được xây dựng trên sự giả dối
67
cũng không đem lại hạnh phúc mà phải xây dựng dựa trên lòng tin và sự chân
thực.
Xung đột kịch trong vở Ông vua hóa hổ không chỉ là xung đột giữa cái
tốt và cái xấu mà còn tồn tại xung đột giữa thiện - ác rất rõ nét. Hình ảnh Từ
Đạo Hạnh sau khi trở thành vua với sự cai trị hà khắc, bạo tàn, trị nước bằng
hình phạt nhiều hơn nhân nghĩa đã đi ngược lại với quyền lợi nhân dân và đạo
lí tình thương cần có của con người. Chất hổ dữ đã lấn chiếm và chế ngự Đạo
Hạnh đúng như lời nguyền năm xưa trong rừng sâu. Cũng thông qua xung đột
này, nhân vật nữ chính trong vở diễn đã được thể hiện rõ nét phẩm chất của
mình. Không can tâm nhìn thấy chồng đang bị linh hồn và thể xác hổ dữ chế
ngự, Thảo đã quyết tâm lặn lội đường xa nguy khó để tìm phương thuốc lành
chữa bệnh cho Đạo Hạnh. Thậm chí nàng nguyện sẵn sàng đánh đổi mạng sống
của mình để cứu chồng. Kết thúc câu chuyện, xung đột được giải quyết, Thảo
đã hi sinh thân mình, lấy máu của mình để cứu được Từ Đạo Hạnh trở lại làm
người. Mượn tích dân gian, xây dựng xung đột đầy kịch tính tác giả đã thông
qua Ông vua hoá hổ đặt ra lại là chuyện không bao giờ cũ, đó là: Tình yêu, sự
thù hận bạo tàn, sự thỏa hiệp trước cái xấu để đạt mục đích cá nhân, chất “hổ”
trong từng con người. Dù có bao nhiêu hoài bão, khát vọng cháy bỏng, nhưng
nếu cá nhân đó (hay dân tộc đó) vay mượn sức mạnh để đạt được tham vọng,
sẽ đánh mất bản ngã (tính nhân văn) cũng là đánh mất chính mình, trở thành
thú tính. Sức mạnh của con người (hay sức mạnh của một triều đại) chỉ có được
bằng chính sức mạnh của bản thân mỗi người (hay mỗi dân tộc). Sức mạnh ấy
chính là cái thật, là bản ngã, là sự nỗ lực thể hiện của mỗi cá nhân, mỗi dân tộc,
không thể vay mượn. Chỉ có tình yêu thương và sống thật với chính mình mới
là gốc rễ cuộc đời.
Loại xung đột thứ hai là xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh có thể thấy
qua vở kịch Linh hồn của đá. Bi kịch tình yêu của Thanh và Vịnh đã lấy đi
68
nước mắt người đọc người xem, đồng thời đậm tô và khắc sâu vẻ đẹp của tình
yêu chung thủy sắt son của người phụ nữ. Xung đột kịch được đẩy đến cao trào
khi Vịnh tình cờ biết được người vợ mà mình vô cùng yêu quý lại chính là
người em gái ruột đã thất lạc bao nhiêu năm. Bi kịch giằng xé trong tâm hồn
khiến Vịnh đau đớn đến mức không thể chịu nổi. Quyết chôn chặt bí mật để
không làm Thanh phải gục ngã và đau đớn, Vịnh đã bỏ đi khỏi xóm Đá không
một lời từ biệt. Hoàn cảnh nghiệt ngã đẩy mỗi nhân vật vào bi kịch riêng. Nhưng
trong hoàn cảnh bi kịch ấy nhân vật của Lưu Quang Vũ đã được thể hiện phẩm
giá một cách rõ rệt. Thanh là người vợ tỏa sáng tình yêu chung thủy. Ngày
ngày, mẹ con Thanh đều ra bến đứng chờ mòn mỏi, mong một ngày chồng sẽ
trở về với tình yêu bền bỉ không phai mờ. Sự chờ đợi đến tuyệt vọng, hai mẹ
con Thanh hóa thành tượng đá. Bi kịch tình yêu của Thanh và câu chuyện
Thanh ôm con chờ chồng hóa đá mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Hình ảnh mẹ
bồng con đó đã biểu tượng cho đức tính thủy chung cao đẹp của người phụ nữ
Việt, hi sinh chịu đựng, một đời tận tụy, lo âu khổ cực trăm chiều vì chồng con.
Cuộc sống không chỉ có duy nhất một xung đột mà nó vốn chứa đựng rất
nhiều xung đột phức tạp. Kịch của Lưu Quang Vũ theo sát cuộc sống nên có
khi nhà văn miêu tả nhiều xung đột trong một kịch bản, cùng lúc có thể tồn tại
bên cạnh xung đột chính là xung đột phụ. Vì thế câu chuyện kịch không đơn
giản, nhiều xung đột chồng chéo, người xem được quan sát một mảng hiện thực
phức tạp, bộn bề. Nhưng điều dễ dàng nhận thấy đó là thông qua việc tạo dựng
xung đột đầy kịch tính, nhà văn đã để nhân vật của mình, trong số đó các nhân
vật nữ được bộc lộ rõ nét tính cách và vẻ đẹp tâm hồn mình.
3.2. Khắc họa nhân vật thông qua hành động kịch
Arixtôt từng quan niệm: “Kịch là hành động”. Kịch phản ánh cuộc sống
một cách cụ thể và trực tiếp qua hành động của nhân vật. Hành động là phương
thức thể hiện chủ yếu của kịch. Nhà viết kịch tư duy bằng hành động, tìm cách
69
sắp xếp trình tự các hành động kịch sao cho dễ hiểu và hợp lý. Ăng-ghen trong
thư gửi cho Minna Kaoxka có viết: “Khuynh hướng tư tưởng phải tự toát ra từ
tình huống và hành động, chứ không phải do tác giả nói toạc ra”[13,tr.44]. Tổ
chức hành động kịch là tổ chức những hình thức, những lớp đối thoại giữa các
nhân vật nhằm xây dựng tính cách nhân vật, miêu tả mâu thuẫn, giải quyết xung
đột, qua đó gửi gắm tư tưởng – tình cảm của tác giả.
Do đặc trưng thể loại, khi xem một nhân vật kịch, người ta thường lưu ý
đến hai mặt hành động bên ngoài và hành động bên trong của nhân vật đó. Hành
động bên trong được bộc lộ kín đáo qua hành động bên ngoài, qua lời nói, cử
chỉ, việc làm của nhân vật. Đồng thời khi quan sát những hành động bên ngoài,
người xem hiểu được những suy nghĩ, tính toán, cân nhắc, đấu tranh tư tưởng
kín đáo ở bên trong tâm hồn nhân vật. Điều hiển nhiên là hành động bên ngoài
và hành động bên trong của nhân vật luôn có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, phức
tạp và đa dạng. Có nhân vật thì suy nghĩ và hành động thống nhất với nhau, lại
có những nhân vật nghĩ một đằng làm một nẻo, tự mâu thuẫn với chính mình.
Đặt cá nhân con người vào trung tâm quan sát và thể hiện, nhà văn đã từ số
phận, tính cách, đường đời của họ mà soi chiếu trở lại lịch sử và xã hội để từ
đấy khơi mở những vấn đề triết lý nhân sinh.
Nhìn chung, trong mảng kịch khai thác truyện dân gian, để góp phần xây
dựng nhân vật nữ, Lưu Quang Vũ luôn triển khai tổ chức hành động kịch dựa
trên chất liệu hiện thực, lấy sự đa dạng của cuộc sống đời thường làm nền. Tác
giả chú ý lựa chọn kiểu kết cấu hành động kịch chặt chẽ, phù hợp, dẫn dắt hành
động kịch thống nhất tạo nên giá trị thẩm mỹ cho những kịch bản được sự đón
nhận nồng nhiệt từ phía khán giả. Thông qua hành động kịch, người xem hiểu
được nhân vật, từ đó hiểu được quan niệm của nhà viết kịch về con người, về
tình yêu, về hạnh phúc, về lẽ sống làm người.
70
Có thể thấy trước tiên ở nghệ thuật xây dựng kịch Lưu Quang Vũ việc
xây dựng hành động kịch hợp logic. Hành động từng lúc của nhân vật tương
ứng với những nhiệm vụ từng lúc mà nhân vật phải giải quyết. Hành động kịch
gắn với các mâu thuẫn xã hội và tính cách, thể hiện thành các hành động, biến
cố của nhân vật, tạo thành cơ sở của cốt truyện kịch. Trong Hồn Trương Ba, da
hàng thịt, Lưu Quang Vũ đã tạo được hành động kịch tập trung, logic, có sự
phối hợp nhịp nhàng giữa hành động bên ngoài và hành động bên trong. Hành
động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, thể hiện được sự phát triển
của tình huống kịch. Chẳng hạn như bà vợ Trương Ba là người phụ nữ hiền
lành, chất phác nhưng cũng dám cầm liềm lên Thiên đình đòi lại công bằng vì
chồng mình vô cớ mà chết. Dù tin tưởng chồng nhưng trước sự thay đổi của
Trương Ba thì bà dần thất vọng, khóc lóc và còn muốn bỏ đi thật xa. Chị con
dâu luôn thấu hiểu, thông cảm cho ba chồng nhưng cũng thốt ra tự đáy lòng sự
lo lắng khi nhận ra sự mất mát, lệch lạc, mờ dần của người ba chồng đáng kính.
Đặc biệt là cái Gái, trước đây yêu quý, thân thiết với ông nội bao nhiêu thì bây
giờ lại tỏ ra căm ghét, xua đuổi bấy nhiêu. Tất cả đều phù hợp với sự thay đổi
của hoàn cảnh một cách tự nhiên.
Bêlinxki nói: “Mọi hành động trong một kịch bản đều hướng về một mục
đích, một ý đồ”. Điều thứ hai có thể thấy ở các vở kịch khai thác truyện dân
gian đặc điểm chung là có kết cấu hành động kịch chặt chẽ, thống nhất trong
việc thể hiện chủ đề. Kịch của Lưu Quang Vũ không phải là một mớ hành động
vụn vặt, lẻ tẻ, không ăn nhập gì với nhau mà mọi hành động kịch đều xoay việc
phục vụ cho tư tưởng chủ đề. Bởi vì nếu tư tưởng cốt lõi của kịch bản chỉ được
phát biểu qua miệng một nhân vật thì người xem sẽ quên ngay tư tưởng đó.
Hành động kịch dù mang tính chất đúng hay sai, tốt hay xấu đều dẫn đến những
hành động phản xạ, phản ứng lại; quá trình đó diễn ra liên tiếp cho đến khi xung
đột chính được giải quyết. Phan Trọng Thưởng nhận xét rằng trong kịch của
71
Lưu Quang Vũ: “Mỗi người, mỗi hành vi đều được đặt vào hoàn cảnh thích
hợp để nhân vật tự bộc lộ” [14,tr.351]. Trong vở Lời nói dối cuối cùng, Cuội
cố gắng thực hiện một loạt mẹo lừa, mục đích là để giúp đỡ những con người
nhỏ bé bất hạnh. Nhưng vì Cuội hành động dối trá nên chẳng những không giúp
được người khác mà chính Cuội lại rơi vào bế tắc. Hành động của Cuội đã tạo
ra hành động phản ứng của Lụa - người con gái mà Cuội yêu thương nhất, cô
nghĩ nếu Cuội nói dối cả thế gian, ắt sẽ có một ngày nào đó, Cuội dối lừa cô.
Do đó, cô không thể chấp nhận những hành động dối trá triền miên của Cuội.
Lụa mong muốn một phương cách hành động trung thực hơn, để bản chất người
trung thực không bị tha hóa,để cuộc sống thực sự tốt đẹp và công bằng khi con
người không còn phải đối mặt với những điều dối trá. Khi biết Cuội muốn cứu
mình khỏi đám cưới với công tử Lãn –người mà cô khinh ghét thì cô đã đi theo
Cuội. Nhưng khi nhận ra những trò lừa bịp dối trá của Cuội, cô cũng cương
quyết ra đi từ bỏ Cuội và chốn phồn hoa kinh kì để trở về quê, chọn lối sống
giản dị nhưng chân thật, được là chính mình và sống bằng đôi bàn tay mình.
Thông qua các hành động của Lụa cho thấy cô là người cương quyết đấu tranh
cho sự thật và lòng trung thực. Cũng thông qua sự sắp xếp chuỗi hành động
xuyên suốt kịch bản, đặc biệt của cả nhân vật Cuội và Lụa, Lưu Quang Vũ
muốn khẳng định rằng mọi kiểu dối trá đều gây ra hậu quả khó lường; đồng
thời ông cũng chia sẻ với người xem một quan niệm về mục đích và phương
tiện hành động. Theo ông, con người không thể lấy mục đích để biện minh cho
phương tiện, mục đích càng cao quý thì phương tiện hành động càng phải
hướng tới tính chất chân, thiện, mỹ. Nêú không thì con người không bao giờ có
thể thực sự vươn tới điều cao cả, tốt đẹp. Lưu QuangVũ là vậy, đằng sau cái vẻ
giản dị của các lớp kịch, các hành động kịch thường gửi gắm một lớp ý nghĩa
sâu sắc.
72
Thứ ba, hành động kịch trong các vở kịch dân gian của Lưu Quang Vũ
không chỉ bộc lộ tính cách nhân vật mà còn cho thấy tác động của các sự kiện,
biến cố, của hoàn cảnh khách quan đến mỗi cá thể trong cuộc sống. Mỗi tính
cách đều là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử - xã hội cụ thể. Trong vở Ông
vua hóa hổ, khi Đạo Hạnh rơi vào tình cảnh đau đớn, hoảng hốt trong lốt hổ
mà trái tim vò xé nát tan, ân hận xót xa thì không ai còn nhận ra vị vua oai
phong lẫm liệt ngày nào. Mọi người run sợ và xa lánh, tuy nhiên Thảo vẫn kiên
nhẫn ở bên cạnh chồng động viên an ủi Đạo Hạnh. Tuy nhiên, không thể nhìn
chồng bị đoạ đày đau đớn trong lốt hổ dữ, Thảo đã lặn lội đường xa nguy khó
để tìm phương thuốc lành chữa bệnh chồng. Thảo không quản khó khăn tìm
đến người bạn năm xưa là Nguyễn Minh Không nơi núi thẳm, rừng sâu về cứu
người trên ngôi cao trong thân xác hùm beo đã không còn nói được tiếng người.
Thậm chí nàng nguyện sẵn sàng đánh đổi mạng sống của mình để cứu chồng.
Hoàn cảnh ngang trái éo le đã khiến Thảo trở thành người phụ nữ bản lĩnh,
hành động cương quyết, dũng cảm.
Như vậy có thể thấy rõ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của
Lưu Quang Vũ, tác giả đã xây dựng hành động kịch hiệu quả để thể hiện rõ nét
phẩm chất tính cách và số phận nhân vật, trong đó có nhân vật nữ. Từ đó, thể
hiện rõ tư tưởng chủ đề của vở kịch.
3.3. Khắc họa nhân vật thông qua ngôn ngữ
Văn học là tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, vì vậy ngôn ngữ đóng vai trò
quan trọng trong việc truyền tải nội dung cũng như cụ thể hóa hình thức một
tác phẩm văn chương. Đối với kịch thì ngôn ngữ lại càng quan trọng vì trong
tác phẩm kịch, ngôn ngữ người kể chuyện bị triệt tiêu chỉ còn lại ngôn ngữ
nhân vật, tất cả tính cách, nội tâm nhân vật được bộc lộ qua ngôn ngữ. “Văn
học kịch thể hiện hành động với một tính trực tiếp tối đa. Hành vi của các nhân
vật ở đây hiện ra không nhờ đến lời tác giả mà là được tái tạo bằng hình thức
73
phù hợp với nó: bằng độc thoại và đối thoại của bản thân các nhân vật
ấy”[34,tr.72].
Ngôn ngữ kịch có thể là lời đối thoại, độc thoại hoặc bàng thoại nhưng
đều là phương tiện để thể hiện hành động kịch, qua đó là sự phát triển của
xung đột và toàn bộ cấu trúc tác phẩm. Tuy nhiên, để khảo sát đầy đủ các khía
cạnh trong ngôn ngữ kịch của Lưu Quang Vũ trong việc xây dựng chân dung
nhân vật, người viết luận văn đã phân chia thành hai phần: ngôn ngữ đối thoại
và ngôn ngữ độc thoại, đây chỉ là sự phân chia có tính chất tương đối bởi mỗi
kịch bản dù ngắn hay dài vốn là một chỉnh thể nghệ thuật. Nhìn chung, kịch
Lưu Quang Vũ như một bản hoà tấu đa giọng, trong mảng kịch này có thể nhận
thấy một số đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ kịch Lưu Quang Vũ đó là:
- Ngôn ngữ giàu chất triết lí hàm súc
- Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày
- Ngôn ngữ mang tính hành động
3.3.1. Ngôn ngữ giàu chất triết lí, hàm súc
Lưu Quang Vũ là người nhập cuộc, ý thức công dân tích cực khiến ông
thường ưu tư về con người và thời cuộc. Cho nên ngôn ngữ trong kịch của ông
thường đậm chất triết luận - trữ tình. Đạo diễn, nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Đình
Nghi - người đã dựng tám kịch bản của anh, tâm sự rằng: “Cái hợp giữa tôi và
Vũ là khả năng tạo ra những tình huống đa nghiã cho tác phẩm khả năng gợi
mở, lay thức tâm hồn và trí tuệ khán giả.”[23,tr.247].
Chất triết lý toát lên từ lời thoại của một số nhân vật nhưng không phải bằng
giọng văn lên gân, thuyết giáo cao siêu mà ngược lại, rất tự nhiên, mộc mạc, dễ
hiểu. Thậm chí có lúc lời tâm sự bày tỏ quan niệm của tác giả về con người như
hoà nhuyễn vào trong lời thoại kịch.
74
Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt có thể thấy ngôn ngữ nhân
vật đậm chất triết lí. Các nhân vật dường như đều có thể trở thành người phát
ngôn rành rọt, thậm chí người đọc phải ngạc nhiên vì sao những người phụ nữ
lao động bình dân lại có thể nói có lí, có tình, sâu sắc và đầy triết lí như vậy:
- “Chị con dâu: Thày bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có
cái bên trong, nhưng thày ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn
thấy… Mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch
lạc, nhòa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy
nữa…Con càng thương thày, nhưng thày ơi, làm sao, làm sao giữ được
thày ở lại hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thày của chúng con xưa kia? Làm
thế nào thày ơi?” [21,tr.415]
Trong vở kịch có nhiều đoạn đối thoại giàu ý nghĩa hàm ẩn đằng sau lớp nghĩa
tưởng như đã quá rõ ràng. Chẳng hạn như đoạn đối thoại giữa vợ Trương Ba
với các quan trên thiên đình:
- “Bắc Đẩu: …Bây giờ, việc đã lỡ rồi. Ông nhà có mất sớm thật, nhưng
thiết nghĩ: đằng nào cũng thế thôi, người dưới trần ai cũng một lần chết.
- Vợ Trương Ba: Chết! Các ông có biết chết là thế nào không?Các ông
đã phải mất người thân bao giờ chưa ?
- Bắc Đẩu: Quả là…chúng tôi là người cõi giời…Người cõi giời không
ai phải chết…
- Vợ Trương Ba: Cho nên các ông làm sao hiểu được chết là như thế nào?
Một người đang sống, đang làm lụng, cười nói vui buồn, hít thở khí trời,
nhìn ngắm cây cối, đang ấm cúng giữa vợ con, nhà cửa, bạn bè thân thích
bỗng đùng một cái không còn biết gì nữa, không nghe được bất kì lời nói
của ai, không làm thêm được bất cứ việc gì, không còn gì hết, câm lặng,
trống không, thân thể tan rữa trong đất lạnh tối tăm… Chao ôi, chồng
75
tôi…Các ông bắt chồng tôi chết được, thì các ông cũng phải làm chồng
tôi sống lại được! Trả chồng tôi đây!” [21,tr.343]
Bắc Đẩu, Nam Tào đều là quan nhà trời, chưa từng trải nghiệm cảm giác
mất mát khi người thân yêu của mình bị cái chết cướp đi nên không hiểu chút
gì về nỗi đau sinh ly tử biệt. Phải chăng qua lời thoại nhân vật ở đây,Lưu Quang
Vũ ngụ ý nói rằng khi người ta không cùng cảnh ngộ, không cùng giai cấp thì
thật khó mà có được sự đồng cảm với nhau. Cũng trong vở kịch này, con người
được miêu tả như một sinh thể tồn tại tất yếu vừa có phần hồn vừa có phần xác
theo quy luật của tạo hóa. Những dục vọng ghê gớm sẽ xô đẩy người ta vào
vũng lầy thấp kém nếu linh hồn thanh tao không đủ lực mạnh để giữ lại các giá
trị cao quý.
Trong lời thoại của vợ người hàng thịt – người phụ nữ nông thôn quê mùa cũng
thể hiện tính triết lí sâu sắc, những điều ngộ ra từ những điều đơn giản nhất
trong cuộc sống mà không phải ai cũng biết:
- Vợ người hàng thịt: Đúng! Không phải em ghét bỏ gì con người cũ của
chồng em. Em đã chịu ơn ông ấy, thuộc về ông ấy, than khóc khổ sở khi
ông ấy mất, nhưng chỉ từ khi ông tới, hay nói đúng hơn là từ khi hồn ông
nhập vào xác chồng em, em mới biết trước kia em thiếu những gì, em
mới biết bao lâu nay em chưa hề được sống lại thời con gái, nỗi sướng
vui… Em cảm tạ trời phật đã cho hồn ông nhập vào hình vóc quen thuộc
này! (cầm hai bàn tay hồn Trương Ba) Em không ao ước gì hơn nữa!
Người chồng toàn vẹn của em đây ! [21,tr.394]
Như vậy, những lời thoại đậm chất triết lí sâu sắc không chỉ góp phần
thể hiện tính cách, hoàn cảnh hay số phận nhân vật, nó còn khiến người đọc
phải trăn trở suy nghĩ về những chân lí bình dị nhất của cuộc sống.
76
Cô Lụa trong vở kịch Lời nói dối cuối cùng là một cô gái thôn quê bình
dị, với phẩm chất trong sáng trung thực thẳng thắn, mặc dù dành tình cảm cho
Cuội nhưng cô đã kiên quyết đấu tranh với những trò giả dối lừa bịp của Cuội.
Cô quyết định từ bỏ chốn kinh kì để trở về quê sống cuộc đời bình dị, những
lời nói của Lụa với Cuội ở cuối tác phẩm chính là thông điệp đầy tính triết lí
sâu sắc mà tác giả Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc qua vở kịch:
- “Lụa: Không Cuội, tôi biết: anh vẫn không phải kẻ gian dối lừa lọc, xưa
anh cũng là người trung hậu chất phác như Bờm. Nhưng anh đã chọn cho
mình con đường gian dối mưu mẹo. Mới đầu chỉ dối ít thôi để sống, rồi
quen đi, cứ dấn mãi vào, không khác được. Cái mặt nạ gian dối anh mang
mãi, nó trở thành gương mặt thật của anh, xấu xa, đáng ghét.
- Cuội: Nhưng Lụa phải biết tôi làm những việc như vậy để làm gì? Tôi
muốn mang lại điều tốt, điều lành cho người khác, dù có phải mưu mẹo
lừa lọc.
- Lụa: Không thể có được điều tốt lành bằng những cách thức xấu xa.
Anh lừa bịp bọn ác bọn xấu, thật ra cũng là anh dựa vào chúng nó. Sẽ
không ai cần điều tốt lành có được bằng cách ấy… Đối với tôi, thế là đủ
rồi. Tôi đến đây lần Cuối, để chảo từ biệt anh… Cũng có lúc tôi thầm
quý mến anh đấy, nhưng bây giừ thì… Tiếp tục ở đây, rồi tôi cũng sẽ
không còn là tôi nữa mất thôi. Anh cứ việc ở lại với những điều gian dối
của anh, tôi đi…[48,tr.50-51]
Những lời thoại đầy tính triết lí không chỉ làm sáng đẹp phẩm chất nhân
vật Lụa, nó còn mang thông điệp đến với mọi người, cho mọi thời đại: mọi ý
định dù tốt đẹp nhưng được xây dựng trên sự giả dối cũng không đem lại hạnh
phúc mà phải xây dựng dựa trên lòng tin và sự chân thực. Đằng sau những hình
tượng, câu thoại là tâm sự của Lưu Quang Vũ về một xã hội đòi hỏi sự trung
thực, chống lại tất cả dối trá và những điều làm con người không còn tin vào
77
cuộc sống. Tác phẩm làm cho mọi người nhận thức và thấy được cả những dối
trá, ví như cái yếu như bệnh thành tích, dối trá bằng cấp, chạy chọt chức quyền
làm xói mòn lòng tin trong xã hội ngày nay và cần phải loại bỏ ngay.
Nhân vật Thảo trong Ông vua hóa hổ giành được sự yêu mến và đồng
cảm của người đọc người xem bởi tấm lòng lương thiện nhân ái. Ngay cả khi
trở thành hoàng hậu, Thảo vẫn giữ phẩm chất của người phụ nữ trong sáng
lương thiện, cô luôn đề cao lối sống nhân nghĩa. Lời khuyên của Thảo với vua
Đạo Hạnh thể hiện triết lí sống cao đẹp, nhân văn cần có của con người, đặc
biệt càng cần thiết hơn với người ngồi trên ngôi cao:
- “Thảo: Nhưng thưa đức vua, bây giờ người đâu còn ngồi trên mình
ngựa đánh dẹp. Để non sông muôn thủa thái bình, giờ là lúc không thể
chỉ dùng gươm mà phải bằng nhân nghĩa lớn. Càng lên ngôi cao lòng
nhân càng phải lớn… Bệ hạ là nhà vua áo vải mà lâu nay phải sống quá
xa những người áo vải… Hãy nghe thiếp, bệ hạ hãy rời đây ra xóm mạc
ít ngày, xem người đánh cá trên sông, hái dâu trên núi nghĩ gì… Họ là
gốc của mọi nghĩa lớn” [47,tr.21]
Ngay cả khi phải hi sinh cho Đạo Hạnh, trước khi nhắm mắt, Thảo vẫn
dặn dò Đạo Hạnh cùng các con hãy sống bằng lòng nhân ái yêu thương con
người:
- “Thảo: Con của mẹ, các con sẽ lớn lên trên đời, hãy nhớ: Không dung
tha kẻ ác, nhưng hãy lấy yêu thương làm gốc rễ cuộc đời. Càng có sức
mạnh, càng ở ngôi cao, lòng nhân ái càng phải lớn…”[47,tr.53]
Lời nói cuối cùng của Thảo trong tác phẩm “hãy lấy yêu thương làm gốc
rễ cuộc đời” cũng là thông điệp mà vở kịch muốn gửi đến người đọc – Đó là
giá trị của cuộc sống con người với con người ở mọi thời đại.
3.3.2. Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày
78
Có những tác giả thành công ở thể loại truyện ngắn nhưng khi chuyển
sang viết kịch bản thì chưa tạo được tiếng vang. Chẳng hạn như Nguyễn Huy
Thiệp – tác giả của vở kịch “Còn lại tình yêu”. Theo Phạm Vĩnh Cư, vở kịch
đó không mấy thành công vì “quá nhiều chất từ chương hùng biện, hơi nhiều
những khuyến cáo khoa trương và ít những tính cách thực sự sống động, ít
những lời thoại tự nhiên mà thấm thía. Cái anh hùng và bi hùng trong hiện thực
chưa được ngòi bút người viết kịch tái tạo một cách nhuần nhuyễn”[3,tr.38].
Hoặc như vở “Ngôi nhà quỷ ám” của Nguyễn Khắc Phục, xem xong kịch,
Nguyễn Thị Minh Thái cho rằng kịch bản này “không có chất lượng văn học
và giả tạo về sự sống”[20,tr.311]. Nhưng trường hợp Lưu Quang Vũ thì có
khác, anh thường chọn kiểu cấu trúc lời thoại sao cho gọn gàng, vừa đủ ý, không
hoa mỹ văn vẻ mà hướng về lớp từ khẩu ngữ bình dân dùng trong sinh hoạt đời
thường. Hầu hết các nhân vật nữ trong các vở kịch khai thác truyện dân gian
của Lưu Quang Vũ đều được xây dựng gần gũi, như bước ra từ đời thường, ta
có thể bắt gặp ở bất kì đâu trong cuộc sống. Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da
hàng thịt các nhân vật nữ thường có những câu thoại gần gũi như lời ăn tiếng
nói hàng ngày của người lao động. Đoạn kịch vợ Trương Ba ấm ức lên thiên
đình đòi Nam Tào, Bắc Đẩu để cho Trương Ba sống lại đã thấy rõ điều đó:
- “Vợ Trương Ba: Các người bắt chồng tôi chết oan, các người phải làm
chồng tôi sống lại, kẻo không xong với tôi! [21,tr.342]
....
- Vợ Trương Ba: (Quát to) – Tôi không biết! Các người phải làm cho
chồng tôi sống lại! Tôi không để các người yên đâu! Giời gì mà bạc ác
thế. Bà sẽ phá tan cái cõi giời của chúng mày, bà băm vằm mặt chúng
mày ra! [21,tr.344]
Còn đây là đoạn kịch vợ người hàng thịt sang nhà Trương Ba đòi chồng:
79
- “Vợ người hàng thịt: Ông! Ông ơi! (Vẫy tay gọi hồn Trương Ba)
….
- Vợ người hàng thịt: Ông ơi, con lợn nó to nó phá chuồng xổng ra ngoài,
chạy lồng khắp vườn, một mình tôi không sao bắt được, ông sang giúp
tôi một tay!
- Vợ Trương Ba: Sao việc gì bà cũng chạy sang đây? Kệ thây con lợn
nhà bà!
- Vợ Trương Ba: Chồng tôi có phải đứa ở nhà bà đâu mà bà sai?
- Vợ người hàng thịt: Bà nói năng cho biết điều một chút. Tôi đã nhường
nhịn bà nhiều rồi! Ừ thì hồn chồng bà, nhưng thân là chồng tôi. Không nhờ
cậy chồng tôi thì chồng bà lấy gì mà đi lại, cười nói, ăn uống?
- Vợ Trương Ba: Dào ôi, không có hồn chồng tôi thì xác chồng bà đã rữa
nát ra dưới mồ rồi!” [21,tr.375-376-377]
Trong hai đoạn đối thoại trên, câu nào cũng ngắn gọn, được viết theo
kiểu câu khẩu ngữ, người nói hướng về phía người đang đối thoại, sử dụng
những từ ngữ thông dụng hàng ngày của người lao động, ví dụ như: “kẻo không
xong với tôi, Giời gì mà bạc ác thế. Bà sẽ phá tan cái cõi giời của chúng mày,
bà băm vằm mặt chúng mày ra, Kệ thây con lợn nhà bà!, Dào ôi”…
Đó là những lời thoại sử dụng nhiều khẩu ngữ trong đời sống hàng ngày
giản dị,mộc mạc. Lời thoại gần với cuộc sống, thật dung dị, tạo cho diễn viên
phong thái nói năng tự nhiên, dường như không phải họ đang trình diễn mà
đang “sống” cuộc đời của nhân vật. Nhân vật như đang nói chuyện bình thường,
không khiên cưỡng, không giả tạo. Cách xưng hô “tôi” với “bà” , “tôi” với
“ông” vốn rất dân dã thường được các cặp vợ chồng đã có tuổi dùng hàng ngày.
Toàn văn kịch bản Hồn Trương Ba da hàng thịt gồm 1874 câu thoại. Trong đó,
tác giả vận dụng tổng cộng là 89 thành ngữ, tục ngữ, ca dao. Tỉ lệ vào khoảng
80
4,74%. Ngôn ngữ theo phong cách dân dã, sử dụng kiểu từ biến âm mang tính
địa phương như “trái nắng giở giời”,“đèn giời soi xét”,…Về ngữ pháp, rất nhiều
câu thoại là câu tỉnh lược dùng trong ngữ cảnh cho phép. Nhiều câu nói ngập
ngừng, ngắt quãng, hoặc kiểu câu nói bỏ lửng giữa chừng, trong tình huống
người nói muốn người nghe tích cực suy đoán để hiểu và tiếp tục cuộc đối thoại.
Tổng số những câu tỉnh lược và câu đơn đặc biệt trong Hồn Trương Ba da hàng
thịt là 521 câu, chiếm tỉ lệ 27,8 %. Những con số này chưa bao gồm các câu
đơn (chỉ gồm chủ ngữ và vị ngữ) hết sức ngắn gọn và cô đọng. Rất hiếm thấy
tác giả viết những câu văn dài hoặc lời thoại quá dài. Có thể nói, đến vở kịch
này, Lưu Quang Vũ đã rút ra được nhiều kinh nghiệm, ông biết để cho nhân vật
nói năng đúng lúc, đúng chỗ. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật đã được cá tính
hóa, giọng điệu tự nhiên, gọn gàng, trong sáng, dễ hiểu và giàu sức gợi khiến
cho người xem có cảm giác như họ đang được quan sát cuộc sống thực sinh
động ở ngay trước mắt.
Trong vở kịch Lời nói dối cuối cùng, những lời thoại của cô Lụa có những
lời thoại có tính chất triết lí, bên cạnh đó cũng có nhiều lời thoại sử dụng từ ngữ
thân quen, giản dị, là những lời ăn tiếng nói hằng ngày. Cảnh đối thoại công tử
Lãn tỏ tình với Lụa:
- “Lụa: Ông nói sao?
- Lãn: Vâng, tôi mê cô, tôi tỏ tình với cô, muốn lấy cô làm vợ. Lấy được
cô thì tôi thích lắm.
- Lụa: Ra là ông… Người ta không tỏ tình như thế ông công tử Lãn ạ.
- Lãn: Thế cô bảo phải tỏ tình thế nào?
- Lụa: Hay là ông định giễu cợt tôi? Tôi là kẻ nghèo khó, nhưng không
phải người ông giễu cợt được đâu. Tôi đang bận” [48,tr.4]
Trong hai đoạn đối thoại trên, từ ngữ sử dụng ở các lời thoại rất ngắn
gọn, bình dị phù hợp trong đối thoại trực tiếp. Hay ở cảnh bọn gia nhân nhà cụ
81
Chánh đến thu nhà đất, trong lời thoại của cô Lụa thể hiện thái độ cầu xin khẩn
thiết, nhưng cũng rất kiên quyết:
- “Lụa: Trời, xin hai cậu, tôi đưa thêm mấy cây lụa nữa, hai cậu nói cụ
Chánh thư cho ít hôm…
- Gã gia nhân: Úi dào! Mấy tấm lụa quê nhà cô, cụ Chánh lấy mà may
khố à? Biết điều mau lên, cuốn xéo đi, đừng để chúng tôi phải trói ném
ra đường…
- Luạ: Tôi lạy các cậu, mẹ tôi đang ốm…
- Gã gia nhân: Thôi đi! Biết điều thì xéo! Con mẹ mày đâu?
- Lụa: Không, các người không được…” [48,tr.12-13]
Có thể thấy nhiều nhân vật của Lưu Quang Vũ trong đó có nhân vật nữ
chỉ nói những điều họ cần thiết phải nói và chỉ nói lên ý nghĩ của chính họ.
Nhân vật hoàn toàn không phải là cái loa phát ngôn để những khi tác giả muốn
nói điều gì thì đặt lời nói đó vào miệng họ. Có lẽ vì thế mà người xem không
rơi vào cảm giác là mình đang bị nhân vật kịch giáo huấn, không cảm thấy nặng
nề, gượng ép. Điều đó làm cho các vở kịch khai thác từ tích truyện dân gian
của Lưu Quang Vũ không phải là bản sao chép y nguyên truyện xưa. Tác giả
mượn xưa nói nay, tổ chức những lớp thoại mang tính sáng tạo để thu hút công
chúng. Điều đó lí giải vì sao mảng kịch này lại thu hút sự chú ý của độc giả đến
vậy!
3.3.3. Ngôn ngữ mang tính hành động
“Ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ để diễn xướng trong không gian sân khấu,
là ngôn ngữ có trù tính đến hiệu quả đối với công chúng, tức là dạng ngôn ngữ
mang tính sân khấu” [37,tr.740]. Diễn viên dựa vào lời thoại để biểu diễn, để
sống với vai diễn một cách sinh động. Ngôn ngữ mang tính sân khấu là ngôn
ngữ đi kèm với động tác diễn xuất của diễn viên; kết hợp với các cử chỉ, điệu
82
bộ, nét mặt, lời thoại của các nhân vật giúp người xem hiểu nhân vật đã làm gì,
đang làm gì và dự định sẽ làm gì.
Ngôn ngữ kịch Lưu Quang Vũ mang tính hành động, thể hiện hành động
và có tác dụng như hành động. Mỗi lời thoại vừa được phát ra, lập tức có một
phản hành động đáp lại, tuỳ theo mục đích cụ thể của từng nhân vật lúc đó. Lời
thoại cho người xem thấy các nhân vật liên tục tác động lẫn nhau, chuyển hướng
hành động và mức độ nông hay sâu của mâu thuẫn giữa họ. Bên này tấn công
bằng lời nói, bên kia chống đỡ và tấn công lại một cách mạnh mẽ hơn. Tuyến
hành động cứ thế tiếp tục cho đến khi cái nút kịch được mở ra. Sự giằng co giữa
các nhân vật đối lập diễn ra căng thẳng, buộc đối phương phải tích cực hành
động, tấn công rồi phản công, thuyết phục hoặc phủ nhận sự thuyết phục… Có
thể thấy điều này rất rõ trong Linh hồn của đá:
- “Thanh: Mình, mình đi đâu?
- Vịnh (bối rối) Đi có việc. Đừng đợi cơm tôi.
- Thanh: Anh Vịnh! Em biết anh đi đâu rồi? Cha bảo mấy bữa nay chiều
nào anh cũng ngồi ngoài quán mụ Lã uống rượu. Anh uống rượu say,
thâu đêm suốt sáng với đám lái buôn… Sao anh lại thế, chưa bao giờ anh
rượu như thế cả, tại sao anh Vịnh?
- Vịnh: Thanh, chẳng có chuyện gì… Tự dưng thích vậy thôi… Mà có lẽ
tôi là thằng chồng hư đốn. Thanh không nên để ý đến tôi nữa, đừng ở với
tôi nữa.
- Thanh: Nhưng mà… tại sao lại thế? Anh không thích gần em hay em
có lỗi gì để anh bỗng hắt hủi em? Em có lỗi gì để anh phải khổ?
- Vịnh: Không, tôi không thể nói… Em chẳng có lỗi gì, chỉ tại tôi thôi.
- Thanh: Nhất định phải có chuyện gì anh giấu em. Anh Vịnh, đừng đi
đâu nữa, ở nhà với em với con. Sao em bỗng sợ hãi như sắp xảy ra chuyện
gì ghê gớm. Ở nhà với em, mình (Định đến gần Vịnh)
83
- Vịnh: Không, không! Mặc tôi, mặc tôi mà…(như sợ hãi) Tôi van.. (chạy
vụt đi)
- Thanh: Anh Vịnh! (khóc)” [46,tr.23]
Trước những câu hỏi dồn dập đầy đau khổ của Thanh, Vịnh không thể
nói rõ cũng không thể đối mặt để giấu diếm sự thật ngang trái. Anh tìm mọi
cách trốn tránh sự thật, tránh mặt Thanh và con, tìm đến men rượu để mong
quên đi bi kịch nghiệt ngã. Thanh càng cố gắng níu giữ, tìm hiểu nguyên nhân
thì Vịnh càng tìm mọi cách trốn chạy. Và cuối cùng đỉnh điểm của bi kịch là
quyết định ra đi mãi mãi của Vịnh. Có thể thấy trong đoạn hội thoại, qua ngôn
ngữ nhân vật thể hiện rõ những suy nghĩ, sự đau khổ và tuyệt vọng. Nó góp
phần bộc lộ tâm trạng bên trong và hành động bên ngoài mà nhân vật thể hiện
một cách nhất quán, logic.
Trong vở Ông vua hóa hổ, khi Đạo Hạnh lên ngôi vua cũng là lúc lời
nguyền hóa hổ thành hiện thực. Không cam chịu đau đớn nhìn chồng quằn quại
trong lốt hổ dữ, Thảo đã có quyết định đầy kiên quyết, sắt đá:
- “Thảo: Không, ta cần vào. Giờ là lúc ta bình tĩnh lại rồi…Ta hiểu ta
phải làm gì. Không thể cứ ngồi đây chịu nhìn cảnh nhà vua bị đày
đọa…Cứu người bằng cách nào ta chưa biết nhưng ta phải tìm. Thứ thuốc
ấy chắc không có ở đây, nhưng ở một nơi nào đó trên đời này phải có…
Lê Dũng, hãy cho ta vào… Ta cần gặp đức vua trước khi đi..
- Lê Dũng: Hoàng hậu đi đâu?
- Thảo: Đi tìm cách trị bệnh cho đức vua, đi ra ngoài thành, ngòa dân dã,
đi bất cứ nơi hang cùng núi sâu nào để hỏi cách giải thoát nhà vua khỏi
lốt hổ.. Mọi việc ở đây cậy nhờ tay chú. Ta sẽ đưa hai con nhỏ cùng đi.
Nào Lê Dũng, hãy để ta cùng hoàng tử, công chúa vào. Đây là lệnh của ta
…..
84
- Thảo: Lạy chàng, em và các con đi. Chàng ở lại, hãy giữ gìn cẩn trọng.
Trong thân hổ, càng phải cố giữ sự sáng suốt của con người. Em đi.
[47,tr.31-32]
Mỗi một câu nói của Thảo là một quyết định, một hành động dứt khoát
và mạnh mẽ. Từ hành động cho các con vào thăm cha, đến hành động dứt khoát
ra đi tìm phương thuốc trị bệnh cho Đạo Hạnh đều được thể hiện rõ nét thông
qua những lời nói của Thảo. Từ suy nghĩ, lời nói, đến hành động thể hiện tình
yêu thủy chung son sắt và sự hi sinh lớn lao của cô dành cho chồng.
Ngôn ngữ có tính hành động trong kịch Lưu Quang Vũ nói chung và
mảng kịch khai thác truyện dân gian nói riêng là sự kế thừa truyền thống của
thể loại kịch và được gia cố thêm chất văn học nên tạo được sự lôi cuốn, hấp
dẫn người xem.
Nếu như trước đây, các tác giả kịch thường chú trọng vào việc xây dựng
cốt truyện với những xung đột cơ bản, chú trọng tạo dựng nên hình tượng nhân
vật có sức chuyển tải những ý nghĩa lớn lao, thì đến Lưu Quang Vũ và các tác
giả kịch hiện đại, họ đã làm khác. Ngôn ngữ không chỉ được coi là một phương
tiện hữu hiệu để phản ánh cuộc sống và con người mà còn trở thành đối tượng
của sự miêu tả. Hơn thế nữa, ngôn ngữ nhân vật dường như đã thoát ra khỏi
"vùng kiểm soát" của ngôn ngữ tác giả, không trở thành "cái loa" phát ngôn cho
ý thức của người sáng tạo, đồng thời không bị ràng buộc bởi những chủ đề tác
giả đã tiên liệu từ trước. Khán giả nhận thấy mỗi nhân vật dường như đã có một
đời sống riêng, ý thức riêng, độc lập với ý thức của người sáng tạo. Sự gia công
ngôn ngữ theo hướng này đã dẫn đến một kết quả là đã tạo dựng được những
hình tượng nhân vật có chiều sâu tâm hồn, và hơn thế nữa là đã đem đến cho
ngôn ngữ kịch một nội dung biểu đạt mới.
Như vậy ngôn ngữ của nhân vật ở đây đã thể hiện rõ nhất cho nét độc
đáo trong bút pháp nghệ thuật của kịch Lưu Quang Vũ. Vốn là người am hiểu
tâm lý nhân vật, ông đã thăm dò cái tâm hồn sâu thẳm của nó bằng cách để cho
85
các nhân vật đối thoại với nhau. Ông đã nắm bắt và khám phá ra cái động cơ
tình cảm tiềm tàng trong lời thoại của các nhân vật. Vì thế mà chủ đề hội thoại
trong các vở kịch của ông bao giờ cũng có nội dung tâm lý, luôn luôn chuyển
đổi từ nội dung này sang nội dung khác và không bị câu thúc bởi một ý thức
nào cả. Do đó, cách ứng xử của các nhân vật trong giao tiếp cũng không cuốn
hút vào trong lời nói, mà thường chìm vào trong sự nhận thức tâm lý. Ở đây
Lưu Quang Vũ trở thành "nhà tâm lý học giấu mặt" (Tuốcghênhép).
86
Tiểu kết chương 3
Trong chương 3 chúng tôi tập trung làm rõ nghệ thuật xây dựng nhân vật
nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ với những
đặc điểm sau:
1. Mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ thường xảy ra ở hai
hình thức xung đột chính, đó là xung đột giữa cái tốt và cái xấu hay thiện và
ác; Xung đột giữa tính cách và hoàn cảnh. Thông qua việc tạo dựng xung đột
đầy kịch tính, nhà văn đã để nhân vật của mình, trong số đó các nhân vật nữ
được bộc lộ rõ nét tính cách và vẻ đẹp tâm hồn mình.
2. Để góp phần xây dựng nhân vật nữ, Lưu Quang Vũ luôn triển khai tổ chức
hành động kịch dựa trên chất liệu hiện thực, lấy sự đa dạng của cuộc sống đời
thường làm nền. Có thể thấy trước tiên ở nghệ thuật xây dựng kịch Lưu Quang
Vũ đó là việc xây dựng hành động kịch hợp logic. Điều thứ hai có thể thấy là
kết cấu hành động kịch chặt chẽ, thống nhất trong việc thể hiện chủ đề. Thứ ba,
hành động kịch không chỉ bộc lộ tính cách nhân vật mà còn cho thấy tác động
của các sự kiện, biến cố, của hoàn cảnh khách quan đến mỗi cá thể trong cuộc
sống.
3. Về ngôn ngữ kịch, nhìn chung kịch Lưu Quang Vũ như một bản hoà tấu đa
giọng, trong mảng kịch này có thể nhận thấy ba đặc điểm nổi bật đó là: Ngôn
ngữ giàu chất triết lí hàm súc, ngôn ngữ giản dị tự nhiên gần gũi với lời ăn
tiếng nói hàng ngày, ngôn ngữ mang tính hành động.
87
KẾT LUẬN
1. Trong những năm 80 (thế kỷ XX) bên cạnh các nhà viết kịch có tên tuổi và
dày dặn kinh nghiệm, Lưu Quang Vũ “trình làng muộn hơn nhưng lại nhanh
chóng chiếm được vị trí hàng đầu trên sân khấu”[28,tr.685]. Cùng với những
tác giả khác, Lưu Quang Vũ đã góp phần vực dậy thể loại văn học kịch. Dưới
ngòi bút của ông, kịch trở thành một phương tiện giao lưu tình cảm, tư tưởng,
thể hiện lý tưởng thẩm mỹ của cả thời đại.Tác phẩm của ông giống như một
công trình xây dựng mà người thiết kế không chỉ có lòng ưu thời mẫn thế, ý
thức trách nhiệm mà còn có niềm say mê và công phu lớn.Tấm lòng chân thành
của Lưu Quang Vũ đối với con người đã kết tinh nên giá trị nhân văn bền vững
trong tác phẩm của ông. Ăn sâu trong các lớp kịch là cái nhìn đôn hậu, đầy cảm
thông, thái độ bênh vực cho người lao động và niềm tin bất diệt vào bản chất
cao khiết của họ. Những sáng tạo nghệ thuật của Lưu Quang Vũ là sự đóng góp
lớn lao cho nghệ thuật sáng tác kịch bản sân khấu nói riêng và nền sân khấu
Việt Nam nói chung.
2. Lưu Quang Vũ là một tài năng nhiều mặt, ngay trong sân khấu kịch người
đọc người xem cũng sẽ thấy sự thành công đa dạng ở nhiều thể loại, đề tài.
Trong số đó, khối lượng những vở kịch khai thác từ cốt truyện dân gian không
nhiều lắm, chiếm một phần nhỏ trong những sáng tác của ông nhưng có thể
khẳng định hầu hết những vở kịch này đều đạt tới hiệu quả tương đối cao, nhiều
tác phẩm xuất sắc, cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị và được công diễn
nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Qua những vở kịch này Lưu Quang
Vũ đã đem đến cho người đọc, người xem những vấn đề có nghĩa sâu sắc mới
mẻ, giúp mỗi người chúng ta có cái nhìn cuộc sống, nhìn lại bản thân một cách
đầy đủ sâu sắc hơn. “Tài năng của nhà viết kịch một lần nữa được khẳng định
trong việc biến cổ tích, huyền thoại thành chuyện của thời hiện đại, nêu lên cái
muôn đời trong những cái bình thường” [8,tr.169].
88
3. Thế giới nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu
Quang Vũ hiện lên đa dạng và phong phú. Tính cách số phận của họ được hiện
lên rõ nét thông qua các hành động để giải quyết mâu thuẫn xung đột kịch. Họ
được đặt vào trong những tình huống đầy mâu thuẫn, thậm chí đầy biến cố và
bắt buộc phải có sự lựa chọn và thể hiện đậm nét tính cách của mình. Mỗi người
có những nét tính cách riêng khác biệt nhưng nhìn chung họ đều là những nhân
vật nữ có nhiều phẩm chất tâm hồn cao đẹp, trong sáng, lương thiện trung thực,
có sự hi sinh cao cả trong tình yêu, cuộc sống. Ở họ có vẻ đẹp phẩm chất tâm
hồn cao quý của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.
4. Điều góp phần không nhỏ làm nên thành công của các vở kịch Lưu Quang
Vũ nói chung và mảng kịch khai thác truyện dân gian nói riêng, đó là nghệ thuật
xây dựng nhân vật kịch. Thế giới nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện
dân gian của ông hiện lên vừa thật chân thực vừa sinh động, phong phú. Có thể
nhận thấy những đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở mảng kịch này
đó là: nghệ thuật khắc họa nhân vật thông qua xung đột kịch, qua hành động kịch
và qua ngôn ngữ. Thông qua việc tạo dựng xung đột đầy kịch tính, nhà văn đã
để nhân vật của mình, trong số đó các nhân vật nữ được bộc lộ rõ nét tính cách
và vẻ đẹp tâm hồn mình. Thông qua hành động kịch, người xem hiểu được nhân
vật, từ đó hiểu được quan niệm của nhà viết kịch về con người, về tình yêu, về
hạnh phúc, về lẽ sống làm người. Có thể thấy trước tiên ở nghệ thuật xây dựng
kịch Lưu Quang Vũ việc xây dựng hành động kịch hợp logic. Thứ hai, kết cấu
hành động kịch chặt chẽ, thống nhất trong việc thể hiện chủ đề. Thứ ba, hành
động kịch trong các vở kịch dân gian của Lưu Quang Vũ không chỉ bộc lộ tính
cách nhân vật mà còn cho thấy tác động của các sự kiện, biến cố, của hoàn cảnh
khách quan đến mỗi cá thể trong cuộc sống. Nhìn chung, kịch Lưu Quang Vũ
như một bản hoà tấu đa giọng, trong mảng kịch này có thể nhận thấy một số đặc
điểm nổi bật của ngôn ngữ kịch Lưu Quang Vũ đó là ngôn ngữ giàu chất triết lí
89
hàm súc, lại có ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày
và đạt được tiêu chuẩn chung của kịch là ngôn ngữ mang tính hành động. Ba nét
đặc sắc nghệ thuật này giúp cho nhân vật nữ trong kịch của ông hiện lên sống
động, như bước ra từ cuộc đời, vừa truyền tải được những ý nghĩa, thông điệp
nhà văn muốn gửi gắm. Đặc sắc ở cả phương diện nội dung và nghệ thuật, điều
đó đã làm cho những vở kịch của Lưu Quang Vũ vẹn nguyên giá trị cho đến
ngày hôm nay.
90
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1991), 150 thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội
2. Hoàng Chương (Chủ biên) (1996), Vấn đề văn học kịch, NXB Giáo dục,
Hà Nội
3. Phạm Vĩnh Cư (2001),Thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam thế kỷ XX,
Tạp chí văn học, Hà Nội.
4. Hồ Hà Diệp (1989),Về một mảng kịch của Lưu Quang Vũ”, Tạp chí Nghiên
cứu văn hoá nghệ thuật, Hà Nội
5. Hà Minh Đức (chủ biên)(1996), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội
6. Lê Thị Đức Hạnh (1999), Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam,
Nxb KHXH, Hà Nội
7. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Như Phương (1999),Lý luận văn học- Vấn đề
và suy nghĩ, Nxb Gíáo Dục,Hà Nội.
8. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1991), Từ điển
thuật ngữ văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội
9. Vũ Hải (1986), Những tác giả đạt huy chương vàng hội diễn sân khấu toàn
quốc,Tạp chí Sân khấu, Hà Nội.
10. Khraptrenko. M. B: Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học.
NXB Tác phẩm mới – 1978.
11. Phong Lê (2001), Một số gương mặt văn chương-học thuật Việt Nam hiện
đại, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
12. Nguyễn Văn Linh (1987), Những việc cần làm ngay, Báo Nhân dân (ngày
11- 6-1987), Hà Nội.
13. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
14. Nguyễn Đăng Mạnh(2005), Nhà văn Việt Nam hiện đại, chân dung và
phong cách, NXB Trẻ, Hồ Chí Minh
91
15. Nguyễn Nam (1969), Tìm hiểu nghệ thuật viết kịch, Vụ văn hóa quần
chúng xuất bản, Hà Nội.
16. V.I.Nhiephed (1972), Về xung đột kịch (Đặng Trần Cần và Đặng Ngọc
Long dịch), Hội nghệ sỹ sân khấu Việt Nam, Hà Nội
17. Pospelov. G. N: Dẫn luận nghiên cứu văn học- 2 tập, 1985, NXB Giáo
dục, Hà Nội
18. Đình Quang (2001), Kịch nói giai đoạn từ sau cách mạng tháng tám đến
nay, Tạp chí Văn học, (7)
19. Trần Quế (1988), Anh Lưu Quang Vũ, Tạp chí Sân khấu, Hà Nội
20. Nguyễn Thị Minh Thái (1999), Sân khấu và tôi, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
21. Ngô Thảo,Tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh (2003),NXB Sân
khấu, Hà Nội.
22. Tất Thắng (1996), Diện mạo sân khấu, nghệ sĩ và tác phẩm, Nxb Sân
khấu, Hà Nội.
23. Lưu Khánh Thơ (2001), Lưu Quang Vũ tài năng và lao động nghệ thuật,
NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội
24. Lưu Khánh Thơ (2003- giới thiệu, tuyển chọn), Tác phẩm đạt giải thưởng
Hồ Chí Minh, (In lại 3 kịch bản của Lưu Quang Vũ), Nxb Sân khấu, Hà
Nội.
25. Nguyễn Phan Thọ (1985), Hội diễn sân khấu chuyên nghiệp đợt II tại
thành phố Hồ Chí Minh, Tạp chí nghiên cứu nghệ thuật, Hà Nội
26. Lý Hoài Thu - Lưu Khánh Thơ (tuyển chọn) (2007),Lưu Quang Vũ về tác
giả và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội
27. Phan Trọng Thưởng (2001),Văn chương – Tiến trình , tác giả,tác phẩm,
Nxb KHXH, Hà Nội.
28. Phan Trọng Thưởng: Lưu Quang Vũ- những băn khoăn về lẽ sống, lẽ làm
người, Tạp chí Văn học tháng 5- 1989.
92
29. Lê Minh Thuý,Những đặc điểm trong kịch Lưu Quang Vũ,Tạp chí Những
vấn đề sân khấu (do Viện nghiên cứu sân khấu xuất bản 6/1991), Hà Nội.
30. Lưu Quang Vũ (1994), Tuyển tập kịch, Nxb Sân khấu, Hà Nội.
31. Lưu Quang Vũ (1984 ),Đường bay, Trường cao đẳng sân khấu điện ảnh
TPHCM, TPHCM.
32. Phong Vũ , Ngô Văn Phú, Nguyễn Phan Hách…( 1999 ), Nhà văn Việt
Nam thế kỷ XX, tập 3, Nxb Hội Nhà văn,Hà Nội.
33. Viện văn học (2001),Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Nxb
KHXH, Hà Nội.
34. Nhiều tác giả (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học,tập 2, (Trần Đình Sử,
Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch), Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
35. Nhiều tác giả (2002), Kịch Việt Nam chọn lọc (tập 5), NXB Sân khấu, Hà
Nội.
36. Nhiều tác giả (1989), Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh gửi lại, Nxb Hội văn
học nghệ thuật Đà Nẵng.
37. Nhiều tác giả (2004),Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế Giới,TPHCM.
38. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế Giới,TPHCM.
39. Hội nghệ sĩ sân khấu Việt Nam (1984), Kỷ yếu đại hội sân khấu toàn
quốc lần II, Hà Nội.
40. Báo tin tức, 18/9/2016 , Lời nói dối cuối cùng: Điều tốt không thể đến từ
những lời nói dối.
41. Báo Sân khấu. com, 18/4/2018, Vở chèo Ông vua hóa hổ - Thông điệp của
sức mạnh và tình yêu thương.
42. Báo An ninh Hải Phòng, 13/11/1017 ,Rơi lệ với "Linh hồn của đá.
43. Phan Trọng Thành (2008), Những giá trị nội dung xã hội và nghệ thuật
trong kịch Lưu Quang Vũ, Luận án tiến sỹ, Viện Văn hóa nghệ thuật Việt
Nam, Hà Nội.
44. Tô Thị Kim Thoa (2011), Mảng kịch dựa trên tích truyện dân gian của
93
Lưu Quang Vũ, Luận văn Thạc sĩ văn học, Đại học Khoa học Xã Hội và
Nhân văn, Hà Nội
45. Đàm Thu Trang (2009), Nhân vật nữ trong tác phẩm của Y Ban, Khóa
luận tốt nghiệp ĐH, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
46. Tài liệu do gia đình tác giả cung cấp, kịch bản Linh hồn của đá
47. Tài liệu do gia đình tác giả cung cấp, kịch bản Ông vua hóa hổ
48. Tài liệu do gia đình tác giả cung cấp, kịch bản Lời nói dối cuối cùng